Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bố cục phong thủy bất lợi cho sức khỏe

Trong thiết kế và bố trí ngôi nhà, căn phòng, cần lưu ý tới một số vấn đề phong thủy có thể ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bạn và các thành viên trong
Bố cục phong thủy bất lợi cho sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thiếu ánh sáng

Mọi người đều biết ánh sáng mặt trời là nguồn năng lượng tích cực, mang lại cho con người tâm trạng tốt. Nếu căn phòng thiếu ánh sáng trong một thời gian dài sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi, thậm chí khiến cho tâm tình u uất, lâu dài có thể nảy sinh bệnh tật.

 

2. Căn phòng không cân đối

Căn phòng trong ngôi nhà bất kể diện tích lớn hay nhỏ, hình dáng nên cân đối, vuông vức. Phong thủy kỵ phòng hình tam giác, hình thang hoặc các hình dạng không theo quy tắc nào. Hình dáng căn phòng bất cân đối khiến cho tư tưởng của bạn dễ lệch lạc.

3. Màu sắc u tối

Nhiều người thích trang trí nhà với gam màu tối, điều này có thể tạo phong cách riêng biệt. Tuy nhiên nếu sống lâu dài trong không gian như vậy sẽ không tốt, có thể gây áp lực tâm lý, cảm giác nặng nề.

 

4. Xà nhà áp đỉnh


Xà nhà áp đỉnh khiến con người nảy sinh tâm trạng lo lắng, hoảng sợ. Đặc biệt các vị trí sô pha, giường, ghế ngồi làm việc… càng cần tránh bị trà nhà áp đỉnh.

 

5. Phòng khách quá nh


Phòng khách được xem là minh đường nhỏ của căn nhà, là nơi các thành viên trong gia đình thường tụ hội hoặc là nơi gia đình đón chào khách. Có thể do tổng thể ngôi nhà diện tích nhỏ, phòng khách cũng nhỏ hoặc thậm chí không có phòng khách, đây là điều không tốt. Điều này sẽ làm giảm sự liên kết tình cảm giữa các thành viên trong gia đình bạn.  

 

6. Khuyết góc Tây Bắc

 

Căn phòng của bạn có một góc tuyệt đối không thể bị khuyết, đó là góc Tây Bắc. Phương vị này theo Chu Dịch thuộc quẻ Càn, quẻ này chủ về công việc, sự nghiệp, công danh… Nếu căn phòng hay ngôi nhà thiếu góc này sẽ ảnh hưởng không nhỏ sự nghiệp, tâm tình của bạn.

7. Không có minh đường

Phong thủy đề cao vai trò của minh đường, minh đường rộng hay hẹp đại diện cho sự nghiệp lớn hay nhỏ. Bất kể là âm trạch hay dương trạch đều cần có minh đường. Minh đường chỉ khoảng không gian trước căn nhà của bạn. Có ngôi nhà tận dụng hết không gian để xây dựng phòng, vì vậy không có chỗ cho minh đường.

 

8 Phương vị bất lợi
Tùy theo từng năm, bạn cần chú ý tránh phạm vào Nhị Hắc và Ngũ Hoàng, là hai sao xấu đại diện cho sự suy bại, đau khổ, bệnh tật… Đặc biệt tránh đặt ghế làm việc, sô pha, giường… ở vị trí của hai sao xấu đó.

 

(Theo Ifeng)

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục phong thủy bất lợi cho sức khỏe

Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 6)

Sử dụng phương pháp luận mệnh theo Lục Thập Hoa Giáp là xem tử vi cuộc đời dựa vào kết hợp thiên can và địa chi, tạo ra những thông số có độ chính xác cao.
Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 6)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sử dụng phương pháp luận mệnh theo Lục Thập Hoa Giáp tức là xem tử vi cuộc đời dựa vào sự kết hợp của thiên can và địa chi, tạo ra những thông số có độ chính xác cao.


Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 1) Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 2) Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 3) Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 4) Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 5)
Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 6 hinh anh 2
 
Lục Thập Hoa Giáp là sự kết tinh của thiên và địa, kết hợp của can và chi tạo nên tổ hợp tử vi có ẩn chứa nhiều kiến thức. Vì vậy, luận mệnh theo Hoa Giáp sẽ có độ chính xác cao hơn chỉ luận thông qua tuổi địa chi.
  51. Giáp Thân: tọa tuyệt địa, cả đời vất vả, bôn ba, nhưng tử mộc gặp sát khắc tước, cũng không đến nỗi quá tệ hại.   52. Ất Dậu: tọa Sát tiệt chân, sinh vào mùa xuân có thể cứu vớt chút ít, sinh vào tháng Thổ thì giúp đồng đội ghi điểm mà hại thân, không ổn. Mạng người Ất Dậu nhìn chung không tốt hoặc không thọ. Nữ mệnh Ất Dậu xinh đẹp, lãng mạn, yêu sớm, lấy chồng sớm.   53. Tân Mão: tọa Thiên Tài, đào hoa, nam mệnh thích nữ sắc, nữ mệnh tốt hơn một chút, xinh đẹp nhưng không phong lưu. Nữ nhân dung mạo tốt, lại lãng mạn, có lực hấp dẫn với người khác phái.   54. Canh Tý: tọa Thương Quan, nữ mệnh khắc phu. Can chi Kim Thủy tương sinh, người tú lệ thông minh, nhưng ngay thẳng, tính khí khá bảo thủ. Nên theo các ngành tư pháp, kiểm sát, công chức.
Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 6 hinh anh 2
 
55. Bính Ngọ: tọa Dương Nhận, người thông minh, có văn tài. Nam mệnh khắc thê, nữ mệnh khắc phu, bất luận nam nữ sinh vào Bính Ngọ đều dễ dàng bị thương hoặc tàn tật. Võ quan nhìn chung không tốt.
  56. Mậu Thân: Thổ gặp Thân chủ cô độc, nữ mệnh lấy chồng sớm, dễ ly hôn hoặc độc thân, nam mệnh tốt hơn một chút. Bất luận là nam hay nữ đều xinh đẹp, nhưng tình yêu không chuyên nhất, tác phong bất chính.   57. Nhâm Tý: tọa Kiếp Tài, Thủy rất vượng, chủ xinh đẹp. Nữ mệnh không biết công việc quản gia, có bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, đào hoa; nam mệnh háo sắc, nếu kinh doanh phát tài thì phát bao nhiêu cũng thất bấy nhiêu.   58. Đinh Tị: Đinh Hỏa tọa Bính Hỏa, dương thịnh âm suy, ban ngày không ánh sáng. Sinh vào giờ Đinh Tị thì không thể thọ.   59. Mậu Ngọ: với Bính cùng loại, tọa Nhận rất vượng, nữ mệnh khắc phu, nam mệnh khắc thê, chủ bị thương tai. Mậu Thổ rất khô, chủ nhân tính cách mạnh mẽ.   60. Kỷ Mùi: Kỷ Thổ Mùi Thổ khô nóng, chủ nhân cương trực, tọa Thương Quan phát tài nhưng cơ thể có bệnh tật hoặc gặp tai nạn, biến cố bất ngờ.
Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế Đọc vị tính cách nữ mệnh có bát tự Ấn vượng Bát tự hòa hợp, hôn nhân như ý Thế nào là mệnh cục hình khắc cha mẹ?
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 6)

Trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm Lý

Bài viết trích ra các phần trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm lý như: Lưu Hà, Kiếp Sát, Thiên Mã, Phá Toái, Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hỏa, Phá Toái, Cô Thần, Quả Tú, Thiên Khốc, Thiên Hư. Mời các bạn cùng đón đọc.
Trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm Lý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết trình bày về một số sao trong tử vi được trích ra từ cuốn Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương

LƯU HÀ - KIẾP SÁT

Trong Tử vi có bộ lục sát Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hỏa là một đoàn quân xông pha nhiều lúc phải tùy thuộc cấp chỉ huy mới nên kết quả đáng kể.

Bộ Lưu Hà Kiếp Sát cũng là bộ sát tinh thường xuyên đứng với Thiên Không, đứng vai Thẩm Phán giữ cán cân thăng bằng cho bộ luật thừa trừ định mệnh cho từng hạng tuổi như sau:

CAN CHI

Giáp ------------- cho người ---------------Thân Tý Thìn
Ất Kỷ ------------------------------------------- Tỵ Dậu Sửu
Bính Canh ------------------------------------- Dần Ngọ Tuất
Tân --------------------------------------------- Hợi Mão Mùi
Đinh Quý -------------------------------------- Hợi Mão Mùi + Tỵ Dậu Sửu
Mậu Nhâm ------------------------------------ Thân Tý Thìn + Dần Ngọ Tuất

Lưu Hà là sao Thủy an theo hàng Can của tuổi luôn luôn ở nghịch địa âm dương như:

  • Tuổi Giáp (dương) thì Lưu Hà đóng ở Dậu (âm cung)
  • Ất (âm) thì Lưu Hà đóng ở Tuất (dương cung)
  • Bính (dương) thì Lưu Hà đóng ở Mùi (âm cung)
  • Đinh (âm) thì Lưu Hà đóng ở Thân (dương cung)
  • Mậu (dương) thì Lưu Hà đóng ở Tỵ (âm cung)
  • Kỷ (âm) thì Lưu Hà đóng ở Ngọ (dương cung)
  • Canh (dương) thì Lưu Hà đóng ở Mão (âm cung)
  • Tân (âm) thì Lưu Hà đóng ở Thìn (dương cung)
  • Nhâm (dương) thì Lưu Hà đóng ở Hợi (âm cung)
  • Quý (âm) thì Lưu Hà đóng ở Dần (dương cung)

Kiếp Sát là sao Hỏa an theo hàng chi của tuổi luôn luôn ở nghịch địa âm dương như:

  • Tuổi Dần Ngọ Tuất (Dương) ------ thì Kiếp Sát an ở ------ Hợi (Âm)
  • Tuổi Thân Tý Thìn (Dương) ------- thì Kiếp Sát an ở ------ Tỵ (Âm)
  • Tuổi Tỵ Dậu Sửu (Âm)------- ------ thì Kiếp Sát an ở ------ Dần (Dương)
  • Tuổi Hợi Mão Mùi (Âm) ----------- thì Kiếp Sát an ở ------ Thân (Dương)

Biết rằng Lưu Hà là Thủy, Kiếp Sát là Hỏa đều đứng ở nghịch địa âm dương theo Can Chi ấn định có tính cách hung bạo hội lại như 2 lưỡi kéo tử thần thi hành án lịnh sau khi Thiên Không phán quyết cho Là can nhân có thực tội.

Như mục Lộc Tồn ở trên đã nói chỉ có bốn tuổi Giáp Ất Canh Tân đứng tam hợp tuổi có Lộc Tồn mới được hưởng Lộc Tồn trọn vẹn, còn ngoài ra chỉ là nhất thời và gánh chịu hậu quả bù trừ, còn Lộc Tồn của năm tuổi Mậu, Kỷ, Bính Đinh Nhâm Quý là ở trong trường hợp có Lưu Hà, Kiếp sát canh gác 6 kho vàng đó. Kẻ nào đụng chạm đến mà Thiên Không không ngăn cản được thì Lưu Hà Kiếp, Sát nổ súng. Cũng có một vài trường hợp giảm khinh nhẹ tay cho những tuổi Đinh Hợi Mão Mùi và Quý Tỵ Dậu Sửu.

THIÊN MÃ

Thiên mã ở trong Tử vi là một viên ngọc quý. Viên ngọc quý này chỉ thấy ở trong hoàn cảnh trái nghịch tức là phần tinh anh có sắp đặt cho hạng người bất mãn ở phần đất Tuế-Phá Tang-Môn, Điếu-Khách của vòng Thái tuế. Nếu hạng người này không có Mã thì làm sao mà sống ở đời. Phải chăng thánh nhân xưa đã có chí hướng dân chủ (dân vi quí). Phe Thái Tuế, Quan Phủ, Bạch Hổ là phe lãnh đạo, cầm quyền được Long-Phượng, Hổ Cái là cái thế uy nghi tốt đẹp thì phe đối kháng là phe Tuế-Phá, Tang-Môn, Điếu-Khách phải để cho họ có Thiên Mã là bộ máy có động lực mạnh để quật lại bên kia. Việc thành bại lại là việc của thời gian. Cái đáng quý của Thiên Mã là ở chỗ đó.

Thiên Mã chỉ ở bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi phân phối đều cho 12 địa chi thuận âm dương mà nghịch phái

Tuổi:

Dần Ngọ Tuất Thiên Mã ở cung Thân
Thân Tý Thìn ----------------- Dần
Tỵ Dậu Sửu ----------------- Hợi
Hợi Mão Mùi ----------------- Tỵ

Nhìn vào vị trí của Thiên Mã đóng ta thấy ngay sự trái cựa căn cứ theo địa chi tam hợp của tuổi số mà an Thiên Mã ở trong địa chi tam hợp đối kháng.

Tuy Thiên Mã là hành hỏa nhưng đóng ở bốn cung có bốn hành riêng biệt thì chủ nhân muốn làm chủ thực sự Mã ấy phải là đồng hành với chỗ nó ở, công việc mình làm mới có kết quả tốt đẹp.

Đã gọi là Dịch mã, Mã đóng ở bốn cung phải có đắc dụng đồng đều ở mỗi cung như đã phân chia số tuổi quy định, không lẽ gì Mã ở Hợi lại gọi là Mã cùng đường vô dụng. Nếu vậy thiệt hại cho ba tuổi Tỵ Dậu Sửu có Mã cũng hư không mà còn bị bế tắc là khác.

Vậy Mã ở bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi có nghĩa như sau:

  1. Thiên Mã ở Dần: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Mộc, bạc nhược với người tuổi Kim, vất vả với người mạng thủy, điêu linh cho người thổ, làm lợi cho người mạng hỏa.
  2. Thiên Mã ở Tỵ: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Hỏa, làm lợi cho người mạng Thổ, vất vả cho người mạng Mộc, điêu linh cho người tuổi Kim, bạc nhược cho người tuổi Thủy.
  3. Thiên Mã ở Thân: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Kim, làm lợi cho người tuổi Thủy, vất vả cho người mạng Thổ, điêu linh cho mạng Mộc, bạc nhược cho người mạng Hỏa.
  4. Thiên Mã ở Hợi: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Thổ, Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả cho người mạng Kim, điêu linh cho người mạng Hỏa.

(Còn vài chi tiết đặc biệt ở Dịch Mã tiếp theo ở mục Tuần Triệt)

LỤC SÁT TINH: KHÔNG KIẾP – KÌNH ĐÀ – LINH HỎA

Lục sát tinh là một lực lượng có đặc tính riêng biệt, nói là đưa đương số bộc phát vinh quang (trường hợp đắc địa) không phải là không có; nhưng nói chung cái lợi không có là bao, mà cái hại rất khó lường nên mới có tên là Sát tinh. Sự thật bộ này phải có bộ chỉ huy cứng rắn, quyết liệt mới đắc dụng. Một là thành công vũ bão, hai là phá tan tận diệt, là bộ 3 Sát Phá Tham. Không Kiếp – Kình Đà – Linh Hỏa là 3 quân đoàn riêng biệt, cần phải có cấp bậc chỉ huy chính cống trực tiếp riêng của nó mới hiệu nghiệm. Ngoài ra, vá víu lấy chỉ huy quân đoàn này sang điều động quân đoàn kia cần chắc là kết quả không bao nhiêu (dầu lợi hay hại). Vậy phải
như thế nào?

Không Kiếp thành đoàn quân có thành tích dữ nhất, Phá Quân mới cai trị đắc lực. Ví như mệnh có Phá Quân mà đi đến hạn Không Kiếp phải là có chuyện sống chết, hay dỡ tùy theo từ Bộ tư lệnh đến quân đoàn đắc địa hay hãm địa (ở đây mới là trường hợp họ gặp nhau ở đại vận). Kình Đà là quân đoàn có đôi phần nới tay do có bậc thượng tướng nghiêm chỉnh chỉ huy là Thất Sát. Nếu Thất Sát đứng cặp với Thiên Hình thì dũng mãnh hơn.

Linh Hỏa là tôi tới trung thành của cấp chỉ huy tài tử Tham Lang. Giữa 3 quân đoàn này với cấp chỉ huy thì Phá Quân là ngang tàng liều lĩnh nhất, nên thường thay cho Thất Sát, trường hợp vắng mặt, chỉ huy Kình Đà vẫn đắc dụng hiệu lực như thường. Trái lại, Tham Lang gặp Không Kiếp, Kình Đà chẳng ra sao. Và Thất Sát gặp Không Kiếp - Linh Hỏa cũng không hiệu nghiệm cho lắm.

PHÁ TOÁI

Phá Toái là một bàng tinh có ý nghĩa như cái tên của sao đã mang là phá tán tan nát và vị trí đóng cũng rất hạn chế là ba chổ Tỵ Dậu Sửu, ít chổ nhất trong các sao của Tử Vi mà xem ra
hành động không phải tầm thường.

Thấy Phá Toái là hành Hỏa đới Kim nên ba vị trí Tỵ Dậu Sửu đối với nó coi như là thuận lợi cho nhiệm vụ không có gì cản trở (Tỵ – Hỏa, Dậu – Kim, Sửu – Thổ).

Đó là hao tán tinh, tức là không bao giờ phò trợ, chỉ làm ngang trái tư cách chính diệu hiền hậu (Tử Phủ, Cơ Lương). Trái lại tăng thêm sức mạnh cho bộ tinh đẩu hùng dũng là Sát Phá Tham, nhất là Phá Quân là cha ruột. Xét rằng ba vị trí của Phá Quân tại Tỵ Dậu Sửu đều hãm hết (Vũ Phá ở Tỵ, Liêm Phá ở Dậu), Tử Phá ở Sửu là đắc địa nhưng có nghĩa tư cách vẫn không đẹp, là thần bất trung, tử bất hiếu, không hơn gì Vũ Phá và Liêm Phá. Như đã có ý là muốn để Phá Toái giúp Phá Quân đắc lực trong cái thế "Toái quân lưỡng Phá", phải để ý đến các trường hợp sau:

  • Mệnh có Vũ Phá thì phải là các tuổi Tí Ngọ Mão Dậu (Dậu đẹp nhất).
  • Mệnh có Liêm Phá thì phải là các tuổi Dần Thân Tỵ Hợi (Tỵ đẹp nhất).
  • Mệnh có Tử Phá thì phải là các tuổi Thì Tuất Sửu Mùi (Sửu đẹp nhất).

Một khi đã thấy có bộ Sát Phá Tham ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu thì phải để ý ngay Phá Toái, tùy tuổi tùy vị trí mà nhận định mức độ hay dỡ, ít nhất kết quả cũng ở trên các bộ Sát Phá Tham ở mọi chỗ hãm khác.

CÔ THẦN – QUẢ TÚ

Cô Quả là hai tiếng thường dùng để chỉ hạng người cô đơn, khắc nghiệt là do 2 sao Cô Thần - Quả Tú ghép lại.

Sự thật cốt cách của chúng có phải nhất định như thế không? Nhận xét kỹ vị trí của 2 sao đó, thấy Cô Thần luôn đóng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi, và Quả Tú chỉ ở Thìn Tuất Sửu Mùi luôn luôn ở thế tam hợp với nhau. 8 vị trí này có cả dương lẫn âm, và cũng không tùy thuộc tuổi dương hay tuổi âm để ấn định chổ đứng cho cả 2 sao. Biết rằng cứ 3 tuổi (địa chi) của số nối liền nhau thì Cô Thần đứng ngay cung chặn đầu và Quả Tú ngồi ngay cung chặn đuôi như 3 tuổi Dần Mão Thìn, Cô Thần ở Tỵ (đầu) – Quả Tú ở Sửu (đuôi); 3 tuổi Tỵ Ngọ Mùi, Cô Thần ở Thân (đầu), Quả Tú ở Thìn (đuôi); 6 tuổi kia, cứ 3 tuổi một cũng có Cô Thần Quả Tú chặn đầu đuôi như thế.

Nhìn vào những vị trí của 2 sao này thấy rất thua thiệt nên nó mới thành nghiệp ngã và cô đơn. Không bao giờ Cô Quả đóng trong tam hợp Thái Tuế, mà chỉ ở 3 thế: Thiên Không – Tuế Phá – Trực Phù làm cho người có số sống như trong trơ trọi và khó khăn bất mãn. Nếu có hưởng Lộc Tồn chỉ là hưởng trong nghịch cảnh, tưởng không tốt đẹp gì.

Bốn vị trí Dần Thân Tỵ Hợi của riêng của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi là được cởi mở. Ở đây Cô Thần gặp Thiếu Dương là sáng suốt nhân hậu và là vị trí của Hồng Loan đứng cặp với Thiên Không (sắc sắc không không) là thành địa của những bậc từ thiện bác ái, nhìn cuộc đời bằng mọi cách bao la, sự vật có cũng là không, không vẫn là có.

Trong 4 vị trí Dần Thân Tỵ Hợi của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi thì 2 vị trí Dần Thân có đủ bộ Cô Thần, Thiếu Dương, Hồng Loan, Thiên Không. Vị trí Hợi có ba là Cô Thần, Thiếu Dương, Thiên Không nhờ thế xung Hồng Loan ở Tỵ (Tỵ Dậu Sửu: Kim) quá bén nhạy nên người có số ở Hợi (Hợi Mão Mùi: Mộc) dễ sáng suốt để trở thành đạo đức. Còn cung Tỵ cũng vậy chỉ có Cô Thần, Thiếu Dương, Thiên Không nhờ thế xung Hồng Loan ở Hợi đưa lên nhưng hơi yếu vì Mộc không ép buộc được Kim và có sao cố định là Phá Toái (ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu) khiến nhiều khó khăn ngang trái mới thành chánh quả trọng lẽ hiếu sinh.

Vậy chỉ có 4 vị trí này của Cô Thần, Quả Tú của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi là không khắc nghiệt cô đơn, lại còn là chổ tiềm tàng sáng suốt, chí công chỉ đạo theo thứ tự như sau:

  1. Vị trí ở Dần: lòng cởi mở tuyệt thế.
  2. Vị trí ở Thân: lòng cởi mở đương nhiên
  3. Vị trí ở Tỵ: lòng cởi mở bén nhạy
  4. Vị trí ở Hợi: lòng cởi mở phải chịu sự thử thách.

THIÊN KHỐC - THIÊN HƯ

Thiên Khốc là âm kim, Thiên Hư là dương thủy.

Khốc Hư là hai bại tinh chỉ có ở bốn chỗ Tý Ngọ Mão Dậu là có tư cách đưa thân thế người có số được hãnh diện với đời. Đem Khốc Hư ra phân tách tại sao chỉ có 4 chỗ Tý Ngọ Mão Dậu được gọi là đắc địa và tại sao gọi là bại tinh.

Vì Khốc Hư bắt đầu từ cung Ngọ mà đi theo chiều thuận, nghịch của âm dương, mỗi sao đi 1 chiều hướng riêng, chỉ có cung Ngọ và Tý là 2 sao đồng cung và khẳng định là ở vị trí Tuế Phá (bất mãn cực độ) vì tuổi Tý Khốc Hư ở Ngọ và tuổi Ngọ Khốc Hư phải ở Tý và các vị trí kia của các tuổi khác cũng vậy luôn luôn đóng ở phía đối kháng nên phải khoác cái áo lấy tên là bại tinh.

Người Khốc Hư Tý Ngọ được hãnh diện, dầu là bất mãn, vì là có Thiên Mã và Điếu Khách thường trực trong thế tam hợp để đưa danh tiếng người này lên với đời. Còn thành công đến mức độ nào hay thất bại hoàn toàn là do Thiên Mã có phải là ngựa, nghị lực thực sự của người có số hay không tức là Thiên Mã ở Dần phải của người tuổi Mộc và Thiên Mã ở Thân phải là người tuổi Kim mới đắc cách.

Biết rằng Thiên Khốc là Âm Kim phải đi theo chiều nghịch thì chỉ có người tuổi âm mới là thuận cách vì Thiên Khốc được đứng trong tam hợp tuổi này (vòng Thái Tuế) nhất là hai tuổi Mão Dậu, Thiên Khốc đứng cặp sát nách với Thái Tuế. Hai vị trí này đưa thanh thế của người danh chính ngồn thuận của người có tư cách không hèn, có tài biện thuyết khuất phục được chúng nhân. Còn các Dương cung tức là các tuổi Dương Thiên Khốc đứng ở thế thường xuyên trái nghịch với Thái Tuế, phải nhờ nghị lực của Thiên Mã trợ giúp như hai cung Tý Ngọ, sở dĩ kém Tý Ngọ vì không có Hư đồng cung với Tuế Phá (Lãnh tụ đối lập).

Còn Thiên Hư không bao giờ xa cách Tuế Phá là tư cách của người ôm hận, bất mãn nên trong số bao giờ cũng sắp sếp cho có Thiên Mã để làm việc.

Vậy Khốc – Hư là tư cách của bại tinh và chỉ hãnh diện được ở bốn cung Tý Ngọ (lãnh tụ đối lập) và Mão Dậu riêng cho Thiên Khốc được danh chánh mà thôi

Trích từ cuốn Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm Lý

Thế núi tốt cho huyệt mộ

Cự Môn là ngọn núi cát. Gia chủ và con cháu ngụ tại đây sẽ hưng vượng, hưởng phúc lộc lâu dài.
Thế núi tốt cho huyệt mộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Núi Cự Môn là một trong cửu tinh kết huyệt. Núi có hình dáng không nhọn không tròn mà rất vuông vức, mặt trước như cái cổng khổng lồ nên có tên gọi là Cự Môn.

The nui tot cho huyet mo hinh anh
Huyệt mộ

Thế núi cao lớn, ngay ngắn, ít chi cước (ít khe, hẻm), xung quanh có nhiều núi bảo vệ.

Sách “Hám Long Kinh” viết: “Bên dưới núi vuông có núi bảo vệ như đàn dê”. Long mạch đến núi Cự Môn tươi tốt, đây là dãy núi cao, tôn quý nên không thể thiếu núi bao bọc. Nếu hình thế cô độc thì không cát, không nên xây nhà, đặt mộ ở đây.

Sách còn cho biết thêm: "Nếu núi Cự Môn độc hành không có núi bao bọc, hộ  vệ chỉ nên xây đền miếu thờ thần phật". Núi này rất kị hình thể nghiêng vẹo, mất tôn quý. Nếu trên đỉnh có nhiều vết nứt gãy, hình như ngọn lửa thì hóa thành Liêm Trinh ác hình.

Đây là ngọn núi cát, ngũ hành thuộc Thổ nên gia chủ và con cháu ngụ tại đây là những người trung lương, chính trực. Thế núi đầy đặn, con cháu lại càng hưng vượng, hưởng phúc lộc lâu dài.

Dương trạch nhà vuông, ngay ngắn, hiên nhà đều bằng phẳng, tường không khuyết là hình núi Cự Môn. Chủ nhà sẽ làm ăn phát đạt, giàu có.

Trong một vài trường hợp, thế núi ngắn nhọn, gia chủ sa sút, thất bại.

Theo Bí ẩn thời vận

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế núi tốt cho huyệt mộ

Những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu

Những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu. Tình yêu là đề tài muôn thuở của nhân loại. Trong mỗi chúng ta đều chất chứa những tình yêu thương vô bờ bến
Những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu. Tình yêu là đề tài muôn thuở của nhân loại. Trong mỗi chúng ta đều chất chứa những tình yêu thương vô bờ bến. Hãy dành cho nhau những lời tốt đẹp ngay khi còn ở bên nhau.

Bằng cách tham khảo những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu sau đây để có những gợi ý hay nhất bạn nhé.

Những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu

Trong đàn bà, tình bạn gần với tình yêu
(Thomas Moore)

——–

Gió thay đổi chiều mỗi ngày, người đàn bà thì thay đổi mỗi giâỵ
tục ngữ Tây Ban Nha)

——-

Khí giới của đàn bà là những giọt nước mắt.
(Shakespeare)

——–

Đàn bà hoàn toàn thấy rõ rằng họ càng vâng lời bao nhiêu thì họ càng chỉ huy bấy nhiêụ
(Jules Michelet)

——

Khi chúng ta không theo hút được người đàn bà thì đừng đeo đuổi họ nữạ Người đàn bà chỉ bị chinh phục khi người đàn ông đủ sức hấp dẫn ho.. Một kho họ thấy bị đeo đuổi, họ sẽ từ khước.(Krassovsky)

Đối với người đàn bà, không được yêu là một tai họa; nhưng không được yêu nữa mới thực là một cái nhục.
(Montesquieu)

Nơi nào có người đàn bà đẹp, thì nơi đó có người đàn ông thở dàị
(Tục Ngữ Hung-Ga-Ri)

Người ta có thể quyến rũ người đàn bà bằng sự dối trá, nhưng người ta chỉ có thể chinh phục được họ với tấm lòng thành thật.
Krassovsky)

Im lặng là vật qúi gía hơn vàng, nhưng trong tình yêu người đàn bà lại ghét cay ghét đắng.
(P.)

Khen tặng người đàn bà khác trước mặt người yêu là một sự sỉ nhục không thể tha thứ được.
(Bà De Stael)

Một nữa ưu sầu của phụ nữ sẽ không còn nếu họ có thể dằn lòng đừng nói những điều mà họ biết là vô ích. Hơn thế nữa, những điều cần giải quyết thì họ lại không nói rạ
(George Eliot)

Ai có thể cai trị được một người đàn bà thì người ấy có thể cai trị được một nước.
(Honoré De Balzac)

Khi một người đàn bà hứa yêu anh, anh không nên luôn luôn tin họ, nhưng khi họ bảo không yêu anh. Ấy, anh cũng không đáng tin họ nữạ
(Edouard Bourdet)

Tiền bạc cũng như phụ nữ, muốn giữ nó thì phải săn sóc nó một chút, bằng không…. nó đi tạo hạnh phúc cho kẻ khác.
(Edouart Bourdet)

Ra đời trăm trận trăm thắng, về nhà không thắng nổi người đàn bà.
(Napoleon ler)

Có hai loại đàn bà: một loại muốn chữa những sai lầm của người đàn ông, còn loại kia muốn la một lỗi lầm.
(Hỵ Sheridan)

Hỡi ôi! Ddược người đàn bà yêu thì ai cũng biết là điều thích thú, nhưng dễ sợ lắm.
(Lord Byron)

Phụ nữ làm cho cách xử thế ở đời được trau chuốt và khiến cho người ta chuộng sự lễ đô.. Họ là thầy dạy chân chính về mỹ quan và là người khích lệ mọi sự hy sinh. Hiếm có người đàn ông nào yêu thương họ mà lại là người man rợ
(Gabriel Legouvé)

Người đàn bà nào qúi trọng đạo đức của tâm hồn mình hơn sự thông minh và bóng sắc của mình, là hạng người đứng trên đồng loại của mình. Kẻ nào qúi trọng bóng sắc của mình hơn tài đức của mình, là hạng đàn bà tầm thường. Nhưng kẻ nào qúi trọng địa vị và giai cấp của mình hơn bóng sắc của mình, là hạng người đàn bà đứng ngoài lề đồng loại của họ : họ không phải là người đàn bà.
(Chamfort)

Người đàn bà sẵn sàng tự nhận mình nói quấy khi họ nói phải, hơn là khi họ nói quấỵ
(Jean Charles)

Bí quyết hạnh phúc của người đàn bà là tự tin cái vui trong bổn phận
(Dr. Auton)

Có một cách khen tặng người đàn bà mà họ thích nhất là nói xấu người đàn bà đối thủ của ho.. Khen tặng người đàn bà mà đồng thời cũng khen tặng một người đàn bà khác, thì sự khen tặng của mình thành vô gía tri..
(Bà De Girardin)

Không có người đàn bà nào mà không thích nghe người khác nói xấu kẻ thù của mình hơn là nói tốt cho chồng mình.
(Bà De Marie Laure De Noailles)

Người đàn bà mà thật thà là lúc họ thấy không cần thiết phải dùng đến sự dối trá vô ích.
(Anatole France)

Mê người đàn bà thì dễ, yêu người đàn bà thì khó.
(Marcel Aymé)

Người đàn bà đẹp là thiên đàng của cặp mắt, mà là địa ngục của tâm hồn.
(Pope)

Cái đẹp của người đàn bà không khác nào những mùi thơm thoảng qua và tan đi rất mau chóng, hễ ngửi quen rồi thì không ai còn để ý nữạ
(Bà De Lambert)

Đẹp là ở con mắt người khác ngắm nhìn
(Le Wallace)

Người đàn bà đẹp khó mà sống được an thân, cũng như ngọc qúi là mồi của trộm cướp
(Jean Jacques Rousseau)

Người đàn bà nói thích giản dị là người ít giản dị nhất. Người đàn bà nào nói ít làm dáng chính là người làm dáng nhất đờị Người đàn bà nào nói ít trang sức lại là người khéo trang sức hơn ai hết
(André Maurois)

Không có người đàn bà nào xấu cả, chỉ có những người dàn bà không biết làm cho mình được quyến rủ mà thôi
Christian Dior)

Đàn bà thường hay giữ lâu anh tình nhân đầu tiên, khi nàng chưa tìm được anh tình nhân thứ hai
(La Rochefoucauld)

Không có gì làm đau khổ cho người đàn bà đẹp bằng thấy có người đẹp hơn mình
(Philippe De Varenne)

Trước con mắt của người yêu, không có người đàn bà nào xấu cả
(Ronsard)

Một người đàn bà xấu mặt nhưng đẹp lòng là người đàn bà đẹp. Một người đàn bà đẹp mặt nhưng lòng dạ không đẹp là người đàn bà xấu
(Helvétius)

Tình cảm của người đàn bà là một thứ tình khó hiểụ Khi ra đường mà có người khen đẹp thì tự cao, khi không có người hỏi đến thì tự cho là mình bạc số
(Clémenceau)

Người đàn bà luôn luôn được coi như ngang hàng với vua chúạ Người đời nịnh bợ họ vì lợi chứ không phải vì yêu
(Rochebrune)

Nếu trừng trị người đàn bà thì người đời cho là vũ phụ Còn không trừng trị người đàn bà thì bị người đời cho là sợ vợ
(Scott Fitgérald)

Người ta sẵn sàng tha thứ tất cả đối với người đàn bà mình thật lòng yêu mến. Và chính vì thế mà tình yêu trở nên khó thở
(J. Chardonnes)

Đàn bà thường vướng vào mình năm cái sợ:
– Sợ già
– Sợ xấu
– Sợ nghèo
– Sợ bị bỏ rơi
– Sợ chết
(Montesquieu)

Lòng người đàn bà là một biển thẳm, mà đáy biển còn có thể dò được, nhưng lòng dạ đàn bà thì không.
(Riccoboni)

Đàn ba cũng như cái mền về mùa hạ, đắp vào thì quá nóng nhưng bỏ ra thì la.nh.
(Danh ngôn Nigri)

Hai người đàn bà họp lại thành một cái mền đẹp, ba người thành một cái gì khá ồn rồi, nhưng bốn người thì thành một cái chợ
(Gabriel Meurier)

Sức mạnh của đàn bà là ở chỗ nói nhiềụ
(Danh ngôn Nigri)

Người đàn bà khôn ngoan là người có nhiều điều muốn nói nhưng không nói rạ
(Danh ngôn Ba Tư)

Chim họa mi có thể quên hót, chứ đàn bà không thể quên nóị
(Danh ngôn Tây Ban Nha)

Muốn cho người đàn bà nói, có hàng ngàn cách khác nhau, nhưng không có cách nào làm họ câm miệng hết.
(Guillaume Bouchet)

Khen đàn bà thì cứ tha hồ nói dối, họ sẽ tin hết mình.
(Danh ngôn Pháp)

Không có lời nói dối kỳ quái nào mà người đàn bà chẳng tin, nếu đó cũng là lời khen nàng.
(Khuyết Danh)

Chưa có người đàn bà nào soi gương mà thấy mình xấu cả.
(Cesar Oudin)

Người đàn bà đẹp, ba phần là do cái đẹp trời cho, còn bảy phần là nhờ đồ trang sức.
(Danh ngôn Trung Hoa)

Những người đàn bà mà đeo qúa nhiều đồ trang sức thì thật là khó mà biết được họ yêu ta vì cái gì
(Bà DE RIEUX)

Người con gái thích được khen dù xấụ Vì thế cho nên người đàn bà nào cũng thường hay chết vì người đàn ông am tường điều đó
(PASCAL)

Lòng tự ái làm nên tai họa cho phần đông đàn bà hơn là tình yêu
(LA ROCHEFOUCAULD)

Mỗi người đàn bà đều có một nét quyến rũ kỳ bí, nếu họ không kiêu hãnh và bướng bỉnh
(JOANNA BAILLIE)

Người đàn bà không bao giờ thấy điều gì mình làm cho họ, họ chỉ thấy điều mà mình không làm
(G. COURTELINE)

Phần đông những người đàn bà đoan chính là những kho tàng bí mật, chỉ được gìn giữ chắc chắn khi không có ai biết tìm đến
(LA ROCHEFOUCAULD)

Người đàn bà tha thứ được những sự thiệt hại cho họ, nhưng không bao giơ quên được những sự khinh miệt
(HALIBURTON)

Ánh mắt của phụ nữ nói lên với nhiều duyên dáng, một cách rất ân cần cái điều mà miệng họ không dám thốt ra
(MAURIVAUX)

Yêu tất cả moi đàn bà dễ hơn là yêu một người độc nhất
(ETIENNE RAY)

Tình yêu thành thật làm cho người đàn bà trở nên kín đáo và ít bộc lộ
(BARTHE)

Tham vọng của người đàn bà là chiếm được lòng yêu của người những kẻ chung quanh và kế cận bên mình, chứ không cần lòng kính cẩn tôn sùng của những người xa lạ
(GINA LOMBROSO)

Ðàn bà luôn luôn sẵn lòng hy sinh nếu bạn cho họ có cơ hộị Sở trường của họ chính là nhường nhì.n
(SOMERSET MAUGHAM)

Ddau khổ là lò un đúc tâm hồn người đàn bà để trở thành cao cả
(GINA LOMBROSO)

Người đàn bà không sợ chết, không sợ đau khổ, nhưng chỉ lo sợ khi mình chết mà chưa được người mình thương yêu biết đến tình yêu của mình.
(GINA LOMBROSO)

Qủa tim của người đàn bà không bao giờ gìa cỗi, và một khi nó không yêu nữa thì đó là vì nó đã ngừng đập
(P. ROCHEPEDRE)

Cảm rồi yêu, đau khổ rồi lại hy sinh. Ddó là những đề tài chính trong cuộc đời của người đàn bà.
(GOETHE)

Rung động, yêu thương, đau khổ, hy sinh, tất cả sẽ mãi mãi là những trang tình sử của người đàn bà.
(HONORE DE BALZAC)

Một người đàn bà hoặc yêu hay ghét, họ không lưng chừng.
(PUBLILIUS SYRUS)

Nhà không có đàn bà như thân xác mà thiếu linh hồn.
(Danh Ngôn Pháp)

Người đàn bà như cái hoa, chỉ nhả mùi thơm trong bóng tốị
(LAMENAIS)

Có ba thứ làm cho con tim ta mát rợi và quên hết mọi nỗi buồn: đó là nước, hoa và sắc đẹp của đàn bà.
(PHẠN)

Kẻ nói tốt cho phụ nữ là kẻ chưa biết rỏ phụ nữ, còn kẻ nói xấu phụ nữ là kẻ không biết gì cả về phụ nữ.
(PIGAULT LEBRUN)

Cái khó khăn chính đối với người đàn bà đức hạnh không phải là chinh phục họ, mà là đưa họ vào một nơi khép kín. Cái đức hạnh của họ làm bằng những cánh cửa nửa mở nửa đóng.
(JEAN GIRADOUX)

Một người đàn bà chỉ có thể giử được tình yêu, không phải tình yêu mà nàng cảm hứng, nhưng là tình yêu mà nàng hoài bảo, chỉ có kim cương mới rạch được kim cương, chỉ có tình yêu mới đủ mạnh để chống lại tình yêụ
(G.Ạ CAILLAVET & R. DE FLERS)

Đàn bà chỉ trao cho tình bạn cái gì mà họ mượn được ở tình yêụ
(CHAMFORT)

Cái lỗi lầm lớn của người đàn bà là luôn luôn tìm cách kết bạn với người đàn ông họ yêu, thay vì kiếm một người đàn ông yêu họ
(LA BRUYERE)

Phụ nữ rất thích tiết kiệm…….trong sự hoang phí của họ
(FRIEDRICH HEBBEL)

Nước mắt chính là tài hùng biện của đàn bà.
(Thánh EVREMOND)

Nước mắt đàn bà che giấu nhiều cạm bẩy
(DENYS CATON)

Một bông hoa không mùi thơm cũng chẳng được qúi trọng gì hơn một người đàn bà đẹp mà vô duyên
(ẠV. ARNAULT)

Ðàn bà đẹp làm vui mắt, đàn bà hiền làm vui lòng. Người trước là một thứ nữ trang, còn người sau là một kho tàng.
(NAPOLEON ler)

Trong những lần yêu đầu tiên, người đàn bà yêu người tình, nhưng trong những lần sau thì họ chỉ yêu tình yêu
(LA ROCHEFOUCAULD)

Nên ca ngợi ngày đẹp trời vào lúc tối, nên ca ngợi người đàn bà đẹp vào buổi sáng
(Danh Ngôn Đức)

Không phải cái đẹp của người đàn bà đã làm ta ngây dại, mà chính là tính tình cao thượng của bà ta
(EURIPIDE)

Ðàn bà đã xấu thì không gì xấu xa hơn, nhưng nếu đã tốt thì không gì tốt bằng
(EURIPIDE)

Ðàn bà rất cay nghiệt với đàn bà
(TENNYSON)

Người đàn bà đưo8.c khen ngợi nhiều nhất là người không được người ta nói đến bao giờ
(Danh Ngôn TRUNG HOA)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu danh ngôn bất hủ về tình yêu

Tướng mặt cô gái tốt nên lấy làm vợ

Cô gái khuôn mặt tròn, môi mọng cân xứng, mắt dài và sáng, đẹp... có thể là người vợ biết giữ lửa cho gia đình và luôn hỗ trợ sự nghiệp của chồng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Vượng phu ích tử" là tướng của của một phụ nữ có thể giúp chồng có được nhiều điều tốt lành ở sự nghiệp và tài lộc, con cháu đông đúc, thành đạt. Sau đây là 6 tướng khuôn mặt phụ nữ vượng phu ích tử theo quan niệm của nhân tướng học:

1. Toàn thể gương mặt

Phụ nữ có khuôn mặt tròn được đại đa số đàn ông ưa thích. Những người có khuôn mặt này thường là người phúc hậu, luôn kính trên nhường dưới, không gây cãi vã xung đột - yếu tố đầu tiên đảm bảo cho hạnh phúc gia đình. Người có da mặt trắng hồng rất vượng về đường con cái.

2. Răng miệng

Cười không hở lợi, khuôn miệng đầy đặn, vừa phải, môi che kín răng, không móm là người thông minh, nhân hậu, tài năng. Những người này sẽ giúp ích cho chồng rất nhiều trong sự nghiệp. Đôi môi mọng, cân xứng, đỏ hồng, răng trắng biểu hiện sức khỏe tốt đồng thời có cuộc sống sung túc, sự nghiệp dễ thành, con cái trưởng thành và ngoan ngoãn. Những người phụ nữ kiểu này thường đem lại nhiều may mắn cho gia đình. 


3. Mũi

Phụ nữ có cánh mũi tròn, đầy đặn thường là những người gặp rất nhiều may mắn trong cuộc sống, có quý nhân phù trợ, đồng thời là người nhạy bén, thông minh, biết cách xử lý các tình huống xảy ra một cách ổn thỏa nhất. Những người phụ nữ có mũi như vậy còn là những người chân thành, chính trực, có khả năng giao tiếp tốt, rất phù hợp với công việc kinh doanh, dễ gây thiện cảm tốt trong các mối quan hệ, tốt cho công việc của chồng.

4. Mắt

Đa số những người phụ nữ có đôi mắt tươi sáng, thông minh đều nhạy bén trong công việc và biết cách làm hài lòng nhiều người. Mắt dài và đẹp, nếu đi kèm với đó là lông mày thanh tú thì sẽ trường thọ, cuộc đời vinh hiển. Phụ nữ có đôi mắt như thế còn rất có năng khiếu nghệ thuật, có óc thẩm mỹ, tính tình hoạt bát, luôn đem niềm vui đến cho những người xung quanh. Họ cũng rất tinh tế trong ứng xử. Kết hôn với những phụ nữ như vậy các ông chồng thường có cuộc sống hôn nhân gia đình ổn định, vững vàng.

Phụ nữ có mắt hai mí nhưng khi mở mắt, mí mắt gập vào bên trong như mắt một mí là người luôn điềm đạm, bình tĩnh, toát lên vẻ đẹp nội tâm, nhiệt tình, cởi mở hơn so với người mắt hai mí và họ cũng không thích thể hiện bản thân.

5. Lông mày

Có hai kiểu lông mày rất tốt cho phụ nữ. Đó là lông mày nhỏ mảnh và cong, loại còn lại là lông mày thon và nhọn dần. Ở loại thứ nhất thường lấy được người chồng hiền lành, những người phụ nữ có lông mày như vậy làm việc có chút vụng về nhưng lại rất tỉ mỉ, chăm lo cho gia đình từng chút một, biết tiến biết lui, hiểu lễ nghĩa, kính trên nhường dưới, được mọi người quý mến.  


Còn những phụ nữ có lông mày thon và nhọn dần thì thường rất thấu tình đạt lý, có tấm lòng bao dung cho bạn đời. Họ còn luôn tôn trọng đối phương nên quan hệ vợ chồng rất hòa hợp.

6. Nhân trung

Nhân trung là rãnh lõm chạy từ dưới mũi đến giữa môi trên. Nhân trung tốt nhất là dài và sâu, trên hẹp dưới rộng. Phụ nữ có nhân trung như vậy thường có tính cách trung hậu, khả năng sinh nở hoàn hảo. Hầu hết phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới rộng, đường giữa rõ nét thì dễ sinh nở hơn.

(Theo Nhà báo và Công luận)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt cô gái tốt nên lấy làm vợ

Mơ thấy dự tiệc: Giàu có, an khang –

Bữa tiệc phong phú là tượng trưng của sự giàu có an khang. Trong mơ xuất hiện một bữa tiệc ồn ào náo nhiệt, chứng tỏ cuộc sống hiện tại của bạn khá tốt. Giấc mơ này dự báo năng lực giao tiếp xã hội của bạn sẽ ngày một nâng cao. Mơ thấy bữa tiệc long
Mơ thấy dự tiệc: Giàu có, an khang –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy dự tiệc: Giàu có, an khang –

Sự tích lễ Vu Lan

Lễ Vu Lan xuất phát từ tích Tôn giả Mục Kiền Liên thỉnh cầu Đức Phật chỉ giáo cách cứu giúp người mẹ già của Tôn giả đang bị đày ải dưới địa ngục đầy đau khổ. Đó là vào ngày rằm tháng Bảy, làm lễ báo hiếu cha mẹ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ Vu Lan – Báo hiếu mẹ (và tổ tiên nói chung) là truyền thống văn hóa của người Á Đông. Thế nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc của ngày Lễ thiêng liêng này. Để dễ đọc, dễ nhớ, Nhà thơ, dịch giả Thái Bá Tân đã chuyển thể câu chuyện này thành thơ. Xin chân thành cám ơn tác giả!

SỰ TÍCH LỄ VU LAN

        Thái Bá Tân

Theo truyền thuyết nhà Phật,

Bà mẹ Mục Kiền Liên

Là người không mộ đạo

Báng bổ cả người hiền.

 

Bà không tin Đức Phật

Không tin cả Pháp, Tăng

Tam Bảo và Ngũ Giới

Bà cho là nhố nhăng.

 

Nên bà, sau khi chết

Vì tội lỗi của mình

Bị đày xuống địa ngục

Chịu bao nỗi cực hình.

 

Về sau thành La Hán

Tôn giả Mục Kiền Liên

Đạt lục thông, ngũ nhãn

Nhìn thấu hết mọi miền.

 

Ông thấy mẹ đang đói

Dưới địa ngục âm u

Bát cơm ăn chẳng có

Bị đói khát, cầm tù.

 

Ngay lập tức tôn giả

Liền mở phép thần thông

Lần xuống đáy địa ngục

Đưa cơm cho mẹ ông.

 

Bà này khi còn sống

Từng tranh ăn với con

Bây giờ xuống địa ngục

Thói xấu ấy vẫn còn.

 

Bà vội lấy vạt áo

Che bát cơm to đầy

Định lẻn đi ăn mảnh

Một mình sau gốc cây.

 

Nhưng vừa đưa lên miệng

Cả bát cơm, than ôi

Đã biến thành cục lửa

Cháy hết răng và môi.

 

Dẫu là người hiếu thảo

Lại đệ nhất thần thông

Mà tôn giả bất lực

Không giúp được mẹ ông.

 

Ông quay về Tịnh Xá

Tìm gặp Phật Thích Ca

Nhờ Ngài chỉ giùm cách

Cứu giúp bà mẹ già.

 

Đức Phật nghe rồi đáp:

“Mẹ ngươi quá lỗi lầm

Nên ngươi không thể cứu

Chờ tháng Bảy, ngày Rằm

 

Ngày mọi người hoan hỷ

Hãy làm lễ Vu Lan

Mời mọi người đến dự

Mâm cỗ bày trên bàn”

 

Ngay lập tức tôn giả

Đúng theo lời Thích Ca

Làm lễ Vu Lan lớn

Cứu được người mẹ già.

 

Và mọi người từ đấy

Vào ngày này hàng năm

Tổ chức lễ xá tội

Cho tổ tiên lỗi lầm.

 

Về sau, chính tôn giả

Đã tự nguyện thành người

Trông coi chuyện âm phủ

Đầy oan trái sự đời.

  Khi làm lễ xá tội

Cho tổ tiên lầm đường

                                                                                                                                                                Nguồn: Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích lễ Vu Lan

Nhìn tay đoán hạnh phúc trong tình yêu

Tình yêu mang lại hạnh phúc cho con người, sưởi ấm trái tim và cuộc đời. Chính vì vậy, tình yêu là rất đáng quý, nhưng không phải ai cũng có được tình yêu.
Nhìn tay đoán hạnh phúc trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu mang lại hạnh phúc cho con người, sưởi ấm trái tim, sưởi ấm cuộc đời. Chính vì vậy, tình yêu là rất đáng quý, nhưng không phải ai cũng có được tình yêu.

Ngón tay út dài và thẳng
 
Những người có ngón tay út dài và thẳng thường hay thẳng thắn và rõ ràng trong chuyện tình cảm. Họ hiểu cực rõ về người mình yêu thương, về tình cảm cũng như cuộc sống, thói quen… của người đó, nên họ sẽ cố gắng vun đắp tình cảm của họ với người này, làm mọi việc để tình cảm được gắn bó và thân thiết hơn.

Nhin tay doan hanh phuc trong tinh yeu hinh anh
Người có ngón tay út dài và thẳng là người rõ ràng trong chuyện tình cảm

Đường “tình” cong, có phân nhánh

 
Đây là những người thông minh, nhanh nhẹn, biết cách mang lại cảm giác hạnh phúc cho đối phương. Họ yêu đối phương bằng một tình yêu chân thành và ấm áp. Chính vì tình cảm dành cho đối phương lớn như vậy nên họ sẽ được đền đáp xứng đáng. Hai người sẽ cùng nhau xây dựng một tình yêu lớn, mang lại cho nhau những hạnh phúc ngọt ngào.   Gò Kim tinh đầy đặn, màu hồng, có đường chỉ tay nhỏ
 
Người có những dấu hiệu trên là những người trọng tình nghĩa, có nhân cách tốt. Ngoài ra, những người này còn có khả năng tình dục tốt, biết cách hưởng thụ cũng như hâm nóng tình yêu.
 
Tuy nhiên, trên gò Kim tinh có quá nhiều đường chỉ nhỏ thì là dấu hiệu cho thấy người này sẽ phải chịu nhiều vất vả.
 
► Tự xem chỉ tay đơn giản để luận giải về cuộc đời, vận mệnh của bản thân

Theo Tuvisomenh
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tay đoán hạnh phúc trong tình yêu

Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Người tuổi Mùi mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Mùi 1943, 2003...
Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người tuổi Mùi mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Mùi 1943, 2003... 

Cả nam giới và nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường có vẻ ngoài ưa nhìn. Đây là những người có nghị lực, luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ không phải là những người quá tham vọng. Họ biết tự lượng sức để tiếp tục duy trì địa vị xã hội và thực lực kinh tế hiện có của mình. Họ cũng luôn lạc quan, hài lòng với cuộc sống. 1 số người tuổi Mùi mệnh Mộc lại có tính đa nghi và điều này đôi khi ảnh hưởng tiêu cực đến công việc. Sự do dự trong những tình huống cần phải quyết đoán khiến họ bị mất đi không ít cơ hội trong làm ăn kinh doanh.

Đa số người tuổi Mùi mệnh Mộc, đặc biệt là phụ nữ thường khá nhạy cảm. Họ coi trọng phép tắc, lễ nghĩa trong cuộc sống. Khi còn trẻ, người tuổi Mùi mệnh Mộc thường khá chăm chỉ, sống tiết kiệm. Cuộc sống của họ khá bình lặng, ít nhờ vả anh em, bạn bè. Sau khi lập gia đình, họ sẽ có cuộc sống khá giả hơn. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của chồng con.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi mệnh Mộc

dọn nhà đón tết hợp phong thủy

Mỗi gia đình người Việt đều có thói quen làm đẹp cho ngôi nhà mỗi khi Tết đến. Tuy nhiên việc dọn dẹp nhà cửa đón Tết hợp phong thủy lại là một việc không đơn
dọn nhà đón tết hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trang hoàng, làm đẹp cho ngôi nhà cứ mỗi độ Tết đến, Xuân về là thói quen không thể thay đổi của mỗi gia đình Việt. Tuy nhiên để việc làm đẹp cho ngôi nhà không ảnh hưởng đến không gian cũng như yếu tố phong thủy cần phải lưu ý một số điều.

* Lưu ý các khoảng trống và trung cung

Đa số mọi người hay bày biện đồ trong tủ, đặt đồ đạc dọc tường nhà, đặt thành cặp, bố trí đối xứng trên các bức tường phòng khách mà quên phần trung cung, thường là những khu vực đi lại, khoảng trống giữa các phòng, giếng trời hay trục cầu thang. Chính những vùng không sinh hoạt thường xuyên này lại là điểm thu hút sinh khí và dẫn dắt tầm nhìn cho nội thất tươi mới.

Vì vây, nên dọn sạch gầm thang, tăng cường chiếu sáng và có thể đặt thêm vật dụng trang trí như tượng đá, chậu hoa nhỏ cho các khu vực này. Đối với căn hộ chung cư, Trung Cung thường là phần giao điểm qua lại các phòng, tạo điểm nhấn như dùng thảm hoặc tranh ảnh, bình gốm (thuộc thổ, có tính trung hòa) chậu cây cảnh bề thế… cũng là biện pháp tốt tạo nên một Trung Cung sáng sủa và sinh động vào năm mới.
don nha don tet hop phong thuy hinh anh
Dọn nhà đón Tết

* Lưu ý các vùng chuyển tiếp trong ngoài

Bậu cửa sổ, bậc thềm, sảnh vào cửa chính… vốn là nơi nạp khí và thoát khí thường ngày, nên tạo sắc thái mới bằng các thủ pháp trang trí hoặc tiểu cảnh.

Các vật dụng ưu tiên cho khu vực chuyển tiếp thường là chậu cây bon sai hoặc cây cảnh đẹp chịu bóng râm, tỳ hưu bằng đá hay đồng, tranh ảnh câu đối, hình dán linh vật của năm, treo đèn lồng.

Cần lưu ý yếu tố chiếu sáng và âm thanh tương ứng cho vật trưng bày, bằng cách dùng thêm đèn pha, đặt thác nước, lu nước phong thủy chảy róc rách, treo phong linh, ống sáo trúc để tăng sinh động và kích thích luân chuyển sinh khí trong nhà.

* Cẩn trọng với bàn thờ

Đối với khu vực thờ tự, dùng khăn giấy ướt lau sạch bụi bặm cho các tượng (thần tài, thổ địa) hoặc ảnh trên bàn thờ. Tuy nhiên, nên hạn chế di chuyển tượng, ảnh và không dùng giẻ lau. Tiếp theo, hãy kê gọn bàn thờ cho hợp lý theo nguyên tắc: Bát nhang lúc nào cũng đặt xa tượng/ảnh nhất, nghĩa là gần với người thắp nhang nhất, khoảng ở giữa dùng để bày nước, trà, rượu, bình hoa hoặc là mâm trái cây khi cúng. Đối với những nhà thắp nhang nhiều, khi cúng vào ngày 30 tháng Chạp nên đốt hết phần chân nhang của năm cũ, lưu ý là không được vứt vào sọt rác.

Theo phong thủy, quan điểm kỵ di chuyển bát nhang trên bàn thờ là không đúng. Thật ra, việc đánh bóng lư đồng, bát nhang vào dịp lễ, Tết vừa thể hiện sự trang trọng vừa giúp “tống cựu nghinh tân”.

* Lưu ý các vị trí ăn uống, đãi khách

Đây cũng là nơi cần chỉnh trang vào dịp Tết bởi khu vực này sẽ thường xuyên tập trung người trong dịp năm mới. Cần có chỗ ngồi ổn định của gia chủ để dễ dàng quán xuyến trong ngoài. Bổ sung các vật dụng vừa trang trí vừa sử dụng hiệu quả như hộp khăn giấy, giá để rượu, khay trà…

Tránh xếp đặt tùy tiện theo kiểu gặp đâu ngồi đấy, khi nhà có nhiều khách sẽ vướng víu và bất tiện. Cũng cần dự trù khoảng trống cho trẻ em vui đùa, do vậy có thể cất bớt đi một vài đồ đạc có góc cạnh sắc nhọn để giải phóng không gian và tránh nguy hiểm cho trẻ em vào dịp Tết.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: dọn nhà đón tết hợp phong thủy

Kiêng kỵ sôpha không chỗ dựa –

Hiện tượng: Lưng ghế sôpha không có chỗ dựa, khí trường vô cùng không ổn định, rất dễ dẫn đến tinh thần bất an, công tác, học hành không chuyên tâm. Phương pháp hóa giải:Phương thức hóa giải triệt để nhất là điều chỉnh vị trí ghê sôpha chỉnh sao cho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Lưng ghế sôpha không có chỗ dựa, khí trường vô cùng không ổn định, rất dễ dẫn đến tinh thần bất an, công tác, học hành không chuyên tâm.

boc-ghe-sofa-da-dep

Phương pháp hóa giải:Phương thức hóa giải triệt để nhất là điều chỉnh vị trí ghê sôpha chỉnh sao cho lưng ghế dựa vào tường. Nếu trong trường hợp không thể dịch chuyển vị trí thì sau lưng ghế có thể đặt 36 đồng tiền cổ để tạo thành một tường khí giúp ổn định khí trường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ sôpha không chỗ dựa –

Tranh thờ Ngũ hổ

rong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, hổ là con vật được tôn thờ. Danh xưng của hổ cũng được thần thánh hóa là Ngài, là Ông. Hổ được dựng thành biểu tượng qua
Tranh thờ Ngũ hổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

T nhiều chất liệu của tạo hình: gỗ, đá, vôi giấy, đất nung, tranh vẽ, tranh cắt giấy... có ở hầu khắp các công trình: đền, miếu, đình, lăng mộ... Mẫu tranh được biết đến nhất qua nhiều thế hệ là tranh Ngũ hổ của phố Hàng Trống (Hà Nội) ngày xưa.

Tranh Ngũ hổ

Tranh có kích cỡ 0,55m x 0,75m, vẽ 5 con hổ được bố cục cân đối trên mặt giấy. Mỗi con một dáng vẻ: con thì đứng, con thì ngồi, con cưỡi mây lướt gió... Đây là loại tranh khắc gỗ in trên giấy nhưng cách thức của dòng tranh Hàng Trống là chỉ in bản nét rồi dùng bút lông tô màu.

Màu sắc trong tranh Ngũ hổ là một thế giới hòa sắc, lộng lẫy, uy linh. Tuy nhiên, nó vẫn được khu biệt với 5 màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen trên 5 nhân vật. Lối dùng màu này của các nghệ nhân Hàng Trống thể hiện rõ một hàm ý mang triết lý sâu xa của quan niệm dân gian truyền thống.

Hoàng hổ: Con hổ ngồi giữa tranh được vẽ vờn bằng màu vàng, tượng trưng cho hành Thổ - ứng với trung ương chính điện.

Thanh hổ: Con hổ được vẽ bằng màu xanh là tượng trưng cho hành Mộc, ứng với phương Đông.

Bạch hổ: Con hổ được vẽ bằng màu trắng là hành Kim ứng với phương Tây.

Xích hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đỏ là hành Hỏa ứng với phương Nam.

Hắc hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đen là hành Thủy ứng với phương Bắc.

(Theo Danangpt)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tranh thờ Ngũ hổ

Mở cửa sổ trời cần xem những vấn đề phong thủy gì? –

Cùng giống như cửa ra vào, cửa sổ làm cho khí lưu thông vào ra nhà dễ dàng hơn. Hướng của tia sáng có thể làm thay đổi năng lượng khí trong nhà, nếu có thế để cả 4 phương 8 hướng đều có ánh sáng vào được trong nhà là lý tưởng nhất. Thời xưa mọi người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng giống như cửa ra vào, cửa sổ làm cho khí lưu thông vào ra nhà dễ dàng hơn. Hướng của tia sáng có thể làm thay đổi năng lượng khí trong nhà, nếu có thế để cả 4 phương 8 hướng đều có ánh sáng vào được trong nhà là lý tưởng nhất.

PT-2011-gieng-troi

Thời xưa mọi người xem cửa sổ trời là “cửa long khí xung thiên”, từ nhiều di sản văn hoá dưới đất được khai quật cho thấy, phòng bếp và phòng ăn thời xưa đều được bố trí thống nhất, phòng bếp ở giữa nhà, phía trên có cửa sổ trời cho khói thoát ra.

Trong các ngôi nhà thời hiện đại, lắp một cửa sổ trời có thể cung cấp đủ ánh sáng mặt trời cho bên trong nhà, tạo tầm nhìn của mắt người rộng và thoáng hơn. Người ở trong nhà bình thường có thể cân nhắc để mở một cửa sổ trời, đây là một cách thực tế làm cho nhà có đủ ánh sáng, cách này đặc biệt có hiệu quả với những nhà không có cửa sổ. Ở giữa nhà mở một cửa số trời, nhiều ánh sáng tự nhiên, như vậy là đã sử dụng hợp lý nguồn năng lượng tự nhiên. Nhiều nhà, để thoả mãn nhu cầu ánh sáng đã phải mở cửa sổ trời trên nóc nhà mình, đây là cách làm vẫn thường gặp ở các ngôi nhà kiểu phức hợp. về phong thuỷ, mở cửa sổ trời cũng là một vấn đề cần phải có kiến thức và học vấn và cần được cân nhắc, xem xét kỹ. Trên nguyên tắc, thứ nhất là không được mở ở hai hướng Tây Nam và Đông Bắc, nếu không sẽ gặp đại hung; thứ hai là không được mở quá to, nếu không dương khí quá thịnh, người trong nhà dễ gặp chuyện bất hạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mở cửa sổ trời cần xem những vấn đề phong thủy gì? –

Đền Lăng Sương - Phú Thọ

Di tích Đền Lăng Sương đã được lập quy hoạch tổng thể nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn hóa điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh
Đền Lăng Sương - Phú Thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tỉnh Phú Thọ có ba nơi có di tích lịch sử văn hóa về tâm linh rất nổi tiếng, đó là: Đền Hùng ở thành phố Việt Trì, đền Mẫu Âu Cơ ở huyện Hạ Hòa và Đền Lăng Sương tọa lạc trên địa phận xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Đền Lăng Sương nằm trong hệ thống các di tích thờ Tản Viên vùng ven sông Đà và vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ thờ Tản viên Sơn Thánh là một trong bốn vị thần “tứ bất tử” của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam.

Với lòng tôn kính, ngưỡng mộ, nhân dân đã suy tôn Tản Viên là vị thần “Thượng đẳng tối linh”, “Đệ nhất phúc thần” đứng đầu “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng cổ truyền người Việt.

Đền Lăng Sương tự hào là mảnh đất đã sinh ra Thánh Tản. Đây có thể coi là mảnh đất “chôn nhau, cắt rốn” của vị thần linh tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cùng với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản, đền Lăng Sương còn thờ Thánh Mẫu – người có công sinh ra Thánh Tản. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây đã hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như Mẹ Âu Cơ, Đất Mẹ, Mẹ Nước…

Cổng đền có đôi câu đối “Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch/ Địa lưu thần tích hiển Nam bang” (tạm dịch: Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc/ Đất lưu thần tích hiến trời Nam). Và “Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần/ Bả thác long linh giáng hạ trần” (tạm dịch nghĩa: Lăng Sương ngọc sáng, ngọc tinh thần/ Máng dấu rồng thiếng xuống hạ trần).

Đền chính có kiến trúc kiểu chữ công (I) gồm 3 gian đại bái, ống muốn và 3 gian hậu cung. Trong tòa đại bái có xây bệ thờ tượng Cao Sơn và Quý Minh là bộ tướng có công giúp Tản Viên dẹp giặc Thục.

Tòa hậu cung bài trí long ngai thờ Thánh Mẫu Đinh Thị Đen (mẹ của Tản Viên) và thờ đức Thánh Tản. Trong tòa hậu cung còn thờ Thánh phụ Tản Viên là ông Cao Hành, bà dưỡng mẫu (mẹ nuôi) là Ma Thị và công chúa Ngọc Hoa (vợ Tản Viên). Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía Đông Bắc, tương truyền có ngôi mộ của Thánh Mẫu nay ở đó đã được xây thành lăng tẩm.

Chính điện của đền
Chính điện của đền

Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng – giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản). Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh.

Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy…

Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2005.

Di tích đền Lăng Sương đã được lập quy hoạch tổng thể nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn hóa. Xây dựng Lăng Sương thành một điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh phục vụ du khách thập phương và phát triển kinh tế dịch vụ du lịch là hướng đi đúng của huyện Thanh Thủy và điểm đến của du khách thập phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Lăng Sương - Phú Thọ

Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Nếu bạn mơ thấy con đường rộng và đẹp thì có thể bạn sẽ đón nhận cuộc sống hạnh phúc. Giấc mơ này cũng dự báo rằng những người bạn tốt sẽ luôn ở bên bạn.
Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn mơ thấy một con đường rộng và đẹp thì có thể bạn sẽ đón nhận cuộc sống hạnh phúc. Giấc mơ này cũng dự báo rằng những người bạn tốt sẽ luôn ở bên bạn. Ngược lại, giấc mơ về con đường chật hẹp cảnh báo về những rắc rối liên quan đến người thân. Vì vậy, bạn cần hết sức cảnh giác. 


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Than trong khi thay con duong trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
Nếu bạn mơ thấy một con đường nhựa rộng và còn trong tình trạng tốt thì có thể bạn sẽ đón nhận một sự tiến triển trong công việc tuy chậm nhưng chắc chắn.    Nếu con đường đó bị hư hỏng và chật hẹp thì rất có thể bạn sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.    Nếu bạn nhìn thấy con phố rất dài trong giấc mơ là điềm báo rằng bạn cần kiên trì và chăm chỉ hơn trong công việc mới có thể đi đến thành công.    Một con phố lạ xuất hiện trong mơ báo hiệu về những thành công nhờ vào những mối quan hệ mới.    Giấc mơ về con đường quanh co là điều không may vì nó dự báo về những chuyến đi xa không thuận lợi hoặc những bí mật của bạn có thể bị bại lộ.
Mơ thấy mình cùng người lạ đi trên đường là sự nghiệp sắp đạt thắng lợi.

 
Mơ thấy mình cùng đối thủ đồng hành ngụ ý bạn sẽ đánh bại hắn.

 
Mơ thấy bạn bè hoặc vợ cùng mình đi trên đường phản ánh những suy nghĩ của bạn không thống nhất.

 
Mơ thấy bạn độc lập đi trên đường, điều này tượng trưng cho việc trong cuộc sống bạn phải đương đầu với khá nhiều đối thủ.

 
Mơ thấy trước mặt mình có nhiều con đường nhưng không biết chọn đường nào là ngụ ý tin tức tốt đẹp sắp chuyển tới.

 
Mơ thấy mình quên đường đi và lập tức chuyển hướng, ngụ ý bạn sẽ có may mắn.

 
Nam giới chưa kết hôn mơ thấy mình quên đường đi là bạn sẽ tìm thấy người yêu đồng chí hướng.

 
Người bệnh mơ thấy mình quên đường đi là bạn sẽ được trị liệu tốt và sắp bình phục.

 
Nhân viên văn phòng mơ thấy mình quên đường đi là sắp được thăng chức.

 
Mơ thấy mình không đi chung một con đường với bạn bè hay vợ/chồng là ngụ ý tình cảm thêm thắm thiết.
   Lichngaytot.com
 
Sự thật xung quanh giấc mơ về ngôi nhà
Căn nhà là nơi lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất của gia đình mỗi người. Mơ thấy nhà thường là điềm lành, báo hiệu những tin tốt đẹp mà có thể bạn sẽ được đón
Giải mã một vài địa điểm thấy trong giấc mơ
Đôi khi bạn mơ thấy mình ở công viên, nhưng cũng có khi ở trong nhà tù. Địa điểm khác nhau thì ý nghĩa mỗi giấc mơ cũng khác nhau.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Thế nước quanh nhà hợp phong thủy

Hồ nước, dòng sông quanh nhà không chỉ làm tăng vẻ đẹp mà còn giúp gia chủ hưng vượng. Dưới đây là một số thế nước quanh nhà tốt lành, hợp phong thủy.
Thế nước quanh nhà hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 
The nuoc quanh nha hop phong thuy hinh anh
 
1. Hoa nguyệt trì đường, đại cát đại lợi
Hồ, ao, đầm bên nhà có hình bán nguyệt ngụ ý thủy bao bọc, mang lại điều may mắn, phát tài. Ao, hồ trước nhà hình vuông là đầy đặn, hưng thịnh. Hồ hình nồi úp, phú quý vô lượng. 
 
2. Tây Nam có thủy, phát phúc giàu sang Cổ ngữ có câu: “Khôn (Tây Nam) sơn, Khôn hướng, Khôn thủy lưu, phú quý vô hưu”. Tức là ở vị trí cung Khôn có dòng nước chảy thì phú quý. Cung Khôn thuộc Thổ, có Thủy tài vận thông. Sông, hồ, ao càng lớn thì tài vận càng phát.
 
3. Hai bên sông dài, như ý cát tường Hai bên nhà là hai dòng sông, con cháu hưởng phúc. Dòng sông phải có thế bao bọc, không thúc vào lưng nhà, được thủy bao bọc thì đất ấm, phúc lộc nhiều.
 
4. Bên trái ao hồ, nhân khẩu bình an Bên trái nhà có ao, hồ tức là Thanh Long hữu thủy thúc đẩy tài vận, thì gia chủ bình an, khỏe mạnh, gia đình thuận hòa, tiền của tăng nhanh. 
 
5. Tứ Thủy quy đường, an khang thịnh vượng
Minh đường là mảnh đất trước nhà. Cổ nhân có câu: “Minh đường như lòng bàn tay, nhà giàu đấu đong vàng”. Tứ thủy ở đây không phải là 4 dòng nước mà là có dòng nước bao quanh khu đất, nước chảy có thế tụ Minh đường. thủy bao thì khí tụ, khí tụ thì tài tụ, sức khỏe tốt, làm ăn thuận lợi.
 
6. Khúc thủy bao thành, vinh hoa phú quý Dòng sông chảy ngoằn ngoèo, uốn lượn gọi là “khúc thủy”. Sông bao bọc đất gọi là “bao thành”. Thế đất được bao vinh hoa phú quý bởi đất được nước bao thì ấm áp, tụ khí, tụ tài.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nước quanh nhà hợp phong thủy

Cách hóa giải hướng nhà phạm ngũ quỷ –

Hướng nhà xấu có nghĩa là hướng nhà và cung mệnh của gia chủ không hợp. Trên thực tế rất có thể chúng ta đang ở trong ngôi nhà có hướng không hợp với cung mệnh của chúng ta. Nghĩa là cung chúng ta thuộc Tây Tứ Trạch nhưng lại ở trong ngô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng nhà xấu có nghĩa là hướng nhà và cung mệnh của gia chủ không hợp.

Trên thực tế rất có thể chúng ta đang ở trong ngôi nhà có hướng không hợp với cung mệnh của chúng ta. Nghĩa là cung chúng ta thuộc Tây Tứ Trạch nhưng lại ở trong ngôi nhà có hướng thuộc Đông Tứ Trạch. Thí dụ người thuộc cung Khôn (thuộc tây tứ trạch) nhưng lại có căn nhà có hướng cửa chính quay về hướng Đông Nam (phạm ngũ quỷ).

403

Hóa giải:

– Nếu gặp phải trường hợp này thì không vì thế mà chúng ta quá lo lắng vì ngoài hướng nhà không tốt thì chúng ta còn có thể hóa giải bằng cách điều chỉnh hướng bếp, hướng cửa phụ, chuyển đổi vị trí cửa chính theo cung vị khác,… cho hợp với cung mệnh của chúng ta.

– Ngoài ra chúng ta còn có thể treo thêm chuông gió hoặc sáo trúc ở trước hiên nhà (Chuông gió hay sáo trúc được áp dụng và sử dụng rất rộng rãi. Nó có tác dụng đón lành tránh dữ, báo động và xua đi những luồng khí dữ, mời chào những luồng khí trong lành dẫn tới ngôi nhà);

– Dùng tấm thảm trải nền có màu hợp với cung bản mệnh đặt phía trong chính giữa cửa chính (Tấm thảm có tác dụng chọn lọc khí tốt trong thiên nhiên tiếp thêm luồng khí lành đó cho ngôi nhà của chúng ta); Lựa chọn màu sắc cho các vật dụng, sơn tường, gạch nền… hợp với cung mệnh của chúng ta; Thiết kế kích thước của cửa chính và các cửa phụ của ngôi nhà theo các số đo tốt của thước lỗ bang…

Đặc biệt là nếu chúng ta luôn biết làm lành lánh dữ, hằng ngày luôn biết niệm Phật tụng kinh thì mọi điều không tốt sẽ dần dần được hóa giải theo chiều hướng tốt đẹp hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải hướng nhà phạm ngũ quỷ –

7 con số ám ảnh đáng sợ trên khắp thế giới

Nếu một người dân của thủ đô Kabul, không may sở hữu số điện thoại có số 39, một là phải đổi số điện thoại, hai là khi gọi cho người khác phải dùng chức năng ẩn số, nếu không sẽ chẳng có ai dám bắt máy khi họ gọi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài những con số 13, 666 mà nhiều người biết tượng trưng cho xui xẻo, chết chóc, ma quỷ thì còn 7 con số khác cũng gây ám ảnh đáng sợ khắp thế giới.

1. 39 là con số đáng sợ ở Afghanistan

Bestie-con-so-dang-so

Người dân Afghanistan rất sợ sự hiện diện của số 39 nên số phòng khách sạn, hay số điện thoại di động và điện thoại nhà, thậm chí cả địa chỉ nhà riêng đều không có số 39.

Nếu một người dân của thủ đô Kabul, không may sở hữu số điện thoại có số 39, một là phải đổi số điện thoại, hai là khi gọi cho người khác phải dùng chức năng ẩn số, nếu không sẽ chẳng có ai dám bắt máy khi họ gọi. Còn nếu biển số xe của họ có số 39, họ sẽ tìm cách sửa số 39 thành 38.

Thậm chí, những người 39 tuổi, không bao giờ nói tuổi thật của mình. Khi có ai hỏi bao nhiêu tuổi, họ sẽ trả lời: "Tôi gần 40" hoặc "Tôi qua 38 tuổi"...

2. Ở Bungari, 0888 888 888 là số điện thoại của cái chết

Chủ nhân đầu tiên của số điện thoại này là ông Vladimir Grashnov, cựu giám đốc điều hành Mobitel, nơi phát hành số 0888 888 888. Ông Grashnov đã qua đời vì căn bệnh ung thư hồi năm 2001 ở tuổi 48, nhưng có tin đồn rằng ông bị đối thủ đầu độc bằng chất phóng xạ.

Người thứ hai sở hữu số điện thoại 0888 888 888 là Konstantin Dimitrov, một trùm ma túy người Bulgaria với giá trị hợp đồng viễn thông không được tiết lộ. Năm 2003 Dimitrov bị ám sát ở tuổi 31, trong lúc đi ăn tại một nhà hàng ở Amsterdam (Hà Lan). Các băng nhóm mafia Nga được cho là đã đứng sau vụ ám sát.

Người chủ thứ ba của số điện thoại chết người này là doanh nhân Konstantin Dishliev, một nhà quản lý bất động sản cũng dính líu tới các hoạt động buôn bán ma tuý. Năm 2005, Dishliev bị bắn chết khi đang đứng gần một nhà hàng chuyên món Ấn Độ ở thủ đô Sofia (Bulgaria).

Đã 6 năm đã trôi qua kể từ ngày nhà mạng Mobitel chấm dứt hoạt động của số điện thoại 0888 888 888, vẫn chưa có ai trở thành chủ nhân mới của "chiếc SIM tử thần".

3. Số 11

Tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới đứng gần nhau giống như số 11 khổng lồ. Chiếc máy bay được điều khiển bởi những kẻ khủng bố đâm vào tòa tháp đôi vào ngày 11 tháng 9.

Chưa hết, 11 tháng 9, là ngày thứ 254 của năm và nếu cộng các số 2, 5 và 4, kết quả cũng là 11. Chiếc máy bay đầu tiên đâm vào tòa tháp, là chuyến bay số 11. Trong đó số lượng phi hành đoàn là 11 và 92 khách (9 + 2 = 11). Thậm chí, NEW YORK CITY có 11 chữ cái, AFGHANISTAN có 11 chữ cái, RAMSIN YUSEB (khủng bố đe dọa phá hủy tòa Tháp Đôi năm 1993) có 11 chữ cái, GEORGE W. BUSH có 11 chữ cái.

4. Số 17 đáng sợ với người Ý

Bestie-con-so-dang-so

Với người Ý số 17 là số không may mắn. Theo họ, nó tượng trưng cho cái chết, khi viết dưới dạng số La Mã là XVII. Nó cũng có thể biến đổi thành VIXI, trong tiếng Latinh nó được dịch là "Tôi đã sống", ở thì hiện tại nó lại ám chỉ: "Cuộc đời tôi đã kết thúc".

Vì thế trên máy bay ở Ý không bao giờ có số 17. Số 17 thường được khắc nổi trên những ngôi mộ của người La Mã cổ đại. Ngoài ra, ngày 17 được biết là ngày đầu của trận lụt Đại Hồng Thủy (đây là một trong những sự kiện hiếm hoi trong Kinh Thánh mà được ghi chính xác ngày).

5. Số 250 của người Trung Quốc

Đối với Trung Quốc, số 250 là thể hiện sự xúc phạm. Thực tế là trong ngôn ngữ của Trung Quốc, 250 được phát âm là "Èr bǎi wǔ" (đọc là o pái ủ) nghĩa là 250 nếu dịch nghĩa đen. Tuy nhiên, đây lại là một câu chửi bằng tiếng Trung, nghĩa là "thằng ngu", "vô dụng" hoặc "vô tích sự". Đây cũng là lý do khi mới học về số Tiếng Trung, bạn sẽ được nhắc sử dụng từ "Èr" cho đúng.

6. Số 26 không may mắn của người Ấn Độ

26 là con số không may mắn, thậm chí là chết người ở Ấn Độ. Các trận động đất tàn phá Gujarat, gây ra cái chết của 20.000 người diễn ra vào ngày 26/1/2001. Ngày 26/12/2004 một trận sóng thần khủng khiếp đã giết chết gần 230.000 người. Vào ngày 26/5/2007 một quả bom phát nổ ở phía đông bắc của Ấn Độ khiến nhiều người chết và bị thương.

Ngày 26/7/2008 một quả bom phát nổ ở Ahmedabad cũng khiến rất nhiều người chết và bị thương. Cuối cùng, chính xác vào ngày 26/11/2008, ở Ấn Độ xảy một loạt các cuộc tấn công khủng bố đẫm máu.

Ngoài ra, với việc cộng hai số: 2 và 6 thành 8. Trong số học "Tám" tượng trưng cho sự tàn phá, khó khăn, thất bại.

7. Số 7 đáng sợ trong các tai nạn máy bay năm 2014

Bestie-con-so-dang-so

Ngày 24/7, chuyến bay mang số hiệu AH5017 đang bay từ Ouagadougou (Burkina Faso) đến Algiers (Algerie) chở 116 người đã đâm xuống đất ở Niger hoặc Mali. Vụ việc đang được xác minh điều tra.

Ngày 23/7, chiếc máy bay ATR72 mang số hiệu GE222 của Đài Loan phải hạ cánh khẩn cấp tại vùng đang chịu ảnh hưởng của cơn bão Matmo thì rơi từ độ cao khoảng 28m xuống một tòa nhà khiến 48 người thiệt mạng.

Chuyến bay MH17 của Malaysia Airlines trên hành trình từ Amsterdam (Hà Lan) đi Kuala Lumpur bị cho là trúng tên lửa, đã rơi ở miền đông Ukraine khiến 298 người thiệt mạng. MH17 của Malaysia bay chuyến đầu tiên vào ngày 17/7/1997 và tử nạn vào ngày 17/7/2014, sau đúng 17 năm.

Trước đó, chuyến bay MH370 (cũng là một chiếc Boeing 777) của Malaysia Airlines chở 239 người mất tích khỏi màn hình radar hôm 8/3, khi đang trên biển Đông. Chiến dịch tìm kiếm lớn nhất lịch sử hàng không diễn ra gần nửa năm qua chưa tìm được lời giải cho sự mất tích bí ẩn của chiếc máy bay này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 con số ám ảnh đáng sợ trên khắp thế giới

Đặt tên cho con hợp phong thủy 2016 - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Đặt tên cho con hợp phong thủy 2016, Đặt tên cho con, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đặt tên cho con hợp phong thủy 2016, tu vi Đặt tên cho con hợp phong thủy 2016, tu vi Đặt tên cho con

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên cho con hợp phong thủy 2016

Gia đình bàn đang đón chờ một thành viên mới hay đang có dự định có thêm thành viên mới trong năm 2016 Bính Thân. Bạn muốn con mình sẽ muốn đặt tên cho con một cái tên thật đẹp, cái tên sẽ đi theo suốt cuộc đời, và hẳn cha mẹ nào cũng mong muốn cái tên mà cha mẹ lựa chọn sẽ mang lại thật nhiều may mắn cho con.

Hãy cùng tìm hiều những cách đặt tên hợp phong thủy cho con trong năm 2016

dat-ten-cho-con-hop-phong-thuy-2016

Một cái tên hợp phong thủy sẽ là khởi đầu tốt đẹp cho con

1. Tính cách bé tuổi Thân
Năm 2016 tương ứng với năm âm lịch là Bính Thân, theo tử vi những em bé sinh năm 2016 mang đậm đặc điểm tính cách của tuổi Thân nên hiếu động thông minh và vui vẻ. Người tuổi này hoạt bát và mạnh khỏe, nhanh nhẹn yêu đời bằng cả trái tim.  Đặt tên cho con hợp phong thủy sẽ giúp bé có một khởi đầu tốt đẹp trong suốt cuộc đời.
2. Đặt tên cho con theo ngũ hành
Tuổi Thân thuộc hành Kim. Theo quan hệ tương sinh trong ngũ hành, Kim sinh ra Thủy, nên những cái tên thuộc bộ Thủy sẽ rất tốt cho bé.
Gia đình có thể lựa chọn những cái tên thuộc hành thủy sau đây:
Lệ,                              Thủy,              Giang,                          Hà,
Sương,                       Hải,                Khê,                            Trạch,
Nhuận,                       Băng,             Hồ,                             Biển,
Võ,                              Bùi,                  Kiều,                          Tiên,
Hoàng,                       Giao,              Thương,                     Trọng,
Luân,                          Kiện,               Giới,                          Quang,
Toàn,                         Loan,               Khương,                    Khánh,                Khải…
3. Đặt tên theo quy luật tự nhiên
Loài khỉ, con giáp tượng trưng cho tuổi của bé thường sinh sống theo từng bầy trong rừng. Vì vậy, những từ thuộc hành Mộc sẽ thích hợp để chọn tên cho bé.

Một số gợi ý cho mẹ tên thuộc hành Mộc
Khôi,             Lê,                    Đỗ,
Mai,              Đào,                 Trúc,
Tùng,            Quỳnh,             Thảo,
Liễu,             Bách,               Lâm,
Sâm,            Kiện,                Xuân,
Quý,             Hạnh,              Thôn,
Phương,       Phần,              Chi,
Thị,              Bính,               Bình,
Sa,              Phúc,               Phước…
Ngoài ra, những bộ thủ như Khẩu, Miên, Mịch có ý nghĩa liên quan đến “cái hang khỉ” cũng thích hợp để đặt tên cho bé.
Một số gợi ý cho mẹ tên bộ Khẩu, Miên, Mịch:
Trung,          Quân,              Trình,
Thiện,          Hòa,                Gia,
An,              Thất,                Dung,
Nghi,           Hoành,             Bảo,
Thực,          Khoan…
Khỉ cũng rất thích bắt chước cử chỉ và tiếng nói của con người, bởi chúng là loài động vật cao cấp rất gần gũi với con người trên nấc thang tiến hóa. Vì vậy, cái tên chứa bộ Nhân, Ngôn cũng là lựa chọn thích hợp mà bạn nên cân nhắc.
Một số gợi ý cho mẹ tên bộ Nhân, Ngôn
Nhân,            Giới,              Kim,
Đại,               Nhiệm,          Trọng,
Tín,               Hà,                Bảo,
Hưu,             Nghi,             Huấn,
Thành …

 

4. Đặt tên cho con sinh năm 2016 theo tính cách
Loài khỉ rất lanh lợi, hoạt bát, nên những cái tên có bộ Sam, Cân, Y, Mịch sẽ giúp tôn lên sự duyên dáng, đẹp đẽ.
Một số gợi ý cho mẹ tên bộ Sam, Cân, Y, Mich:

Hình,             Nhạn,                 Ảnh,

 

Chương,        Đồng,                 Thường,

Hi,                 Sư,                    Phàm,

Ước,             Tố,                      Hồng,

Duyên…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con hợp phong thủy 2016 - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

TẢN MẠN NHỮNG ĐIỀU GHI CHÉP VỀ VUA LÊ THÁI TỔ

Sự tích phát vinh hiển, đế vương nhờ địa huyệt phong thủy của Vua Thái tổ triều Hậu Lê, cho thấy ngoài nhân mệnh, sự nỗ lực cá nhân, thời cuộc thì phong thủy rất quan trọng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TẢN MẠN NHỮNG ĐIỀU GHI CHÉP VỀ LÊ THÁI TỔ

Những ghi chép về vua Lê Thái Tổ

Xưa nay, mỗi một vị đế vương lên ngôi lập ra triều đại mới thường đi liền với những câu chuyện ly kỳ đầy màu sắc huyền ảo. Những câu chuyện trên có thật, hoặc cũng có thể được thêu dệt, thêm bớt, vì mục đích chính trị, khẳng định ông vua đó là chân mệnh thiên tử.

Thế kỷ XV của nước ta là một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng cũng đầy hào quang lấp lánh. Bởi vì thời kỳ đó, nhân dân ta chịu ách áp bức đô hộ của triều Minh – Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo tài tình của người anh hùng dân tộc, vua Thái Tổ, Lê Lợi, cùng với tinh thần xả thân vì nền độc lập dân tộc của nghĩa quân Lam Sơn, nhân dân ta đã đập tan ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Thật đúng là:

“Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc”

             Bình Ngô Đại cáo - Nguyễn Trãi.

Cũng như bao ông vua lập quốc khác trong lịch sử, những câu chuyện nhuốm đầy màu sắc tâm linh huyền ảo về xuất thân, sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi vẫn thường được lưu truyền, như thanh gương thần, lưỡi khắc chữ thuận thiên, chuôi gươm nạm ngọc, có sức mạnh vô song, hay câu chuyện vợ vua nhặt được quả ấn báu, rồi chuyện trả gươm trên hồ Gươm, chuyện vua bị truy đuổi mà được Hồ Ly phu nhân cứu cho thoát nạn…

Trong tất cả những câu chuyện trên, đều khẳng định vua có chân mệnh đế vương, là người có sứ mệnh cao cả thiên liêng cứu vớt sinh linh ra khỏi bùn lầy tăm tối của nô lệ, áp bức, dã man.

Sách lịch sử ghi lại gốc gác xuất thân của Vua như sau: Tổ tiên bốn đời tức là tằng tổ của Vua tên húy là Hối, họ Lê. Một ngày ông Hối đi chơi qua vùng đất Lam Sơn thấy khu đất này thủy tú, sơn kỳ, cỏ cây hiền hòa, cây cối tốt tươi, chim muông quy tụ rất đông. Ông Hối cho rằng “ đất lành, chim đậu”, nên dọn nhà đến khu đất Lam Sơn này ở.

Kể từ khi chuyển nhà, cuộc sống của ông ngày một giàu có, ruộng nương nhiều, gia súc đông, lương thực dồi dào, bạc vàng của cải tích lũy rồi trở nên giàu có thịnh vượng nhất vùng. Không chỉ thịnh vượng về của cải con cháu ông càng ngày càng đông đúc, quy tụ, nhân đinh trong họ xuất hiện nhiều bậc hiền tài, kiệt xuất.

Ông Hối cũng là người nhân ái, thường xuyên cứu giúp những người khó khăn hoạn nạn trong vùng, đối với gia đinh, nô bộc ông cũng đối xử rất tử tế, nên nhân dân trong vùng kẻ trên người dưới, nam phụ lão ấu đều hết sức kính trọng ông.

Từ đó trở đi ông làm nhiệm vụ coi xét một vùng. Đến đời của Vua thì vẫn nối tiếp chức vụ ấy. Vua lớn lên làm chức phụ đạo sách Khả Lam, bọn tướng tá nhà Minh muốn ông làm quan nhưng ông nghĩ: “Làm kẻ trượng phu phải trừ nạn lập công, sao lại chịu làm tôi tớ cho người ta cưỡng bức”. Từ chối làm quan, ông cùng họ hàng thân thuộc và bạn bè siêng năng việc cầy cuốc, rèn luyện thao lược binh pháp, nung nấu hùng tâm tráng trí.

Bấy giờ Vua sai người cày ruộng ở đất Chiêu Nghi, người tá điền này gặp một nhà sư. Nhà sư than rằng: - Đất quý như thế này mà chẳng có ai để trao cho !

Người tá điền lấy làm lạ vội chạy về báo lại với Vua. Vua vội chạy tới, sau khi thi lễ. Hòa thượng đó mới nói:

  • Bần đạo từ đất Ai Lao đến đây, họ Trịnh, đạo hiệu Bạch Thạch. Thấy ngài dung mạo khác thường, ắt làm nên nghiệp cả.

Vua quỳ xuống hỏi  rằng:

  • Mạch đất trong nước sang hèn ra sao, xin thầy chỉ rõ cho !.

Vị hòa thượng nói:

  • Trong động Chiêu Nghi, xứ Phật Hoàng có một thửa đất, rộng chừng nửa sào, có hình như quả quốc ấn. Bên tả có Thái Thất là núi Chí Linh ở mường Giao Lão. Trong núi ấy có gò Tiên Bạn và gò Chiêu Sơn ở xã An Khoái là án. Phía trước có nước Long Sơn. Phía trong có nước Long Hồ, hình xoáy như ruột ốc. Bên hữu có nước hồ bao quanh phía ngoài chân núi tựa như chuỗi hạt.  

    Đất ấy, đàn ông thì quý không thể nói được, nhưng đàn bà thì hẳn là sẽ phải thất tiết. Tôi e rằng con cháu ngài về sau nó không ở cùng với nhau. Ngôi bấu tất có khi trung hưng. Mệnh trời có thể biết trước được (Bây giờ) nếu có được thầy giỏi, đem hài cốt đi cải táng thì vẫn có thể phấn phát được dăm trăm năm.

Vua lậy tạ rồi chọn ngày, đưa hài cốt của phụ thân mình tới đó táng. Sau này, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành được thắng lợi, lên ngôi vua. Thật ứng với Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa. Sau này, họ Mạc cướp ngôi vua Lê, gặp được đám trung thần triều Lê là Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm mới trung hưng được cơ đồ.

Thời kỳ còn chiến tranh với giặc Minh, có lần bọn giặc đào lấy hài cốt của thân phụ ngài để ép Vua xuất hiện. Tướng tá của Vua lén giành lại được, bí mật táng lại chỗ cũ.

Xét trên lá Tử vi của Ngài thì cung Phúc đức có bộ Tướng quân, Quốc ấn, Thiên mã…Lại kèm Địa không, Địa kiếp đắc, ngộ Tuần, có lẽ ứng đúng vào huyệt đất ở động Chiêu Nghi, sản sinh ra anh hùng, có võ nghiệp lẫy lừng, đời đời vinh hiển.

Nay nghiệm ra và sâu chuỗi móc nối sự việc lại mới thấy chuyện trên đây là có cơ sở, chứ không phải huyễn hoặc, hoang đường.

Xem thêm tử vi trọn đời tại Phong thủy số.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: TẢN MẠN NHỮNG ĐIỀU GHI CHÉP VỀ VUA LÊ THÁI TỔ

Xem tướng bàn tay có tiền xài không thiếu –

Bạn nhìn bàn tay mình và thắc mắc tướng bàn tay của mình liệu có mang lại may mắn hay tiền tài cho bản thân hay không? Hôm nay chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn xem tướng bàn tay để bạn biết bạn có nhiều tiền tiêu xài không nhé! Đối với những lòng bàn t
Xem tướng bàn tay có tiền xài không thiếu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng bàn tay có tiền xài không thiếu –

Giải mã vận mệnh người tuổi Nhâm Thìn theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Nhâm Thìn là con rồng bay cao, thích kết giao với quý nhân, khoan dung hiền hòa, vui vẻ, thích tiêu dao.
Giải mã vận mệnh người tuổi Nhâm Thìn theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Giai ma van menh nguoi tuoi Nham Thin theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tuyệt, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ. Thủy này nếu tọa cung Tài Bạch, một đời không được phú quý nhưng cũng không nghèo khổ. Tuy trong tay không có được số tiền lớn nhưng không bao giờ thiếu tiền dùng.
 
Nhân Thìn là Chính ấn, mang đức trong sáng. Người mệnh này có lòng bao dung, tâm sáng như gương. Sinh vào mùa xuân, hạ, đại phú đại quý; sinh vào mùa thu, đông, gian trá thất đức.
 
Nhâm Thìn là Thủy tự khố, nếu là hồ chứa nước đều ưa gặp Thủy. Duy có kỵ Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, Bính Tý Giản hạ Thủy, sinh vượng thái quá, là tượng tràn lan.
 
Thủy này ưa Kim sinh dưỡng như Tân Tỵ Bạch lạp Kim, Tân Hợi Thoa xuyến Kim, cũng ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim và Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim. Gặp Giáp Tý, Ất Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa trung Kim cũng vô dụng.
 
Lục Thập Hoa Giáp của Nhâm Thìn kỵ Thổ làm tắc nghẽn khô cạn, nhưng Thổ lại có công đắp đê, chỉ lấy Canh, Tân, Bính, Đinh là tốt; Mậu, Kỷ là không tốt.
 
Gặp Hỏa là tương hình, duy ưa gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, ưa nhất gặp Ất Hợi Sơn đầu Hỏa.
 
Gặp Mộc, lấy Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, Quý Mùi Dương liễu Mộc làm vườn, tọa thời trụ là Thủy nhiễu hoa đề cách, chủ hiển quý. Ưa Quý Hợi Đại hải Thủy, gọi là Long diệu thiên môn cách.
 
Trụ khác nên gặp Kim là tốt, mệnh nữ dung mạo xinh đẹp, thông minh.
 
Chi khác không ưa gặp Tuất, kỵ nhất Mậu Tuất là phạm hình xung, xung thì Thủy tất sẽ bị tràn lan, chủ hung tai. Mệnh nữ khắc chồng, mệnh nam một đời phiêu bạt, còn chủ con cái duyên mỏng.
 
Chi khác có Thìn, phạm hình, chủ là người cố chấp thiên kiến, nông cạn, vợ chồng duyên mỏng. Nếu tọa thời chi nên nương nhờ cửa Phật. 
 
Nếu Địa chi của ngũ trụ có Thìn, nam khắc vợ, nữ khắc chồng.
 
Nhâm lộc tại Hợi, ưa chi khác có Hợi, chủ phú quý.
 
Nhâm quý tại Mão, ưa chi khác có Mão, chủ cát lợi.
 
Người sinh năm Nhâm, Văn xương tại Dần, chi khác có Dần, có thể học mệnh lý, làm thầy giáo hoặc hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.
 
Người tuổi Nhâm Thìn gặp năm Thìn, Tuất, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
 
Nếu Địa chi của ngũ trụ có Thìn, nam khắc vợ, nữ khắc chồng.
 
Nhâm Thìn chọn bạn đời nên tìm người sinh năm Bính, Đinh. Không nên gặp người sinh năm Mậu, Kỷ.   Theo Tử vi toàn tập
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Nhâm Thìn theo Lục Thập Hoa Giáp

Chuyện tử vi

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những cách có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến, gia giảm; mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng. 

Tránh số và giữ được tiền

Chính bản thân người viết có một lá số Tử vi dở ẹc tại cung Tài bạch. Đã chẳng có Thiên Phủ, Lộc tồn…lại đèo bòng cặp Đại hao, Tiểu hao to tổ bố. Cái đó có nghĩa là kiếm được bao nhiêu, tiêu hết bấy nhiêu.

Mấy ông thầy Tử vi đều bảo kiếm khá lắm đấy và có cái đặc biệt là hết tiền rồi lại có ngay chứ không bị thiếu. Nhưng hễ có rồi lại có chuyện mà phải tiêu đi hết. Như có nhiều thì lại gặp chuyện phải tiêu sài nhiều mà hết…

-Nhưng nếu như tôi ráng không sài thì có được không?

-Đâu có được. Có cái chuyện nó bắt phải sài. Mình cố giữ để không sài mà không được. Song hao ở mão dậu đây là “chúng thủy triều đông” kiếm tiền khá lại tiêu nhiều, tránh không khỏi.

Mà thật nghiệm ra trong chung thân cuộc đời có những cái thật đúng như những lời giải đoán.

Tiền hết lại có, và có đều đều mất việc này lại có việc khác. Cứ kiếm ăn đều đều, và chi phí đều đều chuyện cơm nước, thì chẳng có biến cố nào trong đời buộc mình phải tiêu sài. Nghĩ lại như vậy lại hóa sướng, nghĩa là đỡ lo. Còn như có được món tiền khá, là tự nhiên có việc phải sài, có khi lại tai bay vạ gió nữa. Một lần có được món tiền, cả nhà sanh đau ốm. Một lần khác kiếm được món tiền khá, sanh rắc rối chốn công môn về chuyện chánh trị, thế là tiêu hết.

Và nếu cứ như vậy thì chẳng có cách nào để dành tiền mua được căn nhà hoặc tạo được cái nhà in hay cái trường nho nhỏ. Nhưng một bữa được cụ Hoàng Hạc cho hay cái vụ cải số để có một căn nhà ở yên lành (câu chuyện đã được thuật trong kỳ trước), chúng tôi bèn về nghiền ngẫm lại lá số của mình và các con. Có đứa con gái có cung Tài bạch giữ được tiền… thế là từ đó, mỗi khi kiếm được tiền dư, ngoài số tiền ăn hàng tháng, giao hết cho nó giữ. Quả nhiên, tiền giao cho nó giữ là không bị hao hụt, không bị những biến cố đến làm mình phải tiêu tiền. Nhờ giữ được đồng tiền mà dần dần đủ sức để mua một căn nhà.

Còn cái cộng nghiệp mà không được quên…

Tôi còn nhớ cụ Hoàng Hạc trong một cuộc thảo luận chỉ cho tôi thấy cái sự quan trọng của cộng nghiệp. Một lá số Tử vi không thể là một cái sự bất di bất dịch để cứ thấy sao là đoán như vậy còn phải tham bác cho rộng rãi sang đến phụ mẫu đến vợ chồng, con cái mà luận đoán về vận mạng và hạnh phúc con người. Nếu cứ đúng theo cung mạng Thân, Tài, Điền mà luôn đoán thì e rằng sai lầm. Cái điều này cũng phù hợp phần nào với chuyện cải số;

Có một ông lắc đầu lè lưỡi mà bảo rằng số trời thật là khủng khiếp an bài ra sao là đúng như vậy, ông kể

Thuở thanh niên, tôi thương một người con gái. Hai người giao kết với nhau. Cha mẹ hai bên cũng thuận nhận. Ấy thế mà vì một biến cố thật đặc biệt, hai bên không lấy được nhau là vì người con gái bị một kẻ oai quyền bức bách phải lấy hắn. Chỉ 2 năm sau, tên oai quyền đó lăn ra chết. Thế có phải là tại số tôi sống lâu và tại số cô đó góa chồng sớm mà thành ra Trời không se duyên chăng ?

-Thưa cụ: rất có thể như vậy

-Tôi xây dựng mối duyên khác. Cũng đến lúc sắp cưới thì cô gái bị chuyện bức bách mà chắp duyên với kẻ khác. Rồi vài năm sau, cô ấy mất. Thế chẳng phải là vì tôi không có số góa vợ và cô ấy không có số sống lâu, mà Trời không se duyên.

-Nhưng thưa cụ, số Tử vi có ghi như vậy?

-Có rõ ràng. Số tôi sống lâu và không thể góa vợ sớm, đường vợ con hoàn hảo. Còn số cô thứ nhất kia thì góa chồng sớm. Và số cô thứ hai thì đúng là yểu lạ thật chứ.

-Nhưng, thưa cụ, cũng có những sự kiện khiến hai vợ chồng ăn ở được với nhau lâu dài mà hai lá số không thật sự phù hợp với nhau. Tôi có được gặp cụ Hoàng Hạc chỉ dẫn cho về cái cộng nghiệp để đoán số Tử vi. Chỉ một cung tốt cũng tốt.

Và tôi đã kể lại những vụ đoán trúng phóc của cụ Hoàng Hạc, những lá số như còn ghi trong đầu óc.

Lá số của một cụ…mà nhìn vào cung Mạng, cung Tài, cung Điền, cung Quan lộc, là trông thấy tất cả sự nghèo hèn. Ông cụ khổ cả một đời, những ông thầy tử vi không thể đoán khác.

Cụ Hoàng Hạc, cách đây hơn chục năm, đã được ông Cụ nhờ coi lá số tử vi. Cụ Hoàng Hạc thấy cung Tử tức của lá số tốt quá đã quyết đoán rằng ông Cụ không thể suốt đời nghèo khổ:

-Cụ có con tốt, làm nên và lại có biến, thì làm sao cụ khổ mãi được. Sẽ có một đứa con lo hết cho hai Cụ.

Ông cụ còn bán tín bán nghi, vì đứa con mà Cụ thương nhất mà tánh tình của nó thì còn lang bạt kỳ hồ nơi hải ngoại, chưa nên danh phận. Ấy thế mà chỉ mấy năm sau, nó bỗng về nước, làm to, rồi tậu nhà cho hai cụ ở, và chăm lo mọi chuyện cơm nước. Hai cụ chẳng cần phải lo chi hết, dù rằng không phải là hai cụ nắm quyền.

Cộng nghiệp giữa hai vợ chồng

Và rồi cụ Hoàng Hạc chỉ cho tôi về việc quyết đoán về một cuộc đời không thể nhất thiết là sang hèn giầu nghèo theo các cung Mạng Thân Tài bạch,…mà phải coi đủ 12 cung. Cung nào cũng có phần quan trọng của nó, cung nào cũng có phần ảnh hưởng lớn của nó vào cuộc đời. Dù là Mạng Thân báo trước một cuộc đời hành khất nhưng được một cung tốt, chưa chắc gì dã phải sống hành khất.

Tôi mới nói:

-Phải rồi. Như sách vốn nói, xem số đàn bà quan trọng bậc nhất là cung phu. Bởi vì đàn bà thì vốn nhờ chồng, cung phu mà tốt là tốt.

-Nhưng ngược, đàn ông cung Thê mà tốt thì cũng tốt lắm nghe.

-Ủa, như vậy sao, thưa Cụ?

-Thì tại vợ chồng cuộc đời ra sao, là phải hai số hiệp lại. Thiếu gì người nhờ vợ mà sung sướng.

-Cũng như muốn biết số con bao nhiêu, phải coi số của cả hai vợ chồng mà đoán. Người có nhiều con, người có ít con, đem cộng lại mà chia đôi.

Cụ giải thích thêm:

- Các cung khác cũng vậy. Như số người chồng thật giầu và số người vợ thật nghèo, hoặc ngược lại, thì cũng cộng lại với nhau mà chia đôi ra để được biết về tài lộc của hai vợ chồng ra sao.

trích đăng (KHHB số 3)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tử vi

Cách tìm ngày xung tuổi –

Tra lịch (âm lịch) để biết ngày cần xem là ngày gì, đối chiếu với bảng nếu thấy có tuổi xung trùng với tuổi của bạn thì ngày ấy xung với bạn, nên cẩn trọng mọi việc. Ví dụ: Hôm nay là ngày Quý Hợi, thuộc vòng Giáp Dần, nhìn sang ngang thấy tuổi xung

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tra lịch (âm lịch) để biết ngày cần xem là ngày gì, đối chiếu với bảng nếu thấy có tuổi xung trùng với tuổi của bạn thì ngày ấy xung với bạn, nên cẩn trọng mọi việc.

ziv1340946576_500

Ví dụ: Hôm nay là ngày Quý Hợi, thuộc vòng Giáp Dần, nhìn sang ngang thấy tuổi xung là Đinh Tị, Ất Tị. Nếu tuổi của bạn không trùng với một trong hai tuổi đó thì ngày Quý Hợi không phải là ngày xung của bạn. Nếu tuổi của bạn trùng với một trong hai tuổi ấy là bị xung, phải cẩn trọng trong ngày Quý Hợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tìm ngày xung tuổi –

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Chọn màu sơn theo phong thủy để gia đình hạnh phúc

Khi chọn màu sơn theo phong thủy cho từng căn phòng trong nhà thì gia chủ nên thận trọng, màu sơn không chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ của tổng thể ngôi nhà
Chọn màu sơn theo phong thủy để gia đình hạnh phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi chọn màu sơn cho từng căn phòng trong nhà thì gia chủ nên thận trọng, màu sơn không chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ của tổng thể ngôi nhà mà còn ảnh hưởng tới vận trình của người sống trong đó.



Chọn màu sơn theo phong thủy cho phòng ngủ


Theo phong thủy nhà ở, phòng ngủ nên sơn những màu sáng như màu trắng, màu be hay những gam màu hơi trầm một chút bởi đây là nơi nghỉ ngơi, thư giãn. Nếu sử dụng những gam màu quá nóng thì bạn sẽ không có cảm giác được nghỉ ngơi mà thay vào đó là sự năng động, điều này đôi chút ảnh hưởng tới sức khỏe của bạn. Tuy nhiên, nếu chọn màu quá tối và u ám thì rất có thể nó sẽ khiến bạn mắc bệnh trầm cảm.
 
Đối với các cặp vợ chồng thì tránh sơn phòng ngủ màu hồng bởi màu hồng ẩn chứa sự xuất hiện của người thứ 3.  

Chọn màu sơn cho phòng khách


Chon mau son theo phong thuy de gia dinh hanh phuc hinh anh

Nên chọn màu sơn sáng cho phòng khách


Phòng khách cũng nên sơn những màu sáng như màu sữa, trắng kem hay màu ngà voi… bởi những màu này mang lại cảm giác thoải mái, dễ chịu và đẹp mắt.
 
Tuyệt đối đừng sử dụng màu xanh sẫm cho phòng khách của mình bởi lẽ nó sẽ khiến sức khỏe, hôn nhân, cũng như các mối quan hệ và sự nghiệp của bạn gặp nhiều rủi ro. Cũng nên tránh màu đỏ, bởi nó có thể khiến cho gia chủ trở nên nóng tình hoặc phá vỡ hạnh phúc gia đình.  

Chọn màu sơm cho phòng tắm

Màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và sạch sẽ, chính vì vậy nó được dùng để trung hòa với phần năng lượng tiêu cực trong nhà vệ sinh. Bạn cũng có thể dùng màu xanh da trời nhạt để tạo ra sự tươi sáng, mang lại một cảm giác nhẹ nhàng hơn. 
 
Theo phong thủy học, nhà vệ sinh đại diện cho Thủy, vì thế tốt nhất là không nên dùng màu đỏ hay màu tím sẫm vì nó gây ra sự xung khắc giữa Thủy và Hỏa. Ngoài ra, cũng nên tránh màu đen và những gam màu tối.

Nên xem: Phòng tắm hợp phong thủy để tránh thất thoát tiền bạc
 

Chọn màu sơn cho nhà bếp

  Màu be, màu yến mạch hay màu kha-ki cũng là những gam màu rất tuyệt nếu sử dụng trong phòng bếp, vì nó mang đến sự ổn định và mang lại một không gian hài hòa cho căn nhà của bạn.
 
Màu đỏ tượng trưng cho hình ảnh ngọn lửa có thể làm mất cân bằng các yếu tố ngũ hành trong không gian bếp nhà bạn, nên tốt nhất là tránh sơn màu này.
 

Màu sơn phòng của trẻ


Chon mau son theo phong thuy de gia dinh hanh phuc hinh anh 2

Chọn màu xanh lá cây để thúc đẩy sự phát triển của con trẻ


Màu sắc được sử dụng trong phòng của trẻ sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển tính cách của chúng, vì thế tốt nhất là hãy dùng những màu sáng như màu xanh da trời và xanh lá cây để thúc đẩy sự phát triển của chúng trong một không gian thanh bình. 
 
Tránh sử dụng những màu đỏ sẫm, tím hoặc đen trong phòng, bởi chúng có thể gây ra những kích thích tiêu cực cho con trẻ.   Tuy nhiên, mọi việc vẫn tùy thuộc vào quyết định cuối cùng của bạn. Bạn hoàn toàn có thể chọn những gam màu bạn yêu thích và mang lại cho bạn cảm giác dễ chịu. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo thêm bài viết: Chọn màu sơn thuận ngũ hành cho phòng ngủ của trẻ để có sự lựa chọn hợp lý:   
► Tham khảo thêm: Mệnh Thủy hợp màu gì, mệnh Thổ hợp màu gì, mệnh Mộc hợp màu gì

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu sơn theo phong thủy để gia đình hạnh phúc
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd