Mơ thấy khớp xương: Tài chính gia tăng hay tình yêu vững vàng –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nhà có hình vuông là tốt theo luật phong thủy
Từ trước người phương Đông đều bị ảnh hưởng bởi quan niệm “trời tròn đất vuông”, khi xây nhà bất kể là tường ngoài hay trong phòng, đa số đều là hình vuông, tứ bình bát ổn, không nghiêng không lệch. Trong phong thủy học, nhà ở hình vuông là tốt nhất.
Cũng có thể nói, nhìn từ vị trí của phương chính, hình dạng nhà ở hình vuông hoặc hình chữ nhật, bốn bên không khuyết góc, trái phải tương xứng với nhau, là dạng nhà ở lý tưỏng. Nếu nhà ở dài hẹp hình dạng không có quy tắc sẽ cho là không cát lợi.
Đây là vì theo nguyên tắc phong thủy học, nhà ở hình vuông có thể khiến năng lượng của khí sinh ra dòng chảy tuần hoàn cân bằng sẽ không xảy ra nhiều tai họa hoặc tai họa bất ngờ, từ đó ảnh hưởng tốt đến sức khỏe cơ thể và tâm lý người ở. Còn nhà ở dài và hoặc khuyết góc, khí trong nhà sẽ ngưng tụ, hoặc chảy không có quy luật, sự phân bố trường năng lượng sẽ mất cân bằng, có hưởng đến sức khỏe và cuộc sống thường ngày của người ở.
Nhìn theo quan điểm hiện đại, tính thực dụng của ngôi nhà; vuông cao, trang trí nội thất cũng tiện, hon nữa dễ thỏa mãn các cầu về thông gió, ánh sáng… Sống trong ngôi nhà này tự nhiên sẽ thấy thoải mái, tâm bình khí hòa, gia đình hòa thuận.
Tuy rằng như thế, do điều kiện đất đai hạn chế, nhà ở nhiều phải xây dựng trên những mảnh đất khuyết góc, hoặc việc chọn nhà trở nên khó khăn. Cho nên khuyên các bạn khi mua nhà nhất định phải chú ý đến hình dạng của nhà, cần cố gắng chọn nhà ở hình vuông. Nếu thật không có lựa chọn nào khác, thì ít nhất cũng chọn môi trường nào có không gian bù đắp.
Nhà ở trong thành phố hiện đại đa số là dài và hẹp. Tức là chiều dài thường gấp đôi chiều ngang. Như nhà có chiều dài 10m, chiều rộng chỉ có 4m, gọi là dài và hẹp. Đối vói nhà ở dài và hẹp, cách giải quyết tốt nhất là dùng tủ đứng, bàn trang điểm… chia phòng khách ra làm đôi, cắt chiều dài ra làm hai nửa không gian vuông, để khi nhìn vào không có cảm giác dài và hẹp.
Khi bài trí các đồ vật nội thất, cần chú ý các điểm sau:
– Bộ phận phân cách nên cố gắng dựa vào đường tuyến giữa, vì thế hai phần được chia ra mới có dạng hình vuông, nếu không sẽ mất đi ý nghĩa của việc làm này.
– Nên cố gắng dùng các tủ thấp hoặc đồ trang trí nội thất thấp để phân cách, như chiếc tủ thấp hon lm hoặc bàn trang điểm là lý tưởng nhất, vì như thế mới có thể làm cho không khí của hai phần phân cách được tương thông. Nếu dùng tủ cao hoặc tường để phân cách, hiệu quả sẽ giảm đi nhiều.
– Đồ dùng để phân cách nên cố gắng tránh đối diện với cửa chính, càng cần phải lưu ý không để tủ phân cách đối diện với cửa phòng của trẻ em, tránh trẻ em ra vào không thuận tiện, hoặc sinh ra đụng chạm ngoài ý. Nếu không thể tránh được, chỉ có thể bày một chậu cây cảnh trên đầu tủ để cứu chữa.
Có một số nhà ở mang đến cho con ngưòi cảm giác tinh thần thanh thản; mà có một số nhà ở lại khiến con người cảm thấy áp bức, u buồn, đứng ngồi không yên, một trong những nguyên nhân của nó là ưu khuyết điểm về bố cục kết cấu của nhà ở không giống nhau.
Kết cấu bố cục bốn phía rộng rãi, bố trí hài hòa là sự chọn lựa tốt nhất. Vì thế, khi bạn chọn nhà ở, bạn cần đứng tĩnh lặng trong nhà khoảng 10 phút, cảm giác một chút xem thử nhà ở này có mang lại tâm tình tịnh khí ngưng thần cho bạn hay không.
Tuổi Mậu Tý nam mạng 1948
– Quẻ mệnh: Đoài Kim
– Ngũ hành: Tích lịch hỏa (Lửa sấm sét)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);
– Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ);
Mậu Tý cần lưu ý khi đặt bàn thờphải tránh các điều kiêng kỵ sau:
– Không đặt bàn thờ sát nhà tắm. Bởi theo quan niệm, tắm rửa là việc trút bỏ ô uế, vì vậy, nếu đặt bàn thờ cạnh nơi này sẽ làm mất đi không khí tôn nghiêm.
– Không đặt bàn thờ ở lối đi lại. Nếu đặt ở lối đi lại ồn ào sẽ làm mất đi sự thanh tịnh của nơi thờ cúng. Như vậy, gia đình sẽ ít có may mắn và tài lộc.
– Không đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ: Đông Bắc, hướng Tây Nam.
– Không đặt bàn thờ ở Tây Nam nhìn hướng Đông Bắc.
– Không đặt bàn thờ ở Đông Bắc nhìn hướng Tây Nam.
– Không đặt bàn thờ ở hướng Đông, Đông Nam nhìn hướng Tây.
– Không đặt bàn thờ trên nóc tủ.
– Không lấy gỗ đã qua sử dụng để làm bàn thờ.
– Bàn thờ Thần và Phật có thể để chung, song không nên để bát hương sát nhau.
– Bàn thờ tổ tiên không nên đặt ở trung tâm nhà, vì sợ hung. Tuy nhiên, bàn thờ Phật có thể đặt ở trung tâm nhà.
– Bàn thờ tổ tiên và bàn thờ Phật không nên đặt đối nhau trong 1 gian phòng.
– Không nên treo ảnh người quá cố cao hơn bàn thờ.
Hướng phòng thờ theo phong thủy hợp tuổi Mậu Tý:
– Gia chủ tuổi Mậu tý nên đặt vị trí và hướng bàn thờ vào các hướng tốt là: Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên); Đông (Thiên Y); Bắc (Phục Vị)
– Gia chủ tuổi Mậu tý nên tránh đặt vị trí và hướng bàn thờ tại các hướng xấu là: Tây (Hoạ Hại); Tây nam (Tuyệt Mệnh); Tây bắc (Lục Sát); Đông bắc (Ngũ Quỷ)
*Giải nghĩa từ ngữ phong thủy
– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.
– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ
– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.
– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.
– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.
– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.
– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.
– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.
Cách lựa chọn kích thước cho bàn thờ cho tuổi Mậu Tý:
Ban thờ hiện nay thường có hai loại: Ban thờ treo tường và tủ thờ. Các kích thước cần quan tâm là: Chiều rộng, chiều sâu và chiều cao của ban thờ. Các số đo này không quy định một loại kích thước cụ thể mà tùy theo nhà rộng hay hẹp để lựa ban thờ với kích thước to nhỏ khác nhau. Theo phong thủy nên lựa chọn các kích thước trên sao cho các kích thước này rơi vào các cung “cát” của thước Lỗ Ban là đạt yêu cầu.(thước này bạn có bán rất nhiều ở chợ, siêu thị).
Hành: HỏaLoại: Ác TinhĐặc Tính: Cơ mưu, quyền biến, gian xảo, thủ đoạn, dối trá, đa nghi, ám hạiTên gọi tắt thường gặp: Binh
Phụ tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Cũng là một trong 4 sao của cách Binh Hình Tướng Ấn (Phục Binh, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn).
Ý Nghĩa Phục Binh Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Phục Binh ở Mệnh thì có tính đố kỵ, cạnh tranh, hay nói xấu, dèm pha người khác, hoặc mình cũng hay bị nói xấu, đố kỵ, bị người mưu hại.
Ý Nghĩa Phục Binh Với Các Sao Khác
– Sát sinh, đổ vỡ, đi tới những nơi có âm khí nặng, mặc quần áo rách, quần áo màu trắng và đen... là một trong những điều kiêng kỵ trong Rằm tháng Giêng mà ai cũng cần lưu ý.
![]() |
![]() |
Đường màu đỏ là đường Tình cảm |
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của bạn và một nửa của mình |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
thiên hỷ (Thủy)
***
1. Ý nghĩa của thiên hỷ:
2. Ý nghĩa của thiên hỷ ở các cung:
a. ở Mệnh:
b. ở Bào:
c. ở Phu Thê:
d. ở Quan:
e. ở Phúc:
f. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
=> Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Trong quần thể các ngôi chùa ở Hà Nội, ngoài những ngôi chùa nổi tiếng ở khu vực trung tâm như Trấn Quốc, Quán Sứ, Quan Thánh, phủ Tây Hồ, … Hà Nội còn có nhiều ngôi chùa cổ, đều là nơi lưu giữ chứng tích của sự phát triển Phật Giáo ở Việt Nam, như: chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Thầy và Chùa Đậu. Tuy nhiên, với chùa Đậu thì có lẽ nhiều người còn chưa biết tới. Chùa Đậu có tên chữ là Thành Đạo tự. Chùa thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ trong hệ thống tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) nên còn được gọi là Pháp Vũ điện. Ngôi chùa tọa lạc tại thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội do Đại đức Thích Thanh Nhung trụ trì.
Sử sách ghi lại, các bậc vua chúa khi đến đây lễ bái, cầu an đều rất linh ứng nên ngày xưa, chùa Đậu được phong tặng là “Đệ nhất đại danh lam”. Chùa được dựng dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (602 – 939), nhưng theo văn bia, chùa được xây dựng từ thời triều nhà Lý.
Chùa Đậu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá. Tầng trên treo quả chuông đúc năm 1801 thời Tây Sơn.
Đi qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương. Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu.
Ngoài những giá trị kiến trúc, chùa Đậu còn bảo lưu được nhiều di vật quý như: 2 con chồn đá ở thềm Tam Quan có niên hiệu thời Trần, đôi rồng đá ở thềm bậc Tiền Đường, đến nay đã có hơn 500 năm tuổi; các phù điêu trạm hình tiên nữ đầu người, mình chim, những chàng trai cưỡi rồng đánh hổ, các loại gạch đất nung có hoa văn thời Mạc, thời Lê, hai bộ sách đồng…
Đặc biệt, chùa còn lưu giữ hai pho tượng ướp xác, còn gọi là xá lỵ, hay tượng táng hai vị tổ thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường quý hiếm, làm nên một chùa Đậu bí ẩn và độc đáo.
Đầu năm 1993, Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã được giao nhiệm vụ lập phương án thiết kế và thi công trùng tu hai pho tượng này. Khi chiếu tia X-quang, các nhà nghiên cứu còn thấy rõ xương cốt bên trong thi hài và kết luận rằng : không có vết đục đẽo, không có hiện tượng hút ruột, hút óc và các khớp xương dính chặt với nhau như thể tự nhiên. Đây là hai vị Thiền sư đắc đạo tại chùa, để lại toàn thân xá lợi. Xá lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh đã được tu bổ với các kĩ thuật: bó, hom, lót, thí, mài và thếp với các nguyên liệu như sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất. Tổng số lớp sơn và thếp vàng là 14 lớp. Trước khi tu bổ, tượng nặng 7 kg, sau khi tu bổ, tượng nặng 7,5 kg.
Pho tượng Vũ Khắc Trường đã bị hỏng nặng vào khoảng năm 1983 do am đặt tượng bị ngập sau trận lụt lớn. Tượng hồi đó đã được ông Vũ Văn Tuyền, cháu của thiền sư Vũ Khắc Trường đắp lại bằng đất và sơn ta. Tượng đã được các nhà nghiên cứu sắp xếp lại những xương bị gãy, xông thuốc 2 lần và phủ xương bằng dung dịch PVC và đưa lại xương vào trong tượng và bao kín toàn tượng bằng sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và thếp bạc, chỗ dày nhất tới 22 lớp. Toàn bộ pho tượng sau khi tu bổ nặng 31 kg.
Hai pho tượng được coi là quốc bảo thiêng liêng và nhận được sự cung kính như Phật sống. Trải qua hàng trăm năm hai pho tượng đã có những dấu hiệu xuống cấp nghiêm trọng. Tháng 5.2003 Sở Văn hoá thông tin Hà Tây, Hội Phật giáo, UBND tỉnh Hà Tây… thực thi Dự án Tu bổ và bảo quản hai pho tượng.
Chùa Đậu vốn đã huyền bí và mang trong mình những giá trị tâm linh lớn lao từ hai vị thiền sư đắc đạo, nay càng trở nên hấp dẫn hơn, bởi kỳ tích khôi phục tượng táng của các nhà khoa học Việt Nam.
Sao Thái Âm thuộc chòm sao Bắc Đẩu tinh (tính Âm Thủy) tên thường gọi là Nguyệt.
Sao Thái Âm miếu địa tại: Dậu, Tuất, Hợi.
Vượng địa tại: Thân, Tý.
Đắc địa tại: Sửu, Mùi.
Hãm địa tại: Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
Cung mệnh có sao Thái Âm đắc địa, vượng địa hay miếu địa tọa thủ là người có thân hình to lớn, hơi cao, da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, đẹp đẽ mắt sáng, rất thông minh, tính khoan hòa, nhân hậu và từ thiện, ưa thích văn chương, mỹ thuật được hưởng giàu sang và sống lâu.
Sao Thái Âm miếu địa, vượng địa: Sinh vào ban đêm mới thuận lý, rất sáng sủa tốt đẹp. Nếu sinh vào khoảng mùng 1 tới ngày 15 vào ban đêm là thượng huyền rất rực rỡ.
Thái Âm sẽ tăng thêm vẻ đẹp nếu gặp các sao như Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ. Và giảm bớt tốt đẹp khi gặp các sao Thiên Riêu, Đà La, Hóa Kỵ, Kình Dương, Không, Kiếp.
Thái Âm miếu địa, vượng địa mà gặp sao Tuần, triệt án ngữ sẽ bị che lấp đi ánh sáng trở thành mờ ám và xấu xa. Nhưng ngược lại nếu Hãm địa mà gặp Tuần, triệt án ngữ thì lại trở nên sáng sủa và tốt đẹp.
Đắc địa cần Tuần, triệt án ngữ để tăng thêm vẻ sáng sủa tốt đẹp. Nếu đắc địa gặp Hóa Kỵ đồng cung thì thật là hoàn mỹ được ví như mặt trăng được tỏa sáng có mây năm sắc chầu 1 bên.
Sao Thái Âm miếu địa, vượng địa ứng hợp với âm nam và âm nữ.
Cung mệnh có sao Thái Âm mà sinh vào ban đêm thì thuận lý vô cùng rực rỡ, ngược lại sinh vào ban ngày thì trở nên kém sáng sáng sủa và tốt đẹp.
Thái Âm đắc địa nếu không gặp Tuần, triệt án ngữ tuy vô bệnh tật, vẫn có tài lộc, nhưng không thể quý hiển được.
Thái Âm miếu địa, đắc địa hay vượng địa gặp các sao xấu hội họp như: Kỵ, Riêu, Hình tất không được hưởng giàu sang trọn vẹn, mắt kém thường có bệnh về đường tiêu hóa, hay mắc tai nạn, tuổi thọ suy giảm.
Thái Âm đắc địa gặp Hóa Kỵ đồng cung và không bị sát tinh xâm phạm, chắc chắn là được hưởng phú quý.
Thái Âm bị hãm địa thì thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài và kém thông minh, tính ương ngạnh, thích giao du chơi bời, ưa ngâm hoa vịnh nguyệt, không tham cầu danh lợi suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, rất vất vả thường phải ly tổ buôn ba, lại hay đau yếu, mắt kém khó thoát được tai nạn nếu trong mình không có dị tật tất, không thể sống lâu được.
Nguyệt Hãm địa tại cung Mão, Tỵ (âm cung) cũng không đến nỗi mờ ám xấu xa lắm, vẫn được cơm no và áo ấm. Chẳng đáng lo ngại về những sự chẳng lành xảy ra trong đời.
Nguyệt hãm đại gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp như Xương, Khúc, Khôi, việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỷ tất cũng có danh tài và gia tăng tuổi thọ.
Thái âm dù đắc địa, vượng địa hay miếu địa tọa ở mệnh có thiên hình đồng cung ắt có dị tật ở mắt do kim khí, vật nhọn gây ra.
Thái âm đắc địa hay vượng địa, hãm địa gặp tuần, triệt án ngữ nên lập gia đình muộn hoặc lấy lẽ mới tránh khỏi được những ưu phiền đau đớn vì chồng con.
Sao Thái Âm hãm địa là một người dâm dật, suốt đời vất vả và có nhiều bệnh tật. Nếu gặp thêm nhiều sao xấu xa mờ ám hội họp thì thật là chung thân cùng khốn, cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, hay đau yếu chân tay không có dị tật thì mắt cũng mù lòa.
Nhà sử học Dương Trung Quốc từng cho rằng: "Bữa cơm tất niên không phải nghi lễ ngày Tết song đó là phong tục của người dân Việt Nam. Đây không phải là lễ bắt buộc nên có nhiều nhà không có bữa cơm này, song là dịp cần thiết để mỗi gia đình sum họp, tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, gặp gỡ những người con cháu ở xa sau một năm. Bữa cơm tất niên là nét văn hoá đã in đậm trong tâm trí nhiều người Việt và trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình mỗi khi Tết đến, xuân về".
Thời gian cứ trôi qua, lớp màu thời gian có thể phủ kín lên những thứ nhạt nhòa. Nhưng những giá trị đã đi vào tiềm thức của người Việt Nam thì không bao giờ phai nhạt mất.
Bữa cơm tất niên mang ý nghĩa tư tưởng của mỗi người khi xuân về. Mùi Tết ấm áp từ bữa cơm tất niên lan tỏa là thời khắc tình cảm con người tuôn trào. Không chỉ có vậy bữa cơm tất niên còn có nhiều ý nghĩa tâm linh. Theo quan niệm truyền thống bữa cơm cuối cùng của năm là để tiễn biệt năm cũ, ăn xong người ta sẽ bỏ qua mọi muộn phiền của năm cũ, những giận hờn cũng sẽ xóa bỏ từ đây. Mâm cơm tất niên còn là tục lệ truyền thống rước ông Công ông Táo về lại nhà coi sóc việc bếp núc của gia chủ. Ngoài ra, đây cũng là bữa cơm để con cháu thể hiện tấm lòng tôn kính, hiếu thảo với những người đã khuất trong gia đình. Có thể ra mộ của bậc trên đã khuất thăm hương với mong muốn rước ông bà tổ tiên về cùng ăn tết với gia đình hoặc cũng có thể thắp hương cúng tất niên ngay tại gia đình.
Lễ tất niên thường được tiến hành vào chiều ngày 30 Tết. Trong ngày 30 Tết, nhà nhà đều dọn dẹp để chuẩn bị đón Tết. Sau khi công việc chuẩn bị cho gia đình một cái Tết đầm ấm, thiêng liêng, vui vẻ xong thì phải chuẩn bị mâm cỗ cúng Tất niên.
Mâm lễ cúng Tất niên thường gồm: Hương hoa, vàng mã; Đèn nến; Trầu cau; Rượu; Bánh chưng; Cỗ mặn với đầy đủ các món ăn ngày Tết, được chế biến thơm ngon, tinh khiết, bầy biện đầy đặn, trang nghiêm.
Mâm cỗ Tết miền Bắc theo đúng bài bản, thường thì 4 bát, 4 đĩa. Cỗ lớn thì 6 bát, 6 đĩa hoặc 8 bát, 8 đĩa…có khi mâm cỗ lớn phải xếp cao đến 2, 3 tầng.
Bốn bát, bốn đĩa gồm: bát giò heo hầm măng lưỡi lợn, bát bóng thả, bát miến, bát mọc.
Bốn đĩa gồm: đĩa thịt gà, đĩa thịt heo, đĩa giò lụa, đĩa chả quế.
Nhưng tùy từng thời kỳ, đặc điểm mỗi vùng mà mâm cơm tất niên được thay đổi các món cho phù hợp.
Trước đây, mâm cỗ miền bắc nói chung và mâm cỗ tất niên nói riêng bao giờ cũng đủ sáu bát: măng, bóng, mực, nấm thả, miến, mọc. Tám đĩa: thịt gà luộc, giò lụa, chả quế, trứng muối, dưa hành, bánh chưng, lòng gà xào dứa và cá kho. Ðầy đủ các món ăn là vậy bởi quanh năm chỉ có ngày Tết mới được thưởng thức nhiều món như vậy, bên cạnh đó mâm cỗ Tết còn thể hiện sự no ấm, hạnh phúc của mỗi gia đình, cũng như ước mong một năm mới đầy đủ, thịnh vượng và phát đạt.
Cùng với sự thay đổi của thời gian, mẫm cỗ Tết đã có nhiều thay đổi. Nhiều món ngon truyền thống mất đi vì ngày nào giờ cũng có thể như là tết vì các bà mẹ đảm có thể nấu bất cứ lúc nào. Giờ thay vào đó là những món đặc sản thời hiện đại hoặc khẩu vị ăn uống của từng gia đình như các loại nem rán, nem chua, chân giò muối, đĩa nộm, thịt bò kho...
Có 2 loại hoa tay là: lưu vân và xoáy nước, mỗi kiểu có đặc điểm quý nhân phù trợ khác nhau.
1. Năm đầu ngón tay đều là hình xoáy nước
Đây là người tự tin, nhưng cũng rất cứng đầu, tính độc lập cao, hay phải đối mặt với những biến đổi lớn trong cuộc sống. Cho nên bình thường, những người này cần chú ý tu dưỡng bản thân, đến tuổi trung niên có thể thành công và danh tiếng.
2. Năm đầu ngón tay đều là lưu vân
Đây là người chính trực, có đôi bàn tay khéo léo linh hoạt, giỏi các nghề thủ công mỹ nghệ, nhưng vì không giỏi xã giao nên mối quan hệ xã hội không quá rộng, và họ cũng không thích hợp cộng tác với người khác hay làm việc nhóm. xem boi ngay sinh
3. Ngón cái và ngón út là hình xoáy nước
Là người có tài hùng biện và giỏi các công việc liên quan đến ăn nói, được sự chỉ dẫn của các bậc tiền bối. Họ sẽ không chú trọng lợi ích trước mắt mà thường có tầm nhìn xa hơn nữa.
4. Ngón cái và ngón nhẫn là hình xoáy nước
Người sở hữu bàn tay như vậy thì thời niên thiếu khó khăn, nhưng nếu họ có thể chịu đựng vất vả mà tiến lên thì đến tuổi trung niên, họ sẽ có quý nhân phù trợ và giàu có.
5. Ngón cái và ngón giữa là hình xoáy nước
Chỉ cần người này sửa được tính hay lo lắng và hướng nội của mình, nỗ lực gấp đôi để rèn luyện bản thân, thì tương lai sẽ được quý nhân phù trợ, trong sự nghiệp sẽ đạt đến đỉnh cao.
6. Chỉ ngón cái có lưu vân
Họ sở hữu tài năng lớn, đầu óc thông minh nhanh nhẹn. Chỉ cần nỗ lực, họ sẽ được cấp trên đề bạt hoặc đạt thành công lớn. Tuy tính cách của họ có phần nóng tính và dễ nổi sung nhưng lại là người rất hào phóng.
7. Chỉ có ngón cái là xoáy nước
Người này có sức sống mạnh mẽ, họ mang tâm cao chí lớn, dù giai đoạn thiếu niên và trung niên vận khí không tồi nhưng thường khi về già họ mới thành công rực rỡ.
8. Ngón tay và ngón trỏ là xoáy nước
Kiểu người này khoan hồng đại lượng, nhân duyên tốt, giỏi giao tiếp, hòa đồng, bởi vậy họ sẽ gặp được nhiều người giúp đỡ thành công.
9. Chỉ ngón áp út là có lưu vân
Là người giỏi giao tiếp, ứng biến tốt, cho nên họ thường được lòng cấp trên và được cấp trên đề bạt, tiếp theo là được mọi người xung quanh giúp đỡ, ngay cả khi về già vận khí vẫn rất tốt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Những câu nói hay nhất của Khổng Tử. Là nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng lịch sử Trung Quốc, Khổng Tử đã để lại cho đời nhiều câu nói có giá trị (có thể coi là bất hủ) đến muôn đời sau.
Hãy tham khảo những câu nói sau đây của Khổng Tử để suy ngẫm về cuộc sống bạn nhé.
1- Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không tật bệnh, vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh.
—-
2- Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu xa nổi dậy.
—-
3- Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
—-
4- Sự nghiệp đừng mong không bị chông gai, vì không bị chông gai thì chí nguyện không kiên cường.
5- Làm việc đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng thị thường kiêu ngạo.
6- Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7- Với người đừng mong thuận chiều ý mình, vì được thuận chiều ý mình thì tất sanh tự kiêu.
8- Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đáp trả là thi ân mà có mưu tính.
9- Thấy lợi đừng nhúng tay, nhúng tay thì hắc ám tâm trí.
10- Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát mà trả thù thì oán đối kéo dài. Lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai gốc làm giải thoát, lấy ma quân làm đạo bạn, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên, ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả. Nên chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Ngày nay những người học đạo, trước hết không dấn mình vào mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại xáp tới thì không thể nào đối phó. Chánh Pháp chí thượng vì vậy mà mất cả, đáng tiếc đáng hận biết bạo.
11- Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.
12- Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.
13- Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
14- Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi
15- Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
16- Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
17- Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
Mơ thấy Bồ Tát đang ngự trên tòa sen là điềm báo bạn sẽ đỗ đạt trong thi cử hoặc đạt công thành danh toại. Chiêm bao thấy Bồ Tát từ trên trời đang hạ xuống, gia đình bạn sẽ gặp nhiều may mắn, con cái sẽ thành đạt.
![]() |
Ảnh minh họa |
Đây là quẻ Quan Âm thứ 52 được xây dựng trên điển cố: Thái Bạch Túy Lao Nguyệt – hay Thái Bạch say vớt trăng.
Đây là quẻ trung bình, thuộc cung Tý. Trong quẻ nói việc đến mà làm thì uổng phí công sức, không có hiệu quả. Từ ngôn ngữ đến hành động không nên tùy tiện, hồ đồ bởi khả năng của bản thân chưa tới.
Lý Bạch nguyên quán ờ Thành Kỷ, Thiểm Tây, vào cuối thời Tùy, gia tộc của ông chuyển đến thành Toái Diệp ờ Trung Á, Lý Bạch được sinh ra ở đây. Khi Lý Bạch bốn tuổi, gia đình ông chuyển đến huyện Chương Minh ở Cẩm Châu (nay là huyện Giang Du ờ Tứ Châu). Năm hai mươi tư tuổi, ông một mình rời khỏi đất Xuyên, bắt đầu đi du ngoạn, mong muốn được kết giao bạn bè, gặp gỡ những người có danh tiếng trong xã hội, từ đó mà được tiến cử, có được địa vị cao, thực hiện được lý tưởng và hoài bão chính trị. Ông phiêu bạt suốt mười năm, không có được thành công gì, nhưng lại sáng tác được vô số áng thơ kiệt xuất, tài thơ nổi tiếng khắp thiên hạ.
Năm Thiên Bảo thứ nhất, do được đạo sĩ Ngô Nhân Quân tiến cử (có một thuyết là do công chúa Ngọc Chân em gái của vua Đường Huyền Tông tiến cử), Đường Huyền Tông triệu Lý Bạch vào cung, làm việc cho viện Hàn Lâm. Không lâu sau, do bị những kẻ quyền quý gièm pha, ông bị đuổi ra khỏi kinh thành. Sau đó, ông quanh quẩn ở vùng Trường Giang và sông Hoài, tâm trạng vô cùng sầu muộn.
Mùa đông năm Thiên Bảo thứ 14 (năm 755), An Lộc Sơn làm loạn, lúc này Lý Bạch đang ờ ẩn ở núi Lư Sơn, gặp đại quân của Vĩnh Vương Lý Lân đang xuống phía đông, mời Lý Bạch xuống núi vào trong phủ. Sau đó Lý Lân làm phản, bị Đường Túc Tông tiêu diệt, Lý Bạch cũng bị liên lụy, bị lưu đày đến Dạ Lang (nay thuộc tỉnh Quý Châu), giữa đường được ân xá trở về. Ông qua lại ờ các vùng đất Tầm Dương (nay là cửu Giang tỉnh Giang Tây) và Tuyên Thành (nay là Tuyên Thành tỉnh An Huy).
Năm Bảo ứng thứ nhất đời vua Đường Thái Tông (tức năm 762), tương truyền Lý Bạch lúc đó ở huyện Đương Đồ tỉnh An Huy, sau khí uống rượu, bèn bơi một chiếc thuyền nhỏ đi ngắm trăng, thấy bóng trăng in dưới nước, ông muốn vớt trăng lên, vì thế trượt chân ngã xuống nước mà chết đuối.
Về cái chết của Lý Bạch, có rất nhiều giả thuyết, không thể xác định thuyết nào mới là đúng. Nhìn chung, có thể chia thành ba loại sau: một là say rượu mà chết, hai là mắc bệnh mà chết, ba là chết đuối. Thuyết thứ nhất gặp trong “Cựu Đường thư”, nói rằng “Lý Bạch uống rượu quá nhiều, say mà chết ở Tuyên Thành”. Thuyết thứ hai bắt nguồn từ các bộ chính sử khác hoặc từ sự khảo chứng của các học giả, chuyên gia. Thuyết này cho rằng, khi Lý Quang Bật lên phía đông trấn giữ Lâm Hoài, Lý Bạch lúc ấy đã sáu mươi mốt tuổi, không quản tuổi cao, nghe tin liền xin đi giết giặc, hy vọng lúc tuổi già xế bóng có thể tận lực cứu nguy cho đất nước. Vì bị bệnh, nên giữa đường phải quay về, năm sau thì ốm mà mất ở chỗ Lý Dương Băng, huyện lệnh huyện Đương Đồ. Còn thuyết thứ ba xuất hiện nhiều trong các truyền thuyết dân gian, mang đậm sắc thái lãng mạn, rất phù hợp với tính cách khác thường của thi nhân.
Nhưng cho dù là thuyết nào, cũng đều có mối liên quan trực tiếp đến việc Lý Bạch cùng Lý Lân mưu phản làm loạn. Bởi vì sau khi Lý Bạch bị lưu đày đến Dạ Lang, rồi được ân xá trở về không lâu, liền kết thúc cuộc đời ly kỳ mà đầy trắc trở của ông, đây là một sự thật không cần bàn cãi.
Phong thủy phòng của trẻ nên được bố trí kín đáo, không có gió lùa, trang hoàng đơn giản, đồ dùng tiện dụng và chắc chắn. Sàn nhà nên làm bằng gỗ, ứng với ngũ hành Mộc là tốt nhất, không nên lát đá, trải thảm. Vị trí bàn học hợp phong thủy sẽ là điểm tựa vững vàng để con trẻ hăng hái học tập, đạt kết quả cao. Cha mẹ cần lưu ý các điểm sau: 1. Bàn học không nên quay lưng về cửa phòng, không có điểm tựa, đứa trẻ sẽ cảm thấy bất an. 2. Không đặt bàn học phía dưới điều hòa hoặc vật nặng như kệ tủ, giá sách treo tường vì sẽ tạo thành áp lực, con trẻ không phát huy được hết khả năng. 3. Tủ sách, giá sách làm bằng gỗ, ứng với ngũ hành Mộc là tốt nhất. Mộc chủ sinh sôi nảy nở, có thể gia tăng dương khí. Mộc lại chứa nhu tính, khiến người tâm tình bình thản, có lợi cho học tập. Yếu tố này không thể bỏ qua trong bố trí phòng trẻ hợp phong thủy.
![]() |
Giáo sư Lê Trung Hưng
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi "Mười Kinh nghiệm" được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm:
1 - Sinh bất phùng thời:
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ: Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây:
2 - Đồng bệnh tương lân:
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ: tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết... ). Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau:
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của "Đồng Mệnh tương lân": Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3- Đời là bể khổ: Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung, là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói: "Thiện căn ở tại lòng ta".
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ: Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ: hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách:
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn...
4 - Công ơn Tổ-Phụ:
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là: nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú: "Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp". Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống, chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa: giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên "may mắn" còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời "Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí"
Ví dụ: Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi "Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa" là một đời có nghĩa "Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số". Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương: Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng "mày râu" (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều!) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao? Xin thưa ngay rằng: Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú:
– Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nói dễ hiểu hơn: Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa "ký sinh nhân"?
6 - Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là: Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào:
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả oán:
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ: Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau: Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ, đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ: Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7 - Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao: Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng:
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8 - Sớm đầu tối đánh
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện:
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế!). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau: Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu "họa vô đơn chí", nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời, bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9 - Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10 - Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
- Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
- Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)
Cuộc đời: trung niên phát đạt. Từ 35 tuổi trở đi sẽ có sự nghiệp vững vàng, gia đình hạnh phúc, an nhàn, sung sướng.
![]() |
Theo luận giải tử vi, nam giới tuổi Tân Mùi có mệnh vinh hoa, phú quý, trường thọ, phúc lộc dồi dào, sự nghiệp thành công, gia đình hòa thuận, yên ổn.
Những tuổi đại kỵ với tuổi Tân Mùi là: Tân Mùi, Đinh Sửu, Canh Thìn, Quý Mùi, Kỷ Sửu, Mậu Thìn, Ất Sửu.
Các năm khó khăn nhất trong cuộc đời nữ giới tuổi Tân Mùi là tuổi: 25, 28, 32, 40; ở nam là: 25, 29, 33, 43.
Tính cách: Là người hiền hậu, thân thiện, biết quan tâm chia sẻ với mọi người. Người tuổi Tân Mùi thông minh, chí khí, ngại va chạm, đôi khi nhu nhược nên hay bị người khác lợi dụng.
Nữ giới tuổi Tân Mùi giỏi nội trợ, biết chiều chồng, cư xử đúng mực, thường được bạn bè yêu mến.
Tình duyên: Tuổi này phải trải qua đổ vỡ sau mới có hạnh phúc. Nếu sinh con trai vợ chồng sẽ hòa thuận.
Nữ Tân Mùi sinh vào các tháng: 4, 8, 9, 12 đường tình duyên lận đận, hậu vận mới được hạnh phúc.
Công danh sự nghiệp: Người tuổi Tân Mùi học hành đỗ đạt, dễ nổi tiếng.
Nữ tuổi này thông minh, sáng tạo, có khuynh hướng nghệ thuật. Nhưng nếu công danh thành đạt thì tiền bạc sẽ khó dồi dào, năm 32 tuổi sẽ có sự nghiệp phát triển vững chắc.
Các tuổi thuận cho việc làm ăn của người tuổi Tân Mùi là: Quý Dậu, Ất Hợi, Bính Tý, Kỷ Mão.
Tiền bạc: Tiền bạc vượng theo công danh, sự nghiệp. Tuy nhiên, tuổi này tiền bạc thu về nhiều, tiêu pha cũng lớn, từ 40 tuổi trở đi kinh tế mới ổn định, giàu có.
Mời bạn đọc tham khảo bài viết: Giải mã vận mệnh người tuổi Tân Mùi theo Lục Thập Hoa Giáp
(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh, tuổi Mùi)
Men theo con đường rợp bóng cây cuối khu biệt thự Tây Hồ ở thủ đô Hà Nội, giữa bát ngát hương sen và cảnh đất trời hòa quyện trong ánh nắng chiều tà, doi đảo nhỏ được người xưa ví là “bãi đất cá vàng” nhô ra giữa mặt nước lung linh, đúng là cái thế “đầu rồng, thân rồng, rùa cõng” khiến khách vãn cảnh cảm thấy âm dương đối đãi, tâm hồn mình thư thái lạ.
Vượt qua cổng Phủ Tây Hồ sừng sững bên cây đa cổ, con đường vào phủ uốn lượn theo mép hồ lơ thơ liễu rủ lại đưa bước chân du khách tới hai cây vối lớn hiếm thấy và một cây si cổ thụ ngay trước cửa Động Sơn Trang, vươn những chùm rễ đại ra mặt nước cho chim chóc đua nhau về làm tổ.
Cảnh đẹp nên thơ ấy là một trong những lý do khiến Phủ Tây Hồ luôn thu hút khách thập phương đến bằng đường bộ cũng như bằng đò trên hồ Tây. Truyền thuyết về công trình văn hóa tín ngưỡng được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia này cũng là điều khiến không ít du khách trầm trồ tán thưởng.
Sự tích vị Thánh Mẫu thờ trong Phủ Tây Hồ được người dân tổng Thượng, huyện Phụng Thiên xưa (nay là vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Tây Hồ, Quảng Bá, Xuân La, Vạn Dâu) kể lại rằng: Quỳnh Hoa là con gái Ngọc Hoàng thượng đế ở Đệ nhị Thiên Cung, do đánh rơi chén ngọc dâng rượu chúc thọ đã phải xuống trần gian đầu thai làm Giáng Tiên - con gái thường dân Lê Thái Công ở An Thái - Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định vào năm 1557. Lớn lên, có nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thi thơ, song lấy chồng và sinh con - một trai, một gái - thì Giáng Tiên chớp mắt thăng thiên đình. Nàng giáng trần lần thứ nhất để gặp lại người thân, có hai nữ thần Quế Nương, Thị Nương hậu vệ; lần hai hiển linh để cứu nhân độ thế, trừng phạt kẻ bất lương trêu ghẹo người này, lại gia ơn cho kẻ khác và du ngoạn khắp chốn danh lam, giáng bút đề thơ.
Có truyền thuyết kể rằng chính tại mảnh đất Phủ Tây Hồ ngày nay, Quỳnh Hoa đã tái ngộ xướng họa thơ văn cùng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (lần thứ nhất đàm đạo tại xứ Lạng) trong vai cô chủ quán tửu lâu Tây Hồ phong nguyệt, ít ngày sau Trạng Bùng quay lại đã thấy biến mất cả người lẫn quán, chỉ còn hồ nước mênh mông. Quỳnh Hoa đã được dân chúng lập phủ thờ, đặt tên là Bà Chúa Liễu Hạnh, được xem là một trong bốn vị “tứ bất tử”, là tấm gương về sự tự mình tạo lấy hạnh phúc.
Bà Chúa Liễu Hạnh theo quan niệm dân gian đã trở thành một mẫu quyền năng vô lượng và phân thân, hóa thân thành các thần linh cai quản muôn mặt của vũ trụ: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản trên trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản núi rừng, Mẫu Thủy (hay Mẫu Thoải) cai quản trên sông biển, thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành, coi trọng vai trò của người mẹ.
Phủ Tây Hồ bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); phương đình, tiền tế, hậu cung; Điện Sơn Trang, khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối…Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ).
Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (thủy) là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và giải ách, tín ngưỡng Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.
Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về “áo mây xe gió” của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày 13 tháng tám âm lịch.
1. Lấy tay nghịch tóc
Bạn vui buồn thất thường, dễ đa sầu đa cảm, hay trầm trọng hóa vấn đề. Khi người khác ở bên bạn, họ luôn phải thận trọng trong từng lời nói, vì sợ bạn phật lòng, không vừa ý.
2. Để tay lên miệng
Bạn rất để tâm tới việc người khác nghĩ gì về mình, luôn cho rằng có ai đó đang nhìn mình, sống nhạy cảm với thế giới xung quanh.
3. Nghịch đồ phụ kiện
Bạn hay suy tư, làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điểm yếu của bạn là dễ chán, không kiên trì nên nhiều khi bỏ dở giữa chừng.
![]() |
4. Khoanh tay
Bạn có xu hướng sống nội tâm, không thích thể hiện tình cảm và có chút thiếu tự tin, luôn trong tư thế phòng thủ. Bên cạnh đó, bạn còn được biết đến là người có suy nghĩ độc đáo, logic và lập trường vững chắc.
5. Vừa nói vừa cười
Bạn đi đến đâu, mang tới tiếng cười và sự vẻ đến đó. Bất cứ ai ở bên bạn đều cảm thấy yên bình, dễ chịu. Có thể nói, bạn thuộc tuýp người thích mang niềm vui tới cho mọi người, nhưng lại ngại chia sẻ chuyện riêng tư của mình cho người khác.
6. Luôn phải dựa vào vật gì đó
Bạn bề ngoài mạnh mẽ, cứng rắn, luôn tỏ ra vô tư, vui vẻ. Thực chất, nội tâm bạn rất sâu sắc, nhạy cảm và hay dỗi.
7. Rung chân
Maruko
![]() |
![]() |
Người đàn ông thường mải mê lo phong thủy nhà cửa, đất đai… mà quên mất một điều rằng, người phụ nữ chính là phong thủy và vận khí quan trọng nhất của gia đình.
Người ta thường nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” để nhấn mạnh đến vai trò của người phụ nữ trong việc vun đắp hạnh phúc gia đình. Theo phong thủy học, người phụ nữ tâm lương thiện sẽ mang tới cho gia đình rất nhiều phúc đức.
Nữ chủ nhân tâm lương thiện, sẽ mang đến cho gia đình và hậu thế vô tận phúc đức, tránh mầm tai vạ cho con cháu; nếu như người phụ nữ mang độc niệm, hành vi không hợp, bất hiếu, dâm loạn, sẽ làm cho gia mất đi an bình, không chỉ có nguy hiểm cho bản thân, còn có thể làm loạn gia tộc, cho nên cổ nhân nói “nữ nhân tốt sẽ vượng ba đời, nữ nhân xấu sẽ hoại ba đời” (là chỉ người vợ).
Người phụ nữ có cách ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, trong nhà thường chỉnh tề; người phụ nữ ăn mặc lôi thôi, trong nhà thường thường loạn bát nháo, tâm trạng cũng sẽ không tốt; người phụ nữ tính toán chi li, bụng dạ hẹp hòi, sinh sự từ việc không đâu, trong nhà sẽ vĩnh viễn không ngày nào yên bình, ‘gà bay chó chạy’; người phụ nữ hào phóng, thông tình đạt lý, trong nhà tất nhiên tài vận tràn đầy, già trẻ đều khỏe mạnh.
Trời sinh người phụ nữ chính là giữ vai trò thủy, “thủy tính” chính là trong phong thuỷ trong nhà; người phụ nữ có “thủy tính”, là có tướng vượng phu. Muốn biết người phụ nữ mệnh tốt hay xấu, chính là xem “thủy tính” tốt hay không. “Thủy tính” trong sạch, nhu hòa, có thể làm thay đổi nhân tâm, bồi bổ chỗ khuyết; “thủy tính” bị ô nhiễm đục ngầu, sẽ làm tổn thương gia đình.
Vì vậy, người xưa thường nói: “Một người phụ nữ tốt sẽ mang tới thịnh vượng cho ba thế hệ, người phụ nữ xấu sẽ làm hại đến ba thế hệ”.
Người phụ nữ ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề nhà cửa sẽ thường xuyên ngăn nắp, gọn gàng. Ngược lại, người phụ nữ ăn mặc nhếch nhác, cẩu thả thường sẽ biến căn nhà thành một mớ hỗn độn, bừa bãi, khiến cho tâm trạng cũng không được thoải mái.
Người phụ nữ hay kì kèo tính toán, bụng dạ hẹp hòi, hay sinh chuyện thì gia đình sẽ không có ngày nào được bình yên. Ngược lại, người phụ nữ mà tâm tính thoải mái, rộng lượng, thông tình đạt lý, tài vận của gia đình chắc chắn sẽ thịnh vượng, già trẻ lớn bé trong nhà đều có được sức khỏe tốt.
Người phụ nữ tốt, không phải là về sắc đẹp, mà là một trái tim đẹp.
Một người vợ tốt, không phải là về ngoại hình, mà là về nội tâm.
Một người phụ nữ đức hạnh, tuổi càng cao thì trông lại càng phúc tướng.
Người phụ nữ mà không có đức hạnh, càng về già, càng xấu xí hơn.
Một gia đình cần dựa vào người phụ nữ thấu tình đạt lý thì việc kinh doanh của gia đình mới sớm có ngày thành công!
Gia đình mà có người phụ nữ mới được gọi là một gia đình đầy đủ.
Có người phụ nữ, gia đình mới có được tiếng cười và hạnh phúc lâu dài!
Chồng và con, một người cần bàn tay chăm sóc của người vợ, một người cần sự yêu thương ân cần của người mẹ!
Một ngày, một nhà sư ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, bên cạnh có một người hầu hạ, ở ngoài cửa là hai đồ đệ đang tranh luận kịch liệt. Hai bên không ai chịu ai, chấp vào ý kiến bản thân, đều cho rằng chứng thực và sở ngộ của mình mới là đúng.
Kết quả là tranh luận tới khi sư huynh tiến vào trong phòng hỏi nhà sư đang đả tọa: “Sư phụ, người tu hành nên đạt đến ‘tâm không vướng víu’ hết thảy mọi thứ thế gian, xả bỏ vinh nhục, hết thảy tốt xấu thị phi đều không động tâm, đây mới là cốt tủy của tu hành, thế nhưng sư đệ cho rằng con nói không đúng. Xin hỏi sư phụ, quan điểm của con rốt cuộc đúng hay không đúng?”
“Con nói đúng”, nhà sư nhẹ nhàng đáp.
Sư huynh đắc ý lắm, dương dương tự đắc bước ra ngoài cửa, làm ra vẻ đắc thắng trước mặt sư đệ, nói với sư đệ rằng sư phụ nói quan điểm của ta là đúng.
Sư đệ nghe xong rất không phục, lập tức cũng tiến vào phòng hỏi nhà sư đang tĩnh tọa: “Sư phụ, người tu hành nên đạt đến ‘tâm có chủ tể’ hết thảy mọi thứ thế gian, minh bạch rõ ràng chọn lựa, nhận rõ đúng sai tốt xấu thị phi, đây mới là tu hành, thế nhưng sư huynh nói con lý giải lệch rồi, sao sư phụ lại nói anh ấy đúng?”
Nhà sư đáp: “Con nói đúng”. Sư đệ nghe sư phụ nói vậy trong tâm cao hứng lắm, vui mừng thích thú bước ra.
Người hầu hạ ở bên cạnh nhà sư thấy vậy trong tâm khó hiểu, mới hỏi nhà sư: “Ban nãy cách nhìn, liễu giải Phật Pháp của hai người họ hoàn toàn tương phản, sao ngài nói người này đúng, người kia cũng đúng, rốt cuộc là ai đúng đây?”
“Con nói đúng”, nhà sư đáp.
Phật Pháp vô biên, mỗi người tu luyện có cái nhìn khác nhau về Pháp lý thâm sâu huyền diệu, không có ai đúng, ai không đúng, hơn nữa đúng hay không đúng chỉ là tương đối. Người tu tại cảnh giới của mình mà có nhận thức riêng, tùy theo cảnh giới đề cao mà ngộ về Pháp lý cũng nâng cao, khi ấy mới phát hiện Phật Pháp là bác đại tinh thâm.
Vào đầu triều Minh của Trung Quốc, một người họ Trương từ doanh trại Cao Bưu Vệ chèo thuyền đi làm công vụ.
Khi đang ở trên hồ thì một cơn bão ập đến đánh lật thuyền của ông. Sau khi thoát nạn, ông tiếp tục đi dọc theo bờ sông. Bị sương mù che phủ phía trước, họ Trương lờ mờ thấy có một người đang bám trên một chiếc thuyền nhỏ bị lật đang bập bềnh theo từng đợt sóng và đang kêu cứu. Động lòng thương xót, họ Trương bèn hỏi mượn một chiếc thuyền câu nhỏ của một ngư dân gần đó để đi cứu người kia. Tuy nhiên, người ngư dân từ chối không cho mượn.
Chỉ khi Trương hứa sẽ tặng lại phù hiệu bạch kim thì người ngư dân mới chịu đi cứu nạn nhân. Sau khi cứu được người này, họ Trương nhận ra rằng ông đã cứu chính con trai mình, con trai ông đã ở dưới nước nửa ngày để chờ người đến cứu. Anh ta đã trên bờ vực của cái chết và đã có thể chết đuối bất cứ lúc nào.
Qua việc cứu người từ một thiên tai, họ Trương đã may mắn cứu được con trai mình. Cứu người là cứu chính mình, đó là một chân lý.
Trong xã hội ngày nay, người ta thường nghĩ rằng con người được coi trọng vì vai trò xã hội của mình. Một người có học vấn cao, kỹ năng tốt và có thể tự lo cho chính mình thường khinh miệt những người không có kỹ năng và phải nhờ người khác giúp đỡ. Họ nghĩ: “Tại sao mình phải giúp người khác?” Trên thực tế, giúp đỡ người khác là gieo hạt Thiện và nhân rộng lòng từ bi. Cuối cùng rồi người hay giúp đỡ người khác sẽ hái được quả ngọt.
Vào triều Tống, trong thành Hàng Châu có một ngõ gọi là “ngõ quạt”, rất nổi tiếng. Tên này đến từ đâu? Nguyên là câu chuyện Tế Công xé quạt giúp người nghèo bắt đầu tại nơi đây.
Ngõ quạt này, vốn là một ngõ nhỏ vô danh, trong ngõ toàn là dân nghèo sinh sống. Trong đó có một cặp vợ chồng già, tuổi đều đã ngoài sáu mươi, lấy đan quạt, sửa quạt, bán quạt làm nghề mưu sinh. Thời trẻ tay nghề tinh thông, sức khỏe dồi dào, quạt làm ra đem lên chợ bán, sống ngày qua ngày. Tuy nhiên hiện giờ tuổi già sức yếu, sau không bằng trước, làm không đủ ăn, hai cái miệng già chịu đói, xem chừng sống không nổi nữa rồi.
Một hôm, trời đã quá trưa mà hai cụ già vẫn không có gạo cho vào nồi, bếp lò nguội ngắt. Cụ bà ngồi bên bếp lò, mơ màng sắp ngủ, còn cụ ông tựa vào khung cửa, vừa định chợp mắt.
Lúc này, một hòa thượng điên điên rồ rồ vừa đến trước cửa, ngó nhìn vào nhà, than thở một tiếng, lại nhìn cụ già ngồi tựa cửa, tâm đầy thông cảm. Hòa thượng giơ tay lên, thấy chiếc quạt trong tay, bỗng nhiên mắt sáng lên, trong tâm đã có chủ ý.
- Hòa thượng dùng quạt quạt vào đầu cụ già một cái. Cụ già giật mình, dụi mắt nhìn thấy một hòa thượng điên đứng trước mặt, mới hỏi: “Sư phụ có việc gì không?”
- “Ta cần sửa quạt!” Nói rồi giơ cây quạt trước mặt cụ già.
- “Được, được, mời vào nhà!” Cụ già thấy có kế làm ăn, trong lòng cao hứng, vội vàng dẫn người vào nhà.
- Tế Công nhấc chân bước vào nhà, ném chiếc quạt lên bàn, nói: “Sửa mau đi, đợi một lát nữa ta tới lấy!” Nói xong, ngoảnh đầu bước đi.
Cụ già cầm chiếc quạt lên xem, trong lòng ngờ vực: “Chiếc quạt này rách thế, nan không ra nan, khung không ra khung, sửa làm sao được”. Nghĩ rồi định nói với hòa thượng chiếc quạt này rách quá, thực sự không sửa được, thế nhưng hòa thượng đã đi xa rồi. Cụ già vừa sửa quạt vừa than, lẩm bẩm một mình: “Ta ở đây có một chiếc quạt mới, lát nữa ông ấy về ta đưa ông ấy là được rồi”.
- Một canh giờ trôi qua, hòa thượng điên đã về, vừa đến cửa đã hỏi: “Quạt sửa xong chưa?”
- “Sửa xong rồi”, lão nhân vừa cầm trong tay chiếc quạt mới vừa nói.
- “Ha ha, tay nghề không tệ, sửa trông như quạt mới vậy!” Hòa thượng điên hài lòng nói.
- Cụ già cười gượng, trong lòng hơi buồn, nói: “Nguyên là một chiếc quạt mới mà!”
Hòa thượng điên cầm một nén bạc đặt lên trên án, xoay mình sải bước về phía cửa, rồi lại quay đầu quạt mấy cái về phía cửa, miệng còn niệm thơ từ nghênh ngang đi.
Cụ già đuổi đến tận ngoài cửa, miệng lắp bắp không thôi: “Tạ ơn sư phụ!” Quay đầu nhìn lại trên cửa, thấy có câu đối không biết dán từ bao giờ:
Thủ nghệ tinh tâm thiện phúc tích
Phiến tử mỹ thủ cần tài đáo
Nghĩa là:
Đặt tâm rèn luyện tay nghề sẽ tích được thiện và phúc
Cần cù chịu khó làm quạt đẹp thì tiền tài tới
Bức hoành phi: Khổ tận điềm lai (Hết cay đắng thì tới ngọt bùi)
Cuộc gặp gỡ kỳ lạ của lão nhân bán quạt không lâu truyền khắp nơi nơi, mọi người đua nhau tới nhà cụ già xem câu đối, người mua quạt tới nườm nượp. Từ đó, hai cụ già sống trong sung túc.
Ngõ vô danh từ đó được gọi là “ngõ quạt”.
Không lâu sau, mọi người đều tỉnh ngộ, nói: “Hòa thượng điên kia nhất định là Phật sống Tế Công, đến để giải khốn cho hai cụ già nghèo”.
Ấy chính là:
Lão nhân nghèo khổ có thiện tâm,
Hòa thượng Tế Công thấy thương tình,
Thực hành mưu kế giải khốn khó,
Từ đó thịnh vượng kế mưu sinh,
Người có duyên phận được Phật cứu?
Mọi người thử ngẫm sẽ tường minh!
Có câu: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", muốn tiền tài tới thì sản phẩm làm ra phải tốt, phải đẹp, phải có chất lượng cao. Cụ già cả đời làm quạt vẫn không đủ ăn, cho đến khi Phật sống Tế Công giúp cho cụ ngộ ra được chân lý này mà làm ra được những chiếc quạt tốt và đẹp thì ắt mọi người sẽ mua nhiều, từ đó mà có cuộc sống sung túc.
Do ngày xưa các cụ ta tính giờ theo 12 con giáp, vì vậy khi về nhà bạn thử hỏi ông bà mình xem “con, cháu được sinh ra vào giờ nào?” Chắc hẳn câu trả lời sẽ là giờ hợi, tý, dậu, thìn, tỵ...thay vì chính xác giờ nào. Trong bài ngày hôm nay chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem giờ dậu là mấy giờ, chính xác là vào khoảng thời gian nào trong ngày nhé.
Xem thêm những bài viết liên quan khác:
+ Giờ Hợi là mấy giờ?
+ Giờ Mão là mấy giờ?
Chắc hẳn nhiều người sẽ thắc mắc không rõ giờ dậu là mấy giờ, giờ dần là mấy giờ? Mình sinh giờ dậu, vậy mình sinh vào khoảng thời gian nào trong ngày?....
Để tìm hiểu cách tính giờ theo 12 con giáp mà ông cha ta từ xưa vẫn sử dụng, chúng ta hãy cùng tìm hiểu sau đây:
Giờ |
Thời Gian |
Giờ |
Thời Gian |
Tý - con chuột |
Từ 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng |
Ngọ - con ngựa |
Từ 11 giờ đến 13 giờ trưa |
Sửu - con trâu |
Từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng |
Mùi - con dê |
Từ 13 giờ đến15 giờ xế trưa |
Dần - con hổ |
Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng |
Thân - con khỉ |
Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều |
Mão - con mèo |
Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng |
Dậu - con gà |
Từ 17 giờ đến 19 giờ tối |
Thìn - con rồng |
Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng |
Tuất - con chó |
Từ 19 giờ đến 21 giờ tối |
Tỵ - con rắn |
Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng |
Hợi - con heo |
Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya |
Nhìn vào bảng trên bạn sẽ dễ dàng nhận thấy, giờ dậu nằm trong khoảng thời gian từ 17 giờ chiều đến 19 giờ tối. Không chỉ trả lời được câu hỏi giờ dậu là mấy giờ mà bạn còn trả lời được 11 câu hỏi tương tự khác ứng với 11 con giáp còn lại. Được biết, niên lịch cổ truyền Á Đông trên đã xuất hiện từ đời Hoàng Đế bên Tàu, 2637 trước Thiên Chúa năm 61.
Hầu như tất cả mọi người đặc biệt là các bạn trẻ đều rất hay đi xem tử vi mục đích là muốn biết số phận bản thân ra sao, sang hay hèn, may mắn hay là không.
Khi đi xem tử vi chắc chắn bạn sẽ phải khai về ngày tháng năm sinh, giờ sinh. Giờ sinh của một người ảnh hưởng rất lớn đến số phận của người đó. Để xem người sinh giờ dậu ra sao, bạn hãy nhớ kỹ 4 câu thơ sau đây. Chắc hẳn không phải 10 người sinh giờ dậu đều giống nhau, mỗi người có một số phận khác nhau, nhưng chúng ta hãy cùng thử tìm hiểu, tham khảo xem cuộc đời mình có từng như vậy hay không nhé.
Bạn nào sinh đầu giờ DẬU:
Sinh ra còn cả mẹ cha
Thông minh lại gặp bạn bè hiền lương
Anh em thân thích cậy trông
Giàu sang hạnh phúc, cháu con sum vầy
Bạn nào sinh giữa giờ DẬU:
Giữa giờ thuận mẹ khắc cha
Tánh tình nóng nảy cũng hay giận hờn
Trước thì khắc cả mẹ con
Sau này cũng đặng có ngày dựng nên
Bạn nào sinh cuối giờ DẬU:
Số sinh khắc mẹ lẫn cha
Tha phương lập nghiệp mới nên cửa nhà
Tiền vận vất vả gian truân