Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nốt ruồi có lông là tốt hay xấu?

Xung quanh vấn đề nốt ruồi có lông có rất nhiều ý kiến, quan điểm trái chiều. Có người cho rằng đó là điềm lành, là đại phú, đại quý. Nhưng cũng có người lại nghĩ nó là nốt ruồi mang lại sự xui xẻo cho chủ nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xung quanh vấn đề nốt ruồi có lông có rất nhiều ý kiến, quan điểm trái chiều. Có người cho rằng đó là điềm lành, là đại phú, đại quý. Nhưng cũng có người lại nghĩ nó là nốt ruồi mang lại sự xui xẻo cho chủ nhân. Vậy rốt cuộc nốt ruồi mọc lông là tốt hay xấu? Cùng Phong thủy số tìm hiểu về vấn đề này.

Nốt ruồi có lông là tốt hay xấu?

1. Theo quan niệm của dân gian:

Trong dân gian, nốt ruồi có lông cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng luồng ý kiến cho rằng nốt ruồi mọc lông mang lại điểm lành là nhiều hơn cả.

Họ cho rằng, trên nốt ruồi có mọc lông sẽ mang lại nhiều vận khí tốt đẹp cho chủ nhân.

Một luồng ý kiến trái chiều khác cho rằng nốt ruồi có lông là không tốt. Quan niệm này xuất phát từ tính thẩm mỹ. Nốt ruồi mọc lông làm mất đi tính thẩm mỹ của chủ nhân. Do đó, nó làm cho chủ nhân có một điều gì đó xui xẻo. Đặc biệt là khi nó mọc ở trên mặt thì càng làm cho diện mạo thiếu thẩm mỹ và khó nhìn hơn. Họ cho rằng, nếu phụ nữ có nốt ruồi mọc cộm lên và có lông thì là người dâm đãng, nóng nảy và thường làm nhiều việc ác trong cách cư xử với mọi người. Trong tình yêu thì là người không chung thủy, không biết lo liệu cho cuộc sống của gia đình.

Nếu có nốt ruồi có lông ở trên trán, cổ, ngực, bắp chân thì không chỉ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ mà còn có thể mang lại những điều nguy hiểm cho chủ nhân. Nếu nốt ruồi to lên theo thời gian nghĩa là tiền tài bị thất thoát. Nếu vùng da xung quanh có màu đỏ hoặc nổi các tia màu thì có vấn đề về sức khỏe. Theo quan niệm dân gian, nốt ruồi mọc lông thường độc nên không được nhổ lông hoặc tẩy nốt ruồi đi. Nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng của người ấy.

2. Theo khoa học về nốt ruồi có lông:

Theo khoa học, nốt ruồi có lông thường là do sự biến đổi của tế bào tạo sắc tố da mà nên. Vị trí thường xuất hiện nốt ruồi mọc lông là ở các vùng da hở như mặt, cổ, tay, chân v.v Đa phần các nốt ruồi này thường lành tính, không gây hại gì cho sức khỏe của chủ nhân. Điều nổi bật nhất là nó ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ, làm nhiều người cảm thấy thiếu tự tin. Đặc biệt là khi những quan niệm không tốt của dân gian về loại nốt ruồi này.
Như vậy, cả về dân gian và khoa học, nốt ruồi có lông đều có ý nghĩa tốt chứ không chỉ là xấu như nhiều người vẫn đồn thổi với nhau. Do đó, nếu bạn có nốt ruồi mọc lông thì cũng đừng quá lo lắng nhé. Để cải thiện tính thẩm mỹ, bạn có thể đi thăm khám bác sĩ để được tư vấn cách xử lý hiệu quả và an toàn nhất. Chúc các bạn thành công!

Xem thêm: 

Nốt ruồi ở nhũ hoa phụ nữ có ý nghĩa gì?

“Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông

Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?

Giải nghĩa câu nói nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn

+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi có lông là tốt hay xấu?

Phương pháp tìm long mạch

Đối với người xưa, điều đặc biệt quan trọng khi chọn đất đặt mộ là tìm long mạch.
Phương pháp tìm long mạch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát long là 8 loại long mạch ở 8 hướng theo bát quái. Đối với người xưa, điều đặc biệt quan trọng khi đặt mộ là tầm long (tìm long mạch).

Bởi vậy mới có câu ca:

Điểm huyệt lập hướng, lưỡng phân minh
Âm cục, dương cục phân biệt tinh
Dương long thuận hành, âm long nghịch
Bát long đúng hướng mới trời sinh.

Sau đây là phương pháp sắp xếp các loại long mạch theo thuyết âm dương ngũ hành:

Phuong phap tim long mach hinh anh
Bát long

- Dương Hỏa cục: Long mạch ở dưới hướng Bính (hướng số 12 - hướng Nam lệch Đông Nam) tụ khí kết huyệt, phải quay đầu về hướng Dần (hướng 5 - Đông Bắc lệch Đông). Dòng nước từ hướng Ất (hướng 8 - Đông lệch Đông Nam) bao bọc ngoài minh đường chảy đến hướng Tuất (hướng 21 - Tây bắc lệch Tây).

- Âm Hỏa cục: Long mạch ở hướng Ất (hướng 8) kết huyệt, phải quay đầu về hướng Ngọ (hướng 13 - chính Nam). Dòng nước từ hướng Bính bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Tuất thì chảy đi. Dòng nước từ hướng Đông Nam (hướng Tốn) phải hợp Thủy cục Thân, Tý, Thìn, tức Nhâm long hoặc Tân long.

- Dương Thủy cục:  Long mạch ở hướng Nhâm (hướng 24) kết huyệt phải quay đầu về hướng Thân (hướng 17). Dòng nước từ hướng Tân (hướng 20) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.

- Âm Thủy cục: Long mạch ở hướng Tân kết huyệt  phải quay đầu về hướng Tý (hướng 1 chính Bắc). Dòng nước từ hướng Nhâm (hướng 24) bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.

Dòng nước từ Tây Nam chảy đi: hướng Khôn phải hợp với Mộc cục Hợi, Mão, Mùi tức Giáp long, hoặc Quý long.

- Dương Mộc cục: Long mạch ở hướng Giáp (hướng 6) kết huyệt phải quay đầu về hướng Hợi (hướng 23). Dòng nước từ hướng Quý (hướng 2) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.

- Âm Mộc cục: Long mạch ở hướng Quý (hướng 2) kết huyệt phải quay đầu về hướng Mão (hướng 7). Dòng nước từ hướng Giáp (hướng 6) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.

- Dương Kim cục: Long mạch ở hướng Canh (hướng 18) kết huyệt phải quay đầu về hướng Tỵ (hướng 11), dòng nước từ hướng Đinh bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.

- Âm Kim cục: Long mạch ở hướng Đinh (hướng 14) kết huyệt phải quay đầu về hướng Dậu (hướng 19), dòng nước từ hướng Canh bao bọc minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.

Theo Bí Ẩn Thời Vận

 

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp tìm long mạch

Giải mã giấc mơ thấy con thỏ –

Chú thỏ đáng yêu xuất hiện trong giấc mơ của bạn có rất nhiều ý nghĩa. Chúng ta cùng giải mã giấc mơ này để biết rằng mơ thấy con thỏ nói lên điều gì nhé! Mơ thấy con thỏ cỏ ý nghĩa gì? Mơ thấy ôm thỏ vào lòng Mơ thấy mình giơ tay ôm hoặc tóm thỏ vào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chú thỏ đáng yêu xuất hiện trong giấc mơ của bạn có rất nhiều ý nghĩa. Chúng ta cùng giải mã giấc mơ này để biết rằng mơ thấy con thỏ nói lên điều gì nhé!

Nội dung

  • 1 Mơ thấy con thỏ cỏ ý nghĩa gì?
    • 1.1 Mơ thấy ôm thỏ vào lòng
    • 1.2 Mơ thấy bản thân nuôi thỏ
    • 1.3 Mơ thấy chú thỏ bị bắt nhốt lại
    • 1.4 Mơ thấy người nào đó cùng tiến về phía bạn
    • 1.5 Mơ thấy bản thân đi săn thỏ
    • 1.6 Con gái mơ thấy mình bắt được một con thỏ
    • 1.7 Mơ thấy cả đàn thỏ bay len trời

Mơ thấy con thỏ cỏ ý nghĩa gì?

Mơ thấy ôm thỏ vào lòng

Mơ thấy mình giơ tay ôm hoặc tóm thỏ vào lòng, điềm báo bạn sẽ có khách từ phương xa tới thăm nhà. Nếu chưa có người yêu, điều này cho thấy bạn sẽ tìm được nửa kia ưng ý.

Mơ thấy bản thân nuôi thỏ

Nếu trong giấc mơ thấy bản thân nuôi thỏ, đây như lời nhắc nhở bạn cần phải thận trọng hơn về lời nói và hành động, tránh kẻ xấu lợi dụng sơ hở để gây phiền toái cho bạn.

Mơ thấy chú thỏ bị bắt nhốt lại

Con thỏ xuất hiện trong giấc mơ của bạn, tín hiệu cho thấy bạn sẽ tìm thấy người thân đã phải ly biệt từ rất lâu.

Nếu mơ thấy những chú thỏ này đang bị bắt nhốt lại, điềm báo mọi sự tốt lành sẽ đến với bạn.

1306461983-nam-con-tho-15-4202-1398497991

Mơ thấy người nào đó cùng tiến về phía bạn

Mơ thấy người nào đó cùng chú thỏ đi tiến về phía bạn, bạn cần đề phòng bị lừa gạt trong chuyện tình cảm.

Mơ thấy bản thân đi săn thỏ

Nếu mơ thấy bản thân đang đi săn thỏ, bạn sẽ thoát ra khỏi cái bóng của chính mình, trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn.

Con gái mơ thấy mình bắt được một con thỏ

Con gái mơ thấy mình bắt được một chú thỏ bên đường, sau đó ôm nó vào lòng. Điều này có nghĩa bạn sẽ là trụ cột của gia đình sau này cả về lĩnh vực tài chính và tinh thần.

Mơ thấy cả đàn thỏ bay len trời

Mơ thấy cả đàn thỏ bay lên trời, điềm báo cực tốt lành về địa vị trong xã hội của bạn. Mọi người sẽ thêm phần tôn kính và nể phục bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy con thỏ –

Nắm vững 5 điều, chọn nhà siêu dễ

Nhiều người khi mua nhà thường băn khoăn làm thế nào để chọn nhà hợp phong thủy, những mẹo chọn nhà dưới đây tuy đơn giản nhưng lại rất hiệu quả.
Nắm vững 5 điều, chọn nhà siêu dễ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người khi mua nhà thường băn khoăn làm thế nào để chọn nhà hợp phong thủy, giúp mình và gia đình tăng tài, tăng lộc, tăng sức khỏe. Những mẹo chọn nhà dưới đây tuy đơn giản nhưng lại rất hiệu quả, chắc chắn sẽ giúp bạn có căn nhà ưng ý.


Nam vung 5 dieu, chon nha sieu de hinh anh
 
1. Ngoại quan có ảnh hưởng lớn tới việc chọn nhà hợp phong thủy. Khi mua nhà, quan sát cảnh vật xung quanh và tránh các trường hợp nhà đối diện đường, ngõ; nhà bị nhà cao tầng, tượng đài chắn trước mặt; nhà có ngõ chắn ngang; nhà gần đình, đền, chùa, miếu, nghĩa trang.
 
Đây là những thế nhà xấu, nặng thì mang họa vong mạng, thất tán tài sản, gia đình lục đục, âm khí nặng; nhẹ thì không phát, phúc mỏng, tài lộc ít.
 
2. Kiêng kị khi chọn nhà hợp phong thủy là nhà có lầu dạng những chữ xấu. Lầu chữ U mang dáng dấp chữ “vong”, chủ chuyện chết chóc. Lầu chữ “khẩu” như cái miệng há to, chủ nhà bị vây kín, khó phát triển phúc khí. Nhà hình chữ T không tụ khí, chủ nghèo hèn.
 
Khi xem nhà mà trong ngoài phạm phải những kiêng kị phong thủy này, thì tránh mua, kẻo mang họa vào thân.
 
3. Người ít không nên mua nhà quá to, nếu không trạch khắc người, ở lâu không cát lộc. Người sống quá tĩnh mịch sẽ trở nên khép kín, cô đơn, chậm chạp.
 
5. Mẹo chọn nhà hợp phong thủy là không mua nhà có số phòng chẵn, Trạch Thư có viết: “3 gian thì cát, 4 gian nhỏ, 5 gian thì có một gian trống”. 
► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi và xem tuổi làm nhà để không phạm phải đại kị

Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nắm vững 5 điều, chọn nhà siêu dễ

Những lỗi phong thủy cửa chính khiến hôn nhân sóng gió

Cửa chính trong phòng thủy có ảnh hưởng quan trọng trên nhiều phương diện. Vì thế, phong thủy cửa chính ảnh hưởng tới hôn nhân là điều đương nhiên.
Những lỗi phong thủy cửa chính khiến hôn nhân sóng gió

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa chính trong phòng thủy có ảnh hưởng quan trọng tới mọi thành viên trong gia đình trên nhiều phương diện như sự nghiệp, tài lộc, nhân duyên. Vì thế, phong thủy cửa chính ảnh hưởng tới hôn nhân là điều đương nhiên.


Nhung loi phong thuy cua chinh khien hon nhan song gio hinh anh
 
Lỗi phong thủy cửa chính ảnh hưởng hôn nhân đầu tiên mà hầu như ai cũng biết là giường ngủ đối diện cửa. Trường hợp này sẽ mang tới họa đào hoa, xuất hiện người thứ ba chia rẽ tình cảm vợ chồng hoặc mối quan hệ hôn nhân có vấn đề khó giải quyết.   Cổng nhà chủ bên ngoài, cửa phòng chủ bên trong, những nơi riêng tư trong nhà như phòng ngủ của vợ chồng cần được giữ bí mật, không nên lộ ra ngoài. Nếu cửa chính và cửa phòng ngủ thông thẳng với nhau thì có thể mang tới những điều không hay trong cuộc sống vợ chồng.  Có câu rằng: “Tài không thể lộ, lộ ra tất thất tài”, giường ngủ cũng vậy, không nên để lộ ra ngoài, lộ ra nhất định sinh tình biến. Bước vào nhà đã nhìn thấy giường ngủ hoặc cửa chính thông thẳng với cửa phòng ngủ gây lộ giường thì vợ chồng bất an, đào hoa bên ngoài nở rộ, nhất định ảnh hưởng xấu tới tình cảm.

 
5 mẹo phong thủy đơn giản giúp hôn nhân viên mãn
Những mẹo phong thủy giúp hôn nhân hạnh phúc dưới đây sẽ phần nào chỉ ra cho bạn những việc cần làm trước, trong và sau khi kết hôn để có cuộc sống vui vẻ.

Trong phong thủy nhà ở, cửa chính đối hướng với cửa phòng ngủ của vợ chồng vừa ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe vừa gây rạn nứt tình cảm. Cửa chính là nơi hút năng lượng cho căn nhà, mà đối hướng với phòng ngủ thì khí xông thẳng hướng gia chủ khiến nội khí hỗ loạn, dễ cáu gắt, tâm tình bất ổn, vợ chồng thiếu hòa hợp.   Để hóa giải lỗi phong thủy cửa chính này, có thể bố trí một vài đồ vật ở cửa như đồ gốm sứ hình tròn, sản phẩm chế tác từ gỗ hay dùng bình phong ngăn cách cửa chính và cửa phòng ngủ để chắn khí. Nếu không gian cửa nhỏ, không thích hợp bài trí như trên thì chỉ nên mở một cánh cửa ra vào, cánh còn lại nên đóng. Ngoài ra, ở cửa phòng ngủ treo thất tinh đào mộc bình an cũng có thể hóa sát, giảm khí trường chiếu từ cửa chính vào.
Nhung loi phong thuy cua chinh khien hon nhan song gio hinh anh
 
Cửa chính trong phong thủy có quan hệ mật thiết với gia vận, vận trình hôn nhân của người trong nhà. Vì thế, khi xây dựng hoặc bố trí nhà cửa phải hết sức chú ý, điều chỉnh cho phù hợp thì mọi chuyện mới thuận buồm xuôi gió. 
 
  Trình Trình
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lỗi phong thủy cửa chính khiến hôn nhân sóng gió

Hỉ ngộ Tam minh, Ố hiềm Tam ám

Âm Dương tượng trưng ánh sáng của mặt trăng mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của một cô gái xuân thì) rất đẹp đẽ. Trái lại gặp bộ tam ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba hoàn cảnh u ám) thì giảm uy lực. Ngoại lệ là kỳ cách Âm Dương Sửu Mùi tiếp theo đây.
Hỉ ngộ Tam minh, Ố hiềm Tam ám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 SỬU MÙI ẢM ĐẠM NHẬT NGUYỆT VÔ QUANG

Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví như mặt trời mặt trăng cùng dành ánh sáng, là cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối tranh sáng, nói chung là phá cách. Vì Âm Dương cùng là đế tinh, cư mệnh thích làm đàn anh thiên hạ nhưng lại không chịu hoặc không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những cảnh đầu voi đuôi chuột.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hỉ ngộ Tam minh, Ố hiềm Tam ám

Bí ẩn giấc mơ về những chiếc xương

Nằm mơ thấy bộ xương người, điều này biểu thị cho cuộc sống của bạn ở một khía cạnh nào đó vẫn chưa được hoàn thiện.
Bí ẩn giấc mơ về những chiếc xương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thấy xương của bạn trong mơ, ám chỉ sự khám phá về cá nhân, gia đình bạn hoặc những bí mật văn hóa. Ngoài ra, nó còn là biểu tượng của sức  bền bỉ tiềm tàng. 

Bi an giac mo ve nhung chiec xuong hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy xương gãy ám chỉ rằng bạn đã khám phá hoặc nhận ra có nhược điểm trong kế hoạch hoặc tư duy của bạn. Giấc mơ này có thể lưu ý bạn về đến một hoàn cảnh hoặc mối quan hệ cụ thể. 

Thấy những cái xương sườn trong mơ biểu tượng cho sự nghèo túng và cơ cực.

Thấy khung xương chậu của bạn trong mơ, tượng trưng cho những vấn đề về tình dục và cảm giác của bạn về nam tính và nữ tính. Có lẽ bạn đang chia sẻ sự sáng tạo và sự tự biểu lộ  bản  thân. 
 
  Cảm thấy hoặc nhìn thấy những khớp xương của bạn trong mơ, tượng trưng cho sự mềm dẻo. Điều này còn ám chỉ việc cho và nhận việc làm và nhu cầu làm việc theo nhóm với nhau.
 
Mơ thấy bạn đang gặp rắc rối về khớp xương, ám chỉ rằng những điều gì đó không kết hợp với nhau như ý bạn muốn. Bạn đang gặp khó khăn trong sự tiến bộ của bạn.

Nếu trong giấc mơ, bạn mơ thấy người nào đó chỉ còn mỗi bộ xương, điều này có nghĩa là mối quan hệ giữa bạn và người đó đã chết từ lâu.

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn giấc mơ về những chiếc xương

Người tuổi Thân và tuổi Hợi có hợp nhau không?

Tuổi Thân và tuổi Hợi có hợp nhau không? Thân và Hợi có nhiều niềm vui khi ở bên nhau. Cả 2 đều là mẫu người vui vẻ, có suy nghĩ tiến bộ và khá nhạy cảm.
Người tuổi Thân và tuổi Hợi có hợp nhau không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thân và Hợi có nhiều niềm vui khi ở bên nhau. Cả 2 đều là mẫu người vui vẻ, có suy nghĩ tiến bộ và khá nhạy cảm.

Nguoi tuoi Than va tuoi Hoi co hop nhau khong?
 

Tuổi Thân và tuổi Hợi có hợp nhau không? Hợi thích những đồ ăn ngon, thích tán tỉnh. Những việc rất đơn giản như được ngủ trong 1 chiếc giường thoải mái, hay được đi tắm hơi cũng dễ làm cho Hợi cảm thấy vui vẻ. Thân thì chơi bời và cầu kì hơn Hợi. Sở thích của người tuổi Thân không phải ở nhà mà là đến những bữa tiệc lớn, vui nhộn nơi họ có thể tự do vui đùa. Trong khi Hợi quan niệm gia đình và bạn thân là những thứ quan trọng nhất thì Thân lại đặt sự vui vẻ lên hàng đầu.

  Khi yêu nhau, với bản tính ham chơi, người tuổi Thân sẽ tiêu tốn phần lớn thời gian để thuyết phục Hợi đi chơi đó đây. Là người có nhiều ham muốn về “chuyện ấy” nhưng Thân lại không thích trải qua hàng giờ trên giường ngủ. Đôi lúc Thân sẽ cảm thấy chán việc cố gắng thay đổi Hợi và muốn bỏ ra ngoài chơi cho thoải mái. Khi đó, Hợi sẽ phải chấp nhận sự thật vì bản tính của Thân là như vậy. Tốt nhất, Hợi nên rộng lượng và chấp nhận nếu muốn cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng dễ khiến Hợi trở thành người dễ dãi.

Trong làm ăn kinh doanh, nếu biết kết hợp sức mạnh của nhau, Thân và Hợi sẽ xây dựng được sự nghiệp vững chắc và thịnh vượng. Thân thích lãnh đạo, thường là người đại diện cho công ty đi giao thiệp với khách hàng, thuyết phục mọi người vì có kinh nghiệm và khá bạo dạn. Hợi làm việc chăm chỉ theo sự chỉ dẫn của người khác. Tuy nhiên, Hợi cần biết cách để giúp Thân tránh khỏi những rủi ro không đáng có.

(Theo Zing)

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Thân và tuổi Hợi có hợp nhau không?

Mơ thấy cái đĩa: Đại diện hạnh phúc của tập thể –

Nếu mơ thấy chiếc đĩa với kiểu dáng đơn giản, cho thấy người nằm mơ hy vọng có cuộc sống đơn giản, mộc mạc hơn. Nếu mơ thấy tay cầm một cái đĩa, cho thấy người nằm mơ biết rằng mình nên tri ân kẻ khác.   Nếu mơ thấy người khác cho mình chiếc đĩa
Mơ thấy cái đĩa: Đại diện hạnh phúc của tập thể –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cái đĩa: Đại diện hạnh phúc của tập thể –

Tử vi và luật tương quan, tương đối

Bài viết Tử Vi và luật tương quan, tương đối của tác giả Ân Quang. Đây là một bài viết rất hay thể hiện ý kiến riêng của tác giả!
Tử vi và luật tương quan, tương đối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của tác giả Ân Quang

Nhân đọc bài “Cái Mũi Khắc Thê” hay là “Hai Cuộc Đời, Một Lá Số” của cụ Quản Văn Chính, đăng trong Tuần Báo KHOA HỌC HUYỀN BÍ số 17, trong ấy cụ có nêu lên trường hợp hai người cùng một giờ sinh, mà một người thì vợ qua đời đã lâu, một người kia vợ hãy còn sống, chúng tôi xin có bài này góp ý kiến về giá trị và công dụng của Tử Vi.

Nếu quan niệm rằng Năm, Tháng, Ngày, Giờ sinh trong một lá số quy định chặt chẽ từng tiểu tiết, sinh hoạt vận hạn của một người, thì cuộc sống của nhân loại từ xưa đến nay ắt không có gì thay đổi, tiến hóa. Vì cứ hết một vòng hoa giáp 60 năm, thì lại trở lại những ngày, giờ sinh y hệt như 60 năm trước đó, hoặc 60 năm sau này.

Thế mà cuộc sống của nhân loại đã biến đổi thiên hình vạn trạng.

Cùng một lá số Tử Vi có cung Điền Trạch thật tốt, thế hệ trước có người có cả trăm mẫu ruộng, cò bay thẳng cánh. Ngày nay, luật cải cách Điền Địa ra đời, bất chấp các sao trong lá số Tử Vi trong cung Điền Trạch, không còn ai là chủ sở hữu một trăm mẫu ruộng.

Đến đây, chúng ta thấy rằng vận số của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng tương quan của vận nước. Như ở Trung Hoa đỏ hiện nay thì lá số Tử Vi nào có được riêng một mẫu ruộng?

Tôi có một người trong họ, quê ở Hà Đông, ruộng nương điền sản rất nhiều. Ông cụ cũng nghiên cứu Tử Vi, có nhiều sách Tử Vi bằng chữ Hán. Đến năm 1954, khi có phong trào di cư thì cụ đốt hết sách Tử Vi. Cụ ức vì bao nhiêu năm trời xem số cho mình mà không thấy rằng mình lại bị phá sản trầm trọng đến thế. Cụ chán nản, không muốn nói chuyện Tử Vi với ai và cũng không cho tôi biết ngày giờ sinh của cụ. Nhưng tôi ngẫm rằng chỉ vài năm sau khi vào Nam, con cháu lại cũng tạo được nhà cửa, bất động sản đẹp đẽ cho cụ.

Nhìn vào cung Điền Trạch, không thể đoán rằng đương số có mấy cái nhà, mấy mẫu ruộng, mấy ao cá.

Tử Vi là Lý Số chứ không phải là Toán học.

Năm 1949, các cụ tôi làm ăn khá giả, mua được một cái nhà ở Saigon. Nhân lúc nhàn rỗi, thảo luận với bạn bè Tử Vi, có một người quen hiện là thầy Tử Vi cũng khá ở Saigon, có bảo thế này:

- “Cung Điền của Bác có Tử Vi, Tả, Hữu, ắt là có hai cái nhà”.

Lúc trời cho ăn nên làm ra, thì cũng dễ nhìn vào đà tiến mà đoán việc tốt lắm. Vài năm sau, ông cụ tôi mua thêm một cái nhà ở Gia định. Thế là hai cái nhà thật!

Tả Phù, Hữu Bật là một đôi mà, đúng quá rồi còn gì nữa. Vài năm sau nữa, làm ăn khá mua thêm một căn nhà ở Khánh Hội. Thế là ba cái nhà!

À, té ra Tử Vi là một cái chính. Phụ Bật là hai cái phụ, tổng cộng là ba.

Người có khuynh hướng công thức, ắt sẽ luận như vậy.

Đến lúc về già làm ăn kém: thu hẹp lại còn độc một cái nhà!

Vậy Tử Vi không phải là Toán Học mà là Lý Số.

Chỉ có thể luận tương đối về phần lượng mà thôi.

Có một cái nhà gạch to, bán đi có thể đổi thành hai cái nhà nhỏ, hoặc làm được vài mươi cái nhà tôn.

Luận về phần lượng của sự giàu nghèo, tiền tài, nhà cửa, địa vị thì cũng cần so sánh lá số của đương số với các cung Phúc, Quan, Điền, Tài của cha mẹ để có thêm một hình ảnh về phần lượng vậy thôi.

Cha mẹ đã ở vào bực tỷ phú, người con có lá số trung cách, trung phú, thì sự giàu có của người con cũng có hạng lắm. Do ảnh hưởng tương quan giữa cung Phú, Tài trong hai lá số.

Cha mẹ, gia tộc đã nhiều đời bần hàn, mà đến đời đương số được trung cách, trung phú, thì sự giàu có ấy cũng chẳng khá mấy trong xã hội.

Luận cho những người ấy nghe rằng số của họ được phong lưu trung phú thì trong hai người ấy, người nào cũng cho là xuôi tai, có lý. Vì người nào cũng có cái cảm quan riêng về mức trung phú, theo những tập nhiễm của họ từ bé.

Quanh đi, quẩn lại, cũng chỉ có ngần ấy năm tháng ngày giờ sinh, mỗi người còn phải chịu chi phối bởi nhiều ảnh hưởng tương quan như hoàn cảnh gia đình, dòng dõi, xã hội, địa lý v.v…

Đã có lần, tôi xem số giúp cho một đứa bé, tuổi Mậu Tuất, Mệnh có Tham tại Mùi, có Xương Khúc, Khôi Việt, không gặp hung tinh nào đáng kể, tôi đoán ngay là cháu thông minh học giỏi lắm.

Người cha mừng rỡ gật đầu: “Vâng, cháu thông minh lắm, cháu học lớp nhất. Cô giáo lúc nào cũng khen cháu. Tháng nào cháu cũng đứng từ hạng nhất đến hạng ba”.

Tuổi Mậu Tuất, năm nay 15 tuổi ta, 14 tuổi tây, học lớp nhất nhì đã lấy gì làm thông minh xuất sắc cho lắm. Có đứng hạng nhất cũng là sự thường.

Thế nhưng đứa bé ấy quả có thông minh vượt bực trong cái hoàn cảnh gia tộc của nó, theo cảm quan của gia đình nó.

Biết bao đứa trẻ ra đời cùng ngày giờ sinh. Như Mệnh có Xương Khúc cho là thông minh, thì cũng chỉ thông minh học giỏi trong hoàn cảnh gia đình của nó thế thôi! Cũng có Văn tinh, đứa trẻ sinh ra trong một gia đình văn học, ắt lợi về sự học hơn vì ngay từ lúc bé, đã thấm nhuần bầu không khí văn chương chữ nghĩa.

Cùng có Văn Xương, Văn Khúc: nếu một đứa bé sinh ra trong một gia đình mà sáng, trưa, chiều tối có chuyện đánh nhau, cãi nhau, thì Văn Xương, Văn Khúc cũng bay đi đằng nào mất. Đứa bé cũng chỉ còn lại chút thông minh lanh lợi vặt, hoặc là ê a năm ba chữ. Nhưng gia đình đứa bé, theo cái cảm quan riêng của họ, vẫn hài lòng, cho rằng như thế là thông minh.

Chính vì biết bao yếu tố tương quan như âm phúc, địa lý, dòng dõi, hoàn cảnh gia đình mà xưa nay có biết bao người cùng ngày, giờ sinh với Khổng Minh, Trương Lương, Hàn Tín… mà không có cuộc đời giống Khổng Minh như khuôn đúc được.

Tử Vi chỉ nói lên tính cách của cuộc đời, của vận hạn, chứ nào có quy định phần lượng một cách tuyệt đối.

Nếu không xét đến luật tương quan tương đối, thì không đưa ra được một chiều hướng nghiên cứu Tử Vi theo đúng công dụng của môn Lý Học Đông Phương này.

Chúng tôi nghĩ rằng, các học giả Tử Vi không nên, hoặc là suy tôn Tử Vi, hoặc là phủ nhận giá trị của khoa này.

Chúng ta cần định rõ cái công dụng của Tử Vi, rồi mới có thể phê phán giá trị của khoa này.

Thí dụ như trước một lọ thuốc bổ, chúng ta cần hiều lọ thuốc ấy bổ về phương diện nào, bổ cho cơ quan, bộ phận nào rồi sau mới có thể phê phán công hiệu của nó. Như trước một lọ thuốc bổ gan, chúng ta không tìm hiểu xuất xứ, công dụng, cứ vội theo tập quán, hoặc theo lời quảng cáo, vội cho rằng thứ thuốc bá bổ, bổ tổng quát. Đến khi uống vào vẫn thấy nặng ngực, khó thở, chê là thuốc ấy không hay. Thuốc ấy có bổ phổi đâu!

Chúng tôi thấy rằng có khá nhiều học giả Tử Vi xưa nay chỉ làm hai công việc. Một suy tôn tử Vi lên hàng thần toán tuyệt đích, tính cả đến ngày giờ qua đời. Hai là hoài nghi giá trị Tử Vi.

Nói rằng cùng ngày giờ sinh mà số vận của hai người còn có thể sai biệt vì biết bao yếu tố tương quan như địa lý, âm phúc, dòng dõi đầu giờ, cuối giờ v.v… rồi lại mong dùng Tử Vi để tính đến ngày giờ qua đời, thì quả thực là người nghiên cứu đã mâu thuẫn với chính mình.

Sách Tử Vi xuất bản đã khá nhiều, nhưng chưa ai làm công việc “Trả lại cho César cái gì của César”. Tử Vi là Tử Vi Lý Số, một môn Lý học.

Một môn Lý học không thể làm công việc của một môn Toán học thuần túy cũng như chúng ta không thể dùng Y Lý Đông Phương để luận về chiều dài con vi trùng, nhằm thỏa mãn cái tinh thần khoa học phân tích của Tây phương.

Luận đoán thời vận không phải là cứu cánh của Tử Vi Lý Số. Đoáng thời vận chỉ là một khía cạnh tương đối của Tử Vi. Môn Lý học này còn có công dụng giúp học giả tổ chức nếp sống của mình thuận theo thiên lý, theo cái quan niệm “Thuận Thiên Giả Tồn” của Đông Phương.

Trở lại câu chuyện “Hai Cuộc Đời, Một Lá Số”, chúng tôi có nhớ các cụ tôi ngày xưa thường nói chuyện rằng cung Phu-Thê mà ngộ Triệt, Tuần, nên lấy vợ chồng cách sông, cách nước thì lợi hơn, đỡ sự hình khắc. Ngày xưa thì cách sông, cách nước, cách làng, cách tỉnh đã là quan trọng. Ngày nay có cách nhau vài quốc qua cũng không phải là chuyện lạ.

Đây là khía cạnh Lý học chứ không phải là Toán học của Tử Vi.

Tử Vi Lý Số nào có độc đoán rằng hễ đã có Triệt, Tuần tại cung Phu Thê, thì dù có tính toán thế nào cũng không thoát khỏi việc lấy vợ, chồng nhằm người cách sông, cách nước…

Lý học Tử Vi chỉ vạch ra một chiều hướng sống theo Thiên Lý rằng “” Có Triệt, Tuần tại cung Phu Thê, lấy vợ chồng cách sông, cách nước thì lợi hơn, đỡ hình khắc.”

Nhân câu chuyện cụ Quản Văn Chính, chúng tôi chỉ muốn làm sáng tỏ cái quan niệm Tử Vi là một môn Lý Học Đông Phương.

Lá số của người chồng không thể định đoạt sự sống chết của vợ con, mà chỉ trợ lực, ảnh hưởng thêm vào những điểm tốt, xấu trong vận số của người vợ.

Người chồng gặp vận hạn có tang tóc, lại gặp năm ấy bản mệnh của người vợ kém, thì vợ mới chết. Còn nếu nhẹ, thì người vợ chỉ có thể bị một tai nạn nào hú vía rồi lại qua được.

Không thể coi Tử Vi như một môn toán học thuần túy, chỉ cần coi vào lá số của người chồng để quyết đoán rằng đến cái năm nào đó người vợ phải lăn ra chết.

Hai người đàn ông cùng tuổi Mậu Ngọ, tháng 5, ngày 13, giờ Mão, nhưng họ không lấy vợ cùng một ngày, một giờ. Vợ của họ không có ngày…

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi và luật tương quan, tương đối

Nguyên tắc khác tính ngày xung tuổi –

Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim – Thủy – Mộc – Hỏa – Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương sinh là: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim… Hoặc theo quy luật tương khắc là: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

2011771450232

Ngoài quy luật tương sinh, tương khắc chung, các Địa chi còn phân ra sáu cặp Địa chi xung nhau rất mạnh. Đó là:

–     Dần xung Thân và ngược lại – Thìn xung Tuất và ngược lại.

–     Tị xung Hợi và ngược lại – Tý xung Ngọ và ngược lại.

–     Mão xung Dậu và ngược lại – Sửu xung Mùi và ngược lại.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc khác tính ngày xung tuổi –

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Mùi

Tử vi tháng Hai của người tuổi Mùi gặp phải vận trình Thiên Can Thái Tuế tương khắc Nguyệt Lệnh.
Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng Hai của người tuổi Mùi gặp phải vận trình Thiên Can Thái Tuế tương khắc Nguyệt Lệnh, nhưng may mắn cục diện Mão Mùi hợp hóa Mộc cục khiến vận trình của bản mệnh rất tốt đẹp. Công việc bận rộn, bạn thể hiện rất xuất sắc trong mỗi nhiệm vụ được giao, được mọi người xung quanh tán dương.


Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mui hinh anh goc
 
Mặc dù bước vào tháng 2 âm lịch người tuổi Mùi gặp phải vận trình Thiên Can Thái Tuế tương khắc Nguyệt Lệnh, nhưng may mắn cục diện Mão Mùi hợp hóa Mộc cục khiến vận trình của bản mệnh rất tốt đẹp. Công việc bận rộn, bạn thể hiện rất xuất sắc trong mỗi nhiệm vụ được giao, được mọi người xung quanh tán dương.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Ngoài ra, người tuổi Mùi còn độc thân có vận đào hoa rất tốt, nhất là bản mệnh nữ.

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mui hinh anh goc 2
 
SỰ NGHIỆP


Theo tử vi tháng Hai của người tuổi Mùi, quan hệ Mão Mùi tam hợp vượng đế nên công việc người tuổi Mùi rất đáng chờ đợi. Dù áp lực công việc khá lớn, không thể tránh khỏi nhưng “quả ngọt” bạn nhận được không thất vọng chút nào.

Ngoài ra lưu ý họa tiểu nhân ám hại, giữa tháng quý nhân cao chiếu sẽ giải vây cho bạn. Trong quan hệ đồng nghiệp đề phòng lời ăn tiếng nói, đừng để người khác nắm được điểm yếu. Bạn nên tận dụng các mối quan hệ xã giao để chuyển vận may về cho mình. Người làm ăn nên khéo léo, nhẫn nại hơn khi đàm phán, ký kết hợp đồng.

TÀI LỘC

Được sự hỗ trợ từ sự nghiệp, vận trình tài lộc của người tuổi Mùi rất ổn, nên tranh thủ thời gian để gia tăng thu nhập. Khối lượng công việc nhiều khiến bạn thường xuyên làm ngoài giờ, tuy vậy sự đền đáp về tài lộc lại rất tốt. Nên tránh việc cho vay mượn thường xuyên.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mui hinh anh goc 3
 
TÌNH CẢM


Xem tử vi thấy chuyện tình cảm của người tuổi Mùi khá phong phú trong tháng này. Người độc thân thích kết giao với nhiều người, tâm trạng bạn trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ hơn. Người độc thân có hi vọng lớn nếu nỗ lực hết mình. Vì chưa có kế hoạch định sẵn cho tương lai, các cặp đôi sẽ xảy ra vài tranh cãi không đáng có. Người đã lập gia đình luôn có suy nghĩ nối lại tình cảm xưa, dễ động lòng với tình cũ. Tâm tư yếu mềm, nên biết khắc chế bản thân thì hơn.

SỨC KHỎE


Vì nguyên nhân công việc, người tuổi Mùi phải giao tiếp không ngừng, dễ nhiễm bệnh viêm họng, ho hắng. Vài lát chanh ngâm mật ong hay ít muối tinh sẽ đem lại cảm giác dễ chịu cho cổ họng bạn. Nhưng nên biết “phòng còn hơn chữa”. Công việc căng thẳng còn khiến bạn đau đầu, ăn ngủ không điều độ, sức đề kháng cũng đi xuống nhiều.

Nhìn chung, bước vào tháng 2 âm lịch, vận trình người tuổi Mùi tốt đẹp, cần chú ý mặt công việc bị tiểu nhân quấy nhiễu. Đường tài lộc ổn thỏa, nhưng cần tránh tuyệt đối những hoạt động đầu tư đỏ đen kẻo sẽ tan gia bại sản. Tháng này, người trong nhà bạn có tin vui thêm con cháu hoặc chuyển nhà mới, những việc này đều là hưng thịnh gia vận, có thể giúp bạn hóa giải những bất lợi trong tháng liên quan tới Thái Tuế. Mặt sức khỏe, trong bữa ăn hàng ngày nên hạn chế các món hải sản, thịt bò, nên uống nhiều nước và ăn nhiều rau quả.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Mui hinh anh goc 4
 
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Mùi

Hướng cửa của cửa hàng mặt đường phố cổ nên xử lý thế nào? –

Trên phố xá, thường thấy một số cửa hàng lợi dụng gian bên đường có sẵn thay đổi kiến trúc mà thành. Những gian hàng của cửa hàng này trước kia đa số đều là nhà ở sử dụng, không có những tấm che chắn hay mái che ra bên ngoài để tránh nắng tránh mưa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

20120305110720_7

Những cửa hàng như thế tuy hướng tới được khách hàng nhưng không có lợi cho sự ra vào của khách hàng. Những cửa hàng như vậy, trước cửa nên làm một tấm lầu che nắng mưa, có được tấm lán đó, mùa nắng có thể tránh được ánh nắng chiếu của những ngày nắng nóng, cùng khiến cho khách hàng đến cửa hàng có một nơi để nghỉ chân; vào mùa mưa, có thể tránh bị mưa làm ướt cửa hàng và khiến cho khách hàng đến đó chuẩn bị được một chỗ trú mưa. Nếu không, cửa hàng không có gì che chắn, trong những ngày nóng bức, khi nóng làm khách hàng không chịu được nên sẽ ít đến hơn; những hôm trời mưa, không khí ẩm ướt xung quanh, khách hàng không có chỗ đứng thì đương nhiên cùng sẽ không ai đến.

Vật cát tường:

Ỷ nghĩa tượng trưng: Trí tuệ, sức khỏe, khai vận cát tường.

Giải thích: Trong các vật khai vận cát tường của truyền thông Trung Quốc, “hồ lô” có hiệu quả thần kỳ trong việc trừ tà, nạp phúc, tăng tiến tài vận, do vậy, miệng bình hồ lô nhỏ, thân bình to, dễ vào mà khó ra.

Có thế dùng để hoá giải bệnh tật, trừ bò sát khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng cửa của cửa hàng mặt đường phố cổ nên xử lý thế nào? –

Những hình xăm hợp với mệnh Thổ –

Xăm hình là một nghệ thuật. Nhưng đồng thời những hình xăm đẹp cũng mang những ý nghĩa duy tâm nhất định trong phong thủy. Nếu như bạn xăm hình hợp với vận mạng của mình thì sẽ mang đến sự may mắn cát tường trong cuộc sống. Đối với người mệnh thổ thì
Những hình xăm hợp với mệnh Thổ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xăm hình là một nghệ thuật. Nhưng đồng thời những hình xăm đẹp cũng mang những ý nghĩa duy tâm nhất định trong phong thủy. Nếu như bạn xăm hình hợp với vận mạng của mình thì sẽ mang đến sự may mắn cát tường trong cuộc sống.

22

Đối với người mệnh thổ thì nên xăm hình phong thủy gì và ý nghĩa sâu xa của nó như thế nào? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu kỹ trước khi xăm:

Thổ là một trong những yếu tố cấu thành nên ngũ hành tương sinh tồn tại trong vũ trụ.

Những điều nên khi xăm hình:

Dựa vào sự tương sinh trong ngũ hành người mệnh thổ thì nên xăm những màu sắc tượng trưng cho lửa như đỏ, hồng, cam bởi lửa sẽ sinh ra đất (chính là thổ). Chính vì vậy hình xăm rồng, cá chép đỏ, phượng hoàng lửa sẽ rất hợp với bạn.

Rồng lửa là một hình xăm nghệ thuật rất hợp với người mệnh thổ bởi sắc đỏ rực và có khả năng tạo ra lửa để sinh ra tính thổ trong bạn. Không những thế rồng còn là sự biểu hiện cho sức mạnh tối cao, quyền lực huyền bí không ai giám chống lại.

Hình xăm rồng lửa tay cầm quả cầu âm dương thể hiện cho sức mạnh nắm giữ toàn bộ phép thuật vồn có của cõi âm và trên trần. Hơn nữa xăm hình rồng này còn là nghệ thuật bởi sự cách điệu phá cách trong những hoa văn, chắp thêm đôi cánh cho rồng.

Tuy nhiên bạn mệnh thổ có phần lớn điều kiện để xăm hình rồng, tuy nhiên nên tìm hiểu thật kỹ về ý nghĩa hình xăm rồng để có được sự lựa chọn thích đáng nhất, dù sao rồng cũng là sinh vật linh thiêng.

Còn một màu sắc nữa hợp với bạn mệnh thổ đó là màu vàng đất. Ở đây hình xăm cá chép màu nâu nghiêng sang vàng đất là hình xăm nghệ thuật phù hợp nhất. Vốn dĩ xăm hình cá chép mang ý nghĩa rất tốt đẹp (bạn có thể xem tại ý nghĩa hình xăm cá chép ) mà lại mang màu vàng đất càng tạo nên sự tương trợ vô cùng lớn.

Nếu chọn màu sắc thì màu nâu đậm là tốt nhất bởi “lưỡng thổ thành sơn” – đất nhiều thì thành núi mang lại địa vị vững chắc cho chủ nhân.

Những điều cần tránh khi xăm hình đối với người mạng thổ:

Màu sắc hình xăm cho người mệnh thổ nên tránh là màu của thủy như màu xanh, màu đen, màu tím xanh bởi thổ khắc thủy sẽ không phát huy tác dụng mà hình xăm mang lại.

Còn một màu vồ cùng kiêng kỵ, nên tránh đó là màu xanh lá cây – màu của cây cối của tính “mộc”. Bởi vì cây đâm sâu rễ vào đất hút hết khoáng chất, chất dinh dưỡng từ đất. Người xăm hình màu xanh lá sẽ ngày càng suy yếu về sức khỏe, thể lực, tiền tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những hình xăm hợp với mệnh Thổ –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Mơ thấy đi chân trần: Tinh lực dồi dào –

Một chàng trai 20 tuổi kể: Tôi mơ thấy mình như đang bơi giữa đại dương bao la. Ở nơi mênh mông ngút ngàn ấy, lòng người rộng mở vô hạn. Một lát sau, tôi bơi vào bờ nghỉ ngơi. Đôi chân trần của tôi bước trên những bãi cát mềm mịn, êm ái, một cảm giác
Mơ thấy đi chân trần: Tinh lực dồi dào –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đi chân trần: Tinh lực dồi dào –

Những điều đáng ghét ở 12 con giáp –

Người tuổi Dậu khá keo kiệt trong vấn đề tiền bạc. Bất luận thời điểm nào, họ đều tính toán khá chi li. Tuổi Tý: Quá tính toán Người tuổi Tý khiến nhiều người ác cảm bởi sự tính toán hơn thua của họ. Những thứ nhỏ nhoi cho đến lớn lao đều được họ đặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dậu khá keo kiệt trong vấn đề tiền bạc. Bất luận thời điểm nào, họ đều tính toán khá chi li.

anh-dai-dien30

Tuổi Tý: Quá tính toán
Người tuổi Tý khiến nhiều người ác cảm bởi sự tính toán hơn thua của họ. Những thứ nhỏ nhoi cho đến lớn lao đều được họ đặt lên bàn cân so sánh rất rạch ròi.

Tuổi Sửu: Cố chấp
Người tuổi Sửu khiến nhiều người khó chịu bởi sự cứng đầu, bướng bỉnh. Nếu họ đã quyết định thì tuyệt nhiên không vì bất cứ ai hay bất kỳ điều gì mà thay đổi.

Tuổi Dần: Ngạo mạn
Người tuổi Dần khiến nhiều người bực bội bởi sự ngạo mạn. Với thái độ không xem ai ra gì nên họ đắc tội với rất nhiều người.

Tuổi Mão: Quá ngoan ngoãn
Người tuổi Mão ngoan ngoãn đến nỗi khiến nhiều người cảm thấy họ đang giả tạo. Họ nghịch ngầm và được che đậy bởi sự khôn ngoan, khéo léo nên chẳng ai nỡ mắng mỏ hay kiểm soát họ.

Tuổi Thìn: Kiêu ngạo
Người tuổi Thìn kiêu căng đến hợm hĩnh, họ luôn tỏ ra mình đặc biệt, không lẫn tạp chất hay thói xấu của người đời. Sự tự tin thái quá của họ đôi khi khiến những người xung quanh cảm thấy vô cùng khó chịu.

Tuổi Tỵ: Nham hiểm
Người tuổi rắn trông rất thông minh và mưu trí. Tuy nhiên, quen biết càng lâu mọi người càng nhận ra họ là một người vô cùng mưu mô và xảo quyệt. Nụ cười của họ luôn ẩn giấu sát khí bên trong.

Tuổi Ngọ: Nóng nảy
Người tuổi Ngọ rất chăm chỉ và cần cù, mọi điểm đều không thể chê ngoại trừ bản tính của họ quá nóng nảy và hấp tấp.

Tuổi Mùi: Nhu nhược
Người tuổi Mùi luôn có thái độ phục tùng theo kiểu “bảo sao nghe vậy”, cuộc sống của họ ngoại trừ nhẫn nhịn ra thì chính là luôn nhượng bộ người khác.

Tuổi Thân: Gian xảo
Người tuổi Thân luôn biết cách làm người khác vui vẻ, duy chỉ có điểm khiến mọi người khó chịu là họ khá gian xảo, không chân thành và thiếu sự thực tế.

Tuổi Dậu: Keo kiệt
Người tuổi Dậu keo kiệt trong vấn đề tiền bạc, bất luận thời điểm nào, họ đều tính toán khá chi li, ngay cả trên bàn ăn. Họ hiếm khi là người chủ động thanh toán tiền.

Tuổi Tuất: Trầm lặng
Người tuổi Tuất khá trầm lặng và u buồn, dù có chuyện gì xảy ra họ vẫn cố giữ khư khư trong lòng, đối lập với tâm trạng là vẻ mặt lúc nào cũng phấn chấn khiến người ta nao lòng.

Tuổi Hợi: Lười biếng
Người tuổi Hợi không có điểm nào để chê trách ngoại trừ sự lười biếng của họ, cái gì cũng không thích làm, cộng thêm thói quen lười vận động nên chẳng mấy chốc đa số họ đều mắc căn bệnh béo phì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều đáng ghét ở 12 con giáp –

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, tu vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, tu vi Phong thủy bàn thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý

Gia chủ tuổi Nhâm tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được.

– Năm sinh dương lịch: 1972, 2032, 2092

– Năm sinh âm lịch: Nhâm Tý

ban-tho-than-tai-tuoi-nham-ty

ban-tho-than-tai-tuoi-nham-ty

– Theo phong thủy, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Nhâm tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.

– Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Nhâm tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo. Tốt nhất là tại góc chéo bên trái hoặc bên phải đối diện với cửa chính, mặt bàn thờ hướng ra cửa để đón tài lộc (trong phong thủy đây là vị trí tụ khí vì thế sẽ thu hút được vận may, tài lộc vào nhà).

– Gia chủ tuổi Nhâm tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được. Ngoài ra, bàn thờ thần tài phải có chỗ tọa vững chắc vì vậy lưng bàn thờ nên dựa vào tường hoặc tủ kệ cố định.

– Gia chủ tuổi Nhâm tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng tốt là: Nam (Diên Niên); Đông Nam (Sinh Khí); Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y). Đối với tuổi Nhâm tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng tốt là: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y).

– Gia chủ tuổi Nhâm tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng xấu là: Tây (Họa Hại);Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Tuyệt Mệnh).Đối với tuổi Nhâm tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng xấu là:Nam (Họa Hại);Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh).

*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy

– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

 

– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ

 

– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.

– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.

– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.

– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.

– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.

– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.

– Bên cạnh đó, gia chủ tuổi Nhâm tý cũng cần quan tâm thêm đến trạch khí của ngôi nhà cũng như bố cục của phòng ốc để có lựa chọn tối ưu.

– Trong nhiều trường hợp, bàn thờ thần tài vẫn có thể xoay chéo 45 độ so với tường. Khi đó, phía sau lưng cần có bức vách che góc nhọn của tường hoặc những đồ trang trí như lọ lộc bình… để làm vững lưng ban thờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Văn khấn chúng sinh rằm tháng bảy

Ngày Rằm tháng bảy mọi tội nhân cõi Âm, vong linh của gia đình, họ tộc được xá tội, ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian. Sửa lễ và văn khấn thế nào cho đúng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam Rằm tháng bảy - Tiết Trung Nguyên là tiết của dịp ”Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng bảy hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian.

cung-giam-thang-7

Bởi vậy, các gia đình ở Dương Gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ.

Ngoài cúng gia tiên ngày ”Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.

Chuẩn bị sắm lễ và văn khấn để cúng chúng sinh rằm tháng bảy như thế nào?

1. Sắm lễ cúng rằm tháng bảy

Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ để cúng

- Lễ cúng gia tiên gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…

- Lễ cúng chúng sinh gồm các lễ vật: Bánh đa, bỏng, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…

2. Văn khấn chúng sinh rằm tháng bảy

Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!

Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần
Con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy Táo phủ Thần quân chính thần.

Tiết tháng 7 sắp thu phân
Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà
Âm cung mở cửa không nhà bơ vơ
Đại Thánh Khảo giáo
A nan Đà Tôn giả
Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương
Gốc cây xó chợ đầu đường
Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang
Quanh năm đói rét cơ hàn
Không manh áo mỏng, che làm heo may
Cô hồn nam bắc đông tây
Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn
Dù rằng : Chết uổng ,chết oan
Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu
Chết tai nạn - chết ốm đau
Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình
Chết bom đạn, chết đao binh
Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi
Chết vì sét đánh giữa trời

Nay nghe tín chủ thỉnh mời
Lai lầm nhận hưởng mọi lời trước sau
Cơm canh cháo nẻ trầu cau
Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh
Gạo muối quả thực hoa đăng
Mang theo một chút để giành ngày mai
Phù hộ tín chủ lộc tài
An khang thịnh vượng hài hòa gia trung
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời
Bây giờ nhận hưởng xong rồi
Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần

Tín chủ thiêu hóa kim ngân
Cùng với áo quần đã được phân chia

Kính cáo tôn thần
Chứng minh công đức
Cho tín chủ con tên là……………
Vợ/Chồng: ………………………..
Con trai: ……………………….....
Con gái: …………………


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn chúng sinh rằm tháng bảy

Mệnh Sa Trung Kim

Giáp Ngọ, Ất Mùi thì Ngọ là chỗ hỏa vượng, hoả vượng thì kim bại; Mùi là chỗ hỏa suy, hỏa tuy suy nhưng kim cũng đã cùn nhược. Gọi bằng Sa Trung Kim, Kim không đủ cứng cáp để chém, để đẩy cho nên người Sa Trung Kim thường làm việc một cách đầu voi đuôi chuột. Mệnh cung mà thêm sao Thiên Đồng hãm nữa thì càng vớ vẩn.
Mệnh Sa Trung Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sa Trung Kim cần liên tục theo đuổi mục đích nào đó, nói khác đi là ngoan cố đeo đẳng mới đạt tới được. Giáp Ngọ thì Ngọ hỏa khắc kim tước giảm khí thế, trong khi Ất Mùi thì Mùi thổ sinh kim. Ất Mùi đương đầu với gian nan uyển chuyển hơn Giáp Ngọ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Sa Trung Kim

Dự báo sự nghiệp, tài lộc 12 con giáp năm 2017

Năm Đinh Dậu sẽ là một năm may mắn với người tuổi Ngọ, nhưng cũng là một năm đầy thách thức với người tuổi Thân.
Dự báo sự nghiệp, tài lộc 12 con giáp năm 2017

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong
Tuổi Tý
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-1
Tuổi Mão
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-2
Tuổi Ngọ
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-3
Tuổi Dậu
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-4
Tuổi Sửu
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-5
Tuổi Thìn
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-6
Tuổi Mùi
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-7
Tuổi Tuất
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-8
Tuổi Dần
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-9
Tuổi Tỵ
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-10
Tuổi Thân
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-11
Tuổi Hợi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự báo sự nghiệp, tài lộc 12 con giáp năm 2017

Lễ hội tiêu biểu trong ngày 20 tháng 8 âm - Hội Đền Ghềnh

Vào ngày 20 tháng 8 âm lịch có diễn ra một số lễ hội tiêu biêu như sau: Hội Yên Cư, Hội Đền Trần Thương, Hội Đền Phú Xá, Hội Đền Phú Xá, Hội Đền Ghềnh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội tiêu biểu trong ngày 20 tháng 8 âm - Hội Đền Ghềnh

Lễ hội tiêu biểu trong ngày 20 tháng 8 âm - Hội Đền Ghềnh

1. Hội Đền Ghềnh

Thời gian:  tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: thôn Ái Mộ, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ba nữ thần: Liễu Hạnh (con gái Ngọc Hoàng), La Bình (con gái thần núi Tản Viên), Lê Ngọc Hân (vợ vua Quang trung).

Nội dung: Hội đền Ghềnh năm nào cũng thu hút đông đảo du khách thập phương. Sáng mồng 6/8, vào chính hội. Hội làng tươi vui trong đám rước kiệu bát cống của trai tân và kiệu võng của các cô gái đồng trinh.

Không thể thiếu trong các nghi thức của hội đền Ghềnh là việc đi thuyền lớn ra giữa sông Hồng, hương khói cho mẹ con nàng Ngọc Hân và rước nước thánh về đền. Bao năm tháng đã qua kể từ ngày tro xương của mẹ con nàng Ngọc Hân rải xuống khúc sông này nhưng những người dự hội vẫn không nén được xúc động khi rải tro giấy vàng xuống sông cho người xưa.

2. Hội Đình Hạ

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Chúa Liễu, Nguyễn Công Trứ.

Nội dung: Hội đình có tế lễ dâng hương thờ thần phật.

3. Hội Đền Phú Xá

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: phường Đông Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, bà Bùi Thị Tự Nhiên - người giữ kho lương cho quân đội Đại Việt và có công xây dựng làng Phú Xá.

Nội dung: Nhân đây chúng tôi xin trích đoạn về cách thức chơi tam cúc điếm và một số lời xướng của một ván chơi do Phạm Khương ghi lại theo lời kể của bà Đỗ Thị Sửu, 72 tuổi, thôn Thượng Đoạn, xã Đông Hải huyện An Hải – Hải Phòng.

1. Số người chơi tam cúc: Bốn người

2. Người xướng ( nhà cái) có giọng để xướng( như hát). Phải có vốn thuộc nhiều thơ để gieo vần. Nên có hai người để thay nhau xướng, đỡ mệt và trong khi một người xướng thì người kia chi bài và phát thẻ.

3. Dụng cụ chơi: Hai cỗ bài tam cúc, 4 trống con ( trống khẩu), dùi trống cho 4 người đánh, 36 que thẻ, trong đó 32 que cho 32 quân bài và 4 que của làng để kết. Cộng là 36 que.

4. Cách chơi: Nhà cái chia bài xong. Bắt cái: một trong 4 người chơi, bắt cái để xem ai được cái thì đánh trước.

Người xướng:

Xăm xăm mới bước chân vào

Bây giờ cái bắt đĩa nào làng ơi!

Cái bắt đĩa này. Sau đó, một trong bốn người chơi bắt cái.

Người xướng:

Cái bắt nhất pháo làng ơi

Bắt cái nhất pháo làng thời gọi cho.

Người được cái đánh trước. Nếu đánh một cây thì người đó đánh một tiếng trống để mọi người chơi ra quân bài. Rồi người đánh đưa bài cho người xướng để quân bài ai cao hơn thì ăn. Nguyenếu đánh 2 cây, 3 cây, 4 cây thì đánh 2,3,4 tiếng trống để mọi người chuẩn bị đánh.

Đầu tiên nhà cài gọi một cây, người xướng:

Xa xôi ướm hỏi dông dài

Cái bắt nhất pháo gọi thời một cây

Sa chân nhỡ bước vào đây

Cái lên nhất pháo một cây tướng bà

Nếu ai không có quân bài cao hơn thì phải chui. Và nhà cái lại gọi 3 cây, đánh 3 cây gõ 3 tiếng trống và đưa bài cho người xướng, người đó biết ngay đó là 3 cây xe, pháo, mã hồng, liền xướng cho làng nghe:

Trông lên đỉnh núi trăng tà

Trở về trống lại gọi thời 3 cây

Điều Thuyền, Lão Bá, Quan Công

Kíp truyền xe, pháo, mã hồng bộ ba.

Và cứ như thế,cuộc chơi cho đến hết bài. Khi đánh hết ván người xướng cất giọng:

Hết hội làng ơi

Làng thì tính thẻ để tôi thu bài

Thẻ dùng để tính mỗi người được bao nhiêu quân thì chia từng ẩy thẻ. Ai không có thẻ (thua) thì phải bỏ tiền ra trả cho người được. Ví dụ: người được 8 quân thì được 8 thẻ, người được 2 cây thì phải trả 6 thẻ…

Cách tính bài để chia thẻ. Ai thừa quân thì được, ai thiếu quân thì phải chia tiền.

Khi có những ván kết( kết thường được tính gấp đôi), nguyenếu kết tốt thì được tính gấp 4 lần. Trường hợp người định kết tốt đen bị người có tốt đỏ đè( bắt) thì phải phạt đền gấp 8 lần.

Cho nên những ván có kêt thì người xướng ( nhà cái) xin tiền:

Nghe tin cô kết cũng tài

Cô cho nhà cái giao bài một phu

Ván sau cô lại kết bù

Cô cho nhà cái một phu ăn trầu.

Có khi hết hội không xu nào, nhà cái phải đền, người xướng đọc:

Bạch định bắt được ông già

Còn một cái lọ cho nhà hồ xin

Những người xướng thuộc rất nhiều truyện Kiều. Chinh Phụ Ngân. Lục Vân Tiên, Tam Quốc, Tần Cung Oán, Bần Nữ Thán. Xin trích dẫn một số câu sau:

1. Kiều:

Đội trời đạp đất ỏ trời

Họ Từ, tên Hải vốn người tướng công

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Mang mình vào chốn can qua

Vào sinh ra tử gọi là tốt đen

Xót xa trong dạ bồi hồi

Nửa vầng trăng khuyết đôi người tốt son.

Ví thân đến bước lạc loài

Nhị đào thà bẻ cho người sĩ đen.

2. Tam Quốc:

Trương Phi, Lưu Bị, Quan Ngài

Đào Viên kết nghĩa ba người tướng, sĩ, tượng ông

3. Bần Nữ Thán:

Mai Kha ơi hỡi Mai Kha

Rời nhau một bước tướng bà một cây

Một đêm sương tuyết lạnh lùng

Còn chăng hay đã mặc lòng cùng ai.

Tóm lại, trò chơi tam cúc điếm ỏ đền Phú Xá là một trò chơi dân gian thú vị, khác hẳn lối chơi tam cúc thông thường. Người hát xướng tủy thuộc vào từng quân bài, ván bài cụ thể mà nhanh chóng đặt câu, gieo vần cho phù hợp văn cảnh,càng chơi nhiều người xướng càng phải trổ hết tài nghệ và vốn hiểu biết văn học của mình, để cuộc chơi thêm phần sôi nổi, lôi cuốn người nghe.

Phần vui chơi trong hội tại đền Phú Xá còn phải kể đến một trò vui hấp dẫn đông đảo thanh niên nam nữ trẻ tại địa phương – trò bơi lội bắt vịt được diển ra ngay tại mặt nước hồ hình bán nguyệt trong khu cảnh quan đền. Để chuẩn bị cho cuộc vui, người điều hành thả xuống mặt hồ môt chú vịt nhà, bơi lội tung tăng quanh hồ. Ai muốn tham gia phải đăng ký với ban tổ chức mới được chính thức dự chơi, trong trang phục gọn gàng, hợp với động tác bơi lội. Mặc dù đây là trò chơi dưới nước, phải vừa bơi giỏi, vừa nhanh tay nhanh mắt, xuất phát đúng thời cơ mới bắt được chú vịt, lĩnh giải, nhưng có nhiều người thi tài, thử vận may mong cả năm làm ăn phát đạt.

Cứ tiết “ Xuân – Thu nhị kỳ”, lễ hộI đền Phú Xá hàng năm vẫn diễn ra trong khung cảnh đất nước đổi mới mở cửa, góp phần bảo lưu và phát huy di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam.

4. Hội Đền Trần Thương

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: thôn Trần Thương, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo (đức thánh Cha) và song thân của người.

Nội dung: Lễ hội đền Trần Thương gồm hai phần. Phần lễ có các nghi thức như: lễ rước kiệu, lễ dâng hương, tế lễ… trong đó lễ “diễn xướng Thanh Đồng” và rước nước là những lễ nghi đặc trưng với ý nghĩa tôn vinh công lao, tài, đức của Đức Thánh Trần; đồng thời cầu cho “mưa thuận, gió hòa”, “phong đăng, hòa cốc”, “quốc thái,  dân an”. Phần hội gồm nhiều trò chơi mang đậm màu sắc văn hóa dân gian truyền thống như đánh cờ tướng, bơi chải, đi cầu kiều, tổ tôm điếm, kéo co, bịt mắt đập niêu, bắt vịt dưới nước,... Trong đó, thi đấu cờ tướng là một hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa nhằm tái hiện tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo.

Ngoài lễ hội truyền thống, vào giờ Tý ngày 15 tháng Giêng hàng năm, Ban Quản lý đền Trần Thương còn tổ chức Lễ phát lương để ban lộc đầu xuân của Đức Thánh Trần cho nhân dân và du khách thập phương; đồng thời ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, nhắc nhở thế hệ con cháu biết xây dựng những kho lương để đề phòng khi có binh biến.

5. Hội Yên Cư

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, phu nhân cùng các Quận Chúa của người.

Nội dung: Hội lễ ở Yên Cư ngoài tế lễ như các đền khác thờ Hưng Đạo Vương, còn có cuộc rước kiệu độc đáo qua sông đáy để đến làng Phú Hào, người ta gọi là rước trước khi rã đám. Để chuẩn bị cho cuộc rước, làng chọn trai đinh từ 18 tuổi trở lên làm đô tuỳ rước kiệu và các đô khác; và chọn các cô gái chưa chồng 18 tuổi trở lên để khiêng kiệu Trần Hưng Đạo, phu nhân và các quận chúa. Kiệu qua sông Đáy phải dùng thuyền, nhưng người đi hội và dân làng cho rằng kiệu do các cô gái khiêng nhờ phép màu của Hưng Đạo Đại Vương nên không đi thuyền, vậy mà không cô gái nào ướt quần áo. Đến Phú Hào sau lễ tế trọng thể lại rước về Yên Cư. Tương truyền, khúc sông Đáy phía đông bắc đền Yên Cư, cứ đến ngày 20.8 âm lịch cá quần về nhiều vô kể, không ai đánh bắt cá vào ngày hội; đó là cá ở tận sông Bạch Đằng tìm về mừng Đức Hưng Đạo khi Ngài giáng lâm ở Yên Cư. Sau đó cá tản đi đâu hết. Rất nhiều khách thập phương trẩy hội để xem cá quần ở Yên Cư. Thuộc huyện Yên Khánh cũ, nay là xã Khánh Cư, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội tiêu biểu trong ngày 20 tháng 8 âm - Hội Đền Ghềnh

Tuổi Sửu và tuổi Mão có hợp nhau không? –

Tuổi Sửu và tuổi Mão đều nhút nhát và khó diễn đạt cảm xúc nên họ dễ tìm được sự đồng cảm ở nhau. Có thể nói, hai tuổi Trâu và Mèo sống nội tâm nhất trong 12 con giáp. Họ rất khó biểu đạt tình cảm thành lời, nhưng trong lòng họ luôn đầy ắp sự yêu thư
Tuổi Sửu và tuổi Mão có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Mão có hợp nhau không? –

Bảng tính giờ Hoàng Đạo và Hắc Đạo chung –

NgàyGiờ Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Hoàng Đạo Thân Tuất Tý Dẩn Thìn Ngọ Thân Tuất Tý Dần Thìn Ngọ Hoàng Đạo Dậu Hợi Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi Sửu Mão Tị Mùi Hoàng Đạo Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất Hoàng Đạo Sử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

gio-hoang-dao-chuyen-nha

Ngày\Giờ

Sửu

Dần

Mão

Thìn

Tị

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi

Hoàng Đạo

Thân

Tuất

Dẩn

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Hoàng Đạo

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Hoàng Đạo

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Hoàng Đạo

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Hoàng Đạo

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Hoàng Đạo

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Hắc Đạo

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Hắc Đạo

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hắc Đạo

Dẩn

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Hắc Đạo

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Thìn

Ngọ

Thân

Tuất

Dần

Hắc Đạo

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Hắc Đạo

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

Mùi

Dậu

Hợi

Sửu

Mão

Tị

* Cách tìm:
– Cột dọc ngày Tý có 6 giờ Hoàng Đạo và 6 giờ Hắc Đạo.
Có ba cách tính giờ Hoàng Đạo (giờ tốt) và giờ Hắc Đạo (giờ xấu), bạn đọc tuỳ ý lựa chọn cách tìm phù hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tính giờ Hoàng Đạo và Hắc Đạo chung –

Tuổi Mão và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Nếu Mão và Tuất sống trong cùng một ngôi nhà, căn nhà của họ sẽ tràn đầy tiếng cười và được trang trí mang tính nghệ thuật nhờ tài năng của Mão. Mão và Tuất sẽ cùng nhau xây dựng một mối quan hệ bền chặt và nồng thắm dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. T
Tuổi Mão và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Mão và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Thế nào là thuật phong thủy –

Thuật phong thủy còn gọi là Kham dư học, Tướng địa thuật, Địa lý, Tướng trạch thuật, Thanh ô, Thanh nang thuật, Hình pháp... là bộ phận tạo nên phương thuật cổ đại Trung Quốc quan trọng, cùng là nội dung quan trọng trong kho tàng văn hóa truyền thông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuật phong thủy còn gọi là Kham dư học, Tướng địa thuật, Địa lý, Tướng trạch thuật, Thanh ô, Thanh nang thuật, Hình pháp… là bộ phận tạo nên phương thuật cổ đại Trung Quốc quan trọng, cùng là nội dung quan trọng trong kho tàng văn hóa truyền thông Trung Quốc.

phongthuy

Kham Dư: Kham là thiên đạo, Dư là địa đạo. Phong thủy khi bắt đầu đã có duyên nợ gắn kết giữa thiên văn lịch pháp và địa lý, ngửa mặt quan sát thiên văn, cúi xuống quan sát địa lý chính là hai đặc trưng cơ bản của bộ môn huyền bí này.

Tướng địa: Là chi quan sát hình thể Đất đai.

Thanh ô: Được lấy tên từ ô tử gia thanh tướng địa đời Hán, còn gọi là Thanh ô tiên sinh.

Thanh nang: Xuất hiện bắt đầu từ Quách Phác thời Đông Tấn có được 9 cuốn Thanh nang và từ đó trước tác ra cuốn sách kinh điển về tướng địa Thanh Nang Kinh.

Nhưng trong dân gian thường gọi là “phong thủy”, từ “phong thủy” này khi mới xuất hiện là ở trong Táng thư của Quách Phác: “Táng giả, thừa sinh khí đã; kinh viết: khí thừa phong tức tán, giới thủy tắc dừng, tụ chỉ khiến bất tán, hành chi khiến hữu dừng, có vị chi phong thủy”. Chính vì vậy mà người sau này coi Quách Phác là bậc thánh triết, tiên hiền của phong thủy học, mà phải phong thủy truyền thừa lại đều tôn Cừu thiên huyền nữ là tôn sư của âm dương viên (cửa phong thủy). Bởi vì theo truyền thuyết thì Cửu thiên huyền nữ đã giúp cho Hoàng đế chiến thắng Hung ưu, giải cứu trăm họ khỏi khốn khố mà đã truyền thụ cho họ số thuật huyền học, trong đó bao gồm thuật phong thủy. Trong thuật phong thủy thì một số nguyên tố lớn quan trọng là:

Phong: Hiện tượng không khí chuyển động.

Thủy: Dòng nước chảy, đường đi.

Khi: ra khi mà địa khí và không trung không thể nhìn thấy.

Ngoài ra còn có những nội dung quan trọng như: Long, cát, huyệt, thủy, toà hướng…

Những người có học thời xưa đều thông hiểu phong thủy, rất nhiều đại quan thậm chí còn đặt đến mức độ tinh thông phong thủy, thời tiên Tần ờ Trung Hoa là thời kỳ thai nghén của phong thủy học: thời kỳ Nguy Tề Nam Bắc Triều, phong thủy học đã được truyền bá; thời nhà Tống là thời kỳ thịnh hành của phong thủy: thời kỳ Minh Thanh thì mọi người không ai không biết đến phong thủy.

Trong lịch sử cận đại, phong thủy học rất thịnh hành ở Trung Quốc, sau khi giải phóng và thời kỳ Cách mạng văn hoá, phong thủy học của Trung Quốc đã phải chịu sự tấn công và phá vỡ của ngọn lửa cách mạng lúc bấy giờ: nhưng trong thực tiễn dân gian, vẫn còn tiềm tàng những cao nhân và thị trường vận dụng phong thủy học. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngành kiến trúc xây dựng và môi trường học sinh thái, quan điểm quốc tế cũng hết sức coi trọng phong thủy học, khiến cho phong thủy học một môn khoa học lâu đời lại có thể phát triển lên và bừng lên sức sống mới.

Người xưa đã nói: “Bù ô bất tinh, điều vu nhất sự: y được bất tinh, hại vu nhất nhân: địa lý bất tinh, khuynh gia diệt tộc” (Làm việc không suy nghĩ thì hỏng một việc, làm thuốc không giỏi thì chết một người, thầy Phong thủy không giỏi thì hại chết một dòng họ). Có thể thấy rằng thuật phong thủy trong lòng mọi người chiếm một vị trí quan trọng như thế nào.

Chính vì vậy, thuật phong thủy thực chất là một loại quan niệm văn hoá truyền thống, một loại dân tục lưu truyền rộng rãi, một môn số thuật tránh hung tìm cát, một môn học vấn có liên quan môi trường và con người. Từ góc độ lý luận khoa học hiện đại xem xét, phong thủy học là một môn khoa học tổng hợp của vật lý học địa cầu, địa chất học, cảnh quan môi trường học, kiến trúc sinh thái tự nhiên, phương vị vận hành thiên thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nào là thuật phong thủy –

Những vần thơ hay nhất về nắng và gió

Những vần thơ hay về nắng và gió. Nắng và gió là những hiện tượng tự nhiên nhưng từ lâu đã gieo vào lòng người những vần thơ hữu ý
Những vần thơ hay nhất về nắng và gió

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những vần thơ hay về nắng và gió. Nắng và gió là những hiện tượng tự nhiên nhưng từ lâu đã gieo vào lòng người những vần thơ hữu ý.

Gửi đến các bạn yêu nắng những bài thơ về nắng mới nhất của xemboituong.com. Tùy mỗi người khác nhau mà nắng có thể đem lại cho họ những cung bậc cảm xúc khác nhau, tuy nhiên, nắng luôn là một điều gì đó thật đặc biệt trong tâm hồn của mỗi con người, đôi lúc, tự nhiên ta lại thèm những tia nắng chiều đến lạ…

Mời các bạn cùng xem qua những áng thơ tình viết về nắng sau đây, chúc các bạn xem thơ vui vẻ!

Những vần thơ hay về nắng và gió

Nắng Chiều

Có phải mắt em trong chiều biếc
Cho anh thương nhớ ngẩn ngơ lòng
Sợi nắng hoàng hôn vương mái tóc
Buông chùng tơ liễu giữa thu không

Thuở ấy giấu lòng một tiếng thương
Ôm ấp mộng mơ cõi miên trường
Ngoài hiên lá đổ chờ trăng sáng
Khe phòng trăn trở một niềm vương

Mùa đến mùa đi mùa lại qua
Thu qua thu lại thu đi xa
Xác xơ cành lá, xơ xác phố
Niềm nỗi riêng mang vẫn mặn mà

Bên ấy chiều nay có vui không?
Chắc vẫn mây xanh, vẫn nắng hồng
Nhớ chăng một người thời xa đó?
Buồn nắng buồn mưa mãi chờ trông

Chờ Mưa

Em ngồi đợi cơn mưa mùa hạ
Góc quán quen nắng gắt trưa hè
Ký ức nào, cơn mưa rất lạ
Của một thời hai đứa chung che

Người thành phố thưa dần nắng cháy!
Gái cố đô đong đếm hạt sầu
Sông ngàn tuổi con sông còn chảy
Mây mười lăm bạc trắng mái đầu

Em tìm anh, dư tình thuở ấy
Anh nơi nào sao chẳng về đây
À đây rồi, cơn mưa đầu hạ
Mưa rì rào nghiêng ngả hàng cây

Ký ức cũ khô cằn bỏng rát
Ngột ngạt buồn, nắng đổ mồ hôi
Nắng hanh khô hương tình cũ nát
Mưa không về, nắng mãi người ơi…

Gởi Nắng Về Em

Phương ấy bây chừ rét phải không?
Nơi anh vẫn phủ màu nắng hồng
Xót xa xin gởi về thương nhớ
Mong em ấm lại tháng ngày đông

Sáng nghe đài báo nơi ấy gió
Giá rét phong sương ngập trắng trời
Đêm về song cửa lưa thưa tuyết
Vắng rồi, em có thấy chơi vơi?

Anh nhớ tháng ngày mình bên nhau
Ngồi nghe em kể chuyện mai sau
Đi qua mùa đông đầy sương giá
Bây giờ buốt lạnh một niềm đau

Chiều nay nắng rơi đầy trước ngõ
Nhờ gió gởi về nơi phương xa
Dẫu biết em đang bên ai đó
Quên rồi cái thuở cuộc tình ta…
Đêm Trở Gió

Đêm sầu lặng lẽ ngắm trăng thanh
Lanh quanh góc phố ngó mây đùa
Chiếc áo mong manh khơi lòng lạnh
Đêm nay gió trở, gió giao mùa

Chẳng biết người đâu, ta lang thang
Đi tìm nhung nhớ cuộc tình hoang
Hương đời tám nẻo người rẽ lối
Biết dạt về đâu mảnh trăng vàng

Về đâu ơi hỡi lạc về đâu
Mình ta lạc bước giữa đường câu
Tình nghĩa khi xưa nay gạn đục
Người chẳng tiếc chi buổi sơ đầu

Gió trở nguyệt gầy trôi lênh đênh
Sao trời rạng sáng nỗi buồn tênh
Mơ màng trời đất bình yên nhỉ
Ai biết lòng ta thấy chênh vênh

Chùm thơ hay về ngày chủ nhật
Thơ Buồn Về Gió: Mùa Qua Phố

Xuân giã biệt, đưa hạ về bên phố
Gió trở chiều, lá đổ não nề hiên
Ta loay hoay trăn trở với muộn phiền
Lòng thổn thức một nỗi buồn chưa dứt

Dòng tĩnh lặng tràn về miền ký ức
Nghe mơ hồ khoan nhặt tiếng thời gian
Phố im lìm lặng lẽ đón mùa sang
Ta òa vỡ nhớ bóng hình Tôn nữ

Con đường này ngày xưa em vẫn bước
Lá xạc xào ru điệu khúc thu ca
Mùa năm nào đã in dấu em qua
Nay xa vắng nhưng bóng hình còn đó

Hương tóc ấy có phải về theo gió?
Đêm dạt dào, bỏ ngỏ khúc mùa sang
Rồi nhận ra duyên phận đã lỡ làng
Nửa cô quạnh, nửa khuất mình bối rối!

Gió Giao Mùa

Phượng hồng lại ẩn vào cây
Trả khung trời ấy hao gầy cho tôi
Mây chiều hoang vắng đơn côi
Hồn nghe từng phút bồi hồi trong thơ

Lụa là tôi dệt đường tơ
Quên đi cái thuở ban sơ hoang hồng
Hạ tàn nhạt nắng bên song
Cây sơ xác lá – hồn phong rêu hồn

Trả tôi về với cô đơn
Trả tôi về với nỗi buồn ngày xưa
Chiều nay trời đổ cơn mưa
Heo may vừa đến lá mùa Thu khơi

Hôm qua người ấy đi rồi
Trong tôi từng tiếng mưa rơi chạnh lòng

Gió Lạnh Về

Anh ơi gió lạnh đã về rồi
Người còn biền biệt chốn trùng khơi
Năm tháng lạnh lòng mong mỏi đợi
Dẫu biết ngày về còn xa xôi

Phố vắng mình tôi bước bơ vơ
Ru bao thương nhớ viết dòng thơ
Nhờ gió gửi về phương xa ấy
Hẹn người sẽ đọc ở trong mơ

Lạnh lẽo đông về thêm lạnh lẽo
Hoàng hôn nắng đổ lạnh hoàng hôn
Đông qua lặng lẽ rồi đông chết
Mà bóng người xưa vẫn hững hờ

Anh hỡi, anh ơi! Lòng tôi rét
Đêm về bóng nguyệt xé hồn côi
Một mình tôi khóc nỗi phân đôi
Anh ơi! Gió lạnh sắp về rồi….


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vần thơ hay nhất về nắng và gió
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd