Mơ thấy chuột –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Xem đường chỉ tay đoán biết vận mệnh chính xác |
Thước lỗ ban do ông tổ của nghề mộc và nghề xây dựng. Lỗ Ban là thợ mộc giỏi của nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông) thời Xuân Thu (770-476 TCN). Tên ông là Ban (hoặc), họ là Công Thâu. Lỗ Ban nghĩa là “ông Ban người nước Lỗ”.
Thước lỗ ban dùng trong phong thủy bao gồm:
1. XÍCH BẠCH
Trong Xích bạch có hai phép là Thiên phụ quái và Địa mẫu quái.
- Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến Tìm tuổi có hợp không, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (theo phương thẳng đứng thì dùng phép này).
- Địa mẫu quái (Tiểu du niên): dùng đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang) của bàn thờ, mồ mả.
a) Phép đo Xích bạch:
Lấy toạ sơn của nhà làm gốc rồi theo đơn vị huyết thống để tính.
Cách lấy toạ sơn (khẩu quyết của Xích bạch):
Toạ sơn: Thiên phụ quái (chiều cao, sâu); Địa mẫu quái(ch. ngang)
Đoài (Đinh, Tị, Dậu, Sửu); Tham lang (cát); Vũ khúc (cát)
Chấn (Canh, Hợi, Mão, Mùi); Cự môn (cát); Liêm trinh (hung)
Khôn (Ất); Lộc tồn (hung); Phụ bật (O/×)
Khảm (Quý, Thân, Tý, Thìn);Văn khúc (hung); Phá quân (hung)
Tốn (Tân); Liêm trinh (hung); Cự môn (cát)
Cấn (Bính); Vũ khúc (cát); Tham lang (cát)
(Nhâm, Dần, Ngọ, Tuất); Phá quân (hung); Văn khúc (hung)
Càn (Giáp); Phụ bật (O/×); Lộc tồn (hung)
b) Thứ tự của Bát tinh (sao)
Dương trạch: Tham – Cự – Lộc – Văn – Liêm – Vũ – Phá – Phụ.
Âm trạch: Phụ – Vũ – Phá – Liêm – Tham – Cự – Lộc – Văn.
c) Xác định đơn vị theo thước huyết thống:
Thước huyết thống lấy theo gang nách (tạo bởi khoảng cách giữa ngón cái và ngón trỏ)
Đo tay trái (gang nách), đo tay phải (gang nách) xem mỗi bên được bao nhiêu cm, cộng lại, lấy tổng này làm một xích.
2. THỐN BẠCH
Toạ sơn; Thiên phụ quái; Địa mẫu quái
Càn (Giáp); Tứ lục; Nhất bạch (O);
Đoài (Đinh, Tị, Dậu, Sửu); Ngũ hoàng; Tứ lục;
Ly (Nhâm, Dần, Ngọ, Tuất); Bát bạch (O); Nhị hắc;
Chấn (Canh, Hợi, Mão, Mùi); Thất xích ; Tam bích;
Tốn (Tân); Cửu tử (O); Thất xích;
Khảm (Quý, Thân, Tý, Thìn); Nhị hắc ; Ngũ hoàng;
Cấn (Bính); Lục bạch (O); Bát bạch (O);
Khôn (Ất); Tam bích Lục ; bạch (O);
1- Đối với dương trạch khi xác định các kích thước của cửa chính, trần nhà, kích thước bàn thờ, bệ bếp, vv… Chúng ta đều dựa vào Tọa sơn của căn nhà làm gốc. Vậy chú cho cháu hỏi khi theo lý thuyết của chú là đổi chỗ Tốn - Khôn , thì khi tọa sơn của nhà đang ở sơn Khôn thì phải chuyển sang sơn Tốn để tính. Vậy khi đó cách lấy xích bạch và thốn bạch theo bảng trên có thay đổi không hả chú, nếu thay đổi thì thay đổi ở chỗ nào ạ.
2- Hiện này thì có 4 loại thước Lỗ Ban như sau:
- Loại 1 (loại 39): 1 thước = 390mm (dùng cho âm phần)
- Loại 2 (loại 42): 1 thước = 429mm (dùng dương trạch)
- Loại 3 (loại 48): 1 thước = 480mm
- Loại 4 (loại 52): 1 thước = 520mm
Loại 39 và 42 hiện đang được dùng phổ biến ở miền Bắc Việt nam dưới dạng thước chế sẵn do Đài Loan sản xuất.
Loại 52 ở miền Nam hay dùng.
Nhưng mà thước huyết thống lấy theo gang nách (tạo bởi khoảng cách giữa ngón cái và ngón trỏ). Đo tay trái (gang nách), đo tay phải (gang nách) xem mỗi bên được bao nhiêu cm, cộng lại, lấy tổng này làm một xích.
Ví dụ: Gang tay trái đo được 17cm, gang tay phải đo được 18cm, cộn lại là 35cm lấy làm một thước (xích).
Như vậy, thước chế sẵn và thước tính theo gang nách có sự khác biệt. Chú cho cháu hỏi khi ứng dụng cụ thể thì dùng thước chế săn hay là tính theo gang nách. Nếu dùng thước theo gang nách thì khi xây nhà chẳng hạn nhà có nhiều người (ông nội, bố và các anh em ) gang nách của các người này sẽ không giống nhau vậy khi ứng dụng thì dùng gang nách của người nào ạ.
3- Thông thường để tính thước Lỗ ban đặt vào các cung sao tốt phải dựa vào tọa sơn của ngôi nhà vậy trong trường hợp nhà bếp nằm riêng biệt một khu khác thì các kích thước như là cửa bếp, độ cao, chiều rộng của bệ đặt bếp, vv… khi đó tính cung theo tọa sơn của nhà bếp hay vẫn tính theo tọa sơn của ngôi nhà. Còn trong trường hợp tọa sơn của bếp, tọa sơn của bàn thờ gia tiên không cùng nằm với tọa sơn của nhà thi khí đó các kính thước tính theo thước lỗ ban của bếp và ban thờ dựa vào sơn của nhà hay sơn tọa của bếp hoặc
Thước Lỗ Ban 53cm, 51cm
Lịch Sách Xuân Ât Mẹo 1975, Chiêm Tinh Gia Huỳnh Liên có viết về cây Thước Lỗ Ban và dạy cách sử dụng. Theo Thầy thì cây Thước có độ dài nhứt định là 5 tấc 3 chia cho 8 cung lớn. Mỗi cung lớn 6,5 cm lại chia thành 5 cung nhỏ, mỗi cung nhỏ dài đúng 1 phân. Thầy dặn dò kỷ là nếu quý bạn đọc đã có nhà cữa xây cất xong lấy thước đo thấy xấu thì sửa lại. Bằng như chưa cất nhà muốn đo cửa tốt thì lựa cung tốt mà làm khuôn cửa đúng ni tấc thì được mỷ mãn hơn. Khi đo bắt đầu đặt cây thước vào mí của mép cửa bên trái rồi đo lần sang mép cửa bên mặt. Luôn luôn phải đặt cung số 1 tức cung Quý Nhơn nằm phía tay trái, rồi đo lần qua tới chổ nào thì coi lời giải mà biết tốt hay xấu, đó là cách đo cửa nhà đã xây rồi. Nếu chưa xây cửa, thì quý bạn đo tới chổ cung nào tốt và hạp nhất thì dừng lại và ấn định cửa tới nơi đó sẽ xây. Quý bạn đọc nào lở xây cửa xấu, không đúng với thước Lỗ Ban nên tìm tới Thầy để Thầy chỉ dẩn cho cách cúng quảy sửa chữa lại để gia đình làm ăn phát đạt.
Mấy năm trước đó có nhiều gia đình thỉnh Thầy đến đo cửa đo nhà, ít lâu sau quả làm ăn phát đạt thật. Danh của Thầy nổi như cồn, khách hàng xếp lớp. Có người cho rằng Thầy có Bùa thiêng, cũng có người cho rằng Thầy nhờ có cái Thước Lỗ Ban Bát Trạch. Biết được Thầy có chỉ vẽ cách làm Thước Lỗ Ban thì cuốn Lịch Sách Xuân Aùt Mão được rất nhiều gia đình mua về làm tài liệu tham khảo và cũng đã có rất nhiều ngườiõ theo đúng hướng dẩn cuả Thầy mà làm Thước Lỗ Ban. Không hiểu tại Thầy dấu nghề hay do ngẫu nhiên trùng hợp mà không ít gia đình sau khi có cái thước Lỗ Ban trong tay là ngay mùa Xuân năm đó phải bỏ nhà cao bay xa chạy ra nước ngoài, một số khác vào trại tập trung cải tạo mút mùa, số còn lại thì cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để đi kinh tế mới. Về sau biết được hoàn cảnh của Thầy cũng bi đát như khách sau ngày 30 tháng 4, cho nên không ai còn dám nghĩ là Thầy dấu nghề, mà cho rằng đó là do ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Thế nhưng khi đem 5 tấc 3 chia cho 8, số thành là 6 phân 5 ly và đem 6 phân 5 ly chia cho 5, số thành là 1 đúng như hướng dẫn của Thầy thì quả thực sai số quá lớn. Cung này cách Cung kia cách nhau chỉ bằng sợi tóc mà sai số lớn như thế thì cái Thước Thầy hướng dẫn làm sao mà linh thiêng cho đặng ? Cho rằng lỗi tại nhà in, cây thước phải dài 5 tấc 2 mới đúng. Thì cứ coi như là 5 tấc 2, nhưng lấy độ dài này chia cho 8 rồi lại chia cho 5, số thành đúng 1 phân, thì cũng lại vẫn còn sai !
Ngay từ đời nhà Chu ( 257 năm trước Tây Lịch) cùng thời với triều đại Thục An Dương Vương nước Việt, con người đã biết dùng Chỉ và Phân theo hệ thống Bát Phân để làm đơn vị đo chiều dài. Một Chỉ dài 0,408 mét, có 8 Phân thì một Phân là 0,051 mét. Về sau từ con số đơn vị của Phân là 0,051 nhân cho 10 theo hệ thống Thập Phân thành con số 0,51. Cái thước dài 0,51m hay 51 cm lâu ngày trờ thành cái thước Lỗ Ban đồng hóa với tà thuật của các Thầy Bùa, Thầy Pháp. Mãi cho đến hơn 2000 năm sau, các nhà Thông Thái Sinh Cơ Lý Học mới giật mình bái phục khi tìm ra được Tần số của ngoại âm là 4,9 từ đó suy ra đơn vị Thời Gian là 1 sec / 4,9 = 0,20408. Biết được đơn vị Thời Gian, các nhà Toán Học tính ra được Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu là 40,8 bằng cách lấy 980 nhân với bình phương của đơn vị thời gian: 0,20408. Con số 0,408 chính là đơn vị Chỉ của nền Văn minh Thái cổ cũng chính là Gia Tốc Trọng Lực ở mặt địa cầu tương đương với 2 lần trị số của đơn vị thời gian. Như vậy, cái thước mà người đời nay cho rằng đó là cái thước Lỗ Ban huyền diệu, mang nhiều sắc thái bùa phép, người đời xưa sử dụng để đo đạt có độ dài là 51 cm, phát xuất từ cơ sở tính toán khoa học của các nhà Khoa Học Thái Cổ. Mê tín dị đoan hay bác học thì lại tùy vào thái độ và trình độ của người sử dụng. Người mê tín thì cho rằng cái thước chính là chiếc gậy Thần Linh hiễn. là vì ít ra, sau khi đo đạt sửa chửa theo đúng hướng dẫn thì gia chủ có nhiều an tâm, hy vọng nhiều hơn, bớt được căng thẳng, giãm được ưu tư thì có thể né tránh được nhiều tai biến hậu quả có thể chết người. Người bác học thì cho rằng cái thước chỉ là phương tiện để đo đạt chính xác mà thôi. Theo lý thuyết về năng lực bá động thì các loài sinh vật luôn luôn chịu ảnh hưỡng của các làn sóng từ cấp thấp nhất là ngoại âm đến cấp cao nhất là siêu âm đặc biệt là làn sóng ngoại âm phát ra từ lòng đất là nguồn năng lực chi phối đời sống con người qua cơ sở vật chất là nhà cửa của họ. Theo tác giả tập Thái Cổ Khoa Học Toàn Thư – Phần Dương Cơ Lý Học thì nhà cửa luôn luôn được xây dựng trên một nền cứng chắc và đủ rộng để chịu được toàn bộ trọng lượng của cái nhà. Sự liên kết của các nền nhà thành một khối chung sẽ tạo thành một tảng. Hỉnh thức thông thường của tảng là một lớp nền mỏng trải dài trên một vùng đất xốp, mềm, có thể so sánh với một thanh gổ trên mặt nước. Lòng đất luôn luôn phát ra làn sóng ngoại âm là hình thức nhỏ của địa chấn, cho nên tảng phải chịu ảnh hưởng và trở nên một tảng rung động. Trong sự rung động này có sự cộng hưỡng. Sự truyền làn sóng và sự phản hồi làn sóng tạo nên một hệ thống sóng đứng mà hai đầu tảng là hai đầu tự do tạo thành hai bụng của thoi sóng đứng. Ở chính giữa gọi là Nút không rung động giống y như hình ảnh của thanh gổ dài nhấp nhô hai đầu. Ngoại âm của đất có nhiều làn sóng tần số khác nhau và mức độ cộng hưỡng tùy sẽ thuộc vào độ dài, độ dày và độ rắn chắc của tảng, nhưng thường thì độ dài quan trọng hơn. Tảng dài thì có nhiều Nút và nhiều Bụng là vì một tảng dài rung động thì sẽ tạo xen kẻ thành nhiều Bụng và Nút . Mỗi vị trí này được gọi là Tọa Vị. Theo như tác giả tập Thái Cổ Khoa Học Toàn Thư , nếu tọa vị là Bụng thì gọi là Tọa Vị Dương là nơi có sự rung chuyển cao độ. Nếu Tọa Vị là một Nút thì gọi là Tọa Vị Aâm là nơi sự rung động hầu như không có.
Cây thước Lỗ Ban 51 cm được chia thành 8 cung bằng nhau. Mỗi cung lại chia thành 5 cung nhỏ. 8 cũng có thể là con số của Bát Quái và cũng là thứ tự của hàng đơn vị từ 1 đến 8 thuộc hệ thống Bát Phân . 5 cũng có thể là Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ.
- Cung đầu tiên là Quý Nhơn Cung hành Mộc là cung Tốt .
- Cung thứ 2 là Hiểm Họa Cung hành Thổ là cung Xấu.
- Cung thứ 3 là Thiên Tai Cung hành Thổ là cung Xấu.
- Cung thứ 4 là Thiên Tài Cung hành Thủy là cung Tốt.
- Cung thứ 5 là Nhơn Lộc Cung hành Kim là cung Tốt.
- Cung thứ 6 là Cô Độc Cung hành Hỏa là cung Xấu.
- Cung thứ 7 là Thiên Tặc Cung hành Hỏa ( Kim ? ) là cung Xấu.
- Cung thứ 8 là Tể Tướng Cung hành Thổ là cung Tốt.
Riêng cung Thứ 7 có sách cho rằng hành Hỏa ( Thất Tai Hỏa cục ), nhưng cũng có sách thì cho rằng hành Kim (Thất Tai Kim cục). Xem kỷ lại thì cung này cũng là cung cư ngụ của sao Phá Quân.. Trong Tử Vi sao Phá Quân là Bắc Đẩu Tinh hành Thủy là Hung và Hao tinh chủ tán, nhưng trong Bát Biến Du Niên của phép địa lý Dương Trạch thì khẳng định Phá Quân hành Kim là chốn cư của Tuyệt Mạng cũng vốn hành Kim. Khoa Địa Lý cho rằng Sao Phá Quân nguyên là hành Kim mà cái Thước Lỗ Ban chỉ dùng cho Khoa Địa Lý cho nên có thể khẳng định được Thất Tai Kim cục có lý hơn là Thất Tai Hỏa cục. Theo hệ thống Bát Phân từ 1 cho đến 8 là số cuối của hàng đơn vị thì Cung thứ nhất và cung thứ 8 chắc chắn phải là 2 Bụng tức là 2 tọa vị Dương. Hai cung ở giữa là cung thứ 4 và thứ 5 là hai cung Tốt cho nên cung 4 và 5 cũng phải là 2 Bụng tức cũng là 2 tọa vị Dương. Còn lại là Hai Nút sẽ ở tại giữa cung 2 – 3 và giữa cung 6 – 7 vị chi tất cả là 4 Tọa vị Âm. Sự phân chia 1 thành 2, 2 thành 4, 4 thành 8 chắc chắn bắt nguồn từ Lý thuyết Aâm Dương Ngũ Hành mấu chốt của Thái Cực sinh Lưỡng Nghi- Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng – Tứ tượng sinh Bát Quái. . .
Tất cả có 4 loại thước mõi cây dùng mõi ngụ ý mà đo đạc riêng của nó, chăng hạn thông thường tại sao người ta dủng cây thước 4:29 mm đó là dùng để đo thông thường nhà cửa bếp cửa giường ngũ và bàn học tủ đại khái, dó gọi là thước dùng dương trạch, âm trạch thì dùng 390mm. và 480mm đo về kích thước nhà muốn xây tầng lầu cao thấp hoạc là ngang, dọc. còn lại cây 520mm do là diện tích mét vuông miếng đất của căn nhà hay là đo miếng đất trồng lúa dài bao nhiêu và ngang bao nhiêu cho tốt. cho nên mà nói thước nào cũng ứng nghiệm khi có để dùng hết, và phải biết tính thời gian của tiết khí sự vận hành của trái đất ứng nghiệm theo năm tháng mà phát ra thì lúc đó mói nghĩ là đúng sai mà thôi. Khi đùng chưa tới thì cho là thưóc khg đúng, và đùng cây tốt khác thời gian cũng bị chuyện xấu tới thí nói rằng là cây thước sai.
Tam Nguyên St
![]() |
Những địa điểm trai chưa vợ, gái chưa chồng nên lui tới![]() |
| => Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
![]() |
![]() |
| ► Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Lựa cây vượng tài vượng lộc cho 12 con giáp
| ► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy phòng ngủ ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
| => Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Chùa nằm trong một con hẻm ở số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách lề đường khoảng 200 m), thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Chùa Hội Linh còn có tên gọi khác là Hội Linh Cổ Tự. Chùa thuộc dòng Lâm Tế tông – một trong hai tông của Thiền tồn tại ở Nhật Bản.
Chùa Hội Linh được Hòa thượng Thích Khánh Hưng (? – 1914) dựng vào ngày rằm tháng 2 (âm lịch) năm Đinh Mùi (1907), trên phần đất do ông Phạm Văn Bường (pháp danh Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám (pháp danh Thông Ngọc) cúng dường. Ban đầu, chùa được cất đơn sơ bằng tre lá, và có tên là Hội Long tự. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn được gọi là chùa Xẽo Cạn.
Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng viên tịch (1914), Hòa thượng Thích Hoằng Đạo (1878 – 1922) kế vị trụ trì, và đã cho xây dựng lại ngôi chùa ngay năm đó, với vật liệu kiên cố (gạch, ngói) và đổi tên là Hội Linh Tự (về sau được gọi là Hội Linh Cổ Tự, khi chùa tồn tại đã lâu).
Chùa có tổng diện tích khoảng 6.500 m², với đầy đủ các hạng mục như: cổng tam quan, chánh điện, hậu đường, giảng đường,….
Xung quanh chùa là dãy tường rào tạo hình cánh cung, có 3 cái cổng (một chính và hai phụ). Cổng chính vươn ra phía trước, có 2 lớp mái, và trên nóc có gắn “lưỡng long tranh châu’ bằng đất nung màu xanh. Trên nóc các cổng đều được lợp mái ngói âm dương màu xanh, và đều có đôi câu đối bằng chữ Hán đắp nổi.
Sau cổng chính là ao sen hình bán nguyệt rộng khoảng 25 m², xung quanh trồng những cây tràm liễu. Giữa ao có tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm Bồ Tát cao gần 3 m. Cổng phụ bên trái là lối đi chính vào chùa. Bên trái có các Bảo tháp, là nơi yên nghỉ của các cố Hòa thượng từng làm Trụ trì chùa. Bên phải là một khoảng sân khá rộng. Ở đây có miếu Ngũ hành bên trái, Thổ thần bên phải, ở giữa trồng nhiều hoa kiểng.
Chánh điện chùa rộng 288 m², nóc cao hơn 9 m, có 2 cửa chính đi vào. Ở mặt tiền, phần trên là ba gian cổ lầu, có đặt bộ tượng A Di Đà Tam Tôn. Từ ngoài nhìn vào: Phật A Di Đà ở giữa, Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên trái, Bồ Tát Quán Thế Âm ở bên phải. Trên mái chia làm 3 nóc được lợp bằng vật liệu xi măng đúc thành hình vảy cá, nóc giữa mái tạo dáng tròn cạnh lục giác, trên đỉnh là hình búp sen, các đầu đao gắn cách điệu dây lá; 2 nóc hai bên đỉnh là bầu rượu, mái tạo hình phẳng cạnh tứ giác uốn cong lên, các đầu đao cũng gắn cách điệu dây lá.
Điện thờ chính có 3 gian nhỏ, bên trong tôn trí nhiều tượng Phật theo các cấp bậc rất uy nghi. Tại 3 gian thờ, có treo 3 bức hoành phi khắc bằng chữ Hán ở giữa là “Hội Linh Tự”, bên trái “Tam vô tư địa”, bên phải “Thưởng thiện phạt ác”.
Gian thờ chính ở giữa, phía trước có khung bao lam sơn son thếp vàng, chạm khắc cây, hoa, lá, rồng, phụng, hưu…, và hai bên có 2 câu liễn đối bằng chữ Hán. Vị Phật được thờ chính ở đây là Phật A Di Đà. Gian bên trái thờ Bồ Tát Đại Thế Chí (thờ chính), và gian bên phải thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (thờ chính). Ngoài ra, ở đây còn có nhiều tượng thờ khác như: Phật Thích Ca, Địa Tạng Bồ Tát, Hộ Pháp, thiên tướng, v.v…
Ở giữa chánh điện còn có pho tượng Di Lặc Bồ Tát được tạo tác theo tư thế ngồi, cao 2,5 m. Phía sau lưng Đức Di Lặc là tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn. Tháp đèn được làm bằng danh mộc gồm 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn và đều có một vị Phật Dược Sư an ngự. Phía sau tháp đèn là một khoảng trống nơi hành lễ của sư trụ trì. Đối diện tượng Di Lặc là bàn thờ Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen. Ngoài ra trên bàn còn có các tượng: Vi Đà Hộ pháp, Tiêu Diện Đại Sĩ, Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào và Bắc Đẩu.
Phía sau 3 gian thờ chính là một gian thờ nhỏ khác thờ Hậu Tổ. Ở Giữa đặt tượng thờ Tổ Sư Đạt Ma, bên phải và bên trái thờ các vị tiền bối hữu công hộ trì Tam bảo. Trên cả 3 bàn thờ xếp nhiều bài vị của các cố Hòa thượng từng trụ trì bổn tự và các tiền bối đã quá vãng.
Nối tiếp chánh điện, là hậu đường rộng 144 m², ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi này còn được dùng làm nơi tiếp khách.
Liền theo đó là giảng đường, là nơi giảng kinh và thuyết pháp…Ở gian giữa có bàn thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề. Ở gian hai bên, có bàn thờ di ảnh Hòa thượng Hoằng Đạo (trái) và Hòa thượng Pháp Thân (phải).
Ngoài các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, trong chùa còn lưu giữ hơn trăm pho tượng lớn nhỏ rất có giá trị, bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gỗ, xi măng, thạch cao…Riêng tượng Giám Trai là một tác phẩm điêu khắc độc đáo. Ngoài ra, các hiện vật quý trong chùa còn có chuông đồng, mõ, bộ binh khí (16 cái) và bộ bàn ghế gỗ cẩn xà cừ.
Lịch vạn niên còn gọi là Hoàng lịch thông thư, Hiệp kỷ lịch, Hiệp kỷ biện phương thư, Vạn bảo toàn thư, Tuyển trạch nhật, Ngọc hạp, v.v…

Lịch vạn niên là loại lịch dùng cho nhiều năm; soạn theo chu kỳ: năm – tháng – ngày – giờ – hàng can, hàng chi; cứ 60 năm quay lại một vòng. Lịch vạn niên dựa vào thuyết âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa lẫn nhau, kết hợp với thập can, thập nhị chi, cửu cung, bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát túi 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo… để tính ngày giờ tốt xấu.
Cuốn Lịch vạn niên thông dụng ở nước ta dưới triều Nguyễn là cuốn Ngọc hạp thông thư. sở dĩ gọi là thông dụng, vì rải rác qua các tủ sách của các nhà Nho còn sót lại, chúng tôi tìm được các bản viết tay, quyển thì rách đầu, quyển thì mất đuôi, quyển bị xé giữa, và sưu tầm được ỏ các địa phương cách xa nhau (Bắc Thái, Hải Hưng, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên) nhưng nội dung vẫn thống nhất.
Có thể nói, Ngọc hạp thông thư là cuốn sách gối đầu giường của các cụ nhà Nho nước ta thời trước. Động đến việc gì lớn hay nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, chài lưới, săn bắn, trong lễ nghỉ tế tự, giao dịch, trong mọi mặt sinh hoạt gia đình, họ hàng, làng xóm, các cụ đều mở lịch ra chọn ngày giờ lành, tránh ngày giờ dữ.
Ngoài ra, trước năm 1945, ở nước ta cũng lưu hành một số sách khác như Vạn bảo toàn thư, Đổng công tuyển trạch nhật, Chư gia tuyển trạch nhật (từ Trung Quốc đưa sang), hay cuốn Tăng bổ tuyển trạch thông thư quảng ngọc hạp ký (in ở Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn). Tất cả những cuốn trên đều cùng nội dung Lịch vạn niên, nhưng pha trộn thêm nhiều tà thuyết, trong đó có những tà thuyết đã bị bác bỏ từ thời Vua Khang Hy triều nhà Thanh.
Dưới triều Nguyễn (1802 – 1945) có Khâm định vạn niên thư (triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức) và Đại Nam Hiệp kỷ lịch (từ triều Thành Thái (1900) trở về sau). Đó là những cuốn lịch có tính pháp định, do toà Khâm thiên giám soạn, đệ trình nhà vua và do nhà vua ban cho thần dân hàng năm. Ngọc hạp thông thư, tức cuốn Lịch vạn niên chúng tôi đề cập ở đây cũng do Khâm thiên giảm ban hành, cũng có chung cơ sở lý luận thuộc thiên văn học cổ đại nhưng không phải là Khâm định vạn niên thư
-Lịch vạn niên dùng để chọn ngày tốt ngày xấu còn phải dựa vào một loạt “Thần sát” của thuật chiêm tinh cổ đại.
-Lịch vạn niên cũng khác với Lịch vạn sự của từng năm, nhất là các cuốn gọi là “Lịch vạn sự’ lưu hành trên thị trường nước ta những năm gần đây.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Bốn tiêu chí tốt xấu về hướng trong phong thủy nhà ở:
Trong phong thủy học có câu sau “nhất vị, nhị hướng“, có nghĩa là vị trí và cách xếp đặt quan trọng hàng đầu, nếu bạn không may mắn gặp hướng không tốt thì có thể xoay trở vị trí khác để khắc phục. Mặt khác, hướng của ngôi nhà phải được hiểu 1 cách toàn diện và duy vật, chứ không phải chỉ chọn hướng hợp theo tuổi như nhiều người vẫn đang lầm tưởng.
Trong môi trường thiên nhiên, các hướng vốn không bao giờ thay đổi. Sở dĩ có sự lẫn lộn về hướng tốt xấu là vì hiện tại có rất nhiều quan niệm khác nhau và thiếu giải thích rõ ràng. Trong thuyết phong thủy, 4 phương 8 hướng mà bạn biết đến đều có những đặc điểm riêng tùy thuộc cách xem xét. Có 4 tiêu chí sau để đánh giá tốt xấu về hướng khi làm nhà:

Ảnh minh họa


Dùng hình khối lồi thụt, mái che, cây xanh, mở cửa hạn chế là các phương pháp rất hiệu quả hạn chế hướng khí hậu xấu

Như vậy, khi xem xét một căn nhà có hướng tốt hay không, chúng ta phải xem xét trên cơ sở phân tích và tổng hợp cả 4 loại hướng, chứ không chỉ đơn giản là “nghe thầy bói nói gia chủ hợp hướng đông bắc“ thì cố gắng lục tìm cho bằng được nhà hay mảnh đất hướng đông bắc mà xem nhẹ những yếu tố về khí hậu – giao tiếp – phương vị. Cần phải xem xét đầu tiên xem 4 loại hướng trên tốt xấu bao nhiêu phần, có thể khắc phục ít hay nhiều, có ảnh hưởng gì đến con người, môi trường, kết cấu xây dựng của căn nhà hay không.

Căn nhà xoay hướng cửa ra vào sang bên hông nhằm tránh hướng xấu. Cửa gara vẫn được giữ hướng cũ


Vận mệnh: tuổi trung niên cuộc sống sẽ khá dần lên.
Đây là những người sống tự lập, một tay làm nên sự nghiệp, ít được nhờ anh em. Nữ giới về già có số được nương nhờ con cái.
Tính cách: Người tuổi Nhâm Tý tính tình vui vẻ, trung thực, thẳng thắn được bạn bè coi trọng. Nữ giới thường là người đảm đang, tháo vát, khoan dung, biết lo liệu công việc và quan tâm đến người khác.
Tình cảm: Người tuổi này nếu kết hôn sớm sẽ khó bền vững, cuộc sống gia đình hay gặp phải mâu thuẫn. Họ không nên kết hôn ở tuổi 20, 22, 26, 32, 34, 38.
Nam giới sinh vào tháng 5, 7, 11 và nữ giới sinh vào tháng 3, 7, 12 hay gặp trắc trở về đường tình duyên.
Tuy nhiên, nam giới sinh vào tháng 2, 9, 10 và nữ giới sinh vào 1, 2, 9, 10 sẽ có hôn nhân hạnh phúc.
Để có cuộc sống vợ chồng tốt đẹp, tiền bạc dồi dào, sự nghiệp thăng tiến, nam giới tuổi này nên kết hôn với nữ giới tuổi Giáp Dần, Canh Thân, Canh Tuất, tránh tuổi Nhâm Tý, Ất Mão, Mậu Ngọ, Giáp Tý, Đinh Mão, Canh Mão, Bính Ngọ.
Nữ giới nên kết hôn với nam giới tuổi Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Thân, Canh Tuất, tránh tuổi Tân Dậu, Kỷ Dậu.
Công danh sự nghiệp: Người tuổi Nhâm Tý có công danh trong sự nghiệp nhưng thường giữ chức vụ nhỏ. Nếu kết hợp với người tuổi Bính Thìn, Giáp Dần, Canh Thân công việc làm ăn sẽ thuận lợi và đạt được thành công.
Tiền bạc: Những người tuổi này tiền bạc đủ dùng, ít khi dư dả. Hoặc có tiền nhưng lại không được nắm giữ.
(Theo 12 con Giáp tính cách con người qua năm sinh, tuổi Tý)
Hành: ThổLoại: Ác TinhĐặc Tính: Tù hãm, khốn đốn, trở ngạiTên gọi tắt thường gặp: Võng
Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Thiên La và Địa Võng. Gọi tắt là La Võng. Vị trí luôn ở trong Cung Tuất. Sao này là sao xấu.
Ý Nghĩa Địa Võng Ở Cung Mệnh
Sao Địa Võng ở Mệnh là rất thông minh, có tài khéo, suy tính công việc rất tài tình nhưng hay gặp ngăn trở, mọi công việc hay gặp rắc rối, bị ràng buộc.
Ý Nghĩa Địa Võng Với Các Sao Khác
n xem vận thế đời người qua hình dáng sơn căn biểu hiện như thế nào nhé!
Sơn căn và cung tật ách
Cung tật ách không chỉ nói lên sức khỏe tốt xấu, triệu chứng của bệnh, lục phủ ngũ tạng khỏe hay yếu mà còn tiêu biểu cho thọ chấn của con người.
Nếu khu vực sơn căn cao, niên thượng và thọ thượng ngay ngắn, nảy nở, thẳng xuôi thì chủ nhân có sức đề kháng tốt, bền bỉ và dẻo dai. Nếu có bị bệnh tật cũng sẽ nhanh chóng qua khỏi.
Theo ## thì sơn căn cũng có mối quan hệ tới phong thủy âm trạch (mộ phần). Nếu sơn căn khuyết lõm, nhọn, có vết tích, nốt ruồi hoặc vết hằn là hung. Từ sơn căn đến mép tóc trên trán có độ dài khoảng 5 đốt tay ghép lại thì từ 18 – 28 tuổi chủ nhân sẽ phát tài hoặc được kế thừa gia sản lớn từ tổ tiên. Tuy nhiên, nếu lông mày quá rậm hoặc quá nhạt thì vào tuổi 31 – 34 sẽ bị phá sản.
Khu vực sống mũi thấp, lệch thì dễ bị bệnh; nếu có thêm các vết hằn tự nhiên thì quanh năm bệnh tật liên miên, khó có thể trường thọ. Nếu khu vực cung tật ách tự nhiên bị xạm đen là điềm báo trước bị bệnh nặng. Nếu các bộ vị quan trọng khác như ấn đường, lông mày, cặp mắt đều ám đen thì có thể chết vì bệnh tật.

Sơn căn thấp lõm
Chủ nhân khó có thể gặt hái được thành công trong sự nghiệp, gia cảnh bần cùng, thường có nhiều bệnh tật.
Nữ giới thường rất phóng túng trong hành vi tình dục, trong họ dường như không tồn tại quan niệm đạo đức truyền thống. Nếu có thêm lông mày rậm là tướng dâm loạn, chuyện tình cảm rất tùy tiện, đa phần đều làm gái làng chơi.
Nam giới có sơn căn thấp lõm thường không có chủ kiến, dục vọng “ái ân” lớn, vì thế dễ dàng phản bội vợ con, bạn bè. Đa phần những người có sơn căn thấp lõm đều rất tự ti, tiêu cực, bi quan, 70% bệnh tật đều đến từ tâm lý của chính họ.
Sơn căn đứt đoạn
Chủ nhân hay có bệnh tật, thường gặp phải những chuyện ngoài ý muốn, đa phần đều liên quan đến sự an nguy của tính mạng.
Sơn căn là nơi ở, là căn cơ của tổ thượng, nếu đứt đoạn biểu thị không nhận được ân phúc của tổ tiên. Những người này nên đi xa quê hương lập nghiệp thì mới phát tài. Sơn căn đứt đoạn thì ruộng vườn khó giữ, vợ sẽ là người chết trước.
Sơn căn nhỏ hẹp
Chủ nhân là người ích kỷ, tính cách hung bạo, kém kiên nhẫn, dễ vì nóng nảy mà dẫn đến những hành động sai lầm.
Sơn căn có nếp nhăn
Sơn căn có nếp nhăn thẳng thì cả đời không có con cháu, phải nhận con nuôi hoặc làm con nuôi người khác. Người này phải cẩn thận đối với những tai nạn ngoài ý muốn, đặc biệt là chuyện xe cộ. Nếp nhăn chạy thẳng từ ấn đường đến chuẩn đầu là điềm báo của việc chết không toàn thây, cẩn thận với những tai nạn.
Nếu nếp nhăn nằm ngang thì phải cẩn thận với bệnh tật ẩn trong người và những trở ngại trong hôn nhân, đến 35 – 36 tuổi thì sự nghiệp gặp trắc trở, có thể dẫn đến phá sản. Là nam giới sẽ có vợ phẫu thuật vùng bụng, là nữ thì bị phẫu thuật vùng bụng. Có bao nhiêu nếp nhăn ngang thì chủ bị bấy nhiêu lần nguy hiểm. Nếp nhăn sâu thì mức độ nguy hiểm lớn và ngược lại, nếp nhăn nông thì nguy hiểm vừa phải.
Sơn căn có nếp nhăn nằm ngang mà cùng lúc đường sinh đạo trong lòng bàn tay bị đứt đoạn hoặc có đường cắt ngang thì chủ bị tai nạn xe. Bất kể là nam hay nữ, vào khoảng 41 tuổi sẽ gặp phải chuyện thị phi và phá tài.
Sơn căn có một nếp nhăn nằm ngang là điềm báo phải đi xa nơi quê cha đất tổ mới lập nên sự nghiệp. Nếu có hai nếp nhăn thì cha mẹ mâu thuẫn, anh em không hòa thuận. Có 3 nếp nhăn thì chủ nhân lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, hôn nhân trắc trở một đôi lần, có bệnh về dạ dày.
Nếu sơn căn nếp nhăn nhiều thì cuộc sống nghèo khó, nhiều trắc trở. Nếp nhăn xen kẽ giao nhau thì cả đời bôn ba, nhiều bệnh tật. Sơn căn lõm là người không tự tin, rất dễ nản chí.
Nếu sơn căn có xương nhô lên, lật ra ngoài thì chủ nhân có lối sống hời hợt, phóng túng quá độ, trái với quan niệm đạo đức truyền thống, dễ rơi vào những chuyện tình yêu chị em, cha con…
Sơn căn thấp lõm, có nốt ruồi và nếp nhăn nằm ngang thì chủ nhân sức khỏe kém, cả đời bệnh tật, dễ bị tai nạn xe, vào khoảng 40 – 41 tuổi dễ có đại nạn.
Sơn căn có xương nhô lên và tạo thành đốt
## cho rằng sự nghiệp và chuyện hôn nhân của người này gặp nhiều trắc trở. Nếu có nốt ruồi hoặc khí ngưng tụ không thông thoát thì chủ nhân sức khỏe kém, nhiều bệnh tật. Nếu là nam giới, dễ bị phụ nữ lôi kéo, là nữ, dễ bị đàn ông lừa gạt và khó tránh khỏi bệnh tật.
Sơn căn có nốt ruồi
Cuộc sống gia đình không thuận buồm xuôi gió, nữ hai đời chồng, nam hai đời vợ. Nếu nốt ruồi xuất hiện tại niên thượng, thọ thượng thì chủ sẽ chết vì tai nạn, cả đời sẽ gặp nhiều họa nạn tù ngục; nốt ruồi ở bên trái – phải cánh mũi thì đa phần đều mắc bệnh dạ dày hoặc dạ dày bị ảnh hưởng xấu do uống thuốc…
Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Tương truyền vàng bạc châu báu trong phủ Hòa Thân còn nhiều gấp mấy ngân khố của vua. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy? Nói đến những kiến trúc cổ ở Bắc Kinh thì có lẽ không thể không nhắc đến Cung Vương Phủ của Hòa Thân. Từ xưa đã có câu nói rằng “Một tòa Cung Vương Phủ, nửa quyển sử Thanh triều”. Được mệnh danh là Đệ nhất tham quan, cái mà Hòa Thân không thiếu nhất chính là tiền bạc, lẽ đương nhiên không thể không am hiểu về phong thủy.
![]() |
| chân dung Hòa Thân |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Bia chữ Phúc trong phủ Hòa Thân |
Tên là mệnh, là vận mệnh của mỗi con người, tên gọi luôn gắn liền với mỗi người trong suốt cuộc đời. Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Trong thời đại công nghệ thông tin, Bạn có thể dễ dàng chọn cho con yêu một cái tên đẹp, hay và ý nghĩa.
Nhưng quan trọng, hãy xem tên có phù hợp với con bạn không nhé. Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này.
Nếu sinh con Trai, Bạn có thể tham khảo một số tên hay và ý nghĩa:
Tên "Kiên" có ý nghĩa kiên cường, mạnh mẽ: Quốc Kiên, Bảo Kiên, Trung Kiên, Thái Kiên, Hoàng Kiên, Hùng Kiên, Vĩnh Kiên, Trọng Kiên, Đức Kiên, Chí Kiên, Mạnh Kiên, Huy Kiên, Chí Kiên, Anh Kiên.
Tên "Lâm" chỉ cây rừng vững chãi: Việt Lâm, Tùng Lâm, Ngọc Lâm, Mạnh Lâm, Hoàng Lâm, Trọng Lâm, Quốc Lâm.
Tên "Long" mang ý nghĩa loài rồng linh thiêng, mạnh mẽ: Bảo Long, Đức Long, Hoàng Long, Mạnh Long, Tuấn Long, Vĩnh Long, Phúc Long.
Tên "Minh" mang ý nghĩa sáng láng, thông minh: Anh Minh, Tuấn Minh, Hoàng Minh, Phúc Minh, Khải Minh, Hiền Minh, Nghĩa Minh.
Tên "Nam" mang ý nghĩa phương nam, mạnh mẽ: Phương Nam, Bá Nam, Tuấn Nam, Quốc Nam, Hữu Nam, Hải Nam.
Tên "Nghĩa" mang ý nghĩa sống có trước sau, hướng thiện: Nhân Nghĩa, Đức Nghĩa, Trọng Nghĩa, Phú Nghĩa, Minh Nghĩa, Xuân Nghĩa, Trung Nghĩa, Tuấn Nghĩa.
Tên "Nguyên" là nguồn gốc, nơi bắt đầu hay là bình nguyên, miền đất rộng lớn: Đình Nguyên, Khôi Nguyên, Phước Nguyên, Hoàng Nguyên, Bảo Nguyên, Trung Nguyên, Thành Nguyên.
Tên "Phong" là ngọn gió khoáng đạt, mạnh mẽ: Lâm Phong, Đình Phong, Tuấn Phong, Hải Phong, Đông Phong, Việt Phong, Khải Phong, Hùng Phong.
Tên "Quân" là khí chất như quân vương: Minh Quân, Đông Quân, Hoàng Quân, Mạnh Quân, Trung Quân, Đình Quân, Đức Quân, Bảo Quân.
Tên "Quang" là sáng sủa, vẻ vang: Đăng Quang, Minh Quang, Mạnh Quang, Nhật Quang, Hồng Quang, Vinh Quang, Xuân Quang.
Tên "Quốc" có ý nghĩa là đất nước: Hữu Quốc, Anh Quốc, Bảo Quốc, Cường Quốc, Việt Quốc, Duy Quốc, Hoàng Quốc.
Tên "Thái" là mong đầy đủ , thanh nhàn: Quốc Thái, Minh Thái, Bảo Thái, Quang Thái, Hoàng Thái, Vĩnh Thái, Ngọc Thái.
Tên "Tuấn" là người tài giỏi xuất chúng, dung mạo khôi ngô: Quốc Tuấn, Thái Tuấn, Anh Tuấn, Minh Tuấn, Trung Tuấn, Quang Tuấn, Thanh Tuấn, Hữu Tuấn.
Tên "Thành" là thành đạt, thành công: Đức Thành, Duy Thành, Tân Thành, Phú Thành, Tiến Thành, Bá Thành, Hải Thành, Minh Thành.
Tên "Thiên" là khí phách xuất chúng: Quốc Thiên, Duy Thiên, Hoàng Thiên, Phúc Thiên, Đức Thiên, Khánh Thiên.
Tên "Thịnh" là sung túc, hưng thịnh: Phúc Thịnh, Quốc Thịnh, Hữu Thịnh, Bá Thịnh, Nhật Thịnh, Đức Thịnh, Vĩnh Thịnh.
Tên "Trung" là trung hậu, son sắt: Quốc Trung, Tuấn Trung, Hoàng Trung, Thành Trung, Quang Trung, Minh Trung.
Tên "Sơn" là mạnh mẽ, uy nghiêm như núi: Hải Sơn, Xuân Sơn, Trường Sơn, Vĩnh Sơn, Thanh Sơn, Quốc Sơn, Bảo Sơn.
Tên "Việt" là ưu việt, xuất chúng: Quốc Việt, Tuất Việt, Mạnh Việt, Duy Việt, Minh Việt, Trí Việt, Trọng Việt.
Tên "Vũ" có ý nghĩa là mưa, sức mạnh phi thường: Anh Vũ, Ngọc Vũ, Hạ Vũ, Tuấn Vũ, Trọng Vũ, Hoàng Vũ.
1. Màu trắng
Họ không cần lao động cực khổ cũng gặt nhiều thành công.
2. Màu hồng
Họ có vận mệnh tốt, công sức bỏ ra 1 thì thu hoạch 10.
![]() |
3. Màu đỏ sáng
Màu đỏ sáng được xem là tốt, màu tối hơn thì xấu. Họ chăm chỉ kiếm tiền, tính cách nóng vội, việc phiền phức đều tự mình giải quyết, được đự đoán là có tương lai sáng sủa.
4. Màu đỏ
Bàn tay chỉ xuất hiện một chút điểm đỏ là người có tính cách nóng vội, đồng thời cũng là dấu hiệu của bệnh tim mạch.
5. Màu đỏ tụ lại
Họ có vận mệnh không tốt lắm, phù hợp với kinh doanh.
6. Màu vàng
Số phải lao động khá vất vả, nên tránh bài bạc.
Chocopie (theo WB)
Người xưa thường nói: ‘Tiền bạc là vật ngoài thân. Con người sinh ra không mang theo đến, khi mất cũng không mang đi được’. Và người ta cũng thường hay nói: ‘Có tiền mua tiên cũng được’. Có tiền hay không có tiền là một bức tranh muôn màu muôn vẻ.
Có người thì cố gắng tiết kiệm, tích cóp, người thì trở thành ‘phá gia chi tử’ nhưng sức mạnh của nó trong xã hội hiện tại thì là điều ta không thể phủ nhận. Vậy trong tháng 3 này, con giáp nào sẽ cực kỳ dồi dào tiền của đây?
Hạng ba: Tuổi Ngọ

Tháng 3 là tháng mà cả thu nhập chính và thu nhập phụ của tuổi Ngọ đều rất tốt. Họ là người dám cống hiến hết mình, bất kỳ ai cũng nhìn thấy được sự nỗ lực không ngừng nghỉ của họ. Tháng 3 này, tài vận của tuổi Ngọ thực sự đi đến đỉnh điểm. Ngày tháng đủ đầy càng ngày càng nhiều và cuộc sống cũng ngày càng hạnh phúc hơn.
Hạng nhì: Tuổi Tý

Tháng 3 là tháng tuổi Tý gặp được quý nhân, tổng thể tài vận tốt. Họ dám đương đầu với những khó khăn, thách thức trong công việc. Không có gì là tuổi Tý không thể làm được, chỉ có những điều không thể tượng tượng được mà thôi. Những ngày tháng huy hoàng đang trải dài ra trước mắt và cuộc sống của người tuổi Tý cũng không thoát khỏi được ‘kiếp giàu sang’.
Hạng nhất: Tuổi Hợi

Tuổi Hợi sinh ra vốn làm việc gì cũng không khoa trương thanh thế. Họ cũng không tự cao, tự đại, có khó khăn đều dũng cảm vượt qua. Tương lai thì tuổi Hợi là người có phúc lớn, dĩ nhiên tài vận cũng không thể tuột khỏi tay họ. Chỉ cần tuổi Hợi nỗ lực thì ắt thành công. Tài vận trong tháng 3 được ví như ‘diều gặp gió’. Tuổi Hợi hãy đợi để thu tiền về nhé!

Những câu nói hay và chuẩn nhất về người phụ nữ. Xemboituong.com xin gửi đến bạn đọc những câu nói hay và chuẩn nhất về người phụ nữ, là những quan điểm nhận định về người tính cách cuộc đời của họ. Nếu bạn là người đàn ông thì đọc những câu nói này sẽ giúp bạn hiểu một phần nào đó về những người phụ của mình, còn nếu bạn là một người phụ nữ thì càng nên tìm hiểu về những cau noi hay này nó sẽ giúp bạn biết nên và không nên làm gì.
Nào hãy cùng đọc những câu nói hay về người phụ nữ trong bài viết dưới đây nhé!
– Một người đàn bà xấu mặt nhưng đẹp lòng là người đàn bà đẹp.
Một người đàn bà đẹp mặt, nhưng lòng dạ không đẹp là người đàn bà xấu.-(Jean Rigaux)
– Cả cuộc đời người phụ nữ là biên niên sử của tình cảm- (W. Irving)
– Người phụ nữ đẹp là thiên đàng của cặp mắt, mà là địa ngục của tâm hồn. (Pope)
– Phụ nữ là kiệt tác của vũ trụ – (G.Let-Xinh)
– Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không thể sánh nổi với sự bí ẩn của người phụ nữ- Vladimir Lobanok
Khi bất ngờ hỏi một cô gái xin anh hãy nhớ: câu trả lời đầu tiên là chính sử, còn câu thứ hai là tiểu thuyết- Tống Ái Linh
Ðức tính đầu tiên và quan trọng nhất của phụ nữ là dịu dàng- Jean Jacques Rousseau
Trước con mắt của người yêu, không có người phụ nữ nào xấu cả- Ronsard
Không có một người phụ nữ nào lại không có một người đàn ông vô danh chiêm ngưỡng, tôn thờ mình- Giracdanh
Phụ nữ làm cho cách xử thế ở đời được trau chuốt và khiến người ta chuộng sự lễ độ. Họ là thầy dạy chân chính về mĩ quan và là người khích lệ mọi hi sinh. Hiếm có người đàn ông nào yêu thương họ mà lại là người man rợ – (G. Legouve)
Không có phụ nữ xấu…
… Chỉ có người phụ nữ không biết cách làm đẹp (La Bruyere)
Ðẹp và được yêu ấy mới chỉ là phụ nữ. Xấu mà biết cách làm cho mình được yêu ấy là công chúa- (J. Barbey Daurevily)
Không phải những người đẹp là những người hạnh phúc, mà những người hạnh phúc là những người đẹp (khuyết danh)
Nàng che dấu một trái tim sắt đá dưới cái hình hài mảnh khảnh và duyên dáng
(Balzac)
Đối với người phụ nữ, yên lặng cũng là một thứ trang sức
Sophocle
Đàn bà hoàn toàn thấy rõ rằng họ càng vâng lời bao nhiêu thì họ càng chỉ huy bấy nhiêu – (Jules Michelet)
Bí quyết hạnh phúc của người phụ nữ là tự tìm cái vui trong bổn phận [Dr. Auton]
Người phụ nữ cảm và nói theo trực giác của con tim nên chẳng bao giờ sai lầm. Không ai biết nói những lời sâu sắc và êm ái cho bằng người phụ nữ. Êm ái và sâu sắc, đó chính là con người họ- V.Hugo
Tính hiền dịu của người phụ nữ đối với cuộc đời là dấu hiệu xác thực của một cuộc sống nội tâm phong phú. (K.Pau-Top-Xki)
Tất cả vẻ đẹp của cuộc sống được tạo nên là nhờ vào sức mạnh của tình yêu đối với người phụ nữ
(M.Gorki)
Phụ nữ bao giờ cũng yêu vì tài trước khi yêu vẻ bề ngoài
Banzac
Im lặng đem đến cho người phụ nữ sự kính nể
Sophocle
Có vợ thì dù hiền hay dữ bạn đều có lợi, nếu vợ hiền bạn sẽ là người đàn ông hạnh phúc nhất trên đời, còn nếu vợ dữ, bạn sẽ trở thành triết gia. (Bec-xong).
Mọi phụ nữ đều đẹp, và đôi khi chỉ có đấng mày râu mới nhìn thấy vẻ đẹp này.
Một người phụ nữ đẹp là người biết dùng ngôn ngữ nói lên sự thật, biết dùng giọng nói để miêu tả sự chân thành, biết dùng đôi tai để hiểu sự trắc ẩn, biết dùng đôi tay để cứu giúp và dùng trái tim để dành cho tình yêu.
Một người con gái nên có hai điều: sang trọng và tuyệt vời.
Một phụ nữ có nụ cười rạng rỡ và một thái độ giao tiếp cởi mở, đó là điều đẹp nhất hơn cả những trang phục đắt tiền cô ấy mặc.
Mọi phụ nữ đều đẹp dù cho vẻ ngoài của họ có thế nào. Bạn chỉ cần cảm nhận linh hồn của cố ấy với sự tôn trọng và đánh giá đúng mực. Đường tới trái tim chính là cách quan trọng nhất. Phụ nữ là món quà lớn nhất mà Thượng đế mang lại cho con người. Chúng ta nên trân trọng và bảo vệ họ, những con người ta yêu và một nửa thế giới.
Tự nhiên mang lại cho bạn một gương mặt trẻ đẹp ở tuổi hai mươi, và đem lại cho bạn cả sự tự tin trên khuôn mặt khi ở tuổi năm mươi.
Vẻ đẹp của một người phụ nữ không phải là ở những bộ đồ mà cô ấy mặc, số tiền mà cô ấy có, hay cách cô ấy chải tóc. Vẻ đẹp của phụ nữ được nhìn thấy trong mắt cô ấy, bởi đó là cánh cửa trái tim cô, nơi mà tình yêu ngụ trị. Vẻ đẹp thực sự luôn được phản ảnh trong tâm hồn mỗi người phụ nữ.
Một người phụ nữ có khuôn mặt đẹp thu hút những chàng thích tán tỉnh, một phụ nữ trái tim nồng thu hút chàng đang yêu, một người phụ nữ với tính cách cởi mở sẽ thu hút được một người đàn ông.
Những bộ quần áo mà bạn mặc không bao giờ làm cho bạn đẹp lên. Chính bạn đã làm cho chúng trở nên đẹp hơn.
Mọi phụ nữ đều đẹp, và đôi khi chỉ có đấng mày râu mới nhìn thấy vẻ đẹp này.
Bạn không thực sự biết một cô gái xinh đẹp như thế nào cho đến khi gặp cô ấy, đó là vẻ đẹp trong nhân cách.
Mọi phụ nữ đều đẹp. Vì Chúa trời đã tạo ra một phụ nữ hào hảo. Bạn luôn đẹp trong mắt của Người. Vì vậy hãy luôn mỉm cười và chấp nhận chính mình. Người luôn yêu bạn và một ngày nào đó sẽ mang một người đàn ông, người mà luôn chỉ nhìn mình bạn và tin tưởng rằng bạn dành cho anh ấy. Chúa trời sẽ cho bạn một nửa đích thực, người mà luôn đối xử tốt và không làm trái tim bạn tổn thương. Vì vậy, hãy kiên nhẫn và chờ đợi. Đừng bao giờ trao trái tim của mình cho những ai không xứng đáng. Bởi anh ấy chỉ xuất hiện một lần và bạn chỉ có thể trao trái tim cho ấy một lần duy nhất.
Có thể phụ nữ chúng ta không làm được nhiều điều to lớn, nhưng chỉ cần một hành động nhỏ nhoi với tất cả tình yêu thương là đủ.
Hỡi tất cả phụ nữ, bạn có muốn gặp tình yêu của cuộc đời mình? Hãy nhìn vào gương và bạn sẽ tìm được câu trả lời.
Phụ nữ giống như những túi trà – bạn không bao giờ biết sức mạnh của cô ấy cho đến khi bạn ngâm vào nước nóng.
Nếu bạn chỉ có duy nhất một nụ cười, hay trao nó cho những người mà bạn yêu quý. Dù bất kể là ở nhà, đang đi trên đường hay bất cứ đâu, hãy bắt đầu ngay với việc nở nụ cười mừng ngày mới với tất cả những người xa lạ.
Hãy thường xuyên vào trang web này để tham khảo những câu nói hay trong cuộc sống hay về những sự kiện diễn ra trong cuộc sống thường ngày bạn nhé!
Trong tử vi thì Sao Thiên đồng chủ về phúc thọ, hóa khí là phúc, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa; lại chủ về mệnh giỏi văn chương, âm nhạc nhưng khả năng truyền đạt không tốt.
Khi thiếu niên hoặc về già chủ về muôn sự cát lợi, được cha mẹ yêu quý, che chở từ nhỏ, an hưởng tuổi già, con cái hiếu thuận, cuộc sông thoải mái.
Trong Lá số Tử vi, Thiên đồng ưa nhất gặp Thái âm ở chỗ Tý, là cách cục Thủy trừng quế ngạc, chủ về làm quan thanh liêm, có bất động, có cha mẹ mẫu mực, mệnh nữ nên làm vợ lẽ. Nếu Thiên đồng, Thái âm ở Ngọ thì mệnh nam đào hoa, mệnh nữ có cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc.

Thiên đồng ưa tọa cung Điền trạch, có tiền tài.
Thiên đồng, Thiên lương tại Thân, Dần, mệnh nữ nên làm vợ lẽ.
Mệnh nữ có Thiên đồng tọa Mệnh rất đáng yêu, được chồng yêu chiều.
Thiên đồng và Đà la đồng cung dễ phát phì.
Thiên đồng và Dương nhẫn đồng cung dễ bị thương bên ngoài.
Thiên đồng tọa cung Mệnh, cung Thân trong lá số tử vi , dù nam hay nữ đều có khuyết điểm là quá tùy tiện, không biết phân biệt chính tà phải trái.
Ngưòi có Thiên đồng tọa thủ cung Mệnh nên mập không nên gầy, mập sẽ có phúc, gầy thì mệnh khổ; cũng không thể quá mập. Mệnh nữ có tư tưởng cam chịu, phó mặc cho sô" phận.
Thiên đồng ưa tọa cung Phúc đức, chủ về hưởng phúc.
Thiên đồng tọa cung Phu thê hoặc tổ hợp sao Thiên đồng như Thiên đồng, Thiên lương; Thiên đồng, Thái âm; Thiên đồng, Cự môn tọa cung Phu thê nên kết hôn muộn.
Trong tử vi Thiên đồng không ưa đồng cung vối Cự môn, dù tọa cung nào đều không cát lợi, chủ về nội tâm đau khổ, tinh thần dày vò, u uất.
Cụ Hoàng Hạc - Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Một nhà tu hành nếu nhập thế thì quyền cao chức trọng vô cùng, nhưng chính biết mình quyền cao nên mới đi tu.
- Cái phú quý mà mình có, đó là thiện nghiệp, nhưng dễ làm sa ngã hơn là ác nghiệp. Coi chừng bởi vậy mà tôi đi tu. Bỏ phú quý là có thừa phú quý. Nên nhớ những kẻ có ác nghiệp khó thành chánh quả. Chỉ có những kẻ có số đại phú, đại quý mà đi tu mới mong thành đạt mà thôi. Như thái tử Si – Đạt – Đa số là đế vương nên tu mau thành chánh quả.
- Nếu nhập thế thì sẽ đại phú, đại quý…nên Thiên Không và Hồng Loan đã biến tôi thành nhà chính trị đa mưu, túc trí. Nguy là ở chỗ đó. Đó là cái đã “ giết “ Khổng Minh. Nếu đi tu thì Khổng Minh đã đắc đạo. Đi tu muốn đắc đạo thì phải có số đế vương, như Lý Thái Tôn. Chuyển thế tinh thần phải có mới đóng nổi vai trò nhà lãnh đạo tôn giáo.
Có một vị tu sĩ bảo với tôi, anh xem hộ lá số của tôi có tu được không?
- Ồ! tại sao Đại đức nói thế? Đại đức đã khoác áo tu sĩ rồi còn gì nữa phải hỏi.
- Ấy, có một người bạn của tôi bảo với tôi rằng: Anh mà tu cái gì bởi Dâm Tinh tràn ngập Mạng cung. Thôi cởi áo đi.
- Thôi để tôi thử xem thế nào. Nhìn thấy Mạng Thủy đóng cung Ngọ. Âm cư Dương vị. Nhưng mạng có Liêm Trinh, Thiên Tướng. Tôi hỏi:
- Người bạn của Đại đức viện lẽ nào mà nói thế?
- Anh bảo tôi bị Liêm Trinh vì Liêm là vị Đào hoa thứ hai, lại còn bị sao Thiên Diêu là khác. Mà tôi thì đi tu từ khoảng năm 15, 16 tuổi đến giờ, chưa bao giờ phạm giới. Tôi đọc sách Tử vi, thấy có sao Thiên Diêu, tôi lo nghĩ: chả biết rủi mình bị cám dỗ thì uổng phí công phu…. Mình chưa biết rõ được mình vì chưa từng bị thử thách. Với cái áo thầy tu, biết đâu đã ngừa được nhiều cơ hội. Tôi chưa rõ tôi như thế nào?
Tôi rủ đi lại vị Hòa Thượng trước đây.
- Tôi cũng hơi thắc mắc. Vậy chúng ta lại nhà Tử vi có căn bản, thử hỏi xem sao.
Đến vị Hòa Thượng, trình lá số và bày tỏ thắc mắc. Hòa Thượng liếc qua đã cười:
- Thắc mắc cái gì? Thiên Diêu ở cung này (cung Ngọ) đặc biệt là một người cực kỳ thông minh. Đó là cái thông minh của những kẻ không học mà biết. Mà chỉ có cung Ngọ thì Thiên Diêu biến thành vị sao cực kỳ cao quý. Tu mà thiếu nó không hay. Các anh khác thì Diêu rất xấu trừ ra gặp Long Phượng mới hay, nhưng không bằng Diêu cư Ngọ cung. Huống chi Lộc Tồn thủ mạng là chân nhân chi tú. Các dâm tinh dù có cũng không sao cả. Liêm mà gặp Tướng thì đã bị chê rồi. Nầy nầy còn cái cung phúc (nhà tu phải coi cung Phúc nhé!) PHÚC ngộ Thiên Không và Hồng Loan hay đáo để. Đi tu là phải. Còn gì phải thắc mắc.
Tôi đang suy nghĩ thì Hòa Thượng nói tiếp:
- Các nhà tu (chân tu) cần phải có nhiều dâm tinh nhưng là những thứ dâm tinh đắc địa ( trừ Tham Lang ). Nhưng Lang mà ở cung Thìn không sao.
- Tại sao tu cần phải có nhiều dâm tinh?
- Các ông không rõ: dâm tinh là gì? Ở nơi kẻ thường nhơn thì nó làm cho mình sa đọa. Nhưng nó chính là tinh khí dồi dào nhất, nếu biết cách tu, thì tinh khí ấy biến thành khí học – nhiên và làm cho ta dễ thành Tiên Phật. Dục vọng là một sức mạnh. Nó như thác nước, sức mạnh của nó nếu được khai thác sẽ làm nên các việc vĩ đại. Thiếu nó người ta rất tầm thường.
Tôi liên tưởng đến thuyết “Libido“ của khoa Phân tâm học. Có dâm tinh là Libido chứ gì! Bỗng Hòa Thượng tằng hắng nói:
- Thiên Không này dở lắm, vậy mà gặp sao Hồng loan thì đi tu rất hợp. Thiên Không này sẽ biến thành “Chân Không“ vì nhờ có Hồng Loan nên hóa thành kẻ tu chân chính, thiếu Hồng Loan thì Thiên Không này là ác tinh.
Tôi thường tới lui với vị Hòa Thượng này rất am hiểu Tử Vi và nhất là Kinh Dịch. Lui tới tự do là vì Hòa Thượng với tôi có hai lá số “ truyền tinh”. Vị Hòa Thượng này là một bậc chân tu. Ngày nay ít có người như thế. Đó là cái phúc nhất đời tôi mà gặp được ngài..
Tôi có được phép xem lá số của ông. Chỗ thân tình nhất, ngài mới cho xem. Thời thường, Hòa Thượng ít chịu tiếp ai. Vào dinh Tổng thống còn dễ, gặp ngài rất khó. Không phải Ngài kiêng, nhưng ngài thích yên lặng, ghét thù tạc, tín đồ đến Ngài cũng không tiếp. Bạn thì nhiều nhưng Ngài không chơi thân với ai cả. Riêng phần tôi…..thì lại được Ngài đặc ân cho phép xuất nhập bất cấm và sách vở của Ngài tôi được quyền đọc giờ nào cũng được dường như Ngài có giác quan thứ 6 nên nhiều khi ngài tiên tri rất đúng.
Ngài thường bảo tôi: Nếu lựa bạn, lựa người cộng tác, hãy nên nhìn trước lá số của họ.
Tôi hỏi:
- Như họ không có lấy số, họ không tin số mạng nên xem thường ngày sinh tháng đẻ thì sao?
Ngài bảo:
- Xem tướng hoặc xem tay, thì cũng như xem lá số Tử vi. Có điều là xem tướng và tay không thấu nổi tiền kiếp.
- Tiền kiếp làm sao xem?
- Xem cung Thân, cung Mạng nhất là cung Phúc. Cung phúc là tiền kiếp cung Mạng là hiện kiếp, phúc mà tốt là tiền căn có nhiều kiếp tu. Nhà tu lấy số Tử vi rất chú trọng đến cung Phúc.
- Tại sao sách nói đó là cung dùng để xem sự thọ yểu, sự thịnh suy, tụ tán của họ hàng, và cũng lại để biết rõ về âm phần mà mình chịu ảnh hưởng. Tức là cung để xem mộ phần ông cha theo Địa Lý) Ngài có tin Địa Lý chăng?
- Quan trọng lắm!
- Sao quan trọng? Ngày nay Khoa học cho đó là dị - đoan.
- Tại cái học về Địa lý truyền thống đã mất. Ông bạn có tin đến cái thuyết người và vũ trụ là một chăng? Bạn có tin nơi cái thuyết Tự nghiệp và Cộng nghiệp của nhà Phật không? Coi quá khứ là ( chữ bị mờ) ảnh hiện tại. Nhìn hiện tại phải nhìn về quá khứ … vì quá khứ có nhiều kiếp đã lâu đời kết thành hiện tại. Đó là sản vật di truyền vào đời kết tinh. Nếu cung phúc lạc hãm, có nhiều hung tinh như Không Kiếp Kình Đà Diêu Kỵ thì thật là đáng lo mà tu ngay lập tức bây giờ dù ta không đổi số được trong hiện tại nhưng nhờ đó mà nghiệp chướng giảm lần. Bạn thiếu nợ ai thì phải lo trả lần: Nợ hay mòn, còn hay lớn. Đừng tạo nên nghiệp khác. Dù Mạng có tốt đẹp bao nhiêu mà cung Phúc xấu, khó thành công. Tôi nói thành công về đường tu. Tu là coi Phúc.
Đừng nghe lời thầy Địa lý mà sửa lại mộ phần. Ảnh hưởng chút ít thôi. Mộ phần không phải ở Âm phần của ông bà tổ tiên mình, chính nó nằm trong lòng ta, nó nằm ngay trong tiềm thức của ta "Bạn lấy làm lạ ư?"
(Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí)
Mồm miệng, dân gian vẫn thường gọi là mồm mép môi miệng nó do hai mép trên và dưới hợp thành khoang mồm miệng y học gọi là khoang vòng miệng. Mồm miệng, môi mép của con người có tác dụng làm đẹp cho bộ mặt, nhất là xung quanh mồm viền một vành môi màu đỏ, trong giải phẫu học gọi là môi đỏ. Huyết quản ở bộ phận môi đỏ này sát ngang gần bề mặt niêm mạc. Huyết quản mao mạch ở đó rất nhiều, người bình thường, đôi môi đỏ tươi, mềm mại, tươi sáng, độ khô ướt vừa phải, hơn nữa trông tươi non bóng bẩy. Còn nếu đôi môi trông khác thường về hình thái và màu sắc thì đó thường là biểu hiện ở trong người có bệnh. Phương pháp quan sát có:
1. Nhìn vào hình thái môi miệng:
Môi miệng khô: Người bệnh môi miệng khô, thường vẫn phải đưa đầu lưỡi liếm liếm, thậm chí bị nứt nẻ cả môi miệng nữa. Trường hợp này phần lớn thấy ở những người bị sốt cao, khí hậu khô hanh, cơ thể thiếu nước, khi ngủ thích đắp chăn trùm đầu. Ở những người thiếu vitamin B và rất ít ăn các loại rau quả tươi mới và các loại lương thực tổng hợp cũng phần nhiều phát sinh ra những hiện tượng khô mồm miệng khô môi như thế. Viêm môi, chốc mép cũng là một nhân tố quan trọng dẫn tới chứng bệnh khô mồm miệng này. Những biểu hiện chủ yếu của viêm môi miệng là môi mép khô háo, bị tróc bong da, bị nứt nẻ, khi ăn các chất kích thích thuộc loại chua cay sẽ cảm thấy xót đau, khi nói và cười to, mép miệng sẽ bị nứt, rướm máu ra. Người bị nặng, mồm miệng và đôi khoé mép bị sưng tấy lên, mọc mụn nước, bị toét lở, bị đóng vẩy ... do vì nứt nẻ bỏng rát nên làm trở ngại đến việc ăn uống và nói cười. Nguyên nhân thường thấy nhất của bệnh viêm môi miệng là do sử dụng các đồ hoá trang ở môi miệng bị dị ứng. Ngoài ra khô háo mồm miệng còn thấy ở những người uống quá nhiều lượng rượu vào cơ thể và những người bị mắc bệnh dạ dày mạn tính.
Môi miệng bị nứt nẻ, lở loét: Phần nhiều là do tì vị bị nhiệt, thường thấy ở những người bị bệnh dạ dày và ruột ở thể mạn tính. Khi mới phát hiện có lở loét ở môi miệng thì cần phải cảnh giác đi kiểm tra kỹ xem có phải bị bệnh giang mai di truyền không. Nếu ở vùng môi mép mà bị lở loét và có những nốt chấm đen, lên những mụn nước, bị nứt nẻ và bong ra những vẩy ... rồi ở hai bên mép có thể thấy rõ những vân vệt như những tia phóng ra ngoài, phần lớn thì hiện tượng này thể hiện ở cả hai bên mép phát sinh cùng một lúc, cũng có trường hợp cá biệt là chỉ thể hiện ra ở một bên mép thôi. Trường hợp này thường là bị viêm ở bên mép, trong dân gian vẫn thường gọi là bị chốc mép. Đây là chứng viêm da và viêm niêm mạc ở bộ phận mồm miệng.
2. Nhìn màu sắc của môi miệng:
Màu môi bạc thếch: Nếu cả hai môi đều trưáng nhạt, phần lớn thuộc tì vị hư nhược, khí huyết không đủ, trường hợp này thường thấy ở những người bị thiếu máu và bị chứng mất máu. Nếu môi trên xanh tái xám lại, thì phần lớn là do đang bị những chứng bệnh như đại tràng bị hư nhược, bị tiêu chảy, bị chướng khí, bụng quặn đau, bị nhiễm lạnh, vừa sốt nóng vừa sốt rét v.v...
Nếu môi dưới xanh tái xám lại thì đó là hiện tượng do dạ dày bị hư hàn, gây nên miệng nôn trôn tháo, dạ dày phát lạnh, bị những cơn đau dạ dày v.v... gây nên.
Môi đỏ nhạt : Phần lớn thuộc về huyết hư hoặc cả hai phương diện khí và huyết đều suy hư. Có một số người tuy không có bệnh gì lớn, nhưng cơ thể hư nhược nhiều cũng vẫn thường thấy có biểu hiện là môi nhợt nhạt như vậy.
Môi đỏ thẫm: Màu môi rực đỏ, thẫm lại, thường thấy ở những người bị sốt. Đối với những người bị cả hai bệnh tim và phổi, lại có kèm theo cả tâm lực suy kiệt, khi thiếu ô xy trong cơ thể, cũng thường thấy môi đỏ thẫm và tím bầm lại. Trên lâm sàng gọi là tím đen lại. khi màu môi trông đỏ như màu quả anh đào thì thường là đã bị trúng độc hơi than.
Môi màu xanh tái: Đó là do khí trệ, huyết ứ tắc, trường hợp này phần nhiều là do huyết dịch, không lưu thông thoáng mát, rất dễ bị các bệnh cấp tính, nhất là những bệnh cấp tính nguy hiểm về huyết quản, như tắc huyết quản, bị trúng phong ...
Màu môi đen: Xung quanh môi màu đen sạm lại thì đó là do thận đã suy kiệt. Khi mồm miệng khô cháy, đen sạm lại thì đó lại là lúc nguy kịch lắm rồi. Nếu ở những người màu môi đen xịt lại và đục, thì phần lớn là có bệnh ở hệ thống tiêu hoá. Có lúc lại thấy ở những người bí đại tiện, bị tiêu chảy, bụng dưới bị đau tức, bị đau đầu, mất ngủ, chán ăn ... Nếu trên môi lại xuất hiện cả những nốt mẩn, các mảng bớt màu đen, hai bên mép nổi lên những sắc tố ở vành mép thì hiện tượng này thường thấy ở những người công năng của màng thượng thận bị suy thoái có tính chất mạnh tính. (Bệnh addison). Nếu ở vùng mồm miệng, ở hai bên mép, nhất là ở mép dưới và niêm mạc khoang miệng có những nốt chấm nâu, đen có lúc rất dày và tập trung, không có cảm giác khó chịu, thì có thể là ở trong dạ dày và ruột của người bệnh phát sinh ra thịt thừa (cục thịt nổi lên ở dạ dày và vách ruột, vì niêm mạc phát triển khác thường) có tính đa phát.
3. Nhìn vào hình thái khoang miệng:
Khoang miệng bình thường thì rất thẳng và bóng bảy, sạch sẽ. Nếu niêm mạc ở khoang miệng bị tấy đỏ, mọc lên các mụn nước, bị lở loét hoặc xuất hiện các vết lấm chấm màu trắng vàng, có khi lại kèm theo cả sốt, đau đớn, không ăn được. Đó là đã bị viêm khoang miệng. Lúc bình thường, trong khoang miệng có vô số vi khuẩn, hễ khi sức đề kháng của cơ thể bị suy giảm, các vi khuẩn sẽ sinh sôi nảy nở ra nhiều và nhanh chóng làm cho viêm mạc của khoang miệng, của răng lợi, môi mép và đầu lưỡi bị viêm tấy, có khi cũng có thể là do virus hoặc là do quá mẫn cảm (dị ứng) gây nên.
Những người uống rượu và hút thuốc quá nhiều, cơ thể mệt mỏi, hoặc khi bị những kích thích của răng giả, của răng bị sún, bị sâu, cũng có thể làm cho viêm khoang miệng. Có những phụ nữ mỗi khi có kinh nguyệt cũng bị viêm khoang miệng có tính chất chu kỳ.
Hiện nay, ở một số vùng của nước ta, bệnh về giới tính (bệnh ở bộ máy sinh dục) lại nhen nhóm lại, những hành vi mất vệ sinh không những đã gây bệnh ở bộ máy sinh dục mà có khi còn xuất hiện cả những triệu chứng ở ngay trong khoang miệng.
Những biểu hiện của bệnh về giới tính thường thấy thể hiện những triệu chứng ở ngay trong khoang miệng như sau:
Bệnh giang mai mới mắc về sau này (không phải do di truyền hoặc bẩm sinh).
Bệnh giang mai: Ở thời kỳ đầu bị lây truyền bằng con đường tiếp xúc như hôn nhau chẳng hạn, sau đó từ ba đến bốn tuần, ở môi miệng ở mép, ở lợi, ở phần hàm ếch cứng và mềm, ở má, ở lưỡi và ở phần cổ họng, xuất hiện các nốt mẩn đỏ, những vết lở loét ... Ở thời kỳ thứ hai, bằng con đường giao tiếp tình dục, bệnh xâm nhập vào cơ thể, rồi vào tuần hoàn huyết dịch, từ máu truyền lan đi khắp cơ thể, sau khi nhiễm bệnh từ 9 đến 12 tuần, ở niêm mạc trong khoang miệng xuất hiện những mảng lấm chấm sắc tố có tính đa phát, ở đầu lưỡi và quanh lưỡi xuất hiện các vết loét. Đến thời kỳ thứ ba, qua tiếp xúc về tình dục, cứ thế truyền nhiễm vào cơ thể, sau thời gian từ 10 đến 30 năm, chủ yếu liên luỵ đến phần hàm ếch cứng, làm nó sưng tấy lên rồi mềm nhũn y như nhựa cây vậy, có thể bị vỡ ra làm cho xương hàm bị phá hoại rồi lây lan sang tới cả khoang mồm miệng và lỗ mũi.
Bệnh lậu: Người bị mắc bệnh nhiễm phải song cầu khuẩn của bệnh lậu, từ 3 đến 5 ngày có thể phát sinh ra triệu chứng viêm họng, viêm khoang miệng do bệnh lậu gây nên.
Những biểu hiện của những bệnh thường thấy ở trong khoang miệng còn có cả các nhọt hoặc khối u mẩn đỏ mọng, rồi bệnh cầu khuẩn xâu chuỗi màu trắng, bệnh mẩn mụn đỏ có tính chất đơn thuần nữa. Trong cuộc sống và sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, có thể dẫn tới các bệnh về sinh dục, gây nguy hại nghiêm trọng đến sức khoẻ của mọi người, đòi hỏi mọi người luôn phải nâng cao cảnh giác.
4- Nhìn vào màu sắc của khoang miệng:
Bình thường thì niêm mạc khoang miệng màu như phấn hồng. Nếu xuất hiện những sắc tố màu đen xám xịt từng đám một, thì phần lớn là biểu hiện công năng của tuyến thượng thận bị giảm sút. Nếu lại xuất hiện những nốt máu hoặc những chấm sắc tố ứ đọng, thì có khả năng là do cơ thể thiếu vitamin C gây nên.
Khi quan sát màu sắc của niêm mạc khoang miệng, phải đặc biệt chú ý xem có xuất hiện những vết "đốm trắng", vết "đốm đỏ", vết "đốm đen" hay không. Bởi vì tỉ suất biến chứng của bệnh ung thư thể hiện ở những vết "đốm trắng", "đốm đỏ" và "đốm đen" tương đối cao, thế mà khoang miệng lại là một trong những chỗ thuộc loại dễ mắc bệnh này, cho nên phải đặc biệt cảnh giác.
Vết đốm trắng: Đây là một loại biến chứng bệnh lý đốm trắng ở niêm mạc khoang miệng thường thấy (các vết "đốm trắng" này dùng tăm quấn bông xát đi không mất được, nó không giống như bệnh tưa mồm (viêm mồm áp tơ). Bệnh này phần nhiều phát sinh ở những chỗ khác nhau của niêm mạc khoang miệng của những ông già, nhưng thấy nhiều ở niêm mạc má. Cũng có trường hợp thấy có cả ở niêm mạc môi, hàm ếch và lưỡi nữa. Tỷ lệ phát sinh bệnh này ở nước ta là trên dưới 8%. Trong số những người có những vết đốm trắng thì có tới từ 1 đến 5% cuối cùng là bị ung thư. Tỷ lệ biến chứng ung thư của vết đốm trắng ở trạng thái khối u (trạng thái khối u ở đầu vú) cao nhất. Nếu các vết đốm trắng đó lại mọc lên cứng lại, nổi cộm lên và bị loét ra thì đó là điềm báo trước biến chứng của ung thư. Những người hút thuốc lá dễ mắc chứng bệnh đốm trắng này.
Vết đốm đỏ: Đây là một loại biến chứng bệnh lý máu đỏ ở niêm mạc khoang miệng, biểu hiện ra là những mảng lốm đốm màu đỏ tươi, mềm và có đường viền rất rõ ràng, nói chung là không thấy đau rõ rệt (điều này cần kiểm tra để giám định rõ, phân biệt với các chứng bệnh như viêm niêm mạc, bị bỏng, bị xây xước). Một biểu hiện khác nữa là còn có cả những hạt lốm đốm trắng, to bằng những hạt thóc rải rác nhiều chỗ giống y như những hạt lốm đốm màu đỏ tươi nữa, thường lại kèm thêm cả hơi thấy đau đau nữa. Những vết lốm đốm đỏ phần nhiều phát sinh ở rìa lưỡi, ở lòng lưỡi và ở đáy miệng, tỷ lệ phát sinh thấp hơn so với những vết lốm đốm trắng, nhưng tỷ lệ biến chứng ung thư thì lại cao gấp 17 lần so với những vết lốm đốm trắng. Do đó, cần phải đặc biệt chú ý.
Vết lốm đốm đen: Đây là một loại vết lốm đốm màu đen, hoặc màu xanh lam, màu xanh xám, có bờ rõ ràng ở trên niêm mạc khoang miệng, những vết lốm đốm này tương đối nhỏ, hình dạng không đều nhau, không có những triệu chứng gì làm cho người ta thấy khó chịu cả (các sắc tố màu đen trong khoang miệng lắng đọng, trông dày đặc và lan toả khắp, các ung nhọt mọc lên ở huyết quản trông ngoài không giống như các vết lốm đốm đen). Các vết lốm đốm đen phần lớn thấy ở niêm mạc hàm ếch trên, ở răng hàm và ở má. Tỷ lệ bệnh phát sinh ở nam giới gấp đôi nữ giới, tỷ lệ biến thành ác tính trên dưới 30%. Khi đã chuyển biến thành những nốt ung thư sắc tố ác tính thì những vết đốm đen đó lớn to lên, các bờ mép mờ đi, sắc tố không đều nhau và ăn sau vào, có những trường hợp ra máu và nổi lên những nốt ở xung quanh.
Nếu phát hiện những vết lốm đốm có màu sắc như trên thì cần phải kịp thời đến bệnh viện khám và điều trị.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Về mặt tâm lý, treo ảnh cưới giúp gia tăng sự lãng mạn giữa hai vợ chồng khi luôn nhắc nhở về giây phút thiêng liêng và hạnh phúc nhất của tình yêu đôi lứa. Khi treo ảnh cưới trong phòng, tránh vị trí đầu giường mà nên để ở phía trước. Ngoài ra, các khung ảnh khác cũng liên quan đến tình yêu như hoa cỏ, ảnh kỉ niệm,...không nên tren ở các góc chính Đông, Tây, Nam và Bắc vì chúng có thể kéo đến người thứ ba phá vỡ mối quan hệ của hai vợ chồng.
- Đầu giường nên vững chắc và có tường nâng đỡ phía sau. Một bức tường vững vàng đóng vai trò hỗ trợ và nhờ đó tâm lý của bạn luôn ổn định, có giấc ngủ sâu hơn so với nằm ngủ dưới cửa sổ.
- Không nên đặt bàn thờ ở trong phòng ngủ. Chúng sẽ gây ra giấc ngủ mộng mị, qua đó ảnh hưởng sức khỏe. Thêm vào đó, đặt bàn thờ trong phòng ngủ là bất kính với thần linh, tổ tiên nếu xét theo vấn đề tâm linh.

- Hạn chế bày gương trong phòng ngủ, đặc biệt tránh vị trí đối diện giường ngủ và cửa ra vào. Nếu đặt gương đối diện cửa sổ, chúng có thể hấp thụ năng lượng tiêu cực từ bên ngoài vào. Nếu có gương ở mặt trong của tủ quần áo thì chúng cũng không nên chiếu vào giường khi mở ra.
- Màn hình TV hoạt động như một tấm gương. Vì vậy, TV không đặt đối mặt trực tiếp với giường ngủ. Thêm vào đó, nên hạn chế các đồ điện tử trong phòng vì sẽ tạo ra các bức xạ không tốt cho não bộ và sức khỏe mọi người trong gia đình.

- Không sơn phòng màu đỏ, hồng, nâu hoặc màu vàng - những đại diện cho yếu tố lửa và đất. Chúng kích thích thần kinh khiến con người khó rơi vào trạng trái buồn ngủ.
- Nếu cửa phòng tắm đối diện phòng ngủ, gia đình phải đóng kín cả hai cửa suốt cả ngày. Không xét về mặt phong thủy nhưng trong kiến trúc nhà cửa sẽ giúp vi khuẩn, độ ẩm trong phòng vệ sinh không ám sang phòng ngủ.
- Không lắp quạt trần, đèn chùm phía trên giường ngủ.
- Hạn chế bày cây trong phòng ngủ, nếu có chỉ cần một chậu cây nhỏ để thanh lọc không khí. Nếu bày quá nhiều cây hoặc cây quá to, vào ban đêm chúng sẽ hút bớt lượng oxy và thải ra khí các-bo-nic không tốt cho sức khỏe con người.
Theo Đông Đông (Fengshui) (Khám phá)
Xuất phát từ trung tâm thành phố Hưng Yên, xuôi theo đê sông Hồng về phía đông khoảng 3km, ta sẽ thấy một ngôi đền toạ lạc trên gò đất cao, quay về hướng đông nam. Bên phải là dòng sông Hồng cuộn chảy, bên trái là con đê bao quanh như một bức tường thành. Phía trước là cánh đồng, phía sau là xóm làng, thấp thoáng nhà mái ngói, mái bằng trong những vườn nhãn xum xuê xanh mướt. Đó là Đền Hoàng Bà, xã Quảng Châu, thành phố Hưng Yên.
Đền Hoàng Bà được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đã có công lao to lớn, cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định, giành lại độc lập cho đất nước.
Tương truyền, sau Trưng Vương lên ngôi được 3 năm thì quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta. Trần Mã Châu được lệnh ra quân quyết chiến với giặc. Quân giặc bao vây tứ phía. Trên mình ngựa, tay cầm song kiếm, bà tả xung hữu đột, thấy giặc ngổn ngang. Được nửa ngày, gió thổi làm lộ thân hình, tướng giặc biết đó là nữ liền hô to: “Sĩ tốt khoả thân mà đánh” khiến bà lúng túng, bị thương, quay ngựa chạy về đến Bảo Châu thì hoá. Đó là ngày 3/3 năm Ất Mùi (năm 43 sau CN)
. Dân làng nơi đây đã lập đền thờ, tế lễ để ghi công đức của Hoàng Bà. Cảm phục và thương xót bậc lương thần đã quên mình vì nước, Trưng Vương truy phong cho Bà là “Thượng đẳng Phúc thần” và chuẩn phê cho làng Bảo Châu là nơi đền chính, phụng sự tế tự.
Tương truyền đền Hoàng Bà rất linh thiêng. Các triều đại nối tiếp về sau đứng lên dẹp giặc, gây dựng cơ đồ đều được Châu Nương linh thiêng hiển ứng, âm phù giúp nước, nên lại được phong: “Thượng đẳng tối linh anh linh hiển ứng” . Đến nay đền còn giữ được 7 sắc phong qua các triều đại. Triều Lê Thái Tổ phong cho Bà là: “Phương Dung trinh thục mĩ nga nhân Uyển Huệ Hoà công chúa.” Gần đây nhất là triều Khải Định năm thứ 4 (tháng 7 năm 1919), sắc phong cho Bà là: “Trinh tĩnh Trung đẳng thần”.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đền Hoàng Bà đã nhiều lần phải trùng tu tôn tạo, song vẫn luôn giữ được nét xưa; uy nghi, giản dị, thanh tao. Hiện đền còn giữ được khá nhiều hiện vật quý giá, như: kiệu bát cống, kiệu võng, kiệu Bà, đại tự, hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức Hoàng Bà với nhiều nội dung sâu sắc. Đặc biệt, đền còn giữ được bức tượng Hoàng Bà bằng gỗ quý rất đẹp từ thời Bà còn sống.
Hàng năm, đền mở hội từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Con em quê hương ở khắp mọi nơi cùng khách thập phương nô nức về dự hội, tưởng nhớ người nữ tướng anh hùng của dân tộc và ôn lại truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta.
Năm 1997, Đền Hoàng Bà đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Đây mãi sẽ là nơi tôn vinh, tri ân công đức của Hoàng Bà – vị nữ anh hùng dân tộc trong buổi đầu dựng nước, nơi bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc cho muôn đời con cháu mai sau.