Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tử vi Bính Tý phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

BÍNH TÝ: GIẢN HẠ THỦY Trong tử vi Bính Tý là con chuột trong sơn động, tính cách chính trực, là người trọng đạo nghĩa, phàm mọi việc đều biết giới hạn, làm việc tỉ mỉ cẩn thận, thái độ cung kính khiêm nhường. Giản hạ Thủy xuất phát là con sóng nhỏ, s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

BÍNH TÝ: GIẢN HẠ THỦY

Trong tử vi Bính Tý là con chuột trong sơn động, tính cách chính trực, là người trọng đạo nghĩa, phàm mọi việc đều biết giới hạn, làm việc tỉ mỉ cẩn thận, thái độ cung kính khiêm nhường.

Giản hạ Thủy xuất phát là con sóng nhỏ, sau trở nên chảy xiết, nối liền dòng Nam Bắc, đứng đốì mặt với cung vị Khảm, Ly.

Bình Tý là Thủy chảy nơi đồng bằng, không kỵ Thủy khác, duy không ưa Canh Tý  Bích thượng Thổ, là vượng gặp Ngũ quỷ, không tốt, còn chủ về con cái duyên mỏng.

12congiap (1)

Phàm là người sinh năm Bính Tý thường tư chất khoáng đạt, kiến thức sâu rộng,  sinh vào mùa xuân hạ có nhiều thành tích đóng góp, nhất là theo công trình thủy lợi.

Thủy này trong xanh, ưa gặp Kim nuôi dưỡng, nhất là ưa Ất Mùi Sa trung  Kim; Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim. Không nên gặp Canh Tuất Thoa  xuyến Kim và Đinh Sửu Giản hạ Thủy.

Bính Tý gặp Tân Hợi chủ về hiển quý, gặp  Mộc là tốt, nhiều Mộc chủ vất vả khổ cực. Nạp âm không được có Thổ, phạm vào chủ về người ngu muội, là phá cách, không có tiền đồ. Kỵ nhất Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ và Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ.

 Trong tử vi Bính tý không ưa chi khác có Mão là phạm hình, không biết kính trọng bề trên, không trọng lễ tiết, thực chất trong lòng không có ý ngỗ ngược, nhưng khiến cho đối phương cảm thấy đau lòng. Mệnh nữ tối kỵ, chủ bất hiếu vói bố mẹ chồng. Nếu tọa thời chi, có nỗi đau để tang con, người đầu bạc khóc kẻ đầu xanh.

Chi khác có Tý, vợ chồng duyên mỏng.

Chi khác có Thìn, nên nương nhờ nơi cửa Phật.

Bính Tý Không vong tại Thân Dậu, nếu tọa nhật chi, khắc vợ hoặc chồng. Nếu tọa thời chi, khắc con cái, cuối đời chán nản.

Can khác không ưa có Nhâm, phạm vào chủ là người làm những việc tổn hại đến danh dự.

Bính lộc tại Tỵ, can khác có Tỵ, Thân đều chủ về cát lợi.

Chi khác có Hợi là đắc quý nhân.

Mệnh nam nên theo nghiệp diễn viên, mệnh nữ thường lưu lạc phong trần.

Mỗi khi gặp năm Tý, Ngọ, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Bạn đời không nên gặp người sinh năm Nhâm, Quý. Nên tìm người sinh năm Canh, Tân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Bính Tý phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Tìm hiểu về sự hình thành và tác dụng của đá mã não –

Khi nhắc đến những loại đá quý, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến kim cương, ruby… mà quên mất rằng có một loại đá đã được con người khai thác và sử dụng rất sớm. Đó chính là đá mã não. Bài biết sau đây Tìm hiểu về sự hình thành và tác dụng của đá mã não. Mã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nhắc đến những loại đá quý, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến kim cương, ruby… mà quên mất rằng có một loại đá đã được con người khai thác và sử dụng rất sớm. Đó chính là đá mã não. Bài biết sau đây Tìm hiểu về sự hình thành và tác dụng của đá mã não.

Nội dung

  • 1 Mã não là gì?
  • 2 Sự hình thành của đá mã não
  • 3 Phân loại đá mã não ?
  • 4 Tác dụng của mã não

Mã não là gì?

Về bản chất, mã não là một biến thể của thạch anh, và thuộc nhóm Chalcedony. Tuy có cùng công thức hóa học như Thạch anh và Chalcedony, nhưng mã não lại có cấu trúc vi hạt rất mịn. Điều này khiến cho mã não đa số có chất lượng ngọc, chất đá mã não rất dai, do vậy khi được chế tác sẽ cho bề mặt cực kỳ bóng, mịn, bền, đẹp. Mức độ phổ biến của mã não cũng giúp cho các sản phẩm ngọc mã não có giá thành rất phải chăng, phù hợp với túi tiền đại đa số người tiêu dùng.

Sự hình thành của đá mã não

Trong tự nhiên, mã não có thể được hình thành từ nham thạch núi lửa nguội lạnh nhanh (Nguồn gốc vô cơ) hoặc từ xác thực vật, động vật hóa thạch như gỗ hóa thạch, xương, vỏ ốc hóa thạch … (Nguồn gốc hữu cơ). Khi nham thạch núi lửa nguội lạnh nhanh, nó sẽ cuốn vào trong lòng rất nhiều loại tạp chất khác nhau như đất, đá, tro, bụi, cây cỏ … Các tạp chất này không kịp thoát ra sẽ tạo ra cho mã não những vân đá rất riêng biệt. Chính nguồn gốc hình thành đa dạng nêu trên khiến cho mã não có tới hàng trăm loại khác nhau, khó có thể kể hết tên. Trong đó có những viên mã não độc nhất vô nhị, không bao giờ đụng hàng.

Do Mã não được hình thành khi nham thạch nguội lạnh nhanh nên hầu hết các trường hợp, trong lòng khối mã não sẽ có khoảng rỗng do không khí không kịp thoát ra và nằm lại trong lòng đá. Ở vùng rỗng này đá có điều kiện kết tinh, hình thành một lớp thạch anh mỏng lấp lánh nhỏ li ti bám trên bề mặt gọi là tinh đám thạch anh trên mã não (Druzy Agate). Lớp đá lấp lánh này nhìn rất giống châu báu trong lòng đá nên trong phong thủy, những khối đá này thường được bổ đôi để lộ phần lấp lánh ra ngoài, dùng làm vật phẩm chiêu tài lộc và gọi là Bát tụ bảo (Tụ Bảo Bồn). Một số trường hợp trong lòng đá chứa nước chứ không phải không khí, hình thành mã não nước, một trong những loại mã não hiếm mà dân sưu tầm rất ưa chuộng.

Cần lưu ý rằng, đặc trưng của Mã não là màu sáng, do vậy trong tự nhiên không có mã não đen. Nếu bạn bắt gặp quảng cáo về mã não đen của các cửa hàng phong thủy thì đó là thông tin không chính xác, do sự thiếu hiểu biết về đá của chủ cửa hàng, hoặc cố tình gây lầm lẫn cho khách hàng. “Mã não đen” đó có thể là một trong các loại: Mã não được nhuộm màu đen, đá Onyx đen, đá Obsidian đen, đá Tourmaline đen hoặc thậm chí là nhựa/thủy tinh đen.

Phân loại đá mã não ?

Các nhà khoa học khẳng định rằng có tới trăm loại mã não khó lòng có thể kể hết các tên gọi của chúng. Tất nhiên trong đó sẽ có những viên mã não độc nhất vô nhị do sở hữu lớn vân khác biệt.

Không những vậy, màu sắc tinh thể của mã não cũng rất phong phú chẳng kém cạnh gì Sapphire vậy. Chúng có thể mang sắc màu sáng như trắng sữa, phớt vàng, vàng sậm cho tới xanh lá cây, cam, đỏ… Loại đá mã não đẹp nhất là mã não mắt kính, chúng sở hữu các đường vân tròn đều được xoay quanh tâm.

Tuy nhiên hãy lưu ý một điều rằng mã não tự nhiên hoàn toàn không có màu đen tuyền. Nếu như bạn được một địa chỉ cửa hàng phong thủy nào đó quảng cáo về mã não đen thì sẽ là không chính xác. Mã não đen có thể là nhân tạo, loại đã được nhuộm màu, là dòng đá Onyx đen hay nhựa, thủy tinh đen giả mạo mà thôi.

Tác dụng của mã não

Trong phong thủy, mã não được chế tác thành vô vàn các sản phẩm khác nhau. Từ những mặt đá nhỏ làm mặt nhẫn, mặt dây chuyền, khuyên tai … cho tới những khối đá được chế tác thành những sản phẩm nghệ thuật, những linh vật phong thủy như tỳ hưu, thiềm thừ, rồng, hổ … để bày bàn. Với những khối ngọc lớn, thậm chí người ta còn chế tác những bức tượng, bộ bàn ghế … vô cùng đẹp và quý hiếm. Mang viên đá hộ mệnh bằng mã não trên người giống như mang một lá bùa hạnh phúc, vì bản thân cái tên Agate cũng xuất phát từ chữ “achates” trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “hạnh phúc.

Trong văn hóa tâm linh, có lẽ Mã não là loại đá gắn với nhiều quyền năng nhất. Ngay từ thời Ai Cập cổ đại, Mã não đã được sử dụng làm vòng đeo tay, bát, bình đựng … Các loại bùa chú bằng đá Mã não thường được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo, chống lại sấm sét, bão tố. Khi đi trên sa mạc, người ta tin rằng ngậm một viên mã não trong miệng sẽ giúp tránh khỏi cơn khát nước.

Ở châu Âu, Mã não (Agate) là biểu tượng của sức khỏe, sự hưng thịnh và trường thọ. Ở Ấn Độ, nó là biểu tượng của của sự hưng thịnh. Đồ trang sức bằng mã não làm cho chủ của nó trở nên dễ mến trong giao tiếp và biết ăn nói, cũng như bảo vệ chủ chống lại kẻ thù thâm độc. Nhẫn gắn mặt đá mã não làm cho người đàn ông trở nên quyến rũ hơn trong mắt phụ nữ.

Trong thạch học trị liệu, năng lượng cảm thụ âm của Mã não có tác dụng tới tất cả các luân xa tuỳ thuộc vào màu sắc của đá. Mã não làm tăng tiềm năng, giúp điều trị bệnh ho lâu ngày và bệnh ở vùng họng. Người ta tin rằng, Mã não giúp làm giảm co giật, chống lại sự sợ hãi, bảo vệ cơ thể chống lại bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ở dạ dày.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về sự hình thành và tác dụng của đá mã não –

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

Kiến thức cơ bản về phong thủy âm trạch

Phong thủy âm trạch là một trong hai khía cạnh chính của phong thủy thủy học. Dưới đây là một số hiểu biết cơ bản về phong thủy âm trạch nên biết.
Kiến thức cơ bản về phong thủy âm trạch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy âm trạch là một trong hai khía cạnh chính của phong thủy thủy học, dựa vào âm phần mà quyết định dương phần, lấy nơi chôn cất của người đã khuất để luận về người còn sống. Dưới đây là một số hiểu biết cơ bản về phong thủy âm trạch nên biết.

  Phong thủy truyền thống chia thành hai phần chính là phong thủy dương trạch và phong thủy âm trạch. Phong thủy dương trạch đề cập tới phong thủy nhà ở, phong thủy âm trạch nghiên cứu phong thủy mộ phần.   Người xưa cho rằng, người đã khuất núi nhưng linh khí vẫn còn, có thể ảnh hưởng tới gia đình, con cháu nên phong thủy âm trạch tác động lớn tới gia vận. Phong thủy âm trạch cơ bản chia thành phong thủy vùng núi và phong thủy đồng bằng.    Phong thủy vùng núi theo đuổi nguyên tắc “Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Nhân cảm ứng”, tức là trời với người hòa vào làm một, tương thông với nhau.  Phong thủy vùng núi yêu cầu sự phối hợp giữa các yếu tố tự nhiên tạo thành huyết mạch lưu thông: lấy huyệt làm trung tâm; lấy chủ sơn, thiếu tổ sơn, tổ sơn làm bối cảnh; lấy sông, suối, ao, hồ làm cận cảnh; lấy án sơn, triều sơn là viễn cảnh; lấy nước trên núi chảy xuống làm bình cảnh; lấy Thanh Long sơn, Bạch Hổ sơn làm hai cánh. 
Kien thuc co ban ve phong thuy am trach hinh anh 2
 
Dựa trên phương diện lý khí, lấy hướng của huyệt làm đích, lý luận ngũ hành sinh khắc phối hợp với mệnh quẻ của người đã mất và phương vị của dòng nước, cùng với 24 sơn bàn tọa hướng để chia kim khiến phúc trạch hậu thế, con cháu đầy đàn. 
 
Kien thuc co ban ve phong thuy am trach hinh anh 2
 
Phong thủy đồng bằng càng yêu cầu sự phối hợp của lý khí, tọa nơi thoáng đãng, hướng nơi sung túc. Phong thủy đồng bằng theo đuổi cục diện gió mạnh nước xiết thì gia vận lâu dài, con trai đầy đủ; tránh gió lánh mưa thì thật là tuyệt địa. Chú ý, hướng của tự thân mộ phần, phân kim cùng cửa sông phối hợp.
  Tóm lại, phong thủy âm trạch coi trọng các yếu tố: long mạch, sát sa (đụn cát), quan thủy (nước), điểm huyệt và phương vị.   Phong thủy học coi trọng cát có nước bao quanh vì nước quanh mộ có thể làm cho sinh khí tụ họp mà cát bị tắc lại thì sinh khí không bị gió cuốn đi. Có hai điều kiện ấy, nhất định là huyệt cát. Bởi vậy, “Táng kinh” có viết: phương pháp phong thủy là có nước ở trên, kín gió thổi tới”.   Muốn tìm nơi tốt để đặt mộ thì trước hết là tới nơi núi non uốn lượn tìm long mạch, thăm dò vùng có sinh khí rồi lấy núi ấy làm chính amchj, tới chỗ núi dừng thì sinh khí ngưng tụ, phụ cận có tình thế cát được nước bao quanh tức là cát huyệt. Nếu là cát bay nước chảy thì sinh khí không thể kết tụ, không phải nơi tốt để táng mộ.   Xem NGÀY TỐT để AN TÁNG trong tháng 5 năm 2016 Đại kị trong phong thủy âm trạch Chọn huyệt cát, yên âm trạch Ứng dụng phong thủy của tứ linh Tự xem phong thủy âm trạch không khó (phần 2) Tự xem phong thủy âm trạch không khó (phần 1)
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức cơ bản về phong thủy âm trạch

3 đường chỉ tay mang lại 'số sướng' cho bạn

Hãy xòe bàn tay và xem bạn có đường chỉ tay đặc biệt nào dưới đây?
3 đường chỉ tay mang lại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

3-duong-chi-tay-mang-lai-so-suong-cho-ban
A B C

Mộc Trà (theo Buzz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 đường chỉ tay mang lại 'số sướng' cho bạn

Hóa giải thế phong thủy xấu của khu đất gần đền chùa, miếu mạo

Những công trình kiến trúc mang tính chất tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng như đền chùa, miếu mạo...thường là nơi có linh khí hội tụ. Phong thủy cho rằng, đây không phải là nơi thích hợp cho nhà ở.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, nếu nhà ở nằm đối diện với những nơi thờ phụng linh thiêng là phạm phải thế cô dương sát. Khi phạm vào thế cô dương sát, tất cả vượng khí của ngôi nhà sẽ bị cuốn hết đi. 

Chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty CP Nhà Xuân cũng cho rằng, nhà ở nằm gần các công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu...đều không tốt, vì đây không phải là không gian lý tưởng để ở. Nguyên nhân vì không gian sinh hoạt của con người bao giờ cũng cần nhiều năng lượng dương, trong khi đó, những nơi có đền, miếu thường mang nhiều năng lượng âm. Do đó, nếu sinh sống quá gần những nơi này con người thường có khuynh hướng hướng nội, rất không thích hợp cho những người làm ăn, buôn bán hay nghề kinh doanh nói chung.

phong thủy nhà ở
Những gị trí ở gần khu đền chùa, miếu mạo thường không tốt với phong thủy nhà ở

Nhiều nơi dù không mang tính chất xây dựng thành miếu thờ từ đầu nhưng nếu người dân tập trung thờ cúng, cầu nguyện lâu ngày cũng gây hiện tượng sẽ tích tụ sinh khí, lâu dần cây cổ thụ và khu đất đó cũng sẽ thành địa linh. Do đó, khu vực này cũng sẽ ảnh hưởng tương tự như khi nhà ở nằm gần các công trình tín ngưỡng, tâm linh...

Tuy nhiên, phong thủy vẫn có cách để hóa giải thế đất gần chùa, miếu. Nếu vẫn quyết định mua mảnh đất gần chùa, miếu... để xây nhà ở thì gia chủ có thể áp dụng một số cách như xây tường rào cao hoặc trồng cây lớn quanh nhà để ngăn âm khí xâm nhập vào nhà. Ngoài ra, có thể trồng các bụi tre trúc hoặc hoa giấy phía trước nhà... 

Trường hợp nhà ở phạm vào thế cô dương sát cũng có thể áp dụng cách hóa giải giống như cách giải trừ thế cắt cước sát cho những ngôi nhà gần bờ biển, chẳng hạn như dựng hàng rào colourbond quanh nhà. Có thể dùng màu sắc của hàng rào theo ngũ hành tương khắc đối với màu sắc của nhà thờ (đền, chùa...) nhưng tương sinh với mệnh của gia chủ. Chỗ cửa chính của ngôi nhà, cũng có thể treo gương Bát quái nhằm giữ vượng khí lại. Trường hợp nhà ở không nằm đối diện với nơi thờ phụng mà chỉ nằm lệch một bên, thì sử dụng gương lồi treo trước cửa là đủ. Ngoài ra còn một số cách khác như trồng một cây hoa giấy phía trước nhà, cách cửa chính khoảng trên 5m, hoặc tại góc dưới mái nhà phía trước, hãy treo 2 chiếc chuông gió ở cả 2 bên.

(Theo VietQ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải thế phong thủy xấu của khu đất gần đền chùa, miếu mạo

Bài trí gà trống –

Bài trí gà trống Theo phong tục truyền thống, gà trống trong bố cục phong thuỷ thường được sử dụng vào các trường hợp sau: 1- Trẻ nhỏ trong bụng nhiều giun sán, khó chịu, biếng ăn, da vàng, cơ thể gầy gò. 2- Bên ngoài cạnh nhà ờ có cột đèn điệ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài trí gà trống

Theo phong tục truyền thống, gà trống trong bố cục phong thuỷ thường được sử dụng vào các trường hợp sau:

IMG_1621-1280x768

1-     Trẻ nhỏ trong bụng nhiều giun sán, khó chịu, biếng ăn, da vàng, cơ thể gầy gò.

2-    Bên ngoài cạnh nhà ờ có cột đèn điện với nhiều sợi dây hình thù giống như loại côn trùng.

3-      Bên ngoài cạnh nhà ở có đường ống nước hình thù giông như con rết.

Những vật hình thù giống loài côn trùng hay giống như hình con rết nói trên chỉ

khi nào chúng đối diện thẳng vào phòng ngủ của trẻ và phòng bếp thì mới cần tìm cách hoá giải.

Những điểm cần chú ý khi dùng gà trống để phá giải:

1-    Mỏ gà phải đặt chiếu thẳng vào vật thể giống như côn trùng hoặc con nhện, như vậy mới có hiệu quả.

2-     Nếu là gà trống bằng sứ có thể chí cần đặt một con là đủ, nếu đặt 2 hoặc 3 con, với bản chất hiếu chiến của gà trống, chúng sẽ đánh nhau và hiệu quả hoá giải sẽ kém.

3-     Gà trống bằng đồng trong bố cục phong thuỷ là loại thường dùng vào hoá giải các trường hợp sát khí gây đào hoa, ngoại tình, chăng hạn dùng cho nhà có bố cục đặc thù mà vì nó dễ làm xâu tính cách phụ nữ hoặc làm cho người trong nhà nảy sinh tính ghen ghét.

Pháp khí này nên đặt bên ngoài ở vị trí đối diện với cứa, ví dụ như đặt trên giá kiểu bình phong, như vậy sẽ ngăn chặn tuyệt đối ảnh hưởng của vận đào hoa vào nhà. Nếu vợ hay chồng nghi ngờ phía bên kia có ngoại tình, có thể dặt pháp khí này vào trong tủ quần áo, khi đặt phải dùng một dôi và dặt vào góc tối của tủ, bên trái một con bên phải một con.

4-    Ngoài một số bố cục có tính đặc thù ra, thông thường, với những người sinh năm mèo thì không nên bài trí gà trống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí gà trống –

Lòng bàn tay tiết lộ tài năng tiềm ẩn của bạn

Ngửa bàn tay phải của bạn, vị trí nào nhô cao nổi nhất so với các phần khác, chúng sẽ mách cho bạn biết tài năng tiềm ẩn của bạn là gì?
Lòng bàn tay tiết lộ tài năng tiềm ẩn của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

long-ban-tay-tiet-lo-tai-nang-tiem-n-cua-ban
1. Dưới ngón tay cái 2. Dưới ngón tay trỏ 3. Dưới ngón giữa
4. Dưới ngón áp út 5. Dưới ngón út 6. Cạnh trái của lòng bàn tay

Mộc Trà (Theo Lol)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lòng bàn tay tiết lộ tài năng tiềm ẩn của bạn

LUẬN VỀ BỐN THẾ SAO TAM HỢP VÀ BỐN MẪU NGƯỜI TRONG CÕI NHÂN THẾ

Bốn thế sao (Thái tuế - Quan phù - Bạch hổ), (Thiếu dương - Tử phù - Phúc đức), (Tuế phá - Điếu khách - Tang môn), (Thiếu âm - Long đức - Trực phù), tư cách của từng nhóm sao và hình mẫu con người hiện ra từ tính cách, vai trò, sứ mệnh của họ
LUẬN VỀ BỐN THẾ SAO TAM HỢP VÀ BỐN MẪU NGƯỜI TRONG CÕI NHÂN THẾ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Vào những năm 60 của thế kỷ trước, tại khu vực miền Nam, một nhà đẩu số đã nghiên cứu ra một học thuyết của mình. Vâng ! tên tuổi mà tôi muốn nhắc tới ở đây là cụ Thiên Lương.

    Bản thân cụ Thiên Lương, hay các học trò trong môn phái của cụ luôn lấy nghiệm lý làm khuôn vàng thước ngọc, hệ quy chiếu trung thực để rút ra lý luận. Công lao của cụ đó là phát hiện ra vòng Thái tuế và tư cách của bốn nhóm người trong xã hội. Trước tác nổi tiếng của cụ là cuốn Tử vi nghiệm lý mệnh học, và cuốn Tử vi nghiệm lý toàn thư (Tuy nhiên cuốn Tử vi nghiệm lý toàn thư còn dang dơ thì cụ qua đời)

   Một lá số có mười hai cung, ứng với mười hai địa chi trong một giáp. Tuổi của một người nằm trong trong mười hai con giáp đó. Nếu như cung mệnh lập đúng địa chi năm sinh, nằm trong tam hợp Thái tuế, ắt là người có tư cách, phẩm hạnh của bậc chính nhân, quân tử.

   Thái tuế. Theo các nhà khoa học nghiên cứu Thái tuế là một hành tinh trong bát đại hành tinh của Thái dương hệ, tức là mộc tinh, chi phối một năm. Các nhà Thiên văn, Chiêm tinh, Đẩu số đã phát hiện ra hành tinh này từ thời cuối nhà Tần, đầu nhà Hán. Trong các công văn, biểu chế từ thời nhà Hán, thường mở đầu bằng câu “ Thái tuế đóng… Ngày… tháng…”. Ví dụ như biểu văn phong Nguyên soái cho tướng Hàn Tín của Hán Vương Lưu Bang. Từ đó trở đi, người ta động thổ, khởi công, hay mưu cầu những việc đại sự đều tránh năm tuổi của mình. Có câu “Động thổ trên đầu Thái tuế” chỉ sự thiếu hiểu biết, làm ẩu, và đương nhiên hậu quả của nó là không tốt. Bởi vì sức mạnh chi phối của Thái tuế rất lớn.

Thiệu Vĩ Hoa trong cuốn Dự đoán theo tứ trụ khẳng định Thái tuế là thần cai quản một năm, là ông vua, luận về tứ trụ và vận hạn, nếu Nhật nguyên hợp với Thái tuế về thiên can, địa chi, là gần gũi với bậc tôn quý, ứng nghiệm trong thực tế, sẽ gặp nhiều may mắn, đắc lộc và phát phúc. Ngược lại, Nhật nguyên xung đột với Thái tuế, nhất là trường hợp phạm thiên khắc địa xung, thì bản thân không chết, cũng có người thân qua đời, ý nói hung họa rất nhiều. Ví dụ nhật chủ Mậu Ngọ, Thái tuế Nhâm Tý (Tức là đến năm Nhâm Tý), can Mậu hành Thổ của Nhật nguyên khắc can Nhâm hành Thủy của Thái tuế, chi Tý và chi Ngọ xung nhau, thường xảy ra tai họa lớn. nếu Đại vận mà bí bét tất hạn nguy hiểm tính mạng chẳng chơi.

    Trở lại với ngôi Thái tuế trong Tử vi. Theo sách Tử vi Chân thuyên của Kiều Nguyên Tùng thì Thái tuế đóng ở cung mệnh thường có tư cách lớn, làm vua (hiện nay là nguyên thủ, hoặc cán bộ hành chính quản lý một khu vực), làm ông chủ, và làm thầy. Như vậy, nhân phẩm của người có Thái tuế được khẳng định rõ ràng. Dường như nó là định mệnh cho những người có may mắn gặp được nó, trên thế mệnh – thân

   Luận về Thái tuế, cụ Thiên Lương khám phá ra rằng, người có Mệnh – Thân nằm trong tam hợp Thái tuế là người sẽ dễ đạt được ước vọng của mình, còn lại những vòng sao khác vị trí khác thì hình thái về nhân phẩm và cuộc đời sẽ có biểu hiện khác đi, hoặc là bất mãn, không được như ý muốn, nếu có đạt được thì cũng là cả một quá trình phấn đấu gian lao, thắng bại, thành công còn phụ thuộc vào vận nữa. Người có Thái tuế Mệnh – Thân nếu không phú quý, đắc ý trong đường đời (phụ thuộc vào chính diệu và sự phối hợp giữa các tinh đẩu), thì cũng là người có nhân cách lớn, không ươn hèn, hay là kẻ bất chính.

    Bốn mẫu người mà cụ Thiên Lương tìm ra ở đây chính là : Một, tư tưởng, hành động, nhân phẩm chính phái. (Mệnh thân tam hợp Thái tuế  -  quan phù – bạch hổ). Hai, Cuộc đời nhiều nghịch cảnh, ở vào thế bất mãn, luôn luôn đấu tranh, quật ngược lại định mệnh (Mệnh – Thân nằm trong tam hợp Tuế phá – Điếu khách – Tang môn). Ba, nhóm người sinh ra trước chu kỳ vận động của Mộc tinh, khôn ngoan biết nhiều, được hưởng nhiều đặc ân, nhưng luôn phải trọng thần quyền, trọng đạo đức, nếu vi phạm nguyên tắc này, thì thành quả hóa hư không, kết cục của sự thảm bại. (Mệnh – Thân lập tại tam hợp Thiếu dương – Tử phù – Phúc đức) Bốn, nhóm người bị thua thiệt, thường lấy sự trung hậu, và tu dưỡng làm nòng cốt chủ đạo (Mệnh – Thân lập tại tam hợp Thiếu âm – Long đức – Trực phù).

   Mệnh cung thể hiện tư tưởng, nhân phẩm, tính cách, cung Thân chính là hành động của người đó với cuộc đời, với xã hội nhân sinh. Người có Mệnh - Thân ở tam hợp Thái tuế - Quan phù – Bạch hổ có những đặc điểm

   Thái tuế : Lòng đầy tự hào, coi mình có sứ mệnh làm việc chính đáng, luôn có nhân sinh quan tiến thủ không ngừng, khát vọng muốn cống hiến, đóng góp cho quần chúng nhân dân, và cao cả vĩ đại hơn là đóng góp cho nhân loại. Như cụ Nguyễn Công Trứ từng viết: Phải có danh gì với núi sông. Hay như tể tướng nhà Tống, Văn Thiên Tường : Nhân sinh tự cổ thùy vô tử/ Lưu thủ tâm đan hãn chiếu thanh. (Từ xưa đến nay có ai mà không chết? Để lại một tấm lòng son với sử xanh). Ví dụ sinh năm 1992 tuổi Nhâm Thân, mà mệnh thân lập tại tam hợp Thân – Tý – Thìn gặp chính diệu và phụ tinh đúng cách thì sẽ thành công lớn, hay ít ra nếu không thành công cũng là người có nhân phẩm, tư cách, phẩm hạnh cao thượng

Thái tuế hành mộc, nhiều sách ghi là hành Hỏa, luôn luôn tam hợp với Quan phù, Bạch hổ. Ở mệnh là người thông minh hay lý luận, hội hợp nhiều văn tinh thì có tài hùng biện, giỏi về chính trị, tư pháp

    Quan phù : Hành động chính đáng, với suy tính kỹ càng, thận trọng. Nếu như Thái tuế khởi xướng nên tư tưởng, học thuyết, lý tưởng…thì Quan phù là sự thận trọng, suy tính kỹ lưỡng, là hạng quan văn, tham mưu phục vụ cho lý tưởng, cho quân vương. Sự suy tính của Quan phù dẫn đến sự khôn khéo, thận trọng trong lời nói, hành vi, không mạnh mẽ quyết liệt, mà có phần nhẹ nhàng hơn, thường ra tay khi cảm thấy chắc ăn

    Quan phù: Tính nết hay giúp đỡ can thiệp phò tá. Tượng trưng cho công lý, hay lý luận, giỏi phê bình, chỉ trích, nhưng thích giúp đỡ người khác. Tâm lý cạnh tranh, cảm thấy buồn bực khi thua kém, nó là sao thúc đẩy học hành, cũng là động cơ phấn đấu, rèn rũa bản thân không ngừng

     Bạch hổ: Gắng công làm việc chính đáng bằng bất kể giá nào. Là sao chủ về võ, về hành động, về thực tiễn và rất quyết liệt. Tác phong “bạo hổ băng hà” (Hổ dữ qua sông, gầm thét vang dội). Khi nhận thức vấn đề đúng, sai, phải, trái (Thái tuế), suy tính kỹ càng (Quan phù), thì Bạch hổ là sự quyết tâm, quả đoán, cương nghị dũng mãnh khi thực hiện, vì thế nên đôi khi dễ bị hiểu lầm, hiểu sai.

    Thường khi thủ mệnh, Bạch hổ là người có tính cương quyết, võ lược văn thao, biện luận ngăn gọn, súc tích, nhưng hiệu quả và chính xác. Phú văn có câu : Nam nhân Tang, Hổ thì tài/ Nữ nhân Tang, Hổ thì đi hai lần đò.

    Thế tam hợp Thái tuế - Quan phù – Bạch hổ, luôn hội hợp với bộ Tứ linh Long trì, Phượng các, Hoa cái, Bạch hổ, được xem như chiếc cẩm bào dát vàng, nạm ngọc về tư cách nhân phẩm, lời nói và hành vi. Hội hợp thêm Khoa, Quyền, Lộc thì càng rực rỡ.

    Phú văn có câu : Ai bảo trong mệnh người quân tử không có sát tinh, mà mệnh kẻ tiểu nhân không có Khoa, Quyền, Lộc. Nhìn vào hệ thống chính tinh miếu, vượng, đắc địa, chưa thể kết luận vội vàng rằng đương số hạnh phúc, vui vẻ. Có khi đó là một hộp quà được gói ghém trang trí công phu cầu kỳ, rất đẹp đẽ và bắt mắt, nhưng bên trong lại là bánh kẹo chất lượng thấp…

    Trái với thế sao Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, là thế sao Tuế phá, Điếu khách, Tang môn. Những người có mệnh thân ôm bộ sao này thường mang tâm lý bất mãn, không hài lòng với mọi thứ, cuộc sống cũng phải đấu tranh, nỗ lực quyết tâm rất nhiều mới đạt được ước vọng. Người xưa xếp đặt tinh bàn thật sâu sắc và thâm thúy. Vòng sao này, luôn ở thế xung chiếu đối nghịch với Thái tuế, Ví dụ sinh năm Bính Dần, Thái tuế đóng cung Dần mà mệnh lại lập ở Thân, Tý, Thìn. Dần, Ngọ, Tuất, tuổi năm sinh thuộc Hỏa cục, mệnh thân trong thế Thân, Tý, Thìn thuộc Thủy cục, một ván cờ nước lửa sẽ diễn ra, thắng bại còn phụ thuộc vào vận hạn, và sự phối hợp tốt xấu, nhưng về cơ bản họ không được thỏa mãn và đấu tranh nhiều.

    Tuế phá: Bất mãn, uất ức, căm phẫn muốn đả phá quật ngược mọi thứ. Đích danh là lãnh tụ phái đối lập. Thủ thân mệnh là người cực đoan hết sức, còn nhỏ thì là trẻ nghịch ngợm, hư, khó dạy, khi lớn là người luôn biểu lộ sự bất mãn của mình qua lời nói ngông cuồng, khích bác, và bằng những hành động cụ thể. Trong thực tế, nếu để ý sẽ thấy, nhóm người này thường không hài lòng về nhiều thứ công việc, gia đình, cuộc sống. Đơn cử một chuyện nhỏ nhặt như nấu thức ăn không ngon, hoặc không hợp khẩu vị, họ cũng có thể ca thán chê bai suốt cả bữa ăn. Đi làm về công việc có hơi bận rộn quá sức thì họ cũng thốt nên đầy lời oan vọng. Tuy nhiên, hình thức biểu lộ sự đả phá, phẫn uất thì biểu hiện ở nhiều hình thái khác nhau, nếu Tuế Phá đi kèm với Cự môn có khi sự bất mãn, đả phá này chỉ thể hiện ở lời nói, hành văn, câu chữ. Còn một khi đi kèm với các võ tinh như Phá quân chẳng hạn, thì nó sẽ biến thành những hành động cụ thể. Bởi vậy, Phú văn có câu: “Trai bất nhân Phá quân Thìn Tuất/ Gái bạc tình Tham sát Dần Thân”. Nhưng có lẽ chỉ khi nằm cùng Tuế phá mới thực sự là bất nhân chính hạng

    Điếu khách: Bất mãn và thường phải dùng lời lẽ của mình để phân trần, thuyết phục người khác. Theo các tài liệu của môn Tử vi Đẩu số thì Điếu khách là một sao nói về tính chất không cẩn ngôn, lại ham bài bạc. Nhưng trên thực tế, Điếu khách chính là sự phân trần, giải thích những phẫn uất, bức xúc, ức chế của mình. Vì ở tư thế đối nghịch, nên lời nói của họ không được nhiều người tin cậy và coi đó là sàm ngôn, không cẩn trọng, phát biểu liều. Điếu khách, còn là những lời lẽ ngông cuồng khích bác, nếu hội hợp văn tinh, thì cũng là một người rất giỏi lý luận, biện, Gia Cát Lượng mệnh Vô Chính diệu lập tại Mùi, ông sinh năm Tân Dậu, mệnh có Điếu khách, Tả phù, Hữu bật, Nhật Nguyệt tinh minh, nên ông nổi tiếng về biện luận, sang Đông Ngô, bẻ gãy lý luận của các danh sỹ Giang Đông, khích Tôn Quyền, khích Chu Du, nổi giận quyết tâm việc đánh Tào Tháo. Trước trận mạc mắng cho Tư đồ nước Ngụy Vương Lãng chết nay tại trận, gửi thư khiến Tào Chân đọc xong chết luôn…Như vậy, nếu sự hội hợp không tốt, Điếu khách chỉ là sự ca thán trong mệt mỏi, chán chường. Còn kết hợp với trí tuệ sáng suốt, học vấn uyên bác thì Điếu khách là một năng lực hùng biện như thiên tài, văn chương quán chúng. Chúng ta không thể xem nhẹ, đánh giá thấp, luận đoán một các hồ đồ được

     Trong thời kỳ gần đây, một số đại gia môi giới bất động sản, kinh doanh địa ốc, hay đội ngũ quảng cáo tiếp thị tài tình đều có Điếu khách, cư thân hoặc cư mệnh.

     Tang môn: Ở trong cảnh bất mãn, không thỏa chí, luôn phải đấu tranh với định mệnh, Tang môn chính là sự lo lắng. Người có Tang môn thủ mệnh nét mặt thường không tươi, đắm chìm trong lo âu, suy tư. Nếu đắc địa thì giỏi nghiên cứu, còn nếu không, thì cuộc đời đắm chìm trong sự buồn bã, ưu tư, lo toan nặng gánh. Đi kèm với Tang môn là Thiên khốc, Thiên hư, được vì như hai giọt lệ lăn dài, trên đường đời đầy bụi bặm, nước mắt chan cơm.

Nhóm Tuế phá, Tang môn, Điếu khách luôn luôn hội hợp với Thiên mã. Thiên mã chính là nghị lực mạnh mẽ, chí khí lớn lao, tác phong siêng năng, cần cù, chịu khó. Cuộc đời thường xuyên bận rộn, ít khi được thảnh thơi. Nghị lực, sự cần mẫn trong đấu tranh có được đền đáp xứng đáng hay không, khi Thiên mã ở cung nào (Ở Dần người mệnh Mộc đắc cách, người mệnh Hỏa được hưởng lợi, ở Tị là ngựa chiến của Hỏa mệnh, người Thổ mệnh gặp nó cũng được hưởng thụ nhiều, Ở Thân, người mệnh Kim – Thủy đắc cách. Ở Hợi người mệnh Thủy, Mộc nhiều cơ hội thành công )

     Thiên mã, hội hợp Thiên Khốc, Điếu khách, Trường sinh là tiếng chuông ngựa của con tuấn mã, hay tiếng hý vang thắng lợi trở về. Nếu là Thiên mã, Thiên hư, Điếu khách là tiếng rên của ngựa ốm đói. Ý tượng thất bại, đau khổ

      Lộc, Mã giao trì là cách kinh doanh, buôn bán ở phương xa mà thành phú thương…

      Nhóm Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức. Như trên đã giới thiệu, những người này, sinh ra trước chu kỳ vận động của Mộc tinh (Thiếu dương luôn ở trước Thái tuế), được tam hợp tuổi tương sinh cho tam hợp mệnh thân, khôn ngoan và hưởng nhiều đặc ân của tạo hóa.

     Thiếu dương: Bản chất của Thiếu dương chính là vòng tròn nhỏ màu trắng trên Thái cực đồ, nơi dương khí bắt đầu phát sinh, ánh sáng rạng rỡ, cho nên người có Thiếu dương tọa mệnh, thân là những người sáng suốt minh mẫn hơn, thông tuệ hơn người. Những người này từ học hành, nghiên cứu đều có tố chất học một biết mười, ứng xử, lời nói hành vi đều rất khôn ngoan, sáng suốt

     Tử phù: Như một đối trọng quyền lực với Thiếu dương, “càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều” như cổ nhân từng nói, hay “tài hoa mà bạc mệnh”, như cụ Nguyễn Du viết về Thúy Kiều vậy. Thế đứng của Tử phù là khôn ngoan nhưng thường bị kẹt, muốn có thành tựu phải dựa vào yếu tố khác

      Phúc đức: Muốn hơn người, mà thành quả vững chắc, thọ chung chính tẩm, sử sách ca ngợi, bảng vàng bia đá thì phải lấy đạo đức làm nòng cốt nền tảng, trọng đạo đức, trọng thần quyền, tu dưỡng bản thân, và hành động  theo chuẩn mực, quy tắc nhân ái thì thành tựu mới bền vững, sự sáng suốt khôn ngoan mới có giá trị, đem lại hiệu quả. Nhược bằng khôn mà không ngoan thì tất có hậu quả chuốc lấy thất bại thê thảm về sau. Điều này thực đúng đắn, trong xã hội không ít kẻ, dùng mưu trí làm điều ác điều xấu, đương nhiên kẻ gieo gió ắt gặp bão. Hồ Chủ tịch nói rằng: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Thậm chí tệ hại hơn là những tên lừa đảo, tham nhũng, vơ vét, bòn rút, đến khi ấy không những vô dụng mà còn là kẻ gây tai họa cho người khác nữa.

     Bộ sao này tạo ra thế cân bằng, bởi các sao hợp chiếu nữa, khôn ngoan (Thiếu dương), công danh, thành tựu sớm có Đào hoa, Hồng loan, cần trọng đạo đức và tu dưỡng Phúc đức (tam hợp gồm Thiên đức, Nguyệt đức), nếu không quan triệt được nguyên lý này thì lâm vào thế bị kẹt Tử phù, rơi xuống hố sâu vực thẳm (Thiên không, Lưu hà, Kiếp sát ra tay thực thi công đạo), Thiên không (tượng của hố sâu), Lưu hà (cơ nghiệp chìm đáy nước), lưng trời gẫy cánh, chẳng thể được trọn vẹn

     Nhóm thứ tư là nhóm Thiếu âm, Trực phù, Long đức. Nhóm này xét về thế cục ở thế thua thiệt rõ ràng. Những người sinh năm Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc cục mà mệnh thân ở thế Dần, Ngọ, Tuất thuộc Hỏa cục, Mộc sinh Hỏa, bản thân vốn bị sinh xuất, không còn nguyên vẹn khí gốc nữa. Xét về hình thế sao.

    Thiếu âm : Bản chất là vòng tròn nhỏ màu đen trên Thái cực đồ, tượng của âm khí, bóng tối bắt đầu phát sinh, lan tỏa. Ta hình dung ra lúc trời chiều nhá nhem, người mệnh cung có nó tất sẽ nhẹ dạ, cả tin và nhầm lẫn, đôi khi khờ dại tin người trong những tình huống quyết định

     Trực phù : Phải chịu sự thiệt thòi vì sự cả tin, nhầm lẫn, thù lao, thành quả không được hưởng thụ xứng đáng, công sức, trí tuệ còn bị người khác lợi dụng, cướp đoạt

     Long đức: Vì cố gắng bon chen cùng không thể đến đâu, chính về thế nên tự tu để an ủi bản thân, không nên tham lam, hay thủ đoạn làm gì nữa.

     Vòng Thiếu âm, Long đức, Trực phù rất hợp với bộ Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng hình ảnh của những công dân tốt, những bác sỹ, nhân viên, giáo viên mẫu mực. Họ có tính cách không ham bon chen, chỉ cốt thực hiện cho đúng chức phận của mình, là người trung hậu, đáng tin cậy. Đây là hình ảnh của Thừa tướng Tiêu Hà, thời kỳ Vua Cao Tổ Lưu Bang dựng nước, giao cho việc trù liệu lương thảo khí giới thì ông cố gắng làm tốt, giao cho việc xây dựng luật pháp, kiểm kê hộ khẩu nhân đinh, ông cũng đều cố gắng hoàn thành, đến khi nhận công lao, ông cũng là người khiêm tốn, chỉ có điều không phải, đó chính là sự nhầm lẫn, khí mà ông nhúng tay vào vụ sát hại Hoài Âm Hầu – Hàn Tín, vì lẽ đó mà ông hối hận và trở về kiếp tu, trở về đạo lý.

     Thế Thiếu âm, Long đức, Trực phù thường tam hợp Lộc tồn (tài sản), Tướng quân, Quốc ấn (danh vọng và địa vị). Tuy nhiên, để ăn được Lộc tồn thì cũng là hưởng nó trong nghịch cảnh và vất vả, có được địa vị của Tướng quân, Quốc ấn là cả một quá trình cung cúc tận tụy, vất vả gian lao.

      Thông qua việc nghiên cứu kỹ về bốn thế sao, với tư cách của bốn nhóm người cơ bản trong xã hội, ta thấy được bất cứ bộ sao nào cũng có ưu thế và những điểm cần lưu tâm, quan triệt. Nhóm Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ là nhóm danh phẩm, tư chất hơn người, muốn thành công thì nhân sinh quan của họ luôn phải tiến lên, hoàn thiện mình và cống hiến cho xã hội, cho nhân dân.

     Nhóm Tuế phá, Tang môn, Điếu khách là những anh hùng quật khởi, cái đáng tôn trọng ở họ là nghị lực, cần cù, bản lĩnh của người dám chống lại định mệnh, nếu như hội hợp tốt, vận hạn tốt, họ đứng lên và hình ảnh của họ cũng rạng rỡ chói lòa không kém. Nhưng cái hại là nếu tổ hợp xấu, họ là những kẻ đâm chọc, phá hoại, khích bác rất khó chịu xung quanh chúng ta. Tệ hơn nữa là những tên lừa đảo, cướp bóc, phản dân hại nước.

     Anh em nhà Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức, sáng suốt khôn ngoan từ nhân thức tới hành động. Nhưng tài luôn kèm với đức, hồng gắn bó với chuyên. Phúc đức, Thiên đức, Nguyệt đức nhắc nhở ai đó quanh ta…Đã được hưởng ân huệ của tạo hóa, thì phải trọng sự tu dưỡng, đạo lý. Bằng không thì lưng trời gẫy cánh, cơ nghiệp tan tành, danh ô, tiết xú

     Những người Thiếu âm, Long đức, Trực phù, là những người đáng tin cậy, trung hậu, nhưng cần siêng năng học tập, cẩn thận chu đáo hơn, tránh những sai lầm, cả tin đáng tiếc trong cuộc sống.

    Mệnh - Thân ở những tư thế như trên có những đặc trưng cơ bản như vậy. Nhưng bách nhân bách tính, lời nói và việc làm có nhất quán, tư duy và hành động có như lý tưởng hay không, thì chuyện cung mệnh, cung thân lập ở những thế cờ khác nhau. Đó là điều kỳ sau tôi sẽ phân tích thêm.

 

 

 

 

 

    


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: LUẬN VỀ BỐN THẾ SAO TAM HỢP VÀ BỐN MẪU NGƯỜI TRONG CÕI NHÂN THẾ

Những lời chúc ngủ ngon cho người yêu lãng mạn nhất

Những lời chúc ngủ ngon cho người yêu lãng mạn nhất. Hãy gửi đến cho người yêu của mình những lời chúc ngủ ngon trong bài viết thật ngọt ngào, lãng mạn
Những lời chúc ngủ ngon cho người yêu lãng mạn nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc ngủ ngon cho người yêu lãng mạn nhất. Hãy gửi đến cho người yêu của mình những lời chúc ngủ ngon dưới đây. Một tin nhắn chúc ngủ ngon ngọt ngào, lãng mạn chắc chắn sẽ là một niềm vui nhỏ mà ý nghĩa đối với người ấy.

Những lời chúc ngủ ngon cho người yêu lãng mạn nhất

Top 10 câu chúc ngủ ngon dành cho bạn gái

Ngốc ơi! Nếu tình yêu là lực hấp dẫn, thì em là trái đất, còn nếu xinh đẹp là tội ác, thì có lẽ em đáng bị kết án tử hình… Anh yêu em nhiều lắm ngốc à! Hãy bên anh và cùng sát cánh với anh nha ngốc.

———

Đêm nay trời lạnh quá em nhỉ! Không biết chiếc gối sưởi của em có còn ấm không? Dù thế nào anh cũng biết rằng nó sẽ không ấm bằng tình yêu anh dành cho em đâu. Yêu và nhớ em nhiều lắm. Ngủ ngon em iu! Chụt…

———

Khi màn đêm dần buông xuống, anh cầu nguyện ánh trăng huyền diệu sẽ che chở cho em, ngọn gió thơm hãy thổi đi những ưu phiền và những ngôi sao sáng lấp lánh dẫn đường cho em đến những giấc mơ ngọt ngào. Ngon giấc nhé em yêu!

Ngủ thôi gấu của anh ơi ! Anh chúc em gấu ngủ ngon, nửa đêm gặp ác mộng, hehe! Trong ác mộng em là một ác nhân đang hành hạ một tội nhân là anh đây! ^^

Châu Âu ngủ, Châu Á cũng đang ngủ, Châu Mỹ đang tối dần, chỉ có đôi mắt đẹp nhất trên thế giới này đang đọc tin nhắn của anh. Chúc tình yêu của anh ngủ thật ngon và mơ về anh em nhé!

Em yêu ah, đến giờ đi ngủ rồi đó. Nhớ là đừng có thức khuya xem phim nhé phải giữ gìn sức khỏe mai còn đi học chứ! Ngoan anh mới yêu.hj. Chúc bé ngoan của anh ngủ thật ngon na!

Tớ có nhờ 1 vài thiên thần đến canh giấc ngủ cho ấy. nhưng bọn họ đều từ chối hết, ấy biết sao ko? Họ nói thiên thần ko thể canh cho thiên thần được vì vậy ấy hãy cố ngủ thật ngon nha. Chúc ấy ngủ ngon.

Nằm trên giường và nhìn đồng hồ, anh biết rằng đã đến giờ đi ngủ. Nhưng anh vẫn phân vân không biết hôm nay em thế nào?? Mong rằng mọi chuyện đều ổn. Chúc em có những giấc mơ ngọt ngào và ngon giấc.

Ngày hôm nay anh đã chúc em ngủ ngon chưa nhỉ, có lẽ vì nụ cười của em mà anh đã quên tất cả rồi chăng, em hãy giữ mãi nụ cười đó và ngủ thật ngon nha ! hihi

Trên thiên đường có 10 thiên thần: 5 thiên thần đang chơi đùa, 4 thiên thần đang nói chuyện và 1 thiên thần đang đọc tin nhắn này… Chúc ngủ ngon thiên thần!^^

Top 10 câu chúc ngủ ngon dành cho bạn trai

Anh ơi ngủ đi! Chị vịt ngốc của anh đã ngủ rất ngon rồi. Chị ấy thương anh lắm đó! Kí tên: điện thoại

Ạnh có thể làm giúp em một việc được ko? Việc đầu tiên: tối nay hãy ngủ thật ngon. Việc thứ 2: sáng mai thức dậy với nụ cười trên môi vì em luôn muốn anh vui vẻ, tràn đầy hạnh phúc. Việc thứ 3: Yêu em và chỉ có mình em :X. Ngủ ngon ông xã à!

Nếu vẫn còn buồn trong lòng, anh hãy gọi đến số 09……. Đó chính là số tổng đài 1080 của riêng anh đấy. Chúc anh yêu ngủ ngon!

Một miếng đá cho trái dâu thêm ngọt, một sợi dây cho quả bóng bay cao, một que diêm cho cây nến sáng tỏ. Và tin nhắn này để thấy nụ cười anh! Hj. Chúc tình yêu của em ngủ ngon nhé!

Alo. Anh đã ngủ chưa thế? Em nằm mãi mà ứ ngủ được, chẳng biết là do đêm lạnh quá hay là nỗi nhớ anh dâng trào. Chưa ngủ thì nhắn tin lại cho em nhé còn không thì chúc anh iu ngủ ngon na. Iu và nhớ anh nhìu! Chụt…

Ck ngủ ngon nhá..
đừng có mơ tới đứa nào khác:…
Vk iêu Ck nhiều lắm.

Chúc anh ngủ ngon và mơ những giấc mơ đẹp nhất… và 1 ngày mới sẽ đến với anh trong niềm vui và hạnh phúc . Yêu anh nhất trên đời ^^

Chàng ngốc của em à! Anh có biết trên thế giới đang có 4,7 triệu người đang ngủ, 2,3 triệu người đang yêu, 4,1 triệu người đang ăn. Nhưng chỉ có duy nhất 1 người đang đọc tin nhắn của em. Chúc chàng hoàng tử của lòng em ngủ ngon na!

Chắc ấy đang ngủ ngon lắm nhỉ. Người ta không ngủ được. Nhớ đằng ấy quá. Mong tới sáng để được gặp ấy quá. Hix. Miss U. Ngu ngon nhé đằng ấy!

Ngủ ngon anh yêu nhé. Ngày mới sẽ đến với anh với thật nhiều niềm vui cùng nụ hôn của em kèm trong đó…

Thật ngọt ngào phải không nào? Bạn hãy lưu bài viết lại để mỗi ngày dành tặng cho người ấy một niềm vui và lãng mạn khác nhau nhé. Chúc hai bạn luôn hạnh phúc bên nhau!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc ngủ ngon cho người yêu lãng mạn nhất

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất. Mỗi con người chúng ta không thể thiếu vắng tình yêu, tình bạn, tình yêu thương
Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất. Trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta không thể thiếu vắng tình yêu, tình bạn, tình yêu thương lẫn nhau. Trong đó phạm trù của tình yêu thương lẫn nhau rất rộng gồm tình yêu thương đối với ông bà cha mẹ, tình yêu thương anh em trong gia đình.

Và xemboituong.com xin gửi tới các bạn những câu nói hay về tình anh em hay và tình cảm nhất, cho chúng ta tham khảo cũng như là một món quà tinh thần gửi tới những người anh em tốt của mình nhé

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

Anh em nào phải người xa

Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân

Yêu nhau như thể tay chân

Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.

——–

Anh em trên kính dưới nhường

Là nhà có phúc mọi đường yên vui.

Anh em bất nghĩa chi khoèo

Anh dữ như mèo tôi lại như trâu.

Anh em bốn bể là nhà

Người dưng khác họ vẫn là anh em.

Anh em chín họ mười đời

Hai đằng cùng có, chẳng rời nhau ra.

Ai về đợi với em cùng

Thân em nay bắc mai đông một mình

Chi bằng ruộng tốt rừng xanh

Vui cha, vui mẹ, vui anh em nhà!

Ai ơi giữ chí cho bền

Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai

Xin đừng làm, nói đơn sai

Tin mình đừng sợ những lời dèm pha

Anh em một họ một nhà

Thương nhau chân thật đường xa cũng gần.

Anh em hiền thậm là hiền

Bởi một đồng tiền mà đấm đá nhau.

Anh em hiếu thảo thuận hiền

Chớ vị đồng tiền mà mất lòng nhau.

Khi nghèo thì chẳng ai nhìn

Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.

Anh em ăn ở thuận hoà

Chớ điều chếch lệch người ta chê cười.

Thói thường gần mực thì đen

Anh em bạn hữu phải nên chọn người

Những người lêu lổng chơi bời

Cùng là lười biếng ta thời tránh xa.

Làm người phải biết cương thường

Xem trong ngũ đẳng quân vương đứng đầu

Thờ cha kính mẹ trước sau

Anh em hòa thuận mới hầu làm nên

Vợ chồng đạo nghĩa cho bền

Bạn bè chung thủy, dưới trên đàng hoàng.

Anh em chồng vợ sum vầy

Vui này đã bỏ những ngày chia ly

Anh em cốt nhục đồng bào

Kẻ sau người trước phải hầu cho vui

Lọ là ăn thịt ăn xôi

Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng.

Anh em cốt nhục đồng bào

Vợ chồng cũng nghĩa lẽ nào chẳng thương.

Anh em hiền thật là hiền

Bởi một đồng tiền làm mất lòng nhau.

Anh em một khí huyết dây

Cũng như người có chân tay khác gì

Ai ơi lấy đấy mà suy

Có câu đường lệ trong thi để truyền.

Có tình thì đãi người dưng

Anh em bất nghĩa thì đừng anh em.

Anh em như chân như tay

Vợ chồng như áo, cởi ngay tức thì.

Anh em như chân với tay

Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

Anh em như thể chân tay

Cùng cha cùng mẹ hăng say việc nhà.

Chẳng thi, chẳng đỗ, chẳng sao

Anh em không được người nào bỏ nhau

Phải đòi cho được thày Cầu.

Phải đào hết đất nhà giàu đổ đi.

Trên đây là sự tổng hợp những câu nói hay về tình anh em cho bạn tham khảo và suy ngẫm, và để bày tỏ tình cảm cũng như tình yêu thương của bạn đối với người thân của mình bạn có thể tham khảo những câu nói hay về gia đình cảm động nhất nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

4 cách xem tướng nhận biết người hiền hòa thân thiện

4 cách để nhận biết tướng người hiền hòa, thân thiện, được áp dụng rất nhiều trong bộ môn nhân sự học tuyển dụng. Ngoài ra, cũng có thể xem bói ngày sinh hoặc bói tên để tìm hiểu thêm các đặc điểm khác của một con người.
4 cách xem tướng nhận biết người hiền hòa thân thiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người hiền hòa thân thiện đi tới đâu cũng được mọi người tươi cười đón chào. Đối với công ty họ chính là loại “chất bôi trơn” gắn bó mọi người lại với nhau, từ đó khiến mọi người cùng đồng tâm hiệp lực vì sự phát triển chung của công ty. Còn đối với cả nhân, ai cũng thích được kết bạn với những người thân thiện. Đặc điểm chung họ đều có khuôn mặt tươi vui. Ngoài việc xem tử vi, thì xem tướng học đúc rút 4 cách để nhận biết những người này.

1.Da trắng, người tròn không câu nệ tiểu tiết

            Da trắng, khuôn mặt tròn, thân hình cũng đầy đặn tròn trịa, cảm giác có da có thịt, người như vậy có tính cách hoạt bát, cởi mở, hiền hòa, vui vẻ, không soi mói, không câu nệ tiểu tiết, là người dễ hòa đồng. Tuy nhiên, những người này có nhược điểm là hơi cẩu thả, làm việc tùy hứng, không thích các quy tắc, không thích bị ràng buộc.

2.Lông mày hình vòng cung: Có khiếu thẩm mỹ

            Lông mày hình vòng cung, cũng giống như lông mày lá liễu, kiểu lông mày này mềm mại, thanh tú, đặc biệt là khi cười, lông mày có sức uốn cong hấp dẫn, nếu nói năng lại nhẹ nhàng, đầy chất văn thơ, thì người này có tấm lòng lương thiện, coi trọng tình cảm.

4 cách xem tướng người hiền hòa dễ mến

4 cách xem tướng nhận biết người hiền hòa thân thiện

3.Dái tai to, nhu mì yếu đuối

            Dái tai to, chiếm hơn một nửa tai, nửa dưới tai dài vượt quá khóe miệng thì gọi là tai rủ xuống vai. Người có tướng tai như thế này, nhu mì yếu đuối, họ sẵn sàng giúp đỡ người khác, họ thường chỉ để ý tới ưu điểm của người khác chứ không để ý tới khuyết điểm của họ,. Nếu tai áp sát đầu thì họ là người bảo thủ. Nếu tai hướng ra ngoài là người thích nhiệt tình với việc công ích, nếu dái tai có nốt ruồi thì là người thông minh lanh lợi, tôn trọng bề trên, hiếu thuận với cha mẹ, có tài năng.

4. Địa các đầy đặn, mọi việc đều dĩ hòa vi quý

            “Thiên đình đầy đặn, địa các vuông tròn”. Ý nghĩa của câu nói này có nghĩa là những người có khuôn mặt như vậy là những người có phúc, làm lên nghiệp lớn. Người có tướng như vậy, là người trọng tình cảm, nồng hậu, ấm áp, giải quyết mọi việc với thái độ lý tính, chứ không tranh chấp hoặc so bì tính toán, họ rất hiểu đạo lý dĩ hòa vi quý. Họ quan tâm chăm sóc người nhà và bề trên. Những người có tướng như vậy thường sẽ hưởng hậu phúc khi về già.

Trên đây là 4 cách để nhận biết tướng người hiền hòa, thân thiện, được áp dụng rất nhiều trong bộ môn nhân sự học tuyển dụng. Ngoài ra, cũng có thể xem bói ngày sinh hoặc bói tên để tìm hiểu thêm các đặc điểm khác của một con người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 cách xem tướng nhận biết người hiền hòa thân thiện

Tiền tài thăng trầm

Sao Vũ khúc tại cung Mão, Dậu, cung Mệnh là sao Tử vi nhập miếu và sao Phá quân thế vượng, chủ có đặc điểm những năm trẻ tuổi thì tự phụ quật cường, không nghe theo những lời nói thật, tự cho mình là đúng, trung niên và cuối đời thì thay đổi hoàn toàn, thận trọng hay suy nghĩ, bình tĩnh, nhìn xa trông rộng và quyết đoán, thiết thực, chịu vất vả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặc dù không tránh khỏi vất vả khó nhọc nhưng lao động có thu hoạch. Thế nên mới nói tuổi này tiền tài thăng trầm, dễ phát tài cực thịnh nhưng cũng phá tài cực nhiều.

BỐ CỤC SAO

Sao Vũ khúc tại cung Mão, Dậu là thế lợi tất có sao Thất sát thế vượng cùng tọa thủ, sao Thiên phủ tại cung Phúc đức triều chiếu (cung Dậu là thê vượng, cung Mão là thế địa). Cung Mệnh là sao Tử vi nhập miếu và sao Phá quân thế vượng, cung Quan lộc là sao Liêm trinh, Tham lang rơi vào thế hãm; cung Điền trạch là sao Thái âm (cung Tuất là thế vượng, cung Thìn là rơi vào thế hãm), cung Thiên di là sao Thiên tướng (cung Sửu là nhập miếu, cung Tý là thế địa).

PHÂN TÍCH TÀI VẬN

Sao Vũ khúc mạnh mẽ quyết đoán, bảo thủ chín chắn, điềm tĩnh, vững vàng. Sao Thất sát dứt khoát dũng mãnh, hào phóng hấp tấp, thích hoạt động có thể thành công. Hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, thẳng thắn, có thành tích, bảo thủ, mục tiêu và tầm nhìn xa, có thể đảm đương trọng trách.

Tài vận không tồi, giỏi việc quản lý tiền nong, kiếm tiền nhiều, tiêu tiền nhanh, hành động mang tính tùy tiện, thích đầu cơ mạo hiểm, tự mình lập nghiệp, làm theo ý mình, công việc trong cuộc đời thay đổi nhiều, tiền tài thăng trầm lớn, có lúc gặp trắc trở nhiều, dễ phát tài cực thịnh, phá tài cực nhiều. Những năm trẻ tuổi thì tiền đến rồi lại đi, trung niên và cuối đời thì có thể lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, thành tích tốt.

Khi sao Vũ khúc tại cung Mão tọa cung Tài bạch, sao Thái âm tại cung Tuất tọa cung Điền trạch, là thế vượng, sao Thái dương thế vượng ở cung đối diện chiếu vào là mệnh cách Nhật nguyệt chiếu bích, tài vận thông thuận, vận bất động sản tốt, gia nghiệp phong phú.

Tử vi đế tinh gặp Phá quân điện tiền tướng quân, những năm trẻ tuổi thì tự phụ quật cường, không nghe theo những lời nói thật, tự cho mình là đúng, trung niên và cuối đời thì thay đổi hoàn toàn, thận trọng hay suy nghĩ, bình tĩnh, nhìn xa trông rộng và quyết đoán, thiết thực, chịu vất vả. Mặc dù không tránh khỏi vất vả khó nhọc nhưng lao động có thu hoạch.

Sao Thiên phủ tọa cung Phúc đức, tấm lòng lương thiện, hài lòng với hiện tại, thu nhập không tồi, sống hưởng thụ, về tiền tài cần tránh dính líu đến bạn bè. Sao Thái âm tọa cung Điền trạch, nhà ở thường thích trang nhã thanh tịnh, thích nơi điền viên sơn lâm hoặc đặt những cây cối hoa cỏ. Cung Tuất sao Thái âm thế vượng tọa cung Điền trạch, sao Thái dương thế vượng tại cung đối diện chiếu vào, là mệnh cách Nhật nguyệt chiếu bích, tài vận thông thuận, vận bất động sản tốt, nên đề phòng đào hoa kiếp.

Sao Thái âm tọa cung Điền trạch, nhà ở thường thích trang nhã thanh tịnh, thích nơi điền viên sơn lâm hoặc đặt những cây cối hoa cỏ. Cung Tuất sao Thái âm thế vượng tọa cung Điền trạch, sao Thái dương thế vượng tịa cung đối diện chiếu vào, là mệnh cách Nhật nguyệt chiếu bích, tài vận thông thuận, vận bất động sản tốt, nên đề phòng đào hoa kiếp.


Sao Liêm trinh, Tham lang cùng tọa thủ cung Quan lộc, làm việc chăm chỉ, có biểu hiện tốt, giỏi việc giao tiếp xã giao, không thích công việc ràng buộc khuôn phép.

Sao Thiên tướng tọa cung Thiên di, quan hệ xã giao mạnh tốt nhân duyên tốt, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, vui khi giúp đỡ người khác, được người khác hoan nghênh, được đánh giá tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiền tài thăng trầm

Mệnh Bạch Lạp Kim

Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển viết: “Chất Kim của Canh Thìn và Tân Tỵ, dưỡng ở Thìn, sinh ở Tỵ hình chất mới thành, chưa cứng cáp nên gọi bằng Bạch Lạp Kim”.
Mệnh Bạch Lạp Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bạch Lạp Kim ví như chất ngọc chưa mài giũa. Tinh thần sảng trực tinh khiết mà thiếu tâm cơ. Người mang số Bạch Lạp Kim có hai con đường để lập thân:

a. Học ngành chuyên môn, tập trung vào ngành ấy mà nên công
b. Bươn trải kinh lịch cho thật nhiều như ngọc được mài giũa tinh luyện cuối cùng khi gặp vận để mà hành xử

Dù Mệnh có những sao tốt mà vận không bươn trải, hoặc không chuyên nghiệp thì sự nghiệp chẳng có bao nhiêu. Canh Thìn thì Thìn là thổ chất khả dĩ sinh kim, trong khi Tân Tỵ thì Tỵ là hỏa làm tan chất kim. Canh Thìn sảng trực tâm ý trung kiên hơn, Tân Tỵ mưu chước lươn lẹo.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Bạch Lạp Kim

‘Vạch mặt’ người ki bo và ích kỉ

Nếu gặp người có Ấn Đường hẹp, miệng nhỏ chu ra phía trước, cằm khoặm... thì đích thị là tướng người ki bo và ích kỉ, không nên kết thân.
‘Vạch mặt’ người ki bo và ích kỉ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu gặp người có Ấn Đường hẹp, miệng nhỏ chu ra phía trước, cằm khoặm...thì đích thị là tướng người ki bo và ích kỉ, không nên kết thân.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Ấn Đường quá hẹp

 
Trong Nhân tướng học, Ấn Đường là nơi phản ánh tính cách và thái độ sống có coi trọng vật chất hay không của mỗi người. Người có Ấn Đường quá hẹp thường có tính cách yếu đuối, lại hay chi li tính toán thiệt hơn và thận trọng quá mức khi làm bất cứ việc gì. 
 
Ngoài ra, người này có lối sống ích kỉ, vụn vặn, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân. Đồng thời họ không có chính kiến, hay làm theo phong trào, không tin tưởng vào năng lực bản thân nên rất khó làm việc theo nhóm hay tập thể.

ki bo
Ảnh minh họa

2. Mặt nhọn, mũi nhỏ, lỗ mũi hẹp
 
Người có đủ ba đặc điểm trên thường có tính cách hướng nội, tâm tính nhỏ nhen, ích kỉ và đa nghi. Người này sống rất hà khắc, ki bo, tư lợi cá nhân, không bao giờ biết hi sinh vì ai đó. Hơn thế, họ coi trọng tiền bạc, có tiền giữ khư khư, không nỡ tiêu xài. 
 
Ngoài ra, người có tướng mạo như trên còn thích lo chuyện bao đồng, việc gì cũng phải chuyện bé xé ra to thì mới mãn nguyện. 
 
3. Miệng nhỏ và có xu hướng chu về phía trước

Dù là nam giới hay nữ giới, nếu có miệng nhỏ lại chu về phía trước, quanh viền môi có nhiều đường vân nhỏ thì tài vận không tốt, nên lúc nào cũng phải tiết kiệm chi tiêu quá mức, thậm chí là keo kiệt, không nỡ tiêu tiền. 
 
4. Răng nhỏ và khít lại

Đa phần những người có hàm răng đều, nhỏ và khít lại thì coi trọng tiền bạc vật chất, luôn có tư tưởng tích lũy nhiều hơn là chi tiêu. Họ rất giỏi trong việc quản lí tài chính, dù bạn bè có gặp chuyện lớn nhỏ cần giúp đỡ đến đâu, họ vẫn buộc chặt túi tiền của mình vì sợ bị người ta lấy mất, không trả lại.
 
5. Mùi khoằm
 
Đặc điểm mũi này là đầu mũi hơi cong và khoằm  lại. Người có tướng mũi khoằm thường thì tâm tư mờ ám, hay toan tính thiệt hơn, thậm chí còn lắm mưu nhiều kế để hãm hại người khác nhằm trục lợi cá nhân.
 
Người này luôn muốn tiết kiệm tiền nhưng lại theo chiều hướng tiêu cực. Họ sẽ tận dụng tối đa sự trợ giúp của bạn bè để bản thân không phải bỏ ra đồng nào mà vẫn hưởng lợi. Nói cách khác, họ biết cách để người khác phải chi trả cho mình.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ‘Vạch mặt’ người ki bo và ích kỉ

Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí đặt bàn thờ, sắp xếp các đồ thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ...
Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ, sắp xếp các đồ thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ...

Bat huong, di anh dat sai se anh huong xau den gia chu hinh anh
 
Theo ông Luyện Văn Dũng – một người am hiểu về phong tục cúng giỗ ở Yên Mỹ, Hưng Yên, một bàn thờ thường đặt 3 bát hương trên đế Tam sơn. Ba bát hương này khi đứng từ ngoài nhìn vào thì ở giữa là bàn thờ thổ công, hội đồng gia tiên, còn hai bên thì đặt bát hương thờ bà tổ cô và bát hương thờ ông mãnh theo quan niệm “trai bên trái, gái bên phải”.

Ảnh đặt cũng sắp xếp theo “trai bên trái, gái bên phải” và theo cấp bậc, mỗi bát hương để cách nhau khoảng 10cm. Trong đó bát hương thổ công bao giờ cũng to hơn 2 bát kia và đặt ở vị trí cao hơn. Nhiều nhà đặt quá nhiều bát hương trên bàn thờ là không đúng cách sẽ không tổ hợp được sức mạnh tâm linh. Ngoài ra, không thể để thờ hai họ nội và ngoại cùng bát hương bởi quan niệm trần sao âm vậy.
  Tuy nhiên, theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương (Hội Nghiên cứu Phát triển Khoa học Việt Nam - Đông Nam Á) tùy thuộc vào hoàn cảnh từng nhà mà đặt bàn thờ cũng như lập các bát hương, chứ không nên quá máy móc. “Điều quan trọng là cái tâm thành kính.

Nhiều người cho rằng, không nên thờ chung họ nội và ngoại trong một bàn thờ nhưng theo tôi điều đó không sao cả bởi bàn thờ giống như một lịch sử của một dòng họ là để tưởng niệm, biết ơn với những người quá cố đã sinh thành, nuôi dưỡng mình. Hơn nữa, việc đặt vị trí bàn thờ là điều quan trọng rồi nhưng điều quan trọng hơn cả là bạn phải luôn giữ cho bàn thờ phải luôn sạch sẽ, thường xuyên thắp hương để tưởng nhớ về tổ tiên và người đã khuất, bàn thờ thần tài cầu may”, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh nói.
  Về vị trí đặt bàn thờ, ông Luyện Văn Dũng cho biết, theo tập tục của dân gian thì ban thờ gia tiên thường được đặt giữa gian nhà hướng ra mặt tiền. Tuy nhiên, việc đặt bàn thờ có một nguyên tắc là hướng về cái đẹp và tùy theo tuổi của gia chủ. Mỗi gia đình tùy theo hoàn cảnh rộng, hẹp, nhiều tầng hay nhiều phòng mà chọn chỗ đặt bàn thờ cho thích hợp nhưng phải hướng về cái đẹp: Thiên y, Sinh khí, Phúc đức hoặc Phục vị, chứ không được đặt bàn thờ hướng về cái xấu: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Họa hại, Lục sát.   Dù là nhà ở truyền thống hay hiện đại, bàn thờ cũng luôn phải đảm bảo được đặt tại vị trí cao, không bị các không gian sinh hoạt khác đè lên để khi cúng bái, con cháu trong nhà tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với ông bà tổ tiên. Với một gia đình riêng có nhiều tầng thì tầng trên cùng của tòa nhà đặt phòng thờ là hợp lý nhất. Nó không chỉ mang đến sự trang nghiêm, kín đáo, tĩnh lặng mà còn thuận tiện cho việc cúng ngoài trời, hóa vàng mã trên sân thượng.   Nếu không có không gian làm phòng thờ riêng có thể bố trí trong phòng khách, không nên bố trí tại phòng ngủ, phòng ăn, phòng bếp. Việc đặt ban thờ ở tầng 1 cũng không sao, tuy nhiên cần tránh tầng trên không được kê giường ngủ, phòng vệ sinh… bởi nó sẽ làm giảm tính tôn nghiêm của không gian trang trọng này.   Có phòng thờ riêng là tốt nhất bởi bàn thờ thuộc tĩnh không hợp với sự phô trương. Điều đó cũng sẽ tránh được việc đi từ ngoài cửa vào đã nhìn thấy bàn thờ tổ tiên, hình ảnh tổ tiên. Hơn nữa, bàn thờ ngay cửa chính sẽ đón nhận nhiều sát khí từ ngoài vào, dễ có gió thổi làm động bát hương”, ông Luyện Văn Dũng cho hay.   Đồng quan điểm về vấn đề này, chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng, về mặt nghi lễ, bàn thờ cần đặt ở nơi cao ráo, trang trọng nhất; còn về phong thủy bàn thờ cần đảm bảo thêm yếu tố vượng khí tức cần thoáng khí, rộng rãi. Tốt nhất nên cân nhắc vị trí đặt bàn thờ ngay khi bắt đầu thiết kế xây nhà sao cho phù hợp. Với nhà chung cư, bàn thờ vẫn phải đảm bảo sự thông thoáng, nhưng kín đáo và thống nhất về hình thức sao cho tương ứng với không gian căn hộ.   Tượng Phật có được đặt cùng bàn thờ gia tiên?   Theo ông Luyện Văn Dũng, việc đặt bàn thờ Phật cũng cần lưu ý nếu không sẽ không mang lại may mắn cho gia chủ. Nơi đặt bàn thờ Phật cần tránh: Không hướng ra nhà vệ sinh, không hướng ra cửa phòng, không hướng ra bàn ăn bởi vì Phật ưa thanh tịnh, giới sát tinh.

Cúng Phật chỉ dùng hoa quả tươi, không được cúng tam sinh (một con ngan, một thủ lợn, một con gà hoặc cá là những thứ chỉ nhà trình đồng mở phủ mới cúng) như gia thần và gia tiên. Vì vậy, bàn thờ Phật phải đặt riêng, có thể là trước bàn thờ gia tiên và cao hơn bàn thờ gia tiên. Tranh, tượng Phật chỉ để khi có bàn thờ Phật, không nên để cùng với gia tiên để thể hiện lòng tôn kính Tam bảo.
  Khi lau rửa, có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Bởi người xưa quan niệm như vậy là bất kính.   Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trên bàn thờ bắt buộc phải có bát hương, chân đèn, nước. Đồ bày trên bàn thờ quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, nước sạch. Bàn thờ bé chỉ nên đặt một bình hoa, không nhất thiết là hoa gì nhưng thường là cúc biểu hiện dương khí, hoa sen, hoa hồng, loa kèn…

Không nên để quá nhiều hoa nhựa, bởi theo quan niệm đó là sự giả dối. Bàn thờ phải thoáng sạch, bình hoa, đĩa quả, đèn/nến đặt hai bên, chính giữa đặt chén nước để bát hương thần linh thoáng. Nước của bình hoa cũng chú ý nên thay thường xuyên. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh để từ tháng này qua tháng khác.
  Giấy công đức không đặt lên bàn thờ   Trước quan niệm của nhiều người cho rằng, giấy công đức chùa khi về nên để lên bàn thờ để báo cáo tổ tiên, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho hay, giấy công đức là ghi nhận sự đóng góp của người đã làm việc công đức cho chùa. Vì lẽ ấy mà nhà chùa ghi nhận việc cúng dường đó bằng một tờ giấy công đức. Không nên để lên bàn thờ vì nó là thứ không liên quan đến thờ cúng. Nếu nhiều quá thì hóa đi rồi bỏ cũng được. Quan trọng là tâm mình hoan hỷ.

Theo GĐ&XH

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

5 con giáp luôn được "Thần Tài" chiếu cố suốt đời - Tuổi thân - Xem Tử Vi

5 con giáp luôn được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Thần Tài" chiếu cố suốt đời

Muốn mình luôn gặp may mắn là ước mơ của không ít người, nhưng "thần may mắn" có vẻ như lại không công bằng với tất cả. Top 5 con giáp dưới đây sẽ nhận được nhiều sự may mắn về mặt tài chính nhất.

1. Tuổi Thân

Những người sinh vào năm của tuổi này thường gặp được may mắn về tiền bạc trong cuộc sống bộn bề này. Họ là những người khát vọng sở hữu một khoản tài chính lớn, khi có cơ hội, họ sẽ nhanh tay nắm bắt, và việc kiếm tiền sẽ trở nên rất dễ dàng với họ so với những con giáp khác. Chỉ cần đừng tiêu xài hoang phí, không nên keo kiệt và chịu khó tiết kiệm tiền bạc, thì nguồn tài chính của họ sẽ luôn dồi dào và chắc chắn.

2. Tuổi Hợi 

Người tuổi Hợi luôn điềm tĩnh và sáng suốt dù có xảy ra bất kì vấn đề gì. Đối với những "trục trặc" trong đời sống, họ sẽ xem xét chu đáo và có những giải pháp hợp lý, điều này giúp họ gặt hái thêm thành công và tiền tài. Sẽ có nhiều người ghen tỵ với họ vì họ vừa may mắn vừa "rước" được nhiều tài lộc. Đồng thời, bản tính cởi mở, thân thiện trong các mối quan hệ giúp họ càng kiếm được thêm nhiều tiền.

3. Tuổi Dần

Thực ra, người tuổi Dần thường không quan tâm nhiều đến tiền bạc, họ ít khi "sống chết" để nhất định kiếm nhiều tiền. Tuy nhiên, họ luôn may mắn trong việc thu chi tài chính. Người tuổi Dần khi đã dùng tiền vào việc nào đó thì sẽ cố gắng làm việc để thu lại số tiền tương đương, may mắn luôn theo họ trong khoản này và giúp họ tận hưởng những điều họ mong muốn.

4. Tuổi Mùi

Sự may mắn đến với túi tiền người tuổi Mùi luôn chứa đựng nhiều điều bất ngờ. Khi họ túng thiếu, lập tức sẽ có người quen giàu có đến giúp đỡ và hỗ trợ. Còn khi họ nghèo khó, thì sẽ bất ngờ nhận được món quà đặc biệt từ người thân hay cha mẹ. Về mặt tài chính, sẽ có nhiều điều tốt đẹp luôn chờ đợi người tuổi Mùi. 

5. Tuổi Thìn

Người tuổi Thìn luôn có ý chí phấn đấu rất mạnh mẽ, đặc biệt họ đặt sự nghiệp lên hàng đầu. Vì thế, sự thăng tiến trong địa vị cũng như tiền tài đến với họ rất dễ dàng. Tuy nhiên, người tuổi Thìn lưu ý không nên nóng vội, bốc đồng trong công việc, nhất là những khoản làm ăn đầu tư, nếu không sẽ dễ gây mất mát, tổn thất tiền bạc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 con giáp luôn được "Thần Tài" chiếu cố suốt đời - Tuổi thân - Xem Tử Vi

Người tuổi Mùi và tuổi Thân có hợp nhau không?

Tuổi Mùi và tuổi Thân có hợp nhau không? Mặc dù mối quan hệ của hai người rất vui vẻ nhưng Thân cần điều chỉnh lối sống sôi động và cách chơi bạt mạng.
Người tuổi Mùi và tuổi Thân có hợp nhau không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặc dù mối quan hệ của Thân và Mùi rất vui vẻ nhưng Thân cần điều chỉnh lối sống sôi động và cách chơi “bạt mạng” của mình sao cho Mùi không phải lo lắng.

Tuổi Mùi và tuổi Thân có hợp nhau không? Mùi rất nhạy cảm và dễ xúc động. Do đó, khi có cảm giác không được yêu thương, họ thường lo lắng và mất thăng bằng. Thân có tính cách sôi động, dễ gần, luôn tò mò và ưa mạo hiểm. Thân và Mùi dễ nảy sinh cảm xúc khi cùng tham gia những nhóm hoạt động xã hội, nhưng để làm cho Mùi cảm thấy thoải mái lâu dài, Thân sẽ phải cố gắng rất nhiều.

Nguoi tuoi Mui va tuoi Than co hop nhau khong?
 
Khi yêu nhau, mối quan hệ của họ thường bắt đầu ở những bữa tiệc tối hoặc 1 câu lạc bộ nào đó. Đây là những nơi đông vui, rất thích hợp để Mùi tự do, thoải mái trò chuyện và thể hiện cá tính. Thân sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn, bí ẩn và tâm hồn nhạy cảm của Mùi. Khi đã là người yêu, Mùi thường dành tặng Thân những món quà có ý nghĩa cả về vật chất và tinh thần.

Bù lại, Mùi rất thích được quan tâm, chiều chuộng. Tuy nhiên, điều này không dễ thực hiện vì Thân thường chỉ thích sự vui vẻ và ít để tâm đến việc chăm sóc người khác.

Trong mối quan hệ làm ăn kinh doanh, 2 người có thể sẽ phải chịu đựng những căng thẳng liên quan đến quyền lực, vì cả 2 đều thích làm thủ lĩnh. Thân thường chỉ ham vui, chứ không thực sự là con người của công việc. Mùi là người có tham vọng phát triển các ý tưởng độc đáo, nhưng lại không giỏi trong vấn đề quản lý tài chính. Mùi thích trang trí nơi làm việc của mình theo phong cách riêng.

Mặc dù thích quyền lực, nhưng cả Mùi và Thân đều không quyết đoán, dễ bị dao động trước những lời xu nịnh. Do đó, họ cũng dễ bị kẻ xấu lợi dụng.

(Theo Zing)

 


 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi và tuổi Thân có hợp nhau không?

Mơ thấy thất nghiệp: Tài năng sẽ bị mai một –

Nếu mơ thấy cảnh thất nghiệp, cho thấy rằng năng khiếu của người nằm mơ không được tận dụng toàn vẹn, dần dần có thể bị mai một. Thất nghiệp hay mất việc dường như đã trở thành nỗi ám ảnh với bất kỳ ai trong cuộc sống vốn dĩ rất khắc nghiệt này. Nếu
Mơ thấy thất nghiệp: Tài năng sẽ bị mai một –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy thất nghiệp: Tài năng sẽ bị mai một –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd