Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tướng môi như thế nào là đẹp xấu?

Bạn thường nghe nói tới môi chúm chím hình trái tim hay môi phú quý,... Vậy tướng môi như thế nào là đẹp. Môi chẻ là đẹp hay xấu? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những đặc trưng của môi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn thường nghe nói tới môi chúm chím hình trái tim hay môi phú quý,... Vậy tướng môi như thế nào là đẹp. Môi chẻ là đẹp hay xấu? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những đặc trưng của môi.

Tướng môi như thế nào là đẹp xấu?

Môi như thế nào là đẹp:

Miệng phú quý là những người có các đặc điểm như sau:

Miệng ngay ngắn môi không quá dầy cũng không quá mỏng, đầu lưỡi có vạch dọc hoặc đầu lưỡi vuông, khỏe miệng ngang hoặc hướng lên trên là tướng giàu.

Miêng lúc ngậm thì nhỏ nhắn nhưng lăng, giác phân minh. Lúc há ra thì lớn, hình thể cân đối, dầy mỏng  thích nghi là tướng miệng của người đại quý hiển trong xã hội.

Miệng rộng, không thiên lệch, lưỡi mỏng có thể uống cong là tướng của người thích sống được phóng túng, tuy không giàu có nhưng cũng đủ ăn mặc.

Miệng ngay ngắn, không túm lại, có màu hồng tươi như hoa sen hoặc đỏ sẫm như son, hình miệng chữ tứ, hay còn gọi là miệng trâu là người phú quý, không sợ đói nghèo.

Môi dày: Độ dày của môi được đo bằng với ngón tay trỏ. Nếu như người môi dày tức là từ vạch ngang của miệng tới phần môi dưới lớn hơn ngón trỏ thì được gọi là môi dưới dày.

Môi trên biểu thị cho tiềm thức liên quan đến việc ái tình và hữu nghị. Còn môi dưới biểu thị cho việc thực hiện các tiềm năng trên.

Môi dưới dày hơn môi trên

Những người có môi dưới dày hơn môi trên thường là người có tính nết giảo hoạt, cố chấp và khó để người khác tin tưởng. Không những thế, với người có môi dưới dày, khi yêu thường mù quáng, tin vào đối phương mãnh liệt, nên dễ bị tổn thương.

Môi trên dày hơn môi dưới

Người này thường khá tinh tế, biết quan tâm người khác, luôn nghĩ đến cảm nhận riêng của mỗi người. Ngoài ra, nếu môi trên dày hơn môi dưới còn thể hiện rằng người có tài sản khó vững bền.

Người có môi mỏng thường là người điểm tĩnh, luôn hành động theo lí trí trong chuyện tình cảm cũng như công việc.

Những người môi dày lại là người dễ rung động. Họ thường sống thiên về tình cảm, trong tình yêu khá quyết đoán và can đảm.

Ngoài ra, với nhiều người còn thắc mắc môi chẻ là đẹp hay xấu. Môi chẻ là ở giữa môi có rãnh sâu, thẳng theo chiều từ nhân trung xuống. Với nhiều người, đó là hình dạng đôi môi đẹp, gợi cảm. Nhất là phụ nữ có môi chẻ thì lại càng quyến rũ.

Tướng môi như thế nào là đẹp xấu?

Mắt trắng môi thâm là người như thế nào

Trong ca dao Việt Nam có câu: Những người mắt trắng, môi thâm, trai thì xảo quyệt cáo thì điêu ngoa.

Từ câu ca dao đó chúng ta cũng đoán được tướng số của những người có đặc điểm mắt trắng, môi thâm.

Mắt trắng là như thế nào?

Những người mắt trắng là một phép ẩn dụ chỉ những người có phần tròng trắng nhiền hơn tròng đen, hoặc tròng đen rất nhỏ nên khi nhìn đối diện chủ yếu chỉ thấy phần tròng trắng nổi bật. Những người có cặp mắt như thế thường là dạng người tiểu nhân, tốt nhất là tránh xa họ để tránh những phiến phức, tai vạ đến với mình.

Môi thâm thường là ý chỉ những người có màu môi thâm, màu chì. Về sức khỏe, đây là dấu hiệu của những người bị bệnh tim, do máu không được tuần hoàn đưa tới các mô. Cũng có thể do chế độ sinh hoạt của người đó, thường hay hút thuộc lá,...

Những với những người môi thâm tự nhiên có thể là do di truyền thì thường là những người tiêu nhân, có vận khí không tốt, phúc khí cho chồng con kém.

Với những quan niệm như vậy thì người người phụ nữ môi thâm, hay đàn ông môi thâm chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những quan niệm đó.

Bài viết liên quan:

Tổng quan về tướng mũi của mỗi người

Cẳm chẻ đẹp hay xấu, cằm chẻ có ý nghĩa gì?

+ Hình dáng đôi mắt nói gì về con người bạn. Xem bói nốt ruồi ảnh hưởng đến tướng mệnh của bạn

+ Xem bói chỉ tay đoán vận mện

Tìm kiếm liên quan: môi như thế nào là đẹp, môi dưới dày, môi chẻ đẹp hay xấu, môi thâm là người như thế nào, đàn ông môi thâm, mắt trắng môi thâm là người như thế nào


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng môi như thế nào là đẹp xấu?

Chùa Cổ Loa - Hà Nội

Chùa Cổ Loa có tên thường gọi là Chùa Bảo Sơn hay Bảo Sơn Tự. Chùa nằm trong khu di tích Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội, một dấu tích vật chất về kiến trúc
Chùa Cổ Loa - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Cổ Loa có tên thường gọi là Chùa Bảo Sơn hay Bảo Sơn Tự. Chùa nằm trong khu di tích Cổ Loa – Đông Anh – Hà Nội, một dấu tích vật chất về kiến trúc quân sự và đô thị cổ cách nay khoảng hai thiên niên kỷ. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, Nơi đây gắn liền với nhiều di tích lịch sử của dân tộc.

Kiến trúc chùa theo kiểu nội Công ngoại Quốc. Chùa còn giữ được những bức cốn tứ linh thế kỷ XIX, 134 pho tượng có giá trị nghệ thuật bài trí ở chánh điện, hậu cung, hành lang và nhà Mẫu. Đó là các pho tượng Tam Thế Phật, tượng Phật A Di Đà, tượng Bồ tát Quan Âm, bộ tượng Hộ Pháp, bộ tượng Kim Cương, bộ tượng La Hán, bộ tượng Ngọc Hoàng, tượng Thái Thượng lão quân, tượng Trần Hưng Đạo… Chùa còn có 5 tấm bia đá từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, hai đại hồng chung đúc vào năm Gia Long thứ 2 (1803), một khánh đồng và nhiều pháp khí có giá trị khác.

Chùa nằm ngay sau Khu di tích Cổ Loa nên thuận tiện cho việc chiêm bái của du khách đến tham quan Cổ Loa, một trung tâm chính trị – quân sự, một trung tâm nông nghiệp lúa nước, một trung tâm luyện kim lớn thời cổ đại ở nước ta. Cổ Loa còn là quê hương của truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy.

Chùa Cổ Loa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1993.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Cổ Loa - Hà Nội

Phòng khách hiện đại với những bộ sofa sang trọng

Thoạt đầu khó có thể nhận ra đây là phòng khách, có thể bạn cho rằng đấy là góc riêng của gia chủ trong một gian phòng nào đó, ví dụ như phòng ngủ, phòng làm việc …

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhưng khi nhìn lại một cách tỉ mỉ hơn bạn mới phát hiện rằng nơi đây là không gian để cho sự sáng tạo được thăng hoa, nâng niu từng cảm xúc với sáng tạo cuộc sống được tốt đẹp hơn.

Nếu như thế thì quả thật là không đúng, đây là thành quả của sự kết hợp giữa tính sáng tạo và nét hiện đại, phòng khách trở nên thật duyên dáng với không gian thật rộng lớn, đây là phong cách cho những ai có niềm đam mê sáng tạo và không thích sự cầu kỳ, phô trương.

bo-sofa-voi-hien-dai-voi-mau-cam-lam-noi-bat-can-phong

Khoác chiếc áo mới cho không gian thêm ấn tượng

bo-sofa-thiet-ke-ky-la-doc-dao

Hài hòa cùng vẻ đẹp duyên dáng của bộ sofa

Không gian căn phòng trở nên “vô tận” bởi vẻ đẹp đơn giản, hài hòa màu sắc của vách tường được phối hợp với bộ ghế sofa không quá cồng kềnh, bàn uống được lượt bỏ đi thay thế cho tấm thảm dệt bằng những chất liệu thiên nhiên.Trong khi đó, màu sắc của bộ ghế khó có thể lột tả hết được vẻ đẹp hiện đại và trẻ trung, kết hợp thật tao nhã với kiểu ghế duyên dáng và thanh lịch … tất cả đã tạo nên một giá trị hiện đại đầy sự sáng tạo của căn phòng.

bo-sofa-mau-xanh-trong-can-phong-phong-cach-zen
Thanh lịch hiện đại

bo-sofa-don-gian-nhung-an-tuong
Đơn giản nhưng ấn tượng

Cuộc sống luôn vận động và thay đổi, hãy biến tấu và sáng tạo cho từng khoảnh khắc cho không gian sống của mình càng ấn tượng hơn. Nhất là đối với phòng khách – vốn là căn phòng “trung tâm” của cả gia đình, để mọi thành viên sum họp vui vẻ; đây cũng là nơi để tiếp đón những vị khách quí. Hy vọng rằng với sự sáng tạo như thế sẽ mang lại cho bạn một sự hãnh diện đầy chất sống cho bạn.

bo-sofa-xanh-com

Phòng khách đơn giản với bộ sofa không có bàn mầu xanh cốm độc đáo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng khách hiện đại với những bộ sofa sang trọng

Những Tật

Tật là những bất thường trong sự cấu tạo cơ thể hay những mất mát trong bộ phận cơ thể, có ảnh hưởng đến hình dáng của bộ phận, những cử động của bộ phận, những năng khiếu của bộ phận.
Những Tật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ví dụ như người gù, bướu (hình dáng cơ thể), người què, người nói lắp (cà lăm), người cận thị, viễn thị là có tật.
Những bộ sao tật ghi nhận được tương đối ít, không liệt kê được hết các tật.
- Vượng, Kình, Đà hay Hình: lưng có tật, có thể là lưng gù, nghiêng về phía phải hay trái.
- Mã, Đà hay Tuần, Triệt: có tật ở chân tay có thể là què chân dài chân ngắn, tay cán xẻng, tay lọi. chân hay to nhỏ không đều, có thể cụt một chân một tay, hoặc mất bàn chân, bàn tay.
- Việt Đại Tiểu hao: So vai, vai cao, vai thấp. Khôi. Việt gặp Hình cũng có nghĩa này.
- Tướng, Hình: có tật ở trên đầu, có thể là đầu méo, đầu to hay thật nhỏ, đầu hói hết tóc. . .
- Phục, Hình: nói ngọng.
- Tuế, Đà, Riêu, Cái: nói lắp (cà lăm).
- Vũ Riêu, Việt, Toái: câm.
- Sát Kình, Đà, Linh, Hỏa: tật gù lưng.
- Cự Hỏa hay Linh: miệng méo.
- Ky, Riêu: sứt môi.
- Phượng, Kiếp, Kình: điếc.
- Trì, Kình: mũi sống trâu, mũi lệch.
- Nhật, Nguyệt gặp Riêu, Đà hay Ky: mắt có tật, có thể là cận thị, viễn thị. loạn thị. Nếu gặp cả ba thì tật nặng có thể lòa, quáng gà.
- Vũ, Tướng: có ám tật, tật kín.
- Cự, Nhật: hình dáng dị kỳ.
- Tồn, Không, Kiếp: Có ám tật mới sống lâu.
Thông thường các sao Thiên Hình, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ, Thiên Riêu là những sao thường gây tật khi đi cùng với những bộ sao chỉ bộ phận cơ thể.



Chư tinh diệu và tổ hợp tinh diệu thể hiện diện mạo, thân hình, tính cách đặc trưng


  Trung châu phái có một phương pháp riêng biệt có thể từ tinh diệu cùng tinh hệ tại mệnh cung mà giám định về diện mạo,thân hình,cũng như tính cách đặc trưng.Chúng ta (tôi?) không có khả năng gặp mặt một người,rồi lập tức nói ra toàn bộ tổ hợp tinh hệ tại mệnh cung nhưng ngược lại sau khi an xong lá số,có thể căn cứ tinh hệ mệnh cung mà giám định diện mạo ,thân hình tính cách đặc trưng,mục đích là để kiểm tra lá số có chính xác không.
Bình thường ,người xem số tử vi chỉ bằng dữ liệu năm ,tháng,ngày ,giờ sinh do người hỏi cung cấp mà lập lá số,sau đó lập tức tiến hành giải đoán đến lỗi đoán sai vận hạn,thậm chí có trường hợp còn tạo thành bi kịch.Cho nên dựa vào diện mạo ,thân hình,sinh lí đặc trưng mà kiểm định sự chính xác của lá số là việc không được xem nhẹ.Lá số không đúng,nguyên nhân có thể chia làm hai trường hợp:


  Trường hợp một,đương sô cung cấp sai giờ sinh,thậm chí ngày,tháng sinh.
Trường hợp hai:hic,khó hiểu quá nên chưa dịch được,bác nào thấy đoạn này thì giúp em với,trong đó nói cái gì mà mỗi cá nhân hay mỗi giờ sinh có phân biệt ra thiên bàn, địa bàn, nhân bàn..vv,em nghĩ là nói về trường hợp giờ khe !  Cung để kiểm tra diện mạo,thân hình, tính cách thường là cung mệnh,nhưng tinh diệu tại mệnh cung chủ về hình thái tiên thiên (bẩm sinh) là chính.Nếu hình thái sau này (hậu thiên hình thái) có thay đổi đáng chú ý nào thì hẳn là phải xem tại cung an Thân.Gọi là tiên thiên hình thái,ví dụ như hình dạng khuôn mặt, con số chiều cao,độ cao thấp của cái mũi, của gò má,dị biệt của bộ lông,tóc,một số chàm bớt … bẩm sinh,nhãn thần,nhãn hình….Những đặc điểm này không thay đổi theo tuổi tác.Về phần hậu thiên hình thái,cùng với tuổi tác ,thay đổi dễ nhận thấy do sinh hoạt là béo gầy,màu da, sắc mặt,cùng với sự thay đổi do bản chất sinh lí như tước ban (tàn nhan,tàn hương),hắc chí (nốt ruồi),ám sang,thậm chí là cận thị,quáng gà(tán quang).Những đặc điểm trên có thể xem xét tại cung an Thân.Ngoài ra có một số đặc điểm thuộc về di truyền,tất phải xem xét cung phụ mẫu,cổ nhân từng gọi phụ mẫu cung là tướng mạo cung,do đó ta có thể xem xét cung phụ mẫu để tìm những đặc điểm cơ bản được di truyền từ cha mẹ (thậm chí bao gồm những bệnh tật di truyền).Do đó khi kiểm định lá số,cũng cần tham khảo phụ mẫu cung.
Tiền nhân để lại một thiên “hình tính phú” để đề cập đến hình dáng,tính cách thể hiện qua các tinh diệu,tác giả nhất nhất tiến hành chú thích cặn kẽ,có điều đáng tiếc là thiên “hình tính phú” chỉ chú trọng tinh diệu mà không đề cập đến tinh hệ ,cho nên ứng dụng vào thực tế bị hạn chế.Nói thực,ngay cả sở truyền của Trung châu Phái cũng chỉ chú trọng đến tinh diệu.Mặc dù tác giả cũng đã ghi chép lại một ít kinh nghiệm từ bản thân về phương diện kiểm định hình tính qua tinh hệ ,nhưng vẫn không được đầy đủ,hy vọng tương lai có thể bổ sung.



Chư tinh diệu cập tinh hệ hiển kì đích diện mạo thân hình tính cách đặc chinh
Để tiện lợi cho độc giả lí giải hình dáng khuôn mặt,sắc diện trước tiên tác giả xin phân ra tám loại khuôn mặt :
Viên kiểm:Mặt ngắn,trán và cằm tròn
Phương kiểm:trán và cằm vuông
Trường viên kiểm:trán và cằm tuy tròn nhưng khuôn mặt dài.
Trường phương kiểm:trán và cằm tuy vuông,nhưng khuôn mặt dài
Viên phương kiểm:trán và cằm tròn nhưng lưỡng quyền cao,mặt góc cạnh
Phương viên kiểm:trán và địa các tuy vuông ,những lưỡng quyền tròn,đầy đặn.
Thượng viên hạ phương:trán tròn,cằm vuông
Hạ viên thượng phương:trán vuông,cằm tròn.
Sắc diện phân ra sáu loại:
Tử thang sắc : đen không phải đen,trắng không phải trắng,đỏ suốt.
Hồng hoàng sắc: vàng,nhưng hơi hồng.
Hoàng bạch sắc: trắng nhưng hơi vàng.
Thanh bạch sắc: trắng xanh.
Thanh hoàng sắc: vàng nhưng hơi xanh
Tử hắc sắc: đen nhưng hơi xanh
Hoàng hắc sắc: đen nhưng hơi vàng.
Hồng bạch sắc:trắng nhưng hơi hồng.

Nguyên phu tử vi đế tọa, sanh vi hậu trọng chi dung.
Tử vi chủ nhân dáng vẻ đầy đặn,khuôn mặt bầu dục ,dù mập mà không phệ, dù gầy mà không lộ xương,đó gọi là hậu trọng chi dung.
Thiên phủ tôn tinh dã, tác thuần hòa chi thể.
Thiên phủ chủ nhân khuôn mặt vuông hoặc chữ nhật,ánh mắt thanh khí.
Môi hồng răng trắng,đẹp đẽ gọi là thuần hòa chi thể
Kim ô viên mãn, ngọc thỏ thanh kì
Kim ô chỉ thái dương,chủ nhân khuôn mặt hơi tròn,ngọc thỏ chỉ thái âm,tuy cũng thuộc loại mặt tròn hoặc bầu dục nhưng màu da không được hồng nhuận như thái dương.
Thiên cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện.
Thiên cơ phần nhiều vóc dáng trung bình,nhẹ dạ,mềm lòng,nhưng cũng nóng tính,khuôn mặt xương (gầy),dài .Người miếu địa thì mặt dài hơi tròn.
Vũ khúc nãi chí cương chí nghị chi thao, tâm tính quả quyết.
Vũ khúc chủ nhân tính tình cương nghị,xử sự quyết đoán,nhưng nhãn quang không xa (không biết là nói về suy nghĩ không sâu xa hay là mắt kém)
Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kì.
Thiên đồng chủ nhân khuôn trường phương kiểm,hơi tròn.Thường thường thì đẫy đà,béo chắc, nhưng vẫn mi thanh mục tú.
Liêm trinh mi khoan khẩu khoát nhi diện hoành, vi nhân tính bạo, hảo phẫn hảo tranh.
Liêm trinh chủ nhân thân hình to khỏe,mi khoan,khẩu khoát,quyền lộ,xương vai lộ,khuôn mặt đầy đặn mà hơi góc cạnh.Thường thường tính cách mạnh mẽ mà hời hợt,nếu có văn diệu chuyển thành ôn hòa.
Tham lang vi thiện ác chi tinh, nhập miếu tất ứng trường tủng, xuất viên tất định ngoan hiêu.
Tham lang sinh nhân ,tính tình bất thường,tốt xấu vô định,hoặc là tâm kế,hoặc là nóng nảy mà tính xảo (xảo như trong xảo trá.),hoặc thủ đoạn viên hoạt, hay giúp người để lấy ơn,vì thế mà gọi là thiện ác chi tinh.Cư vào hãm địa,người nhỏ tiếng to.Nếu nhập miếu thì cao lớn ,đầy đặn.
Cự môn nãi thị phi chi diệu, tại miếu đôn hậu ôn lương.
Cự môn nhập miếu,thân hình mập mạp,vóc người cao vừa tầm,nếu lạc hãm thì chủ nhân gầy nhỏ,hay nói chuyện thị phi,lại đa nghi.Dù nhập miếu hay lạc hãm ,khuôn mặt cũng thuộc dạng trường phương kiểm.
Thiên tướng tinh thần, thiên lương ổn trọng.
Thiên tướng chủ nhân tính tình cẩn trọng ôn hòa,ánh mắt chánh đại mà thanh hòa.Thiên Lương chủ nhân,thân hình tuy không phong hậu viên mãn (đầy đặn),nhưng thái độ cử chỉ tự nhiên có chút cẩn trọng trang nhã.
Thất sát như tử lộ bạo hổ bằng hà
Bạo hổ bằng hà tức là không giận mà oai nghiêm , là ánh mắt cử chỉ chủ yếu của thất sát.Tử lộ là học trò của Khổng Tử,thần tình diện mạo vốn sẵn uy nghi.
Hỏa linh tự dự nhượng thôn thán vi ách.
Dự Nhượng kế hoạch ám sát Ngô vương Liêu,hóa trang biến dung,nhưng vẫn sợ người ta nhận ra giọng nói của mình,cho nên nuốt than làm cho giọng nói khàn khàn.Mệnh cung,Thân cung nếu kiến hai sao hỏa linh,thanh đới thượng dễ bị ám ách(thanh đới bộ phận chủ yếu tạo ra âm thanh),lại lắm lông ,tóc,thậm chí lông tóc quăn queo tự nhiên.
Bạo hổ bằng hà hề mục đại hung ngoan; Thôn thán vi ách hề ám ngoan thanh trầm.
Tử Lộ và Dự Nhượng đều có kết cục không tốt đẹp.Phải chú ý là luận đoán như vậy thực ra rất khái quát,là một loại khuynh hướng cơ bản về hình dáng tính cách,không thể lấy làm kết luận rộng ra ngoài tính chất hình dáng,tính cách.
Tuấn nhã văn xương, lỗi lạc văn khúc.
Văn khúc văn xương chủ nhân khuôn mặt thanh tú như tranh,nhưng văn xương nhàn nhã thông minh,văn khúc lỗi lạc đại phương (đại phương:chuyên gia,nhà chuyên môn,trong nghề…) .Giả như xương khúc cùng chiếu mệnh cung,chủ nhân thân hình đầy đặn,dù cho chính diệu mệnh cung chủ gầy nhỏ cũng chỉ có khả năng gia giảm nét đầy đặn.
Tại miếu định sanh dị chí, thất hãm tất hữu ban ngân.
Văn xương văn khúc chủ về ban điểm,bao gồm :đốm đen,mụn ruồi,các loại tàn nhang tàn hương(tước ban),chàm,bớt (ban ngân),ma điểm.Đại thể xương khúc nhập miếu dù có ban điểm nhưng không ảnh hưởng đến bề ngoài,nếu lạc hãm tất ảnh hưởng đến dung mạo.
Tả phụ hữu bật, kiến ôn lương quy mô.
Tả phù hữu bật cùng chiếu mệnh cung,hình dáng thanh tú,tả phù cũng như hữu bật đều đôn hậu.
Kình dương đà la, hữu kiểu trá thể thái.
Đà la mệnh cung,chủ nhân răng không đồng đều(hình như bao hàm cả vổ,răng vổ cổ chìa ^_^),Kình Dương mệnh cung,chủ nhiều thương tàn.Ngũ quan thiếu đoan chính,thân hình thô tráng,vẻ mặt giả trá.
Nhược phùng khôi việt, tất cụ túc uy nghi.
Thiên khôi viên kiểm, thiên việt phương kiểm, giai cụ uy nghi.
Mệnh hội tam thai, tắc thập toàn mô phạm.
Về tam thai có nhiều thuyết pháp bất đồng,tác giả sau khi so sánh thì khả tín là trường hợp tả hữu hội tử vi,hoặc tả hữu giáp thiên thủ.Chủ nhân cách này cao lớn uy nghi.
Phá quân bất nhân, bối hậu mi khoan, hành tọa yêu tà
Phá quân chủ nhân hình dáng yêu viên bối hội (yêu viên là cao lớn vạm vỡ, hai bên sau lưng ngang với ngực gọi là bối, hậu ý nghĩa là dầy,chiều dầy),ấn đường rộng (ấn đường- vùng giữa hai đầu lông mày),đi ngồi yêu tà,khuôn mặt dạng viên trường.Bản tính không nhân từ,đi ngồi gian trá,hỉ trợ người ác bất trợ người thiện.Chỉ kiến sát hình kị chư diệu mới đúng.
Tính thái như xuân, nãi lộc tồn chi thịnh đức
Lộc tồn chủ nhân má đầy mà dài,đa sấu,hình cô.Nhưng nói chuyện duyên như gió xuân.
Tình hoài tự hỏa, thành phá hao chi uy quyền.
Phá hao chỉ phá quân,phá quân chủ nhân tính tình cương liệt,hành động thì lộng hiểm (gian hành:có lẽ là hành động mờ ám,hoặc hành động mà không kỹ càng , ví dụ như theo kinh đại bảo tích: đi mà không nhìn đường là gian hành,nhìn đường mà không nhìn kỹ là gian hành)
Lộc phùng lương ấm, bão tư tài ích vu tha nhân.
Thiên Lương lộc tồn đồng cung,hoặc thiên lương hóa lộc ,cổ nhân cho rằng tổn tài,hành sự điên đảo.
Háo ngộ tham lang, sính dâm tình tử tỉnh để.
Hao chỉ phá quân,Phá quân gặp Tham Lang ,cổ nhân cho rằng chủ dâm bôn.
Văn khúc ám hợp liêm trinh, vi tham vọng chi tào lại.
Liêm trinh gặp văn khúc đồng cung,cổ nhân cho rằng tất làm tào lại trong công môn.
Nhật nguyệt khúc tương dữ thiên cơ, giai vi mĩ tuấn chi tư, nãi thị thanh kì chi cách, thượng trường hạ đoản, mục tú mi thanh.
Cổ nhân coi trọng thể thái ổn trọng,cho nên thượng trường hạ đoản tức là cách đẹp,ngày nay quan điểm thẩm mĩ thay đổi,đã khác với quan điểm của cổ nhân.
Vũ khúc tham lang, hình tiểu thanh cao nhi lượng đại.
Cách này nói về ba trường hợp :vũ khúc thủ mệnh,tham lang thủ mệnh,hoặc vũ khúc tham lang đồng cung.
Thiên đồng đà kị, phì mãn mục miễu nhi hối manh, hình sửu mạo thô.
Thiên đồng đà la đồng cung,mắt nhỏ,người béo.Nếu thấy sát kị tất dáng thô.
Hựu trị háo sát kình dương, thân thể tao thương.
Phá quân kình dương đồng cung thân thể có vết thương,bao gồm cả việc mổ xẻ.
Nhược ngộ đà la cự ám, tất sanh dị chí.
Cự ám tức cự môn.Cự môn đà la đồng cung,chủ nhân có nốt ruồi lạ,gọi là nốt rồi lạ là chỉ nốt ruồi có lông mọc hoặc nốt ruồi tự nhiên mọc ra.Tục gọi là ô quy chi loại.
Trung châu Phái chư tinh hình tính
Chư tinh hình tính:
Tử vi
Sắc mặt là tử thang sắc,lão niên (người già trên 60) chuyển thành hồng hoàng sắc.Nếu thấy hoàng bạch sắc thì nguyên nhân là do tinh diệu khác ảnh hưởng
Hình dáng trường viên hoặc hơi gầy,lưng vai đầy đặn.Vóc người cao vừa tầm.
Tính tình đôn hậu hào sảng chính trực,nhưng chí cao khí ngạo,rất chủ quan.Thiện ác tùy tâm,với lại yêu- ghét rất cường liệt.Duy chỉ thiếu quyết đoán dù có tài lãnh đạo,lại dễ cả tin.
Tử vi phá quân đồng cung,nếu gặp sát và kị tất nhãn thần như dao động bất định.
Tử vi kiến phụ ,tá chư diệu ,chủ quan nhiều mà chủ kiến ít,hình dáng tướng mạo cao lớn đầy đặn,đôi mắt hiền mà như có thần.
Tử vi tham lang đồng cung,khuôn mặt hơi dẹt.
Tử vi lộc tồn đồng cung,hình dáng tuy đầy đặn nhưng thần thái cô độc.
Thiên cơ
Sắc mặt thanh bạch,lão niên chuyển thành thanh hoàng sắc
Khuôn mặt bầu dục hơi gầy hoặc trường viên kiểm.Nhập miếu người cao béo,lạc hãm cao vừa tầm,gầy.
Thiên cơ cự môn đồng cung chủ gầy
Hội hợp cát diệu tất tốt tính,hội hợp hung sát tất láu cá.
Chủ nhân tâm từ mà tính nóng,cơ mưu đa biến,hoạt bát hiếu học,nhưng dễ rơi vào ảo tưởng.
Thiên cơ hội nhiều sát kị chư diệu ,nếu sau này giáo dưỡng không tốt dễ đi vào hạ lưu.
Thiên cơ thái âm đồng cung,mục quang linh động mà kín đáo.
Thiên cơ thiên lương đồng cung,mục quang nghiêm nghị lạnh lùng mà không nhiếp nhân.
Thiên cơ cự môn đồng cung,mục quang phù phiếm (chắc là mục quang bất định)
Thái dương
Sắc mặt hồng bạch,hồng hoàng,hoặc hơi tím hồng.
Khuôn mặt sung mãn,viên kiểm hoặc trường viên kiểm
Vào ngọ cung,chủ thân thể cao lớn,lạc hãm cung,hơi thấp,vượng cung tất cao vừa phải.
Tính rộng rãi hào phóng,không câu nệ tiểu tiết,bẩm tính thông minh.
Thái dương hóa kị,mắt có tật hoặc thường thấy chấm li ti đỏ ở con ngươi.
Thái dương cư miếu vượng,mục quang có thần.Nhưng tại ngọ cung quá vượng lại chủ mắt có tật.
Thái dương hóa kị,lại gặp sát tinh,hai mắt thì mắt to mắt bé hoặc cái cao cái thấp.
Vũ khúc
Sắc mặt thanh bạch,thanh hắc hoặc thanh hoàng.
Khuôn mặt bầu dục,hơi nhỏ (sấu là gầy ,nhỏ).
Vũ khúc cư thìn tuất hai cung,tức vào thiên la địa võng,chủ thân hình cao gầy.
Vũ khúc thất sát đồng cung tại mão cung,chủ thân hình mập mạp.Đồng cung tại dậu cung,cao vừa tầm,trừ những cung vị kể trên,tại các cung vị còn lại vũ khúc đích xác là người nhỏ tiếng to.
Tính quả cảm cương nghị,tâm trực vô độc,có tính quyết đoán nhưng nhiều ý kiến nông cạn.
Nhãn thần chính đại,nhưng nếu vũ khúc hóa kị thì thần sắc chuyển thành suy thảm,chủ không thọ.
Vũ khúc hóa kị lại thấy sát tinh,nhược chưởng (nhược chưởng chắc là vú) biến chuyển thằng bằng phẳng,chủ có bệnh ung thư.
Thiên đồng
Sắc mặt hoàng bạch.
Khuôn mặt chữ nhật hoặc chữ nhật hơi tròn.
Phàm thiên đồng tại mệnh cung,chủ nhân hình dáng đầy đặn,mi thanh mục tú, ánh mắt nhân từ.
Nếu thiên đồng hóa kị, tất ánh mắt nhu nhược, lại thêm hội sát tinh thì chủ mặt mày hốc hác,vàng vọt (phá tương).
Tính tình khiêm tốn ôn hòa, bản tính chính trực,nhát gan (pha sự còn có nghĩa là sợ phiền phức).Nhưng tư tưởng cao siêu,năng học năng thành.
Thiên đồng cự môn đồng cung,gặp hỏa tinh hoặc linh tinh,thân thể có bớt (chàm) hoặc nốt ruồi lạ.
Thiên đồng thái âm đồng cung tại Ngọ cung,kiến sát tinh thân thể doanh hoàng.
Thiên đồng đà la đồng cung,mắt nhỏ hoặc mắt chột (ba mãn nhi mục miễu, hoặc nhãn tế.)
Nữ mệnh thiên đồng thái âm đồng cung tại tý,nhãn thần lưu diễm (ý chỉ ánh mắt đẹp)
Liêm trinh
Sắc mặt vàng hoặc hoàng hắc sắc.Gặp tham lang đồng cung,tất sắc mặt hoàng bạch.
Khuôn mặt bầu dục mà nhỏ,kiến sát kị thì mặt dài cằm nhọn.Mi rộng miệng rộng,gò má cao.
Gặp thiên phủ đồng cung thì chủ mập mạp,nhưng da đen thô.
Phàm liên trinh tại mệnh cung chủ đa ngôn
Ánh mắt lộ quang,lông mày lộ cốt,lưỡng quyền lộ lăng.Nếu kiến sát kị hình diệu,tất mũi lộ khổng(hem hiểu,đoán chắc là mũi hếch),tai lộ xương.
Tính không câu nệ lễ tiết,hấp tấp gặp đâu nói đấy ,dẫn dến tranh cãi.Kiến khoa diệu,văn diệu thì thích lễ nghĩa.
Gặp thiên phủ đồng cung,chủ nội tâm khoan hậu.
Gặp tham lang đồng cung,bề ngoài đầy đặn.
Gặp thiên tướng đồng cung,ánh mắt sáng,nhưng hoặc vô định hoặc giảo hoạt
Nếu gặp thất sát đồng cung,kiến sát kị hình diệu,tất ánh mắt bạo lộ hoặc có những tia đỏ ở con ngươi
Liêm trinh phá quân đồng cung,tính thiếu nhẫn lại,mắt như trợn ra.
Thiên phủ
Sắc diện hoàng bạch.Gặp liêm trinh đồng cung tất da thô đen.
Khuôn mặt vuông hoặc phương kiểm hoặc trường phương kiểm,hoặc hơi tròn mà nhìn giống phương kiểm.
Người khá mập,lão niên phát phì,thân hình cao vừa tầm,
Ngũ quan đoanh chính,tâm tính ôn hòa trung hậu,có nghị lực,nhưng thiếu động lực.Chủ nhân đa học đa năng,cẩn trọng bảo thủ.
Ánh mắt tuấn tú nhưng không diễm lệ
Nếu hội hợp sát kị hung diệu,tất mục quang bất định.
Nữ mệnh thiên phủ ,tị đa trình đảm hình
Thái âm
Sắc mặt thanh bạch,hoặc hơi thanh hoàng, lạc hãm cung tất sắc mặt thanh hắc.
Khuôn mặt chủ đạo là tròn,hoặc viên kiểm,hoặc bầu dục mà hơi vuông.
Tính hướng nội,nhưng thông minh mẫn cảm,thích dùng tâm kế,đa tư đa lự.Bề ngoài đoan trang ôn hòa,thần sắc gian nhã (gian:cứng cỏi,nhã: nhàn nhã,dịu dàng).
Nếu thái âm hội đào hoa,tất ánh mắt mơ màng,hoặc mắt có diễm quang.Tục ngữ gọi là đào hoa nhãn.
Thái âm gặp xương khúc hội hợp,ngũ quan tuấn tú thanh kì,nhưng ánh mắt phù đãng(bay bổng,lướt nhẹ).
Tham lang
Sắc mặt thanh bạch hoặc thanh hoàng
Khuôn mặt bầu dục hoặc viên phương lộ cốt.
Người miếu địa thì thân hình cao lớn mập mạp,nếu hãm địa ,thì người nhỏ tiếng to mà hào sảng,tính tình bất thường
Dù lạc hãm hay miếu địa thì tính tình cũng chủ suy nghĩ sâu xa,yêu ghét bất định.Hành sự nóng nảy,không chịu yên tĩnh.Thích thủ đoạn tinh vi.
Phàm tham lang nhập mệnh,chủ có nhiều đam mê,nhìn thêm tinh hệ mà định tính chất.Nếu như hội văn diệu, tất thi tửu phong lưu,yêu thích văn nghệ.Nếu hội đào hoa chư diệu thì đa tham hoa tửu (hoa tửu:uống rượu có kỹ nữ hầu rượu),nếu hội sát diệu,tất nghiện thuốc nghiện rượu.
Nhãn thần mơ màng,nữ mệnh thì ánh mắt lưu lệ (đẹp) nhưng thiếu chính đại.
Nếu hội xương khúc chuyển ra ánh mắt giảo trá.
Nếu hội không diệu,ánh mắt lại thành trong sáng,chính trực.
Tham lang lạc hãm,gặp dương đà,lại thêm hóa kị chủ mặt có ba ngân ban chí (ba ngân là vết sẹo,dấu vết; ban:lang lổ; chí:nốt ruồi)
Tham lang cư tý cung,gặp được đà la,nam nữ ánh mắt đều có diễm quang (ánh mắt tươi sáng đẹp)
Cự môn
Sắc mặt thanh hoàng,lạc hãm thì thanh hắc.Nếu nhập miếu lại gặp thái dương đồng cung hoặc hội chiếu,tất sắc mặt hồng hoàng.Lạc hãm mà gặp thái dương đồng cung hoặc hội chiếu,sắc mặt thanh hắc hơi hồng.
Khuôn mặt chữ nhật hoặc bầu dục.
Thông thường hình dáng gầy nhỏ hoặc vừa tầm.Trừ tại tị ngọ cung có thái dương hội chiếu chủ mập mạp.
Tâm tính trung hậu nhưng đa nghi.Khuôn mặt thanh tú,ăn nói lưu loát,hữu chánh nghĩ cảm (tinh thần vì công lý,thấy cảnh bất bình ra tay tương trợ ^_^),đa học thiểu tinh,vô sự mà lòng vội gấp (vô sự mà cũng lo âu),hành động tâm tính vô định.
Nếu cự môn hóa kị,tất hay nói thị phi sau lưng (đa bối thị phi),dù không có ác ý nhưng dẫn đến bằng hữu phân tranh.
Cự môn gặp đà la đồng cung,chủ người có nốt ruồi lạ.


Thiên tướng
Sắc mặt thanh bạch hoặc thanh bạch đới vàng.
Khuôn mặt phương kiểm hoặc hơi tròn.
Thường thường vóc dáng trung bình,sau trung niên có khả năng chuyển sang mập mạp.
Tướng mạo đôn hậu,ngũ quan đoan chính,cử chỉ ổn trọng,
Bản tính hảo bão bất bình,lời nói thành thật,rộng lượng khảng khái,tạo cảm giác an tâm,nhưng cảm tình dễ bị kích thích.
Nhãn quan trong sáng rõ ràng,vẻ mặt hòa nhã.
Nhưng nếu gặp vũ khúc ,phá quân hoặc gặp thất sát,kình dường,đà la hội chiếu ,lại thêm phùng kị hình ,không kiếp,tất ánh mắt thường buồn rầu mơ màng.
Thiên Lương
Sắc mặt hoàng bạch
Khuôn mặt chữ nhật.Mũi thẳng gò má cao,người hơi thấp.Nếu cư Tị cung thì lại cao gầy.Cư ngọ cung thấp mập.
Tướng mạo ổn trọng,thư thái.
Tính tình chính trực vô tư,gặp việc thì quả cảm quyết đoán.
Gặp thái dương đồng cung,lại thấy xương khúc,chủ thông minh xuất chúng,nhưng hiếu thắng.
Gặp thiên cơ đồng cung,thông kim bác cổ (hiểu biết rộng,thông hiểu mọi việc xưa nay),giỏi đối đáp.
Ánh mắt sáng,nếu cư ngọ cung :sáng mà sắc,ánh mắt bức nhân.Nếu vào hãm cung,lại gặp đào hoa chưa diệu,tất ánh mắt diễm lệ.
Gặp thiên hình,kình dương đồng cung,ánh mắt mơ màng.
Thất sát
Sắc mặt hồng hoàng hoặc hoàng bạch
Khuông mặt chữ nhật,đa số hơi nhỏ (sấu:nhỏ hoặc gầy).
Dáng người vừa tầm,gầy béo bất nhất.
Mắt to,ánh mắt không nộ mà uy
Tính nóng,bề ngoài có vẻ quyết đoán mà nội tâm nhiều do dự.
Hội cát diệu ánh mắt uy mà hòa;hội hung diệu ánh mắt uy mà sắc bén.
Nếu tứ sát đều chiếu,gặp thêm hình kị ,thân hình có nhiều thương tật.Cổ nhân cho rằng bị gù lưng,căn cứ kinh nghiệm thì do bệnh bại liệt trẻ em mà thành tàn tật.
Phá quân
Sắc mặt thanh hoàng
Khuôn mặt bầu dục
Phá quân vào mệnh,chủ lưng dày,mày rộng,đi ngồi yêu tà.Hoặc phá tương (hốc hác vang vọt),hoặc cận thị,hoặc nói lắp,hoặc lúc sinh thường khó khăn,hoặc sinh thiếu tháng.
Vóc dáng trung bình hoặc hơi thấp.Gầy béo bất nhất.
Phá quân nhập miếu tất tâm địa trung hậu thiện lương
Phá quân vào vượng địa,bản tính chính trực,xử sự có nghị lực,có sở trường khai sáng.
Phá quân lạc hãm ,tính cương khó hòa hợp,thích tranh đua cãi cọ (hảo cường hảo tranh), thậm chí thích hành động lộng hiểm
Người miếu địa thì mắt sáng,lạc hãm mắt đục.
Chư tinh ảnh hưởng
Văn xương:Chủ nhiều tước ban (tàn hương,tàn nhang),mập,sắc mặt hoàng bạch sắc. (E nghĩ chữ chủ ở đây chắc nghĩa là tính chất chủ yếu về mặt nào đó không phải chủ trong “chủ nhân” vì bọn này chỉ là phụ tinh.Ví dụ như:Thất sát chủ quyền hành )
Văn khúc:chủ nhiều nốt ruồi đen,miệng góc cạnh,sắc mặt thanh hoàng hoặc thanh hoàng sắc
Tả phù hữ bật:chủ cao gầy,sắc diện hoàng bạch
Hữu bật:vóc người hơi thấp,chủ có nốt ruồi hoặc ban điểm (chấm vết,lốm đốm,bệnh nổi ban).Cằm tiêm phương (phương là vuông) hoặc tiêm viêm (viêm là tròn,đầy đặn)
Thiên khôi:chủ cằm tiêm phương hoặc tiêm viên mà nhỏ.Vóc người hơi thấp,gầy.
Thiên việt :chủ cằm vuông,mập.
Lộc tồn:chủ về viên kiểm,cằm tròn,hội sát tinh thì hình cô (hình:hình dáng),hội thiên mã thì trán vuông mà đầy đặn.
Thiên mã:Vóc người vừa tầm,không gầy.Chủ thái dương nhô cao mà đầy dặt.
Kình dương:gặp xương khúc ,tả hữu đồng cung,chủ có nốt ruồi kín hoặc vết thẹo.Khuông mặt thượng thái hạ tiểu hoặc thượng viên hạ phương mà hơi nhọn.
Đà la:không gầy,răng không đồng đều hoặc có thương tật.Khuôn mặt thượng viên hạn phương
Hỏa tinh:chủ khuôn mặt thượng tiểu hạ đại,hoặc thượng phương hạ viên mà góc cạnh.Lông tóc nhiều điểm kì lạ.
Linh tinh:chủ khuôn mặt thượng tiêm viên nhi hạ phương.Lông tóc nhiều điểm kì lạ.
Địa không :chủ mặt nhọn,thiên đình (phần giữa trán) cũng hẹp,mặt trông như hình quả hạch (quả hạch :có hình dạng giống quả trứng,ví dụ: hạt dẻ cũng là một loại quả hạch).
Địa kiếp:thiên đình không đủ,cằm không đầy đặn,cho nên nhìn nghiêng thì thấy trán vẹo,cằm vẹo.
Thiên khốc thiên hư:chủ cằm nhọn
Cô thần quả tú:đầu nhỏ
Kiếp sát:chủ trán và cằm không đầy đặn
Đào hoa chư diệu:cằm tiêm phương hoặc tiêm viên. Mắt đẹp.
Phá toái:chủ nhân hình cô
Phi liêm: chủ nhân chủy hình bất giai (bất giai:khó coi )


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những Tật

Mơ thấy chiếc hộp: Hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ, năng lượng, sức mạnh và trí tuệ của bản thân –

Chiếc hộp là biểu tượng của nữ tính. Ngoài ra, chiếc hộp còn là hình ảnh tượng trưng cho bản thân và nội tâm của bạn. Chiếc hộp mở nắp cho thấy bạn là người có hiểu biết về bản thân mình. Nếu chiếc hộp trong mơ có chứa những vật dụng quý giá, nó có
Mơ thấy chiếc hộp: Hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ, năng lượng, sức mạnh và trí tuệ của bản thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chiếc hộp: Hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ, năng lượng, sức mạnh và trí tuệ của bản thân –

Tiết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 ÂL)

1. Ý nghĩa: Ông bà ta xưa chọn Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ấm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.
Tiết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 ÂL)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nhân lúc đi Thanh Minh tảo mộ, để tưởng nhớ tổ tiên, người thân đã khuất, mọi người có thể dạo chơi ngắm cảnh cỏ cây tươi tốt, nên còn gọi là Đạp Thanh. Nguyễn Du có câu:

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh

2. Sắm lễ:

Lễ trong tiết Thanh Minh gồm có: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt (chân giò, gà luộc hoặc một khoanh giò nạc độ vài lạng), hoa quả.

Khi đến nghĩa trang hay khu vực có để mộ phần của gia đình mình thì gia chủ đặt lễ vào chỗ thờ chung. Sau đó thắp đèn, nhang, vái ba vái vị Linh thần Thổ địa rồi khấn.

3. Văn khấn:

3.1. Văn khấn lễ âm phần Long Mạch, Sơn thần thổ phủ nơi mộ
  Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
 
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
 
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.
 
- Con kính lạy các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.
 
Hôm nay là ngày: ……………..... Tín chủ (chúng) con là:…………
 
Nhân tiết Thanh minh (hoặc là nhân tiết thu, tiết đông, hoặc nhân ngày lành tháng tốt.. .) tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám.
 
Gia đình chúng con có ngôi mộ của…………………..
 
Táng tại xứ này, nay muốn sửa sang xây đắp (hoặc tảo mộ, bốc mộ…) vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản trong khu vực này, chúng con kính mời các vị chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.
 
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
 
3.2. Lễ vong linh ngoài mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
 
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương
 
- Con kính lạy Hương linh………(Hiển khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo…)
 
Hôm nay là ngày. . ………….
 
Nhân tiết:……………………..
 
Tín chủ (chúng) con ……….
 
Ngụ tại:……………………...
 
Chúng con và toàn thể gia đình con cháu, nhờ công ơn võng cực, nền đức cao dầy, gây dựng cơ nghiệp của………….. chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân linh……. . lai lâm hiến hưởng.

Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi xa, bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái. Con cháu chúng con xin vì chân linh . . ……..Phát nguyện tích đức tu nhân, làm duyên, làm phúc cúng dâng Tin Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.

Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế hờ tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.

Sau khi khấn xong, đợi hết 2/3 tuần hương thì đi lễ tạ các nơi, hóa vàng, xin lộc và mọi người trở về nhà làm lễ gia thần và gia tiên ở nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 ÂL)

Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp

Phong thủy thư phòng có mối quan hệ mật thiết đến sự nghiệp của gia chủ và các thành viên trong gia đình. Vậy nên, các loài cây được đặt trong thư phòng luôn
Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy thư phòng có mối quan hệ mật thiết đến sự nghiệp của gia chủ và các thành viên trong gia đình. Vậy nên, không có gì quá khó hiểu khi các loài cây được đặt trong thư phòng luôn được lựa chọn kỹ càng.


Chon cay theo phong thuy ne tro ngai trong su nghiep hinh anh
 
1. Cây phú quý thúc đẩy sự nghiệp

Chon cay theo phong thuy ne tro ngai trong su nghiep hinh anh 2
 
Thư phòng là nơi làm việc và học tập, gia chủ đừng ngại bày trí cây phú quý để mang lại vẻ đẹp và trợ giúp sự nghiệp. Cây phú quý là loài cây luôn xanh lá, dồi dào sức sống, khí thế hùng tráng. Ngoài ra, chúng còn điều tiết không khí, nâng cao chất lượng khí trường, mang đến cho chủ nhân phú quý cát tường.
Xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn
Kết hôn là canh bạc đối với người phụ nữ, họ luôn hy vọng được nhận hạnh phúc và tình yêu của người chồng trong hôn nhân. Giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng

2. Không nên chọn loại cây d
ây leo

Chon cay theo phong thuy ne tro ngai trong su nghiep hinh anh 3
 
Trong thư phòng không nên bày biện thực vật thuộc giống dây leo bởi vì cây mây thuộc âm, không tốt cho vận trình của chủ nhân. Nếu loài dây leo bày trong thư phòng, không những hút năng lượng, khiến suy nghĩ hỗn loạn, mà còn không có lợi đối với học vận. Ngoài ra, cây dây leo còn khiến côn trùng có hại sinh sôi nảy nở, không khí ẩm ướt.   3. Màu sắc của cây

Chon cay theo phong thuy ne tro ngai trong su nghiep hinh anh 4
 
Thực vật có ích không những khiến tâm tình gia chủ thoải mái, mà còn sinh khí thư phòng. Nếu mỗi ngày đều có thể thưởng thức loài thực vật đó thì mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ. Loài cây làm cảnh này nên dựa vào sở thích của bản thân, tuy nhiên không nên chọn cây có màu sắc quá rực rỡ, dễ gây phân tâm cho chủ nhân.   4. Mùi hương của cây

Chon cay theo phong thuy ne tro ngai trong su nghiep hinh anh 5
 
Theo phong thủy thư phòng, kỵ nhất chính là việc sử dụng loài thực vật đậm mùi nhiều khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe của chủ nhân. Mùi hương kích thích trong thư phòng làm tăng nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp và các bệnh liên quan đến tim của các thành viên trong gia đình.
=> Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp

Đặc tính của sao Thiên Đồng

Sao Thiên Đồng ở vị trí miếu địa, vượng địa và đắc địa thì canh cải thất thường, trung hậu, từ thiện, chủ sự may mắn và vui vẻ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Thiên Đồng

Đặc tính của sao Thiên Đồng

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Đồng trong tử vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Khả năng Tứ hóa
Thiên đồng Nam đẩu (thứ 4) Dương thủy Phúc Phúc đức Giải ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa Bính: Lộc, Đinh: Quyền, Canh: Kị

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên đồng là dương thủy. Là chòm sao thứ tư trong chòm sao Nam Đẩu. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc thọ. (Tuổi trẻ chủ về Phúc, tuổi già chủ về Thọ, phúc nhiều thì Thọ ít, phúc ít thì Thọ nhiều.)

Sao Thiên Đồng có phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác "có phúc không biết hưởng" hay "số vất vả".

Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.

Thiên đồng hóa Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có "khẩu phúc" (được ăn ngon), nhưng tính cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.

Sao Thiên Đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương, chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân. Gặp bốn sát tinh Kình Đà, Hỏa Tinh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật cô độc.

Sao Thiên đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp trở ngại.

Sao Thái âm và Thiên Đồng nếu trấn tại cung mệnh, hoặc cung Điền Trạch tại Tý, là cách cục "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh - Tài - Quan là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên Đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Thiên Đồng

Cách hóa giải kim lâu –

rong dân gian có rất nhiều cách tính tuổi Kim lâu. Mỗi cách đều có cái hay và dở với độ chính xác chưa được kiểm chứng. Mỗi Kim lâu một loại tai họa Lương y Vũ Quốc Trung cho biết, theo kinh nghiệm dân gian và cổ thư để lại thì "một, ba, sáu, tám thị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rong dân gian có rất nhiều cách tính tuổi Kim lâu. Mỗi cách đều có cái hay và dở với độ chính xác chưa được kiểm chứng.

Mỗi Kim lâu một loại tai họa

Lương y Vũ Quốc Trung cho biết, theo kinh nghiệm dân gian và cổ thư để lại thì “một, ba, sáu, tám thị kim lâu”. Theo đó: Nam lấy số tuổi âm lịch chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 thì là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi làm nhà, sửa nhà). Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (gây tai họa cho bản thân người chủ). Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (gây tai họa cho vợ của người chủ). Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (gây tai họa cho con của người chủ). Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (gây tai họa cho con vật nuôi trong nhà. Nữ: Hàng đơn vị của tuổi âm lịch mà = 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi lấy chồng).

Cách tính này dựa vào Hà đồ, Cửu cung, Hậu thiên bát quái. Nếu ở vào các cung Càn thuộc mệnh Chủ, cung Chấn thuộc về vợ, cung Cấn thuộc con cái hoặc người thân, cung Tốn thuộc gia súc đề ở 4 góc của cửu cung là phạm Kim lâu không nên xây nhà.

Bắt đầu tính khởi 1 góc ở Tây Nam (Khôn), 2 đến Tây (Đoài), 3 đến Tây Bắc (Càn), 4 đến Bắc (Khảm), 5 vào cung giữa (trung ương), 6 ở Đông Bắc (Cấn), 7 ở Đông (Chấn), 8 ở Đông Nam (Tốn), 9 ở Nam (Ly), đến 10 lại về cùng giữa rồi tiếp hàng đơn vị ở hướng Tây Nam… Tính như vậy thì ta luôn luôn thấy 1 – 3 – 6 – 8 ở các phương, góc có Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tứ Sinh (Dần, Thân, Tị, Hợi). Vừa có “Mộ” lại vừa là “Sinh” nên gọi Kim lâu, ẩn chứa nhiều hung nguy hơn cát tường nên cần phải kiêng tránh.

Cụ thể như sau:

Phạm cung Khôn: Nhất Kim lâu thân: Chính kỵ nhất.

Phạm cung Càn: Nhị Kim lâu thê: Kỵ người vợ.

Phạm cung Cấn: Tam Kim lâu tử: Kỵ cho con cái.

Phạm cung Tốn: Tứ Kim lâu lục súc: Kỵ súc vật nuôi.

Có tám tuổi không cấm kỵ Kim lâu khi tạo tác và khi chết cũng không sợ trùng là tuổi: Kỷ Sửu – Tân Sửu, Kỷ Mùi – Tân Mùi; Canh Dần – Canh Thân; Nhâm dần – Nhâm Thân. Tránh những năm phạm Kim lâu: Là những năm: 12, 15, 17, 19, 21, 24, 26, 28, 39, 33, 35, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 71, 73, 75 âm lịch. Ngoài Kim lâu tạo tác (xây nhà) nói trên còn Kim lâu cho cưới gả, chỉ cần xem tuổi âm lịch nữ giới (đàn bà) nếu hàng đơn vị là 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu, không nên cưới gả. Do cách vận hành của cửu cung, Hà đồ khác nhau nên có kết quả này (không trình bày ở đây).

Hãy tự tính cho mình

Ông Nguyễn Văn Chung cho biết, theo cổ học phương Đông, 24 phương vị gồm 8 thiên can, 12 địa chi và 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn được mô tả theo hình vẽ dưới (ảnh tròn).

29_291211DOOLThangTT014

Các số dư 1, 3, 6, 8 đều thuộc Tứ Mộ (tức 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và Tứ Sinh (tức 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi). Mùi và Thân thuộc Tây Nam. Tuất và Hợi thuộc Tây Bắc. Dần và Sửu thuộc Đông Bắc. Thìn và Tỵ thuộc Đông Nam. Đây cũng chính là phương vị của 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn. Từng quẻ nằm giữa hai ngôi Tứ Sinh và Tứ Mộ. Phong thủy quy định Nam ở phía trên, Bắc ở phía dưới (khác với cách nhìn ở bản đồ), Đông bên tay trái hình vẽ, Tây bên tay phải hình vẽ. Như vậy: Kim Lâu Thân là số 1 ở cung Khôn góc Tây Nam. Kim Lâu Thê là số 3 ở cung Càn góc Tây Bắc. Kim Lâu Tử là số 6 ở cung Cấn góc Đông Bắc. Kim Lâu Súc là số 8 ở cung Tốn góc Đông Nam.

Theo đó, có 8 tuổi không kỵ Kim Lâu là: Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Nhâm Dần, Canh Thân và Nhâm Thân. Với 8 tuổi này, nếu Hoàng ốc cũng tốt thì có thể xây nhà. 52 tuổi còn lại trong hoa giáp, nếu phạm Kim lâu, phải kiêng kỵ. Cách tính Hoàng ốc: Dùng 6 đốt của 2 ngón tay theo hình dưới để tính Hoàng ốc. Mỗi đốt ngón tay có tên tượng trưng như sau:

3 cung tốt là: Nhất Kiết, Nhì Nghi và Tứ Tấn Tài. 3 cung xấu là: Tam Địa Sát, Ngũ Thọ Tử và Lục Hoàng Ốc. Cách tính: Khởi 10 tuổi tại Nhất Kiết, 20 tuổi tại Nhì Nghi, 30 tuổi tại Tam Địa Sát, 40 tuổi tại Tứ Tấn Tài, 50 tuổi tại Ngũ Thọ Tử, 60 tuổi tại Lục Hoàng Ốc.

Việc xét theo bàn tay Kim lâu được tính như sau:

Dùng 9 đốt của 3 ngón tay theo hình dưới để tính:

29_291211DOOLThangTT015

5 cung Khảm, Ly, Chấn, Đoài và Trung cung được xây nhà. 4 cung Khôn, Càn, Cấn, Tốn kiêng kỵ không xây nhà.

Cách tính: Khởi 10 tuổi tại cung Khôn. 20 tuổi tại cung Đoài. 30 tuổi tại cung Càn. 40 tuổi tại cung Khảm. 50 tuổi tại Trung cung. 60 tuổi tại cung Cấn. 70 tuổi tại cung Chấn. 80 tuổi tại cung Tốn. 90 tuổi tại cung Ly. Ví dụ, người 28 tuổi âm lịch làm nhà. 20 tuổi bắt đầu từ cung Đoài, 21 tuổi tại cung Càn, 22 tuổi tại cung Khảm, 23 tuổi tại cung Cấn, 24 tuổi tại cung Chấn, 25 tuổi tại cung Tốn, 26 tuổi tại cung Ly, 27 tuổi tại cung Khôn, 28 tuổi tại cung Đoài. Như vậy, người này làm nhà vào năm 28 tuổi âm, thì được.

Trường hợp đặc biệt, nếu người chồng của gia đình đó đã mất thì lấy tuổi của con trai để tính việc xây nhà. Nếu gia đình đó không có con trai thì lấy tuổi của người đàn bà tính Hoàng ốc và Kim lâu cũng như trên để xây nhà.

Cách hóa giải vận hạn

Các chuyên gia cho biết, theo tài liệu cổ và kinh nghiệm dân gian nếu gặp những năm “tứ kim lâu”, “lục hoàng ốc” hoặc “tam tai” thì không nhất thiết không xây dựng hoặc cưới gả. Theo cách “có đóng, có mở” rất linh hoạt và giải toả tâm lý cho gia chủ có thể hoá giải như sau:

Nếu gặp năm Tứ kim lâu hoặc Tam tai thì gia chủ có thể “mượn tuổi” nghĩa là nhờ một người khác (thường là người thân) có tuổi không phạm phải Tứ kim lâu và Tam tai đứng ra thay để thực hiện công việc (cúng bái, động thổ, trông coi việc xây cất…). Nếu gặp năm Hoàng ốc thì sau khi xây cất xong, gia chủ trước khi đến ở (nhập) cho người khác (thường là người thân, không chạm Hoàng ốc) đến ở một thời gian, sau đó mới dọn đến ở chính thức. Việc cưới xin nếu gặp Kim lâu thì “xin dâu hai lần” để hoá giải việc “đứt gánh giữa đường”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải kim lâu –

Top con giáp có trái tim khó nắm bắt nhất

Cùng xem con giáp nào khó đoán nhất trong tình cảm và cũng khiến người khác phải lao tâm khổ tứ nhiều nhất nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bất kể là trong công việc, người phụ nữ có mạnh mẽ, tài giỏi đến đâu thì trong chuyện tình cảm họ vẫn thật mềm yếu, cần sự che chở và tình yêu thương thực sự. Khi một người bạn nam có những biểu hiện quan tâm đến bạn giống như cách của một người đàn ông thực thụ thì chứng tỏ anh ấy đang yêu bạn sâu đậm. Bạn nói bạn là người phụ nữ không thích ai đó đeo bám dai dẳng, nhưng những tin nhắn mà cứ đến rồi lại xóa, xóa rồi lại đến, lặp lại nhiều đến nỗi bản thân bạn cũng không biết nó đã trở thành thói quen tự lúc nào. Dưới đây là những con giáp đòi hỏi đối phương phải thật kiên nhẫn khi ngỏ lời yêu.

Xếp vị trí thứ 3: Tuổi Dậu

Vốn tính “kỳ kèo” nên bất kể là trong cuộc sống thường nhật hay trong công việc họ đều “cân đo đong đếm” với người khác, song họ lại là những người lắm phúc nhất. Nhưng cũng bởi tính cân đong trong cuộc sống mà không ít lần ảnh hưởng đến cả trong tình yêu. Trong chuyện tình cảm tuổi Dậu cũng thích suy xét kỹ lưỡng, khiến đối phương đau đầu nhức óc, gian khổ muôn phần nếu muốn chinh phục trái tim người tuổi Dậu.

 top con giap co trai tim kho nam bat nhat - 1

Xếp vị trí thứ 2: Tuổi Dần

Người tuổi Dần được biết đến với tính cách mạnh mẽ, thế nên họ thật khiến người khác phải đau đầu. Bởi sự nam tính biểu hiện ra bên ngoài quá cao nên đối phương khó cảm nhận được hết sự yếu mềm bên trong của họ. Sức hấp dẫn ở người tuổi Dần thực sự rất lớn. Những ai mà nhỡ phải lòng người tuổi Dần thì nên xác định tinh thần "kháng chiến trường kì" để chinh phục được trái tim của họ.

 top con giap co trai tim kho nam bat nhat - 2

Xếp vị trí thứ 1: Tuổi Hợi

Những người tuổi Hợi thường không mấy tỏ vẻ hứng thú, tích cực cho lắm về phương diện tình cảm. Từ trước tới nay ít khi tuổi Hợi lên tiếng tỏ tình hay thổ lộ tình cảm với người họ thương yêu trước. Cả đời này họ có thể yêu ai đó rất sâu đậm nhưng lại chẳng thể nói ra được những lời có cánh. Nói chuyện tình cảm với những người tuổi Hợi chẳng khác gì bạn đang nói chuyện với một khúc gỗ vậy, thật khiến người khác phải bó tay.

 top con giap co trai tim kho nam bat nhat - 3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp có trái tim khó nắm bắt nhất

Cách lắp đặt dụng cụ vệ sinh –

- Dụng cụ vệ sinh và đường ống dẫn nước vào, cửa thoát nước phải được kết nối kín và chắc chắn, không để thấm nước, rò nước. Bệ vệ sinh kiểu xổm khi lắp nên dùng bột đá hoặc keo xi líc gắn kín và chắc chắn. - Bồn tắm khi lắp phải đặt đúng vị trí thô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Dụng cụ vệ sinh và đường ống dẫn nước vào, cửa thoát nước phải được kết nối kín và chắc chắn, không để thấm nước, rò nước. Bệ vệ sinh kiểu xổm khi lắp nên dùng bột đá hoặc keo xi líc gắn kín và chắc chắn.

–  Bồn tắm khi lắp phải đặt đúng vị trí thông với đường ống nước, đồng thời phải gắn kín chỗ nối, không được nối bằng ống nhựa mềm. Trên đai tường nối bồn tắm với đường ống nước phải để ra một lỗ kiếm tra có kích thước 200 X 160 mm, và phải có nắp gỗ đậy lại. Đầu rồng xả nước nên lắp cùng bên với cửa thoát nước, vòi nước lạnh bên phải, vòi nước nóng bên trái, vòi xả nước ở giữa. Lồng bảo vệ hình bát gắn chặt vào tường.
– Chậu rửa mặt phải được lắp đặt ngay ngắn, đúng vị trí, đầu đường ống nước nóng lạnh lắp phía dưới chậu, nước lạnh bên phải, nước nóng bên trái.

Untitled-16

(1) Cách kiểm tra chất lượng lắp đặt dụng cụ vệ sinh

– Dụng cụ vệ sinh và các đồ dùng khác sau khi lắp xong phải nguyên vẹn, bề mặt phải nhẵn và sạch.
– Chậu rửa mặt và bệ vệ sinh phải được lắp đúng vị trí, cân đối, phẳng, chắc chắn, không có hiện tượng lung lay. Phòng bếp và phòng đi vệ sinh phải được chống thấm tốt.
– Các ống nối dụng cụ vệ sinh chỗ gấp khúc phải cong đều, không được khuyết hay lồi lõm.
– Dụng cụ vệ sinh phải được lắp ráp bằng vít nở, không được dùng đinh gỗ.
– Bề mặt các dụng cụ vệ sinh không bị chầy xước. Khi lắp đặt vòi nước hoặc các phối kiện cần đóng (gõ) phải dùng vải bọc ngoài rồi mới đóng, không được dùng búa hay thứ khác gõ trực tiếp vào chúng.
– Sau khi lắp đặt xong, thử lại các thiết bị, dụng cụ không được có hiện tượng thấm nước, rò nước

(2) Cách kiểm tra chất lượng lắp đặt ổng nước

– Lắp đặt ống nước theo yêu cầu của gia chủ. Sau khi lắp xong ống nước phải thử, đường ông thoát nước phải thông, kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn.
– Đặt ống ở khoảng cách gần nhất, sử dụng ít ống nối nhất. Ống nước phải được đặt thẳng và phẳng, cố gắng tránh gấp khúc và đè lên nhau.
– Các loại van phải lắp đúng vị trí, tiện sử dụng và bảo dưỡng. Khi thử áp các đầu nối, vòi nước, van và chỗ nối ống không được có hiện tượng thấm hay rò nước.

(3) Cách kiểm tra chất lượng thi công gắn gạch tường và gạch nền

– Trước khi thi công phải xử lý làm sạch làm phẳng phần mặt nền và mặt tường; gạch trước khi đem gắn phải ngâm nước, thời gian ngâm không dưới 4 giờ.
– Gắn chắc từng viên gạch, độ dầy của vữa 6mm~10mm. Khe tiếp xúc giữa các viên gạch phải chặt, không được rỗng, khe mạch đều, sai số lệch bề mặt không được quá 2mm, chênh lệch cao thấp các khe nối không quá 0,5mm.

– Góc dương gạch men 45°, men theo tường gạch phải được cắt và gắn hợp lý, kích thước gạch cắt chuẩn xác, gắn ăn khớp, thẳng và phẳng.
– Gạch gắn phải chắc chắn, không được đế rỗng bề mặt tiếp giáp với vữa. Gạch phải vuông vắn, không bị bẩn, không có vết xước, màu sắc đều, không rạn nứt, mất góc, sứt cạnh.

(4) Cách kiểm tra chất lượng gạch vách

Gạch vách thường là loại gạch từ. Loại gạch từ này muốn tốt cần phải:
– Có độ cứng nhất định, độ chống gẫy cao.
– Khả năng hút nước thấp, theo tiêu chuẩn quốc gia, lực hút nước của gạch phải ở mức dưới 20%.
– Bề mặt gạch bóng, nhẩn. Kích thước to nhỏ phải thống nhất.
– Màu sắc đều.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lắp đặt dụng cụ vệ sinh –

Mơ thấy gia súc ngụ ý nhiều việc sẽ được như ý muốn

Mơ thấy lừa là cát mộng, dự báo cuộc sống hạnh phúc, mơ thấy mình cưỡi trên lưng lợn thì ám chỉ tình yêu thăng hoa.
Mơ thấy gia súc ngụ ý nhiều việc sẽ được như ý muốn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Mơ thấy lừa là cát mộng, dự báo cuộc sống hạnh phúc, mơ thấy mình cưỡi trên lưng lợn thì ám chỉ tình yêu thăng hoa.


Giải mã giấc mơ thấy gia súc:
 
Mơ thấy ngựa, trâu kết thành một đàn ngụ ý may mắn sắp tới như may mắn trúng sổ số, mua đồ nhặt được tiền…
   Mơ thấy vắt sữa bò là gặp nạn trộm cướp. Cần chú ý trộm và kẻ cướp như khi đi xe, ngồi xe buýt, cũng phải nhắc nhở người nhà xem cửa nẻo kỹ càng.

Mo thay gia suc ngu y nhieu viec se duoc nhu y muon hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy lợn dựa vào mình dự báo sẽ đau đầu vì những khoản chi tiêu bất ngờ. 
   Mơ thấy thi đua ngựa cảnh báo tình cảm bạn bè xấu đi. Tính cách ương ngạnh của bạn thường dẫn tới những hậu quả không ngờ, bạn bè lần lượt rời xa trừ phi bạn thay đổi.
   Mơ thấy cho lợn ăn ám chỉ mặt hành vi gặp rắc rối, chỉ vì chút lơ đễnh mà mất một món tiền lớn.
   Mơ cưỡi ngựa và đua ngựa là điềm lành, ám chỉ những chuyện phiền não sắp được giải quyết, làm lành với bạn bè.
   Mơ thấy mình chăn bò ngụ ý mặt vận động có nhiều tin tức tốt. Nếu bạn là vận động viên thì sắp có cơ hội dành huy chương cao. 
   Mơ thấy cưỡi trên lưng lợn ám chỉ tình yêu thuận lợi, mặc dù tim đã có chủ nhưng đôi khi vẫn xuất hiện những cơn say năng bất ngờ bạn nên cẩn thận.
   Mơ thấy lợn con bú mẹ ngụ ý sức khoẻ gặp sóng gió.
   Lừa mang hình tượng nữ tính, nho nhã, thuần khiết. Mơ thấy lừa cho thấy bạn có một cuộc sống lành mạnh, không có nguy hiểm, hạnh phúc bình an hoặc mối quan hệ xã giao của bạn tương đối thuần khiết.
   Mơ thấy một bầy lừa ngụ ý cuộc sống của bạn bình an, hòa thuận.
   Mơ thấy lừa bị thợ săn hoặc động vật khác giết ngụ ý lý tính của bạn bị bản năng đe dọa.
   Mơ thấy giết lừa ngụ ý sắp bị đối thủ ép buộc.
   Mơ thấy lừa lao về phía bạn là bạn sắp được tài sản bất ngờ từ người thân.
   Mơ thấy nhiều con lừa đứng cùng nhau hoặc đang uống nước bên bờ sông ám chỉ tính cách bạn lương thiện nên được mọi người tín nhiệm, những hành vi đối phó hoặc làm tổn thương bạn đều sẽ tự nhiên mà biến mất nên bạn không cần lo lắng nhiều.
   Mơ thấy lừa cổ dài cho thấy mục tiêu của bạn khá cao và bạn không ngừng theo đuổi nó. Nếu công việc hoặc thành tích hiện tại của bạn không được lý tưởng thì bạn vẫn không ngừng nỗ lực.
   Mơ thấy cho lừa ăn biểu thị vận trình cảm tốt có nhiều đột phá như gặp được ý trung nhân, nếu bạn gặp người vừa ý thì đừng ngại ngần, hãy mạnh dạn bộc bạch thôi.


Mo thay gia suc ngu y nhieu viec se duoc nhu y muon hinh anh
Ảnh minh họa
  Mơ thấy lừa bị đánh chết ngụ ý bạn đề phòng không bị lừa lọc mất tiền bạc.
   Mơ thấy lừa bị mất là bạn sắp phải đau khổ.
   Mơ thấy có lừa trong nhà ngụ ý bạn sắp được thăng chức.
   Nữ giới mơ thấy con lừa nhỏ cho thấy khát vọng được quay về thời thơ ấu.
   Nữ giới đã kết hôn mơ thấy lừa cổ dài tượng trưng cho việc bạn là người hiền dịu, biết quan tâm người khác và bạn sẽ có một em bé khỏe mạnh.
   Nông dân mơ giết lừa là mùa vụ thất bát.
   Thương nhân mơ giết lừa cảnh báo chuyện làm ăn gặp thất bại.
   Nam giới mơ lừa cổ dài ngụ ý chí hướng cao xa, công việc có nhiều tiến triển, đạt thành tích ưu tú.
   Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy gia súc ngụ ý nhiều việc sẽ được như ý muốn

Chùa Trấn Quốc - Hà Nội

Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây - Hà Nội, chùa được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội (có lịch sử 1500 năm)
Chùa Trấn Quốc - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Trấn Quốc (鎭國寺) nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ) – Hà Nội, chùa được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long – Hà Nội (có lịch sử 1500 năm). Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang.

Chùa được xây dựng từ thời tiền nhà Lý Nam Đế (năm 541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng với tên gọi “Khai Quốc” (nghĩa là mở nước). Đến đời vua Lê Thái Tông (năm 1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc. Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngưu (cá vàng). Đến đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc Tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó.

Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc toạ lạc trên một hòn đảo duy nhất của một hồ nước ngọt lớn nhất ở Hà Nội. Vào thời Hai Bà Trưng (40 – 43), khu vực xung quanh Hồ Tây dân cư rất thưa thớt, có các hang động vừa và nhỏ và rừng cây bao phủ, trong rừng còn có cả một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Cùng trải qua thời gian hàng nghìn năm tồn tại của ngôi chùa, cảnh quan nơi đây bây giờ được đổi khác hoàn toàn. Bờ hồ có đường lớn bao quanh, những ngôi nhà biệt thự và công trình hiện đại hình thành… Một mặt thể hiện sự hoàn thiện tổng thể kiến trúc của thành phố, nhưng mặt khác vô tình phá vỡ cảnh quan lịch sử và tâm linh trong quan niệm sống của số dân cư bản địa.

Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工).

Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.

Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815. Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18).

Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: “Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp”.

Tháp mộ chùa
Tháp mộ trong chùa

Ngôi chùa cổ kính này hiện còn lưu giữ khá nhiều hiện vật có giá trị như bộ tượng thờ ở thượng điện. Đây là những pho tượng được tạo tác tỉ mỉ, trau chuốt và mang nét đẹp đặc trưng riêng. Đáng nói nhất là pho tượng Thích Ca nhập Niết bàn được đánh giá là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam.

Trong khuôn viên của chùa có cây bồ đề 50 năm tuổi do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 nhân chuyến thăm chính thức của Tổng thống tại Việt Nam.

Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc đó, chùa Trấn Quốc ngày nay không chỉ nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là điểm thu hút khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Trấn Quốc - Hà Nội

Tử vi tinh

Bài viết sưu tầm về sao Tử Vi. Mời các bạn cùng đọc và nghiên cứu.
Tử vi tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

KHÂM THIÊN GIÁM

Tử vi miếu ở ba cung Sửu, Ngọ, Mùi, không ưa hai cung Thìn Tuất.

Tử vi thuộc âm thổ, là Bắc Đẩu chủ tinh. Trong 14 chính diệu của Đẩu Số, nó là lãnh đạo của các sao, cho nên Cổ nhân gọi là “đế diệu”, ví với hoàng đế. Do ví với hoàng đế, nên Tử vi có đặc tính như sau:

1. Có khí quý phái, có tài lãnh đạo, có phong thái của người ra lệnh. Tài năng lãnh đạo có hoàn mĩ hay không? Mệnh lệnh có chính xác hay không? thì cần phải xem Tử vi ở cung vị nào, và hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính cát hung ra sao mới định được.

2. Có lực điều giải, tức là giỏi khống chế và làm thay đổi. Cho nên, Tử vi có thể kềm chế các sao hung hãn như Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, Hóa Kị. Nhưng lại không tránh được ảnh hưởng của ám tinh Cự môn. Bởi vì, hoàng đế tuy có thể nhiếp phục được quần thần, nhưng lại dễ thích nghe lời sàm tấu, Cự môn giống như nịnh thần hay sàm tấu, có thể gây ảnh hưởng đến sự biểu hiện thanh thế của Tử vi.

3. Có lực khắc chế, là nói đối với hai sao Thất sát và Phá quân. Phá quân giống như tướng soái ở ngoài trận địa, không nhận mệnh lệnh của quân vương, nhưng không có Thất sát thì làm sao tâu báo với Tử vi. Nhưng, "Tử vi Phá quân" đồng cung, cũng có thể biến lực phá hoại của Phá quân thành lực khai sáng.

4. Có lực cạnh tranh, đặc biệt đối thủ càng mạnh thì đấu trí của Tử vi càng mạnh. Nếu như hội hợp với các sao có sự trợ giúp cho lực cạnh tranh như Thiên phủ, Thiên tướng, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì Tử vi càng không dễ nhượng bộ, giống như bậc quân vương lấy xã tắc làm trọng.

5. Có lòng tự tôn, mà còn có tính cách mạnh mẽ, giống như hoàng đế nhất định phải giữ sự tôn nghiêm của bản thân. Cho nên, về tính cách thường có biểu hiện tự cao tự đại, thiện ác tùy tâm. Nếu Tử vi hội chiếu với sát tinh mà không có sao cát, thì dễ kích động theo kiểu: thương thì cho sống, ghét thì cho chết. Nhưng khi ở trong nghịch cảnh, Tử vi lại có thể giấu nỗi khổ trong lòng, không chịu biểu lộ.

Vì Tử vi là “đế diệu”, cho nên rất ưa trăm quan đứng chầu (bách quan triều củng), rất kị quân thần xa lánh (tại dã cô quân). Bách quan và quần thần, là chỉ các sao Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quan, Thiên quý, Lộc tồn, Thiên mã, Thiên khôi, Thiên việt. Tuy Tử vi cũng ưa Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, nhưng vẫn không bằng cách "Bách quan triều củng". Cho nên Tử vi đóng ở cung Mệnh, được "Bách quan triều củng" thì có thể đại phú đại quý. Còn được cách "Phủ Tướng triều viên" thì chỉ là cách cục không thấp, nếu chỉ mang đặc tính của Tử vi để phát huy mà thôi, thì chưa chắc có thể phú quý.

Nếu không có "trăm quan đứng chầu", mà là "quần thần xa lánh", giả dụ như ngay cả "Phủ Tướng triều viên" cũng không có được cách này, thế thì, giống như vị vua cô độc nơi hoang dã (tại dã cô quân). Lúc này Tử vi sẽ có biểu hiện xử sự thiếu hòa hợp, đây là do sự tôn quý của hoàng đế, vì vậy khác với tư tưởng của người thường.

Sao Tử vi ở trong tình cảnh "Tại dã cô quân", lại gặp Địa không, Địa Kiếp và tứ sát, thì chỉ thích hợp phát huy tư tưởng siêu thoát. Cho nên cổ nhân cho rằng trường hợp này thích hợp làm tăng nhân, đạo sĩ. Nhưng ở thời hiện đại, có thể phát triển thành nhân vật có tư tưởng đặc biệt. Nếu gặp được Tham lang, Thiên tài, hoặc Liêm trinh, thì có khả năng là nghệ thuật gia hoặc nhà thiết kế.

Nhưng nếu Tử vi trong hoàn cảnh "tại dã cô quân" lại gặp các sao Sát, sao Không, còn tương hội với Thái âm, thì trái lại, tư tưởng siêu thoát sẽ không phát huy. Do ảnh hưởng của Thái âm, sẽ biến thành người hý lộng thủ đoạn, thích giở mánh khóe.

Ngoại trừ tam phương tứ chính, Tử vi còn chịu ảnh hưởng của hai cung ở bên trái và bên phải, Tử vi rất ưa Tả phụ Hữu bật giáp cung, kế đến là Văn xương và Văn khúc giáp cung.

Nếu gặp phải Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hoặc Kình dương và Đà la giáp cung, thì Tử vi có khả năng trở thành bạo chúa, tức là phát huy toàn bộ tính chất xấu của Tử vi.

TỬ VI TINH BÍ CẤP

Tử vi độc tọa

Tử vi độc tọa, ở Tý không bằng ở Ngọ, bởi vì khi Tử vi ở Ngọ là nhập miếu, tài lãnh đạo và lực điều hòa chế hóa đều lớn hơn khi độc tọa ở Tý, vì vậy tài địa và tài phú cũng đều hơn hẳn.

Tử vi độc tọa, ngoài việc ưa “bách quan triều củng” ra, còn ưa Tả phụ, Hữu bật giáp cung mệnh, Văn xương, Văn khúc giáp cung mệnh, Lòng trì, Phượng các giáp cung mệnh, thảy đều làm tăng khí thế và giảm bớt vất vả cho Tử vi.

Nếu là “tại dã cô quân”, còn gặp các sao “Không”, như Thiên không, Địa không, thì thích hợp làm người truy tìm chân lý, thành nhân vật tôn giáo, cũng có thể trở thành nhân vật lãnh đạo. Gặp Hóa cái, tín ngưỡng tôn giáo càng sâu, hơn nữa còn thích tìm hiểu sự việc thần bí.

Tử vi độc tọa mà gặp đủ các sao Phụ, Tá, Sát, Hóa, thì cần phải xét xem các sao cát hung nhiều hay ít thế nào, sức mạnh của chúng ra sao, để định tốt xấu. Thông thường, phần lớn trường hợp đều chủ về có lý tưởng cao nhưng sức mạnh hành động không đủ, cần phải dùng Hậu thiên để bổ cứu cho những nỗ lực thực hiện lý tưởng của sao Tử vi.

Nếu như không có Cát tinh hội hợp mà chỉ gặp Sát tinh, thì dễ cảm thấy “có tài mà không gặp thời”, nên làm việc ở lĩnh vực kinh doanh thương mại. Chỉ cần Sát tinh nhập miếu, mà Sát tinh không nhiều, thì vẫn có thể hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại mà trở nên giầu có. Tốt nhất là được Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội hợp, dễ giầu có mà còn có địa vị trong xã hội, nhất là, càng dễ phát triển trong giới thương nghiệp. Nếu theo lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, thì trái lại, sẽ gặp nhiều trắc trở bất đắc chí.

Sát tinh nặng, thông thường đều chủ về bất hòa, tranh chấp thị phi. Nhất là gặp phải Kình dương lạc hãm, càng chủ về kiện tụng, hoặc phải phẫu thuật ngoại khoa.

Tử vi độc tọa, cũng ưa Hóa Quyền và Hóa Khoa. Khi Hóa Quyền có thể làm tăng năng lực lãnh đạo và sức cạnh tranh, khi Hóa Khoa thì có danh tiếng, hơn nữa, theo ngành nghiên cứu học thuật để dung hợp các thuyết mà sáng tạo ra cái mới; nhưng đều khiến cho mệnh tạo tăng mạnh tính chủ quan, khó tiếp thu ý kiến của người khác.

Trường hợp Tử vi chỉ gặp một hai sao Sát Kị, thì lại chủ về dễ nghe lời nói xấu, dèm pha, thị phi.

Phàm Tử vi độc tọa, cung đối diện ắt sẽ gặp Tham lang chủ về hiếu sắc, có thêm các sao đào hoa hội hợp thì càng nặng, nếu chỉ hội hợp với Thiên hình thì chủ về tự biết kềm chế, gặp Đà la cũng có thể tự kềm chế.

Trong đại hạn hoặc lưu niên, gặp Tử vi độc tọa tại cung Hạn, cần phải xét kỹ các sao hội hợp để định cát hung. Gặp Cát tinh thì chức vị thăng tiến, thương vụ phát triển, phúc lộc đều hậu hỷ; nếu gặp Hung tinh Địa không, Địa kiếp, sao Hao (Đại hao), thì chủ về kinh tế khó khăn hoặc phá tài; có Sát tinh tương hội chủ về bất hòa, tranh chấp, trong làm ăn dẫn tới đình trệ, trong chức vụ bị giáng chức hoặc bị truất phế.

Tử vi và Phá quân đồng cung

Tử vi ở Sửu hoặc Mùi luôn luôn có Phá quân đồng độ. Đây là kết cấu tinh hệ rất có lực khai sáng. Phá quân vốn là chiến tướng tiên phong, được Tử vi cầm cương điều khiển, lực phá hoại của Phá quân nhờ vậy mà được giảm thiểu, sức sáng tạo trái lại sẽ tăng. Tuy đời người không tránh được vất vả gian khổ, nhưng nhờ có tài lãnh đạo, có tính quyết đoán, nên cũng chủ về trải qua vất vả mà có thành tựu.

Nhưng, lúc Phá quân Hóa Quyền sẽ làm tăng tính chất biến động của Phá quân, vì vậy mà đời người càng thêm biến động thay đổi. Nếu có Tả phụ Hữu bật hội hợp, có thể giảm thiểu vất vả; nếu gặp tứ Sát, thì chỉ thích hợp làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, và cần phải chú ý tính chất sáng tạo cái mới trong kinh doanh.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, đồng thời với sự khai sáng là cơ hội kiếm tiền, khiến cho sinh hoạt vật chất được sung túc, để bù đắp những vất vả đã trải qua. Nhưng như vậy, đồng thời tình cảm cũng gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử, hơn nữa, sẽ khiến cho mệnh tạo thiên về hưởng thụ nhục dục. Bởi vì lúc này sẽ gặp Liêm trinh và Tham lang đồng độ ở Tị (hoặc ở Hợi), do hội với Phá quân Hóa Lộc mà phát huy tác dụng.

Bất kể Phá quân Hóa Quyền hay Hóa Lộc, cũng chủ về khiến cho mệnh tạo trở thành phú quý, nhưng nếu đồng thời hội hợp với các sao Sát Hình Kị, thì tuy giầu có sung túc, nhưng lại dễ chuốc điều tiếng thị phi. Gặp Kình dương, Thiên Hình, Hóa Kị, còn dễ vướng vào tranh chấp kiện tụng, thích hợp theo binh nghiệp hoặc ngành pháp luật.

Tinh hệ “Tử vi Phá quân” chủ về biến động, bởi vậy trong kinh doanh làm ăn, cần phải chú ý khi cơ hội đến bất ngờ, hơn nữa, có khả năng sẽ đồng thời kinh doanh hai ba lãnh vực có liên quan với nhau, hoặc cùng một thời điểm phải giải quyết hai ba việc. Nếu là nhân viên làm thuê, thì chủ về kiêm ngành, kiêm chức, hoặc làm tăng ca, nhưng nhất định sẽ một mình đảm trách công việc.

“Tử vi Phá quân” đóng ở cung mệnh, là người thẳng thắn, nhưng nếu gặp Hoa cái, thì thích hợp nghiên cứu tôn giáo hoặc triết học.

Có điều, do mệnh tạo hay lo toan nghĩ ngợi vì nhiều biến động thay đổi, lại xét thấy Thiên phủ ở cung Phúc đức chủ về lo toan chu đáo, nên khi gặp các sao Sát, sao Không, sẽ biểu hiện tính tự tư ích kỷ. Cổ nhân nói: "Tử vi Phá quân, làm tôi thần bất trung, làm con bất hiếu" (Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu), còn nói: "Tử vi Phá quân mà không có Tả Hữu đồng cung, là phường quan lại hung ác" (Tử Phá đồng cung vô Tả Hữu, vô cát diệu, hung ác tư lại chi đồ), tức là đã chỉ ra bản tính tự tư ích kỷ và khuynh hướng hay lo toan nghĩ ngợi của mệnh tạo. Nhưng chỉ cần có Cát tinh hội hợp, thì những tính cách không lành này sẽ giảm nhẹ, thậm chí tiêu trừ.

Đại hạn hoặc Lưu niên mà gặp “Tử vi Phá quân” đồng độ, chủ về "khứ cựu canh tân" (bỏ cũ để đổi mới). Được Cát tinh hội hợp, đương nhiên biến động sẽ cát lợi. Nếu gặp Sát tinh, thì nên suy nghĩ kỹ, không được vội vã thay đổi. Nếu Sát tinh và Cát tinh đều có, thì phải xem đến vận hạn sau có cát hay không để quyết định làm hay dừng.

Tử vi và Thiên phủ đồng cung

Hai sao Tử vi và Thiên phủ đồng độ ở Dần hoặc ở Thân. Sao Tử vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, tính thích hợp khai sáng. Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, tính lợi về bảo thủ. Cho nên khi hai chủ tinh gặp nhau, không những xung đột “một núi không thể có hai cọp”, mà tính chất còn kềm chế lẫn nhau, như vậy sẽ khó mà phát huy tác dụng. Thông thường, chỉ chủ về thanh cao, thậm chí có khả năng phát triển thành tự sùng bái mình. Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên theo sự nghiệp giáo dục, làm công chức cũng được, không nên theo nghiệp kinh doanh, nếu không, sẽ có phản ứng sai lầm, hành động không mạng lại hiệu quả tốt cho bản thân, thường đánh mất cơ hội, hoặc khéo quá mà thành vụng.

Khi “Tử vi Thiên phủ” đồng cung, nếu Tử vi Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa, thì vầng hào quang của Tử vi càng lớn, khí quý phái càng lớn. Nếu Thiên phủ Hóa Khoa thì chỉ có khuynh hướng giữ uy tín, xem trọng lời hứa, nhưng sẽ quá khiêm cung hiền lành, thiếu năng lực lãnh đạo và khai sáng mọi thứ từ thực tế.

Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên gặp cách “Lộc Mã giao trì” đến hội hợp, chủ về phú quý song toàn; kế đến là cách “Lộc văn củng mệnh”, tức có Lộc tồn hoặc Hóa lộc và Văn xương, Văn khúc hội hợp, cũng chủ về phú quý; kế đó nữa là các phụ diệu – tá diệu hội hợp và hội chiếu, chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Nếu các sao Phụ diệu, Tá diệu không hội hợp, mà có tứ Sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, trái lại, sẽ chủ về bên ngoài thì tỏ ra trung thành mà bên trong thì gian trá, phần nhiều hay tráo trở thị phi. Nếu gặp sao Không, hoặc Không vong, là người tầm thường, cô độc, kiếm sống qua ngày.

Nữ mệnh có “Tử vi Thiên phủ”, nếu Tham lang của cung Phúc đức hội hợp với các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Thiên diêu, Hàm trì, thì rất nên xem trọng sinh hoạt tình cảm. Nếu cung Mệnh có các sao Sát Hình tụ tập, thì có thể làm kế thất, hoặc do quá tự sùng bái mình mà suốt đời không kết hôn.

Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên gặp “Tử vi Thiên phủ” thì cát lợi hơn so với gặp ở cung mệnh nguyên cục, chủ về được quý nhân trợ lực, dễ phát đột ngột. Nếu gặp Thiên khôi, Thiên việt, hoặc lưu Khôi, lưu Việt thì nhờ có thay đổi mệnh lệnh, hoặc nơi làm việc thay đổi chính sách cũng phất lên đột ngột. Trong làm ăn phần nhiều không cầu mà bỗng nhiên gặp may.

Tử vi và Tham lang đồng cung

“Tử vi Tham lang” đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu, cổ nhân gọi cách này là “”Đào hoa phạm chủ”, cho rằng chủ về dâm loạn. Cho nên gặp tinh hệ “Tử vi Tham lang” đồng cung, rất kỵ gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Thiên diêu, Mộc dục, nếu không, chủ về bản thân dễ mất kềm chế không tự chủ được trước sức hấp dẫn của người khác giới. Nếu gặp thêm Sát tinh sẽ gặp họa vì sắc đẹp. Cho dù không gặp Sát tinh cũng vẫn bị ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp.

Nếu Tử vi Hóa Quyền, được “bách quan triều củng”, giống như thiên tử phong lưu ở thời thái bình, chủ về phú quý đa tình. Tử vi Hóa Khoa gặp Cát tinh tuy có danh tiếng, nhưng vẫn thiên nặng về nhục dục và ham muốn vật chất.

Nếu Tham lang Hóa Lộc, chủ về giao tế thù tạc nhiều, thiên nặng về ham muốn vật chất, nhưng lại có tài vận hanh thông. Tham lang Hóa Quyền, ham muốn vật chất cũng nặng, nhưng phải trải qua cạnh tranh mới có được thành tựu. Tham lang Hóa Kị, tuy giảm sắc thái đào hoa, nhưng tài năng và tài nghệ lại rất khó phát huy và phát triển, những ham muốn vật chất khó toại nguyện.

Tử vi đồng độ với Tham lang, ưa gặp Tả phụ, Hữu bật đồng cung, mà không ưa Văn xương, Văn khúc. Nếu gặp Văn xương Văn khúc đồng cung, thì khuynh hướng hấp dẫn người khác giới càng lớn, đồng thời còn chú trọng trang điểm trải chuốt về biểu hiện hình thức bề ngoài hoàn mỹ, cho nên hành sự “giả nhiều mà thực ít”. Nếu gặp Tả phụ và Văn xương, hoặc Hữu bật và Văn khúc giáp cung Mệnh, thì trái lại, sẽ dễ phát huy tài chí, sự nghiệp có thành tựu. Cổ nhân nói: “Tả Hữu Xương Khúc giáp chế”, theo bí truyền của Trung Châu phái, đây là cách nói “giao thoa nhau mà giáp cung mệnh”, bởi vì tinh hệ “Tử vi Tham lang” vĩnh viễn không có khả năng “Tả Hữu giáp mệnh”.

“Tử vi Tham lang” mà gặp Sát tinh, chỉ nên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng Sát tinh nặng cũng có thị phi, tranh chấp. Nếu lại gặp sao Không và Hoa cái, trái lại, sẽ sinh nhai bằng nghiệp hoạt động tôn giáo.

Nữ mệnh có “Tử vi Tham lang”, gặp đào hoa và Sát tinh, dễ rơi vào chốn phong trần. Kị nhất là gặp sao Kình dương, khi các sao đào hoa tụ tập, thì nguy cơ rơi vào chốn phong trần càng lớn, đồng thời cũng vì vậy mà ham muốn vật chất có khuynh hướng trụy lạc. Khi cung mệnh an tại Dậu, phải mượn tinh hệ “Tử vi Tham lang” ở Mão để an cung, thì càng cần phải chú ý.

Cung mệnh của lưu niên, hoặc cung mệnh của đại hạn mà gặp tinh hệ Tử vi Tham lang, tính chất đào hoa sẽ nhẹ hơn khi gặp ở cung mệnh nguyên cục. Thông thường, nếu hội hợp với các Cát tinh chủ về ít có sự biến động thay đổi nhưng lại khó tiến bộ, nếu hội hợp với các Sát tinh mà không gặp các sao Hình Kị thì lại có thể tiến bộ. Còn khi các Sát tinh hội tụ lại gặp thêm các sao Hình Kị, chủ về vì sắc mà phá tài, chuốc họa, hoặc vì thù tạc mà chuốc điều tiếng thị phi.

Tử vi và Thiên tướng đồng cung

“Tử vi Thiên tướng” đồng độ ở Thìn hoặc ở Tuất, biết rằng Tử vi là đế diệu, Thiên tướng là sao “ấn”, thoạt nhìn có vẻ là một kết cấu rất lý tưởng, nhưng khi hai sao này đồng cung, thì lại vì Phá quân ở cung đối diện xung chiếu mà thay đổi tính chất. Đây là một ví dụ, mà Trung Châu phái xem trọng đặc tính của toàn bộ kết cấu các tinh hệ trong mệnh bàn.

Tinh hệ “Tử vi Thiên tướng” rất ưa được Lộc tồn hội chiếu, có thể giầu có, nhưng thành kiến chủ quan cực nặng, mà còn thích tranh quyền, nên dễ bị nhiều người không chấp nhận mà gây áp lực chèn ép, nặng hơn còn bị loại bỏ. Nếu không có Lộc tồn và Tử vi Hóa Quyền, thì tính thích tranh quyền càng diễn biến kịch liệt; nếu không có Lộc tồn mà Tử vi Hóa Khoa, tính thích tranh quyền tuy có giảm, nhưng lòng tự tôn và trọng danh dự càng nặng nề, dễ bị người ta úy kị.

Nếu tinh hệ “Tử vi Tham lang” không gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì tinh hệ này ưa được “bách quan triều củng”, không ưa các sao Sát Kị hội hợp. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, thì sự nghiệp có thể thành tựu, tính tình ôn hòa nhân hậu chủ về kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo. Nhưng vì ảnh hưởng của Phá quân ở cung đối diện xung chiếu, nên trong đời người ắt phải trải qua một lần sóng gió, trắc trở.

Nếu không gặp Cát tinh, mà có tứ Sát hội hợp, thì lấy trường hợp Kình dương, Đà la là khá tốt, thích hợp hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Nếu gặp Hỏa tinh Linh tinh, do Tử vi phải hao phí sức lực hóa giải nên tăng thêm vất vả, gian khổ. Giả dụ như gặp Hỏa tinh, Linh tinh, mà còn gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên Hình, chủ về gặp bất hạnh, tinh thần bị kích thích mạnh, hoặc mắc bệnh tim. Phàm tinh hệ Tử vi Thiên tướng thủ mệnh, dù không gặp Sát tinh, cũng nên chú ý sức khỏe tim mạch, nên chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Nếu có nhiều Sát tinh hội hợp, chủ về phát triển một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng, có những ứng xử biểu hiện vô tình vô nghĩa. Nếu có thêm Cát tinh tương hội, chủ về đời người trải qua nhiều sóng gió trắc trở, cuộc đời có bước ngoặt đặc biệt, hoặc gặp bất hạnh bất ngờ. Nhưng trong ngẫu nhiên vô tình vẫn có biểu hiện vô tình lạnh nhạt.

Nữ mệnh gặp tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cần chú ý quan tâm đến sinh hoạt tình cảm, đồng thời phải lưu ý đến đặc tính “vô tình vô nghĩa” của tinh hệ này mà biết tự mình kềm chế bản thân, thì mới được hưởng cuộc sống an lành, tuy nhiên trong tình yêu ắt khó tránh được cảnh sóng to gió lớn.

Cung mệnh của lưu niên, hoặc cung mệnh của đại hạn có tinh hệ Tử vi Thiên thướng, nếu gặp các sao Sát Kị, ắt sẽ bị nhiều trở ngại rồi sinh lòng thay đổi, như mong muốn thay đổi việc làm nhưng lại không được. Gặp Cát tinh thì vận hạn thuận lợi toại ý, sự nghiệp có thành tựu.

Tử vi và Thất sát đồng cung

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa, còn có tư tưởng độc đáo.

Thông thường, tinh hệ “Tử vi Thất sát” có thể xem là tượng trưng cho quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực quá cao, có biểu hiện “khí bá đạo”, khiến cho cộng đồng làm việc xa gần rất khó chấp nhận.

Tinh hệ “Tử vi Thất sát” rất cần các Cát tinh hội chiếu. Như có Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi là “hóa sát làm quyền” của cách cục này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như “anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp”, khó tránh khỏi có những biểu hiện “tàn nhẫn bá đạo”, chủ về phát triển lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng.

Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được “hình thương, khắc hại”.

Nữ mệnh gặp tinh hệ “Tử vi Thất sát”, nếu gặp Sát tinh, tuy có cơ hội thay đổi nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải chấp nhận trải qua sự biến động thay đổi, thì mới có được ích lợi.

Sao Tử vi - Toàn thư

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tử vi là âm thổ, là Bắc Đẩu Đế tọa, trung tâm của các vì sao, hóa khí là tôn quý chủ cung Quan lộc. Tại số chuyên quản về chức tước và bổng lộc, có khả năng giải ách (tiêu trừ tai ách, biến hung thành cát), kéo dài tuổi thọ (nếu vận hạn gặp được Tử vi thì có thể duy trì được bình an, tăng thêm độ tốt lành), có khả năng chế hóa (có khả năng chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh), có sức mạnh bao dung che chở, xuất hiện tại cung nào cũng có khả năng tạo phúc trừ tai, tiêu trừ mọi hung hại.

Tử vi tuy là sao Đế Tọa địa vị tôn quý, nhưng lại không nên đứng một mình chẳng khác gì vị vua cô độc trên ngai vàng, thiếu tôi hiền trợ giúp dễ trở nên độc đoán chuyên quyền, khiến gian thần tiểu nhân thừa cơ, kẻ dưới phạm thượng, nên khó phát huy được uy lực mà dễ suy yếu, có tài năng nhưng không có đất dụng võ, hay dùng kiến giải nghiệp dư để chỉ đạo người chuyên nghiệp.

Tử vi ưa Tả phụ Hữu bật phò tá, gặp Thiên tướng, Văn xương, Vũ khúc tùy tùng, gặp Thiên khôi Thiên việt truyền lệnh, gặp Thái dương Thái âm phân chức, gặp Lộc tồn Thiên mã để quản tước vị, gặp Thiên phủ cai quản kho tàng. Nếu được những Cát tinh trên đồng cung, hoặc nằm tại cung tam phương tứ chính ứng chiếu lẫn nhau, sẽ tạo thành cách Quần thần khánh hội là cách rất tốt. Uy lực của Tử vi có thể khắc chế Hỏa tinh Linh tinh thành thiện, có thể giáng Thất sát làm quyền. Khi Tử vi gặp hung tinh, tuy hóa cát nhưng vô đạo.

Sao Tử vi (cực) nằm tại cung Ly (ngọ), không bị sát tinh xung phá là cách Cực hướng Ly minh địa vị phú quý đến hàng công khanh. Hai sao đế là Tử vi và Thiên phủ nếu đồng cung, hoặc tại cung đối nhau chầu về cung Mệnh là cách Tử Phủ đồng cung chủ về một đời giầu có. Nếu Tử vi hoặc Thiên phủ miếu vượng nằm tại cung Mệnh, tam phương tứ chính lại gặp cát tinh là cách Tử Phủ triều viên tước lộc dồi dào.

Ca quyết:

Tử vi nguyên thuộc thổ, Quan lộc cung chủ tinh

Hữu tướng vi hữu dụng, vô tướng vi cô quân

Chư cung giai giáng phúc, ngộ hung phúc tự thân

Văn xương phát khoa giáp, Văn khúc thụ hoàng ân

Tăng đạo hữu sư hiệu, khoái lạc độ xuân thu

Chúng tinh giai củng chiếu, vi lai hiệp công bình

Nữ nhân hội Đế tọa, ngộ cát sự quý nhân

Nhược dữ đào hoa hội, phiêu lãng lạc phong trần

Kình dương Hỏa Linh tụ, thử thiết cẩu thâu quân

Tam phương hữu cát củng, phương tác quý nhân bình

Nhược hoàn vô Phụ Bật, chư ác cộng khí lăng

Đế vi vô đạo chủ, khảo cứu yếu chi nhân.

SAO TỬ VI TỌA THỦ CUNG MỆNH

Dung mạo và tính cách

Người có sao Tử vi tọa thủ tại cung Mệnh, thường có sắc mặt mầu vàng tía, người to béo, tướng mại hiền hậu điềm đạm, ánh mắt trong và sáng. Mệnh nam thì vai rộng lưng dày, rắn rỏi uy nghiêm; mệnh nữ thì đôn hậu thanh tú, phúng phính đãy đà, khoan thai quý phái.

Tính cách liêm chính ngay thẳng, trung hậu thật thà, bên ngoài cứng rắn bên trong yếu mềm, có lòng tự trọng tự ái, tâm địa lương thiện, có lòng nhân hậu hay nghĩ cho người khác, có khí chất tôn quý, có tính kiêu ngạo, thích phân minh rõ ràng. Có tinh thần trách nhiệm, thích hư vinh, đa nghi, thiếu chủ kiến, tự tin giỏi biện luận lại thường hiếu thắng, tâm địa khá hẹp hòi, thích chiếm hữu, dễ làm việc theo cảm tính tùy thuộc vào mong muốn bản thân. thường tự cảm thấy tủi thân mà dễ tự tìm đến phiền muộn. Thông minh học rộng, năng lực quản lý tài chính giỏi, có khả năng lãnh đạo. Làm việc chăm chỉ, nhiệt tình thích cầu toàn.

Nữ giới có sao Tử vi nhập vào cung Mệnh, ngoài có tiền đồ còn có dung mạo xinh đẹp, da dẻ mịn màng, khí thái đoan trang, được giáo dục tốt, là mẫu người phụ nữ vợ đảm mẹ hiền điển hình. Đa phần có được người bạn đời có địa vị cao trong xã hội, hưởng cuộc sống hành phúc về cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu gặp thêm cát tinh là người vợ giúp chồng, nuôi con giỏi.

Suy đoán mệnh lý

Tử vi + 3

Thất sát = 0

Tử vi + 4

Tử vi + 4

Phá quân + 3

Tử vi + 3

Thiên phủ + 2

Tử vi + 2

Thiên tướng + 2

   

Tử vi + 3

Tham lang + 1

Tử vi + 3

Tham lang + 1

   

Tử vi + 2

Thiên tướng + 2

Tử vi + 3

Thiên phủ + 4

Tử vi + 4

Phá quân + 3

Tử vi = 0

Tử vi + 3

Thất sát = 0

Độ sáng của sao Tử vi tọa thủ 12 cung

Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên phủ.

Mối quan hệ của chúng như sau:

- Miếu = + 4

- Vượng = + 3

- Địa = + 2

- Lợi = + 1

- Bình hòa = 0

- Không đắc địa = - 1

- Hãm địa = - 2

Sao Tử vi tuy là Đế tọa phú quý, có khí thể độc tôn, quyền uy cao ngất, là chúa tể của các sao, nhưng khi tọa thủ tại cung Mệnh thì không nhất định là thể hiện phú quý vinh hoa, còn phải xem xét cát - hung của các sao trong cung và các cung bên cạnh, cung đối diện, và cung tam phương hội hợp với cung này.

Sao Tử vi không thích hợp tọa thủ một mình. Khi Tử vi đơn thủ độc tọa một mình, thì cũng giống như vị vua đơn độc không có hiền thần phò tá, lại làm việc không có chủ kiến, thường bó buộc trong vỏ bọc tôn quý, dễ bị gian thần tiểu nhân làm hại, dễ độc đoán chuyên quyền, về tinh thần không tránh khỏi cô độc, nếu không biết biến thông thì khó tránh khỏi gặp trở ngại tai ương.

Người có sao Tử vi tọa thủ ở cung Mệnh, thích người khác tiếp thu ý kiến của bản thân, thích ra lệnh, thường đưa ra kiến nghị cho người khác, dễ có hiềm khích. Do sao Tử vi có khuynh hướng duy trì địa vị tôn quý của mình, luôn hy vọng được người khác tôn trọng và thừa nhận, vì vậy tính tình thường kiên định, đòi hỏi cái "tôi" khá cao, làm bất cứ việc gì đều rất nghiêm túc, có khả năng cải tiến đi lên, đồng thời có tính cầu toàn, thích thể hiện phô diễn mặt tốt đẹp của bản thân ra ngoài, luôn hy vọng vào khả năng nỗ lực trong tương lai của những người xung quanh, để thể hiện vai trò vị chúa tể, nên thường tự độc tôn quyền uy ở một phương diện nào đó. Sau khi thành danh, tất tiếp tục khẳng định cái "tôi", nếu chuyên về tri thức hoặc kỹ thuật đặc thù, lấy hiện trạng đột phá, đồng thời biết tiếp thu ý kiến của bạn bè, duy trì bản năng có lòng hiếu kỳ với bất kỳ sự việc nào, tất có vận may được hiển đạt lớn, nếu không, sẽ dễ đi theo khuynh hướng hư danh.

Sao Tử vi hợp nhất khi có thêm 6 cát tinh phò tá, cũng hợp với cát tinh như Thiên phủ, Thiên tướng, Thái dương, Thái âm, Lộc tồn, Thiên mã, hoặc gặp được sự hỗ trợ trong cùng một cung, như vậy mới có thể phát huy được uy lực chân chính của Đế tinh.

Suy đoán cát - hung của sao Tử vi tọa thủ cung Mệnh, cũng phải đồng thời xem xét Tam thai, nếu cung vị của sao Tử vi là "trung thai", thì trước nó một cung là "thượng thai", sau nó một cung là "hạ thai". Các sao Tham thai đều là Cát tinh của miếu, vượng, thì mọi việc hanh thông. Nếu các sao của Tam thai đều là Hung tinh rơi vào thế hãm địa thì mọi việc không như ý.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi tinh

Gương trong nhà bếp tạo sự sung túc

Gương là vật có năng lượng rất mạnh. Sự phản xạ các tia sáng và hiển thị hình ảnh khiến gương ngẫu nhiên trở thành vật
Gương trong nhà bếp tạo sự sung túc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"hội tụ năng lượng".

Gương trong nhà bếp tạo sự sung túc

Theo quan niệm phong thủy, gương sẽ tạo nguồn năng lượng gấp bội. Đặt gương ở vị trí có thể phản chiếu đồ ăn, đồ uống, quầy thu, kho hàng... khiến thực phẩm trong nhà dồi dào, việc làm ăn phát đạt. Nếu đặt gương ở những khu vực làm việc thì tất ảnh hưởng đến hiệu suất công việc... Tương tự, khi treo gương trong nhà bếp cũng sẽ có những tác dụng nhất định.

Vị trí lý tưởng nhất là phía sau nơi đặt bếp nấu, dựa vào tường hoặc treo ở phía trên bếp. Nếu bạn không nhìn thấy cửa bếp khi đứng ở vị trí nấu nướng, cần phải đặt gương dựa vào mảng tường bếp hoặc ở bất kỳ vị trí nào trong phòng. Tại vị trí này, bạn có thể dễ dàng quan sát người ra vào bếp. Phong thủy tối kỵ nhất là người ngụ trong phòng không thể biết được người ra vào căn phòng đó. Chính vì thế, 1 chiếc gương treo nơi nhà bếp là giải pháp hữu hiệu.

Trong trường hợp có 2 cánh cửa ra vào nhà bếp, hãy đặt gương ở vị trí chiếu thẳng vào cánh cửa được xem là "chính" hơn. Đó là nơi mà mọi người sẽ bước vào sau khi qua cửa chính của ngôi nhà.

Giải pháp khác cho bạn để tạo sự thịnh vượng trong cuộc sống là đặt 1 vật có khả năng phát quang (chiếu sáng) gần bếp nấu. Có thể là bình trà sáng bóng. Khi đó, hình ảnh bếp nấu sẽ được nhân đôi. Cảm giác "nhân đôi" bếp lò (nơi được coi là sự sung túc của căn nhà) sẽ giúp bạn có được cuộc sống đầy đủ, viên mãn.

(Tổng hợp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gương trong nhà bếp tạo sự sung túc

10 sự thật về ngày 30/2 đã được nghiên cứu và công nhận

Ngày mai là ngày 30/2, một ngày vô cùng đặc biệt với không chỉ giới khoa học và còn với cả giới trẻ.
10 sự thật về ngày 30/2 đã được nghiên cứu và công nhận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày mai là ngày 30/2, một ngày vô cùng đặc biệt với không chỉ giới khoa học và còn với cả giới trẻ, những kế hoạch trọng đại của cuộc đời sẽ thành công nếu bạn thực hiện trong ngày này. ## chúc bạn thành công!

 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 2
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 3
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 4
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 5
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 6
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 7
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 8
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 9
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 10
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 11
 
10 su that hien nhien ve ngay 302 da duoc khoa hoc nghien cuu va cong nhan hinh anh goc 12
 

=> Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Khánh An
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 sự thật về ngày 30/2 đã được nghiên cứu và công nhận

Sao Hóa Khoa

Tính: Âm Hành: Thủy Loại: Văn Tinh, Phúc Tinh Đặc Tính: Khoa giáp, hiển vinh, từ thiện, nhân hậu, cứu giải về bệnh tật, tai họa Tên...
Sao Hóa Khoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính: ÂmHành: ThủyLoại: Văn Tinh, Phúc TinhĐặc Tính: Khoa giáp, hiển vinh, từ thiện, nhân hậu, cứu giải về bệnh tật, tai họaTên gọi tắt thường gặp: Khoa
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.

Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Các Cung
Hóa Khoa là cát tinh. Được đi liền với các văn tinh thì hiển đạt về học vấn, giải nguy. Do đó, đóng ở bất luận cung nào, Hóa Khoa cũng có hai tác dụng nói trên.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Hóa Khoa là văn tinh, chủ về khoa bảng, học vấn, nên người có Hóa Khoa thủ Mệnh vẻ mặt thanh tú, khôi ngô, trung hậu.
Tính Tình
Vì Hóa Khoa là sao khoa giáp, học vấn đồng thời cũng là nết hạnh cho nên có nhiều ý nghĩa sâu sắc về hai phương diện này.

  • Thông minh, hiếu học.
  • Hay tìm tòi, hiếu kỳ, tự học.
  • Dễ đỗ đạt, có khoa bảng cao, học rộng, biết nhiều.
  • Có năng tài suy luận, nghiên cứu, giáo khoa.
  • Tính nhân hậu, từ thiện, nết tốt, hạnh kiểm tốt.
Tóm lại, về mặt tính tình, Hóa Khoa là sao "có Học, có Hạnh", vừa có tài, vừa có đức.
Công Danh Tài Lộc
Người có Hóa Khoa thủ Mệnh thì:
  • Có quan chức, có danh thơm tiếng tốt.
  • Có văn tài xuất chúng, đặc biệt là tài mô phạm, khả năng giáo khoa, năng khiếu lý thuyết gia.
  • Thường có nghề văn hóa (dạy học, khảo cứu, viết văn). Đây là sao của các văn sĩ, giáo sư, lý thuyết gia. Càng đi chung với các sao khoa bảng khác như Khôi, Việt, Xương, Khúc, Nhật, Nguyệt sáng sủa thì tài năng đó có thể đến hệ cấp quốc tế: đó là những nhà bác học, triết gia, văn hào lừng lẫy.
  • Nếu gặp sát tinh thì điều đó chỉ có ý nghĩa như không đỗ đạt cao hay chậm khoa bảng, chớ không làm mất đi tư chất thông minh, năng tài văn hóa, khả năng lý thuyết.
  • Nếu Hóa Khoa đi liền với văn tinh thì hiển đạt, đi liền với quý tinh thì có danh, đi liền với tài tinh thì có lộc ngoài đời nhiều hơn. Chính vì thế nên Hóa Khoa rất tốt nếu đóng ở cung Phúc, Mệnh, Thân, Quan. Ở các cung khác, sẽ không có ý nghĩa khoa bảng cho mình.
Phúc Thọ Tai Họa
Hóa Khoa là phúc tinh. Trong sách vở cho Hóa Khoa là Đệ nhất Giải Thần, có hiệu lực cứu giải một số lớn tai ương bệnh tật. Do đó, bộ phận cơ thể nào bị hình thương mà có Hóa Khoa đi kèm thì bệnh tật nhẹ đi, có thể chữa trị được.
Về điểm này, Hóa Khoa có giá trị như sác sao Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc...
Chẳng những cứu giải được bệnh tật, Hóa Khoa còn có khả năng chế ngự được sát tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh ...). sách vở không nói rõ Hóa Khoa có thể chế ngự bao nhiêu sát tinh hay loại sát tinh nào, nhưng thiết tưởng vấn đề này còn tùy thuộc sự tốt xấu của Mệnh, Thân, Phúc.
Vì có hiệu lực cứu giải như vậy cho nên Hóa Khoa không có vị trí nào hãm địa, Nhưng ý nghĩa này không tuyệt đối vì Hóa Khoa thuộc hành Thủy chắc chắn sẽ khắc tại các cung Hỏa. Ở những vị trí đó, có thể Hóa Khoa kém sinh lực nhất.
Đặc biệt Hóa Khoa đi liền với Hóa Quyền và Hóa Lộc phối chiếu vào cung Mệnh, Thân thì khả năng cứu giải càng được gia tăng gấp bội. Đây gọi là cách "Tam Hóa Liên Châu". Được cách này, những sự may mắn sẽ đến liên tiếp, miễn là không gặp sát tinh hay âm tinh đi kèm.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ danh giá, có tiếng.
  • Hóa Khoa, Thiên Khôi thì cha mẹ giàu có lớn.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Phúc Đức
  • Được hưởng phúc đức, tăng tuổi thọ, lợi ích về thi cử. tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có người đỗ đạt cao.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Điền Trạch
  • Nhà đất rộng rãi. Gia tăng sự tốt đẹp về việc mưu cầu nhà cửa, địa ốc.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh tốt, có danh chức, danh giá, dễ có bằng cấp, thi đỗ.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp được quý nhân giúp đỡ, danh giá.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Tật Ách
  • Có khả năng giải trừ được bệnh tật, gặp thầy thuốc hay.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Tài Bạch
  • Gia tăng sự thuận lợi về việc mưu cầu tiền bạc, gặp may, có quý nhân giúp đỡ.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Tử Tức
  • Con cái hiếu thảo, thuận hòa, nhân hậu.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có tài hoặc con nhà danh giá.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em hòa thuận, có người làm nên danh phận.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hóa Khoa

Những nàng giáp không thích nội trợ

Có lẽ câu nói “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” không phù hợp với những cô nàng tuổi Ngọ, Thân và Dậu cho lắm. Bởi họ không thích làm những công việc vụn vặt
Những nàng giáp không thích nội trợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trong nhà.


1. Cô nàng tuổi Ngọ

 
Hoạt bát, nhiệt tình và thích bay nhảy là những đặc điểm thường thấy ở người tuổi Ngọ. Với họ, kết hôn chính là chốn trở về của tình cảm. Khi đã xác định nâng khăn sửa túi cho ai đó, chứng tỏ họ đã hạ quyết tâm hi sinh tự do cá nhân để có được trải nghiệm hoàn toàn mới về đời sống gia đình. 
 
Nhung nang giap khong thich noi tro hinh anh
Ảnh minh họa

Người tuổi Ngọ rất ghét làm việc nhà, làm việc gì cũng chỉ để ý đến thời gian mà không quan tâm tới chất lượng. Chẳng hạn, nấu cơm chín là được còn ngon hay không là điều không quan trọng. Nếu lấy được người chồng chiều chuộng mình, lâu dần khả năng nội trợ của họ giảm sút rõ rệt, thậm chí còn lười động chân động tay, không làm bất cứ việc nhà nào dù là đơn giản nhất.
2. Cô nàng tuổi Thân
 
Khi còn độc thân, người tuổi Thân khá ham chơi và hầu như không chú ý tới việc dọn dẹp nhà cửa hay nấu nướng. Số lần họ đích thân vào bếp nấu nướng trong một tuần chắc có thể đếm trên đầu ngón tay.
 
Nhung nang giap khong thich noi tro hinh anh 2
Ảnh minh họa

Đối với họ, cuộc sống sau hôn nhân quả thật khá khó khăn. Kiên nhẫn làm việc nhà, nấu ăn, chăm con…còn khó hơn lên trờ. Họ là những cô gái tân tiến, thích ra ngoài thể hiện tài năng chứ không chịu ru rú ở nhà để làm nội trợ.
 
3. Cô nàng tuổi Dậu
 
Người tuổi Dậu có cá tính mạnh mẽ, kiêu ngạo, giỏi đối đáp và sau này có xu hướng điều hành những việc trọng đại trong gia đình, vai trò đó vốn dĩ thuộc về chồng. Tất nhiên, khi đã quản lí việc to lớn, họ sẽ không động chạm tới những việc cỏn con, lặt vặt như quét dọn nhà cửa, nấu nướng, giặt giũ quần áo…
 
Nhung nang giap khong thich noi tro hinh anh 3
Ảnh minh họa

Dù cuộc sống của họ không sang chảnh tới mức được sống trong ngọc ngà, nhưng chí ít cũng đạt tới độ có người hầu hạ, cơm bưng nước rót tận tay. Họ thích được mọi người nuông chiều nhưng lại không biết quan tâm tới bất cứ ai.

► Mời các bạn: Xem bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

ST
     
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nàng giáp không thích nội trợ

4 điều kiêng kị khi treo đồng hồ trong gia đình theo phong thủy

Đồng hồ là một vật vô cùng thân thiết trong cuộc sống hàng ngày, nếu biết cách đặt đồng hồ đúng phong thủy sẽ đem lại vận may đến cho cả gia đình. Còn nếu không biết cách treo đồng hồ đúng phong thuỷ thì sẽ mang lại những rắc rối cho gia chủ. Dưới đây là một số lưu ý khi treo đồng hồ trong phòng khách.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Đồng hồ không treo trên ghế sofa

Trong phòng khách thường có ghế sofa, chúng ta không nên treo đồng hồ ở trên ghế sofa, như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt tới người ngồi trên ghế, đặc biệt là về sức khỏe.

2. Kiêng kị treo đối diện cửa chính

Phòng khách thường là phòng chính ngay khi bước qua cửa ra vào. Do vậy khi treo đồng hồ, kiêng kị treo đối diện cửa chính, kể cả các cửa khác trong nhà cũng không nên treo đồng hồ đối diện, bởi vì những nơi này có sát khí truyền tới, còn đồng hồ có tác dụng đấu sát. Hai vật này gặp nhau sẽ khiến cho nhà cửa không yên. Nên đặt đồng hồ ở một bên cửa sẽ tránh được kiêng kị khi treo đồng hồ.

3. Tránh để mặt đồng hồ quay vào trong nhà

Đồng hồ có thể khiến cho không khí trong phòng lưu động, khiến cho cả phòng tràn đầy sức sống. Do vậy, cần đặt đồng hồ hướng về phía ban công là tốt nhất. Nếu như trong phòng không có người, đồng hồ có thể kéo đi những luồng khí tĩnh và đem lại những luồng khí may mắn. Đồng hồ không nên quay mặt vào trong nhà.


4. Không nên treo ở phía Bạch Hổ và Huyền Vũ

Đồng hồ có thể đặt phương Chu Tước (phía trước), Thanh Long (bên trái), những nơi này được coi là phía may mắn.

Không nên treo đồng hồ ở phía Bạch Hổ (bên phải), Huyền Vũ (phía sau) bởi vì phía này thích tĩnh không thích động, mà đồng hồ lại chuyển động không ngừng.

Ngoài ra, nên tránh treo đồng hồ hướng vào những thứ giống hình dáng của nó hoặc hình Bát quái, cách bài trí như vậy sẽ khiến tinh thần của chủ nhà dễ bị bực bội và ức chế. Nếu như tránh được những điều cấm kỵ treo đồng hồ trong phòng khách này thì gia chủ sẽ nhận được nhiều may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 điều kiêng kị khi treo đồng hồ trong gia đình theo phong thủy

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Tiết Xuân Phân là gì?

Tiết Xuân Phân là 1 trong 24 tiết khí trong năm, đánh dấu thời điểm bước vào nắng xuân ấm áp, thời tiết thực sự chuyển giao, vạn vật nảy nở sinh động.
Tiết Xuân Phân là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tiet Xuan Phan la gi hinh anh 2
 
Tiết Xuân Phân bắt đầu từ 20 (hoặc 21) tháng 3 kéo dài tới 4 (hoặc 5) tháng 4. Hàng năm, Mặt Trời tới điểm xuân phân là Thiên Xích Đạo (thời điểm Mặt Trời gần Xích Đạo nhất).  Lúc này, ngày đêm bằng nhau, là chính giữa mùa xuân tươi đẹp. 
  Ngày Xuân Phân ánh Mặt Trời bắn thẳng đến Xích Đạo nên độ dài ngày và đêm bằng nhau, sau đó, Mặt Trời dần lui về Bắc nên ngày dài đêm ngắn. Xuân Phân không chỉ có ý nghĩa quan trọng về chiêm tinh học, nông học mà còn ảnh hưởng tới tử vi học. Người xưa dựa vào các tiết khí để đoán vận mệnh và đưa ra những việc nên làm, không nên làm, cầu con, cầu phúc khác nhau.   Infographic: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm
Tiết khí là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°. Tiết khí được sử dụng trong công tác lập

Xuân Phân cây cối muông thú đều tốt tươi và sinh sản, đánh dấu bằng tiếng sấm mùa xuân và những trận mưa xuân tưới đẫm đồng ruộng. Nhiệt độ không khí tăng lên và ổn định, xua tan giá lạnh. Người xưa có câu “Xuân phân mạch thức dậy, một khắc giá ngàn vàng”, ý đây là thời điểm tốt nhất để gieo trồng và chuẩn bị mùa vụ. 
  Trong tiết Xuân Phân, hoạt động tâm klinh và lễ nghi đáng chú ý nhất là tiết Thanh Minh tảo mộ. Vào ngày xuân, con cháu chuẩn bị lễ vật tới thăm nom, dọn dẹp phần mộ của tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo và kịp thời sửa sang những phần đã bị hư hỏng, xuống cấp.   
Tiet Xuan Phan la gi hinh anh 2
 
Trong tiết khí này, âm dương cân bằng, thời tiết thuận hòa, vạn vật tốt tươi, ngày đêm dài ngắn như nhau nên có tên là Xuân Phân, tức là chia đều mùa xuân ra. Người xưa lấy mốc từ Lập Xuân tới Lập Hạ là mùa Xuân, Xuân Phân là chính giữa khoảng thời gian đó, lúc khí xuân cực thịnh. 
  Tiết Xuân phân không chỉ tốt cho nông vụ, cấy cày mà còn đặc biệt có lợi với việc cưới hỏi, mang thai, sinh nở, hứa hẹn những điều may mắn và an lành. Vì thế, xem tử vi thường đưa ra khuyến cáo nên làm việc hỉ trong Xuân Phân.   Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Xuân Phân là gì?

Tính cách người mệnh Thủy: tình cảm và dễ thay đổi

Tính cách người mệnh Thủy được xem là hiền hòa nhất trong cách mệnh. Tuy nhiên, đừng chọc giận họ nếu không bạn sẽ nhìn thấy con người hoàn toàn khác của họ.
Tính cách người mệnh Thủy: tình cảm và dễ thay đổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính cách người mệnh Thủy được xem là hiền hòa nhất trong các mệnh. Tuy nhiên, đừng chọc giận họ nếu không bạn sẽ nhìn thấy con người hoàn toàn khác của họ.     

Đặc điểm người mệnh Thủy

  Người mệnh Thủy có khuôn mặt phổ biến là tròn trịa, ngũ quan đầy đặn rõ ràng, cơ thể tròn đầy, dáng người hơi thấp, chân tay ngắn, sắc da vừa phải, dáng đi chậm, nam giới thường bụng to.   Những người mệnh Thủy có tay chân lạnh, bụng, eo hoặc đầu gối cũng lạnh. Vì thế, họ thường phải mặc nhiều quần áo hơn những người khác để giữ ấm. 
 
Người mệnh Thủy thường không thích cái lạnh của mùa Đông vì cơ thể họ thường giữ lạnh hơn cơ thể người khác. Mùa Hè họ cũng không thích ngồi trong phòng điều hòa, 
 
Tính cách nổi bật của người mệnh Thủy là thông minh, thẳng thắn và dí dỏm. Họ có khả năng ghi nhớ rất tốt, họ luôn cân nhắc cẩn thận trước khi nói và hành động nên tạo cảm giác là người bí ẩn, thâm ý. Tuy nhiên, tính cách bên trong họ là hòa đồng, cởi mở.
 
Có hai loại nước, nước chảy và nước tĩnh. Những người mang tính cách của nước chảy tích cực, năng động, bận rộn hơn nên họ cũng hay trong tình trạng bồn chồn, sốt ruột hơn. Ngược lại, những người mang tính cách của nước tĩnh, họ tương đối bình tĩnh, cuộc sống thanh bình, không thích đối đầu.
 
Với những người mang nhiều năng lượng Thủy là người rất thông minh, tháo vát, có phần xảo quyệt, phức tạp. Họ thích các hoạt động hoặc di chuyển xung quanh, muốn có đời sống tình cảm phong phú.    Người mệnh Thủy có thể có rất nhiều ước mơ nên mục tiêu của họ thường không rõ ràng và hay thay đổi mục tiêu trong cuộc sống. Họ cũng có xu hướng chỉ quan tâm đến bản thân và nếu có chút tò mò với thế giới bên ngoài họ cũng không mấy để tâm quá lâu.  
Tinh cach nguoi menh Thuy tinh cam va de thay doi hinh anh
 

Tính cách người mệnh Thủy



Có thể tóm tắt ngắn gọn tích cách người mệnh Thủy là “người có lòng tốt tuyệt vời” tuy nhiên nếu họ là người xấu thì cực kỳ khó lường giống như tính chất của nước.

Nước có sức ảnh hưởng tới mọi thứ, khi tích cực, nước nuôi dưỡng và hỗ trợ mọi vật còn khi tiêu cực thì nước có thể làm hao mòn hoặc nhấn chìm mọi thứ mà nó đi qua. Người mệnh Thủy cũng có tích cách tương tự, vì thế, nên khéo léo khi nói chuyện hoặc tiếp xúc với những người này.
  Phụ nữ mệnh Thủy yếu đuối, mỏng manh và ngọt ngào. Đàn ông mệnh Thủy dễ thay đổi thường là người hướng nội. 
 
Nước có thể nuôi dưỡng tất cả muôn loại nhưng nếu nó trở thành mưa bão thì có thể nhấn chìm mọi thứ. Vì thế, người mệnh Thủy cũng có tính cách tương tự. Tuy tốt bụng là thế nhưng nếu trong tình huống xấu những người này bỗng trở nên nham hiểm, mất bình tĩnh. Vì vậy, một người như vậy, nếu có tâm địa xấu sẽ rất mưu mô và thích tranh giành quyền lực.
 
Theo tử vi, mặc dù những người mệnh Thủy không thành công rực rỡ nhưng nếu kiên trì họ cũng đạt kết quả như mong đợi. 
 
 
Tinh cach nguoi menh Thuy tinh cam va de thay doi hinh anh 2
 

Sự nghiệp người mệnh Thủy
 

Nên chọn nghề hợp ngũ hành bản mệnh của từng người. Với tính cách người mệnh Thủy linh hoạt, thích nghi với hoàn cảnh một cách dễ dàng nên họ thường là những người có khả năng giao tiếp tốt, họ rất có tài ngoại giao và thuyết phục người khác. 
 
Họ cũng là người khá nhạy cảm với tâm trạng của người khác nên họ sẵn sàng trở thành người lắng nghe tâm tư của mọi người. Họ uyển chuyển và dễ thích nghi với môi trường mới, họ nhìn sự vật theo hướng tổng thể nên sự đánh giá của họ về một chuyện gì đó khá chính xác. Khi đi làm việc hoặc gặp đối tác họ có thể chọn trang phục màu xanh nước biển vì đó là một trong những màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Thủy.    Những người mệnh Thủy đề cao vấn đề đạo đức, vì thế, họ hợp những công việc về từ thiện, bác sĩ, giáo viên, y tá và các ngành nghề liên quan khác. 
Tuy nhiên, nếu họ dựa trên sự tin tưởng của người khác để làm điều ác thì thiệt hại rất lớn, khó có thể giải quyết.
 
Nơi công sở, nếu là sếp, họ là người quản trị tốt nhờ phong cách quản lý linh hoạt. Do đó, cấp dưới nể phục vì sự khéo léo của họ. Tuy nhiên, mặt trái của sự linh hoạt này là khiến cho mọi người cảm thấy rằng họ không có lòng dũng cảm khi đối mặt với vấn đề gì đó.
 
Những người mệnh Thủy có khả năng đưa ra mưu lược, người tham mưu tính toán giỏi. Vì vậy, đối với các công ty quan trọng việc lập kế hoạch, tư vấn sức khỏe và những gì liên quan có thể ưu tiên chọn họ cho những vị trí này.
 
Nước chảy chỗ trũng và đây là lý do sự nghiệp của họ khó có thể lên cao được vì họ hướng về vị trí thấp hơn. Từ việc phân tích các nguyên nhân của việc theo đuổi, sẽ đi lạc lối, tạo nên trở ngại lớn, cản bước tiến của họ. Hơn nữa, với người đa cảm, dễ mủi lòng như người mệnh Thủy nếu họ tham gia kinh doanh sẽ có rất ít cơ hội thành công.     
Tinh cach nguoi menh Thuy tinh cam va de thay doi hinh anh 3
 

Hôn nhân gia đình người mệnh Thủy
 

Những người phụ nữ mệnh Thủy có tính cách nhẹ nhàng, tinh tế vì họ là phụ nữ quyền năng nhất trong các mệnh vì sự khéo léo của mình. Người đàn ông của họ có cảm giác yên tâm khi nhà cửa ấm êm, chan hòa. Những người đàn ông có tính tình cứng nhắc nên chọn vợ mệnh Thủy vì chỉ có họ mới khiến cái tôi của những người này không có cơ hội xuất hiện. Phụ nữ mệnh Thủy chắc chắn sẽ là người mẹ, người vợ tốt vì bản năng trong họ sẵn sàng hi sinh tất cả cho gia đình và con cái.
 
Đàn ông mệnh Thủy có tính cách mạnh mẽ và là người tình cảm nên vợ sẽ cảm nhận được hạnh phúc của sự che chở. Đàn ông mệnh Thủy rất yêu thương các con của mình và đối với họ gia đình là trên hết.   Những người mệnh Thủy khi lựa chọn tình duyên cho cuộc đời của mình thì cần phải xét đến những cung mệnh khác nhau. Đại hải thủy (nước biển), Thiên hà thủy (nước trên trời) không sợ Thổ dù cho Thổ khắc Thủy vì đất không ở biển hay trên trời, nếu phối hợp cùng Thổ thì sẽ nhanh chóng thành công, vợ chồng dễ hiển đạt đường công danh phú quý.

Trường lưu thủy (sông dài), Giang hà thủy (sông cái), Tuyền trung thủy (nước suối), Đại khê thủy (nước khe) đều kỵ với Thổ vì đất sẽ ngăn chặn sự phát triển của nước, nếu kết hợp lại với nhau sẽ vất vả, đời sống thiếu thốn, khó phát triển lên được.
 
Theo Ngũ hành tương sinh thì Kim sinh Thủy nên mệnh hợp với Thủy chính là mệnh Kim. Những người mệnh Thủy nên lựa chọn hợp tác làm ăn hay nên duyên vợ chồng cùng những người mệnh Kim thì sẽ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống. Theo Ngũ hành tương khắc thì Thổ khắc Thủy, đất có thể hút nước làm tiêu hao nước hay đất đá có thể ngăn chặn dòng chảy của nước.

Tuy mệnh xung khắc như trên nhưng không phải là hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Nếu muốn biết hai vợ chồng có khắc mệnh nhau hay không thì cần phải xem xét hành của mỗi người, ví dụ như mệnh Thiên Hà Thủy (nước trên trời) sẽ không sợ gặp Thổ, còn các hành thuộc mệnh Thủy khác đều kỵ Thổ. 
 
Ngoài ra, để may mắn hơn trong công việc và hôn nhân, bạn nên tìm hiểu mệnh Thủy hợp cây gì để tài lộc chạy vào nhà.
 

Những bệnh thường gặp người mệnh Thủy

  Người mệnh Thủy thường thiếu năng lượng dương nên dễ bị ớn lạnh. Muốn chữa bệnh nên bổ sung dương khí. 
 
Đặc điểm chung của những người mệnh Thủy là có chiều cao trung bình, rất ít người đàn ông vạm vỡ, cao lớn, cơ bắp không săn chắc nếu không muốn nói là cơ mềm.   Cơ thể dễ dàng lưu trữ chất béo, gây béo phì. Nếu ăn nhiều trái cây, chua, ngọt, thức ăn lạnh sẽ dễ tăng cân hơn những người bình thường khác. Đối với một người như vậy để giảm cân nếu bạn ăn thuốc nhuận tràng, châm cứu sẽ hiệu quả hơn. Nếu bạn điều chỉnh chế độ ăn uống, kết hợp với tập thể dục thích hợp, sẽ duy trì cơ thể khỏa mạnh.

Người mệnh Thủy cần chú ý phương diện thận cùng bàng quang xuất hiện bệnh tật. Đồng thời cũng phải chú ý thêm não cùng hệ thống bài tiết.

HaTra

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
Tính cách người mệnh Kim: Thích lãnh đạo, có tầm nhìn xa trông rộng Tính cách người mệnh Hỏa: Sáng tạo và kiêu ngạo
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người mệnh Thủy: tình cảm và dễ thay đổi

Tính ngày tốt để chuyển nhà, động thổ thế nào? –

Phong thuỷ giúp chúng ta rất nhiều vấn đề khó giải quyết. Ví dụ như chuyển nhà, động thổ phải vái bốn góc. Khi đó chúng ta chỉ cần chọn được ngày đẹp để hoàn thành nốt nghi lễ quan trọng là ổn. Trước hết chúng ra phải biết ngày chuyển nhà hoặc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thuỷ giúp chúng ta rất nhiều vấn đề khó giải quyết. Ví dụ như chuyển nhà, động thổ phải vái bốn góc. Khi đó chúng ta chỉ cần chọn được ngày đẹp để hoàn thành nốt nghi lễ quan trọng là ổn.

p27

Trước hết chúng ra phải biết ngày chuyển nhà hoặc động thổ nhất định không được xung với năm tuổi của chủ nhà. Điều đó có nghĩa là người của phong thuỷ phải hiểu được thiên can địa chi của lịch pháp. Nếu không hiểu thì trong tay lúc nào cũng phải có cuốn hoàng lịch. Ngày màu đỏ trong lịch không xung với năm tuổi của chủ nhà thì là ngày tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính ngày tốt để chuyển nhà, động thổ thế nào? –

Sao Lâm Quan

Hành: Kim Loại: Tùy Tinh Đặc Tính: Khoe khoang, tự phụ, may mắn, quyền quý Phụ Tinh. Sao thứ 4 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường S...
Sao Lâm Quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: KimLoại: Tùy TinhĐặc Tính: Khoe khoang, tự phụ, may mắn, quyền quý
Phụ Tinh. Sao thứ 4 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Ý Nghĩa Lâm Quan Ở Cung Mệnh

  • Sao Lâm Quan ở Mệnh thì hay thích làm dáng, làm điệu, điệu bộ, nói năng kiểu cách.
  • Lâm Quan nghĩa đen là cái cổ, cho nên tướng trạng phải phù hợp với vóc người ngũ đoản hay ngũ trường thì tác dụng của sao này mới mạnh. Là sao chủ quyền quý, giòng dõi, cơ hội may mắn, cần mẫn trong công việc làm ăn. Đi với sao tốt thì làm tăng sự tốt đẹp, đi với sao xấu thì gặp nhiều tai ương, rủi ro.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Lâm Quan

Tính thực tế

Trước hết, Tử Vi là một hệ thống tương quan giữa các yếu tố phức tạp, và khi đưa ra không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ thể nào. Công dụng của nó chỉ nêu lên một ý niệm tương quan, phân tích những yếu tố tương quan.
Tính thực tế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử Vi nhắc nhở người xem số về sự kiện liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố. Đều này tránh những ngộ nhận vội vàng hay phiến diện. Người giải đoán, nhờ nhãn quan tổng hợp của Tử Vi, phải gom góp, đối chiếu, cân nhắc, ngõ hầu có thể kết luận trên sự tổng hợp các nhận định cục bộ.

Tử Vi quan niệm con người một cách toàn diện, bao hàm cả thể chất lẫn tinh thần, cả di truyền lẫn bản tính cá nhân, cả môi trường gia đình và xã hội, cả công danh lẫn tài lộc. Khoa Tử Vi không tách rời các phương diện của con người.
Con người trong Tử Vi được xem là một tổng hợp các phương diện chớ không phải là một phương diện riêng biệt nào.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính thực tế

Xem tướng móng tay dự báo y học –

Không phải gần đây các nhà bệnh lý học mới quan tâm đến vấn đề này. Mà từ nửa đầu thế kỷ 20 các bác sỹ phương Tây đã quan tâm nghiên cứu móng tay khi đề cập tới tướng pháp về móng tay của phương Đông như bác sỹ Joselt Renald (Áo) v.v... Quan điểm của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải gần đây các nhà bệnh lý học mới quan tâm đến vấn đề này. Mà từ nửa đầu thế kỷ 20 các bác sỹ phương Tây đã quan tâm nghiên cứu móng tay khi đề cập tới tướng pháp về móng tay của phương Đông như bác sỹ Joselt Renald (Áo) v.v…

squo

Quan điểm của họ cho rằng:
– Móng tay dẹt: Thì tinh thân yếu.
– Móng tay mềm: Thì sức khỏe kém.
– Móng tay cứng: Tạng gan nóng.
– Móng tay màu xám nhạt: Tâm (tim) có bệnh.
– Móng tay như vảy hành: Bệnh ở phổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng móng tay dự báo y học –

Cách đặt cửa chính để tránh gặp rủi ro

Trong quan niệm phong thủy học truyền thống, cửa chính có ảnh hưởng rất lớn tới phong thủy nhà ở. Đây cũng là yếu tố quan trọng quyết định tới sự lành dữ của ngôi nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để mua được một mảnh đất xây nhà ưng ý là điều rất khó. Chúng ta biết “đồng loại tắc tương phối, bất đồng tắc tương khắc”. Nếu người Đông tứ mệnh (Thủy, Mộc, Hỏa) ở vào Tây tứ trạch (Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam) và ngược lại, người Tây tứ mệnh (Thổ, Kim) ở vào Đông tứ trạch (Đông, Đông Nam, Nam, Bắc) thì bài toán sẽ được giải như sau:

Theo “Bát trạch minh kính” nếu nhà hướng Đông Tây khó thay đổi thì bạn phải sửa cửa chính. Tức nếu trạch mệnh không tương đối, chủ nhà phải khiến cửa chính và quẻ mệnh tương phối. Dùng “Môn mệnh tương phối” thay cho “Trạch mệnh tương phối” cũng có thể bổ trợ được. Nói một cách khác, với người Đông tứ mệnh, cửa cần mở ở 4 phương vị quẻ Đông tứ: Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc. Người Tây tứ mệnh thì đặt cửa chính ở Tây tứ: Tây, Tây Nam, Tây Bắc hoặc Đông Bắc.

Ngoài ra, đối với trường hợp cửa chính đặt vào hướng chưa tốt, bạn có thể hóa giải theo hai cách: thêm cửa trong nhà và dùng màu sắc hóa giải tà khí. Nếu bạn thuộc Tốn, cửa chính nhà bạn tại Tây Nam thuộc Khôn (Ngũ quỷ), hóa giải bằng cách làm thêm một cửa phụ trong nhà thuộc hướng tốt (ví dụ: chính Nam). Với cách này, gia đình sẽ gặp dữ hóa lành và tránh được những điều không tốt.

Tuy nhiên với những ngôi nhà có diện tích hẹp, bạn có thể dùng màu sắc để hóa giải bằng cách trải thảm ở cửa chính với các màu sắc khác nhau tùy theo ngũ hành của từng gia chủ: Mộc: màu xanh, lục; Hỏa: màu đỏ, tím; Thổ: màu nâu, vàng; Kim: màu trắng, vàng sẫm; Thủy: màu lam, xám.
 
Trong trường hợp mệnh Đông tứ gặp cửa Tây tứ. Cửa ở Tây và Tây Bắc gặp tà khí của Kim vì vậy bạn thuộc Thủy, Mộc nên trải thảm màu lam hoặc màu xám ở cửa chính, bạn thuộc Hỏa trải thàm màu đỏ hoặc tím. Cửa ở Tây Nam và Đông Bắc gặp tà khí của Thổ vì vậy bạn thuộc Thổ trải thảm màu trắng hoặc vàng sẫm, bạn thuộc Hỏa, Mộc trải thảm màu xanh hoặc lục.

Với mệnh Tây tứ gặp cửa Đông tứ. Cửa hướng Đông và Đông Nam gặp tà khí của Mộc nên bạn thuộc Thổ trải thảm hồng hoặc tím, nếu bạn thuộc Kim trải thảm trắng hoặc vàng nhạt là thích hợp. Cửa hướng Nam gặp tà khí của Hỏa nên bạn thuộc Kim, Thổ trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải. Cửa phía Bắc gặp tà khí của Thủy, nếu bạn thuộc Thổ, Kim thì trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải.

Cách lựa chọn màu sắc như trên dựa vào sự vận động tương sinh tương khắc của ngũ hành, phù hợp với quy luật phong thủy.

Theo KTS Vũ Quang Định, Mai Phương
VNE

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đặt cửa chính để tránh gặp rủi ro
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd