Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Luận giải về tên hiệu tên doanh nghiệp –

Các loại tên cửa hàng, tên xí nghiệp, doanh nghiệp hay tên gọi một hình thức tập hợp nào đó... đều chứa đựng ý nghĩa sâu xa Ý nghĩa Ý nghĩa tiềm ẩn là ý muốn của người đặt tên. Tên đó không phải được đặt tùy tiện, thiếu suy tính về nhiều khía cạnh nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các loại tên cửa hàng, tên xí nghiệp, doanh nghiệp hay tên gọi một hình thức tập hợp nào đó… đều chứa đựng ý nghĩa sâu xa

-------------------7

Ý nghĩa

Ý nghĩa tiềm ẩn là ý muốn của người đặt tên. Tên đó không phải được đặt tùy tiện, thiếu suy tính về nhiều khía cạnh như: ước nguyện (mặt tâm linh), khía cạnh xã hội, khía cạnh chính trị, khía cạnh ngữ nghĩa (mặt ngôn ngữ)… Nhiều ý nghĩa đó hợp lại và một cái tên của cửa hàng, cửa hiệu, xí nghiệp, doanh nghiệp ra đời. Nghĩa là nó cũng giống như Tên một người để giao dịch, để định danh trong xã hội, trong luật, lệ v.v…

Các vấn đề nội sinh

Tên của cửa hàng, cửa hiệu, xí nghiệp v.v… đều tàng chứa “khí lực”. Nó, vì thế, được biểu đạt bằng số lý. Và qua số hóa ta có thể tìm được số biểu lý biểu thị “Tên vận” mà qua đó ta có được những thông tin tiềm ẩn. Tức sự biểu lộ “khí lực” của tên ấy. Nó có chứa điều tốt, xấu, lành dữ, tiến phát v.v…

Hậu quả khi thay đổi

Thay đổi tên của các đối tượng đã nêu trên có làm thay đổi “khí lực”. Nó cũng như tên người khi thay đổi, nó chỉ khác về phạm vi.

Thay đổi một tên doanh nghiệp… sẽ làm thay đổi “khí lực” và đương nhiên với một cái tên “đẹp” sẽ có số biểu lý “hay” và sẽ có điều lành hơn dữ, sẽ tiến phát hơn tên cũ.

Người ta phi thay đổi tên một doanh nghiệp vì nhiều lý do. Song trước hết là sự “phù hợp”. Do thực tế kết quả kinh doanh; do biến động cơ cấu thành phần; do thay đổi chủ sở hữu v.v… mà có sự thay đổi Tên gọi. Ai cũng muốn có một cái tên đẹp, tên hay. Nhưng nó cũng phụ thuộc nhiều khía cạnh và vì vậy mà khía cạnh “tâm linh” sẽ làm nảy sinh ý tưởng ở người khi tìm tên đặt cho doanh nghiệp, cửa hàng v.v… Ta cũng dùng được phương pháp số hóa để biết thông tin hay dở, lành dữ… Đây là một ý tưởng thời đại số được ứng dụng quan niệm truyền thông số hóa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải về tên hiệu tên doanh nghiệp –

Phong thủy của công ty, nhà máy –

Phong thủy của công ty, nhà máy hoặc thương nghiệp phải chú ý xem xét đến những vấn để sau: Mảnh đất có tốt hay không: Công trình kiến trúc tốt, các công trình kiến trúc trái phải gần đó có phù hợp, hài hòa hay không? Hơn nửa mảnh đất đó phải tốt, g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy của công ty, nhà máy hoặc thương nghiệp phải chú ý xem xét đến những vấn để sau:

Mảnh đất có tốt hay không: Công trình kiến trúc tốt, các công trình kiến trúc trái phải gần đó có phù hợp, hài hòa hay không? Hơn nửa mảnh đất đó phải tốt, giao thông phải thuận tiện.

1287469246_129997820_1-Hinh-anh-ca--Tuyen-gap-5-nhan-vien-lam-viec-van-phong-1287469246

Không khí bên ngoài công trình kiến trúc: Ví dụ như phía trước cửa công ty, nhà máy tự nhiên, thoải mái, màu sắc gạch tráng men trên các bức tường bên ngoài thích hợp, kính sáng đẹp, công trình kiên trúc có được phong cách sang trọng, khoáng đạt.

Tinh thần bích: Lấy tên cho các tòa nhà lớn nên tao nhã phú quý, tiêu chí hoặc danh hiệu của các tòa nhà lớn phải duy trì được sự tươi mới, đẹp đẽ. Bước vào cửa của các đại sảnh và tòa nhà lớn phải làm sao vừa nhìn vào hình khối là có được tinh thần phấn chấn, muốn tiến thủ.

Bố cục bên trong: Các gian phòng ngăn cách nhau to nhỏ phải hợp lý, đường qua lại phải thông thoáng, ánh sáng nên đầy đủ, ngoài ánh đèn chiếu sáng hàng ngày ra, các góc nên dùng thêm bóng đèn điện để bổ trợ cho không khi lưu thông toàn phòng.

Tầng hầm: Thông thường tầng hầm thích hợp cho việc để xe, công xưởng, nhà ăn, không thích hợp để làm phòng chủ tịch hội đồng quản trị, phòng tổng giám đốc và công ty cổ phiếu…

Vật cát tường, vật chế sát: Vật cát tường có các vật như: nguyên bảo, thần tài, thạch cát, hình hoa, thần tài bình an. Vật chế sát như: Thái cực đồ, bát quái đồ, sư tử đá… Vật cát tường chính là những vật mà bản thân khi nhìn thấy những vật này đã cảm thấy phúc khí, vô cùng gần gũi, phòng hình vuông thì có thể bày nhiều vật cát tường, còn vật chế sát thì chỉ nên dùng một đến hai cái là được.

Cây cối trong phòng: Cây cối, thực vật tuy thuộc âm nhưng ở ngoài phòng chúng có thể khai hoa kết quả, như vậy là trong âm có dương. Mang thực vật vào trong phòng, sẽ rất tốt đối với sinh lý, tâm lý con người.

Cái khác: Như bố cục của tài vị…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy của công ty, nhà máy –

Sự tích tơ hồng

Sự tích tơ hồng trên đã gây sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số. Sợi dây vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau.
Sự tích tơ hồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị thần linh chú về hôn sự theo tin tướng của dân ta là ông Tơ hồng cũng còn gọi là Nguyệt lão. Nhiều khi Nguyệt lão bị phụ nữ hóa biến thành bà Nguyệt.

Nguyệt lão được hình dung trong quảng đại quần chúng là một ông già đầu bạc đang se những sợi chỉ tơ màu hồng. Hình dung này do sự tích của Vi Cố đời Đường cấu tạo nên.

Truyện Vi Cố thường được nhắc lại như sau:

Dưới đời nhà Đường có một nho sinh học hành uyên bác tên gọi Vi Cố. Một ngày kia Vi Cố dạo chơi dưới trăng, được gặp một ông già đang giở từng trang một quyển sách, bên cạnh có chiếc đẫy đầy chỉ tơ hồng.

Vi Cố hỏi, ông già đáp quyển sách đó ghi những lứa đôi của mọi cặp trai gái, còn những sợi tơ hồng dùng để buộc những cặp này lại với nhau. Ông già nói thêm: “- Dù cách biệt vì địa vị xã hội, dù gặp bao nhiêu khó khăn, cuối cùng số mệnh vẫn thắng và kẻ nào phải phối ngẫu với kẻ nào vẫn là do duyên số”.

Thấy ông già nói vậy, Vi Cố muốn biết người sau này sẽ sánh duyên với mình là ai. ông già liền chỉ vào một cô bé hai tuổi, con một mụ hành khất trong ngôi chợ gần đó và bảo đó là người vợ tương lai của họ Vi. Thấy vậy Vi Cố tự nhủ:

Có thể như vậy được chăng. Vợ ta, con một mụ ăn mày!

Sau đó Vi Cố thuê người giết chết cô bé. Kẻ hung đồ đã dùng dao đâm vào sọ đứa trẻ, nhưng nhát đâm không trúng mà chi sượt qua lông mày cô bé gây thương tích chỗ ấy. Mười bốn năm sau, Vi Cố thi đỗ, được bổ làm quan và được vị Tiết độ sử gả con gái cho.
Cô dâu có một vết sẹo nhỏ trên lông mày. Vi Cố hỏi vợ, được nàng cho biết khi nàng 2 tuổi bị một kẻ hung đồ đâm hụt. Quan Tiết độ sử có chứng kiến vụ hành hung này, động lòng trắc ẩn, nhận nàng làm dưỡng nữ. Thì ra, lời ông già xe tơ đã ứng nghiệm. Họ Vi kết duyên với con mụ hành khất tại chợ nơi xưa.

Sự tích trên đã gây trong quần chúng sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số và sợi dây Tơ hồng vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau. Và ông già se tơ được gọi là Nguyệt lão, vì Vi Cố đã gặp ông ta ở dưới trăng và ông cũng có tên là Tơ hồng vì ông se những sợi chỉ tơ màu hồng.

Tin tưởng ở ông Tơ hồng, trai gái đến tuổi lành duyên đều cầu khấn ông giúp cho được duyên may phận đẹp. Trong ca dao Việt Nam thường nhắc nhiều tới vị thần linh chủ về hôn sự này:

“Bắc thang lên tới Trăng già,
Chỉ hồng đâu tá, mượn và bốn dây?
Để ta xe kết đấy, đây,
Xe chim loan phượng với cây ngô đồng,
Xe tố nữ với anh hùng
Xe trang thục nữ bạn cùng thi nhân…”
Trai gái cầu khẩn ông Tơ hồng cho được duyên may phận đẹp, nếu tình duyên ngang trái, họ cũng quay trở lại oán than Nguyệt lão!
“Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!”

hoặc:

“Ông Tơ sao khéo đa đoan
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên!”
Và cũng đã có những vần ca dao châm biếm về Nguyệt lão: Ông đã vụng xe tạo nên những cặp vợ chồng niên ký chênh lệch:
Bắc thang lên đến tận trời
Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
Đánh thôi lại trói vào đây,
Hỏi ông Nguyệt lão: “Nào dây tơ hồng?”
“Nào dây xe Bắc, xe Đông?”
“Nào dây xe vợ xe chồng người ta?”
“Vụng xe, xe phải vợ già,
“Tôi thì đến cửa đất nhà ông lên!”


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích tơ hồng

Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an, tu vi Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an, tu vi Phong thủy bàn thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an

Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an. Tượng Phật liên quan đến các vấn đề tâm linh nên cần được coi trọng. Nên đặt tượng Phật ở độ cao khoảng 1m và nhìn thẳng ra cửa để khí trường trong nhà toàn bộ đều mang năng lượng tốt. Vì vậy, vị trí số 1 là tốt nhất. Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an

Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an

Bàn thờ Phật cần nằm ở gian phòng khách. Nếu nhà có nhiều tầng, theo phong thủy nên đặt bàn thờ ở tầng trên – tránh ở vị trí chiếu dưới nhà vệ sinh, gầm giường. Cấm kị đặt bàn thờ tại phòng ngủ vì đây là không gian riêng tư của vợ chồng, con cái.

 

Về kích thước của ban thờ. Thực sự tốt khi bày tượng Phật thật to trong nhà. Tuy nhiên, cần căn cứ vào diện tích căn phòng để chọn kích thước ban thờ và tượng Phật phù hợp. Tượng Phật nhỏ cũng vẫn sẽ có hiệu quả,  chỉ là mang lại nguồn năng lượng ít hơn. Nên đặt tượng Phật ở độ cao khoảng 1m và nhìn thẳng ra cửa để khí trường trong nhà toàn bộ đều mang năng lượng tốt. Vì vậy, vị trí số 1 là tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí đặt bàn thờ Phật cầu phúc cho cả nhà bình an - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Bạn có tin lá số Tử vi không ?

Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng.
Bạn có tin lá số Tử vi không ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

BẠN CÓ TIN LÁ SỐ TỬ VI KHÔNG ?


Lịch Sử Khoa Tử Vi

Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng.

Trong thập niên 1960 trở lại đây, VN ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên Khoa Học Huyền Bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây :

- Tử-vi đẩu số tân biên của Vân Điền Thái Thứ Lang.

- Tử-vi áo bí của Hà Lạc Dã Phu.

- Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc.

- Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn.

Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử vi Áo bí của Hà lạc Dã Phu.

Hiện (1977) khoa Tử-vi ở VN, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tử-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa.

Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích.

Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu.

Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử-vi, để độc giả có một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác.

Nhận xét của Nguyễn Hiến Lê

về khoa Tử vi - Tử bình – Hà lạc

Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau : “Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên.

Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết. (Chính là tôi và ba em tôi). Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỷ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…)

Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vẫn là quan trọng”. (trang 174-175).

Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm : lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy :

– Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung : Mệnh (Thân), Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc. Phúc Đức, Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Tức, Huynh Đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết : tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.

Sự thực, theo tôi thì khoa Tử vi không hợp lý vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau : điều đó không chấp nhận được.

Khoa Tử Bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lý. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.

Hà Lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn Tử Bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.

So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử Vi thích hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử Bình hợp lý, thích hợp với giới trí thức; Hà Lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.

Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu. Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.

Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.

Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.

Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kỳ dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa. Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được.

Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số. Tất cả các sách số đều khuyên vậy : “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn).

Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.

Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ (Pháp quốc)

Khoa lý Tử vi

có làm mất niềm tin không ?

Người sành tử vi, đều biết rõ mỗi lục thập hoa giáp có 518,000 dạng lá số (tạm gọi 518,000 lá số), nhân loại ngày nay khoảng 6 tỉ người (tức là cứ 12,000 người có chung một lá số, thế nhưng trong 12,000 cùng một lá số ấy có ai giống ai đâu ? Vẫn là 12,000 sứ mệnh khác nhau ! Điều này đã làm cho giới trí thức đâm ra bi quan và nghi ngờ giá trị xác thực của khoa nghiệm lý Tử vi. Thật ra, cổ nhân khi lập thành khoa lý học này, không phải để người ta dựa vào đó mà luận sự sang giàu, nghèo hèn mà muốn hệ thống hóa cái đặc loại (type) của con người, rồi do theo đó mà dạy dỗ, giáo dục từng đặc loại (theo các phương pháp riêng biệt, tỷ dụ dạy trẻ thông minh thần đồng thì dạy khác, dạy trẻ câm điếc lại cách khác nữa) sao cho tất cả mọi người cùng xứng đáng với nghĩa làm người !

Trải qua thời gian, khoa tử vi dần dần bị biến chất, hạ thấp thành phú đoán dị đoan (cốt xem vận mệnh, công danh, phú quí ra sao để trục lợi). Thuật đối nhân xử thế tiềm tàng trong mỗi lá số Tử vi, chính là cái tự do của con người (để sống hòa hợp với bao nhiêu phiền toái và ràng buộc của con người với tạo vật, tạm gọi là môi sinh). Vậy thì tử vi không là một kiểu định mệnh độc ác và bất khả chối từ đâu ! Người hiện đại, nhất là giới trí thức đều nghĩ không có định mệnh nào làm sẵn theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” cả, không thể có một tha lực nào bắt con người phải nô lệ cho một định mệnh !

Mỗi lá số tử vi có một cung cách chung cho 12,000 người, nhưng đồng thời lại có đủ 12,000 trình độ xử thế khác nhau (do con người chủ động cách suy nghĩ và cách hành động của bản thân), và từ đó phát sinh ra 12,000 cái sứ mệnh khác nhau, không ai giống ai (ví như một lớp học, tuy cùng một trình độ, có người hạng nhất, có người hạng trung bình và có người xếp hàng chót). Người khoa học là người chịu khó quan sát nhiều lần cái ngẫu nhiên giống nhau, mà qui nạp thành cái tất nhiên (gọi là qui luật). Cổ nhân (gồm nhiều thế kỷ xa xưa kinh nghiệm, tích lũy được) cũng làm theo hệ thống này mà tạo thành khoa nghiệm lý tử vi để hậu thế hiểu thêm giá trị sống ở đời (mà vừa thích nghi vừa chế ngự thiên nhiên, hoàn cảnh).

Mỗi lá số tử vi có một cấu trúc thật diệu kỳ (thật huyền ảo) của 14 chính tinh (chưa nói các phụ tinh khác), ta tạm chia làm ba cách phân bổ :

- Nhân cách là tính nhị hạp của Liêm với Lương, của Phá với Cơ, của Vũ với Nguyệt, của Nhật với Phủ, của Đồng với Tham

- Địa cách là tính xung đối của Phá với Tướng, của Sát với Phủ

- Thiên cách là cái tính hại của Tử với Cự, của Tướng với Cơ, của Nhật với Sát

Sự hình thành chặt chẽ các thế đứng của tinh đẩu vừa nêu ở trên (dù đóng ở bất cứ cung nào), chính là một cách ẩn tàng khuyên bảo người ta nên đối nhân xử kỷ sao cho xứng danh “Nhân linh ủ vạn vật”, từ đó nâng cao cuộc sống vật chất và nhân cách của bản thân (Nguyễn Du: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều)…

…. một vị thứ xếp hạng riêng biệt trong 12,000 người cùng một lá số tử vi người này vẫn khác người kia. Mỗi lá số tử vi có cái thuận lợi riêng và cái bất lợi riêng của nó. Người sành tử vi biết số của mình, không phải là biết khi nào vào vòng thái tuế, lúc nào đáo vận thiên không, cái biết này chỉ là cái “dụng” tầm thường, quan trọng hơn là ta phải biết cái “thể” rõ rệt mà xử lý với đời như thế nào cho phải đạo. Nhân sinh quan của người thích tử vi có phần tích cực và lạc quan (chứ không chịu dị đoan, yếm thế đâu). Nhìn vào lá số của mình trong thiên bàn tử vi, suy gẫm về nhân cách (là các sao nhị hạp), ta thấy bàng bạc các lời khuyên bảo chí tình :

- Sống thanh bạch phải giữ cho được phẩm cách thanh cao, đấy mới là khó ở đời (Liêm trinh với Thiên lương)

- Muốn đổi cũ thay mới, phải biết cân nhắc, tính toán cẩn thận và khôn ngoan, không thể phủ định tất cả (Thiên cơ với Phá quân)

- Phải sống có tình cảm nhân hòa nhân ái, chứ không vì đồng tiền mà cô đơn, lẻ loi, ti tiện (Thái âm với Vũ khúc)

- Phú quí song toàn, có nghĩa khi sống ở địa vị sang cả phải có lòng nhân hậu trong sáng (Thái dương với Thiên phủ)

- Phải thành khẩn tu tâm, hối cải các lầm lỗi, để diệt bớt dục vọng, đừng tham lam mà chỉ trích chuyện canh cải sửa đổi hời hợt (Tham lang với Thiên đồng)

Suy gẫm về địa cách (các sao xung đối), rõ ràng là thuật xử thế :

- Lấy độc trị độc, cao nhân tất hữu cao nhân trị (Phá quân với Thiên tướng)

- Lấy đạo cương nhu mà dung nạp nhau, đạo đức kiềm chế bớt hung bạo (Thất sát với Thiên phủ)

- Suy gẫm về thiên cách (là tính hình hại của các tinh đẩu. Tỵ hại Dần, Ngọ hình hại Sửu) cho thấy lối chỉ dạy kinh nghiệm sống ở đời phải biết:

- Khi có địa vị cao sang, phải biết nghe lời phê phán. Sự bình phẩm của xã hội là cách tu sửa bản thân thêm chính đáng (Tử vi với Cự môn)

- Trí và Dũng không cân xứng là đau khổ, thiếu cái này là mất ngay cái kia (Thiên tướng với Thiên cơ)

- Quân tử khó chung đụng với tiểu nhân, dự trong sáng nghiêm túc không dung chứa tà mị vũ phu (Thái dương và Thất sát).

Nếu mỗi người chịu sống là làm theo “ẩn ngộ” trong cấu trúc của các chính diệu nêu trên thì rõ ràng là đã giúp mình tìm một vị thế riêng trong 12,000 người cùng một lá số tử vi.

Cụ Thiên Lương nêu cao hai chữ Tài, Thọ, để thế nhân hoán cải phần số của mình, thiết tưởng không bỏ qua cả những cơ cấu chặt chẽ của tinh đẩu hình hại, tinh đẩu đối cung và tinh đẩu nhị hạp (mà cụ Thiên Lương là người đầu tiên phát hiện rõ sự trạng này) để ta thấy rõ cái bản thể của ta hơn.

Đời người theo tình lý của khoa tử vi chỉ là một “project schematique”, không một tha lực nào độ mạng cho ta được, đời ta là do ta gây dựng mà thôi. Cái thú chơi tử vi là vậy đấy. Khoa nghiệm lý tử vi không có tà thuật gì cả. Nó chỉ là một khoa chứa đựng nhiều tinh túy nhân bản của người xưa, nói về đạo sống ở đời. Ta thuộc về một lá số nào, thì ta phải cố mà bảo trì phát huy cái thuận lợi chứa trong lá số của mình từ đó các tật xấu (hoa hại) sẽ bớt đi. Chẳng khác nào ta biết được cái ưu, cái nhược của cái xe ta đi, nương theo đó mà bảo trì, sửa chửa thì xe lâu hư lâu cũ! Vậy thì, không nên chê trách các lá số kiểu Thiên không, mà cũng không nên tôn sùng quá đáng các lá số Thái tuế ! Xe honda có mau hơn tốc độ, nhưng xe đạp vẫn giúp ích cho đời nghèo chứ ? Vấn đề là dựa vào cấu trúc nhân cách (tính nhị hạp) địa cách (tính xung đối) thiên cách (tính hình hại) trong tử vi mà xử thế với đời, hai chữ thiên tài, thiên thọ nghiêm túc duy trì chính là học làm người tốt lành trong xã hội tiến bộ.

Nhìn chung mọi lá số tuy chứa 12,000 người kỳ thật lại xếp hạng từ thứ nhất, thứ nhì tới thứ 12,000 cả thẩy 512,000 lá số cho ta đủ 6 tỉ người có vị thứ khác nhau (mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười), đấy là sự thật rõ ràng nhất !

Hoàn cảnh sống, dòng dõi, nền giáo dục được hấp thụ, tất cả đúc kết lại thành “môi sinh” để mỗi người tự vươn lên, do đó việc có cùng một lá số tử vi, mà không ai giống ai (kể cả việc anh em song sinh) là tất nhiên vậy thôi. Lại nữa, con người cũng là một thứ sinh vật (như bao sinh vật và vật chất khác) luôn biến dịch theo luật tuần hoàn của vật chất, nghĩa là cùng chịu những chi phối của môi sinh (đồng thời cũng tác động lại để cải biến môi sinh), nên dù ở loại lá số nào (và xếp hạng cao thấp trong mỗi lá số) vẫn phải theo qui luật của môi sinh để trường tồn (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong, thiên ở đây là cái lý tất nhiên tối cao, chứ không phải là mô thức Thượng đế nào). Tỉ dụ như muôn loài động vật đêm tối thì đi ngủ, trời mưa gió thì tìm chỗ ẩn náu.

Cái vi diệu của cuộc sống xã hội là có rất nhiều cái lý tối cao chi phối con người, nên dù ở lá số nào, người ta vẫn làm theo cái lý tối cao ấy (hoặc bằng vật chất, hoặc bằng tư duy) rồi trong khi thi hành theo lý tối cao của môi sinh, ta lại thấy có các trật tự khác nhau (vẫn là khác nhau!) giữa người này với người kia. Chẳng khác nào việc ta cùng nắm trong tay nhiều hòn bi màu (là các lá số khác nhau) rồi cùng một động tác duy nhất là ném ra xa (do một lý tối cao chi phối), thử xem kết quả ra sao? Không hòn bi nào nằm ngang cùng một khoảng cách đến bàn tay ném ra cả !

Cái trật tự, do lý tối cao chi phối các hòn bi ấy vẫn có mức độ khác nhau. Vậy thì cùng một môi sinh hun đúc các lá số tử vi vẫn phát triển một cách khác nhau. Đời người có may mắn có họa hại, chẳng qua là do cung cách đối nhân xử thế của mỗi cá nhân không có tha lực (thần quyền) nào dẫn dắt chúng sanh đâu !

Tác động qua lại giữa bản thể của ta với môi sinh, chính là nguồn gốc của họa phúc. Khoa tử vi giúp ta thấy được bản thể (cái thể xác thực là lá số tử vi của ta đang thuộc về) rồi tùy ta (tự do tính) định liệu xử lý với ngoại cảnh (cái dụng chân thành). Thể và dụng là chuỗi dài quá trình sinh hóa của con người khác nhau giữa người với người là chính ở ta “sống với môi sinh” của ta như thế nào thôi.

Cái thú của khách mộ điệu tử vi không phải là làm việc “bất xuất hô tri thiên hạ”, không phải làm “thầy” để “bói” đời hẳn nhiên chỉ ở chỗ: “Bất khuy dữ kiến thiên đạo” (không sống thừa không sống thiếu là thấy cái lý cùng thông của tạo vật, trong đó có ta).

Toán học thuần lý cho rằng “Les elements des nombres sont les des choses”, thì khoa tử vi cũng vẫn nghiệm cái lý: làm chủ bản thân hòa hợp với xã hội khi nào ta biết rõ cái số của ta vậy.

GS Lê Trung Hưng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có tin lá số Tử vi không ?

Giải mã giấc mơ về lông mi, lông mày

Mơ thấy lông mày, lông mi là điềm báo tốt lành. Bạn sẽ có tình yêu tốt đẹp, công việc thuận lợi.
Giải mã giấc mơ về lông mi, lông mày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả

Giai ma giac mo ve long mi, long may hinh anh
Ảnh minh họa
Trong giấc mơ, nếu thấy hình ảnh 1 hàng mi dài đẹp là điềm báo bạn sẽ có tình yêu như ý, các mối quan hệ giao tiếp tốt đẹp. Cuộc sống của bạn sắp tới sẽ tràn ngập niềm vui.    Nếu bạn mơ thấy hàng mi giả, dự báo, bạn sẽ có được kế sách ưu việt để đối phó với đối thủ của mình. Hãy tận dụng cơ hội tốt và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đua sắp tới.    Tuy nhiên, nếu bạn mơ thấy hàng mi của mình hay của người khác không thể mọc dài ra hoặc bị rụng là điềm báo bạn sẽ gặp rắc rối từ các mối quan hệ. Có thể, ai đó muốn phá hoại công việc của bạn. Hãy đề phòng và chuẩn bị ứng phó thật tốt.    Trong giấc mơ, bạn thấy hình ảnh lông mày, ám chỉ bạn đang lo lắng về giới tính của mình. Bên cạnh đó, nó còn là điềm báo sắp tới bạn sẽ gặp phải một vài khó khăn. 

Thấy lông mày của bạn trong mơ tượng trưng cho sự kinh ngạc, hoài nghi hay ngờ vực. Nó cũng có thể ám chỉ về sự lo âu hoặc phản đối.

Theo Giấc mơ & Vận mệnh con người trong cuộc sống

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ về lông mi, lông mày

Điểm mặt 6 con giáp tiền nhiều tiêu không cần nghĩ

Chính vì những đức tính tốt, năng lực làm việc cũng tốt mà Tý, Sửu, Dần, Thìn, Mùi và Hợi là 6 con giáp có
Điểm mặt 6 con giáp tiền nhiều tiêu không cần nghĩ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 "số đỏ", tiêu tiền không phải nghĩ.

1. Tý

Người tuổi Tý thường là những người thông minh, linh hoạt, đa tài, có cái nhìn trực quan và tính cách mạnh mẽ. Dù thành công từ rất sớm thế nhưng họ vẫn giữ thói quen lập kế hoạch chi tiêu và tích lũy. Đặc biệt là từ trung vận, tài vận của người tuổi Tý ngày càng hanh thông, họ không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc, nhất là những người sinh vào tháng 8 và tháng 12 Âm lịch, cuộc sống sẽ ngày một tốt hơn. Ngay cả cuộc sống gặp nhiều khó khăn thì người tuổi Tý vẫn may mắn vì được quý nhân phù trợ.   2. Sửu

Người tuổi Sửu thường rất ngay thẳng, chịu thương chịu khó và có lòng kiên nhẫn cao. Người sinh vào ban ngày sẽ trầm tính, còn người sinh vào ban đêm lại năng động và siêng năng hơn. Người sinh vào mùa đông thì gặp nhiều khó khăn, nhưng người sinh vào mùa hè còn vất vả hơn nữa.  Tuy nhiên, nếu người sinh vào mùa hè nhằm giờ Sửu thì tài vận lại vô cùng tốt, không phải lo lắng về vấn đề “cơm-áo-gạo-tiền”, không phải làm việc nặng nhọc mà lại có thể “chỉ tay năm ngón”.

Diem mat 6 con giap tien nhieu tieu khong can nghi hinh anh
Ảnh minh họa
3. Dần

Người tuổi Dần là người có nghĩa khí và rất trọng tình trọng nghĩa. Đàn ông tuổi Dần thì bề ngoài cứng rắn nhưng bên trong thì lại rất ôn hòa, còn phụ nữ thì ngược lại, dịu dàng nhưng thực chất lại vô cùng mạnh mẽ. Song họ đều là người lương thiện và luôn muốn giúp đỡ người khác, cho nên nếu họ gặp hung thì cũng sẽ hóa cát. Đặc biệt, người tuổi Dần sinh vào giờ Hợi hoặc giờ Sửu thì sẽ có cuộc sống sung túc, gặp nhiều may mắn, được quý nhân phù trợ. Nói chung, người tuổi Dần không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc, tiêu được tiền thì khắc kiếm được tiền. 

Những con giáp bận bù đầu nhưng thu hoạch kém trong năm 2016
2016 chính là năm tuổi của người tuổi Thân. Trong năm nay, công việc của bạn vô cùng bận rộn, thậm chí còn thường xuyên chạy đông chạy tây để thực hiện những
  4. Thìn

Người tuổi Thìn có khả năng lãnh đạo, năng lực làm việc tốt và có chí tiến thủ. Người sinh vào tháng 2 Âm lịch thì tài đức vẹn toàn, được người khác đánh giá cao, sớm “công thành danh toại”. Người sinh vào tháng 4 Âm lịch thì danh lợi song toàn, gặp nhiều may mắn và không phải lo lắng nhiều về vấn đề tiền bạc.  

Diem mat 6 con giap tien nhieu tieu khong can nghi hinh anh 2
Ảnh minh họa
  5. Mùi

Người tuổi Mùi bên ngoài thì nhỏ nhẹ nhưng thực chất lại rất mạnh mẽ, trọng tình trọng nghĩa, thích giúp đỡ người khác, vì vậy cuộc sống có quý nhân phù trợ.  Đặc biệt là những người sinh vào tháng 2, tháng 3 Âm lịch thì cũng không cần phải lo lắng về vấn đề “cơm-áo-gạo-tiền”, cuộc sống giàu sang phú quý, công thành danh toại. Ngoại trừ vận mệnh của họ có các yếu tố tương khắc thì họ chẳng bao giờ phải lo lắng về tiền bạc.   6. Hợi

Người tuổi Hợi tính tình chính trực và điềm tĩnh, khả năng kinh doanh và năng lực quản lý tài chính đều rất tốt. Vì vậy, hầu hết những người sinh năm này thường gặp nhiều may mắn, đặc biệt là những người sinh vào các tháng 1, 2, 5, 7, 10 và 11 Âm lịch, luôn có quý nhân phù trợ, không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc, danh lợi song toàn, sự nghiệp gặt hái nhiều thành công. Nếu bát tự không tương khắc thì với họ tiền bạc không phải là vấn đề đáng lo.   
► Xem tử vi ngày và tử vi tuần mới của bạn được cập nhật liên tục và chính xác nhất

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt 6 con giáp tiền nhiều tiêu không cần nghĩ

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tháng 3 này, 3 con giáp sau sẽ luôn vạn sự như ý

Cùng xem Thần May Mắn sẽ đồng hành cùng ai trong suốt tháng này nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1: Tuổi Mùi

Những bạn cầm tinh con dê sẽ có một tháng ngập tràn may mắn và thành công chờ đợi ở phía trước. Bất kể bạn làm gì cũng đều vô cùng thuận lợi và suôn sẻ. Nhờ có nhiều quý nhân phù trợ giúp đỡ nên mọi chuyện đều diễn ra trong dự liệu của bạn, nhờ đó bạn sẽ luôn thong thả, thảnh thơi mà chuyện tình yêu hay túi tiền vẫn cứ luôn đong đầy không khi nào vơi. Bạn nên góp vốn đầu tư kinh doanh trong thời điểm này, rất dễ thu được thành công lớn. Bên cạnh đó bạn cũng có lộc về đường ngoại giao nên sẽ gặp được nhiều bậc cao nhân dẫn đường chỉ lối cho bạn cả trên con đường công danh lẫn trong cuộc sống. Hãy chào đón tháng 3 bằng cách hào hứng nhất có thể bạn nhé, không còn nghi ngờ gì nữa đây là tháng dành cho bạn đấy.

Tháng 3 này, 3 con giáp sau sẽ luôn vạn sự như ý - Ảnh 1.

Top 2: Tuổi Tỵ

Trải qua một tháng đầy bình yên của năm mới Đinh Dậu, tuổi Tỵ đã chuẩn bị sẵn sàng cho một năm với nhiều thử thách và cơ hội ở phía trước. Tháng 3 này sẽ mang lại cho bạn nhiều cơ may để bước đến những mục tiêu và thành công mà bạn hằng ấp ủ bấy lâu. Sự nhanh nhạy, sắc bén trong kinh doanh cùng với sự may mắn trời ban, bạn sẽ gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ trong công việc làm ăn. Đường tình duyên cũng vô cùng khởi sắc khiến cho tuổi Tỵ vui mừng không ngớt trong thời gian này. Hãy nắm bắt mọi cơ hội cũng như khó khăn mà cuộc đời dành cho mình, đây chính là thời điểm để bạn tỏa sáng và chứng minh năng lực mạnh mẽ của bản thân đấy.

Top 3: Tuổi Dần

Những bạn cầm tinh con hổ sẽ không có gì phải phàn nàn về tháng 3 đầy ắp những điều may mắn bất ngờ này. Bạn không phải cố gắng quá nhiều, cũng không hề phải lao tâm khổ tứ trong bất kì chuyện gì nhưng kết quả thu được thì lại vô cùng ngạc nhiên. Bạn sẽ dễ dàng đạt được những thành công mà người khác sẽ phải cố gắng gấp trăm lần mới đạt được. Thần May Mắn sẽ luôn dõi theo và đồng hành với bạn trên mọi nẻo đường nên bạn sẽ không phải lo lắng bất kì điều gì trong thời gian này. Tuổi Dần sẽ được tận hưởng tháng 3 một cách trọn vẹn và viên mãn nhất, điều mà biết bao người phải ghen tỵ với bạn.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng 3 này, 3 con giáp sau sẽ luôn vạn sự như ý

Top 3 con giáp khó làm nên chuyện lớn

Bất kỳ chuyện gì trong cuộc sống đều cần có giới hạn thích hợp. Đôi khi những điều bạn cho là ưu điểm nhưng nếu thái quá sẽ phản tác dụng, thậm chí khiến cuộc sống của bạn trở nên khó khăn hơn.
Top 3 con giáp khó làm nên chuyện lớn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dần: Thích cậy quyền, tham tư lợi và tính kiểm soát quá mạnh

Người tuổi Dần bẩm sinh rất thích kiểm soát và khống chế người khác, ngược lại họ không thích bị quản thúc. Tuy trong xử sự, họ thường toát lên sức hút nhất định từ thái độ mạnh mẽ, quyết đoán nhưng với bản tính cậy quyền và tư lợi, người khác sớm muộn cũng nhận ra bản chất của họ và dễ có ý thù địch. Khi không xây dựng được lòng tin và sự đón nhận của người xung quanh, họ khó mà có thành tựu lớn.

top-3-con-giap-kho-lam-nen-chuyen-lon

Tuổi Thìn: Tự tin thái quá, dễ bị tác động bởi ý kiến trái chiều

Những người này bẩm sinh có tài lãnh đạo nhưng đáng tiếc họ ít khi làm nên chuyện lớn, chỉ có thể đạt một chút thành tích nhất định trong công việc lẫn cuộc sống. Họ một mặt do quá tự tin vào bản thân mà không thích tiếp nhận ý kiến của người khác, mặt khác cũng dễ bị tác động nếu đối phương có ý kiến ngược với họ. Cũng chính vì vậy, họ thường dễ mắc bẫy hoặc phạm sai lầm do thái độ tự tin thái quá của mình.

Tuổi Sửu: Tham lợi, dễ bị lợi ích riêng tư làm mờ mắt

Những người tuổi Sửu thường dễ bị đồng tiền mê hoặc, có thể nói đầu óc của họ không bao giờ rời khỏi chuyện tiền bạc, vật chất, làm gì cũng nghĩ đến quyền lợi của mình. Do vậy, họ khiến người khác sinh ra tâm lý đề phòng, thiếu tin cậy và cảm thấy họ quá thực dụng, không muốn kết giao quá thân. Ngoài ra, họ cũng dễ rơi vào khó khăn, thất bại do lòng tham không đáy.

Khang Ninh (theo D1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp khó làm nên chuyện lớn

4 con giáp lười làm việc nhưng kiếm tiền từ "túi áo người khác" dễ dàng và công khai

Chỉ có duy nhất 4 trong 12 con giáp mặc dù lười biếng, làm việc rất ít nhưng cực giàu có vì luôn kiếm được thu nhập "từ túi áo người khác" một cách dễ dàng và công khai.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chắc hẳn bạn cũng biết trong cuộc sống, muốn có của ăn của để, muốn giàu có phải không ngừng cố gắng, làm việc và làm việc thật nhiều mới có thể đạt được thành công và trở nên giàu có.

Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều người dù có cố gắng, cố gắng mãi vẫn không thể đạt được sự giàu có. Đó là bởi vì họ thiếu một chút may mắn. Chính bởi vì thế mà dân gian thường có câu "Giỏi giang không bằng may mắn", may mắn chính là yếu tốt giúp con người vươn lên khỏi số phận nghèo nàn của mình.

Trong lá số tử vi của 12 con giáp, có những con giáp không thực sự giỏi giang, không thực sự chăm chỉ làm việc nhưng họ có may mắn, thậm chí là cực nhiều may mắn. Chính may mắn là yếu tố giúp họ không phải làm việc nhiều, không phải cố gắng nhiều, cứ "đủng đỉnh" nhưng cơ hội giàu sang cứ ập tới, hết lại có, "chưa kịp nghèo đã giàu".

1. Tuổi Dậu - Tuổi con Gà

Vận mệnh về đường tình duyên của người tuổi Dậu có thể có những lúc thăng lúc trầm thế nhưng vận mệnh tiền bạc thì cực kì tốt. Có thể nói, dù có trăm ngàn mối lo nhưng người tuổi Dậu sẽ không bao giờ phải lo lắng về vấn đề tiền bạc.


4 con giap luoi lam viec nhung kiem tien tu "tui ao nguoi khac" de dang va cong khai - 1

Người tuổi Dậu có tính cách chỉn chu, cố gắng và quyết tâm cao. Chính vì thế, họ luôn hoàn thành tốt trong mọi công việc. Bạn cứ để ý những người tuổi Dậu xung quanh mình, có thể có những lúc họ thiếu vài trăm nghìn nhưng hết lại có hết lại có, họ không bao giờ rơi vào tình trạng khủng hoảng về tài chính.

Bên cạnh đó, người tuổi Dậu còn được rất nhiều quý nhân phù trợ trên con đường phát triển sự nghiệp. Có thể bạn đôi lúc gặp phải vấn đề mất việc hay thất nghiệp, tuy nhiên, nhờ có quý nhân phù trợ nên bạn cứ yên tâm trong khoảng thời gian này, tiền tiêu xả láng thì có thể không có nhưng vẫn không bao giờ rơi vào tình trạng đi vay nợ. Đó là may mắn đặc biệt của những người tuổi Dậu.

Và khi họ đã bắt đầu tìm được công việc mới thì lúc này tiền bạc không dừng lại ở mức đủ tiêu nữa mà là "đầy ắp, dư thừa".

2. Tuổi Hợi - Tuổi con Lợn

Riêng nói về may mắn thì người tuổi Hợi cũng đứng trong top đầu của 12 con giáp. Có được những vận may đó xuất phát từ tính cách của người tuổi con lợn, họ hiền lành chất phác đặc biệt luôn niềm nở, vui vẻ với tất cả mọi người.


4 con giap luoi lam viec nhung kiem tien tu "tui ao nguoi khac" de dang va cong khai - 2

Hầu hết những người tuổi Hợi thường hiền, có chút tham ăn lười làm nhưng không bao giờ phải gặp cảnh nghèo khó.

Tiền bạc của người tuổi Hợi chủ yếu không phải do họ làm ra mà do "quý nhân" mang lại. Do họ đối xử rất tốt với những người xung quanh nên nhận được tài lộc, ân huệ từ những người đó mang lại.

3. Tuổi Thìn - Tuổi con Rồng

Người tuổi Thìn thường được đánh giá có tính cách khá lười, đa số đi tới đâu họ chỉ ngồi im một góc và làm công việc của riêng mình như nghịch điện thoại hay đọc truyện, xem phim.

Tuy nhiên bạn đừng vì thế mà coi thường những người tuổi Thìn bởi họ là những người "ngoài lạnh trong nóng". Tức là họ chỉ tỏ vẻ lười và lạnh lùng ở bên ngoài, khi cần thiết họ sẵn sàng đứng lên giúp đỡ và giúp đỡ nhiệt tình những người có hoàn cảnh khó khăn hơn. Đặc biệt, một khi họ đã làm là thành công, có kết quả cao.


4 con giap luoi lam viec nhung kiem tien tu "tui ao nguoi khac" de dang va cong khai - 3

Cũng chính vì lòng tốt đó giúp người tuổi Thìn gặt hái được nhiều may mắn, nhiều quý nhân "âm" phù trợ giúp đỡ trên con đường kiếm tiền.

Đó là lý do những người tuổi Thìn chỉ cần dùng một nửa thời gian trong quỹ thời gian của họ là đã có thể kiếm thu nhập bằng người khác làm cật lực, làm quay cuồng.

4. Tuổi Tỵ - Tuổi con Rắn

Có thể nói lười biếng chính là tính cách chính của người tuổi Tỵ. Những người cầm tinh con rắn thường khá chậm chạp. Với bản tính này họ chỉ thích chơi, thích hưởng thụ chứ rất ít khi họ hứng thú làm một công việc gì.


4 con giap luoi lam viec nhung kiem tien tu "tui ao nguoi khac" de dang va cong khai - 4

Tuy nhiên, sức hấp dẫn của người tuổi Tỵ đối với người khác khá cao. Nói chính xác họ "không cần uốn lưỡi 7 lần" vẫn có thể lấy được cảm tình của người đối diện. Vì thế, họ được nhiều người giúp đỡ cả về mặt "âm" và "dương". Tiền tài lộc lá của người tuổi Tỵ đa số đều đến từ "túi áo" của người khác chứ không phải bản thân thực sự làm ra. Tuy nhiên, nó lại luôn bền vững.

Vì thế, người tuổi Tỵ thường gặp các đối tượng khác ghen ghét đố kỵ nên cần đề phòng, phải thật cẩn thận nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp lười làm việc nhưng kiếm tiền từ "túi áo người khác" dễ dàng và công khai

Sự tích ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

Tìm hiểu sự tích ông Công ông Táo theo truyền thống. Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp (Âm lịch) các gia đình thường làm cơm cúng Táo quân về trời.
Sự tích ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tìm hiểu sự tích ông Công ông Táo theo tuyền thống: Ông Công, ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam được xem là vị Thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà.


Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp (Âm lịch) các gia đình thường làm cơm cúng, tiễn đưa Táo quân về trời. Tục lệ này đã có từ xa xưa dựa theo những truyền thuyết được dân gian lưu truyền. Táo Quân có nguồn gốc từ 3 vị thần: Thần Đất, thần Nhà và thần Bếp. Vì sao ngày 23 tháng Chạp lại cúng Táo quân, cùng tìm hiểu nhé!

  Sự tích ông Công ông Táo kể rằng ngày xưa có hai vợ chồng rất nghèo khổ, người chồng tên là Trọng Cao, người vợ tên là Thị Nhi. Hai người lấy nhau đã lâu mà không có con, chính vì vậy cuộc sống hai vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi. 
 
Một ngày nọ, vì quá tức giận mà Trọng Cao đánh vợ mình. Giận chồng, Thị Nhi bỏ nhà ra đi và bị một người đàn ông có tên Phạm Lang dùng lời ngon ngọt để quyến rũ, hai người sống như vợ chồng. Một thời gian sau, Trọng Cao hết giận, thấy vợ bỏ đi mãi không về, liền nóng ruột đi tìm khắp nơi nhưng không có tung tích gì. Ông quyết định bỏ nhà, bỏ công ăn việc làm để đi hành khất tìm vợ. 

Su tich ong Cong ong Tao trong tin nguong dan gian Viet Nam hinh anh
Trọng Cao hành khất tới xin nhà giàu - gặp lại Thị Nhi
  Một hôm vì quá đói và mệt, Trọng Cao gõ cửa một nhà giàu để xin ăn thì được bà chủ - chính là Thị Nhi mang cơm ra cho. Hai người bàng hoàng khi nhận ra nhau, tình xưa nghĩa cũ lại ùa về. Thế nhưng, Phạm Lang lại sắp đi làm đồng về, Thị Nhi bèn bảo Trọng Cao trốn vào trong đống rơm ở góc vườn. Vì quá mệt mỏi nên Trọng Cao ngủ thiếp đi không biết gì. 

Su tich ong Cong ong Tao trong tin nguong dan gian Viet Nam hinh anh 2
Phạm Lang đốt rơm vô tình thiêu cháy Trọng Cao
  Thật không may, Phạm Lang về nhà mục đích là để lấy tro mang ra bón ruộng, nên ông bèn châm lửa đốt đống rơm mà Trọng Cao đang say ngủ trong đó. Nhìn thấy người chồng cũ của mình bị chết cháy, Thị Nhi bèn lao vào lửa để chết theo. Phạm Lang vì thương vợ nên cũng lao mình vào đám cháy để cùng chết. 

Cách rút bớt chân bát hương và vệ sinh ban thờ ngày Tết
Vệ sinh bát hương ngày tết là điều nên làm khi tết đến xuân về, chúng ta nên vệ sinh ban thờ vào ngày 23 tháng Chạp.
Cũng có truyền thuyết ông Công ông Táo kể rằng: Một hôm vào ngày lễ, Thị Nhi đang đốt mã hóa vàng ngoài sân thì thấy có người hành khất tới xin ăn. Thị Nhi nhận ra đó chính là Trọng Cao – người chồng cũ của mình, liền động lòng thương và mang gạo ra cho. Phạm Lang có chút nghi ngờ qua cử chỉ  thân mật khác thường của vợ mình và người hành khất. Thị Nhi thấy chồng mình như vậy thì xấu hổ, nói đoạn nhảy luôn vào đống lửa đang đốt mã để tự tử. Trọng Cao và Phạm Lang thấy vậy cũng nhảy vào cùng chết, một người thì cảm tình ân nghĩa, một người vì lòng yêu thương vợ. 

Su tich ong Cong ong Tao trong tin nguong dan gian Viet Nam hinh anh 3
3 người được phong làm Táo Quân
Thượng đế (ông Trời) thấy ba người có nghĩa mới phong cho làm Táo Quân, và phân chia mỗi người một việc: -Phạm Lang là Thổ Công trông lo việc bếp. -Trọng Cao là Thổ Địa trông nom việc nhà. -Thị Nhi là Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa.
 
► Mời các bạn: Xem lịch âm và giờ hoàng đạo chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Tổng hợp
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam

Tại sao không nên ướp xác bướm khô - Bướm bay vào nhà tốt hay xấu

Thỉnh thoảng nếu bạn để ý bạn sẽ thấy có những con bướm bay vào trong nhà bạn.
Tại sao không nên ướp xác bướm khô - Bướm bay vào nhà tốt hay xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các chuyên gia về tướng số, việc bướm xuất hiện trong nhà là một điềm báo cho bạn và gia đình. Cùng giải mã điềm báo từ việc bướm bay vào nhà xem đây là điềm báo hiệu điều lành hay điềm dữ cho gia chủ?

Bướm bay vào nhà là điềm lành hay dữ

Loài bướm bay từ bông hoa này đến bông hoa kia hút mật hoa tượng trưng cho một đời sống hạnh phúc của những người trẻ. Đây là một loại hạnh phúc phù phiếm, mang tính chất giai đoạn đối với những người trẻ tuổi, chưa sẵn sàng cho hôn nhân. Vì thế một số người cho rằng bướm tượng trưng cho tình yêu không nghiêm túc.

Tuy nhiên, truyền thuyết về Lương Sơn Bá - Trúc Anh Đài, mối tình bất diệt thủy chung của chàng thư sinh nghèo và cô tiểu thư giàu có nhưng bị cha mẹ của cô gái ngăn cấm. Họ hết sức đau khổ và tìm đến cái chết. Sau khi chết, cả hai hóa thành bướm và mãi mãi bên nhau.

Khi thấy có con bướm bay vào trong nhà, nhiều gia đình thường tỏ ra lo sợ và tìm cách xua đuổi vì nghĩ rằng lông của con bướm bay sẽ bám vào quần áo, đồ dùng gây ngứa da cho mọi người. Tuy nhiên bạn đừng bao giờ tìm cách xua đuổi những con bướm này ra khỏi nhà của bạn. Bởi vì những con bướm này hầu như luôn luôn mang lại tin tốt lành. Bạn cũng đừng cố gắng bắt nó, cũng như là vô tình giết chết một con bướm vì như thế có thể bạn đang làm suy giảm may mắn của bạn đi đấy.

Theo các chuyên gia phong thủy bướm là một linh hồn, thường là điểm kết nối giữa sự sống và cái chết. Quá trình sinh trưởng từ một con sâu bướm xấu xí thành một con bướm xinh đẹp cũng giống như “hành trình” của một đời người: từ khi sinh ra, lập gia đình, đến khi chết đi, chôn cất, sang cát. Nhiều người còn tin rằng bướm là một linh hồn, vì loài bướm lúc nào cũng bay chập chờn như linh hồn người chết đang còn vất vưởng chốn dương gian.

- Nếu con bướm bay vào nhà bạn có màu sắc tươi sáng, có nghĩa là bạn sắp có những tin tốt liên quan đến chuyện tình yêu của bạn.
– Nếu con bướm là màu xám hoặc gần như đen bay vào nhà bạn là điềm báo sẽ mang lại cho bạn tin tốt lành liên quan đến nghề nghiệp hoặc công việc sự việc của bạn

Có nên ướp xác bướm khô không?

Nếu bạn là người thích bướm và muốn trưng bày bướm trong nhà, thì bạn nên nhớ rằng bướm khô được ghim vào gỗ sẽ phát ra nhiều năng lượng âm. ( không tốt cho phụ nữ, và những người có gia đình). Những con bướm này được bán làm quà lưu niệm cho du khách, nhưng thực tế đây chỉ là những xác bướm. Chúng tượng trưng cho cái chết, trưng bày bướm chết không mang lại lợi ích gì. Không những thế còn rất nguy hiểm, giống như việc bạn không chôn một người mà để xác họ bên cạnh vậy. Chính vì thế, bạn tuyệt đối không nên chơi xác bướm.

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao không nên ướp xác bướm khô - Bướm bay vào nhà tốt hay xấu

Top 5 con giáp đào hoa nhất tháng 3

Đứng đầu là tuổi Mão dễ gần, hấp dẫn, mọi thứ đều tốt; về nhì là tuổi Thìn và tiếp theo là tuổi Ngọ...
Top 5 con giáp đào hoa nhất tháng 3

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No 5. Tuổi Tỵ

ran-3886-1426067595.jpg

Xem ra tháng 3 chính là "mùa xuân" của các bạn cầm tinh con rắn. Các bạn cầm tinh con rắn mà độc thân trong tháng này có đường tình rất tốt, dễ gặp được tiếng sét ái tình. Nhưng các bạn đừng vội vàng, hãy suy nghĩ cẩn thận rồi hãy quyết định nhé!

Còn với các bạn đã có người yêu thì tháng này các bạn sẽ cảm nhận được sự nồng nhiệt, ngọt ngào mà tình yêu mang đến. Nhưng dù tình cảm có nồng nhiệt tới đâu thì cũng có lúc hạ bớt nhiệt cho nên đừng vì vậy mà nghi ngờ tình yêu của người kia, cho rằng họ đã thay lòng nhé.

No 4. Tuổi Thân

than-9977-1426067596.jpg

Chuyện tình duyên của các bạn cầm tinh con khỉ cũng rất nổi bật trong 12 con giáp vào tháng 3. Ai còn độc thân thì tháng này sẽ khá nhạy cảm, dễ cảm động bởi những điều nhỏ nhặt, không ít người khác phái chủ động tỏ tình. Nhưng đừng chỉ vì cảm động nhất thời mà dễ dàng gật đầu đồng ý nhé, kẻo khiến người khác tổn thương, cũng làm chính mình mất đi cơ hội.

Còn ai đã có nửa kia thì tháng này nên dành nhiều thời gian cho đối phương, học cách bao dung và thông cảm. Hãy nhớ rằng rất khó để tìm được người mình yêu bởi vậy hãy trân trọng tình cảm này. 

No 3. Tuổi Ngọ

ngo-1510-1426067596.jpg

Tình duyên của các bạn cầm tinh con ngựa tháng này rất khá. Những bạn độc thân hãy chuẩn cơ hội, và đừng ngại ngần. Mau thừa dịp tốt này mà chủ động cùng đối phương "kết bạn" nhé.

Còn các bạn đã có nửa kia thì cả tháng đều cười tươi như hoa, tình cảm thăng hoa đến mức "Chỉ làm uyên ương, không làm tiên". Có lẽ một chuyến du lịch cuối tuần sẽ làm tình yêu của hai bạn càng thêm ngọt ngào.

Á Quân: Tuổi Thìn

thin-1134-1426067596.jpg

Vận khí của các bạn tuổi Thìn tháng 3 này quả thực khiến người khác ước ao. Các bạn còn độc thân thì sẽ gặp nhân duyên cực kỳ tốt, có nhiều cơ hội tiếp xúc với các bạn khác phái. Nếu như nhân cơ hội này chứng tỏ được sự quyến rũ của bản thân biết đâu lại khiến ý trung nhân siêu lòng không biết chừng!

Còn nếu đã có nửa kia thì tháng này có thể bạn sẽ gặp một chút cãi cọ, tranh chấp, nhưng đó cũng giống như gia vị cuộc sống vậy. Nếu bạn làm một điều gì đó lãng mạn, bất ngờ hay dành nhiều thời gian bên cạnh người mình yêu thương thì tình cảm sẽ ngày càng bền chặt.

Quán Quân: Tuổi Mão

meo-8511-1426067596.jpg

Trong tháng 3, người tuổi Mão bỗng trở nên vô cùng dễ gần, hấp dẫn, vận khí so với người khác cũng tốt hơn rất nhiều. Đối với các bạn độc thân thì đây là thời cơ tốt để bắt đầu chuyện tình cảm, người khác dễ có thiện cảm với các bạn!

Tháng này, những bạn tuổi Mão đã có người yêu thì tình cảm sẽ cực kỳ ngọt ngào, thân mật. Nhưng tốt nhất ở trước mặt người khác các bạn nên hạn chế thể hiện một chút kẻo khiến họ ghen tỵ, thấy phiền thì thật không tốt! Hãy cùng nửa kia của mình đi chơi, tranh thủ mùa xuân tươi đẹp!

Kunie (theo Astro)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp đào hoa nhất tháng 3

Bài học cuộc sống : Gieo nhân nào gặp quả ấy

Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.
Bài học cuộc sống : Gieo nhân nào gặp quả ấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị ‘pan’ đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối, anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề, đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống xe. Chiếc xe Pontiac cũ kĩ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.

Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta…
Anh nói: ‘Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson.’

Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chỗ khuỷ tay cũng như lòng bàn tay một hai lần gì đó.

Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe. Nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau rát.

Trong khi anh đang siết chặt mấy con ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kiếng và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cám ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến điều là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ giúp người đang cần được giúp đỡ vì Chúa, Phật hay chính bản thân anh cũng biết rằng đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó, và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại.

Anh nói với bà cụ, nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ, bà có thể sẵn sàng cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: ‘Và hãy nghĩ đến tôi’

Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu lean xe của mình đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà.

Chạy được vài dặm trên con lộ, bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ.. Bà ghé lại, tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào, trước khi bà đi đoạn đường chót về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà.. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi, mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù đã phải đứng suốt ngày nay để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ ra sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ.

Rồi tự nhiên bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy. Và bà cụ vẫn còn thắc mắc, không hiểu tại sao một người có ít đến độ thiếu thốn mà lại sẵn long cho một người lạ mặt rất nhiều…

Sau khi ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc một trăm của bà cụ.. nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa mất rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi khuất . Chị hầu bàn thắc mắc, không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi dọn dẹp, chị để ý trên bàn thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng…

Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: ‘Cô sẽ không nợ gì tôi cả. Tôi cũng đã từng ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô hiện nay. Có ai đó đã một lần giúp tôi, giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô.’
Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng, bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô-la nữa.

Thật ra, còn có những bàn ăn cần lau dọn, những hũ đường cần đổ đầy, và những khách hàng để phục vụ… Và chị hầu bàn đã hoàn tất những việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai.

Tối hôm đo,ù khi đi làm về và leo lên giường nằm, chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào mà bà cụ đã biết chị và chồng của chị hiện đang cần số tiền ấy? Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn… Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào, và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh, ‘Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan Anderson, ạ.’

Theo Bài Học Cuộc Sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học cuộc sống : Gieo nhân nào gặp quả ấy

Các lễ hội diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch có Hội Đình Văn Khê được tổ chức tại xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp

Các lễ hội diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp

Hội Đình Văn Khê

Thời gian: tổ chức từ ngày 17 tới ngày 18 tháng 5 âm lịch.

Địa điểm: xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn:  nhằm suy tôn hai vị thành hoàng làng của Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Nội dung: Vào hội, ngày 17 bắt đầu với lễ rước nước vào lúc 2 giờ chiều. Dẫn  đầu đám rước là phường Bát âm, tiếp sau là cờ quạt, nghi trượng, hàng đô khiêng kiệu có chum đựng nước, các quan viên và dân làng. Đoàn rước đến giếng làng, làm lễ lấy ngót rồi trở về đình cử hành lễ tắm tượng hại hậu cung. Chính hội ngày 18, tại đình Trung chủ tế làm lễ thỉnh kinh (xin phép Thành hoàng cho chọc tiết lợn) nơi cửa Thánh; sau đó chủ tế ra sân đình lựa chọn 1 trong 6 con lợn tế của 6 giáp, truyền cho cắt một túm lông đầu và lông đuôi, rồi chọc tiết hứng vào bát mang lễ Thánh. Tiếp theo, đội hình tế lễ dàn ra theo lời xướng của hai vị Đông xướng và Tây xướng. Khi vị Đông xướng hô ''ê mao huyết'', người giúp việc tế chạy vào hậu cung lấy bát huyết mang ra đổ quanh gốc đa trước sân đình. Sau các nghi lễ truyền thống là các hoạt động nghệ, các trò chơi dân gian. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp

phong thủy ban công

Phong thủy ban công là phần rất quan trọng mà không phải ai cũng chú ý.
phong thủy ban công

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong điều kiện đất đai chật hẹp, ban công trở thành không gian hiếm hoi có được lợi thế của một vùng chuyển tiếp giữa trong và ngoài, chung và riêng. Phong thủy ban công là phần rất quan trọng mà không phải ai cũng chú ý.

 
Bo tri ban cong hop phong thuy hinh anh
 
Ban công là nơi bị hung sát nhiều nhất vì không có tường che chắn. Bày đôi sư tử đá có thể hóa giải vì nó là vật dương cương trấn trạch, bảo vệ an toàn. Miệng sư tử đá hướng ra ngoài nhà.
 
Kỳ lân là linh thú có linh khí mạnh nhất. Nó xuất hiện báo điềm cát lợi, mang lại sức khỏe cho gia chủ, nên đặt ở ban công.
 
Ban công trông ra biển, hồ, ao có thể bày một đôi rồng đá để nạp tài. Tuy nhiên, người tuổi Tuất không nên bày rồng đá, thay bằng rùa đá, kỳ lân đá vì hai linh thú này thích nước, vượng tài. Đầu rồng quay về phía hồ nước.
 
Người tuổi Dậu, Tý, Mão, Tỵ kị đặt tượng chim ưng ở ban công vì chim ưng bắt gà, khó tiến lên được.
 
Nếu ban công nhìn ra phía trước có con đường đâm thẳng vào nhà, giống như con cọp dữ phóng thẳng tới vồ là rất xấu. Nên tránh mở ban công theo hướng này. Nếu lỡ mở thì nên đặt rùa đồng hoặc chậu cảnh lá to để hóa giải.

Bo tri ban cong hop phong thuy hinh anh 2
 
Ban công nhìn ra tường ô kính, ánh sáng phản chiếu vào gọi là “phản quang sát”, hung sát. Nhà ở bị “thiêu”, nhiệt độ cao, chói mắt, chủ bị nạn đao kiếm, xe cộ. Nên treo hồ lô gỗ, xâu tiền ngũ đế, bạch ngọc, gương lồi để hóa giải.
 
Ban công nhìn ra khe giữa hai tòa nhà là bị “Thiên trảm sát”, đại hung. Đặt ngựa đồng hoặc xâu tiền đồng ở cửa sổ. Tình hình nghiêm trọng có thể đặt một đôi kỳ lân đồng ở ban công để hóa giải.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: phong thủy ban công

Tử vi trọn đời nữ mệnh Giáp Tuất 1994

Nữ Giáp Tuất có nhiều triển vọng tốt đẹp về danh phận, cuộc sống có nhiều sung sướng và gặp nhiều may mắn trong cuộc đời. Tiền vận cũng hơi nhiều lo âu, buồn khổ, nhưng trung vận thì an nhàn sung sướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ mệnh Giáp Tuất sinh năm 1994, thuộc cung Cấn, mạng Sơn đầu hỏa (lửa trên núi).

 Tử vi trọn đời nữ mệnh Giáp Tuất 1994

Cuộc đời nữ mệnh Giáp Tuất.

Nữ Giáp Tuất có nhiều triển vọng tốt đẹp về danh phận, cuộc sống có nhiều sung sướng và gặp nhiều may mắn trong cuộc đời. Tiền vận cũng hơi nhiều lo âu, buồn khổ, nhưng trung vận thì an nhàn sung sướng.

Tóm lại: Tuổi Giáp Tuất có cơ hội làm sáng đẹp cuộc đời, nhiều may ít rủi, vào trung vận thuận tiện cho việc làm ăn, hay có tốt đẹp trong gia đình hạnh phúc.

Về nhân duyên của nữ mệnh Giáp Tuất.

Vấn đề tình duyên của tuổi Giáp Tuất có 3 trường hợp sau: Nếu bạn sanh vào những tháng dưới đây cuộc đời sẽ có ba lần thay đổi về tình duyên, hạnh phúc là là những bạn sinh vào tháng 3, 6, 8 10 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng này thì cuộc đời của bạn có 2 lần thay đổi tình duyên hạnh phúc: 2,4, 7, 9, 11 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng này thì cuộc đời bạn hưởng được hoàn toàn hạnh phúc nếu bạn sinh vào những tháng như 1, 5, 12 âm lịch.

Gia đạo công danh của nữ mệnh Giáp Tuất.

Gia đạo có phần tốt đẹp và hạnh phúc. Công danh thì chỉ ở mức bình thường.

Sự nghiệp sẽ hoàn toàn tốt đẹp sau tuổi 34. Vấn đề tiền tài sẽ dễ dàng và nhiều điều tốt đẹp từ trung vận trở đi.

Tuổi Giáp Tuất vào những năm sau đây sẽ gặp khó khăn nhất: 23, 25, 27, 31 tuổi. Vào những năm này thì bạn nên đề phòng tai nạn hay bệnh tật, có hao tài vào những năm này.

Những tuổi hạp cho việc làm ăn của nữ mệnh 1994, những nữ mệnh này cần trong sự làm ăn, không muốn thất bại về tiên bạc, bạn nên hợp tác với những tuổi sau đây: Ất Hợi, Bính Tý, Mậu Dậu thì mọi việc dự tính sẽ được hoàn toàn như ý.

Chọn tuổi kết hôn hợp với nữ mệnh sinh năm 1994

Trong việc hôn nhân hạnh phúc nếu bạn kết hôn với những tuổi sau đây thì cuộc đời bạn sẽ được sống trong sự cao sang quyền quý của cuộc đời: Ất Hợi, Bính Tý, Mậu Dần, Tân Tị, Nhâm Ngọ và Nhâm Thân. Những tuổi này rất hợp với đường tình duyên và cả tài lộc của bạn. Nếu muốn được cuộc sống cao sang quyền quý thì nên kết duyên với những người tuổi này.

Những năm sau đây thì người Giáp Tuất không nên kết hôn vì kết hôn vào những năm này thì sẽ gặp cảnh xa vắng triền miên, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 17, 21, 23, 29, 33 tuổi.

Những tuổi đại kị trong cuộc đời của nữ mệnh 1994

Không nên hùm hạp làm ăn với những tuổi này vì nếu kết hợp với những tuổi này thì gặp phải cảnh biệt ly hay tuyệt mạng giữa cuộc đời, đó là nếu bạn kết hôn hay hợp tác làm ăn với những tuổi: Đinh Sửu, Ất Dậu, Kỷ Sửu, Tân Mạo, Quý Dậu, Đinh Mạo.

Diễn biến cuộc đời của nữ tuổi Giáp Tuất

Từ năm 18 đến năm 22 tuổi: năm 18 tuổi bạn sẽ gặp được một chuyện may mắn bất ngờ về việc công danh vào mùa đông. Đầu năm 19 tuổi, tình yêu đến với bạn  đẹp như một bài thơ nhưng cuối năm lại tan vỡ một cách đột ngột. Năm 20 tuổi là năm bạn có nhiều nỗi buồn về mọi mặt, bạn sẽ phải quyết định một việc quan trọng làm cho bạn khó nghĩ, nhưng nhờ một cuộc đi xa miễn cưỡng nhưng lại rất đẹp, được giải quyết ổn thỏa. Năm 21 tuổi, bạn sẽ gặp một sự may mắn bất ngờ về việc tình cảm. Năm 22 tuổi, năm làm lại cuộc đời của bạn. Một năm tươi đẹp mà bạn không ngờ.

Từ năm 23 đến năm 26 tuổi:

Thượng đế đã đền bù lại những nỗi đau khổ mà bạn sẽ phải gặp trong những năm trước. Suốt thời gian này bạn sẽ gặp may mắn liên miên. Tình cảm bạn được đầy đủ hạnh phúc. Công danh của bạn sẽ ở mức trung bình của xã hội. Tài lộc vào như nước. Đấy là những năm hên nhất của cuộc đời bạn. Bạn làm gì cũng sẽ thành công mĩ mãn. Bạn nên lợi dụng khoảng thời gian này mà xây dựng tương lại của cuộc đời.

Từ năm 27 đến năm 29 tuổi:

Năm 27 tuổi bạn sẽ bị một tai nạn nhỏ, hãy coi chừng,hay kỵ nhất là lửa vào mùa hè. Năm 28 tuổi bạn sẽ bị một cú lừa gạt nặng, nhưng nhờ có bị lừa gạt, của đi thay người. Nên năm 29 tuổi bạn sẽ bị đau bệnh rất nặng tưởng chết nhưng rồi sẽ qua khỏi vào cuối năm. Không những thế, cuối năm còn có hoạnh tài bất ngờ. Năm 29 tuổi kỵ đi xa, rất bất lợi.

Từ năm 30 đến năm 34 tuổi:

Suốt thời gian này chỉ vượng phát về vấn đề tình cảm; tài lộc bình thường, cuộc sống hơi bị khó khăn đôi chút, tình duyên có sự lo buồn cho bạn. Nên cẩn thận về những tình cảm, quyết định bồng bốt sẽ có hại.

Từ năm 35 tuổi đến năm 40 tuổi:

Năm 35, 36 tuổi hai năm này gặp nhiều may mắn trong cuộc đời. Số gặp nhiều phước lộc và có thành công trong vấn đề tài lộc lẫn tình cảm. Năm 37 và năm 38 tuổi, hai năm này việc làm ăn có nhiều tốt đẹp, cuộc sống lên cao, những năm này có rất nhiều thuận tiện cho việc đi xa hay có phát triển việc tiền bạc tốt đẹp. Năm 39 và năm 40 tuổi, hai năm này có xui xẻo, nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về cuộc sống, hai năm cuộc sống và tình cảm có nhiều đảo lộn đáng kể.

Từ năm 41 đến năm 45 tuổi:

41 tuổi còn xui xẻo vào những tháng đầu năm, giữa năm và cuối năm bình thường. Năm 42 tuổi và năm 43 tuổi hai năm này được tốt đẹ về phần tình cảm lẫn tài lộc, cuộc sống nhiều hay đẹp, gia đạo trở nên yên vui. Năm 44 tuổi và năm 45 tuổi hai năm này khá, việc làm ăn hay những dự tính nên thực hiện theo ý muốn thì mới có kết quả tốt.

Từ năm 46 đến năm 50 tuổi: Thời gian này tất cả mọi việc trong cuộc sống vẫn bình thường. Năm 48 tuổi bổn mạng có phần yếu kém, không nên đi xa hay giao dịch tiền bạc vào những năm này

Từ năm 51 đến năm 55 tuổi: Thời gian này việc làm ăn có phần sút kém, nên cẩn thận trong giao dịch tiền bạc, cuộc sống không mấy được nhiều tốt đẹp cho lắm, con cháu được huy hoàng và có nhiều triển vọng về quyền cao chức trọng.

Từ năm 56 đến năm 60 tuổi: Thời gian trầm lặng của cuộc sống, nên yên tĩnh và sáng suốt tạo cho gia đình một sự vui tươi hoàn toàn. Nên cẩn thận việc đi xa hay giao dịch về tiền bạc, trong thời gian này sẽ có mất mát.

Với nữ mệnh Giáp Tuất vào năm 2016 thì gặp sao Thổ Tú chiếu mệnh, bạn cần phải cúng giải hạn sao Thổ Tú vào ngày 19 âm lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời nữ mệnh Giáp Tuất 1994

Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Tuỳ từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nghi lễ phong tục một khác. Thời trước có thôn ấp cử những người trai tráng trong làng xóm ra khiêng vác chôn cất. Nơi có hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều hành công việc theo hương ước định sẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội trợ tang, thành phố thị xã có ban quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ các phường xã hoạt động, đứng ra lo liệu chu đáo.
Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ an táng tiến hành tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà, "Giàu làm kép, hẹp làm đơn". Ở đây chỉ nói phần tang gia cần làm gì:

  • Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bàn bạc theo quy ước đã định.
  • Thời xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo quan không sóng sánh ra ngoài thì tang chủ đưa tiền thưởng rất hậu.
  • Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tài theo tục "Cha đưa mẹ đón".
  • Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người ném xuống một hòn đất.
  • Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần.
  • Nghi thức chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa, nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân... rắc vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu hút thuốc, đãi người đắp mộ... 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ an táng tiến hành như thế nào ?

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng

Nếu có nốt ruồi ở sau lưng, hãy vui vì điều đó bởi lẽ chúng thể hiện sự tài vận thành đạt, phú quý và trường thọ.
Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

not-ruoi-1-5435-1443428075.jpg not-ruoi-2-9968-1443428075.jpg not-ruoi-3-6535-1443428075.jpg not-ruoi-4-6799-1443428076.jpg
Chính giữa cột sống Cuối xương cụt Sống lưng, đối diện là rốn Cuối xương bả vai

Mr.Bull (theo XHN)

bammimatgiuduocbaolau1-1443168-4973-1694 Soi hình dáng mắt, đoán lòng chung thủy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng

Bố trí một số vật dụng nội thất giúp gia chủ tuổi Thân đón tài lộc

Theo các chuyên gia phong thủy thì ngoài việc chọn hướng nhà, sắp xếp các phòng cho hợp lý thì các gia chủ nên cân nhắc kỹ lưỡng một số những yếu tố về màu sắc, vật dụng nội thất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo thuyết ngũ hành, ngay cả chuyện màu sơn của ngôi nhà cũng tác động tới tài vận, sức khỏe của cả gia đình nên cần thiết phải có cái nhìn đúng đăn về vấn đề này.

Tuổi Bính Thân: Tuổi này sinh vào những năm 1956 và 2016. Quẻ mệnh: Cấn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh, Ngũ hành: Sơn hạ hỏa (Lửa dưới chân núi). Các hướng tốt: Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên)l; Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị). Hướng xấu: Nam (Họa Hại); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Đông (Lục Sát); Bắc (Ngũ Quỷ). Riêng về năm 2015, tuổi Bính Thân tuy không phạm phải Tam tai nhưng lại phạm vào Kim lâu và Hoàng ốc vì vậy mà không nên tiến hành xây dựng.

Xét theo tuổi này, cách bày trí nội thất cũng có những đặc điểm khác so với những người cùng tuổi Thân khác. Mang mệnh Hỏa nên màu sắc hợp với bản mệnh là màu đỏ, tím, hồng, tuy nhiên, nếu như gia chủ không thích những màu này thì có thể chọn màu xanh để thay thế. Màu xanh tượng trưng cho mệnh Mộc, trong Ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa sẽ rất tốt cho gia chủ. Bên cạnh đó, để có được màu sơn thích hợp với gia đình mình, các gia chủ cũng có thể pha trộn các màu với nhau miễn sao đảm bảo được tông màu gốc.

Về bày trí nội thất, tốt nhất là gia chủ nên sử dụng các vật dụng bằng gỗ làm chủ đạo. Ví dụ như việc làm cầu thang, tốt nhất là nên sử dụng gỗ mà không nên sử dụng inox hay kính vì không tương thích với bản mệnh. Ngay cả những vật phẩm phong thủy cũng nên tuần theo nguyên tắc này, sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, hồng, cam, tím, xanh lá. Còn về việc bày trí phòng bếp, phòng ngủ, phòng thờ thì cứ căn cứ theo các hướng tốt của bản thân để quyết định.

Tuổi Canh Thân: Tuổi này sinh năm 1980. Quẻ mệnh Không (thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ câu lựu). Các hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y). Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Họa Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát). Về năm 2015, tuổi Canh Thân không phạm phải Tam tai và Kim lâu nhưng lại phạm Hoàng ốc. Do đã đạt được hai yếu tố căn bản nên có thể cân nhắc việc xây dựng nhưng tốt nhất là nên làm lễ cẩn thận, nếu được thì tìm người tuổi đẹp để động thổ giúp.

Trong việc bày biện nội thất, Ngũ hành tương sinh tương khắc, Thủy sinh Mộc (nước nuôi cây) nên các màu của nước sẽ hợp với Mộc như màu đen của đất hay màu xanh dương, màu xanh da trời của nước. Tiếp đến là các màu bản mệnh của mộc như xanh lá cây, màu gỗ, và các gam màu thuộc hỏa như đỏ, hồng, tím. Mệnh Mộc cũng hợp với các chế phẩm từ gỗ, hoa cỏ và những hình trang trí như hổ, thỏ, mèo…

Không nên sử dụng màu trắng trong trang trí nhà cho người mệnh Mộc. Người mệnh Mộc hợp với các đồ dùng có màu xanh lá cây và màu gỗ. Người mệnh này cũng có thể bổ sung thêm các vật dụng màu đỏ, hồng, tím để tô điểm cho không gian nhà nhưng chỉ với số lượng vừa phải. Những người tuổi Canh Thân nói riêng và mệnh Mộc nói chung nên hạn chế tối đa các vật dung bằng kim loại khi bày trí nội thất trong gia đình vì theo Ngũ hành Kim sẽ khắc Mộc, không có lợi.

 bo tri mot so vat dung noi that giup gia chu tuoi than don tai loc - 1

Nội thất màu vàng phù hợp với người tuổi Mậu Thân. 

Tuổi Giáp Thân: Người tuổi này sinh năm 1944. Quẻ mệnh: Khôn Thổ thuộc Tây Tứ Mệnh nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch. Ngũ hành: Tuyền Trung Thủy (Nước trong suối). Các hướng tốt gồm: Tây Bắc: Diên Niên; Đông Bắc: Sinh Khí; Tây: Thiên Y; Tây Nam: Phục Vị. Còn hướng xấu sẽ là: Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Chết chóc. Đông – Họa Hại: Nhà có hung khí. Đông Nam – Ngũ Quỷ: Gặp tai họa. Nam – Lục Sát: Nhà có sát khí. Năm 2015, tuổi này không phạm Tam tai, không phạm Kim lâu nhưng phạm Hoàng ốc, có thể xây dựng được.

Theo phong thủy ngũ hành bạn có thể bài trí nhà cho người mệnh Thủy theo tương sinh, tương hợp. Nghĩa là những màu sắc thuộc hành Thủy, hành Mộc và hành Kim sẽ tốt cho người mệnh Thủy nhất. Màu sắc chủ đạo của mệnh Thủy là các tông màu xanh, đen, còn màu sắc của hành Kim là trắng, ánh kim và không nên dùng màu nâu, vàng, đỏ thuộc hành Thổ và hành Hỏa. Bởi vì chủ nhà mệnh Thủy, nên các chất liệu kim loại, gỗ, thủy tinh rất phù hợp để sử dụng. Đồ vật nên dùng hình tròn, hình trụ, hình lượn sóng thuộc Kim, Mộc, Thủy, tránh những đồ vật hình nhọn thuộc Hỏa khắc Thủy. Trong nhà luôn có cây xanh, treo chuông gió bằng kim loại hoặc các bức tượng bằng đồng, bằng gỗ.

Một lời khuyên là những gia chủ mệnh này nên sử dụng nhiều vật dụng bằng kim loại, kính và ngược lại chỉ nên sử dụng các loại đồ gỗ một cách có chừng mực. Theo Ngũ hành, Kim sinh Thủy mà hai chất liệu kia lại tượng trưng cho mệnh Kim vì vậy sẽ bổ trợ cho bản mệnh của gia chủ, đồ gỗ nhiều sẽ khiến cho gia chủ thêm ưu tư lo phiền.

Tuổi Mậu Thân: Năm sinh dương lịch: 1968, 2028. Quẻ mệnh: Khôn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Đại trạch thổ (Đất thuộc khe lớn). Các Hướng tốt: Đông Bắc (Diên Niên); Tây (Thiên Y); Tây Nam (Phục Vị). Hướng xấu: Đông (Họa Hại); Đông Nam (Ngũ quỷ); Nam (Lục Sát); Bắc (Tuyệt mệnh). Năm 2015, tuổi này phạm phải Kim lâu và Hoàng ốc nên việc xây dựng có thể lui lại đến thời gian sau, trong tình huống bắt buộc thì phải nhờ người động thổ giúp, tránh mặt trong những lúc khởi công và đổ mái.

Theo quan điểm phong thủy, một số nền văn hóa cổ xưa tôn sùng màu vàng bởi đây là màu của sức mạnh, quyền năng và duy trì sự sống. Căn phòng cho người mệnh Thổ được sơn vàng hoặc các vật dụng trang trí màu vàng luôn tỏa ra một niềm vui như mùa thu tỏa nắng, khi được trang trí căn phòng sẽ toát lên niềm lạc quan, yêu đời. Nội thất phòng khách dưới đất là một gợi ý cho người mệnh Thổ với bức tường gạch nung, sofa màu vàng, vật liệu gỗ nâu trầm, đèn chùm trang trí pha màu vàng và các đồ vật trang trí khác bằng gốm sứ…Những gam màu tối của không gian Thổ luôn tạo ra sức mạnh của uy quyền và do đó, gợi lên sự sang trọng, tinh tế nên không gian Thổ thường được đưa vào nội thất phòng khách của những người đã có sự thành đạt nhất định trong cuộc sống.

Tuổi Nhâm Thân: Người này sinh năm 1992. Quẻ mệnh: Cấn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Kiếm phong kim (Vàng đầu mũi kiếm). Hướng tốt: Tây Nam (Sinh khí); Tây (Diên Niên); Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị). Hướng xấu: Nam (Họa Hại); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Đông (Lục Sát); Bắc (Ngũ Quỷ). Năm 2015, người tuổi này phạm phải Kim lâu và Hoàng ốc nên không nên xây dựng, tốt nhất là lui lại thời gian khởi công vào những năm sau.

Màu sắc chính của người mệnh Kim là màu trắng. Do đó mệnh Kim có thể sử dụng màu trắng là gam màu chính cho các đồ dùng trong gia đình. Ngoài ra, theo tương sinh thì Thủy sinh Kim, mà màu xanh lam và đen đại diện cho thủy nên người mệnh này cũng có thể sử dụng các vật dụng màu này để bổ sung cho mình. Cũng theo ngũ hành thì Hỏa khắc Kim, nên nếu trong nhà đã lựa chọn màu trắng làm chủ đạo thì nên hạn chế hoặc không sử dụng đến các màu đỏ và tím. Những gia chủ có mệnh Kim thì nên hạn chế hoặc tránh sử dụng đồ nội thất hoặc trang trí nhà với gam màu đỏ, tím.

Người mệnh Kim nên chọn các vật liệu trang trí nhà bằng kim loại như thép, nhôm, vàng, bạc… Đặc tính kim loại của chúng có thể thúc đẩy sự lưu thông không khí. Vì vậy, với các vị trí kín trong nhà, nên trưng bày các vật bằng kim loại. Về các loại cây trồng, người mệnh Kim nên trồng hoặc trang trí các loại cây, hoa sau trong nhà: hoa ngọc lan, cửu lý hương, kim bách hợp, hàm tiếu, mễ lan, kim quế và hoa kim ngân.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí một số vật dụng nội thất giúp gia chủ tuổi Thân đón tài lộc

Những điều cấm kị về phong thủy thang máy đối với nhà ở

Thang máy đã trở thành thiết bị không thể thiếu trong các tòa nhà cao tầng, bạn biết những điều đại kị về phong thủy thang máy đối với nơi ở như chung cư chưa?
Những điều cấm kị về phong thủy thang máy đối với nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thang máy giờ đã trở thành thiết bị không thể thiếu trong các tòa nhà cao tầng, nhưng bạn đã biết những điều đại kị về phong thủy thang máy đối với nơi ở như chung cư chưa? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu ngay nhé.
Điều kiện vật chất ngày càng được nâng cao, con người ta cũng bắt đầu chú trọng hơn đến chất lượng cuộc sống. Khi những tòa nhà cao tầng mọc lên như nấm thì thang máy cũng xuất hiện ngày càng nhiều hơn.
  Thang máy mang lại cho chúng ta rất nhiều tiện ích, những tòa nhà cao tầng không còn là nỗi ám ảnh khi chỉ mất thời gian trong chớp mắt là có thể đến được tầng cao mình cần. Tuy nhiên, thang máy cũng có thể ẩn chứa rất nhiều hiểm họa bên trong. Loại bỏ lý do an toàn bởi thang máy kém chất lượng thì về phong thủy, thang máy cũng có thể gây nguy hiểm cho con người.   Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ với các bạn một vài thông tin về phong thủy thang máy, về những điều cấm kị trong phong thủy thang máy mà rất nhiều nơi mắc phải. Cùng theo dõi nhé.  

1. Thang máy lắp đặt quá dày đặc sẽ khiến cho cư dân dễ bị tán tài tán lộc

  Với các tòa nhà cao tầng lớn thì số lượng thang máy thường khá nhiều mà lắp đặt san sát cạnh nhau. Có điều thang máy được lắp đặt như vậy là đại kị trong phong thủy, có lẽ nhiều người không hề biết.


thang may lap dat qua day dac
 

Cửa thang máy bình thường đều trong trạng thái đóng, song đường thang máy lên xuống thì tựa như một con đường thông suốt từ dưới chân lên tận đỉnh tòa nhà. Trong phong thủy tối kị xung quanh nhà có đường thông đi tứ phương, không có điểm che chắn. Với các tòa nhà cao tầng, mà thường nói ở đây là nhà chung cư thì nếu thang máy san sát nhau cũng không khác gì rất nhiều con đường đâm xuyên qua tòa nhà, mang theo tài lộc đi mất. Vì thế mà người dân sống ở đây sẽ không được hưởng tài lộc mà còn dễ bị tán tài, không giữ được gia sản trong tay.

Mời bạn xem thêm: Làm thế nào để cải thiện phong thủy tài lộc?
 

2. Thang máy lắp đặt quá dày đặc sẽ khiến sát khí cực nặng

  Thang máy được coi là loại máy móc thiết bị cỡ lớn. Chúng ta đều biết là trong phong thủy thì máy móc thiết bị do vật liệu cấu tạo và tác dụng của nó mà có sát khí khá nặng. Nếu ở các tòa nhà chung cư mà lắp đặt quá nhiều thang máy san sát nhau thì sẽ khiến cho cả tòa nhà bị sát khí bao trùm. Sát khí nặng như vậy không phải là nơi thích hợp cho người sinh sống. Ở trong những tòa nhà đó thời gian dài, gia chủ dễ gặp nhiều tai họa bất ngờ, nhất là khó tránh gọi tai nạn.

Mời bạn tham khảo: Phương pháp hóa giải sát khí trong phong thủy.
 

3. Thang máy lắp đặt quá dày đặc sẽ ảnh hưởng đến tích tụ địa khí



gieng thang may gay xung sat
 

Không chỉ bản thân thang máy mới có sát khí nặng mà khi lắp đặt thang máy, giếng thang máy cũng sẽ có tác động rất lớn đến phong thủy của tòa nhà. Giếng thang máy thông thường phải đào sâu xuống lòng đất và xuyên suốt cả tòa nhà, vì thế, nếu thang máy ở chung cư lắp đặt san sát nhau thì địa khí sẽ khó bề tích tụ. Nơi ở mà địa khí khó tụ thì sẽ không tốt cho sức khỏe, không thích hợp để sinh sống lâu dài.
 

4. Thang máy đối diện với cửa ra vào, gây sát khí

  Trong nhiều nhà chung cư hiện nay, do thiết kế và diện tích mà thang máy được lắp đặt thẳng với cửa ra vào. Theo phong thủy thang máy thì đây là điều đại kị. Thang máy hoạt động lên xuống theo chiều thẳng đứng, trong quá trình vận hành sẽ tạo ra luồng khí. Khi cửa thang máy mở ra, luồng khí đó sẽ chạy qua cửa ra vào và xộc thẳng vào nhà.


phong thuy thang may
 
  Luồng khí từ thang máy có hai loại, một là tạp khí, hai là âm khí. Tạp khí là những trường khí hỗn loạn trong thang máy, cũng có thể coi là sát khí. Còn âm khí là luồng khí từ dưới lòng đất, theo giếng thang máy đi lên, âm khí và dương khí xung khắc, tạo ra sát khí.   Với hình thức thiết kế này, chẳng những gây bất tiện khi gia chủ mất đi sự kín đáo mà còn có thể đem tai họa đến với gia chủ. Cách đơn giản để hóa giải là dùng một bức rèm dày để che chắn trước cửa nhà mình, ngăn không cho sát khí vào nhà. Bạn cũng có thể dùng bình phong hay huyền quan để chuyển hướng cho luồng khí.
An An


10 kiểu nhà có kiến trúc xấu, chớ dại mà mua Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Nam có tốt không? Lưu ý phong thủy khi chọn nhà chung cư

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kị về phong thủy thang máy đối với nhà ở

Dọn nhà ngày Tết cấm động 3 góc chết trong phong thủy

Trong phong thủy, có 3 phương vị chịu sự cai quản của hung tinh tháng Chạp nên tuyệt đối không được tiến hành tu sửa, dọn dẹp,gọi là 3 góc chết trong phong thủy
Dọn nhà ngày Tết cấm động 3 góc chết trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong phong thủy, có 3 phương vị chịu sự cai quản của hung tinh tháng Chạp nên tuyệt đối không được tiến hành tu sửa hay dọn dẹp mang tính nhiều biến động, gọi là 3 góc chết trong phong thủy. 


Không khí Tết đang đến ngày càng gần. Lúc này, bạn bè đi học, đi làm phương xa đang nô nức về nhà, háo hức khoảnh khắc được tụ tập cùng gia đình, cùng nhau quây quần bên mâm cơm, cùng nhau quét dọn và trang trí nhà cửa chuẩn bị cho năm mới. Tuy nhiên, quét dọn, trang trí nhà cửa cũng cần chú ý đến những “góc chết” mà theo phong thủy học, từ tháng Chạp trở đi, những vị trí này sẽ chịu sự quản hạt của Hung Tinh, do đó tuyệt đối không được có nhiều biến động lớn.

Hướng Chính Tây


Theo Tử Bạch Quyết, trong tháng Chạp, Hung Tinh Ngũ hoàng sẽ giá lâm đến hướng chính Tây. Trong phong thủy học, Ngũ hoàng là một Hung Tinh (sao xấu) tuyệt đối không thể động, một khi hướng này động sẽ gặp phải những chuyện không may như bị bệnh, dễ gặp chuyện ngoài ý muốn, gặp nhiều trở ngại… Tìm hiểu thêm cách khắc chế hóa giải Ngũ hoàng đại sát để hóa giải vận xui. 

Don nha ngay Tet cam dong 3 goc chet trong phong thuy hinh anh
 
Do vậy, nếu như bạn có ý định quét dọn, tu sửa nhà vào tháng Chạp, không nên có biến động lớn ở hướng chính Tây, ví dụ như không được dán hình, đóng đinh, thậm chí một số công trình có sự thay đổi về tường hay sàn ở hướng này cũng nên thận trọng.

Hướng Đông Nam


Vào tháng chạp, Hung Tinh Bệnh Phù sẽ bay tới hướng Đông Nam. Do vậy, từ sau lễ ông Công ông Táo, những bạn có cửa chính phòng ngủ quay về hướng Đông Nam nên chú ý đến sức khỏe, bởi sẽ dễ cảm cúm hoặc bị bệnh.

Don nha ngay Tet cam dong 3 goc chet trong phong thuy hinh anh 2
 
Trong tháng Chạp, hướng này cũng không nên có biến động lớn, cần hạn chế đặt các đồ vật mới vào hướng này, đồng thời cấm kỵ di chuyển giường, thay rèm hoặc mở rèm thường xuyên. Phù Tinh không quá nghiêm trọng như Ngũ Hoàng, những người phạm phải Phù Tinh nặng nhất là bị bệnh mà thôi. Tuy nhiên sức khỏe là vàng, những gì có thể tránh được thì vẫn nên tránh.

Hướng Chính Đông


Don nha ngay Tet cam dong 3 goc chet trong phong thuy hinh anh 3
 
Hung tinh thông thường  bao gồm 3 loại: Ngũ Hoàng, Bệnh Phù và Tam Sát. Trong tháng 12, vị trí của sao Tam Sát là hướng chính Đông. Do vậy, không được động thổ, không dán hình lên tường ở hướng này là được. Còn thay đổi đồ đạc hay đặt thêm mấy đồ mới hoàn toàn không có vấn đề gì. Xem thêm bài viết: Vị trí Tam Sát năm 2017 và cách hóa giải theo phong thủy .

Thiên Lam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dọn nhà ngày Tết cấm động 3 góc chết trong phong thủy

Giải mã giấc mơ thấy chân

Đôi chân giúp con người đứng vững, giúp con người có khả năng di chuyển vị trí. Một đôi chân khỏe bao giờ cũng tốt hơn một đôi chân thiếu vững vàng. Trong giấc
Giải mã giấc mơ thấy chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mơ cũng vậy, sức mạnh của đôi chân cảnh báo khả năng chèo lái trong cuộc sống của bạn.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Tu tin voi doi chan hinh anh
Ảnh minh họa
 
Bạn nằm mơ thấy một đôi chân khỏe mạnh, điều này ám chỉ rằng bạn đã khôi phục dự tự tin để đứng lên và kiểm soát lần nữa. Ngoài ra, nó còn ám chỉ cho sự tiến bộ và khả năng chèo lái cuộc sống của bạn.

Nằm mơ thấy đôi chân của mình không vững vàng, có thể bạn cảm thấy dễ bị xúc động.
 
Thấy chân của người khác trong mơ, biểu thị cho sự ngưỡng mộ của bạn đối với người ấy.
 
Mơ thấy đôi chân bạn bị thương hoặc què, ám chỉ cuộc sống của bạn đang bị thiếu cân bằng. Có thể bạn không có khả năng hoặc chưa sẵn sàng đứng lên vì bản thân. Có lẽ bạn thiếu can đảm và từ chối việc tạo ra chỗ đứng. 
 
Mơ thấy 1 trong 2 chân bạn ngắn hơn chân người khác, ám chỉ rằng có sự chưa thăng bằng nào đó trong cuộc sống của bạn. Bạn đang đánh giá tầm quan trọng và sức nặng của điều gì đó, nhưng lại phớt lờ những khía cạnh quan trọng khác của bản thân.
 
Mơ thấy bạn có 3 chân hoặc hơn nữa, ám chỉ rằng bạn đang đảm nhận quá nhiều việc hơn khả năng kiểm soát của bạn. Đáng tiếc là bạn sẽ nhận ra rằng chúng không khả thi và mất nhiều thời gian.
 
Thấy bắp chân của bạn trong mơ, biểu tượng cho sự chuyển động và khả năng thay đổi hoàn  cảnh của bạn. 
 
Mơ thấy bạn đang chăm chú nhìn bắp chân của mình, thì xin chúc mừng, bạn sắp gặp được người mình yêu, tuy nhiên có thể người đó khá nghèo và phải phụ thuộc vào bạn.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy chân

Đoán khả năng nhảy việc qua đường chỉ tay Sự nghiệp

Khả năng nhảy việc của bạn là bao nhiêu? Hãy xem sự thay đổi về đường chỉ tay Sự nghiệp sẽ rõ.
Đoán khả năng nhảy việc qua đường chỉ tay Sự nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Khả năng nhảy việc của bạn là bao nhiêu? Hãy xem sự thay đổi về đường chỉ tay Sự nghiệp sẽ rõ.



Đường chỉ tay Sự nghiệp còn được gọi là đường Vận mệnh hay vân Ngọc trụ (vì nó như trụ cột ở giữa lòng bàn tay). Đường này đại diện cho thành tựu trong công việc đạt được là lớn hay nhỏ, các mối quan hệ xã giao mở rộng ở phạm vi nào, công danh sự nghiệp phát triển đến mức độ nào.

1. Đường Sự nghiệp thẳng tắp

Nếu có đường Sự nghiệp thẳng tắp như hình, bạn thích hợp làm công việc lâu dài tại một cơ quan, công ty nhất định. Bạn nên tìm cho mình công việc theo đúng sở thích để có thể phát huy sở trường và cống hiến tới khi về già.

Doan kha nang nhay viec qua duong chi tay Su nghiep hinh anh
 
Chỉ cần bạn chịu khó, kiên trì, ít toan tính, nhất định sẽ duy trì công việc lâu dài. Nếu muốn thăng chức, đừng bao giờ nghĩ tới chuyện nhảy việc. Trái lại, hãy bám trụ với việc bản thân yêu thích, ắt sẽ gặt hái được thành công.

Có điều, trước khi tìm được công việc theo đúng sở thích hay chuyên môn, người này cũng phải trải qua giai đoạn “thăm dò” khá lâu.

Dù không phải lo lắng về chuyện kiếm việc hay tăng thêm thu nhập, nhưng có thể gặt hái được thành tựu lớn hay không lại cần phải xem cả đường Công danh. Đường này càng đậm, rõ nét và sâu càng tốt. Trái lại, nếu nông, mờ thì cuộc sống cũng chỉ sung túc, khó phát triển rực rỡ.

2. Đường Sự nghiệp bị đứt đoạn ở giữa

Sở hữu đường Sự nghiệp bị đứt đoạn ở giữa trông giống như chiếc thang nối, chứng tỏ bạn không thể duy trì một công việc lâu dài được. Với bạn, thay đổi cũng là tạo ra một cơ hội mới, thông thường sẽ không rơi vào tình trạng thảm hại nào đó.

Doan kha nang nhay viec qua duong chi tay Su nghiep hinh anh 2
 
Bạn dễ dàng thay đổi công việc, đồng thời trong tâm tưởng luôn chuẩn bị sẵn sàng cho vấn đề nhảy việc.

Tuy nhiên, muốn biết bạn có thể thành công sau mỗi lần đổi việc hay không lại phải xem phần đoạn chỉ tay phía trên (tính từ chỗ bị đứt đoạn hướng lên phần gốc ngón tay). Nếu đường này thô, đậm là cát tướng, sau khi nhảy việc thì công danh càng xán lạn.

Ngoài ra, nếu đường Sự nghiệp này cắt một phần đường chỉ tay Sinh mệnh, cho thấy bạn có nhân duyên tốt đẹp với người nước ngoài, có thể ra nước ngoài phát triển sự nghiệp hoặc thường xuyên xuất ngoại đi công tác.

Thêm nữa, nếu trong lòng bàn tay xuất hiện thêm đường vân Thành công, nhiều khả năng bạn sớm thành danh ở nước ngoài, khi về nước thì “áo gấm vinh quy”.

Xem vết bớt để “đón đầu” tương lai tươi sáng cho trẻ
– Vết bớt hay còn gọi là chàm, là mảng sắc tố màu đỏ, đen hay nâu có kích thước khá to trên cơ thể ngay từ lúc sinh ra. Dân gian coi đây là
3. Đường Sự nghiệp đứt nhiều đoạn


Nếu có đường chỉ tay Sự nghiệp như hình A (đường màu đỏ), bạn nắm rõ thời cơ thích hợp để thay đổi công việc. Nếu đường này rõ nét, chứng tỏ những lần nhảy việc của bạn đều thành công. Tuy nhiên, vì không yên phận, thích theo đuổi lý tưởng mới mẻ, nên công việc của bạn không ổn định, khó làm việc cố định và lâu dài tại một đơn vị nào đó.

Doan kha nang nhay viec qua duong chi tay Su nghiep hinh anh 3
 
Nếu các đường đứt đoạn rõ dần từ phía dưới cổ tay đi lên các gốc ngón tay, chứng tỏ sau mỗi lần thay đổi công việc, bạn đều gặt hái được không ít thành công. Nhưng vì tham vọng lớn, lại hay than thân trách phận nên bạn không bao giờ hài lòng với những gì đạt được, tự tạo áp lực cho bản thân mình.

Nếu có đường Sự nghiệp như hình B (đường màu xanh), khuyên bạn không nên nhảy việc quá nhiều bởi khả năng thất bại khá cao. Bên cạnh đó, bạn chưa biết tìm đúng thời điểm để chuyển đổi công việc, thông thường cây đã bắt đầu đơm trái thì bạn lại bỏ dở giữa chừng.

 (Còn nữa)


=> Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Đoán khả năng nhảy việc qua đường chỉ tay Sự nghiệp (P2)
Đường Sự nghiệp bị đứt làm hai đoạn, ở giữa chỗ bị đứt xuất hiện Tinh vân (vân hình sao), là dấu hiệu cho thấy đã đến lúc bạn thay đổi công việc mới. 

Ngọc Điệp


Xem thêm video: Tìm hiểu về nhân duyên, nghiệp duyên và chữ duyên


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán khả năng nhảy việc qua đường chỉ tay Sự nghiệp

Vía thần tài có thật sự là ngày mùng 10 hàng tháng không?

Đầu năm, hầu hết các gia đình người Việt đều có lễ đón Thần tài theo phong tục dân gian cho rằng đầu năm cần chào đón thần tài từ thiên đình về hạ giới.
Vía thần tài có thật sự là ngày mùng 10 hàng tháng không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày vía được định nghĩa là ngày liên quan đến tâm linh, sự thay đổi linh hồn của một người. Ngày vía này có thể là ngày sinh, ngày mất, ngày thành đạo… Chẳng hạn “Lễ vía Đức Phật A Di Đà đản sanh 17-11 âm lịch” là ngày sinh, “ngày vía Bồ tát Quán Thế Âm thành đạo” là ngày thành đạo… Còn thần tài, theo ghi chép sớm nhất liên quan đến ngày sinh của thần tài là “Ngọc hạp ký” của Hứa Chân Quân, đời Tấn vào ngày 22 tháng 7 âm lịch. Hiện nhiều nơi ở Trung Quốc vẫn tổ chức đón thần tài vào ngày này.

Thần tài quen thuộc nhất trong dân gian là Triệu Công Minh. Ngày sinh của Triệu Công Minh có nhiều thuyết, thông dụng nhất là hai ngày: 15 tháng 3 (theo Nam Sơn cư sỹ đời Tần) và 22 tháng 7 (trùng với thuyết của Hứa Chân Quân ở trên), đồng thời các nhà thiên văn cổ cho rằng đây là ngày “mặt trời sáng nhất”. Do đó, ngày vía thần tài nếu có sẽ là ngày 22 tháng 7 hàng năm.

Những năm gần đây xuất hiện trào lưu người dân đổ xô đi mua vàng trong ngày "vía thần tài" mùng 10 tháng Giêng, mong được may mắn tài lộc trong năm mới. Một số ý kiến cho rằng, ngày này chỉ là do một số người kinh doanh tuyên truyền nhằm thúc đẩy việc bán hàng đầu năm, chứ không có tài liệu nào ghi chép, cũng như phong tục trong dân gian. Tuy nhiên thì hiện tại ngày mùng 10 đã được coi như ngày vía thần tài ở Việt Nam

Đầu năm, hầu hết các gia đình người Việt đều có lễ đón Thần tài theo phong tục dân gian cho rằng đầu năm cần chào đón thần tài từ thiên đình về hạ giới. Lịch trình cụ thể là mùng 2 làm lễ đón Hỷ thần (thần may mắn, hạnh phúc), mùng 3 đón Tài thần (thần tài lộc), mùng 4 là đón tiếp các vị thần khác từ thiên đình về hạ giới, mùng 5 là ngày phá trừ, dỡ bỏ đồ cúng. Riêng với các cửa hàng kinh doanh thì cúng thần tài hàng ngày.

Vía thần tài ông địa

HƯỚNG DẪN SẮM LỄ CÚNG THẦN TÀI VÀO NGÀY 10 THÁNG 1 HÀNG THÁNG

Lễ cúng mặn từ tháng 1 âm lịch tới tháng 6 âm lịch:

- 1 bình bông thọ, 5 thứ trái cây ( có trái dừa ), 5 cây nhang, 5 chun rượu đế, 2 đèn cầy, 2 điếu thuốc, gạo , muối hột, vàng bạc đại 2 miếng .

- một bộ tam sên gồm : 1 miếng thịt ba rọi, 1 hột vịt , 1 con tôm ( hay cua ), tất cả đều luộc.

Lễ cúng chay từ tháng 7 âm lịch đến cuối năm, tháng 12 âm lịch:

- 1 bình bông thọ, 5 thứ trái cây ( có trái dừa ), 5 cây nhang, 5 chun nước , 2 đèn cầy , 2 điếu thuốc, gạo, muối hột , vàng bạc đại 2 miếng.

- Bánh chay như là bánh ít, bánh tét, bánh ngọt ...v...v ...

Thay nước uống khi đốt nhang, thay nước trong lọ hoa, và chưng thờ nải chuối chín vàng.Tránh để các con vật chó mèo quậy phá làm ô uế bàn thờ Thần Tài.Hàng tháng thường lau bàn thờ, tắm cho Thần Tài vào ngày cuối tháng và ngày 14 âm lịch với nước lá bưởi, hay rượu pha nước. Khăn lau và tắm cho Thần Tài không được dùng vào việc khác.

Lời dặn cần thiết:

- Gạo, muối thì cất lại dùng cho có lộc , không được rãi ra ngoài.

- vàng, bạc đại đốt ở ngoài.

- rượu hay nước thì đứng ngoài cửa tưới vào nhà, có ý nghĩa là đem lộc vào .

- bộ tam sên hay bánh trái chia nhau trong nhà dùng không cho người ngoài .

Bài cúng thần tài:

Văn khấn Thần Tài Thổ Địa

- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.

- Con kính lạy Thần Tài vị tiền.

- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Tín chủ con là:…………………………………Tuổi:…………………..

Ngụ tại………………………………………………………………………..

Hôm nay là ngày…….tháng…….năm…………………(âm lịch).

Tín chủ con thành tâm sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bầy ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị và chư vị tôn Thần.

Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!

Hi vọng bài viết của chúng tôi đã góp phần hữu ích cho các đọc giả trong việc thờ cúng Thần Tài - Ông Địa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vía thần tài có thật sự là ngày mùng 10 hàng tháng không?

Với những con giáp này, tình yêu là trên hết

Trong xã hội mà bạc tiền lên ngôi thì vẫn có không ít người coi tình yêu là trên hết. Thử xem bói tử vi để biết trong số 12 con giáp, ai là người đó nhé.
Với những con giáp này, tình yêu là trên hết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Sống trên đời, mỗi chúng ta đều có mục tiêu để mình theo đuổi, có người theo đuổi tự do, có người theo đuổi sự nghiệp, có người theo đuổi việc khẳng định giá trị của bản thân, có người theo đuổi tiền tài, có người theo đuổi danh vọng, cũng có người theo đuổi tình yêu.    Đối với một số người, tình yêu là trên hết. Họ có thể làm mọi chuyện vì tình yêu, hy sinh bản thân mình để bảo vệ tình yêu, vì tình yêu mà từ bỏ tất cả mọi thứ mình đang có. Vậy bạn có biết trong số 12 con giáp thì ai là người có “trái tim đặt trên đầu” như vậy không? Cùng Lịch ngày tốt xem bói tử vi để biết được điều này nhé.  

Tuổi Dần

  Những anh chàng cô nàng tuổi Hổ rất đơn thuần và thẳng thắn trong chuyện tình cảm. Điều này cũng phù hợp với tính cách phóng khoáng của những Chúa tể núi rừng. Họ chỉ làm theo điều mà trái tim mình mách bảo. Trong cuộc sống của họ, tình yêu luôn chiếm vị trí số một, họ sẽ không ngần ngại làm bất cứ điều gì để bảo vệ tình yêu, cho dù điều đó khiến họ phải hy sinh rất nhiều thứ.


nguoi tuoi Dan coi tinh yeu la tren het
 
  Nghe theo tiếng gọi của tình yêu mà mù quáng, song họ cũng gặt hái được rất nhiều thứ từ tình yêu. Có lẽ trong cuộc sống bây giờ không còn quá nhiều người luôn coi tình yêu là trên hết, vì tình yêu mà sống chết cùng nhau như họ nữa.  

Tuổi Ngọ

  Những người tuổi Ngọ luôn đặt tình yêu lên vị trí đầu tiên, ở trên tất cả mọi thứ khác trong cuộc sống của họ. Con giáp này luôn khẳng định mình sẽ làm mọi chuyện vì tình yêu. Trước khi gặp được tình yêu, họ cũng có cuộc sống và những quy tắc của riêng mình. 


nguoi tuoi Ngo coi tinh yeu la tren het
 
  Nhưng khi tình yêu đến, mọi chuyện đều thay đổi, những lý lẽ trước đây không còn đúng nữa, giờ tình yêu là điều quan trọng nhất, họ sẽ lật đổ mọi quy tắc, phá bỏ mọi rào cản vì tình yêu. Với những người tuổi Ngọ, trái tim hoang dã của họ luôn bị tình yêu chinh phục và thuần hóa, mỗi lần yêu là một lần họ thay đổi bản thân mình vì tình yêu đó. Con giáp này cũng nằm trong danh sách Những con giáp chung tình nhất thế gian nữa.  

Tuổi Thân

  Khi đối diện với tình yêu, con giáp này vừa kích động, vừa hào hứng. Dường như lúc đó trong mắt họ không còn gì ngoài tình yêu, tình yêu là trên hết. Điên cuồng vì tình chính là dùng để nói về người tuổi Thân bởi lòng nhiệt tình như lửa của họ.


nguoi tuoi Than coi tinh yeu la tren het
 
  Tuy nhiên, con giáp này luôn là người chủ động trong tình yêu, dù bình thường họ có thể là người biết kiềm chế cảm xúc đến đâu thì gặp phải tình yêu cũng như gặp phải khắc tinh, họ không còn có thể khống chế được trái tim mình chỉ nằm trong lồng ngực. Khi yêu, họ luôn thể hiện tình cảm nồng nàn cháy bỏng, nghĩ ra đủ mọi điều lãng mạn và bất ngờ để người mình yêu thấy vui vẻ và hạnh phúc. So với những người xung quanh, họ là người luôn yêu thích và khao khát có được tình yêu.

Có thể bạn quan tâm: Độc chiêu phong thủy giúp tình yêu thăng hoa.
 

Tuổi Hợi

  Trước khi gặp được tình yêu, với người tuổi Hợi, có lẽ chuyện ăn ngon mặc đẹp là điều quan trọng nhất, là lẽ sống của con giáp này. Nhưng khi gặp sức mạnh của tình yêu thì đồ ăn đã phải lùi bước, tình yêu trở thành điều mà người tuổi Hợi tôn thờ. Họ sẵn sàng hy sinh mọi thứ vì tình yêu, luôn suy nghĩ cho người mình yêu.


nguoi tuoi Hoi coi tinh yeu la tren het
 
  Họ luôn muốn làm mọi điều để người mình yêu được hạnh phúc, cho dù hạnh phúc đó đồng nghĩa với việc họ phải đánh đổi rất nhiều thứ thuộc về mình. Họ cũng là người luôn cảm thông và thấu hiểu, bởi họ đã quen với việc đứng từ góc độ của đối phương để nhìn nhận và suy xét vấn đề. Tình yêu của họ cũng vì thế mà êm đềm, hiếm khi có mâu thuẫn dâng cao. Người tuổi Hợi coi tình yêu còn quan trọng hơn chính bản thân mình. So với tình yêu, họ cảm thấy lợi ích của bản thân là thứ không thực sự cần thiết và không ngừng hy sinh, không ngừng cống hiến cho tình yêu tươi đẹp mãi.
Thiên Thiên

Xem bói tình yêu theo tên: Chữ cái đầu tiết lộ tình yêu của bạn Trong 12 con giáp, ai sẽ dám vì người yêu mà thay đổi? Những nàng giáp ghen tuông đến Hoạn Thư cũng phải dè chừng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Với những con giáp này, tình yêu là trên hết

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd