Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

“Nguyên không” có phải là chỉ “huyền không” không? –

“Nguyên không” còn gọi là “Huyền không”, xuất hiện trong “Thanh nang ao ngữ”: “Thư và hùng, giao hội hợp nguvên không, hùng và thư, nguyên không quẻ nội thôi”; “Minh nguyên không, chỉ tại ngũ hành trung, tri thử pháp, bất nhu tầm nạp giáp”. “Thanh na

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng tự” còn viết: “Tấn thế cảnh thuần truyện thử thuật, diễn kinh lập ý xuất huyền không”.

images (2)

Tưởng Bình Giới khi chú “Giang Nam long lai Giang Bắc vọng, Giang Bắc long khứ vọng Giang Đông” đã nói: “Dương tùng khán thư hùng chi pháp, giai tòng không xứ vi chân long, cố lập kỳ danh viết đại huyền không, tuy vân lưỡng phiến, thực nhất phiến dã”.

“Nguyên không pháp giám” viết: “Nguyên không hành âm dương chi khí dã. Nguyên tắc vi thưởng bất không, không tắc vi thưởng bất nguyên, nguyên không cố tùy thời tùy địa nhi biến giả dã”; “Nguyên không tức biến dịch chi lý”.

“Thẩm thị huyền không học” cho rằng: “Thị huyền không nhị tự đại nhất chí cửu chi vi nhiên”, tức là sự biến hóa của số 1 đến số 9.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: “Nguyên không” có phải là chỉ “huyền không” không? –

Doanh nghiệp tuổi Mùi

Doanh nghiệp tuổi Mùi tức là doanh nghiệp được thành lập vào năm Mùi (1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991...) như Công ty Pepsi Cola, Công ty cổ phần Siemens,
Doanh nghiệp tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Doanh nghiệp tuổi Mùi tức là doanh nghiệp được thành lập vào năm Mùi (1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991...)  như Công ty Pepsi Cola, Công ty cổ phần Siemens, Công ty Coca Cola... Đây đều là những công ty nổi tiếng thế giới và làm ăn phát đạt.

Doanh nghiep tuoi Mui hinh anh
Hãng Coca Cola thành lập năm Kỷ Mùi (1919)

 

Công ty Pepsi Cola được thành lập năm 1919 (Kỷ Mùi) với tên gọi ban đầu là Lofte. Năm 1991, Pepsi Cola có số vốn là 17 tỷ 143 triệu USD, doanh thu đạt 17 tỷ 803 triệu USD, lãi ròng 1 tỷ 90 triệu USD. Năm 2004, doanh thu của Pepsi Cola đạt 29 tỷ 261 triệu USD, lãi ròng 4 tỷ 261 triệu USD.

Công ty cổ phần Siemens được thành lập năm 1847 (Đinh Mùi). Năm 1991, Siemens có số vốn là 37 tỷ 308 triệu USD, doanh thu đạt 6 tỷ 576 triệu USD, lãi ròng thu được là 896 tiệu USD. Năm 2005,  Siemens đạt doanh thu đạt 75 tỷ 445 triệu EUR, lãi ròng đạt 2 tỷ 248 triệu EUR.

Công ty Coca Cola thành lập năm 1919 (Kỷ Mùi), là công ty sản xuất đồ uống lớn nhất thế giới. Năm 1991, Coca Cola đạt doanh thu 4 tỷ 36 triệu USD, lãi ròng là 93 triệu USD. Năm 2004, Coca Cola đạt doanh thu 21 tỷ 962 triệu USD, lãi ròng đạt 4 tỷ 847 triệu USD.

Theo Diễn Đàn Doanh Nghiệp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nghiệp tuổi Mùi

Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Một bài viết trình bày bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi rất hay! Vương Đình Chi là một bậc thầy tử vi!
Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.

Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".

"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.

Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.

Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.

Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?

Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:

Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.

Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN

1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng

Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.

Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.

Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.

Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.

Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.

Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".

Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.

Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.

Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.

Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.

2- Quan sát toàn diện 12 cung

Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.

Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.

Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.

3- Các bước luận đoán mệnh bàn

Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:

3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.

Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.

3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch

Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.

Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.

3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức

Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.

Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.

3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý

Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.

Xin đưa ra một ví dụ thực tế:

- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.

3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn

Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.

Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.

Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).

Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.

Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".

Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.

Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.

3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung

Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.

Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo

- Mượn sao an cung

Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.

Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.

Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.

Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.

Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.

Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.

Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.

Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.

Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau

Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".

Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:

Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.

Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.

Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.

Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).

Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.

Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.

Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".

"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm

Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.

Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.

Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.

Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:

+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang

+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt

+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã

+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.

Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.

- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.

- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.

- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".

- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.

Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:

Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).

Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.

"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )

Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".

Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.

Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)

Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.

Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:

1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.

Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.

Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.

Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.

Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.

Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.

Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.

Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.

Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.

Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.

Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.

Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.

Mệnh bàn nguyên cục:

- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.

Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.

Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.

Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.

Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.

Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.

Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.

Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.

Ghi chú về phép định Tiểu hạn

Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt

Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.

Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.

Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.

Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.

Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.

Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.

- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát

- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.

- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.

- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.

- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.

- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.

- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban

Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con

Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.

Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:

- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)

Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.

4)- Cách luận đoán lưu nhật

Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.

Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.

Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...

Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.

Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.

Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.

Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:

- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.

Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.

Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.

Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.

Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.

Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.

Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.

Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.

Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.

Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.

Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.

Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.

5)- Cách luận đoán lưu thời

Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.

Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:

- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý

Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Bài học nhân cách qua câu chuyện lão thợ khóa chọn đồ đệ

Bất kể làm ngành nghề gì, đều phải nói đến một từ ‘đạo đức’. Thế nên, đức chính là tiêu chí nhân cách để chọn đồ đệ của lão thợ khóa trong câu chuyện này.
Bài học nhân cách qua câu chuyện lão thợ khóa chọn đồ đệ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bất kể làm ngành nghề gì, đều phải nói đến một từ ‘ĐỨC’ hay nhân cách, phúc tài bổng lộc đều từ đức mà sinh thành, sự nghiệp có trường tồn hay không cũng từ đức mà ra. Thế nên, đức chính là tiêu chí chọn đồ đệ của lão thợ khóa trong câu chuyện này.

Lão thợ khóa cả đời làm ra không biết bao nhiêu khóa, kỹ thuật cao siêu, giá cả cũng hợp lý, được mọi người vô cùng kính trọng; điều quan trọng hơn nữa là, lão là người chính trực, mỗi lần sửa khóa, lão đều cho người ta biết họ tên và địa chỉ của mình, bảo rằng: “Nếu như nhà anh có trộm, chỉ cần dùng chìa khóa mở cửa nhà anh mà đến tìm tôi, tôi sẽ thay anh tìm ra tên trộm, không thu phí của anh một đồng”.

Chọn đồ đệ

Thời gian dần trôi, lão thợ khóa càng già đi, nhưng tay nghề càng lúc càng tinh xảo, vì muốn kỹ nghệ của ông không bị thất truyền, mọi người thay ông xem xét tìm kiếm đồ đệ. Cuối cùng, lão thợ khóa chọn được hai người trẻ tuổi, cả hai đều rất có năng lực, lão vô cùng quý mến họ, định rằng sẽ đem hết kỹ nghệ tinh xảo của mình truyền thụ cho họ.

Sau một thời gian ngắn, cả hai người đều học được không ít kỹ thuật, thế nhưng, chỉ có một người có thể được chân truyền, vì vậy lão thợ khóa quyết định thử thách 2 người họ một chút.

Ngày hôm đó, lão thợ khóa chuẩn bị hai cái két sắt, đặt ở hai phòng khác nhau, rồi sai hai đồ đệ mở ra, người nào nhanh sẽ thắng. Khảo nghiệm này đối với họ mà nói rất đơn giản, vì cả hai đều có kỹ năng thành thục, chính yếu chỉ là so thời gian dài ngắn.

Kết quả là, người thứ nhất không đến 10 phút đã mở được két, còn người thứ hai lại mất đến nữa tiếng đồng hồ. Ai cũng cho rằng người thứ nhất thắng cuộc là điều không có gì bàn cãi vì cách biệt giữa hai người quá lớn, chỉ cần đợi lão thợ khóa tuyên bố ai là người chiến thắng thôi. Mọi người chờ thật lâu nhưng lão thợ khóa vẫn không có động tĩnh gì.

Trong lúc mọi người đang thắc mắc, lão thợ khóa bèn hỏi đồ đệ thứ nhất:

“Con là người mở ra trước hết, vậy con thấy trong két có cái gì?”.

Người này ánh mắt sáng rỡ, phấn khích trả lời thầy:

“Thưa thầy, bên trong có rất nhiều tiền, số tiền này có thể đủ dùng cho cả nữa đời người! Con chưa bao giờ nhìn thấy nhiều tiền như vậy!”

Lão thợ khóa quay đầu lại hỏi đồ đệ thứ hai câu hỏi giống như vậy, người này ấp úng cả buổi mới nói:

“Thưa thầy, con không thấy bên trong có cái gì cả, thầy chỉ bảo con mở khóa, thì con mở khóa, chứ con không có xem trong két có cái gì hết”.

Lão thợ khóa nghe xong, hết sức vui mừng, trịnh trọng tuyên bố đồ đệ thứ hai là người ông chọn nối nghiệp mình. Thấy vậy, đồ đệ thứ nhất không phục, mọi người cũng rất khó hiểu.

Đức tính cao quý

Lão thợ khóa mỉm cười, nói:

“Bất kể làm ngành nghề gì, đều phải nói đến một từ ‘ĐỨC’, nhất là nghề của chúng ta, đạo đức hành nghề còn phải cao hơn nữa. Một người có được một tâm hồn tốt đẹp, thế giới trong mắt anh ta, sẽ trở nên trong sáng thanh tịnh, và anh ta sẽ là một người có đạo đức cao quý; đồng thời, phẩm chất của một người sẽ nhào nặn nên tâm hồn của mình, hình thành nên một nhân cách cao thượng.

Tôi chọn đồ đệ là muốn bồi dưỡng cho người đó trở thành một người thợ khóa tuyệt vời, người đó nhất định phải được điều ‘trong lòng chỉ có làm khóa’, chứ không có thứ gì khác, đối với tiền tài nhìn mà như không thấy; nếu không, trong lòng có tư niệm, chỉ cần hơi có chút tham lam, trèo cửa vào nhà, mở két sắt trộm tiền, vậy sẽ dễ như trở bàn tay, cuối cùng chỉ có thể hại người hại mình mà thôi.

Những người làm khóa chúng ta, trong lòng mỗi người đều phải có một cái khóa không thể mở, đó chính là ‘không vì lợi mình, chỉ vì lợi người’, chỉ giúp đỡ người khác mở khóa của họ mà thôi!”

Không gì có thể quan trọng hơn thành thật, đây là cột trụ tinh thần. Danh dự và phẩm hạnh một cá nhân không ai có thể bỏ qua được, chính là: tự tôn, tự tin và chính trực. Như thế, bạn sẽ có được sự tôn kính chân thành nhất của người khác dành cho mình, và bạn mới làm được việc tuân thủ phẩm cách trân quý nhất của thế giới này – ĐẠO ĐỨC.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học nhân cách qua câu chuyện lão thợ khóa chọn đồ đệ

Tướng những người phụ nữ quý phái –

Tướng người phụ nữ có tướng quý phái; mắt sáng, lông mày thanh nhã, mũi thẳng, tiếng nói trong, ấm áp, dáng đi thẳng, thanh thoát,… Người phụ nữ có tướng quý phái thường có 1 số nét đặc trưng sau đây: - Mục quang (ánh mắt) sáng sủa, có cái nhìn mạnh
Tướng những người phụ nữ quý phái –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng những người phụ nữ quý phái –

Chọn đúng đèn, kích thích chuẩn năng lượng

Đèn thuộc Hỏa, mang năng lượng dương, có tác dụng kích hoạt năng lượng trong ngôi nhà. Theo phong thủy, mỗi loại đèn sẽ kích thích một vận may khác nhau.
Chọn đúng đèn, kích thích chuẩn năng lượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đèn thuộc Hỏa, mang năng lượng dương, có tác dụng kích hoạt năng lượng trong ngôi nhà. Theo phong thủy, mỗi loại đèn sẽ kích thích một vận may khác nhau.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

Chon dung den, kich thich chuan nang luong hinh anh
 
1. Đèn ánh sáng trắng kích thích sự nghiệp
Đặt một chiếc đèn ánh sáng trắng ở hướng chính Bắc của ngôi nhà sẽ kích thích năng lượng tác động tới sự nghiệp của nhân, mang may mắn tới.
 
2. Đèn ánh sáng cam tốt cho vận đào hoa Nếu muốn tăng thêm thế vận về hôn nhân hay tình yêu, có thể đặt một chiếc đèn bàn ánh sáng màu cam tại vị trí Tây Nam của phòng khách.

3. Đèn huỳnh quang tốt cho sự nghiệp văn chương Muốn sự nghiệp văn chương phát triển, đặt đèn huỳnh quang tại vị trí hướng Đông Bắc của thư phòng - khu vực thuộc mệnh Thổ, nếu bài trí thêm thủy tinh tự nhiên thì hiệu quả sẽ càng cao.
 
4. Đèn phản xạ có lợi cho sức khỏe Đặt loại đèn này ở hướng Đông, có thể làm lưu thống khí huyết, rất tốt cho sức khỏe của gia chủ.
 
5. Đèn tụ quang thúc đẩy tài vận Đèn tụ quang tốt cho tài vận, tốt nhất nên dùng loại đèn có ánh sáng màu hồng, đặt ở hướng Đông Nam.
 
6. Đèn màu kim loại tăng cường quan hệ xã hội Đèn màu kim loại  làm tăng thêm năng lượng cho hướng Tây Bắc, tốt cho vận quý nhân và các mối quan hệ xã hội của gia chủ.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn đúng đèn, kích thích chuẩn năng lượng

Tiết lộ những điều tâm linh thú vị về cõi âm

“Thế giới bên kia” - có những điều chỉ có trong tâm linh mà khoa học không thể lý giải.
Tiết lộ những điều tâm linh thú vị về cõi âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Thế giới bên kia” từ xưa tới nay vẫn là một đề tài thu hút sự chú ý, tò mò của rất nhiều người và có những điều chỉ có trong tâm linh mà khoa học không thể lý giải nổi. Thực tế liệu có phải là “trần sao âm vậy” không?

  Đồ ăn, quần áo, chỗ ở, đi lại
 
Đồ ăn dưới âm gian ngon hơn đồ ăn trên chốn dương gian rất nhiều, thế nhưng người âm lại không thể ăn mà chỉ có thể ngửi, một lần ngửi là có thể no tới vài ngày, chính vì vậy là một ngày cũng không cần phải ăn đủ 3 bữa như người trần. 

Tiet lo nhung dieu tam linh thu vi ve coi am hinh anh
Ảnh minh họa
Quần áo dưới âm gian so với dương gian thì đúng là “trần sao âm vậy”. Giường chiếu, chăn gối dưới âm gian cũng có nhưng thường không được sử dụng, quỷ hồn chỉ cần nhắm mắt và nghỉ ngơi chứ không cần phải ngủ đủ 7-8 tiếng một ngày như người trần. 
 
Người âm có khả năng đi rất nhanh, cưỡi mây vượt gió chứ không đi lại chậm rãi.
 
Khí hậu
 
Theo tâm linh, dưới âm gian cũng phân chia ngày và đêm, nhưng tuyệt nhiên không có mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Ban ngày dưới âm gian chỉ lờ mờ như có sương mù, cát bụi thổi bay khắp nơi. Dưới đây cũng có 4 mùa, mùa hạ thì không nóng nhưng mùa đông lại lạnh hơn rất nhiều so với dương gian. Âm gian có thể không có tuyết, chỉ có cát bụi nhưng nếu trên trần thế có gió thổi hay tuyết rơi thì dưới âm gian sẽ vô cùng lạnh lẽo.
 
Luật pháp
 
Mọi việc con người làm trên dương gian khi còn sống đều sẽ được ghi chép lại rất rõ ràng, tùy thuộc vào động cơ phạm tội và hậu quả mà quy kết tội nặng hay nhẹ. Chính vì vậy mà khi các quan dưới âm gian kết tội thì không cần phải suy nghĩ cũng có thể đưa ra được quyết định cho dù không cần tới luật pháp.
 
Ví dụ: Cùng là tội ăn trộm ăn cắp, nhưng nếu là người nghèo vì cuộc sống quá khó khăn mà ăn trộm tiền của người giàu,và số tiền đó không ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống của người giàu thì tội sẽ nhẹ hơn so với người trộm tiền mua thuốc, mua gạo của người bệnh, của người nghèo, khiến họ phải chết vì không đủ tiền chữa bệnh hoặc chết đói vì không có tiền mua đồ ăn.
 
Đặc biệt là các quan dưới âm gian không bao giờ phán xử sai người sai tội.
 
Hình phạt
 
Hình phạt dưới chốn âm gian nhiều và đáng sợ hơn vạn lần so với dương gian, không phải chỉ xử một lần là xong. Nếu một người ở dương gian giết 10 mạng người thì pháp luật cũng chỉ có thể xử tử 1 lần, nhưng ở âm gian sẽ bị xử tử 10 lần, đồng thời 10 đời sau chuyển sinh đều bị người khác giết.
 
Làm sao để phân biệt thiện – ác?

Không giống như người thường, quỷ thần hoàn toàn có thể biết được những điều mà người thường không nghe được bằng tai và không thấy được bằng mắt. Trên đầu của mỗi người cũng có ánh hào quang để nhận biết người đó có tâm thiện hay tâm ác. Nếu là tâm thiện thì ánh hào quang sẽ có màu hồng, vàng hoặc trắng, nếu là tâm ác thì ánh hào quang sẽ là màu đen. Nếu một người chỉ bất chợt nghĩ tới điều xấu xa nhưng nhanh chóng quên đi thì dưới âm gian sẽ không ghi chép lại nhưng nếu họ có tà tâm lâu dài thì cho dù chưa có hành vi nào, chỉ là trong tư tưởng thì cũng đều bị quỷ thần ghi lại.
 
Cũng có những trường hợp quỷ hồn “lách luật’, khi quỷ thần chuẩn bị kết tội họ thì họ lại niệm kinh, buộc các quỷ thần phải cho họ đầu thai, tuy nhiên, tại vận đời mới họ sẽ rất đoản mệnh.
 
Đức hạnh được tôn trọng nhất và tội nặng nhất
 
Lòng trung hiếu, lòng hiếu thảo là đức hạnh được tôn trọng nhất ở âm gian, cho dù có mắc tội gì thì cũng được xử nhẹ.
 
Tội nặng nhất là tội giết người và dâm ô, nếu vì dâm ô mà giết người thì tội còn nặng hơn nữa.

Tiet lo nhung dieu tam linh thu vi ve coi am hinh anh 2
Ảnh minh họa
Người tu hành có bị phán xét không?
 
Âm gian chỉ phán xét những hồn ma mang theo tội nghiệp, nếu là người tu hành chân chính sau khi chết sẽ lập tức thăng lên thiên giới.

Làm siêu độ cho người đã chết có tác dụng gì không?
 
Ở dương gian, việc cúng siêu độ cho người đã chết chỉ làm tăng thêm phúc đức cho họ, nhưng đó chỉ là phụ, chính vẫn là phúc đức của bản thân họ. Mà siêu độ có tác dụng hay không thì còn phải tùy vào từng trường hợp. Ví dụ như người đại thiện sau khi chết thì lập tức được vãng sinh lên trời, hoặc người đại ác sau khi chết thì sẽ ngay lập tức bị giáng xuống địa ngục, họ không thể nào nhận được công đức từ siêu độ. Chỉ có người bình thường không phải là đại thiện, đại ác mới có thể nhận được công đức từ siêu độ.
 
Tại sao quỷ hồn ở âm gian lại không tụng kinh niệm Phật để được siêu thoát?
 
Chỉ khi sống ở dương gian con người mới có thể tu hành, khi đã xuống âm gian thì vì nghiệp lực cản trở mà quỷ hồn không thể tu hành được. Người chết không toàn thây thì linh hồn của họ sẽ ra sao?
 
Hình dáng của linh hồn chết thảm giống hệt với những linh hồn khác, chỉ là sắc mặt có vẻ nhợt nhạt, cảm xúc thống khổ và những vết thương còn dính máu. Dung mạo của người đã chết cũng sẽ không già đi theo năm tháng mà giữ nguyên so với khi mới chết.
 
Linh hồn có cảm nhận được sự đau đớn hay không?

Với người chết do bệnh tật thì lúc linh hồn ly thể sẽ không hề đau đớn mà ngược lại còn cảm thấy rất thoải mái vì “bỗng nhiên được khỏi bệnh”, nhưng tâm trạng vẫn còn rất thống khổ vì còn quyến luyến gia quyến, quyến luyến dương gian.
 
Quỷ hồn có sợ người không?
 
Quỷ hồn đông hơn người rất nhiều, chỗ nào có người thì chỗ đó cũng sẽ có quỷ hồn. Quỷ hồn thường đi lại ở 2 bên đường hoặc những chỗ u ám. Quỷ hồn cũng sợ người, đặc biệt là các vị chính nhân quân tử. Nhưng đối với những người có tà tâm hoặc vận khí kém thì quỷ hồn rất thích trêu cợt.
 
Chuyện đầu thai có thật hay không?
 
Con người là có sinh có tử, có tử thì ắt sẽ có sinh. Bởi vì sau khi người ta chết thì vẫn còn tồn tại một thể tinh thần, là phi vật chất. Vì thế không thể dùng phương pháp chứng thực thực nghiệm về thế giới vật chất để nghiên cứu tinh thần được, mà chỉ dùng tinh thần để lĩnh hội tinh thần. Các loại tu hành trong tôn giáo chính là cách tinh luyện tinh thần của con người tốt nhất. Vì thế chỉ có thể tu luyện mới có thể chứng thực được hiện tượng sinh tử luân hồi của con người.
 
Sau khi chết, người nào có thể hiển linh được?

Trừ những người vượt qua khỏi lục đạo luân hồi, còn ở trong lục đạo luân hồi thì phải tiếp tục luân hồi. Quỷ hồn chỉ tồn tại ở trong lục đạo luân hồi, vì thế sau khi chết không nhất định sẽ thành quỷ hồn. Nếu vẫn ở trong luân hồi, thì sau khi chết chỉ khi người nhà mời người đến gọi hồn, mới có thể hiện hồn, nhưng nếu sau khi chết thăng thiên, xuống địa ngục hoặc chuyển sinh thành súc sinh, thì sẽ không nguyện ý hoặc không thể hiển linh.
 
Người dương thọ đã hết, đã đến tuổi phải chết mà chết, bất kể là họ chết thảm hoặc là chết già, thì đều được đưa vào một hệ thống có quy tắc, giống như là biên chế của bộ đội, đóng quân ở chỗ này xong lại đóng quân ở chỗ khác, lúc đó sẽ rất ít có cơ hội ra bên ngoài, nên rất ít khi hiển linh. Nhưng nếu người ta vẫn chưa đi hết tiến trình sinh mệnh đặc định mà đã phải chết, thì khi linh hồn của họ chưa được nhận xử lý, sẽ không có nơi tá túc, gọi là cô hồn dã quỷ, trong lúc lưu lạc, cơ hội họ gặp người là rất lớn.
 
Tại sao các vị thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử, không bao giờ thấy hiển linh?
 
Cần phải biết rằng hư không, vũ trụ và thế giới đều là không giới hạn, chúng sinh cũng không giới hạn. Những bậc Thánh hiền vĩ đại vì tâm nguyện của mình mà đã đến thế gian, thực hiện sứ mệnh giáo hóa chúng sinh, khi nhiệm vụ của họ hoàn thành, họ liền rời thế giới này của chúng ta và tiến nhập vào một thế giới khác. Vậy nên chúng ta không thể nào dùng quan niệm hữu hạn về thời không để nghiên cứu cho ngọn ngành về họ được. Vì thế dựa vào việc họ có hiển linh hay không để xét sự tồn tại của họ là hoàn toàn sai lầm.
 
Những điều nói trên có thể bạn không tin, nhưng đây thực là điều được ghi chép khá kỹ càng và chi tiết trong cuốn “U minh vấn đáp lục”. Để được thăng thiên ngay sau khi chết đi thì chúng ta cần giữ một cái tâm trong sáng và tích cực hành thiện, tu dưỡng.
 
=> Đọc thêm: Những yếu tố phong thủy theo ngũ hành ảnh hưởng đến vận mệnh con người

T.H

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết lộ những điều tâm linh thú vị về cõi âm

Tình duyên của người tuổi Hợi nhóm máu O

Đối với những người tuổi Hợi thuộc nhóm máu O, tình yêu là điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời họ.
Tình duyên của người tuổi Hợi nhóm máu O

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Không giống những người tuổi Hợi thuộc các nhóm máu A, B hay AB, người tuổi Hợi thuộc nhóm máu O khá bạo dạn trong cách bày tỏ tình cảm của mình với đối phương. Họ không ngần ngại với mọi người xung quanh mà cứ thẳng thắn thể hiện tình cảm của mình.

Họ sẵn sàng dẹp bỏ mọi chuyện sang một bên chỉ để dồn tâm sức chăm sóc cho tình yêu của mình. Cũng chính vì quá chú tâm vào chuyện tình cảm nên nếu gặp thất bại, họ sẽ phải mất một thời gian khá dài để cân bằng trở lại và tìm kiếm một tình yêu mới.

Khi đã lập gia đình, những người này thường chăm lo chu tất cho mọi thành viên đặc biệt là con cái. Nữ giới thuộc nhóm máu này thường là người đảm đang và tháo vát. Họ sẽ là hậu phương vững chắc để chồng yên tâm gây dựng sự nghiệp. Nam giới là những người chồng cư xử rất đúng mực và luôn chung thủy với vợ.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Hợi nhóm máu O

Ý nghĩa sao Thiên Cơ

ĐẠI CƯƠNG Cung Mệnh có Thiên CơMiếu địa, Vượng địa hay Đắc địa tọa thủ, nên thân hình cao, xương lộ, da trắng,mặt dài, nhưng đều đặn, rất thông minh, khôn ngoan, có óc kinh doanh, có mưutrí, biết quyền biến, tính nhân hậu, từ thiện, được hưởng giàu sang và sốnglâu.
Ý nghĩa sao Thiên Cơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Đại, Tiểu hao, Khoa, Quyền, Lộc, tất được hưởng phú quí song toàn và có uy danh lừng lẫy.

- Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa gặp Tả, Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Quí hội hợp, chắc chắn chuyên về y khoa hay dược khoa.

- Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa gặp Tả, Hữu, Linh, Hình là người khéo tay, thường chuyên về kỹ nghệ, máy móc hay thủ công.

- Cơ Miếu địa, Mão Dậu gặp Đại Tiểu Hao hội hợp là người đa tài, được hưởng phú quí đến tột bực. Cung Mệnh có cách này, mà lại sinh năm Ất, Tân, Kỷ, Bính, thật là toàn mỹ.

- Cơ Đắc địa Tý Ngọ, gặp nhiều Văn tinh hội hợp, dĩ nhiên là quý hiển. Nhưng tuổi Ất, Bính, Đinh mà cung Mệnh có cách này lại lập được sự nghiệp lớn lao và được hưởng giàu sang trọn đời.

- Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ, tất phải ly tổ, bôn ba, suốt đời vất vả, chân tay thường có tật, lại khó tránh thoát được tai nạn xe cộ hay dao súng, tuổi thọ cũng bị chiết giảm. Có cách này, thật chỉ có tu hành mới được yên thân, hưởng phúc và sống lâu.

- Cơ Hãm địa, nên thân hình nở nang, hơi thấp, da trắng, mặt tròn, kém thông minh, cũng có óc kinh doanh, nhưng có tính gian xảo, thường phải buôn bán ngược xuôi hay làm nghề thủ công để kiếm ăn. Tuy vậy, vẫn được no cơm ấn áo và sống lâu.

- Cơ Hãm địa gặp Tuần Triệt án ngữ, tuy khá giả, nhưng phải lập nghiệp ở xa quê hương, bản quán và hay mắc tai nạn xe cộ, dao súng.

- Cơ Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình, tất phải có tàn tật, nhất khó chữa, phải thường lang thang phiêu bạt, lại hay mắc những tai họa khủng khiếp, nếu không cùng khổ cô đơn, chắc chắn là yểu tử.

NAM MỆNH

- Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú quí đến tột bậc và phúc thọ song toàn.

- Cơ Miếu địa Thìn, Tuất, là người có mưu trí hay bàn xét về chính lược chiến lược.

- Cơ Miếu địa Mão, Dậu gặp Đại Tiểu Hao hội hợp, là người có tài kiêm văn võ.

- Cơ Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, tất phải có tàn tật, có bệnh khó chữ, thường phải lang thang phiêu bạt, hay mắc những tai họa khủng khiếp, nếu không cùng khổ, cô đơn, chắc chắn là yểu tử

NỮ MỆNH

- Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh, là người khôn ngoan tài giỏi, đảm đang, vượng phu ích tử, nhưng hưởng giàu sang và sống lâu. Đây, nếu Cơ gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bậc và phúc thọ song toàn.

- Cơ Miếu địa Mão Dậu, tất có tính dâm đãng.

- Cơ Hãm địa là người đảm đang, nhưng gian xảo và bất chính suốt đời vất vả, phải muộn lập gia đình hay lấy kế, lấy lẽ mới tránh được những nỗi buồn thương, đau đớn vì chồng con. Đây, nếu Cơ gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là cùng khốn cô đơn, nếu được no cơm ấm áo, chắc chắn là không thể sống lâu được.

PHỤ GIẢI

1 – Cơ Viên phú tính từ tâm

Cung Mệnh có Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa tọa thủ, là người có lòng từ thiện.

2 – Thiên Cơ gia ác Sát đồng cung, cẩn thân thử thiết

Cung Mệnh có Cơ Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh đồng cung, là người quỷ quyệt xảo trá. Nhưng nếu cung Mệnh có Cơ Hãm địa tọa thủ, lại gặp nhiều Sát tinh đồng cung tất là hạng trộm cướp bất lương.

3 – Thiên Am, triều cương, nhân từ chi trường

Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất, có Cơ (Thiên) Lương (Ấm) tọa thủ đồng cung, nên rất nhân từ và chắc chắn là được hưởng phúc thọ song toàn. Đây, nếu Cô, Lương gặp Tuần, Triệt án ngữ hay gặp nhiều Sát tinh hội hợp, thật chỉ có tu hành mới được yên thân, hưởng phúc và sống lâu.

4 – Cơ, Lương hội hợp, thiện đàm binh,

cư Tuất, diệc vi mỹ luận

Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Cơ, Lương tọa thủ đồng cung, là người học rộng tài cao, hay bàn xét về chính lược, chiến lược.

5 – Cơ, Lương thủ Mệnh gia Cát diệu, phú quí song toàn

Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất, có Cơ, Lương tọa thủ đồng cung, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, chắc chắn là được hưởng giàu sang trọn đời.

6 – Cơ, Lương, Tứ Sát, Tướng Quân xung,

vũ khách, tăng lưu Mệnh sở phùng

Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất, có Cơ, Lương tọa thủ đồng cung, gặp Kình Đà, Hỏa, Linh hội hợp, gặp Tướng xung chiếu, tất là hạng võ sĩ giang hồ hay thầy tu.

7 – Cơ, Nguyệt, Cấn, Khôn, nhi hội Xương, Riêu, thi tứ, dâm tàng

Cung Mệnh an tại Dần (Cấn), Thân (Khôn) có Cơ, Nguyệt tọa thủ đồng cung gặp Xương, Riêu hội hợp, nên hay làm thơ văn dâm tinh.

8 – Cơ, Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân

Cung Mệnh có Cơ, Nguyệt, Đồng Lương hội hợp, thường là công chức.

9 – Cơ, Lương đồng chiếu Mệnh Thân Không, vi tăng đạo.

Cung Mệnh hay cung Thân có Tuần, Triệt án ngữ, có Cơ, Lương (đồng cung), chiếu, tất là thầy tu.





Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thiên Cơ

Những điều phải chú ý trước khi luận đoán lá số Tử Vi

Bài viết lấy từ cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang trình bày những điều cần chú ý trước khi luận đoán lá số tử vi.
Những điều phải chú ý trước khi luận đoán lá số Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Thuận lý - Nghịch lý

Thuận lý hay nghịch lý giữa năm sinh với tháng sinh, giữa ngày sinh với giờ sinh.

Thí dụ: Năm sinh thuộc âm, tháng sinh cũng thuộc âm là thuận, ngày sinh thuộc dương, tháng sinh lại thuộc âm là nghịch. Nếu năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh đều thuộc dương cả hay âm thì rất tốt.

2. Tương sinh - Tương khắc

Tương sinh hay tương khắc giữa năm sinh với tháng sinh, giữa ngày sinh với giờ sinh.

Thí dụ: Năm sinh thuộc Mộc, tháng sinh thuộc Hỏa là năm tháng tương sinh. Ngày sinh thuộc Thủy, giờ sinh thuộc Hỏa là ngày, giờ tương khắc. Nếu năm sinh tháng, tháng sinh ngày, ngày sinh giờ, như năm thuộc Hỏa sinh tháng thuộc Thổ, tháng thuộc Thổ sinh ngày thuộc Kim, ngày thuộc Kim sinh giờ thuộc Thủy, như vậy số rất quý.

3. Tương hợp - Tương phá

Hợp hay phá giữa năm sinh với tháng sinh, giữa ngày sinh với giờ sinh. Cần phải xem Can, Chi của năm, tháng và ngày giờ.

4. Bản Mệnh - Cục

Tương sinh hay tương khắc giữa Bản Mệnh và cục

Thí dụ: Kim Mệnh, Thủy Cục là tương sinh, vì Kim sinh Thủy. Nếu ngược lại, Cục sinh Bản Mệnh, như Kim Mệnh, Thổ Cục, cũng được tốt đẹp nhưng không bằng Bản Mệnh sinh Cục. Bản Mệnh khắc Cục: rất xấu dù toàn thể lá số có tốt chăng nữa, độ số cũng bị chiết giảm một phần.

5. Năm sinh - Cung Mệnh

Thuận lý hay nghịch lý giữa năm sinh và cung an Mệnh

Thí dụ: Sinh năm Tý thuộc Dương, an Mệnh tại cung Dần cũng thuộc Dương là thuận lý.

6. Chính tinh cung Mệnh

Chính diệu thủ Mệnh (các sao thuộc Tử Vi tinh hệ và Thiên Phủ tinh hệ)

- Miếu địa? Vượng địa? Đắc địa? Hãm địa?

- Có hợp Mệnh không? Sinh Mệnh hay Khắc Mệnh?

Nếu cung an Mệnh không có Chính diệu, gọi là Mệnh vô Chính diệu, cần phải xem đến Chính diệu xung chiếu và trung tinh, bàng tinh tọa thủ, hội hợp.

Thí dụ: Kim Mệnh, Chính diệu thủ Mệnh, cũng thuộc Kim là hợp. Kim Mệnh, Chính diệu thủ Mệnh thuộc Thổ là Chính diệu sinh Mệnh rất tốt. Nếu ngược lại, Kim Mệnh, Chính diệu thủ Mệnh thuộc Thủy là Mệnh sinh Chính diệu, rất xấu. Kim Mệnh, Chính diệu thủ Mệnh thuộc Hỏa là Mệnh khắc Chính diệu, lại càng xấu hơn nữa.

7. Cung Mệnh - Cung Thân

Tốt hay xấu của Mệnh và Thân. Cân nhắc xem cung an Mệnh và cung an Thân, để biết cung nào tốt cung nào xấu.

8. Cung Phúc Đức

Tốt hay xấu của Phúc Đức. Xem cung Phúc Đức có nhiều sao tốt hay có nhiều sao xấu.

9. Chính tinh các cung

Vị trí của các Chính diệu trên 12 cung: Miếu địa? Vượng địa? Đắc địa? Hãm địa? Có đúng chỗ không?

(Tài tinh ở cung Tài, Qúy tinh ở cung Quan, Phúc tinh ở cung Phúc,... thế là đúng chỗ).

10. Tứ Hóa

Vị trí của Tứ Hóa trên 12 cung: Có được việc không?

(Hóa Quyền ở cung Quan, Hóa Lộc ở cung Tài,... thế là được việc).

11. Lục Sát

Vị trí của Lục Sát (Kình, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp) trên 12 cung.

12. Vận hạn

Đại hạn mười năm vận hành trên 12 cung. Xem lần lượt từng đại hạn một, để biết đại hạn nào tốt, đại hạn nào xấu.

(Tham khảo từ cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều phải chú ý trước khi luận đoán lá số Tử Vi

Các loại cây tốt cho phong thủy (P1)

Trồng, bài trí cây xanh trong nhà vừa có tác dụng trang trí, vừa loại bỏ khí độc, làm sạch không khí và bổ sung oxy, mang lại năng lượng thiết yếu cho ngôi nhà. Sau đây là các loại cây trồng tốt cho phong thủy nhà bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cau có khả năng loại bỏ được tất cả các độc tố không khí trong nhà. Đây là loại cây đẹp, dễ trồng, dễ chăm sóc và phù hợp với mọi không gian kiến trúc trong nhà. Lá cây rủ xuống làm dịu môi trường xung quanh.

Cọ là một trong những loại cây có tác dụng cải thiện chất lượng không khí trong nhà tốt nhất. Bên cạch đó, cọ còn là cây dễ trồng và dễ chăm sóc.

Tre loại bỏ được các chất benzene, trichloroethylene, formaldehyde, tạo cảm giác yên bình, ấm áp cho bất cứ môi trường nào. Đặc biệt, tre có sức chịu đựng tốt nhất trước sự tấn công của côn trùng.

Huyết dụ dễ trồng trong điều kiện ít ánh sáng, sống tốt kể cả khi thiếu sự chăm sóc thường xuyên, loại bỏ các độc tố hoá học trong môi trường sống.

Thường xuân sống khỏe, dễ trồng, thường được trồng ở những nơi công cộng, có khả năng thích ứng tốt, trừ môi trường có nhiệt độ cao.


Chà là có thể chịu đựng mức độ ánh sáng thấp nhưng cần khoảng không gian rộng. Nó loại bỏ được phần lớn các chất gây ô nhiễm, đặc biệt là xylene.

Sung cảnh là cây trồng lớn, đẹp, có thể dùng trang trí trong nhà, dễ chăm sóc và có khả năng khử không khí độc.

Dương xỉ đẹp, tươi tốt và trồng trong mọi môi trường nhưng cần được chăm sóc thường xuyên.

Thạch lựu được xem là biểu tượng của “đa tử đa phúc” (đông con nhiều phúc). Các gia đình đều trồng cây lựu trước nhà bởi họ tin rằng, nó luôn đem đến điềm may và tin tốt lành cho gia chủ.

(Theo Dothi)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các loại cây tốt cho phong thủy (P1)

Xem tướng phụ nữ vương phu ích tử

Đặc điểm của tướng vượng phu ích tử về mặt mạng vận là khi lập gia đình dù chỉ về nhiều lãnh vực, đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây:
Xem tướng phụ nữ vương phu ích tử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà: khuôn mặt cân phân về cả tam đình, ngũ nhạc.

Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy:

- Ấn đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.
- Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.
- Lòng bàn chân hoặc trong thân thể (rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.
- Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phu: màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp. Thường thường tướng phụ nữ vượng phu đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái.
- Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé). Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau : Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.
- Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi màu son tàu.
- Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai. Người phụ nữ có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậy ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).

Nguồn: Phong Thủy tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ vương phu ích tử

Các lễ hội diễn ra trong ngày 23 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cổ Bi

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 23 tháng 5 âm lịch có Hội Làng Cổ Bi được tổ chức tạilàng Cổ Bi, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 23 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cổ Bi

Các lễ hội diễn ra trong ngày 23 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cổ Bi

Hội Làng Cổ Bi

Thời gian: tổ chức vào ngày 23 tháng 5 âm lịch.

Địa điểm: làng Cổ Bi, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thần khai canh.

Nội dung: Phần lễ có rước sắc phong từ miếu Dinh ra đình làng; phần hội có đánh cờ và chọi gà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 23 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cổ Bi

Bố trí phòng theo phong thủy cho trẻ khỏe mạnh và thông minh

Ngoài việc dạy dỗ từ từ, cách bố trí không gian trong phòng trẻ và xung quanh theo phong thủy cũng ảnh hưởng nhiều đến hành vi, sức khỏe và sự thông minh của trẻ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu như bé nhà bạn hay có những hành vi không đúng mực, có những hành động xấu thì bên cạnh việc dùng các biện pháp uốn nắn, có lẽ cha mẹ nên xem lại cách bài trí không gian của trẻ. Bài trí lại phòng của bé ngoài tác động về mặt phong thủy còn có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý và hành vi. Hãy thử áp dụng các mẹo dưới đây và quan sát những thay đổi của bé.

1. Bố trí phòng rộng cho bé

Không nên cho bé sống trong căn phòng chật chội và hẹp. Một căn phòng càng rộng rãi càng tốt cho bé, để con của bạn có thể phát triển đầy đủ tiềm năng về thị lực, thính lực và khả năng vận động....

2. Phòng của trẻ cần sáng và sạch

Bạn nên giữ căn phòng của con sạch sẽ và tươi sáng để thu hút năng lượng dương tốt cho trẻ. Đáng lưu ý hơn, phòng sáng sủa và thông gió tốt, không bụi bẩn cũng giúp đảm bảo sức khỏe và giúp trẻ luôn năng động.

Bố trí phòng cho trẻ thoáng và sáng 
Bố trí phòng cho trẻ thoáng và sáng

3. Bố trí phòng bé gọn gàng, ngăn nắp

Một trong những điều quan trọng nhất trong phong thủy là phải giữ cho phòng ốc gọn gàng. Nếu để đồ đạc bừa bộn sẽ phá vỡ dòng chảy của năng lượng và gây ra sự hỗn loạn. Nếu trong phòng bé có thùng rác thì thùng rác luôn phải đậy kín nắp và đổ rác thường xuyên. Ngoài ra, đây cũng là cách để rèn cho bé tính ngăn nắp, tự lập và gọn gàng.

Cần bố trí phòng của bé ngăn nắp, gọn gàng 
Cần bố trí phòng của bé ngăn nắp, gọn gàng

4. Bố trí phòng bé ở vị trí thoáng

Nên bố trí phòng của bé ở vị trí thoáng đãng trong nhà. Không nên đặt phòng của bé trong cùng hành lang hay dưới tầng hầm. Những khu vực này tích tụ nhiều năng lượng âm sẽ không tốt cho giấc ngủ của bé.

5. Lựa chọn và bố trí giường ngủ

Giường ngủ rất quan trọng đối với giấc ngủ của trẻ em. Một chiếc giường êm ái và đủ lớn sẽ tốt cho sự phát triển cột sống của trẻ, tránh cho nôi/giường quá ngắn đẻ trẻ không phải nằm phải co chân. Hơn nữa, sự gò bó dễ tạo áp lực cho trẻ.

Một đầu giường vững chắc có thiết kế đơn giản rất tốt vì nó tượng trưng cho sự hỗ trợ tốt trong cuộc đời của trẻ. Ngoài ra, giường nệm cũng cần phải có độ cao nhất định. Không gian trống dưới giường giúp cho dòng chảy năng lượng tốt cho con của bạn trong giấc ngủ.

Không nên bố trí giường tầng trong phòng trẻ 
Không nên bố trí giường tầng trong phòng trẻ

Tránh dùng giường tầng vì nó dễ gây ra sự căng thẳng và áp lực cho trẻ. Cuối cùng, cần tránh sử dụng đệm nước, đặc biệt là vào mùa hè sắp đến, vì nước bị mắc kẹt trong giường sẽ tạo ra quá nhiều năng lượng âm.

6. Bố trí bàn học trong phòng trẻ

Không nên bố trí bàn học đối diện trực tiếp với cửa bởi vì nó sẽ gây ra năng lượng khiến tâm trạng trẻ náo động không yên. Cửa sổ cũng không phải là biểu tượng hỗ trợ tốt, vì vậy, không nên để cửa sổ đằng sau lưng con bạn khi ngồi học. Điều này sẽ giúp ngăn chặn việc tiếp xúc với năng lượng tiêu cực và gây ra tình trạng bất lợi cho trẻ em. Nếu phía trên bàn học có điều hòa, đèn chùm,...cũng sẽ gây ra sự mệt mỏi cho trẻ.

7. Không đặt cây trong phòng của trẻ

Trông cây trong phòng ngủ sẽ lấy đi khí Oxy và thải ra khí Các-bo-nic vào ban đêm, gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của trẻ. Thêm vào đó, dù là cây thật hay cây giả được bài trí trong phòng ngủ thì cũng lấy đi các nguồn năng lượng tốt của trẻ.

Không bố trí phòng trẻ 
Không bố trí cây trong phòng trẻ

8. Không đặt nước trong phòng ngủ của trẻ

Không nên để đài phun nước, bát hoa nước hay các bức tranh về ao hồ, biển cả trong phòng của trẻ bởi chúng sẽ tạo ra các nguồn năng lượng tiêu cực ảnh hưởng đến mối quan hệ của trẻ với người thân trong gia đình.

Cha mẹ hãy áp dụng các mẹo phong thủy một cách từ từ và quan sát thay đổi tích cực của trẻ qua mỗi ngày!

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí phòng theo phong thủy cho trẻ khỏe mạnh và thông minh

Top chòm sao nữ có máu ‘hoạn thư’ –

Chòm sao nữ nào có máu hoạn thư? Trong ‘lĩnh vực’ này, Bò Cạp giữ ngôi vị quán quân, còn Xử Nữ và Song Ngư theo sát nút ở các vị trí tiếp theo. Củ thể thế nào chúng ta cùng đọc bài viết dưới đây để có thêm thông tin nhé! Top chòm sao nữ có máu 'hoạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chòm sao nữ nào có máu hoạn thư? Trong ‘lĩnh vực’ này, Bò Cạp giữ ngôi vị quán quân, còn Xử Nữ và Song Ngư theo sát nút ở các vị trí tiếp theo. Củ thể thế nào chúng ta cùng đọc bài viết dưới đây để có thêm thông tin nhé!

Nội dung

  • 1 Top chòm sao nữ có máu ‘hoạn thư’
    • 1.1 Quán quân: Bò Cạp
    • 1.2 Á quân: Xử Nữ
    • 1.3 No3: Kim Ngưu

Top chòm sao nữ có máu ‘hoạn thư’

Quán quân: Bò Cạp

Trong tình yêu, Bò Cạp nữ là nhân vật chủ động, thích kiểm soát mọi tình thế và việc nào cũng phải rõ như ban ngày, không có chuyện mập mờ gây nghi ngờ đâu nhé. Khi yêu, chòm sao này không nhất thiết phải kè kè suốt này bên đối phương, nhưng ít nhất cũng phải nắm rõ việc người ấy đang làm, nơi người ấy đang ở.

bo-cap-2994-1397780817

Thích kiểm soát là vậy, nên khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ, Bò Cạp không ngần thể hiện mức độ ghen tuông như “sư tử Hà Đông”. Nếu đối phương thực sự có điều gì che giấu, bạn sẽ truy tìm căn nguyên của vấn đề. Một khi sự việc đã rõ mười mươi, nếu lỗi ở mình, Bò Cạp sẵn sàng nhận lỗi và xin chàng ta thứ tha. Một khi lỗi là ở đối phương, tùy theo mức độ sự việc mà bạn sẽ không bỏ qua một cách dễ dàng. Đây coi như là lần đầu và lần cuối chàng ta phạm phải lỗi này đó.

Á quân: Xử Nữ

Chòm sao này rất hiểu biết và tôn trọng khoảng cách cần có trong tình cảm lứa đôi. Hơn thế, Xử Nữ còn sống khá lý tính, biết cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt của vấn đề rồi mới đưa ra quyết định. Do vậy, Xử Nữ không ngang nhiên vô cơ ghen tuông thái quá bao giờ. Chỉ cần đối phương đưa ra lý do hợp lý chứ không phải dùng lời mật ngọt hay tức giận để nịnh nọt hoặc đe dọa, là bạn sẵn sàng cho qua mọi chuyện.

xu-nu-2803-1397780817

Nhưng một khi đối phương không đưa ra được những lời giải thích phù hợp, cơn ghen tuông thịnh nộ của Xử Nữ lại bốc lên ngùn ngụt. Dù người ấy có dỗ dành, hứa hẹn thế nào, bạn cũng không chịu tha thứ, trừ khi mọi chuyện phải được giải thích trắng đen rõ ràng.

No3: Kim Ngưu

Tính ghen tuông dường như đã ngấm vào máu của chòm sao này rồi. Chỉ cần nhìn thấy đối phương chuyện trò cởi mở với cô gái xinh xắn nào đó, Kim Ngưu đã “bốc hỏa” trong người, tỏ ra buồn chán ngay lập tức.

kim-nguu-7842-1397780817

Vì yêu quá đậm sâu và luôn có cảm giác không được an toàn, Kim Ngưu mong muốn người ấy dành nhiều thời gian để quan tâm, chăm sóc cho tình cảm của hai bên hơn nữa. Có như vậy, bạn mới có được cảm giác an toàn và yên tâm để tận hưởng những phút giây lãng mạn tràn ngập yêu thương bên chàng ấy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top chòm sao nữ có máu ‘hoạn thư’ –

Chuyện Phật chỉ ra điều tốt và điều ác

Câu chuyện Phật giáo về điều tốt và điều ác dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về những mối quan hệ nên có trong đời.
Chuyện Phật chỉ ra điều tốt và điều ác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cha ông ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, Phật cũng dạy cách trở thành người tốt là phải gần người tốt.


► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Chuyen Phat chi ra dieu tot va dieu ac hinh anh
 
Phật và A - nan - đà đến tới phiên chợ nọ và đến trước một cửa hàng bán cá. Ðức Phật nói với A-nan-đà: 
  "A Nan, ngươi đi đến cửa hàng cá, chạm vào một con cá đi".    A - nan - đà làm theo lời Phật.   "A Nan, ngươi ngửi thấy mùi gì trên bàn tay?”. Phật hỏi.   "Thưa Đức Phật! Mùi hôi thối, rất khó chịu". A – nan - đà trả lời.   Đức Phật nói: "Này A Nan, nếu ngươi gần gũi với cái ác, điều  xấu, giao tiếp với bạn bè không tốt, thì ngươi sẽ trở thành một người xấu xa có tiếng".   Đức Phật lại đưa A – nan - đà đến một cửa hàng hương liệu và bảo: "A Nan, người đi chạm vào một gói hương liệu đi".   A - nan - đà làm theo lời Phật.   Đức Phật hỏi: "A Nam, ngươi hãy ngửi bàn tay của ngươi xem có mùi gì?".   "Đức Phật, bàn tay của con tỏa ra hương thơm tinh tế". A – nan - đà trả lời.   "A Nan, nếu những người gần gũi với ngươi đều là người tốt, thì ngươi ắt sẽ  thành người tốt. Ngươi nên tiếp xúc nhiều hơn với Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên". Phật nói.

Infographic: 9 giới hạn làm người
Khái niệm làm người có nhiều định nghĩa đơn giản mà chúng ta vô tình bỏ qua, thay vào đó là cứ mải mê kiếm tìm những định nghĩa quá cao siêu.
Câu chuyện Phật giáo về điều tốt và điều ác trên đây thực ra không khó để hiểu, bài học đơn giản nhưng sâu sắc và thiết thực với mỗi chúng ta. Chơi với người xấu thì thành người xấu, gần gũi người tốt thì học được đức tính tốt.   Cái ác có tác động lây lan từ người này sang người khác, điều tốt cũng vậy. Nếu tất cả đều chọn việc thiện để làm, chọn bạn tốt để chơi thì những người xung quanh sẽ dần dần học hỏi lẫn nhau, chỉ dẫn nhau làm điều tương tự.   Không chỉ là Phật dạy cách chọn bạn mà còn dạy cách làm người, biết phân biệt tốt xấu, biết bài trừ, xa lánh cái ác và gần gũi cái thiện. Hơn thế nữa, chính bản thân mỗi người phải trở thành tấm gương tốt, trở thành “gói hương liệu” trên đời, để giúp người xung quanh hướng thiện, giúp xã hội trở nên tốt đẹp hơn.

Ngô Yến (Theo Ebaifo)
Xem Clip Những ca khúc hay về Quan Thế Âm Bồ Tát

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện Phật chỉ ra điều tốt và điều ác

Điểm danh 3 chòm sao hai mặt, độ ngụy trang cực cao

Mỗi người ngay từ lúc sinh ra đã mang theo ý thức tự bảo vệ mình, ngụy trang che giấu bản thân. Trong đó, 3 chòm sao hai mặt dưới đây có bản năng mạnh mẽ.
Điểm danh 3 chòm sao hai mặt, độ ngụy trang cực cao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người ngay từ lúc sinh ra đã mang theo ý thức tự bảo vệ mình, ý thức ngụy trang để che giấu bản thân. Trong đó, 3 chòm sao hai mặt dưới đây có bản năng mạnh mẽ nhất, rõ rệt nhất.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

Diem danh 3 chom sao hai mat, do nguy trang cuc cao hinh anh goc
 

Bảo Bình

  Chòm sao hai mặt Bảo bình ở trước mặt bạn bè rất nhiệt tình, hào phóng nhưng khi chỉ có một mình thì họ trở lại nguyên dạng trầm tĩnh, ít nói. Tính cách của Bảo Bình khá phức tạp, khó dự đoán, không ai biết thực sự trong lòng họ đang nghĩ gì.    Có thể với nhiều người, Bảo Bình có phong cách xử sự quyết liệt, quyết đoán nhưng nếu chăm chú hơn sẽ nhận ra, thực chất chòm sao này có tấm lòng rất hòa ái, nhẹ nhàng, vô cùng yêu thích động vật nhỏ, ẩn giấu nhu tình ở tận trong tim. Đây chính là bí mật mà Bảo Bình luôn luôn tự che giấu.  

Hổ Cáp

  Nói Hổ Cáp là chòm sao hai mặt cũng vì nội tâm và biểu hiện phức tạp của họ. Từ trước đến nay, Hổ Cáp nổi tiếng là có vẻ lạnh lùng, bề ngoài không dễ thân cận, quen thuộc, hành vi vô cùng dứt khoát, gọn gàng. Nhưng khi nói chuyện, tiếp xúc gần gũi hơn thì mọi người sẽ nhận ra Hổ Cáp rất nhiệt tình, tâm địa cũng mềm mại như ai đó thôi.   Thậm chí, họ còn thiện lương tới mức bị người khác bắt nạt mà cũng chẳng buồn so đo. Đừng nhìn dáng vẻ kiên cường, nghiêm khắc của Hổ Cáp mà nghĩ xấu về họ nhé. Coi trọng tình cảm nên chỉ cần có chút liên quan thân thuộc thì Hổ Cáp sẽ dễ dàng mềm lòng.
 
Diem danh 3 chom sao hai mat, do nguy trang cuc cao hinh anh goc
 

Song Tử

  Đúng như tên gọi Song Tử chính là chòm sao hai mặt điển hình nhất, nổi bật nhất trong vòng tròn hoàng đạo. Song Tử có thể không phải người hiền lành nhưng tuyệt đối không phải là người lãnh đạm, vô tình. Sự hai mặt của Song Tử chủ yếu ở mặt tâm tình biến đổi rất nhanh, giây trước đang cười giây sau đã có thể u buồn.    Đáp án chỉ có thể là Song Tử giỏi che giấu, luôn dùng bộ mặt tươi cười để khỏa lấp nội tâm đau đớn. Dẫu phải đối diện với tình huống nào, Song Tử cũng có thể dùng nụ cười, sự lạc quan của mình để tiến lên phía trước.
3 chòm sao nữ lụy tình, sợ bị tổn thương không dám yêu Tự do tự tại, 3 chòm sao độc lập yêu thích cuộc sống một mình Top 3 chòm sao lận đận tình duyên, yêu nhiều khổ nhiều
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 chòm sao hai mặt, độ ngụy trang cực cao

Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P2) –

Có những vật phẩm mà ta tưởng chỉ dùng để chiêu tài, nhưng thực ra nó còn có tác dụng hóa sát 12. Chuông La Bàn Bát Quái Đây là loại chuông treo có in hình Bát Quái bên thân. Không giống với những chiếc chuông gió, chuông la bàn Bát Quái có hình dáng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những vật phẩm mà ta tưởng chỉ dùng để chiêu tài, nhưng thực ra nó còn có tác dụng hóa sát

12. Chuông La Bàn Bát Quái

Đây là loại chuông treo có in hình Bát Quái bên thân. Không giống với những chiếc chuông gió, chuông la bàn Bát Quái có hình dáng tương tự các quả chuông ở nhà chùa với 1 hình khối trụ chụp xuống và 1 thanh giửa có gắn quả bi tròn, khi có gió lắc nó sẽ chạm vào bên trong thành chuông, làm phát tán năng lượng Bát Quái ra bên ngoài.

Công năng Hoá Sát của nó mạnh hơn hầu hết các linh thú hóa sát trong Phong Thủy , nhưng nếu là kích thước quả chuông không đủ lớn sẽ không đủ lực hoá giải Hình Sát lớn. Thông thường, bên thành quả Chuông La Bàn Bát Quái được khắc hình Quan Thế Âm Bồ Tát hoặc bài Đại Bi Chú.

13. Kim Nguyên Bảo

1341990113-nen-vang-cau-may-man1

Kim Nguyên bảo chính là các thỏi vàng mà người ta thường bày trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa, có tác dụng chính là Sinh tài, Vượng tài. Tuy nhiên, nó còn được dùng để Hóa giải chỗ ngồi, chỗ nằm vì lý do không thể xoay trở khác được, mà phải hướng lưng, đầu ra cửa sổ.

14. Lục Đế Tiền Cổ

Là loại tiền giả cổ ngoài tròn giửa có lỗ vuông, thuộc năm triểu đại thịnh vường của nhà Thanh: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang. Nhiều nơi bày bán vật này hay có lối nói tiền cổ, và… chém đẹp, nhưng thực ra tiền cổ thật không có công năng mạnh bằng tiền thật.

Những người đó họ dùng chiêu bài” tiền cổ là loại tiền lưu hành thời đó, đã qua tay nhiều người sử dụng nên tốt, vì có Tài Khí”. Đó chỉ là cách nói bao biện, không hợp với lý của Phong Thủy, bởi chúng ta là người sống, cần là cần những năng lượng Dương tích cực, cần chi năng lượng Âm đó. Tiền càng mới càng có hiệu quả cao!! Chính vì vậy những đồng tiền này luôn được xỏ dây đỏ, dùng năng lượng Dương của màu đỏ để kích hoạt thêm tính Dương của các đồng tiền vậy.

Trong Phong Thủy, Tiền Lục Đế thường được dùng để Hóa Sát trong các trường hợp: Phản Quang Sát, Liêm Đao Sát, Bạch Hổ Sát, Thiên Trảm Sát, Xuyên Tâm Sát, Pháo Đài Sát, Khai Khẩu Sát, Cân Trời Xung Xạ Sát, Phản Cung Sát, Liêm Trinh Sát, Đỉnh Tâm Sát. Trong Phong Thủy Huyền Không thì Tiền Lục Đế thường dùng để Hóa Giải các sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc.

15. Minh Chú Quan Âm

Đức Quan Thế Âm thì cũng biết Ngài là bậc Đại Từ, Đại Bi chuyên cứu giúp nạn tai, cứ khổ. Còn Lục Tự Đại Minh Chú của Ngài có thể hàng yêu phục ma, giải trừ xui rủi. Cho nên cả hai kết hợp lại là vật hộ thân, giảm tai họa đến nhà, thúc đẩy tài vận và giữ bình an.

Công cụ này thường dùng cho người làm việc có tính chất giao tiếp nhiều hoặc phức tạp và thích hợp nhất với nữ giới. Do có hình tượng Quán Thế Âm nên thường mang tính giống vật trang sức đeo bên người, sẽ không có cảm giác đeo vật Phong Thủy 1 cách lộ liễu như các vật khác.

16. Kỳ Hưu (hay Tỳ Hưu)

Đây là 1 loại thú trong thời Thượng Cổ. Có 2 loại: Kỳ Hưu thì có 1 sừng chuyên Chiêu Tài, Nạp Bảo. Còn Tịch Tà thì có 2 sừng chuyên Trấn Trạch. Hình dáng bên ngoài chúng thì giống nhau cả, duy chỉ khác con 1 sừng, con kia 2 sừng. Với Kỳ Hưu thì những ai có thu nhập xốc nổi, hay kiếm tiền bằng mẹo vặt rất thích hợp đặt nó.

17. Gương Bát Quái

Gương Bát Quái có rất nhiều loại: Gương Bát Quái phẳng, gương Bát Quái lồi, gương bát Quái lõm, những loại này thường bằng gỗ và kính. Gương Bát Quái Hổ Phù, gương Bát Quái Trấn Trạch, gương Bát Quái Chuẩn Đề, gương Bát Quái Đại Đế, những loại này bằng đồng.

* Gương Bát Quái phẳng và lồi thường dùng để Hóa Giải các trường hợp Thương Sát, Hỏa Hình Sát, Đỉnh Tâm Sát, Tam Xoa Sát. Nhưng tùy trường hợp mà sử dụng loại nào (vì Hình Sát nhỏ không nên dùng gương Bát Quái lồi) và thêm những công cụ khác trên gương.

* Gương Bát Quái lõm thường dùng để Hóa Giải các trường hợp cầu thang đổ ra đường, nhà nhìn từ cửa trước thông thẳng ra cửa sau. Và gương Bát Quái lõm là loại có thể treo trong nhà.

* Gương Bát Quái Hổ Phù thường dùng để Hóa Giải Ngũ Hoàng Sát, Tam Xoa Sát, Thương sát, Đỉnh Tâm Sát, Thích Diện Sát.

* Gương Bát Quái Trấn Trạch là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Bát Quái, mặt kia là 1 Phù Trấn Trạch với 2 thanh thư hùng Thất Tinh Kiếm. Ngoài các công năng Hóa Giải như gương Bát Quái thường ra, nó thường dùng cho trường hợp nhà đối diện các nhà tang lễ, trại giam, bệnh viện, nghĩa trang…nói chung là những nơi có sự chết chóc.

* Gương Bát Quái Chuẩn Đề là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt in hình Phật Chuẩn Đề với 18 tay cầm 18 món Vật Phẩm, mặt kia là vòng tròn Bát Quái cộng với bài chú Chuẩn Đề. Đây đúng ra là Vật Phẩm Hóa Giải của Phong Thủy Mật Tông Tây Tạng, công năng của nó rất mạnh. Ngoài những tính năng đặc biệt như gương Bát Quái Trấn Trạch ở trên, nó còn dùng cho trường hợp nhà ở mà trước đây chủ trước xài Lỗ Ban nuôi “binh”, hoặc nhà có Âm binh khuấy phá. Đây là loại gương Bát Quái đồng có thể treo trong nhà.

* Gương Bát Quái Đại Đế là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Vô Cực Đại Thiên Tôn (chính là Ngọc Hoàng Đại Đế) với Phù Trấn Trạch, mặt kia in hình Bát Quái. Gương này ngoài những công năng đặc biệt bên trên của các gương kia còn có sức Hóa Giải các hình tượng Thập Tự Giá khổng lồ đối diện nhà, các nhà đối diện treo gương có hình Tử Vi Đại Đế cưỡi trên Kỳ Lân cầm gương Bát Quái chiếu sang nhà mình.

Guơng Bát Quái thường có 2 loại Tiên Thiên và Hậu Thiên. Hóa Sát dùng Tiên Thiên còn xoay chuyển hướng dùng Hậu Thiên.

18. Vận Tài Đồng Tử

Theo truyền thuyết, Vận Tài Đồng Tử chính là Thiện Tài Đồng Tử bên cạnh Quan Thế Âm Bồ Tát, chuyên biến hiện ra rất nhiều tiền bạc, của cải giúp đỡ cho người nghèo. Nên sau này người ta dùng hình tượng của Thiện Tài Đồng Tử như 1 vị Thần chuyên đem Tài Lộc đến, thành thử mới có tên Vận Tài là vậy.

Vận Tài Đồng Tử trong Phong Thủy có nhiều hình dạng khác nhau: tượng 1 đồng tử gánh 2 gánh vàng, tượng 2 đồng tử đang đẩy xe vàng (cái này có nơi còn gọi là Thôi Xa Tiến Bảo), tượng 2 đồng tử đang quay cối xay tiền, tượng đồng tử đạp trên lưng con sư tử tay cầm Hốt Như Ý… Nhưng tựu trung tất cả đều giống như nhau, với mục đích chính là Chiêu Tài Tiến Bảo.

Ngoài ra, Vận Tài Đồng Tử còn dùng trong 1 vài trường hợp Hóa Sát (thường nó đi kèm với thứ khác) như: Phản Cung Sát, Pháo Đài Sát. Đặc biệt, Vận Tài Đồng Tử rất thích hợp với nhà toàn nam giới chưa kết hôn.

19. Mã Thượng Phong Hầu

Vật phẩm này có thể là 1 bức tranh (rất hiếm), nhưng thường là tượng bằng đồng, hoặc là miếng ngọc bội. Với câu chữ hiểu theo nghĩa đen là “con khỉ cưỡi trên con ngựa” nên nó cũng mang hình dáng như vậy. Nhưng thực ra đây là cách chơi chữ của người Hoa, vì 2 chữ “Mã Thượng” (/mă shang/) đi chung với nhau được hiểu là “lập tức”; còn “Phong Hầu” chính là phong quan tấn tước (“Hầu” là 1 tước vị rất lớn ngày xưa). Do đó ghép 2 từ lại sẽ có ý nghĩa được “lập tức thăng quan”. Vật phẩm này rất thích hợp cho người làm nhân viên nhà nước.

20. Thái Sơn Thạch Cảm Đương

Đây là Vật Hóa Sát khá phổ biến trong Phong Thủy, nhất là ngoài miền Bắc. Theo truyền thuyết thì ngày xưa ở núi Thái có 1 vị đạo sĩ tên Thạch Cảm Đương, ông nhờ tài giỏi đã đánh đuổi được yêu quái chuyên quấy nhiễu các khuê nữ, nên người ta mới dùng tên ông khắc vào đá để trấn yêu, trừ tà.

Vật phẩm này thường có những dạng: 1 miếng đống khắc 5 chữ đó và thêm 1 đầu Hổ(thường thấy nhất là dạng trên gương Bát Quái đồng), 1 con Long Quy chở trên lưng tấm bia khắc 5 chữ này, 2 con Kỳ Lân ngồi trấn 2 bên bảo vệ 1 tấm bia khắc 5 chữ này( thường thấy nhất).

Ngoài việc trừ tà ma vào nhà khuấy phá, Vật Phẩm này còn được dùng để trấn Thương Sát lớn(giống như đồ vật chưng trên tủ hướng ra cửa, không phải treo Bát Quái, cho những ai ngại treo Bát Quái), Thiên Kiều Sát.

21. Cóc 3 chân và Lưu Hải Tiên Nhân

Theo truyền thuyết đây là 1 con yêu quái, được Tiên Nhân Lưu Hải thu phục và ông cũng được liệt vào trong 1 số các vị Tiên mang tài lộc đến cho dân gian. Thường thấy nhất là hình tượng cóc 3 chân dẫm lên trên các đồng tiền, cũng có loại cóc 3 chân ngồi trên 1 đế Bát Quái có tấm liễn Tài Nguyên Quảng Tấn phía trước, có loại bằng bột đá, có loại bằng đồng. Nhưng bằng đồng là hay nhất, vì khi đặt nó ở tài vị sẽ thích hơn. Bởi trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa thường phải đầy đủ Ngũ Hành, mà cóc 3 chân bằng đồng là mang hành Kim rồi.

Lưu Hải Tiên Nhân là vị tiên thu phục cóc 3 chân. Hình tượng của ông là 1 vị tiên 1 tay cầm sợi dây trói con cóc 3 chân, mà dây này đầu kia là 1 xâu tiền. Còn 1 hình tượng khác của ông là cầm Vật Phẩm, dùng để trừ tà, nhưng sau lưng ông cũng có 1 xâu tiền hàm ý Chiêu Tài.

Cóc 3 chân và tượng Lưu Hải Tiên Nhân thường đặt ở phương tài vị trong nhà. Cóc 3 chân còn thường được đặt trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa với mặt cóc quay vào. Ngoài ra, cóc 3 chân còn được đặt ở cá góc trong nhà (đầu quay vào). Điều này được giải thích là vì bản chất của cóc thích ở chui vào các góc, xó trong nhà nên đặt ở vị trí này với hàm ý cóc về nhà cất giấu của cải, tiền bạc.

22. Thuyền Chở Vàng

Hình tượng này cũng là ngụ ý sự kích hoạt tài lộc trong nhà. Chiếc thuyền buồm thường thấy được chất đầy thỏi vàng, trên cánh buồm viết 4 chữ Nhất Phàm Phong Thuận (1 chiếc thuyền buồm thuận gió) hay 4 chữ Tiền Trình Dĩ Cẩm (tương lai đẹp như gấm). Có thể là loại thuyền buồm bằng gỗ, có thể là loại bằng đồng. Nhưng nếu mua dạng thuyền gỗ theo kiểu thuyền buôn cổ Trung Hoa mới là chuẩn tắc.

Vật này mang hàm ý như có 1 chiếc tàu chở đầy vàng chạy vào nhà, vào nơi làm ăn của mình, đem lại lợi lộc, của cải. Khi bài trí vật phẩm này, nên để mũi thuyền quay vào nhà. Nó rất thích hợp với những người làm kinh doanh và thường được bày ở các cửa hàng, nơi buôn bán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P2) –

Những điều nên và không nên khi thiết kế phòng bếp

Khi nói đến phong thủy nhà bếp thì chúng ta nghĩ ngay tới vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc làm ăn cũng như bệnh tật của gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cach thiet ke, bo tri phong bep

Những điều nên và không nên khi thiết kế phòng bếp

Việc bày biện căn bếp quyết định đến sự thịnh vượng và nguồn tài lộc của gia đình.

Việc đặt bếp theo phong thủy không quá khó, nếu bạn nắm được những bí quyết sau:

- Theo đó, bạn không nên đặt bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh. Vì nhà vệ sinh là nơi có chứa nhiều vi trùng có hại rất dễ lây bệnh cho người qua đường ăn uống.

- Hướng cho bếp phải hợp với cung bổn mạng, toạ hung mà hướng cát. Hỏa môn (cửa bếp) cần xem ngày tốt và đặt ở hướng lành vừa trấn áp được khí hung vừa hút được khí lành. Nó sẽ giúp cho tài lộc của gia chủ hưng vượng.

- Bếp cũng không nên đặt hướng sát so với nhà. Bếp đặt ở hướng sát thường làm thận suy, mắt kém, bị bệnh huyết áp hay bị phong tà gây lở ngứa.

- Không nên đặt bếp đối diện nhà vệ sinh. Nếu vì không thể bố trí được bạn nên dùng mành che để hóa giải

- Nếu nhà bạn ở hướng Đông thì sát ở cung Thân, nhà hướng Tây thì sát ở cung Tỵ, hướng Nam thì sát ở cung Hợi, hướng Bắc thì sát ở cung Thìn, hướng Đông-nam thì sát ở cung Dậu, Tây bắc thì sát ở cung ngọ…

- Nên nhớ tránh đặt bếp gần phòng ngủ hoặc đối diện với phòng ngủ. Bếp là nơi nấu nướng, thường xuyên sinh nhiệt. Khi đun nấu, khói dầu mỡ sinh ra từ bếp rất độc hại, không tiện để gia chủ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Cũng không nên đặt ở góc tường hoặc góc nhọn, ngoài trường hợp bất khả kháng.

- Muốn thức ăn nấu ra luôn ngon thì bạn nên đặt bếp ở hướng Thiên Y, tất nhiên là có phần đóng góp của tay nghề nấu nướng của các nội tướng. Đặc biệt, đặt bếp theo hướng này có lợi cho sản phụ.

- Đặt bếp ở hướng Thiên Y rất tốt cho sản phụ.

- Bạn cũng cần tránh đặt bếp ngay dưới xà ngang. Bởi xà ngang áp trên bếp chủ hao tài tốn của. Vị trí gian bếp nên đảm bảo ánh sáng hài hoà, tránh bị quá ẩm thấp, tối tăm, phải có cửa thông gió, khử mùi để không khí lưu thông.

- Theo phong thủy, thế bếp còn phải tránh gió, tránh những nơi có đường đi nếu không gia chủ sẽ gặp bất lợi về tài lộc. Bếp cần được đặt ở cung tương hợp và cung sơn chủ (mặt hậu của nhà) nên phải được đặt ở vị trí trong cùng của nhà. Cửa vào bếp phải tương hợp với nơi đặt bếp thì tài lộc của gia chủ sẽ phát, gia đình thịnh vượng.

- Đặt bếp ở nơi có đường đi gây bất lợi về đường tài lộc cho gia chủ.

- Màu sắc gian bếp phải hài hoà. Dưới bếp không nên để đọng nước. Bởi thủy hoả đạo tặc, nước để đọng dưới bếp khiến cho gia chủ dễ mắc bệnh thần kinh, khí huyết, bị rối loạn tâm lý, đặc biệt không tốt cho nhà có phụ nữ mang thai. Nếu bạn chưa có em bé thì đường con cái rất khó khăn dù cả hai không hề mắc bệnh gì về vấn đề sinh sản.

- Nhà bếp không thông thoáng, động nước gây ra nhiều bệnh tật cho gia chủ.

- Bếp cũng không nên đặt trên giếng nước, hầm rút. Đặt bếp ở những vị trí này gia chủ và người thân thường hay ốm đau, thường mất hoà khí trong nhà.

- Trong những ngôi nhà hiện đại, bếp thường kết hợp cùng máy hút khói, bồn rửa chén. Bạn cần đặt máy hút khói ngay trên bếp. Còn bồn rửa chén thì không được cao hơn bếp, cách xa nơi đỏ lửa ít nhất 60 cm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều nên và không nên khi thiết kế phòng bếp

Thiết kế nhà vệ sinh như thế nào?

Một số điều quan trọng trong việc thiết kế nhà vệ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà vệ sinh nên ẩn sâu bên trong

Trong dương trạch, nhà vệ sinh là không gian tiềm ẩn nhiều khí dơ bẩn. Nếu nó được đặt ở những vị trí không thích hợp, nhưng luồn khí dơ bẩn, ô nhiễm này sẽ xâm nhập vào các phòng khác trong căn nhà, từ đó uy hiếp sức khỏe của mọi người, đồng thời, còn ảnh hưởng lớn tới vận thế của ngôi nhà. Ví dụ có người xây nhà vệ sinh ở ngay vị trí trung tâm ngôi nhà, như vậy đã phạm vào điều tối kỵ của phong thủy “uế khí nhập trung cung”.

Theo quan điểm của khoa học phong thủy thì phòng vệ sinh cần ẩn sâu bên trong, tức là phía cuối cùng của ngôi nhà mới là vị trí tốt nhất. Chỉ như vậy mới tránh được những ảnh hưởng của khí trong nhà vệ sinh tổn hại đến sưc khỏe của mỗi người trong căn nhà. Đồng thời tránh được những bất lợi đối với vận thế của nhà ở do nhà vệ sinh không phù hợp gây ra.

Vị trí tốt nhất cho nhà vệ sinh

Thông thường, phương vị lý tưởng nhất cho phòng vệ sinh chính là phía Đông và phía Đông Nam của ngôi nhà. Vì ngũ hành hai phương vị này thuộc Mộc, còn nhà vệ sinh thuộc Thủy, Thủy có thể sinh Mộc. Có nghĩa là Thủy của phòng vệ sinh có thể làm sinh vượng hành Mộc ở phương vị Đông và Đông Nam.

Ngoài ra, phía Đông và Đông Nam là hai phương vị hướng dương. Điều này rất có lợi cho việc giữ gìn một bầu không khí thông thoáng, khô ráo cho nhà vệ sinh. Nhưng có một điều rằng, bồn cầu xả nước hay tắm giặt thì dòng nước chảy đều hướng xuống. Còn cây mọc hướng lên, vì thế tốt nhất trong nhà vệ sinh nên trồng những loại cây cao để tăng cường năng lượng hành Mộc.

Phong thủy bát trạch, Dương cơ thì cho rằng nhà vệ sinh nên ở các phương vị hung trong căn nhà, so với quái mệnh. Tức là các phương vị so với quái mệnh nó tạo ra các trạng thái, Ngũ quỷ, Lục sát, Họa hại, Tuyệt mệnh. Các nhà phong thủy của các phái này cho rằng, nhà vệ sinh, chuồng gia súc (nếu là nhà ở nông thôn) thì ở phương vị hung, bởi vì uế khí dơ trọc của nó có thể trấn áp hung khí, mang lại sự bình yên cho các thành viên trong ngôi nhà.

Thông gió, khô thoáng là yêu cầu then chốt

Trong ngũ hành, nhà vệ sinh thuộc Thủy, nước chính là yếu tố quan trong nhất ở đó. Thông thường, nếu nước quá nhiều thì khí ẩm ướt cũng sinh ra nhiều. Vì thế không khí trong phòng vệ sinh rất ẩm thấp. Theo nghiên cứu của khoa học, nếu hơi nước tích tụ nhiều trong phòng vệ sinh, không bay hơi được thì sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và vận thế của con người trên mọi phương diện. Vì thế cần phải giữ gìn phòng vệ sinh thông thoáng, mát mẻ. Trong tình hình này, cửa sổ là rất cần thiết.

Cửa sổ phòng vệ sinh không nên quá lớn, bình thường, nên thường xuyên mở ra. Ngoài ra, nếu có thể bày chậu cây xanh hoặc treo tranh thích hợp thì hiệu ứng phong thủy mà nó sinh ra càng rõ rệt hơn. Có gia đình lắp máy hút gió trong phòng vệ sinh, thực ra cách này là hoán đổi không khí này trái với nguyên lý âm dương trong phong thủy, vì thế để nâng cao sức khỏe và trạch vận, tốt nhất không nên lắp máy hút gió trong phòng vệ sinh.

Cửa nhà vệ sinh không nên đối diện với bất cứ cửa phòng nào

Nhà vệ sinh là nơi chứa nhiều uế khí, nên nó không thích hợp để đối diện với bất cứ cửa phòng nào trong nhà. Kết cấu, cửa đối cửa cũng là một điều kiêng kị trong phong thủy học. Vì vậy, cửa mỗi phòng trong nhà phải đặt so le nhau một cách có trật tự. Đặc biệt, nhà vệ sinh là nơi chưa nhiều khí ẩm ướt và mùi hôi, lại càng không thể đối diện với cửa phòng nào trong nhà.

Cửa chính của ngôi nhà chính là con đường liên kết và giữa bên trong và bên ngoài căn nhà, là nơi sinh khí đươc hút vào nhà. Một luồng sinh khí được lưu thông nhẹ nhàng trong nhà mới giúp cho việc nâng cao vận khí. Nhà vệ sinh đối diện với cửa chính, chẳng khác nào khi vừa bước vào nhà đã phải đối diện với những mùi khó chịu từ nhà vệ sinh, và đương nhiên sẽ gây nhiều cảm giác khó chịu, ức chế về tâm lý cho con người. Điều này không chỉ không phù hợp với tâm lý học, sinh học mà còn đi ngược lại với phong thủy, vì vậy trong quá trình thiết kế, xây dựng cần phải lưu tâm điều kiện trên. Ngoài ra, nhà vệ sinh không nên sát nhà bếp, điều này gây ảnh hưởng rất lớn tới phong thủy nhà bếp cũng như phong thủy chung của ngôi nhà.

                                   Những đại kị trong phong thủy nhà vệ sinh

Nhà vệ sinh bừa bãi là điều đại kỵ

Nhiều người có thói quen bỏ những đồ đạc không dùng đến vào phòng vệ sinh. Cách làm này không phù hợp với phong thủy.

Đối với nhà vệ sinh nên được bày đơn giản là tốt nhất. Thông thường chỉ để trong đó những vật dụng cần thiết là được. Vốn dĩ nhà vệ sinh đã sinh ra nhiều mùi khó chịu nên việc lưu thông không khí là vô cùng quan trọng. Nếu bên trong bày quá nhiều đồ đạc lộn xộn, chắc chắc sẽ ảnh hưởng đến nguyên tắc này. Nhà vệ sinh chất đồ đạc lộn xộn cũng đi kèm với mất vệ sinh. Đây chính là một điều đại kị trong phong thủy.

Lựa chọn màu sắc thuộc Thủy

Lựa chọn màu sắc đa dạng để trang trí phòng vệ sinh sẽ thể hiện được phong cách và cá tính của người sử dụng. Nhưng bạn cần chú ý, lựa chọn và phối hợp màu sắc trong nhà vệ sinh, nhất định phải phù hợp với yêu cầu của phong thủy, nếu không nó sẽ không mang lại vận thế tốt chó gia đình bạn.

Trong ngũ hành, nhà vệ sinh thuộc Thủy, mà Kim có thể sinh Thủy vì thể nên dùng màu đen, màu lam thuộc Thủy hoặc màu trắng, màu bạc thuộc Kim để trang trí trong phòng vệ sinh. Ở đây kỵ những màu quá chói như màu đỏ, màu tím đậm…vì những màu này sẽ khiến tâm trạng con người cảm thấy bức bối, khó chịu và áp lực.

Khi trang trí phòng vệ sinh, bạn không nên coi thường tác dụng của màu sắc. Nếu đơn thuần chỉ là sở thích của bản thân để chọn lựa, rất có khả năng sẽ không phù hợp mà ảnh hưởng đến sức khỏe. Ví dụ dùng màu đỏ, màu vàng trang trí trong phòng vệ sinh thì có thể sẽ khiến người trong gia đình bị bệnh tật quấy nhiễu.

Không được để bồn cầu làm hỏng vận khí của bạn

Bồn cầu là đồ dùng quan trọng nhất trong phòng vệ sinh, vị trí và bố cục của nó có ảnh hưởng tới vận thế của ngôi nhà ở một phạm vi nhất định.

Trong phong thủy học, bồn cầu không được đối diện với cửa chính hơn nữa càng xa cửa chính càng tốt. Chỉ có như vậy vận khí tốt của bạn mới không bị đuổi đi. Cho nên bồn cầu có vị trí không tốt, cần phải thay đổi. Ví dụ khi không dùng đến phải đóng nắp lại. Đây là một việc rất dễ dàng, nên có thể gọi là phương pháp cải vận theo phong thủy. đơn giản nhất. Ngoài ra, bạn có thể đặt bình phong hoặc treo rèm cửa ở vị trí thích hợp để che vị trí không tốt của bồn cầu.

Ánh sáng dịu nhẹ, sáng sủa

Ánh sáng trong nhà vệ sinh ở mức độ dịu nhẹ mới tốt. Thông thường, ánh sáng trắng là sự lựa chọn tuyệt vời nhất cho nhà vệ sinh. Nếu cần thiết, bên cạnh gương soi vẫn có thể phối hợp với bóng đèn chiếu sáng riêng. Tổ hợp ánh sáng như vậy sẽ khiến con người có cảm giác ấm áp, tươi mới. Ngoài ra, khi lựa chọn đèn, tốt nhất bạn nên chọn những sản phẩm có tính chống thấm và độ an toàn cao. Về tạo hình đèn trang trí, không nên vì muốn theo đuổi cảm giác mới lạ và thẩm mỹ chọn những loại đèn có hình dáng phức tạp, nên chọn những loại có hình dạng đơn giản là thích hợp.

Không nên để đầu bóng điện phơi ra ngoài vì không khí trong phòng rất ẩm thấp, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người.

Nên bày chậu cảnh trang trí

Trong tự nhiên cây xanh có tác dụng hóa giải sát khí, tiêu trừ các loại khí độc rất tốt. Nhà vệ sinh có tác dụng quan trọng và đặc thù, bên cạnh đó lượng uế khí tích tụ trong đó rất nhiều. Vì thế nó là nơi dễ sinh sát khí nhất. Bởi vậy, đặt một chậu cây thích hợp bên trong nhà vệ sinh chính là phương pháp hóa giải sát khí mạnh mẽ.

Trong ngũ hành, nhà vệ sinh thuộc Thủy, vì vậy bày cây xanh trong đó được coi là một sự lựa chọn hoàn hảo nhất. Vì Thủy có thể sinh Mộc, cây xanh hút khí độc, lượng hơi nước dư thừa trong phòng vệ sinh, nhả ô xy trả lại làm trong lành môi trường, hút hơi nước giữ gìn cho căn phòng khô ráo, thoáng mát. Không những thế nó còn có thể cải thiện môi trường, lưu thông trường khí, cải thiện vận may…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiết kế nhà vệ sinh như thế nào?

Phụ nữ mang thai có nên đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh

Đó là một trong những thắc mắc thường thấy về những điều kiêng kị phong thủy khi đi tảo mộ trong tết Thanh Minh. Cùng ## tìm hiểu rõ
Phụ nữ mang thai có nên đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Đó là một trong những thắc mắc thường thấy về những điều kiêng kị phong thủy khi đi tảo mộ tết Thanh Minh. Cùng ## tìm hiểu rõ phong tục này.


1. Phụ nữ mang thai không nên đi tảo mộ


Nơi tảo mộ có âm khí nặng, sẽ ảnh hưởng không tốt tới phụ nữ mang thai. Bên cạnh đó, việc đi tảo mộ thường rất đông đúc, khó tránh tình trạng va chạm nhẹ, vì an toàn của thai phụ và thai nhi, tốt hơn hết nên tránh việc đi tảo mộ.

tao mo kk1
 
2. Không nên chụp ảnh khi tảo mộ


Mục đích đi tảo mộ là để lễ tạ tổ tiên, không phải là trò đùa. Có thờ có kiêng, có thiêng có lành, khi đi tảo mộ, cần thể hiện thái độ tôn kính với người đã khuất, không nên chụp ảnh tập thể, thậm chí ảnh quang cảnh quanh đó cũng không được, kẻo sẽ nhiễm trường khí không tốt, gây mất cân bằng âm dương, ảnh hưởng xấu tới vận thế của mỗi người.

3. Sức khỏe yếu không nên đi tảo mộ


Nếu đang mắc bệnh hoặc cơ thể suy nhược, tốt nhất bạn không nên cùng người nhà đi tảo mộ. Bởi khi sức khỏe suy yếu kéo theo vận thế cũng ảm đạm, dễ thu hút sự xui xẻo, hỉ khí giảm sút, nhân khí khuyết thiếu, bệnh càng thêm nghiêm trọng.

tao mo kk2
 
4. Cỏ dại mọc ở phía đầu phần mộ, cần phải loại bỏ


Khi đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh, nếu thấy phần đầu mộ (chỗ đặt bia mộ) có cỏ dại mọc, cần phải loại bỏ, dọn dẹp sạch sẽ.

Bản thân từ “tảo mộ” cũng mang hàm ý dọn dẹp những vật gây bất lợi cho mộ phần tổ tiên. Phía đầu bia mộ mà bẩn, nhiều cỏ dại mọc cũng ảnh hưởng không tốt tới vận khí, sức khỏe của con cháu đời sau.

7 thực phẩm dưỡng da, làm đẹp nên dùng trong tiết Thanh Minh
Mùa xuân trong tiết Thanh Minh là thời điểm tốt nhất để dưỡng khí huyết, không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn đẹp da, tăng cường nhan sắc. Dưới
5. Kị đùa cợt, mắng chửi, phỉ báng người đã khuất


Không ít gia đình mang cả con, cháu nhỏ đi tảo mộ cùng. Lúc đầu không khí khá trang nghiêm, nhưng khi gần kết thúc quá trình tảo mộ thì lại đùa cợt hay tranh giành, mắng cãi chửi nhau. Điều đó thể hiện sự bất kính, làm phiền tới âm linh người đã khuất, nói xa hơn, có thể bị báo ứng.

Ngoài ra, nên nhớ, không được có những hành động phỉ báng người đã khuất như dẫm đạp lên mộ phần, đá đồ cúng trên mộ... Điều đó sẽ mang lại điều không may mắn cho bản thân.

6. Thời gian tảo mộ

Nên đi tảo mộ vào thời điểm mà dương khí khá vượng, từ 9h sáng tới khoảng trước 3h chiều. Lúc trước 9h sáng và sau 3h chiều, âm khí dần tăng lên, không tốt cho những ai đang có vận khí xấu hay sức khỏe suy giảm.

Hoàng Lam

Cách hóa giải đơn giản quan hệ tương khắc trong các cặp con giáp
– Đôi khi mối quan hệ tương khắc gây ra không ít phiền toái cho chính bạn và những người xung quanh. Nếu muốn hóa giải các mâu thuẫn, giúp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ mang thai có nên đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh

thế nào là huyệt nhũ

Huyệt nhũ còn gọi là “huyệt huyền nhũ”, “huyệt vú” là 1 trong 4 loại huyệt cơ bản: oa, kiềm, nhũ, đột. Hai cánh tay huyệt vươn dài, ở giữa nhô ra như 2 cái vú.
thế nào là huyệt nhũ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyệt có vú gọi là huyệt nhũ, huyệt không có vú gọi là huyệt oa.

the nao la huyet nhu hinh anh
Ảnh minh họa

Theo sách “Địa lý nhân tử nên biết”: “Huyệt nhũ có 2 cánh tay giữa lồi ra như cái vú là chính huyệt. Vùng núi và đồng bằng đều có. Huyệt nhũ phân thành 6 loại: 4 loại chính là huyệt vú dài, huyệt vú ngắn, huyệt vú to, huyệt vú nhỏ; 2 loại biến cách là huyệt song nhũ, huyệt tam nhũ”.

Huyệt nhũ là huyệt âm thụ nên chôn sâu. Hai tay huyệt giang rộng, không nên bị cụt gãy nếu không sẽ mất hết khí tụ. Huyệt nhũ sợ nhất gió thổi. Nếu gió thổi vào huyệt, người ở đây sẽ tuyệt diệt. Thế huyệt nên thấp để tránh gió nhưng cũng không được quá thấp. Nếu huyệt ở thế này thì không có nhân nhục (chỉ đất chiếu đệm), huyệt bất cát.

Hình của huyệt nhũ ngay ngắn, thanh tú thì chủ nhân hưng vượng. Nếu dốc, nghiêng, lệch, thô, ác đều là huyệt giả hình hùng. Nếu huyệt nhũ giả, lưng như kiếm, chân lệch, thế dốc nghiêng, thô, phì, gia chủ và con cháu gặp họa lâu dài.

Theo Bí ẩn thời vận

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: thế nào là huyệt nhũ

Hình xăm truyền thần đẹp –

Xăm truyền thần hay xăm hình chân dung chỉ mới rộ lên ở Việt Nam một, hai năm gần đây, trong khi đó nó đã có mặt ở trên thế giới vài chục năm trước. Trên thế giới, hình xăm truyền thần rất đa dạng từ đối tượng đến hình xăm. Đó có thể là một bà mẹ xăm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lên vai bức hình đứa con mới chào đời, hay một thanh niên xăm hình người anh trai lên ngực. Ở Việt Nam, người đến xăm chân dung đa phần vẫn là những bạn trẻ cá tính muốn thể hiện tình cảm với người mình yêu thương một cách khác biệt.

149978_499979660630_114205395630_7828165_4426400_n

Nhiều người trong nghề xăm nói vui, nếu gọi xăm là một nghệ thuật thì xăm “truyền thần” là nghệ thuật của nghệ thuật. Một hình xăm truyền thần đòi hỏi rất nhiều thời gian và công đoạn. Mỗi thao tác của thợ phải hết sức tỉ mỉ và tinh tế mới có thể đi được chuẩn xác đường nét, thần thái của nhân vật trong bức ảnh khách mang tới.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình xăm truyền thần đẹp –

Vợ chồng tuổi này kết hôn thì dẫu sông cạn đá mòn vẫn cứ sắt son

Do hợp nhau về tính cách, lối sống, lại có duyên có phận nên những cặp con giáp này khi kết đôi sẽ chung sống vô cùng hạnh phúc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý và tuổi Sửu Người tuổi Tý có tính cách linh hoạt, năng động, làm việc tích cực, còn người tuổi Sửu lại chân thành, đôn hậu. nỗ lực, chăm chỉ trong công việc. Khi người thông minh, lanh lẹ như tuổi Tý kết hợp với người tuổi Sửu chân thật, chất phác, mọi chuyện sẽ diễn ra suôn sẻ và thành công mỹ mãn. Ngoài ra, sự kết hợp giữa trí cầu tiến và tinh thần trách nhiệm cao giữa hai tuổi này sẽ tạo nên hiệu quả cực tốt trong công việc. Tính cách cả hai bổ sung cho nhau, bù đắp và hoàn thiện những điểm còn thiếu sót của nhau.

Tuổi Mùi và tuổi Hợi Cặp đôi con giáp này đứng đầu về độ lạc quan. Nếu hai con giáp này kết hôn với nhau, thường thì cuộc sống hôn nhân rất yên ấm, hòa thuận. Những người sinh vào tuổi Mùi là người rất ôn hòa, hiền lành, rất ít khi phải nổi nóng. Họ là người biết tính toán, lên kế hoạch, đặt mục tiêu cho tương lai.

Còn người tuổi Hợi luôn lạc quan và nhìn thấy những điều tích cực,tươi đẹp dẫu trong khó khăn, họ rất khéo léo tạo nên niềm vui cho cuộc sống của mình. Người tuổi Hợi không đòi hỏi vật chất, họ có thể hài lòng với cuộc sống giản dị, bình yên miễn là hạnh phúc. Đôi khi người tuổi Hơi sẽ là chỗ dựa, trấn an những lúc đối phương yếu lòng, lo lắng về cuộc sống tương lai. Nhìn chung, hai con giáp này kết hợp với nhau sẽ sống hòa thuận và thỏa mãn, hài lòng với những gì mình đang có.

Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa

Tuổi Tỵ và tuổi Dậu Người tuổi Tỵ có cách tư duy nhạy bén, làm việc nhiệt tình và hăng say sẽ hỗ trợ đắc lực cho tính cương trực, thẳng thắn đôi khi làm mất lòng người khác của tuổi Dậu. Hơn thế, người tuổi Tỵ làm việc gì cũng chuyên tâm, không dễ bị lay động bởi các tác nhân bên ngoài. Người tuổi Dậu lại có tự tin vươn lên trong cuộc sống, như tiếp thêm động lực cho người tuổi Tỵ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa.

Trong chuyện tình cảm, hai người tuổi này như sự bù trừ cho nhau, nói chung, tuổi Tỵ và tuổi Dậu cực kỳ hợp trong tình duyên, đảm bảo sẽ gắn bó keo sơn cả cuộc đời.

Tuổi Dần và tuổi Thìn Người tuổi Dần nhiệt tình, phóng khoáng, khí phách hiên ngang, dám làm dám chịu, lúc nào cũng tràn đầy năng lượng. Người tuổi Thìn lại có con mắt tinh tường, quyết đoán và có tầm nhìn sâu rộng về tương lai. Nếu hai con giáp này kết đôi, mọi việc sẽ “thuận buồm xuôi gió”. Ngoài ra, tính cách bao dung và độ lượng của người tuổi Thìn sẽ kiềm chế được tính nôn nóng của người tuổi Dần. Ngược lại, người tuổi Dần cũng sẽ dung hòa lối sống lý tưởng hóa mọi chuyện của người tuổi Thìn bằng cái nhìn thực tế, nhạy bén hơn của họ.

Theo Khỏe và Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ chồng tuổi này kết hôn thì dẫu sông cạn đá mòn vẫn cứ sắt son

Người Chăm yểm kho báu trên đảo Lý Sơn

Những dấu tích của vua Lê ở Lý Sơn (Quảng Ngãi) dù không nhiều nhưng có nhiều nét độc đáo, đặc biệt là nằm trong sự xâu chuỗi mối quan hệ với người Chăm. Câu
Người Chăm yểm kho báu trên đảo Lý Sơn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chuyện về kho báu bị yểm bùa của người Chăm (hay còn gọi là người Hời) vẫn còn như tươi mới trong tâm trí nhiều bậc cao niên nơi đây.

Nguoi Cham yem kho bau tren dao Ly Son hinh anh
Núi Hòn Tươi - nơi được cho là cất giấu kho báu của người Chăm ở Lý Sơn

Ông Trần Hữu Hoài (năm nay 86 tuổi) cho biết: “Tôi sinh sống ở Lý Sơn này đã mấy chục năm rồi. Ngày mới ra đây, khắp nơi đều bàn tán về những người thuộc quý tộc của thời đại Chiêm Thành. Theo cha tôi kể lại thì lượng người Chăm lúc đó ra đảo Lý Sơn khoảng chừng vài ngàn người thôi. Nhưng họ mang theo rất nhiều của cải, có cả những bức tượng được đúc bằng vàng thỏi nữa.
 
Tuy nhiên, sau khi từ đảo dần dần bỏ vào đất liền thì họ có mang theo các châu báu ở đó hay không thì không biết. Thời đoạn nhiễu nhương nên rất có thể họ vẫn còn chôn giấu ở lại nhưng vẫn chưa ai lần ra dấu tích”. Và cũng có thể, những bức tượng vàng ngụy trang bằng gốm cùng với lời nguyền trấn yểm của người Chăm đã được lập nên. 
 
Song song với đó là dấu tích của nền văn hóa Chăm-pa vẫn còn in đậm trong nhà trưng bày truyền thống cũng như các vật thể là biểu tượng ở các đảo nhỏ trên đảo Lý Sơn. Như vậy là đã rõ, người Chăm từng lưu dấu ở đây, trong đó có nhiều người thuộc dòng tộc Chiêm Thành.
 
Ông Trần Văn Tùng, một người nắm chuyện liên quan đến văn hóa hình thành huyện đảo Lý Sơn cho biết: “Tôi đã dày công nghiên cứu nhiều năm nhưng vẫn chưa chứng minh được có bao nhiêu người trong cung cấm của triều đại Chiêm Thành lưu lạc về đây. Tuy nhiên, một địa điểm được cho là người Chăm đã cất giấu kho báu khổng lồ của mình ở đó là thuộc núi Hòn Tươi (xã An Hải).
 
Ngọn núi này, nhiều năm trước một số người dân đến đó chơi và cũng định có mưu đồ đào bới nhưng đều bất thành. Nghe kể lại, nhìn nó thì giống hệt quả núi đất đỏ nhưng cứ phập cuốc xuống là lại tóe lửa lên, không sao đào xới nổi. Mà những người đi đào bới về đều bị đau nhức chân tay, phải mang lễ vật ra đó cầu cúng mấy ngày liền mới khỏi được”.
 
Xác nhận thêm điều này, bà Nguyễn Thị Huệ cho biết thêm: “Cũng không ai biết người Chăm giấu gì dưới đó nhưng không ai phủ nhận được rằng họ rời đảo nhưng không mang theo châu báu. Vậy thì châu báu đó đang ở đâu? Có người mang tâm địa xấu, cứ đến chân ngọn núi đó lại bỗng dưng nghe trong đầu vang lên tiếng ong ong và đau như búa bổ, phải quay về và từ bỏ ý định ngay”.
 
Bà Huệ cũng đồ rằng có thể chính người Chăm đã có cách yểm bùa nào đó nên không ai có thể xâm phạm được ngọn núi này. Trong các bài yểm của người Chăm mà bà Huệ nghe lỏm được từng có đoạn: hỡi thần thánh Po Glai hãy về nhận những châu báu của tín đồ gửi ngài, hãy để nó lưu cửu, hãy trường tồn cùng những việc tốt, hãy để mãi là trang sức lộng lẫy của ngài, đừng cho ai lấy đi cả.
 
Bà Huệ còn bộc bạch cho chúng tôi biết rằng nếu những người ăn ở phúc hậu và thường xuyên đến đây nhang khói, trong lòng tuyệt nhiên không có sự phân biệt hay kỳ thị với người Chăm thì có khi bỗng nhiên nhặt được vàng giữa đường.
 
Câu chuyện của bà Huệ chẳng biết thực hư đến đâu nhưng ông Nguyễn Dự, Chủ tịch HĐND xã An Hải cũng cho biết rằng: “Chưa chứng minh được đâu nhưng bản thân tôi cũng thấy ngọn núi của người Chăm từng sống đó có vẻ linh thiêng đấy. Và, việc người dân sau khi ra núi đó khẩn cầu và nhặt được vàng ở đường là có thật. Nhưng đây chỉ là trường hợp hy hữu và có thể cũng chỉ là một sự tình cờ mà thôi”.
 
Xung quanh lời yểm bùa về ngọn núi này, những bậc cao niên ở đây cũng truyền tụng nhau một cách đầy huyền bí. Họ cho rằng trước khi đọc những lời yểm bùa đó, những người Chăm tiến hành thắp hương và chôn theo của cải châu báu cho một trinh nữ vừa tròn 18 tuổi chưa hề biết đến chuyện yêu đương.
 
Hình dáng người trinh nữ đó được đặt nằm ngửa, tay trinh nữ này cầm một con dao nhỏ. Sau đó làm dấu bằng cách trồng một cây da để tăng phần linh thiêng và có sức chống chọi trước mọi sự xâm phạm. Đặc biệt, cây da này không ai có thể chặt được. Dù thời gian có trôi chảy qua bao nhiêu năm nhưng chỉ việc đo cái bóng cây vào một khung giờ đã tiên liệu rồi đào ngay vị trí đó là đúng nơi cất giấu vàng.
 
Đem câu chuyện đầy huyền bí này hỏi ông Đạo Văn Tuấn, một người Chăm chính hiệu. Tuy nhiên, ông Tuấn cũng thừa nhận có những phong tục, nhất là các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng của người Chăm xưa kia khác bây giờ nhiều nên lớp sau như chúng tôi cũng không nắm rõ được.
 
Nhiều người dân trên đảo còn cho rằng, nếu ai có miệt mài tìm kiếm mà may mắn biết chỗ giấu vàng nhưng cũng không tài nào đào được. Họ truyền tai nhau rằng, nhiều người cố đốn hạ những cây da làm dấu để tìm vàng thì thấy từ vết thương của cây chảy ra máu. Còn những kẻ động tay, động chân chắc chắn sẽ bị bệnh tật hoặc chết bất đắc kỳ tử.
 
Bà Huệ còn quả quyết rằng: “Một thời gian dài trước, thỉnh thoảng chúng tôi còn thấy người Chăm ra đảo trong vai người bán thuốc dạo. Sau khi họ về lại đất liền thì có một vài cây da bị chết khô không rõ nguyên nhân. Có thể họ ra đào lấy lại tài sản của ông cha mình, đó là nơi các cây da bị chết”.
 
Bà Trần Thị Hậu, người từng mơ thấy vàng sống lượn quanh ngọn núi người Chăm từng ở cho biết thêm: “Có thể đó chỉ là ảo giác. Nhưng chúng tôi chạy theo mãi mà không tài nào bắt được. Đặc biệt, thứ vàng này cứ giống như ma trơi và không phải ai cũng có thể thấy được”. Nhà sử học Trần Văn Liệu cho rằng để lý giải được những điều kì bí này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của những nghiên cứu văn hóa Chăm từ thời đại Chiêm Thành cùng các cứ liệu và phong tục mới hiện nay. Khi mà chưa chứng minh được rõ ràng thì tất nhiên những câu chuyện huyền bí này vẫn còn gọi mở cho nhiều người sự hoài nghi.      
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người Chăm yểm kho báu trên đảo Lý Sơn

Những hiểu lầm thường gặp về tứ hành xung –

Tứ hành xung là gì? Người xưa lấy các con vật gần gũi với cuộc sống nhà nông để lập ra 12 con giáp, rồi dựa trên tập quán sinh hoạt của nó để đặt ra địa chi. Ví dụ như chuột thường phá vào ban đêm thì đặt giờ Tý, gà hoạt động giờ Ngọ... rồi từ đó đặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tứ hành xung là gì?

Người xưa lấy các con vật gần gũi với cuộc sống nhà nông để lập ra 12 con giáp, rồi dựa trên tập quán sinh hoạt của nó để đặt ra địa chi. Ví dụ như chuột thường phá vào ban đêm thì đặt giờ Tý, gà hoạt động giờ Ngọ… rồi từ đó đặt lần lượt thành 12 năm. Trong Tứ hành xung, các con vật khắc nhau, hay ăn thịt nhau thường được cho vào một nhóm. Những người trong cùng Tứ hành xung thường hay có tính cách nổi bật khác nhau, khắc khẩu hay khó cùng sở thích.

– Nhóm thứ nhất: Dần – Thân – Tỵ – Hợi

Trong bốn con giáp, Dần ứng với hành Mộc; Thân ứng với hành Kim, Hợi ứng với hành Thủy và Tị ứng với hành Hỏa. Theo ngũ hành thì Dần khắc chế Thân. Tỵ khắc chế Hợi.

– Nhóm thứ hai: Thìn – Tuất – Sửu – Mùi

Trong nhóm, Thìn khắc chế và kị Tuất. Sửu khắc chế Mùi. Còn Thìn chỉ xung với Sửu, Mùi. Tuất chỉ xung với Sửu và Mùi.

– Nhóm thứ ba: Tý – Ngọ – Mão – Dậu

Mão ứng với hành Mộc, Dậu ứng với hành Kim, Tý ứng với hành Thủy, Ngọ ứng với hành Hỏa. Vậy nên, kết hợp với ngũ hành thì Tý và Ngọ khắc kị, Mão và Dậu chống đối nhau mạnh. Nhưng Tý và Mẹo hay Dậu chỉ xung nhau chứ không khắc mạnh. Ngọ với Mẹo hay Dậu cũng xung nhau chứ không khắc chế.

Xung khắc chỉ tính theo cặp

Dần Thân Tị Hợi, Thìn Tuất Sửu Mùi, Tý Ngọ Mão Dậu là 3 nhóm Tứ hành xung. Thường thường người Việt phần đông hiểu rằng những con giáp trong tứ hành xung đều xung khắc lẫn nhau nhưng hiểu như vậy là sai lầm.

Việc lập ra các nhóm tứ hành xung là do quan niệm âm dương ngũ hành mà ra. Người xưa sử dụng hệ can chi gồm 12 chi (còn gọi là 12 con giáp) và 10 can. Người ta lại quy ước các hành của ngũ hành cho các can và chi. Theo đó, Dần và Mão ứng với hành Mộc; Thân và Dậu ứng với hành Kim, Hợi và Tí ứng với hành Thủy, Ngọ và Tị ứng với hành Hỏa; còn lại Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là hành Thổ.

Theo thuyết ngũ hành tương khắc thì Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy…. Do đó mà Dần xung với Thân, Mão xung với Dậu, Tị xung với Hợi, Tí xung với Ngọ. Nhìn trên một cái la bàn phong thủy hoặc một lá số tử vi thì thấy rõ rằng về mặt hình học, các con giáp xung nhau thì đối xứng với nhau trên các vị trí ở la bàn hoặc lá số.

Như thế, các con giáp chỉ xung với nhau theo từng cặp là: Dần – Thân, Tị – Hợi, Thìn – Tuất, Sửu – Mùi, Tí – Ngọ, Mão – Dậu.

Xung khắc phải xét theo mệnh

Ở trên đã chứng minh rằng sự xung khắc trong tứ hành xung là xung khắc theo từng cặp. Tuy nhiên như thế chưa phải toàn bộ vấn đề. Ngay trong từng cặp ấy không phải tất cả người tuổi Dần đều xung khắc với người tuổi Thân. Muốn biết sự xung khắc cụ thể phải xét đến mệnh của từng tuổi để so với nhau.

Mọi người đều biết, địa chi có 12 con giáp và kết hợp với 10 can mới tạo thành hệ thống can chi. Các chi đã được gán với các hành như nói ở trên và thêm vào đó cổ nhân lại phân chia tính chất âm dương cho 12 con giáp. Theo cách phân chia được sách Tự điển tử vi của Đắc Lộc, các con giáp sau đây là thuộc tính dương: Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất. Các con giáp còn lại thuộc tính âm là: Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi.

Người ta cũng lại phân chia tiếp tính âm dương của 10 can. Theo cách phân chia được Tự điển tử vi chép thì: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là dương còn Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là âm. Khi ghép can với chi để tạo ra các năm can chi người ta ghép theo quy luật là can dương ghép với chi dương, can âm ghép với chi âm. Do vậy 12 chi ghép với 10 can chỉ tạo ra 60 năm mà thôi. 60 năm đó được gọi là Lục thập hoa giáp.

Người ta cũng vận dụng thuyết ngũ hành để gán cho các can mang tính chất của ngũ hành. Trong đó, các can Giáp Ất là hành Mộc, Bính Đinh là hành Hỏa, Mậu Kỷ là Thổ, Canh Tân là Kim và Nhâm Quý là Thủy.

Mặc dù mỗi con giáp và mỗi can đều được gán cho ứng với một hành trong ngũ hành nhưng khi can và chi ghép với nhau thì lại được quy nạp lại để mang thuộc tính một hành mới. Cách làm đó được gọi là nạp âm. Chẳng hạn năm Giáp Ngọ 2014 vừa qua có Giáp là hành Mộc và Ngọ là hành Hỏa nhưng nạp âm của Giáp Ngọ lại là Kim.

Vì chúng ta đang nói về xung khắc mà xung khắc là khái niệm của ngũ hành. Bởi thế những dẫn giải dài dòng ở trên là nhằm để người đọc biết sơ qua về sự liên quan giữa các can chi với âm dương ngũ hành.

Không phải Dần Thân Tị Hợi tứ hành xung là cả 4 con giáp xung khắc lẫn nhau mà chỉ có Dần – Thân và Tị – Hợi xung mà thôi. Tuy nhiên, cũng không phải tất cả người tuổi Dần xung với người tuổi Thân.

Theo Tân Việt trong sách “100 điều nên biết về phong tục Việt Nam” thì trong luật âm dương ngũ hành có 3 thế là tương sinh, tương khắc và tương hòa. Ví dụ Kim sinh thủy là tương sinh, Mộc khắc Thổ là tương khắc còn Kim với Kim hoặc Mộc với Mộc là tương hòa.

Như vậy các tuổi chỉ thực sự xung khắc với nhau nếu mệnh của họ xung khắc nhau. Lấy tuổi Kỷ Tị làm ví dụ. Theo quan niệm tứ hành xung thì Tuổi Tị xung với tuổi Hợi. Trong tuổi Hợi có 6 năm tuổi là Ất Hợi, Đinh Hợi, Kỷ Hợi, Tân Hợi, Quý Hợi nhưng không phải cả 6 tuổi này đều xung khắc với người tuổi Kỷ Tị.

Tuổi Kỷ Tị nạp âm là hành Mộc. Tuổi Ất Hợi là hành Hỏa, Đinh Hợi là Thổ, Kỷ Hợi là Mộc, Tân Hợi là Kim và Quý Hợi là Thủy. Như thế, Kỷ Tị và Kỷ Hợi là tương hòa vì cùng là Mộc; Kỷ Tị với Quý Hợi và Ất Hợi là tương sinh vì Kỷ Tị là Mộc sinh cho Hỏa của Ất Hợi và được Thủy của Quý Hợi dưỡng. Cuối cùng chỉ còn Đinh Hợi là Thổ thì bị Mộc của Kỷ Tị khắc và Tân Hợi là Kim khắc Mộc của Kỷ Tị.

Như vậy, khi xét sự xung khắc của các tuổi trong tứ hành xung, phải xét đến mệnh của tuổi mình rồi xét đến các mệnh của 6 tuổi trong con giáp xung với mình thì mới chi ly và chính xác.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những hiểu lầm thường gặp về tứ hành xung –

Tính cách phụ nữ - Đoán tính cách phụ nữ qua hình dáng vòng ba

Một khuôn mặt xinh xắn, một dáng hình thon thả và vòng 3 săn chắc, gợi cảm là điều mơ ước của rất nhiều chị em phụ nữ. Tuy nhiên, không phải ai cũng có được 'của trời cho' ấy. Vậy thế nào là một đôi mông đẹp, có tướng cách tốt theo tiêu chuẩn của thuật xem tướng ?
Tính cách phụ nữ - Đoán tính cách phụ nữ qua hình dáng vòng ba

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm của nhân tướng học, một đôi mông đúng tướng cách phải lấy tiêu chuẩn bình mãn làm đầu. Bình mãn có nghĩa là mông phải tròn trịa, đầy đặn, không cần phải to nhưng tối kỵ là mông cong. 

Phụ nữ tướng cách tốt cần có đôi mông tròn, đều đặn, tương xứng với thân mình. Nếu mông quá to là người tính nóng nảy, không chịu nhún nhường người khác. Nếu mông lép thì đôi chân lại trở nên thiếu cân đối, người đó khó mà an nhàn sung sướng được.

Phụ nữ có đôi mông nhỏ thường ưa sống nội tâm; tính cách lúc nóng như lửa, lúc lại lạnh như băng; đầu óc minh mẫn, khả năng phán đoán linh hoạt và tư tưởng sắc bén. Về tình yêu, người này thường dễ rung động nhưng tình duyên không phải lúc nào cũng được suôn sẻ.

Phụ nữ có đôi mông hơi lớn thì tính tình độ lượng và hào phóng. Trong chuyện tình cảm, người này yêu hết lòng và dám hy sinh tất cả vì người mình yêu. Tuy nhiên, đôi khi cũng vì bản tính này mà họ dễ bị dụ dỗ, lừa gạt. Cuộc sống của người này khá suôn sẻ, đủ ăn đủ mặc, không có gì phải lo lắng.

Tướng người phụ nữ nhỏ bé và không có mông thì tuy học vấn cao nhưng thành công ít, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Phụ nữ mập tròn mà không có mông thì hiếm muộn về đường con cái, cuộc sống dễ trở nên cô độc, buồn nản.

Về màu sắc của da mông, giữa nam và nữ cũng có sự khác biệt nhiều. Đàn ông da mông nên có màu nâu mới khỏe mạnh, nếu nam mà mông trắng bệch thì tính cách mềm yếu, nhu nhược như đàn bà. Nhưng phụ nữ thì da mông phải thật trắng hồng mới đầy đủ nữ tính.


Nguồn "Sưu tầm"


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách phụ nữ - Đoán tính cách phụ nữ qua hình dáng vòng ba

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd