Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những mẹo để dùng đá phong thủy hiệu quả

Vì thế, đừng quên trang trí nhà hoặc văn phòng của bạn với các loại đá phong thủy tự nhiên vì chúng sẽ mang lại vẻ đẹp rực rỡ, năng lượng vui vẻ.
Những mẹo để dùng đá phong thủy hiệu quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì thế, đừng quên trang trí nhà hoặc văn phòng của bạn với các loại đá phong thủy tự nhiên vì chúng sẽ mang lại vẻ đẹp rực rỡ, năng lượng vui vẻ cũng như vô số lợi ích phong thủy khác.   Đá quý trải qua hàng nghìn năm tích tụ năng lượng đất trời nạp trong mình năng lượng mạnh mẽ, với mỗi loại đá lại có đặc tính riêng, kết cấu riêng có mức từ trường và năng lượng khác nhau do màu sắc do kết cấu đá. Điều đặc biệt là các loại đá thiên nhiên còn do đá có từ trường, khi để gần cơ thể, từ trường này tác động đến hệ kinh lạc của con người. Nếu sử dụng đúng, sẽ có tác dụng bổ trợ sức khỏe.   Vì thế, đừng quên trang trí nhà hoặc văn phòng của bạn với các loại đá tự nhiên vì chúng sẽ mang lại vẻ đẹp rực rỡ, năng lượng vui vẻ cũng như vô số lợi ích phong thủy khác.   Đá được sử dụng trong phong thủy theo nhiều cách khác nhau nhưng tất cả chỉ với một mục tiêu duy nhất: Tạo năng lượng tốt cho nhà của bạn.   Đá phong thủy được dùng nhiều thế kỷ cho vô số mục đích: Từ chữa bệnh đến trang trí. Ví dụ, đá thạch anh hồng được sử dụng để thu hút tình yêu và sự lãng mạn cũng như hàn gắn trái tim tan vỡ. Không những thế, chúng còn có tỏa ra năng lượng với tần số cụ thể nhằm thúc đẩy chữa bệnh tim. 

m
 
 

Mẹo sử dụng đá phong thủy số 1:

  Hai viên đá thạch anh hồng hình trái tim thường được đặt tại khu vực Tây Nam trong nhà của bạn có thể thúc đẩy năng lượng hạnh phúc trong chuyện tình cảm của gia chủ. Nếu có thể để một chiếc bát được đầy đá thạch anh hồng loại nhỏ đặt trong phòng ngủ bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc gia đình và giúp những phụ nữ chưa chồng hoặc những đấng nam nhi chưa vợ sớm tìm được tình yêu của mình.
 
Không những thế, thạch anh hồng làm dịu những cơn đau về mặt tình cảm và những vết thương lòng, là lá bùa hộ mệnh giúp cải thiện quan hệ giữa chủ nhân với người khác.
Xem thêm: Bí quyết chọn đá quý, đá phong thủy hợp mệnh tăng tài rước lộc 
 

Mẹo sử dụng đá phong thủy số 2:
 

Nếu trong nhà có trẻ nhỏ học hành không tập trung, có xu hướng tăng động thì chỉ cần vài mẩu quặng đá hematite sẽ giúp trẻ cân bằng và tập trung năng lượng của mình. Bạn có thể đặt chúng trong phòng của trẻ, hoặc đặt ở khu vực phía Tây. Đá hematite có thể thu hút những nguồn năng lượng tích cực, giúp trẻ có thể bỏ ngoài tai những tạp vật bên ngoài, học hành đạt hiệu quả cao.   Trong phong thủy, đá hematite được dùng như là phương thuốc chữa các bệnh về máu, đồng thời dùng để chế tác đồ trang sức, đá hematite ngày nay cũng là một loại đá phong thủy nổi bật nhờ nguồn năng lượng tích tụ được sau khi nằm giữa thiên nhiên hàng chục đến hàng trăm năm.   Đá thường có màu đen, xám, đỏ hoặc đỏ nâu, trong đó phổ biến nhất ở Việt Nam là vòng đá hematite màu đen xám.    
meo dung da phong thuy2
 Đá hematite

Mẹo sử dụng đá phong thủy số 3:

  Không nên chọn đá có hình dáng kỳ lạ để đưa vào nhà hay văn phòng. Đá nên có dạng hình tròn. Đặc biệt là trong phòng khách bởi vì phòng khách là nơi đón tiếp khách, bầu không khí nên hài hòa, dễ chịu. Đặt những hòn đá có góc cạnh kỳ dị dễ tạo tâm lý bất lợi cho người ngồi trong đó, dễ làm hỏng bầu không khí.
Tham khảo thêm bài viết sau: Đá phong thủy - Thú chơi mang lại vận may 
 

Mẹo sử dụng đá phong thủy số 4:

  Không nên đặt đá nguyên sơ hay các hòn đá chưa qua chế tác, chưa có các yếu tố can thiệp của con người thì không nên sử dụng. Bởi lẽ hung khí của nó còn nặng, dễ khiến gia chủ bất lợi về tài chính. Điều này đặc biệt quan trọng, không phải là cứ là đá nguyên gốc thì tốt hơn.

Meo dung da phong thuy
 
 

Mẹo sử dụng đá phong thủy số 5:

  Đối với một số người chưa có kinh nghiệm họ xem đá như là một đồ vật thông thường, nên trước khi đem vào nhà thạch anh không được qua khâu tẩy uế. Đá mang năng lượng Thổ, chúng dự trữ một nguồn năng lượng lớn, chứa cả năng lượng âm và dương. Vì vậy, khi đem đá về nhà bạn nên làm sạch năng lượng âm bám vào chúng, cũng như những năng lượng xấu còn chứa trong nó.
 
Nhớ phải làm sạch đá phong thủy khi vừa mua về hoặc sau khi tặng. Bởi những năng lượng xấu, âm khí có trong đá từ trước sẽ liên tục phát ra và vô tình ảnh hưởng không tốt đến chúng ta. Việc tẩy rửa năng lượng là điều cần thiết cho một sản phẩm đá vì vậy việc xử lý và nạp năng lượng cho đá là việc làm rất bình thường và luôn được ưu tiên. 
 

Kate Nguyễn

Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc Chọn đá phong thủy theo tháng sinh rước tài lộc cho gia chủ Thượng Thủy Thạch - đá phong thủy mang tới sung túc, ấm no
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những mẹo để dùng đá phong thủy hiệu quả

Chùa Bảo Đài – Quần thể di tích chùa Hương

Chùa Bảo Đài thuộc khu Tuyết Sơn nằm trong quần thể di tích chùa Hương với động Ngọc Long đẹp đẽ được chúa Trinh Sâm ban tặng là Kỳ sơn tú thủy
Chùa Bảo Đài – Quần thể di tích chùa Hương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bảo Đại toạ lạc dưới một chân núi thấp. Động Tuyết Sơn nơi đây xưa kia là một vùng hoang vắng Đời Vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hoà thứ 15 (1694) bà quận chúa Hoàng Thị Ngọc Hương về dựng chùa Bảo Đài mở động Tuyết Sơn làm nơi thờ phật. Chùa Bảo Đài được xây dựng theo kiến trúc cổ Việt Nam đời Lê – Trịnh. Trải qua nhiều thế kỷ chùa đã được tu sửa lại nhiều lần. hiện nay Chùa được làm theo kiến trúc nhà Nguyễn.

Sách Đại Nam Nhất Thống Chỉ chép: “Thôn Đường An, xã Yến Vỹ, huyện Hoài An về phía nam: Vua Lê đến đây cho khắc ba chữ “Bạch tuyết môn”

Gần đấy có cung Bảo Đài theo đường đi lên động cửa động có khắc ba chữ lớn “Ngọc Long động”, trong động có một thạch nhũ to và cao trắng xóa như tuyết gọi là cây trường tuyết Từ bến đò thôn Phú Yên đi bằng đường thủy tới chùa Bảo Đài khoảng 1500 m. Dòng suối Tuyết Sơn trong xanh chảy giữa một vùng đầm lầy. Một bên là những quả núi với nhiều hình thù kỳ thú: Núi Thuyền Rồng; núi Chim Phượng Hoàng; Núi Ba Tòa; nổi bật lên là hình tượng Phật thiên tạo mặc áo cà sa đứng trên đỉnh núi với dáng vẻ từ bi mộ đạo… Còn một bên là cánh đồng mênh mông với những gò nấm thiên nhiên xanh mướt cỏ cây.

Chúa Trịnh Sâm là người nổi tiếng hay chữ và sành sỏi các thú du ngoạn đã phong tặng cho nơi đây là cảnh “kỳ sơn tú thủy” (núi nước đẹp lạ). Theo truyền thuyết phong thủy, địa lý nơi đây có đất quần ngư, câu ca dao cổ còn gắn với truyền thuyết lưu lại trong xã:

Đường An có đất quần ngư
Ai mà để được thượng thư đời đời.

Chùa Bảo Đài thuộc quần thể di tích chùa Hương, cùng với động Ngọc Long, chùa Ngư Trì, đền Trình Phú Yên tạo thành khu Tuyết Sơn chùa Hương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bảo Đài – Quần thể di tích chùa Hương

Văn khấn tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm

ăn khấn tết Đoan Ngọ hay còn gọi là tết Giết sâu bọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, theo phong tục cổ truyền về thời vụ tiết khí của người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn tết Đoan Ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm. Đây là tết truyền thống của người Việt thường được gọi theo cách dân gian là tết Giết sâu bọ, được tiến hành vào chính Ngọ (12 giờ trưa) cùng ngày.

van khan tet doan ngo

Sắm lễ cúng tết Đoan Ngọ

  • Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Đoan Ngọ gồm:
  • Hương, hoa, vàng mã;
  • Nước;
  • Rượu nếp;
  • Các loại hoa quả:
  • Mận
  • Hồng xiêm
  • Dưa hấu
  • Vải
  • Chuối…

Văn khấn tết Đoan Ngọ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ khảo, Tổ Tỷ)
Tín chủ chúng con là: …………
Ngụ tại: ………………………….
Hôm nay là ngày Đoan Ngọ, chúng con sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, hoa đăng, trà quả dâng lên trước án.
Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng, Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần, cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ …………………, cúi xin các vị thương xót con cháu chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng bình an thịnh vượng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm

Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Một bài viết tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên. Mời mọi người cùng đọc.
Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên về dịch số, quẻ dịch, mai hoa trên các diễn đàn lý số

Sự Thiếu Sót của quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ

Vinhl, Thứ tư, 20/05/2009 | 01:35, hỏi:

Xin Chào các bạn,

Gần đây VinhL cùng với một người bạn nghiên cứu và bàn luận về quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ, qua nhiều khảo nghiệm thì khám phá ra quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ chỉ sử dụng được 192 quẻ trùng một hào động.

VinhL xin giải thích như sau:

Quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ:

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, chia cho 8, lấy số dư làm Thượng Quái

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, Giờ (12 Chi), chia cho 8, lấy số dư làm Hạ Quái

Dùng tổng số lấy được khi tìm Hạ Quái chia cho 6, lấy số dư làm Hào Động.

Quẻ Mai Hoa dùng 64 trùng quái, mỗi quái có 6 hào, như vậy mỗi trùng quái có 6 quẻ một hào động. Như vậy toàn bộ có 64 x 6 = 384 quẻ một hào động.

Trong các phương pháp lấy quẻ Mai Hoa, ngoài trừ phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ, thì các phương pháp khác đều có thể lấy được bất cứ quẻ nào trong 386 quẻ một hào động.

Tại sao phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ của Mai Hoa chỉ có thể lấy được 192 quẻ một hào động mà không phải 384 quẻ?

Xin dẫn chứng như sau:

Thượng Quái = (Năm + Tháng + Ngày) – 8t, t=0,1,2,....

Hạ Quái = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 8h, h=0,1,2,...

Hào Động = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 6d, d=0,1,2,...

Từ sự tương quan giữa Hạ Quái và Hào Động ta có

Hạ Quái + 8h = Hào Động + 6d

tức là

(Hạ Quái – Hào Động) = 2 x (3d – 4h)

Vì vậy ta có

(Hạ Quái – Hào Động) / 2 = 3d – 4h

Theo công thức trên (Hạ Quái – Hào Động) / 2 phải là một số nguyên, tức (Hạ Quái – Hào Động) phải là một số chẳn. Như vậy muốn có được (Hạ Quái – Hào Động) là số chẳn thì Hạ Quái và Hào Động đều phải cùng là số chẳn hoặc số lẻ.

Từ đó ta có: Hạ Quái là số lẻ thì Hào Động là số lẻ, Hạ Quái là số chẳn thì Hào Động là số chẳn.

Nay xin liệt kê tất cả các quẻ có thể xảy ra khi dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa (một hào động).

Hạ Quái............ Hào Động....................... Tổng số quẻ

Càn 1................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Càn

Đoài 2............... 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Đoài

Ly 3.................. 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Ly

Chấn 4.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Chấn

Tốn 5................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Tốn

Khảm 6............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khảm

Cấn 7................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Cấn

Khôn 8.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khôn

24 x 8 = 192 quẻ một hào động.

Như thế phương pháp lấy quẻ Mai Hoa bằng Năm Tháng Ngày Giờ không phải đã thiếu đi một nửa bộ của dịch 384 quẻ một hào động không?

Kết quả trên cho thấy dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa thì các bạn sẻ không bao giờ lấy được quẻ Thiên Phong Cấu động hào 4, vì Hạ Quái Tốn là số 5, thì chỉ có thể động hào 1, 3, va 5 thôi.

Thiển nghỉ theo phương pháp của ông Thiệu Khang Tiết thì ta thấy Thượng Quái không thay đổi trong 1 ngày, Hạ Quái và Hào Động thì thay đổi từng giờ, mà mỗi giờ thì Hào Động lệ thuộc vào Hạ Quái và chỉ có thể động 1 hào trong 3, thay vì 6.

Để có thể sử dụng toàn bộ 384 quẻ một hào động thì phương pháp lấy hào động không nên lệ thuộc vào Hạ Quái. Có thể chỉ lấy giờ để tính hào động hoặc lấy tổng số (Ngày + Giờ) để tìm hào động.

Thân

Vâng, xin chào VinhL

Phương pháp phân tích, chứng minh và giải quyết vấn đề của anh VinhL, thông qua ví dụ diễn giải, đã làm sáng tỏ một cách minh triết vấn đề, mà không phải ai, khi đọc sách ứng dụng nó, nhìn nhận được ra. Cảm ơn anh.

Hà Uyên chỉ thắc mắc, đối với "Hoàng cực kinh thế" và "Mai hoa dịch số", cùng một tác giả, có lẽ Thiệu Ung xây dựng một hệ thống tính toán chặt chẽ hơn. Đây có phải do lỗi Nhà xuất bản không in, hay vì một lý do nào đấy không? Vậy mà cuốn sách vẫn được phát hành.

Hà Uyên cùng trao đổi với anh VinhL, ở góc độ này, Hà Uyên đang thống kê để tìm quy luật:

- Năm-Tháng-Ngày-Giờ, xác định được "thứ tự số" theo Tiên thiên, ví dụ Ngoại quái được "thứ tự số" là 3, Nội quái được "thứ tự số" là 7, ta được quẻ Hỏa Sơn Lữ.

- Khi theo Hậu thiên, thì số 3 Ngoại quái gồm những quẻ:3, 13, 23, 33, 43, 54, 63. Số 7 Nội quái gồm những quẻ: 7, 17, 27, 37, 47, 57

- Trên nguyên lý: Dịch luôn luôn biến đổi không ngừng - Vậy thì sau quẻ Hoả Sơn Lữ, sẽ tiếp diễn đến quẻ nào? Và khi nào thì xác định được "đầu" và "cuối" (có chung có thuỷ), có đầu có cuối?

- Khi chúng ta sử dụng hệ thống Thiên can để xác định thời điểm Khởi đầu - Kết thúc, Hà Uyên vẫn đang còn lúng túng về vấn đề này, Ví dụ:

+ BÍNH TÂN HỢP: năm 1916 - 1917 là năm Bính - Đinh, cho chúng ta biết điểm khởi đầu là "Tụ", đến năm 1991 là năm Tân, cho chúng ta biết điểm kết thúc là "Tán". Thực tiễn cho chúng ta thấy Liên bang Xô viết "tụ" lại thành một khối thống nhất năm 1916 - 1917, và đến năm 1991 thì "tán". Ở đây chúng ta chỉ xét về những tinh hoa của quá khứ đã để lại cho chúng ta, mà không bàn về Chính trị. Đây là nguyên lý âm - dương, tụ tán, ẩn hiện, đến đi, chính phản,...

+ Điểm xuất phát của phương pháp, Hà Uyên vẫn từ thứ tự số Tiên thiên, nhưng khi tính thì theo Hậu thiên.

Xin cảm ơn VinhL

...

VinhL, Thứ năm, 21/05/2009 | 12:01 hỏi:

Thưa Bác Hà Uyên,

VinhL đọc thấy Sư Phụ Thiên Sứ gọi Bác là Anh, thế thì VinhL phải thành thật xin lỗi là đã xưng hô với Bác là Bạn. Theo các bài viết của Bác thì Bác đã đọc qua Hoàng Cực Kinh Thế rồi, như thế thì chắc củng biết là sau quẻ Hoả Sơn Lư thì đến quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá theo như vòng tròn 64 quái của ông Thiệu Khang Tiết. Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì bắt đầu là quẻ Phục, đến quẻ Bác, thì trở Phục, vì một vòng tròn thì đâu có kết thúc.

Nếu Bác lập một bảng trùng quái theo Ngoại quái Nội quái, sự vận hành của các quái trong bảng này sẻ hình thành một vòng Thái Cực Càn Đoài Ly Chấn nghịch hành Tốn Khảm Cấn Khôn thuận hành.

Theo cách lấy quẻ trong Hoàng Cực Kinh Thế:

(Để phân biệt Phút Giây theo Hoàng Cực Kinh Thế, VinhL xin gọi Phút là Phân, và Giây là Miễu theo Hán Việt)

1 Nguyên = 12 Hội = 129600 năm

1 Hội = 30 Vận = 10800 năm

1 Vận = 12 Thế = 360 năm

1 Thế = 30 Phân = 30 năm

1 Năm = 12 Tháng = 129600 Phân

1 Tháng = 30 Ngày = 10800 Phân

1 Ngày = 12 Giờ = 360 Phân

1 Giờ = 30 Phân

1 Giờ = 12 Miễu

Theo quyển “Nguyên Lý Chọn Ngày Theo Lịch Can Chi” của Tiến Sỉ Hoàng Tuấn thì Hội Ngọ bắt đầu vào năm 2198 Trước Công Nguyên.

Năm 1916 có

2198 + 1916 = 4114

4114 / 360 = 11 dư 136 năm tức hiện đã ở Vận thứ 12 của Hội Ngọ

136 / 30 = 4 dư 16 năm tức hiện ở vào Thế 5 của Vận 12, Hội Ngọ

1916 đang ở Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, năm thứ 16

Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì 64 quẻ trùng không dùng 4 quẻ tứ Chính Càn Khôn Khãm Ly, còn lại 60 quẻ chia cho 12 Hội, mỗi Hội được 5 quẻ. Hội Tý có 5 quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Chấn Vi Lôi, vvv... Hội Ngọ có 5 quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại Quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Tốn Vi Phong.

Mồi Hội có 5 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, 5x6 = 30 Vận.

1916 ở vào Vận thứ 12 Hội Ngọ tức quẻ Trạch Phong Đại Quá Động Hào Lục biến thành quẻ Cấu.

1 Vận có 12 Thế, mồi quẻ có 6 hào, tứ 2 Thế biến 1 hào. Thế 5 biến hào tam của quẻ Cấu tức là quẻ Thiên Thủy Tụng. 1 Thế có 30 năm, 2 Thế tức 60 năm, quẻ Thiên Thủy Tụng có 6 hào vậy 10 năm động một hào.

Năm thư 16 động hào 2 của quẻ Thiên Thủy Tụng tức được quẻ Thiên Địa Bỉ.

Tóm Lại 1916 có

Vận 12 Hội Ngọ: Quẻ Trạch Phong Đại Quá biến Cấu

Thế 5: Cấu biến Thiên Thủy Tụng

Năm thứ 16: Tụng biến Bỉ

Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế.

VinhL thì củng ít khi sử dụng kiến thức của mình để chiêm đoán thế sự, về mặt này rất là kém, phải nhờ Bác chỉ dạy thêm.

Nếu Bác muốn nghiên cứu sâu vào sự ứng dụng của Hoàng Cực Kinh Thế kết hợp với Tử Vi, thì Bác phải nghiên cứu đến Thiết Bản Thần Số rồi. Hiện nay VinhL củng đang tìm tòi sưu tầm sách về môn này đây.

Theo truyền thuyết, ông Thiệu Khang Tiết biết con gái mình sẻ không tài ba như mình nên lập ra Thiết Bản Thần Số để đường cùng thì có thể dùng nó để sinh sống. Vì vậy mà củng có thuyết là bí mật của Thiết Bản Thần Số chỉ truyền cho phái nử (Không biết truyền thuyết này có đúng không). Hiện nay trên thị trường mỗi môn phái mồi cách tính, không biết đâu là giả đâu là thật. Ngoài Thiết Bản Thần Số lại còn Hà Lạc Lý Số củng do ông Thiệu Khang Tiết kết hợp Bát Tự Hà Lạc với phương pháp của Thiết Bản Thần Số mà lấy các câu quyết đoán.

Nếu có chỗ nào sơ sót xin Bác cứ thẳng thắng mà chỉ giáo nhé.

Kính

Hà Uyên xin chào các Anh Chị trên diễn đàn

Hà Uyên chào VinhL

Sự đàm luận cùng bầu bạn tâm giao, bằng những ngôn ngữ hiểu nhau, có phần hơi kiêu kỳ, nó được coi như một hoạt động tinh thần tế nhị. Sự thanh đàm này, chỉ có được giữa bạn bè có cùng một nhận thức. Chữ "nhận thức" ở đây, Hà Uyên chỉ muốn nói về góc độ, khi chúng ta đọc sách Dịch Kinh, tìm hiểu về Dịch học và khi ứng dụng những kiến thức của Dịch học, vào cuộc sống thực tiễn vậy.

Thực học càng được, thì Tính càng mất đi.!

Chúng ta có thể, nên thống nhất với nhau, rằng: chúng ta đã trải qua giai đoạn "Đồng thanh tương ứng", mà hiện tại, chúng ta đang ở giai đoạn "Đồng khí tương cầu", có nghĩa là, chúng ta đang chạy maratong 42 km, không phải là đang chạy 100 mét.

Người nước lớn công nhận tên được ban là "Khang Tiết" tại đời vua Nguyên Hựu, hiện tại chúng ta đang thừa nhận tìm hiểu hệ thống học thuyết, nên gọi chính danh là: Thiệu Ung.

Chúng ta bắt đầu từ: QUY LUẬT THỜI GIAN

- Toàn thể loài người đang sử dụng thời gian: một ngày có 24 giờ, một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây. Chúng ta tạm gọi là Dương lịch.

- Thiệu Ung khi xây dựng kết cấu cho hệ thống tính toán của mình, đã lấy "đơn vị ngày" làm đơn vị cơ sở cốt lõi, với phương pháp theo "tư duy số". Tại sao phải lưa chọn như vậy?

Khi chọn "năm" làm đơn vị để tính, thì sẽ vướng phải lịch "tiết khí", cứ 19 năm thì có 7 năm, phải tồn tại một "tháng nhuận", mâu thuẫn với nguyên tắc của "số 7", đó là 12 +7 = 19, sẽ là 19 x 360 = 3420, khi lấy đơn vị tính là "một Nguyên = một năm", thì 129600 là số không chia hết.

Khi chọn "tháng" làm đơn vị tính, thì sẽ mâu thuẫn với Nguyên lý Ngũ hành, về "Kỳ hạn biến hoá" (thời gian tới hạn) của vật chất làm đơn vị tính để tính, khi định cát - hung.

Thiệu Ung xây dựng hệ thống "tư duy số" cho cá nhân mình, Ông lấy đơn vị là "ngày" có 12 giờ, một Giờ có 30 vận, một Vận có 12 thế, một Thế có 30 Giây. Chúng ta tạm gọi là Ngày âm lịch, có nghĩa là:

- Một ngày có 129600 giây, tương đương với một Giờ có 10800 giây

- Một Giờ có 30 vận, thì một giờ có 180 phút, có nghĩa là: một Vận là 6 phút, và như vậy thì: một Thế có 30 giây

Như vậy mối quan hệ của một ngày Dương lịch là 86400 giây, so với ngày Âm lịch 129600 giây, sẽ tồn dư 129600 - 86400 = 43200 giây, tương đương với 72 phút, tương dương với 4 giờ âm lịch.

Đến đây, có thể Thiệu Ung đành phải dùng Lý học, mà không dùng "tư duy số". Tại sao lại như vậy? Vì một ngày, theo giờ phương Đông có 12 Giờ, chi phí cho thời gian bảo tồn năng lượng và tái hồi sức sống, thì loài người, chúng ta phải ngủ mất 4 Giờ, chỉ còn lại 8 giờ là thức. Do vậy, trong "Hoàng cực Kinh thế" ông đã viết: "bỏ một lấy hai, bỏ ba chọn bảy,..." (Hoàng cực kinh thế - tập 2). Có nghĩa là, trong tính toán, chia làm 3 phần, thì bỏ một phần lấy hai phần, tức là bỏ 4 lấy 8 để dụng.

Về công thức tính, chúng ta sẽ trao đổi từng phần. Theo Hà Uyên, với công thức tính toán của Thiệu Ung, thì loài người đang ở vào Tháng Bảy, ngày 12 âm lịch, giờ Mão.

Hà Uyên xin cảm ơn VinhL đã quan tâm.

....

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 13:57

Chào Bác Hà Uyên,

Nghiên cứu lại các bài viết về 12 biến của Bác, và vấn đề tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ Hành, không cho biến đến hào 6, thì VinhL suy luận là chổ quan trọng không phải là 2 quẻ động hào 6 mà là sự thiếu sót của phương pháp biến hào tiệm tiến. Nếu lấy 8 quẻ bát thuần theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì sẻ không bao giờ biến ra được 8 quẻ Du Hồn và 8 quẻ Quy Hồn, cho nên khi biến đến hào năm thì phải quay lại biến hào 4 và kế đến là biến 3 hào dưới. Theo phương pháp biến hào tiệm tiến 6 biến sau củng chính là 6 biến đầu của quẻ đối hào, cho nên có sự lập lại. Vì vậy theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì 8 quẻ Bát Thuần chỉ biến ra được 48 quẻ thiếu đi 16 quẻ Du Hồn và Quy Hồn.

Nếu tám quẻ thuần biến quẻ theo thứ tự quẻ đơn của Tiên Thiên Bát Quái thì sẻ biến ra đủ 64 quẻ, có lẻ vì vậy mà ông Thiệu Khang Tiết dùng phương pháp biến quẻ Tiên Thiên làm gốc, và kết hợp với cách biến hào tiệm tiến. 12 Hội thì dùng quẻ biến theo Tiên Thiên, Vận Thế thì biến theo tiệm tiến.

Về năm tháng ngày theo Nguyên Hội Vận Thế của 1916 thì theo Bác là Tháng 7 Ngày 12 Giờ Mão. Theo VinhL tính thì Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, Phân 16, tức là Tháng 7 Ngày 12, giờ Thìn, 16 Phút, như vậy có sai biệt 1 giờ, mong Bác giải thích cách tính của Bác để VinhL biết được chổ sai. Thành thật cám ơn.

Vài lời suy luận nếu có gì sai Bác cứ thẳng thắng chỉ điểm.

Kính

Vâng VinhL đã để lại cho Hà Uyên một nội hàm (cảm giác bên trong) thực sự phấn chấn. Sau hơn 2000 năm, người Việt nam, khi nói theo đơn vị hành chính, dân tôc Lạc Việt, khi nói theo tiến trình logic của Lịch sử, đã và đang tìm về côi nguồn của mình. Chúng ta đã đánh giá đúng về Kinh Phòng, khi ông dùng hào 1 quẻ Thuần Càn: "vật dụng", phối hợp với Ngũ hành nạp hào quẻ Dịch, thì 8 quẻ "Bát thuần", Kinh Phòng gọi là quẻ Bố - Mẹ, không tồn tại quẻ "Quỷ dịch": Du hồn và Quy hồn. Đây là một "chìa khoá" rất quan trọng đối với các môn học thuật Phương Đông. Cảm ơn, cảm ơn VinhL nhiều. Đến tại thời điểm này, theo những gì Hà Uyên được biết, Thiệu Vĩ Hoa hay những diễn đàn chính thức, chưa có những công bố về: công thức tính toán trên của Kinh Phòng. Do vậy, khi Bốc Dịch theo phương pháp của Kinh Phòng, gặp phải quẻ Quỷ Dịch, chất lượng thông tin thường gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta sẽ bàn lại chủ đề này sau. Một hào của một quẻ Dịch bất kỳ, luôn luôn trải qua 12 giai đoạn tiệm tiến, theo Hà Uyên, đây là Nguyên lý cơ bản của Dịch học. Tại sao? Trải dài với thời gian hơn 5000 năm, không một ai thay đổi Quái danh, Quái tượng, ngôn ngữ của Hào từ. Một hào tiệm tiến trải qua 12 quá trình (12 quẻ dịch), nhưng ngôn ngữ của Hào 1, luôn luôn thông khí với toàn bộ các hào 1 của 11 quẻ còn lại. Đây là một "chìa khoá" cũng rất quan trọng, khi đưa ra lời giải cho những môn học thuật cao. Ví du: quẻ Sơn Lôi Di hài 1: - Hào 1 quẻ Sơn Lôi Di: "Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình, mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm." - Hào 1 quẻ Sơn Trạch Tổn: "Hào Chín Đầu, hoàn thành sự nuôi dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên trông trước giảm bớt tính cương cứng của bản thân" -....... Như vậy, quẻ Di có hình tượng tượng trưng là: "nuôi dưỡng", thì hào 1 quẻ Tổn tiếp lời: "hoàn thành sự nuôi dưỡng,...". Khi chúng ta thống kê toàn bộ 64 quẻ, hay 4608 sự chuyển hoá, ta sẽ thấy rất nhiều điều thú vị, đặc biệt là phương pháp tư duy "tượng số" đối với những môn học thuật cao (Tam minh). Tại một thời điểm thuộc quá khứ, khi Anh Hoàng Tuấn làm Trưởng đoàn, vào miền Nam nghiên cứu môn bấm huyệt của bà Huỳnh thị Lịch tại quận Phú Nhuận, phương pháp bấm có tên gọi: "Thập Thủ Đạo", thì Hà Uyên có trao đổi với anh Hoàng Tuấn: Hội Ngọ được tính bắt đầu từ năm 2198 Tr.CN là căn cứ vào đâu?, anh Hoàng Tuấn có trả lời rằng: lấy theo quyển: Địa Lý Ngũ quyết và quyển Địa lý mật truyền cáo tập. Về việc này, chúng ta sẽ trao đổi sau. Cảm ơn VinhL đã quan tâm.

...

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 23:46  hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thấy Bác phấn chấn, VinhL củng phấn chấn theo. VinhL rất vui mừng có người để chia sẻ và bàn luận những khám phá trong khi nghiên cứu Dịch.

Thấy Bác nói đến học thuật cao (Tam Minh), có phải là Tam Thức theo như các sách Hán đề cập không?

Như Thái Ất, Kỳ Môn và Lục Nhâm. Thú thật VinhL củng có nghiên cứu sơ qua 3 môn này. Nếu Bác thích thú bàn thảo về 3 môn này thì VinhL củng rất vui mừng hồi ứng.

Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác.

Khi nạp chi cho các hào, quẻ Càn nạp Tý Dần Thìn, Ngọ Thân Tuất, Tý đối Ngo, Dần đối Thân, Thìn đối Tuất.

Theo Khách Khí của thuyết Ngũ Vận Lục Khí, các năm Tý Ngọ thì khí Dương Minh tại tuyền ứng với khí Thiếu Âm tại thiên. Năm Dần Thân, thì khí Quyết Âm tại tuyền ứng với Thiếu Dương tại Thiên., vv....

Lục Khí, Tam Âm ứng với Tam Dương, Sơ với Tam ứng nhau, Nhị với Tứ ứng nhau, và Tam với Lục ứng nhau.

Trong các sách về Dịch và Lý Số, không hiểu tại sao không có sách nào bàn đến Ngũ Vận Lục Khí, trong khi đó nó là lý thuyết vô cùng quan trọng trong môn Y học Đông Phương. Có phải bí mật của sự tương quan của Ngũ Vận Lục Khí trong Dịch và các môn lý số đã bị thất truyền??? Chỉ có môn Thái Ất là có đề cập và sự ứng dụng tới thuyết này.

Có gì thiếu sót, sai lầm mong Bác chỉ điểm.

Kính

Chào VinhL Trên diễn đàn này, chúng ta đã dùng Đạo "hối minh", thì "minh" ấy càng được sáng tỏ. VinhL và Hà Uyên khởi đầu giao lưu từ ngày 10/5/2009, bắt đầu từ Mai Hoa Dịch số, đến ngày 22/5/2009, thì VinhL đã Thấy được Bốc Dịch, do học thuyết của Kinh Phòng xây dựng nên, mà ngày hôm nay người Phương Đông đang ứng dụng nó một cách phổ biến, những căn nguyên mà VinhL đã tìm hiểu ra, sự không đồng bộ trong hệ thống tính toán của Kinh Phòng, sự thiếu chặt chẽ trong học thuyết mang tính ngiêm trọng, nó ảnh hưởng tới tính chính xác và độ tin cậy của thông tin rất nhiều. Cho phép Hà Uyên nghĩ thế này: kể từ ngày 10/5/09, cộng thêm với 196 ngày nữa, VinhL sẽ ở vào một tư thế mới. Dương khí có xu hướng đang tiệm tiến chuyển dịch vào bên trong con người của VinhL "nén chặt". Khi Dương khí co rút vào càng nhiều, càng lớn, càng mạnh, thì sự giãn nở ra càng lớn. Giới hạn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, là chu vi phát triển ngày càng lan rộng. Hà Uyên tin như vậy. Cũng như Hà Uyên đã trao đổi với Liêm Trinh, người thứ 5 giao lưu với Hà Uyên là anh Thiên Sứ. Vì rằng, VinhL đã quyết định đúng, khi nói Thiệu Ung dùng phương pháp biến quẻ Tiên thiên làm gốc. Có điều này, Hà Uyên cũng nghiêm túc muốn trao đổi với VinhL. Khi tiến tới một giới hạn cho phép, thì chúng ta phải đối mặt với sự hiểm nguy. Người nước lớn không bao giờ muốn dân tộc chúng ta có người tài giỏi cả đâu. Đặc biệt là những môn học thuật này. Lịch sử đã cho chúng ta biết như vậy. Đến tận ngày hôm nay, sự hiểm nguy còn lan rộng hơn. Vấn đề này hết sức nhậy cảm và tế nhị.! Thiệu Ung khi xây dựng hệ thống kết cấu cho học thuyết của mình, không thể để "thời gian" trôi tuột đi được. Do vậy, Hà Uyên đã trao đổi với VinhL giữa học thuyết tính toán của Thiệu Ung, so sánh với thời gian thực, đã ẩn giấu một "chìa khoá". Từ xưa đến nay, dù chúng ta có dùng "100 khắc", hay gọi là "miễu", thì thời gian vẫn không thay đổi. Một ngày gồm 86400 giây là đơn vị tính cơ sở, khi thêm đơn vị tính cơ sở của Thiệu Ung là 4320 (43200), thì chúng ta hiểu: tai sao Thiệu Ung dùng 129600 làm đơn vị để tính. Từ ngày 10/3/2008 khai trương diễn đàn Lyhocdongphuong, cho tới ngày hôm nay 23/5/2009, số ngày đã trải qua là 439 ngày. Chúng ta đang ở Hạ nguyên, vậy thì từ Giáp Tý sau đông chí Thượng nguyên, đến ngày hôm nay là bao nhiêu ngày? Thiệu Ung có nghĩ như vậy Không? Tại sao chúng ta lại lệ thuộc vào sự quy định khởi đầu của Hội Ngọ, vào những năm TR.CN như vậy?

....

"Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác."

Đất chựu Trời thì chấp thuận 5 vận (chế)

Trời chựu Đất thì chấp thuận 6 khí (tiết)

Đối ngoại thì có 4 phương, cùng với Trung tâm mà sinh ra "khí" - "động"

Đối nội thì có bởi 8 cực. Khi tĩnh thì hướng tâm, xu hướng phát triển theo "vỹ". Khi động thì ly tâm, xu hướng phát triển theo "kinh".

Cửu cung: khi số Trung tâm là số "chẵn", thì số ở 4 góc là số "lẻ". Số nhập Trung cung là số "lẻ", thì số của 4 góc là số "chẵn". Sao Thuỷ chuyển 4 độ thì trái đất chuyển 1 độ.

Năm 1999: Chính của Dương minh thuộc về kỷ của Mão - Dậu: Dương minh - Thiếu giác - Thiếu âm thanh nhiệt, thắng phục đồng, giống, chính, thương. Đinh Mão tuế hội - Đinh Dậu vận ấy là thanh nhiệt. Thiếu giác sơ chinh, thiếu cung, thái dương, thiếu vũ cuối.Chính của Dương minh chỉ năm Dương minh táo kim Tư thiên.

Kỷ Mão - 1999: vận Thổ bất cập, Khí Tư thiên là Dương minh táo kim, khí tại tuyền là Thiếu âm quân hoả. Tố vấn di biên - Thiên luật pháp: Kỷ Mão: sao Lâu, hành Kim ở phương Tây, trộm cướp Thái quá, giao thông bế tắc. Sao Kim - Hoả có ảnh hưởng nhiều tới trái đất.

Ngày 3/10/1999, Làng văn hoá các dân tộc Viết nam động thổ tại Đồng Mô - Sơn tây. Bản tính Dự báo Thời tiết năm 1999 đã được gửi từ đầu năm, ghi rõ: ngày 3/10/1999 là ngày Giông tố. Chủ khí Dương minh táo kim, gió Tây và Tây Bắc hanh khô (21/9 - 21/11). Khách khí Quyết âm phong mộc, xuân lệnh nghịch lại lưu hành. Khí gió thiên thắng. Khí hậu lạnh không lạnh được. Thực tiễn ngày 3/10/1999 đã xẩy ra giông tố.

Đây là một đóng góp mang tính thực tiễn mà Hà Uyên đã làm. Chỉ tiếc rằng, tại thời điểm đó lãnh đạo vẫn chọn ngày 3/10 làm ngày động thổ với số vốn đầu tư 70 triệu us.

...

VinhL,.. hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế, thì có hai số mà được lập đi lập lại đó chính là số 12 và 30. Toàn bộ Nguyên Hội Vận Thế Niên Nguyệt Nhật Thì Phân Miễu (Giờ Phút Giây) điều dùng 12 và 30 xen kẻ lẫn nhau.

Nguyên = 12 Hội

1 Hội = 30 Vận

1 Vận = 12 Thế

1 Thế = 30 Niên

1 Niên = 12 Nguyệt

1 Nguyệt = 30 Nhật

1 Nhật = 12 Giờ

1 Giờ = 30 Phút

1 Phút = 12 Giây.

Phút và Giây đây không phải là đơn vị Phút và Giây chúng ta đang dùng hiện tại mà là đơn vị thời gian do ông Thiệu Ung phân chia theo phương pháp 12, và 30 xen kẻ.

Trong Hoàng Cực Kinh Thế có đề cặp đến Niên (Tuế) Nguyên, Nguyệt Hội, Nhật (Tinh) Vận, Thìn (Thời) Thế. Từ đó ta thấy Nguyên Hội Vận Thế Niên, Niên Nguyệt Nhật Thời Phân, tương quan với nhau vì tính ra thì đều là 12x30x12x30 = 129600. Khi coi Nhật là Nguyên, thì Bác phải chia Giờ ra thành Vận, Thế rồi đến Giây tức là Nhật, Thời, Vận, Thế, Giây, thì đơn vị Phút đã không còn tuân theo luật 12, 30 của Hoàng Cực Kinh Thế nữa.

Theo VinhL nghĩ, đễ khỏi vướng phải “tháng nhuận”, cho nên ông Thiệu Ung đã dùng Nguyệt theo Tiết Khí, tức một tháng là 2 tiết khí, tháng Tý bắt đầu ở tiết Đông Chí. Một năm lúc nào củng có 24 tiết khí, vì tiết khí căn cứ vào vòng hoàng đạo 360 độ (Sun Longtitude), mồi tiết khí là 15 độ. Luật nhuận được dùng khi tính tháng theo chu kỳ mặt trăng. Mùng 1 âm lịch thì lúc nào củng phải đúng vào ngày trăng mới (New Moon), nên có năm lại có tới 13 lần trăng mới nên phải đặt nhuận.

Cũng vì vậy khi ông Thiệu Ung đề cặp đến Tuế (Niên), 1 Niên = 12 Nguyệt x 30 Nhật = 360 Ngày, ở đây có thể hiểu là 360 độ của vòng hoàng đạo. 1 độ là 1 ngày. Như vậy muốn chính xác 100% thì chúng ta phải dùng đến công thức của Thiên Văn Học để tính ra các đơn vị Nguyệt, Nhật, Thời, vv...

VinhL có đọc qua phần Thiên Môn Địa Hộ của Bác, theo như vậy, trong Kỳ Môn Quý Nhân Đăng Thiên Môn tức là khi sao Bắc Đẩu (Khôi hay Âm Quý tức Tứ Mộ Khu Toàn Cơ Quyền, củng là Tham Cự Lộc Văn, Việt hay Dương Qúy tức Tam Quang Tiêu Dao Du củng là Liêm Vũ Phá ) ở vào khu vực Khuê Bích.

Nhân đây nhắc đến Kỳ Môn, không biết Bác có ý kiến gì về sự khác biệt giữa các môn Bát Trạch, Huyền Không Phi Tinh, Phép Tôn trong Thái Ất, và Kỳ Môn Độn Giáp. Ngoại trừ Bát Trạch, thì 3 môn kia đều bày bố Bắc Đẩu Thất Tinh theo phương pháp khác nhau.

Huyền Không thì cho sao phi vào cung trung, Kỳ Môn thì theo tiết khí và Lục Nghi mà bày bố, Thái Ất Phép Tôn không chú trọng đến tiết khí. Trong 3 môn thì chỉ có Kỳ Môn Độn Giáp là coi trọng việc Siêu Thần Tiếp Khí để lập Cục. Theo như sách của ông Thẩm Trúc Nhưng, thì nhờ mượn đọc được tác phẩm “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” của Trương Trọng Sơn thêm vào nhiều năm nghiên cứu mà biết được phương pháp sao nhập trung cung. So sánh giữa 2 phương pháp bày bố cửu tinh, thì VinhL thấy sao nhập trung cung thiếu sự hợp lý với các hiện tượng thiên văn. Phương pháp của Kỳ Môn thì có vẽ hợp lý hơn. Có khi nào ông Thẩm Trúc Nhưng thấy sao vào cung giữa mà cứ nghỉ đó là phương pháp, mà thật ra cửu tinh phải bày bố theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Cục của tiết khí mà khởi Lục Giáp theo đường lường thiên xích (Tiên Thiên Bát Quái Nạp Số Thái Huyền) mà an bày 9 sao. Không biết nếu dùng cách an sao của Kỳ Môn áp dụng vào Huyền Không có thích hợp hơn không?. Theo VinhL biết trong quyển La Kinh Thấu Giải có nói đến phương pháp ứng dụng Kỳ Môn và trùng quái để tìm 24 ngôi châu bảo thấu địa long.

Vài lời lạm bàn nếu có sai sót mong Bác chỉ điểm.

Kính

Hà Uyên chào VinhL Tại thời gian của Thiệu Ung, lịch Đại diễn vẫn đang được sử dụng. Năm 721 (CN) Tăng Nhất Hành phung chiếu, sáng tác Lịch mới được gọi là lịch Đại diễn. Thực chất sáng tác của lịch Đại diễn này, là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ vào lịch pháp của Tăng Nhất Hành. Hà Uyên nghĩ Thiệu Ung vẫn phải sử dụng hệ thống lịch Đại diễn này. Ví dụ: Tháng Dần - hội thứ ba, hào 6 - 3 trở về trước quẻ Phong, cùng với quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thuỷ. Hào 9 -4 quẻ Phong trở về sau, cùng với quẻ Cách, và quẻ Đồng nhân chủ khi Kinh trập. Do vậy, số 129600 sẽ không chia hết cho 2520. VinhL tham khảo thêm

..

THUYẾT QUÁI KHÍ CỦA TĂNG NHẤT HÀNH VỚI LỊCH ĐẠI DIỄN

Năm Khai Nguyên thứ 9 triều Đường (721 CN), Tăng Nhất Hành phụng chiếu, sáng tác Lịch mới. Nhất hành dựa vào thuật suy diễn các con số để diễn giải Lịch mới. Năm Khai Nguyên thứ 17 (729CN), Lịch mới đã được ban hành, được gọi là Lịch Đại diễn. Song, số liệu Thiên văn và phương pháp giải thích của Nhất Hành còn thiếu độ chính xác. Tại thời điểm đó, đã được kiểm tra lại, thì Lịch Đại diễn đạt độ chính xác 70% - 80%.

Ảnh hưởng từ Dịch - Hệ từ, ông nói: “Trời bắt đầu từ 1, Đất bắt đầu từ 2. Hợp hai số đầu này lại thì thành “cương – nhu”. Số cuối của Trời là 9, số cuối của Đất là 10, hợp hai số cuối lại để ghi số dư. Số giữa của Trời là 5, số giữa của đất là 6, hợp hai số giữa này để thông luật Lịch”. Hệ từ: “Trời số 5, Đất số 5, năm vị trí đều thành, và các vị trí có sự hoà hợp khác nhau, nên mới có biến hoá của Quỷ thần”. Từ đây, ông đã suy ra phép thông 3040 trong Lịch pháp đại diễn.

3040 là nhật pháp, phương pháp tính ngày, tương tương trong Lịch chia 4 cổ, và 81 trong Lịch Thái sơ. Song, trong lịch Đại diễn, tất cả ngày, tháng, và chu kỳ vận động của 5 hành tinh lớn, đều được biểu thì bằng phân số, có mẫu số chung là 3040. Ví như 3040 = 19 x 160, trong đó 19 là biểu thị 19 năm tăng thêm 7 tháng nhuận, được gọi là “Chương pháp”, các nhà làm Lịch gọi là “thông pháp” (nghĩa như chương pháp cũ).

Theo Tăng Nhất Hành, 19 của chương pháp cũ, là sự phối hợp hai số cuối (9&10) của Trời - Đất để tính. Ông cho rằng: “Phu số tượng vi vu tam, tứ, nhi chương vu thất, bát”. Nghĩa là nói: 3 và 4 là “vi”, còn 7 và 8 là “chương”.

Ông lại nói: “Tự ngũ dĩ giáng, vi ngũ hành sinh số, tự lục dĩ vãng, vi ngũ tài thành sinh số”. Sinh số là 1, 2, 3, 4, 5, thành số là 6, 7, 8, 9, 10. Tổng của sinh số là 15, tổng của thành số là 40. Khi 15 x 40 = 40 x 15 = 600. Tổng thành số nhân với tổng sinh số gọi là “tích thiên trung”, đều có tích là 600.

Tích của Thiên trung và Địa trung, nghìn có 200 (tức là 1200). Gấp 4 thành hệ số hào là 300. Đem 10 vi nhân với 2 chương, thì có tích là 3000. Đem 5 tài nhân với 8 tượng, thì được 2 vi, hoặc được tích là 40. Tích của chương nhân vi, là mẫu số của khí số. đây chính là nguồn gốc của 3040.

Nhất Hành còn sáng tạo thuận Hô - Hấp kết hợp với lịch Đại diễn, đây chính là tìm cách tiếp cận quái khí, đem 64 quẻ đối chiếu với 72 hậu, đồng thời đưa Ngũ hành vào cuộc.

Dịch vốn là “Khí”, về sau mới rõ Dịch còn nói về con người và sự vật. Chứng tỏ thuyết Quái khí của Nhất Hành là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ.

Đầu tiên là lịch Chính Quang thời Bắc Nguỵ. Phương pháp của nó là, trước tiên suy ra 4 quẻ chính, tức là cầu ngày Đông chí là ngày quẻ Khảm vào cuộc, ngày Xuân phân là ngày quẻ Chấn tham gia, ngày Hạ chí là ngày quẻ Ly hành sự, ngày Thu phân là ngày quẻ Đoài hành sự. Sau đó, thông qua ngày Đông chí, hoặc ngày quẻ Khảm vào cuộc, để cầu quẻ Trung phu. Từ đây, tiếp tục cầu các quẻ khác.

Suy diễn 72 hậu, ví như ngày Đông chí bắt đầu nhập vào Hậu, mỗi một tiết khí tương ứng với 3 đốt hậu. Song, trng thuật hô hấp và lịch Đại diễn áp dụng, trước tiên lập một số liệu cơ bản, tức là: chuỗi 5 của thiên trung (thiên số 1, 3, 5, 7, 9), chuỗi 6 của địa trung (địa số 2, 4, 6, 8, 10), chuỗi của 3 chinh hối, (quẻ xấu). Cầu 72 hậu: “các nhân trung, tiết mệnh chi, đắc sơ hậu”. Ý nói là, căn cứ vào Trung khí và Tiết khí định được tên gọi của 3 hậu. Trước tiên từ Trung khí được: Sơ hậu, thêm chuỗi (5 ngày) của thiên trung được Thứ hậu, tiếp tục thêm, thì được Mạt hậu. “Nhân trung khí mệnh chi, đắc công quái dụng sự”, tức là quẻ Công quái bắt nguồn từ Trung khí. Luỹ tiến (tăng dần theo cấp số cộng) của địa trung, thì được quẻ tiếp theo.. Giả sử đem chuỗi 3 của “trinh hối”, cộng với quẻ Hầu, thì được đầu của 12 tiết, là quái thể ngoài vào cuộc (tức là thể trên của quẻ hầu)

...

Hà Uyên chào VinhL.

Tất cả các môn học thuật mà chúng ta đã và đang quan tâm, đều phải thông qua đơn vị "thời gian", đó là Lịch pháp. Đặt vào bối cảnh Lịch sử của các môn học thuật này khi ra đời, được truyền bá và ảnh hưởng rông rãi trong dân gian, thì vấn đề Lịch pháp, theo Hà Uyên, chiếm 50% giá trị thông tin, còn mức độ tính toán học thuật là phần còn lại cộng với kinh nghiệm bản thân của mỗi người.

Trước triều Hán, lịch pháp được dùng là “Cổ tứ phân lịch” (lịch chia bốn). Đến đời Hán, gọi là “Tứ phân lịch”. Cơ sở của lịch đời Hán là căn cứ vào sự giãn cách thời gian của mặt Trời hai lần liên tục, thông qua thời điểm Đông chí. Mãi sau này mới chọn thời điểm giãn cách hai lần liên tục của mặt Trời thông qua điểm Lập Xuân. Tức là trái Đất quay xung quanh mặt Trời một vòng, lấy điểm Lập Xuân làm mốc khởi, để tính lịch.

Như vậy, từ ngày Đông chí tới trước quẻ Khôn đợi lệnh, khi tới ngày Đông chí, một dương được sinh ra thành quẻ Phục đối ứng với tháng 11 Thiên chính Tý, tháng 12 Địa chính Sửu là quẻ Lâm, tháng Giêng Nhân chính Dần là quẻ Thái. Đối với Lịch pháp hiện nay chúng ta đang sử dụng, thì lại lấy điểm Lập xuân để khởi Lịch pháp. Hà Uyên cũng tự hình thành cho mình một loại Lịch pháp quái khí riêng, để trong quá trình tính toán áp dụng, thấy tính thực tiễn thông tin khác rất nhiều so với khi chúng ta sử dụng Lịch hiện hành.

Có thể Hà Uyên đánh giá chưa hết, nhưng rõ ràng, Kinh Phòng và Thiệu Ung đều phải sử dụng lịch Thái sơ làm kết cấu khung khi xây dựng học thuyết cho mình.

Hà Uyên chỉ muốn đặt chúng ta vào bối cảnh cách đây hàng ngàn năm, thì sự định hướng trong tư duy sẽ có những thay đổi nhất định. Vấn đề ở chỗ là đi tìm mức độ chính xác của thông tin, khi chúng ta sử dụng các môn học thuật liên thông với quy luật thời gian Lịch pháp. Công thức tính toán thì căn cứ vào Lịch pháp Quái khí, khi xác lập thông tin ngày hôm nay thì lại căn cứ theo Lịch pháp hiện hành.

VinhL tham khảo thêm.

...

VinhL đã viết

"Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế."

Hà Uyên kiến thức sư phạm không có, từ trước cho tới nay, bằng sự yêu thích mang tính cá nhân của mình, vậy thôi. Sự yêu thích khởi đầu của Hà Uyên bắt đầu như sau:

---------------------------------------------------------------

G. Tý - Â.Sửu - B.Dần - Đ.Mão - M.Thìn

1 -------2 ----3 ----- 4 ------ 5 ------ ==> Sinh

---------------------------------------------------------------

KTị - C.Ngọ - T.Mùi - N.Thân - Q.Dậu

6 ---- 7 ----- 8 ---- 9 ----- 10 ------ ==> Thành

---------------------------------------------------------------

G.Tuất - A.Hợi - B.Tý - Đ.Sửu - M.Dần

11 ------ 12 ---- 13 --- 14 ---- 15 ------ ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Mão - C.Thìn - T.Tị - N.Ngọ - Q.Mùi

16 ----- 17 ----- 18 ----- 19 ----- 20 ==> Thành

----------------------------------------------------------------

G.Thân - A.Dậu - B.Tuất - Đ.Hợi - M.Tý

21 ----- 22 ------ 23 ------ 24 ----- 25 ----- ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Sửu - C.Dần - T.Mao - N.Thìn - Q.Tị

26 ----- 27 ----- 28 ---- 29 ----- 30 ------- ==> Thành

------------------------------------------------------------------

G.Ngọ - A.Mùi - B.Thân - Đ.Dậu - M.Tuất

31 ------ 32 ------ 33 ----- 34 ------ 35 -------- ==> Sinh

------------------------------------------------------------------

K.Hợi - C.Tý - T.Sửu - N.Dần - Q.Mão

36 ----- 37 ----- 38 ----- 39 ----- 40 -------- ==> Thành

-------------------------------------------------------------------

G.Thìn - A.Tị - B.Ngọ - Đ.Mùi - M.Thân

41 ---- 42 ---- 43 ----44 ----- 45 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Dậu - C.Tuất - T.Hợi - N.Tý - Q.Sửu

46 ----- 47 ----48 ----- 49 ----- 50 ------- ==> Thành

--------------------------------------------------------------------

G.Dần - A.Mão - B.Thìn - Đ.Tị - M.Ngọ

51 ---- 52 ----- 53 ---- 54 ----- 55 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Mùi - C.Thân - T.Dậu - N.Tuất - Q.Hợi

56 ------ 57 ---- 58 ----- 59 ---- 60 ----- = => Thành

Giáp - Kỷ phối ứng cặp số đồng đẳng 1 - 6, Ất - Canh phối ứng với cặp số đồng đẳng 2 - 7, Bính - Tân phối ứng với 3 - 8. Đinh - Nhâm phối ứng với 4 - 9, Mậu Quý phối ứng với 5 - 10

Khi ta coi 60 là một đơn vị tính, thì 60 - 3 = 57 là hệ số can chi Canh Thân, là mốc thời gian để tính trước CN và sau CN. Nhất âm nhất dương = 60 + 60 = 120 - 3 = 117. Trước Công nguyên thì trứ đi 117, sau Công nguyên thì cộng thêm với 117, thì thời gian tính sẽ chia hết cho 360 (117 hay 110 là số tính tương thông với Thái ất)

(8 x 60) - 3 = 477 - 177 = 360 ==> 129600/360 = 360

(14 x 60) - 3 = 837 - 117 = 720 ==> 129600/720 = 180

(20 x 60) - 3 = 1197 - 117 = 1080 ==> 129600/1080 = 120

(26 x 60) - 3 = 1557 - 117 = 1440 ==> 129600/1440 = 90

(32 x 60) - 3 = 1917 - 117 = 1800 ==> 129600/1800 = 72

(38 x 60) - 3 = 2277 - 117 = 2160 ==> 129600/2160 = 60

(44 x 60) - 3 = 2637 - 117 = 2520 ==> 129600/2520 = 51 dư 1080.

+ Bính Tân 3 - 8 hợp: Liên Bang Xô viết "tụ" năm 1916 can "Bính-, năm 1991 can Tân -thì "tán," đến năm Bính Dần 1984 lại xẩy ra sự cố nhà máy điện nguyên tử,....

VinhL tham khảo thêm

...

VinhL,.., hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thành thật cám ơn Bác đã cung cấp nhiều thông tin về Lịch Pháp cổ. Sách về Lịch Pháp cổ thì VinhL không có nên về vấn đề này thì mù tịt. Với kiến thức uyên bác về Lịch Pháp, không biết Bác có ý kiền gì về phương pháp Siêu Thần Tiếp Khí của Kỳ Môn trong việc tính nhuận?

Thưa Bác hai con số 57 và 117 này đúng là có liên quan đến con số 10153917 của Thái Ất.

10153917 / 60 dư 57, 10153917 / 360 dư 117. Con số 10153917 này có thể dùng để tính ra Can Chi của tứ trụ năm tháng ngày giờ bằng dương lịch không cần phải dùng đến âm lịch.

Sẳn đây Bác đề cập đến cái Hợp của Thiên Can, VinhL có một nghi vấn mong Bác có thể giải thíc cho.

Thiên Can có 10, chia 2 thì được 5 cặp, 1 với 6, 2 với 7, 3 với 8, 4 với 9, 5 với 10. Mỗi cặp đều có ngũ hành tương khắc nhưng không gọi là Xung, mà tại sao lại gọi là Hợp?

Địa Chi có 12, chia 2 thì được 6 cặp, 1 với 7, 2 với 8, 3 với 9, 4 với 10, 5 với 11, 6 với 12 tức Tý Ngọ, Sửu Mùi, vv... ngũ hành của mỗi cặp củng đều là tuơng khắc nhưng lại không được gọi là Hợp, mà tại sao lại gọi là Xung?

Thành Thật Cám Ơn Bác.

Kính

Hà Uyên chào VinhL VinhL có thể tham khảo sách: DI SẢN HAN NÔM VIỆT NAM - Thư mục đề yếu - Bổ di 1 - 2 - 3 - Quyển thượng, hạ. Tìm phần "Cổ chỉ". Chuyên đề về Mai hoa chúng ta có thể tạm dừng ở đây được không VinhL? Cảm ơn VinhL đã dành thời gian và quan tâm. Hà Uyên.

Mai Hoa Dịch Số

Minh An, on Oct 17 2009, 10:12 PM, said:

Cháu nghĩ nó là 1 mẹo hỗ trợ trong việc xác định thời gian ứng nghiệm.Cháu còn thiếu kinh nghiệm nên mong các bậc tiền bối kiểm nghiệm.

Không biến dịch thì không sinh ra cái mới, vậy thì tại sao lại tính 2 lần 1 quẻ không động?

Chào Minh An.

Một quẻ Dịch luôn có 7 hào. Hào thứ Bảy luôn ẩn, mà không được nhắc tới, được gọi là Thần tàng, hay là Quy viêm, hay được gọi là Quy tàng. Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

Từ hào Một cho tới hào Sáu, luôn có một hào động, được gọi là hào Chủ, đồng thời với hào Bảy, là hào Quy tàng, cũng luôn luôn động. Như vậy, một quẻ Dịch sẽ có 2 động 5 tĩnh. Kinh Dịch gọi mối quan hệ này là "Hàm tam vi nhất" (5 - 2 = 3 Một Tĩnh ba Động, một chân Tĩnh, chân còn lại và hai tay Động => đạp một đội chín, đạp một đội ba,...,). Đây là nguyên lý: một tĩnh thì có ba động, hai Tĩnh thì có sáu Động, ba Tĩnh thì có chín Động,..., => bỏ một dùng ba (360 thì chỉ dùng 270) => bỏ hai dùng sáu (bố mẹ thân lùi mà sáu con tiến, hai lùi sáu tiến) => bỏ ba dùng chín (12 địa chi thì dùng 9, chỉ dùng từ Trường Sinh tới Mộ, bỏ không dùng Tuyệt, Thai, Dưỡng)

Trong 5 hào tĩnh này, dùng để phản ánh mối quan hệ với 2 hào động. Trong hai hào động này, thì một hào là Quy tàng (Thần tàng), còn một Hào động là hào làm Chủ. Hai Động một Tĩnh, Âm một Dương hai, một tối hai sáng, là để tìm hiểu về xu hướng phát triển của vạn vật trong thế giới Tự nhiên của Người xưa.

Cùng nhau học dịch

Chào Anh Chị Em

Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch.

- Anh Dichnhan viết:

Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy.

Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét:

Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

- Hà Uyên viết:

Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng.

Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị.

Cụ thể:

1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu"

- Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại.

2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

Tôi bình giải theo kết cấu khung:

1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm

- Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu.

- Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.

2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ".

Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch

Hà Uyên.

...

Khi giải Dịch theo trường phái tam tài Thiên - Địa - Nhân, trong chu kỳ 1864 - 2043, thì đối với "tài" của Thiên, chúng ta đang ngồi Hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, lời hào 6 quẻ Đại súc viết:

Hà thiên chi cù, hanh.

Tượng quẻ Sơn Thiên Đại súc

Posted Image

Hỏi rằng:

- Trước hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào đây?

- Sau hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào?

Dịch im lặng, không trả lời.

- Phải chăng, "sau" hào 6 quẻ Đại súc, là hào 1 quẻ Địa Phong Thăng. Rồi tiếp đến hào 2 quẻ Địa Sơn Khiêm.

Posted Image Posted Image Posted Image

- Phải chăng, "trước" hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào 5 quẻ Thủy Thiên Nhu. Lại trước hào 5 quẻ Nhu, là hào 4 quẻ Lôi Thiên Đại tráng.

Posted Image Posted Image Posted Image

Dịch vẫn im lặng.

Vấn đề này, khi chú giải về "Kinh", thật là mông lung về tính liên tục của Hào từ. Vì đã gọi là "Kinh", thì phải là một hệ thống lôgíc chặt chẽ và hoàn chỉnh.

Có thể đây vẫn là một khoảng trống, mà Dịch Kinh chưa đề cập tới. Hay, cũng có thể đã hình thành một hệ thống phương pháp luận về: tính liên tục của hào từ, mà ta chưa biết tới. Hoặc cũng là sự tồn nghi của cá nhân tôi, con người lại đòi hỏi về "tri thiên" thật mơ hồ.

Vậy thì câu: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch" chúng ta nên hiểu như thế nào đây.

...

VinhL, on May 27 2010, 12:08 PM, said:

Kính Bác Hà Uyên,

Thấy bác hỏi về tính liên tục của các hào, và quái, trong đầu lại nghỉ đến âm thanh.

Các lần sóng trong âm thanh và trị số của Hào là giống nhau, sau bác không tìm câu trả lời trong âm thanh. Âm thanh vút cao rồi chìm xuống, ngân nga chuyển qua các sóng, thật tự nhiên, dịch tự nhiên củng thế.

Một ý kiến thoáng qua trong đầu, nếu không hợp lý mong bác bỏ qua nhé.

Kính

Thân mến, chào VinhL

Cảm ơn VinhL đặt vấn đề, đưa ra một hướng kiến giải, tôi sẽ dành thời gian tìm hiểu sâu thêm về góc độ: "Các tần sóng âm thanh và trị số hào giống nhau".

Tôi đặt vấn đề về tính thống nhất và tuần tự liên tục của hào từ. Nguyên nhân nào đã quyết định "chí" hướng chỉ đạo "phương" hướng, mà buộc Người và vạn vật tất phải "vãng - lai", trong nguyên nghĩa của Hào từ (?). Điều gì lấy làm căn cứ, để dựa vào của Hào từ (?).

VinhL có thể gợi mở, đặt vấn đề từ nhiều góc độ, để cùng anh chị em tham gia kiến giải từng bước, tôi cũng hiểu rằng, cái trừu tượng thường gợi mở cho chúng ta một phương hướng nào đó, rồi dần hướng tới quy luật chung của sự vật.

Hà Uyên.

..

dichnhan07, on May 31 2010, 05:40 PM, said:

Tôi nghĩ những câu hỏi của Bác không quan trọng bằng việc là câu trả lời sẽ giúp giải quyết vấn đề gì? Có thể cách nghiên cứu đặt vấn đề của tôi không giống mọi người, có gì bác bỏ qua cho.

Chào anh Dichnhan

Cảm ơn anh có ý kiến về cách diễn ngữ của bài viết, tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Tôi cũng đang nghĩ về bộ khung dàn bài, nên bắt đầu học Dịch từ đâu: nói về "Kinh" thì là những quy luật thường hằng bất biến, không thay đổi. Còn đối với "Dịch": thì sự ảnh hưởng của yếu tố Lịch sử, từ quá trình hình thành sách Dịch, các học phái chú giải, kết hợp với Học thuyết Tam Huyền của Hình nhi thượng, hoặc Học thuyết Tam giáo,...v.v...

- Ví như, chú giải về quẻ Càn, thì sách: Liệt Tử Dịch chú (NXB Thượng Hải cổ tịch - 1986), có viết:

"Thiên hữu thời, Địa hữu lợi", làm căn cứ cho điều kiện tự nhiên khách quan đối với: "Nhân hữu hòa".

Nhưng sách Dịch Vỹ chú về Dịch viết: "Bẩm sinh thụ số, ký hữu chế chi giả hĩ, diệc hữu tri chi giả hỹ, tri mệnh kỳ như nhữ hà" (Bẩm sinh thụ số, thì đã chế định rồi, cũng đã biết, biết mệnh để làm gì).

- Lại như, trong sách Chu Dịch, khi chúng ta đọc và nghiên cứu, cũng thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo độc tôn, mà "Dịch truyện" đã định rõ rằng:

"Hình nhi thượng giả, đạo dã".

Vậy mà, đối với tôn chỉ của Đạo giáo, khẳng định đề xuất, tại "Hệ từ" viết:

"Nhất âm nhất dương chi vị đạo".

Như vậy, giữa "Dịch truyện" và "Hệ từ", ta thấy rất rõ sự ảnh hưởng bản chất "Học thuyết", của hai trường phái vào sách Dịch đã rất sâu rộng, mang theo ẩn nghĩa đặc trưng của từng Học thuyết, từng trường phái.

Mong được anh Dịchnhan luôn quan tâm, gợi mở, định hướng khi chúng ta cùng nhau học Dịch.

Hà Uyên.

...

Thi Quy là cơ sở để Dịch Kinh dựa vào mà hình thành nên sự "chu lưu". Chúng ta khảo sát về con số 49 trong sách Dịch, khi ta đã biết được 1 = 13, tiếp theo là tìm hiểu tại sao lại biết được:

1 = 49

Có nghĩa rằng: Giáp Tý = Nhâm Tý

Sự khởi nguồn nguyên nhân hình thành về TUẦN KHÔNG - Số "trùng lưu", hay là số "trùng hư".

...

Tìm hiểu mối quan hệ giữa Hệ thống 60 Can Chi với Dịch Kinh. Đây là phần kiến thức ít thấy sách vở bàn tới. Trọng tâm tìm hiểu là trường phái Tam huyền đời nhà Hán.

Nhà Đại Dịch học Trịnh Huyền đã công bố về "HÀO THẦN ĐỒ", chúng ta bắt đầu khảo chứng từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH sau:

乾宫八卦属金

Càn cung bát quái thuộc kim 乾为天

Càn Vi Thiên 天风姤

Thiên Phong Cấu 天山遁

Thiên Sơn Độn 天地否

Thiên Địa Bỉ 风地观

Phong Địa Quán 山地剥

Sơn Địa Bác 火地晋

Hỏa Địa Tấn 火天大有

Hỏa Thiên Dại Hữu

坎宫八卦属水

Khảm cung bát quái thuộc thủy 坎为水

Khảm Vi Thủy 水泽节

Thủy Trạch Tiết 水雷屯

Thủy Lôi Truân 水火既济

Thủy Hỏa Ký Tế 泽火革

Trạch Hỏa Cách 雷火丰

Lôi Hỏa Phong 地火明夷

Địa Hỏa Minh Di 地水师

Địa Thủy Sư

艮宫八卦属土

Cấn cung bát quái thuộc thổ 艮为山

Cấn Vi Sơn 山火贲

Sơn Hỏa Bí 山天大畜

Sơn Thiên Đại Súc 山泽损

Sơn Trạch Tổn 火泽睽 Hỏa Trạch Khuê 天 泽履

Thiên Trạch Lý 风泽中孚

Phong Trạch Trung Phu 风山渐

Phong Sơn Tiệm

震 宫八卦属木

Chấn cung bát quái thuộc mộc 震为雷

Chấn Vi Lôi 雷地豫

Lôi Địa Dự 雷 水解

Lôi Thủy Giải 雷风恒

Lôi Phong Hằng 地风升

Địa Phong Thăng 水风井

Thủy Phong Tỉnh 泽风大过

Trạch Phong Đại Quá 泽雷随

Trạch Lôi Tùy

巽宫八卦属木

Tốn cung bát quái thuộc mộc 巽为风

Tốn Vi Phong 风天小畜

Phong Thiên Tiểu Súc 风火家人

Phong Hỏa Gia Nhân 风雷益

Phong Lôi Ích 天雷无妄

Thiên Lôi Vô Vọng 火雷噬嗑

Hỏa Lôi Phệ Hạp 山雷颐

Sơn Lôi Di 山 风蛊

Sơn Phong Cổ

离宫八卦属火

Ly cung bát quái thuộc hỏa 离为火

Ly Vi Hỏa 火 山旅

Hỏa Sơn Lữ 火风鼎

Hỏa Phong Đỉnh 火水未济

Hỏa Thủy vị Tế 山水蒙

Sơn Thủy Mông 风水涣

Phong Thủy Hoán 天水讼

Thiên Thủy Tụng 天火同人

Thiên Hỏa Đồng Nhân

坤宫八卦属土

Khôn cung bát quái thuộc thổ 坤为地

Khôn Vi Địa 地雷复

Địa Lôi Phục 地泽临

Địa Trạch Lâm 地天泰

Địa Thiên Thái 雷天大壮

Lôi Thiên Đại Tráng 泽天夬

Trạch Thiên Quải 水天需

Thủy Thiên Nhu 水地比

Thủy Địa Tỉ

兑宫八卦属金

Đoái cung bát quái thuộc kim 兑为泽

Đoài Vi Trạch 泽水困

Trạch Thủy Khốn 泽地萃

Trạch Địa Tụy 泽山咸

Trạch Sơn Hàm 水山蹇

Thủy Sơn Kiển 地山谦

Địa Sơn Khiêm 雷山小过

Lôi Sơn Tiểu Quá 雷泽归妹

Lôi Trạch Quy Muội

Từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH, chúng ta lần lượt xắp xếp Can Chi theo hệ thống, khởi đầu từ Giáp Tý, để xác định HÀO THẦN phối hợp với 60 Can Chi:

1. Giáp Tý – hào 1

2. Ất Sửu – hào 4

3. Bính Dần – hào 6

4. Đinh Mão – hào 2

5. Mậu Thìn – hào 2

6. Kỷ Tị - hào 6

7. Canh Ngọ - hào 4

8. Tân Mùi – hào 4

9. Nhâm Thân – hào 5

10. Quý Dậu – hào 6

11. Giáp Tuất – hào 6

12. Ất Hợi – hào 5

13. Bính Tý – hào 5

14. Đinh Sửu – hào 3

15. Mậu Dần – hào 1

16. Kỷ Mão – hào 1

17. Canh Thìn – hào 3

18. Tân Tị - hào 5

19. Nhâm Ngọ - hào 4

20. Quý Mùi – hào 1

21. Giáp Thân – hào 5

22. Ất Dậu – hào 6

23. Bính Tuất – hào 4

24. Đinh Hợi – hào 4

25. Mậu Tý – hào 6

26. Kỷ Sửu – hào 2

27. Canh Dần – hào 2

28. Tân Mão – hào 6

29. Nhâm Thìn – hào 3

30. Quý Tị - hào 2

31. Giáp Ngọ - hào 4

32. Ất Mùi – hào 1

33. Bính Thân – hào 3

34. Đinh Dậu – hào 5

35. Mậu Tuất – hào 5

36. Kỷ Hợi – hào 3

37. Canh Tý – hào 1

38. Tân Sửu – hào 1

39. Nhâm Dần – hào 2

40. Quý Mão – hào 3

41. Giáp Thìn – hào 3

42. Ất Tị - hào 2

43. Bính Ngọ - hào

44. Đinh Mùi – hào 6

45. Mậu Thân – hào 4

46. Kỷ Dậu – hào 4

47. Canh Tuất – hào 6

48. Tân Hợi – hào 2

49. Nhâm Tý – hào 1

50. Quý Sửu – hào 4

51. Giáp Dần – hào 2

52. Ất Mão – hào 3

53. Bính Thìn – hào 1

54. Đinh Tị - hào 1

55. Mậu Ngọ - hào 3

56. Kỷ Mùi – hào 5

57. Canh Thân – hào 5

58. Tân Dậu – hào 3

59. Nhâm Tuất – hào 6

60. Quý Hợi – hào 5

Hoa Giáp Phối Hào

1. Can Giáp: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Giáp Tý hào 1

- Giáp Tuất hào 6

- Giáp Thân hào 5

- Giáp Ngọ hào 4

- Giáp Thìn hào 3

- Giáp Dần hào 2

2. Can Ất: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ

- Ất Sửu hào 4

- Ất Hợi hào 5

- Ất Dậu hào 6

- Ất Mùi hào 1

- Ất Tị hào 2

- Ất Mão hào 3

3. Can Bính: Cấn – Bí - Đại súc - Tổn – Khuê – Lý – Trung phu - Tiệm

- Bính Dần hào 6

- Bính Tý hào 5

- Bính Tuất hào 4

- Bính Thân hào 3

- Bính Ngọ hào 2

- Bính thìn hào 1

4. Can Đinh: Đoài - Khốn - Tụy – Hàm - Kiển – Khiêm - Tiểu quá – Q.Muội

- Đinh Mão hào 2

- Đinh Sửu hào 3

- Đinh Hợi hào 4

- Đinh Dậu hào 5

- Đinh Mùi hào 6

- Đinh Tị hào 1

5. Can Mậu: Khảm - Tiết – Truân – Ký tế - Cách – Phong – M.di

- Mậu Thìn hào 2

- Mậu Dần hào 1

- Mậu Tý hào 6

- Mậu Tuất hào 5

- Mậu Thân hào 4

- Mậu Ngọ hào 3

6. Can Kỷ: Ly - Lữ - Đỉnh - Vị tế - Mông – Hoán - Tụng - Đồng nhân.

- Kỷ Tị hào 6

- Kỷ Mão hào 1

- Kỷ Sửu hào 2

- Kỷ Hợi hào 3

- Kỷ Dậu hào 4

- Kỷ Mùi hào 5

7. Can Canh: Chấn - Dự - Giải - Hằng – Thăng - Tỉnh - Đại quá – Tùy

- Canh Ngọ hào 4

- Canh Thìn hào 3

- Canh Dần hào 2

- Canh Tý hào 1

- Canh Tuất hào 6

- Canh Thân hào 5

8. Can Tân: Tốn - Tiểu súc – Gia nhân – Ích – Vô vọng - Phệ hạp - Di - Cổ

- Tân Mùi hào 4

- Tân Tị hào 5

- Tân Mão hào 6

- Tân Sửu hào 1

- Tân Hợi hào 2

- Tân Dậu hào 3

9. Can Nhâm: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Nhâm Thân hào 5

- Nhâm Ngọ hào 4

- Nhâm Thìn hào 3

- Nhâm Dần hào 2

- Nhâm Tý hào 1

- Nhâm Tuất hào 6

10. Can Quý: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ.

- Quý Dậu hào 6

- Quý Mùi hào 1

- Quý Tị hào 2

- Quý Mão hào 3

- Quý Sửu hào 4

- Quý Hợi hào 5

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

VÒNG 8

1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại.

2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đáng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6

- “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”.

- “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”.

4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2

- “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”.

- “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”.

5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2

- “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”.

- “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”.

6. Kỷ Tị - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6

- “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”.

- “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”.

7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4

- “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu!”.

- “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”.

8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4

- “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”.

- Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”.

9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

11. Giáp Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5

- “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”.

- “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”.

14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3

- “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”.

- “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”.

15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1

- “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”.

- “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”.

16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1

- “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”.

- “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”.

17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”.

- “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”.

18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5

- “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”.

- “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4

- “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”.

24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4

- “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời”

- “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”.

25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6

- “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”.

- “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”.

26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2

- “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”.

- “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”.

27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”.

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”.

28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự”

- “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3

- “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”.

- “Chín Ba, chin đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang để con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh.

34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5

- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”.

- “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành.

35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”.

- “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”.

36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3

- “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng”

- “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”.

37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1

- “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”.

- “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”.

38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1

- “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”.

- “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”.

39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2

- “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”.

- “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”.

44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6

- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”.

- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”.

45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4

- “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”.

46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4

- “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”.

- “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”.

47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6

- “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”.

- “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”.

48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2

- “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”.

- “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”.

49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”.

51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1

- “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”.

- “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”.

54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1

- “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”.

- “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”.

55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3

- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung”

- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”.

- “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”.

57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5

- “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”.

- “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”.

58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”.

- “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

Vòng 8, với sự khởi đầu là ngày Giáp Tý, cho chúng ta nhận thức được một hàm nghĩa rất rõ ràng: "nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại".

Đạo lý hay thật!!!

...

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

VÒNG 2

...........................LỮ

........TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

VÒNG 1

...........................LY

........TỐN.............................KHÔN

...CHẤN.....................+..............ĐOÀI

.........CẤN.............................CÀN

...........................KHẢM

Khảo sát ngày Giáp Tý phối hợp với Hào từ quẻ Dịch, thông qua 8 vòng

Giáp Tý

1. Ngày Giáp Tý vòng 1: Càn hào 1

- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.

- “Hào Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng”.

2. Ngày Giáp Tý vòng 2: Cấu hào 1

- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịch trục.”

- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”

3. Ngày Giáp Tý vòng 3: Độn hào 1

- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

4. Ngày Giáp Tý vòng 4: Bĩ hào 1

- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

5. Ngày Giáp Tý vòng 5: Quán hào 1

- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

6. Ngày Giáp Tý vòng 6: Bác hào 1

- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”

- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

7. Ngày Giáp Tý vòng 7: Tấn hào 1

- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”

- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.

8. Ngày Giáp Tý vòng 8: Đại hữu hào 1

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

Xét thấy ngày Giáp Tý thông qua 8 vòng mà sao lời Hào từ lại nói "vật dụng" khởi đầu ở Vòng 1, mà tới cùng là Vòng 8 nói "chưa đi lại giao du thì chưa mắc hoạ", lạ thật!!!.

Vậy thì, có sự liên hệ tới Độn Giáp chăng?

...

Bài số #13, chúng ta đã có ví dụ về VÒNG 8, hệ thống 60 can chi phối hợp với Hào từ của 8 quẻ thuộc Vòng 8.

Nhận xét thấy:

- Mỗi quẻ Dịch có 6 hào, ta ví dụ mỗi một Hào trong quẻ Dịch tương đương với đơn vị tính là một ngày. Như vậy, một vòng Dịch Can Chi sẽ tương đương với 60 ngày. Thuận tự hết 8 vòng, thì số ngày là: 60 x 8 = 480 ngày tương đương với 480 hào từ.

- Khi người xưa quy định sự phối hợp Thiên can với quẻ Dịch, thì can Giáp - Nhâm phối với quẻ Càn, can Ất - Quý phối với quẻ Khôn. Từ nguyên nhân này, đã nảy sinh ra số "Trùng lưu" (Lão Tử gọi là Trùng hư), cụ thể như sau:

- Số 1 ~ số 49 ==> Giáp Tý <=> Nhâm Tý

- số 2 ~ số 50 ==> Ất Sửu <=> Quý Sửu

- số 9 ~ số 21 ==> Nhâm Thân <==> Giáp Thân

- số 10 ~ số 22 ==> Quý Dậu <==> Ất Dậu

- số 11 ~ số 59 ==> Giáp Tuất <==> Nhâm Tuất

- số 12 ~ số 60 ==> Ất Hợi <==> Quý Hợi

- số 19 ~ số 31 ==> Nhâm Ngọ <==> Giáp Ngọ

- số 20 ~ số 32 ==> Quý Mùi <==> Ất Mùi

- số 21 ~ số 9 ==> Giáp Thân <==> Nhâm Thân

- số 22 ~ số 10 ==> Ất Dậu >==> Quý Dậu

- số 29 ~ số 41 ==> Nhâm Thìn <==> Giáp Thìn

- số 30 ~ số 42 ==> Quý Tị <==> Ất Tị

- số 31 ~ số 19 ==> Giáp Ngọ <==> Nhâm Ngọ

- số 32 ~ số 20 ==> Ất Mùi <==> Quý Mùi

- số 39 ~ số 51 ==> Nhâm Dần <==> Giáp Dần

- số 40 ~ số 52 ==> Quý Mão <==> Ất Mão

- số 41 ~ số 29 ==> Giáp Thìn <==> Nhâm Thìn

- số 42 ~ số 30 ==> Ất Tị <==> Quý Tị

- số 49 ~ số 1 ==> Nhâm Tý <==> Giáp Tý

- số 50 ~ số 2 ==> Quý Sửu <==> Ất Sửu

- số 51 ~ số 39 ==> Giáp Dần <==> Nhâm Dần

- số 52 ~ số 40 ==> Ất Mão <==> Quý Mão

- số 59 ~ số 11 ==> Nhâm tuất <==> Giáp Tuất

- số 60 ~ số 12 ==> Quý Hợi <==> Ất hợi

Như vậy, trong 24 ngày được gọi là "trùng lưu" này, thì số ngày thực tính mang thông tin, chỉ còn 12 ngày, vậy nên số "thông tin" thực có sẽ là 60 - 12 = 48, tương đương với một vòng Dịch Can Chi - Khi trải qua 8 vòng thì số "thông tin" là 48 x 8 = 384, tương đương với số hào của 64 quẻ Dịch.

Ta có thể đưa ra một kết luận rằng: trong quá trình thực tính, thì tổng số hào của Kinh Dịch là 480 hào, được phân làm 8 vòng, mỗi một vòng là 60 hào tương đương với 60 can chi, trong mỗi một vòng thì số "trùng lưu" sẽ là 12.

Từ đây, chúng ta nhận thức được tại sao LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN chỉ dùng đơn vị số quẻ là 48. Nhưng bên trong số 48 này, vẫn ẩn tàng số "trùng hư", để thuận theo số chu kỳ của thời gian là 60.

480 HÀO LÀ SỐ THỰC CỦA KINH DỊCH.

...

Hệ thống 60 can chi, khi phối ứng với 384 Hào từ quẻ Dịch sẽ thuận tự trải qua 8 vòng, nhận thấy một vòng 60 ngày sẽ có 12 ngày mang "thông tin" trùng nhau, được trường phái "Tam huyền" (Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Dương Hùng) gọi là số "Trùng lưu". Ta xét tỷ lệ: 1 / 4, có nghĩa rằng: 48 ngày mang "thông tin" tỷ lệ với 12 ngày mang "thông tịn" trùng lưu (thông qua một mà biết bốn - Khổng Tử). Tỷ lệ này, được ứng dụng một cách nghiêm mật, rải khắp trong các môn thuật toán Đông Phương học.

Phép bói Cỏ thi mà sách Dịch có bàn tới, sử dụng số 49 cọng cỏ thi. Con số "49" này, xét thấy tương đương với số "1". Chúng ta đã phối ứng "Thời gian" với Hào từ Kinh Dịch, thấy rằng một "thông tin" ẩn tàng trong "can chi", ví như trong ngày Giáp Tý, thì sau 49 ngày, tới ngày Nhâm Tý thì "thông tin" quay trở lại (phản bản hoàn nguyên - quy luật Phản Tổ).

Ta đang bàn về học thuyết thuyết "Bản thể", đã nhận thấy sự khởi nguồn khi người xưa định "Tuần không", khi chúng ta tìm hiểu về học thuyết thuyết "Sinh - Thành", thì sẽ nhận thức rõ thêm tại sao người xưa quy định như vậy.

...

Một Ví dụ mà Tôi thường ứng dụng và trải nghiệm:

Can Chi ngày sinh của Tôi là ngày Ất Mùi, nếu tính theo số TỬ BÌNH hay LỤC NHÂM, thì hiện tại Tôi đang ở trong VÒNG 6.

Trước tiên, Tôi tìm hiểu ý nghĩa cấu tạo của VÒNG 6 cho ta biết về những "Sự" gì?

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Hướng Nam, đó là sự lìa tan - Phong Thuỷ Hoán

- Hướng Bắc, đó là sự thịnh lớn - Lôi Hoả Phong

- Hướng Đông, đó là "Mạch nước ngấm không cùng" - Thuỷ Phong Tỉnh

- Hướng Tây, đó là sự khiêm tốn - Địa Sơn Khiêm

- Hướng Tây - Bắc, đang là sự bong ra từng mảng - Sơn Địa Bác

- Hướng Tây - Nam, đang có sự quyết đoán - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Nam, đang có sự cắn để hợp lại - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Bắc, đang có nhắc nhở về "sự thận trọng trong đi lại" - Thiên Trạch Lý.

Một người bạn có lời mời Tôi đi miền Nam, từ VÒNG 6 xét thấy, phía Nam đang có sự lìa tan, ứng hợp vào tháng nào đây? Chắc là tháng Nhâm Ngọ vậy. Tôi thành thật cảm ơn bạn mình, và trả lời không thể đi được.

Hướng Tây Nam đang có sự quyết đoán, lại có lưu "Lộc Tồn", tôi chiêm đoán rằng: cơ quan mà tôi đã làm việc, đang cân nhắc tiền thưởng cho một số cán bộ lão thành.

Khi tính theo số ĐỘN GIÁP thì can ngày sinh Ất Mùi của Tôi cho tôi biết những thông tin gì đây?

.........................................Tân gia Mậu

..................Kỷ gia Canh................................Đinh gia Nhâm (Đinh gia Giáp)

....Mậu / Tân...............................+.......................Ất / Bính

...................Nhâm / Đinh................................Bính / Quý

.............................................Canh / Kỷ

Như vậy, Can ngày sinh của Tôi đang nhắc nhở tôi, cho tôi biết thông tin rằng: tôi cần phải có sự khiêm tốn (Địa Sơn Khiêm) trong những ngày tới.

Không biết số Thái ất của Tôi còn nói cho tôi biết thêm những thông tin gì đây.!

...

Khảo sát vòng 2

...........................LỮ

.....TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

Nhận xét thấy

- Hướng Tây -Nam cung Khôn 2, mang quẻ Địa Lôi Phục phối hợp với hướng Đông, cung Chấn 3 mang quẻ Lôi Địa Dự, hướng Tây - Nam thì: Địa ở bên ngoài mà Lôi ở bên trong ; Địa ở trên mà Lôi ở dưới ; Địa ở ngọn mà Lôi ở gốc,...v.v... Đối với hướng Đông thì vị trí Nội quái và Ngoại quái được thay đổi cho nhau (không phải là đảo - ngược quái): Lôi lại ở bên ngoài còn Địa lại ở bên trong => Lôi Địa <==> Địa Lôi (Tây Nam <==> Đông). Tương tự:

- Hướng Tây - Bắc cung Càn 6, mang quẻ Thiên Phong Cấu phối hợp với hướng Đông - Nam cung Tốn 4, mang quẻ Phong Thiên Tiểu súc => Thiên Phong <==> Phong Thiên (Đông Nam <==> Tây Bắc)

- Hướng Đông - Bắc quẻ Cấn 8, mang quẻ Sơn Hoả Bí phối hợp với hướng Nam cung Ly 9 mang quẻ Hoả Sơn Lữ => Sơn Hỏa <==> Hỏa Sơn (Đông Bắc <==> Nam)

- Hướng Bắc cung Khảm 1, mang quẻ Thuỷ Trạch Tiết phối hợp với hướng Tây cung Đoài mang quẻ Trạch Thuỷ Khốn => Thuỷ Trạch <==> Trạch Thuỷ (Bắc <==> Tây)

Nội ngoại, trong ngoài, trên dưới, trước sau, gốc ngọn, nhân quả...v.v... đều thay đổi vị trí cho nhau. Khi sự thay đổi vị trí quái như vậy, thì chúng ta nhận thức được gì đây? Phải chăng, cái "bên ngoài" của hướng Tây phản ảnh thông tin cái "bên trong" của hướng Đông - Bắc, cũng như cái "bên trong" của hướng Tây Bắc phản ánh thông tin về cái "bên ngoài" của hướng Đông Nam,...v.v...

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

NHẬN XÉT:

- Cung Càn 6 với cung Cấn 8: trong ngoài, trên dưới, nội ngoại, thay đổi vị trí cho nhau: Thiên Sơn <=> Sơn Thiên, hướng Tây Bắc <=> Đông Bắc.

- Cung Khảm 1 với cung Chấn 3: trên dưới thay đổi vị trí cho nhau: Thuỷ Lôi <=> Lôi Thuỷ

- Cung Khôn 2 với cung Đoài 7: trên dưới thay đổi vị trí: Địa Trạch <=> Trạch Địa

- Cung Tốn 4 với cung Ly 9: Phong Hỏa <=> Hoả Phong.

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

- Cung Càn 6 với cung số Khôn 2: Thiên Địa <=> Địa Thiên => Giáp Nhâm = Ất Quý >> hướng Tây Bắc và hướng Tây Nam

- Cung Đoài 7 với cung Cấn 8: Bính <=> Đinh

- Cung Khảm 1 với cung Ly 9: Mậu <=> Kỷ

- Cung Chấn 3 với cung Tốn 4: Canh <=> Tân

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

- Cung Cấn 8 với cung Khảm 1: Bính <=> Mậu

- Cung Tốn 4 với cung Khôn 2: Tân <=> Ất (Quý)

- Cung Chấn 3 với cung Càn 6: Canh <=> Giáp (Nhâm)

- Cung Ly 9 với cung Đoài 7: Kỷ <=> Đinh

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Tây Bắc cung Càn 6 phối ứng với Tây cung Đoài 7: Đinh <=> Nhâm (Giáp)

- Đông Bắc cung Cán 8 phối ứng với Tây Nam cung Khôn 2: Bính <=> Quý (Ất)

- Hướng Bắc cung Khảm 1 phối ứng với hướng Đông Nam cung Tốn 4: Mậu <=> Tân

- Hướng Đông cung Chấn 3 phối ứng với hướng Nam cung Ly 9: Canh <=> Kỷ.

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

- Cặp [ 9 <=> 2 ] => Ly <=> Khôn (Nam ~ Tây Nam)

- Cặp [ 7 <=> 4 ] => Đoài <=> Tốn (Tây ~ Đông Nam), (Đinh ~ Tân)

- Cặp [ 6 <=> 1 ] => Càn <=> Khảm (Tây Bắc ~ Bắc)

- Cặp [ 8 <=> 3 ] => Cấn <=> Chấn (Đông Bắc ~ Đông)

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

- Cặp 6 ~ 9 => Hỏa Thiên ~ Thiên Hỏa

- Cặp 3 ~ 7 => Trạch Lôi ~ Lôi Trạch

- Cặp 1 ~ 2 => Địa Thủy ~ Thủy Địa

- Cặp 8 ~ 4 => Phong Sơn ~ Sơn Phong

Chúng ta đã xong được một bước. Tiếp theo, ta cần phải biết được, trong 32 cặp phối hợp này, cặp nào là cặp có sự "dao động" mạnh nhất. Hệ số "dao động" này, giúp được gì cho chúng ta khi ứng dụng vào thực tiễn?

Có người, gặp hệ số "dao động" thấp mà vẫn bị họa tai, có người lại gặp hệ số "dao động" cao mà họ vẫn có khả năng vượt qua (!).

Ta tiếp tục khai phá những điều mà người xưa cho là "nghiêm mật".

...

Điều mà người xưa cho là "nghiêm mật", chính là "cái mà phải dựa vào đang dần mất đi sự ổn định".

Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm.

Dịch - Sơn Địa Bác, tượng hào 2 nói: "Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã", có nghĩa rằng: "Đã đến lúc muốn nằm nghỉ, thì giường nằm từ cứng mạnh đang chuyển thành hư yếu".

Phải dừng lại, vì người ta không thể quên nguồn cội của mình. Thường ngày cần phải củng cố cái "gốc" để phòng sự "bác". Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một tăng lên, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi.

Cái mà ta phải dựa vào đó vậy!

...

Chúng ta tiếp tục khảo sát xem người xưa đã tổ hợp như thế nào (?), từ 48 cặp can chi mang thông tin này, làm sao có thể quy tụ về còn 12 cặp can chi, mà người xưa gọi là 12 "thần". Như vậy, sẽ hình thành 4 chu kỳ của 12 "thần".

...

Năm Canh Dần - 2010, do vậy ta bắt đầu khảo sát từ LỤC CANH

Canh Dần

1. Chu kỳ 1 - Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2

- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.”

- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”

- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – ý nói tượng hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

2. Chu kỳ 2 - Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2

- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.”

- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – "Không đợi ngày mà biết", vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

3. Chu kỳ 3 - Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2

- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát.”

- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – "Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành", nói lên được đạo ở giữa không lệch.

4. Chu kỳ 4 - Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2

- “Cửu Nhị, hối vong.”

- “Chín Hai, hối hận tiêu hết.”

- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – "Chín Hai hối hận tiêu hết", nói lên Chín Hai có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

5. Chu kỳ 5 - Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2

- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”

- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi tội lỗi.”

- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

6. Chu kỳ 6 - Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2

- “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.”

- “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc lên.”

- Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - "Rốn giếng bị uổng dùng", nói lên Chín Hai không có ứng với trên. (Mỹ, Nga, Trung quốc)

7. Chu kỳ 7 - Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 1

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - "Lấy cỏ tranh trắng lót vật biếu người trên", nói ý hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8. Chu kỳ 8 - Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu.”

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng.”

- Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - "Quấn quýt với kẻ tiểu tử", nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi.

...

Khảo sát từ LỤC CANH Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 1 viết: "Thiên nhất địa nhị. Thiên tam địa tứ. Thiên ngũ địa lục. Thiên thất địa bát. Thiên cửu địa thập." Như vậy trong hệ chu kỳ số đếm 10, thì can Canh ở vị trí thứ 7. Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 5 viết: "Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã" (Số trong hai thiên của Kinh Dịch là 11520, tương đương với số chỉ vạn vật." Dịch viết: số 11.520 là số tương đương chỉ vạn vật (!), như một di ngôn "mật khẩu" được mật truyền trong Kinh, ta nhận thức như thế nào về lời di ngôn này? Từng bước tiếp cận, khởi đầu từ lời Dịch viết: " Vạn vật xuất hồ Chấn ". Sử dụng 3 chu kỳ: đó là chu kỳ 10, chu kỳ 12, và chu kỳ 14 làm phương tiện nhận thức về Thiên đạo (đường vận hành trời). Chu kỳ 10 được gọi là chu kỳ Thiên can, gồm thứ tự số đếm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Chu kỳ 12 được gọi là chu kỳ Địa chi, gồm thứ tự số đếm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Chu kỳ 10 và 12 cho chúng ta một hệ chu kỳ số đếm 60, khởi nguyên từ Giáp phối ứng với Tí, kết thúc khi Quý phối ứng với Hợi, thường gọi là một Giáp Tí. Khi tổ hợp phối ứng với chu kỳ 14, có nghĩa là khởi nguyên đồng thời cả ba chu kỳ, thì ta được một hệ chu kỳ số đếm 420, thường được gọi là một Đại Giáp Tí (7 x 60). Một Đại Giáp Tí là một chu kỳ gồm 420 năm (ngày).

...

Khảo sát một số sách chú giảng về Dịch nói: số chỉ vạn vật tương đương với số 11520 (!)

1. Sách " Chu Dịch Đại truyện " - Nhà XB KHOA HỌC XÃ HỘI - 2006 - Lê Anh Minh dịch - chú (tr 94):

- "Thiên" = Kinh dịch có hai thiên ; thượng thiên (tức thượng kinh) có 30 quẻ ; hạ thiên (tức hạ kinh) có 34 quẻ.

- 64 quẻ cả thảy 192 hào dương và 192 hào âm. Khi bói:

- Lập được hào Dương, số que kẹp kẽ tay là 13, còn lại là 36 que. Vậy 36 x 192 = 6912.

- Lập được hào Âm, số que kẹp kẽ tay là 25, số que còn lại là 24. Vậy 24 x 192 = 4608

- Kết quả: 6912 + 4608 = 11520

- Khi nói "vạn vật", thì "vạn" là mười ngàn (nhưng đó là nói tổng quát).

- Số 11520 tương đương với con số chỉ vạn vật.

2. Sách: KINH DỊCH - ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ - Nguyễn Hiến Lê - Trang 462 - CHƯƠNG IX - Tiết 5 viết:

- " Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã "

- Dịch: " Số thẻ của hai thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng - vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật ".

- Chu Hi giảng: Hai thiên trong Kinh dịch gồm tất cả 192 hào dương và 192 hào âm. Như tiết trên đã nói, số của quẻ Càn là 216, vậy số của mỗi hào quẻ Càn, tức mỗi hào dương là 216 / 6 = 36. Số của quẻ Khôn là 144, vậy số của mỗi hào quẻ Khôn, tức mỗi hào âm là 144 / 6 = 24.

- Tổng số 192 hào dương là 36 x 192 = 6.912 ; Tổng số 192 hào âm là 24 x 192 = 4.608 Cộng cả dương lẫn âm được 6.192 + 4.608 = 11.520

- Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ thời đó có khoảng một vạn mốt loài chăng?

3. Nguồn sách: Thư viện Đại học Cambridge University Library

http://www.lib.cam.a...lu/fb70306.html

TRUNG HOA ĐẠO THÁNH [ 中华 道 藏 ]

Dịch Số 7 - 8 - 9 - 6

Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động".

Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh".

Các bước thực hiện:

- Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56

- Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49

- Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50

- Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51

- Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52

- Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53.

- Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54

- Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55

Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau:

..49.....50.......51......52.....53....54....55....56.

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày,..., Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn"

Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau:

....................56....................

...........52................55..........

...54...............+.................51..

..........50.................53............

.....................49....................

Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt.

Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212

Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208

Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành?

Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị

Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?)

Lại tiếp tục khảo sát:

..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8)

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9)

Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60.

Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.

...

Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.

...

Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động"

....................CÀN.........................KHÔN..........

Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24......

Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12.....

Hào một...............= 9..........................= 6......

- Quẻ Chấn:

hào một dương 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất)

- Quẻ Khảm:

hào một âm 6,

hào hai dương 9 x 2 = 18,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48

- Quẻ Cấn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương 18 x 2 = 36.

Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54.

- Quẻ Tốn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60

- Quẻ Ly:

hào một dương trị số là 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57.

- Quẻ Đoài:

hào một dương trị số là 9,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12.

Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51.

Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63.

Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42.

.42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63...

Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn..

.49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56...

Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8)

Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9)

Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành?

Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ???.

Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không?

...

Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh.

Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau:

..1......2......3......4......5......6......7......8......9..

.49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41..

.40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32..

.31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23..

.22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14

.13....12.....11....10......9......8......7......6......5

..4......3......2......1......0..............................

.................................9......8......7......6.....???

Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4.

Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau:

...1......2......3......4......5......6......7......8......9..

..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48..

....................................................................

....................................................................

....................................................................

....................................................................

..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3..

...2.......1.....0................................................

Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu?

...

Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.

Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ

Chào Anh Chị Em trên diễn đàn.

Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau:

A: 3 nét ; Ă: 4 nét ; Â: 5 nét

B: 3 nét

C: 1 nét

D: 2 nét ; Đ: 3 nét

E: 4 nét ; Ê: 6 nét

G: 2 nét ;

H: 3 nét

I: 1 nét

K: 3 nét

L: 2 nét

M: 4 nét

N: 2 nét

O: 2 nét

Ô: 4 nét

Ơ: 3 nét

P: 2 nét

Q: 3 nét

R: 3 nét

S: 1 nét

T: 2 nét

U: 1 nét

Ư: 2 nét

V: 2 nét

X: 2 nét

Y: 3 nét

Sắc(/): 1 nét

Huyền (\): 1 nét

Hỏi (?): 2 nét

Ngã (~): 1 nét

Nặng (.): 1 nét

Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau:

Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá,

Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán.

Cụ thể:

- "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái

- "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái

Thực hiện:

- Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1

=> 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12

- Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9

- Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3

=> 1 + 5 + 3 = 9

Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40

40 / 8 = 5 => được quái Khôn.

- Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17.

- Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1

=> 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11

- Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2

=> 1 + 3 + 2 = 6

- Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1

=> 3 + 1 + 3 + 1 = 8

Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42

42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài

Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM.

Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái:

- Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1

=> 4 + 2 + 1 + 1 = 8

- Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1

=> 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11

- Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2

=> 3 + 2 = 5

- Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9

- Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16

Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59

59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly

- Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 1 = 5

- Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1

=> 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10

Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25

25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn

Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU.

- Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6

Posted Image Posted Image

- Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu.

Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch.

Hà Uyên.

...

dichnhan07, on May 17 2010, 03:04 PM, said:

Tôi có một thắc mắc đó là tại sao không phải là an quẻ từ dưới lên mà lại an từ trên xuống, trong khi đó tên gọi lại là Lâm (dưới)-Đại Hữu (trên). Tôi thử biến lại thành Tụy (dưới)-Đồng Nhân (trên), bác thử xét xem liệu quẻ nào hợp hoàn cảnh hơn.

Kính Bác.

Anh Dichnhan

Khi ngài Tiêu Diên Thọ xây dựng kết cấu cho học thuyết của mình, Ông lấy Can Chi "ngày" làm "Bản" (gốc). Do vậy, ngài Tiêu mới lấy "Trực nhật" để minh chứng cho "Tiêu Lâm".

Hôm nay, là ngày Đinh Mão, là Can Chi ứng cho ngày "Âm", nên tôi trải nghiệm theo nguyên tắc mà ngài Tiêu Diên Thọ đã đặt ra.

Anh tham khảo thêm.

Hà Uyên.

...

Chào Thiên đồng

Cảm ơn Bạn rất nhiều từ những ý kiến mà Bạn đặt vấn đề. Tôi đang trải nghiệm, cùng luận giải thêm với Thiên Đồng sau.

Gần đây, về cá nhân, tôi đang thử nghiệm, nhưng không nói ra, về: Họ và Tên của sự Hợp khí, với điều kiện là: Âm dương đã hợp hóa => đã "sinh". Ví dụ như tên của Dương: Trần văn A, tên của Âm là Nguyễn thị B => tôi phân: Trần Văn làm Ngoại quái, còn tên là chữ A, thì đặt làm Nội quái. Đối ứng với Âm, thì Nguyễn Thị tổ hợp làm Ngoại quái, còn tên chữ là B, thì tổ hợp làm Nội quái. Tôi thử nghiệm xét thấy, có nhiều điều rất lạ khi thông tin được bộc lộ ra, từ hai quẻ Đối ứng.

Chia sẻ cùng Thiên Đồng và Anh Chị Em.

Hà Uyên.

HÀO DỊCH THÔNG KHÍ - 72 SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA QUẺ DỊCH

SƠN LÔI DI – 72 CỤC

Di: Trinh cát ; quan di, tự cầu khẩu thực.

Dịch: “Quẻ Di tượng trương cho sự nuôi dưỡng: giữ vững chính bền thì được tốt lành. Xem xét hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, cần biết dùng chính đạo trong việc từ tìm thức ăn nuôi mình.”

Chú thích: chứ “di” cổ văn mà nhìn ngang thì giống như cái mép, là tên gọi “cái mép”, tượng trưng trong mồm ngậm thức ăn, dưới Chấn động trên Cấn ngưng chỉ, có tượng như đang nhai thức ăn, nhai vật, khi động khi ngừng. Trời đất tạo hóa nuôi nấng muôn vật, mỗi vật được một cách nuôi riêng thì đó cũng là chính đạo mà thôi. Xem cách nuôi của người và cách họ tự tìm thức ăn cho mình, thì sự thiên ác lành giữ có thể thấy được.

Thoán viết: Di, trinh cát, dưỡng chính tắc cát dã. Quan di, quan kỳ sở dưỡng dã ; tự cầu khẩu thực, quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật, thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân: di chi thời đại hỹ tai.

Dịch: “Thoán truyện nói: Nuôi dưỡng, giữ vững chính bền thì được tốt lành. Quan sát hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, là quan sát điều kiện khách quan để có được sự nuôi dưỡng ; nên biết dùng chính đạo trong việc tự tìm thức ăn nuôi mình, tức quan sát để biết được về phương pháp chủ quan tự nuôi mình đúng đắn nhất. Trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng người hiền cho tới muôn dân ; công hiệu của thời “di dưỡng” lớn vậy thay!”

Chú thích: Người quân tử cắt (miếng thịt) không ngay ngắn không ăn, huống chi là miếng ăn phi nghĩa. Bởi vậy cho nên kẻ được nuôi dưỡng phải là kẻ hiền minh, từ nuôi mình tất phải hợp lễ, đó là nghĩa “dưỡng chính” vậy. Về sự sinh và sự dưỡng của muôn vật, thì “thời” là lớn.

Tượng viết: Sơn hạ hữu Lôi, di ; quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.

Dịch: “Tượng truyện nói: Dưới núi vang động tiếng sấm của quẻ Chấn (dưới động trên ngưng, như miệng nhai thức ăn), tượng trưng cho sự “nuôi dưỡng”, người do vậy thận trọng nói năng để dưỡng đức, tiết chế sự ăn uống để nuôi mình.”

Chú thích: noi theo đạo “dưỡng chính” của quẻ Di, dưỡng đức và dưỡng thân rất quan trọng đối với thời “nuôi dưỡng”. Họa theo miệng mà ra, hoạn theo miệng mà vào, cho nên đối với sự nuôi dưỡng, thì phải “thận trong” và “tiết chế” vậy.

HÀO 9.1

1- Sơn Lôi Di 9.1:

- “Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa di, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm,”

- Tượng: Hào Chín Đầu không đáng được tôn trọng. Chưa đủ nói lên sự sang giầu quý phái.

2- Sơn Trạch Tổn hào 1:

- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu ; chước tổn chi.”

- Dịch: Hào Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân.”

- Tượng: Hào Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

3- Sơn Thiên Đại súc hào 1:

- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi. Không gặp tai ương.

4- Hỏa Thiên Đại hữu: hào 1

- “Cửu Tứ, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp tội tỗi.”

- Tượng: Hào Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai thì cũng không mắc phải họa hại.

5- Thuần Càn hào 1:

- “Cửu Ngũ, Tiềm long, vật dụng.”

- Dịch: “Hào Chín đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

6- Trạch Thiên Quải hào 1:

- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự họa hại đến.

7- Trạch Phong Đại quá hào 1:

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8- Trạch Sơn Hàm hào 1:

- “Sơ Lục, Hàm kỳ mẫu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu chí hướng phát triển ra phía ngoài.”

9 Trạch Địa Tụy hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy, nhược hào, nhất ác vi tiếu: vật tuất, vãng vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyện tình mà kêu gọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay ; Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu tâm chí có sự mê loạn.

10- Thủy Địa Tỷ hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô vữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục, mà hưởng được sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói hào Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, tất sẽ được tốt lành.

11- Thuần Khôn hào 1:

- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”

- Dịch: “ Hào Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói lên khí âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày sẽ đến.

12- Sơn Địa Bác hào 1:

- “Sơ Lục, bác sàng dỹ túc, miệt ; trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu trước tiên bị làm ruỗng mọt phần nền móng phía dưới.

13- Sơn Lôi Di 9.1

HÀO 6.3

1- Sơn Lôi Di 6.3:

- Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.”

- Tượng: Hào Sáu Ba đại nghịch bất đạo với chính đạo nuôi dưỡng.

2- Hỏa Lôi Phệ hạp 9.4:

- “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu nhân lận, vô cữu.”

- Dịch: “ Hào Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại”

- Tượng: Hào Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán.

3- Thiên Lôi Vô vọng 9.5:

- “ Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”

- Tượng: Hào Sáu Ba vận số đến lúc bị tai bay vạ gió, bị đổ tội oan.

4- Trạch Lôi Tùy 6.6:

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền.”

- Tượng: Hào Sáu Ba là bỏ kẻ tiểu tử ở dưới.

5- Trạch Địa Tụy 6.1:

- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự tiếc nhỏ.”

- Tượng: Sáu Ba lòng muốn hướng lên trên thuận theo dương cứng.

6- Trạch Thủy Khốn 9.2:

- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung.”

- Dịch: “khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dừa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.”

- Tượng: Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương cường. “Về nhà không thấy vợ” đây là hiện tượng chẳng lành.

7- Trạch Phong Đại quá 9.3:

- “Cửu Tam, đống náo, hung.”

- Dịch: “hào Chín Ba, cột ỏe, hung.”

- Tượng: Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp.

8- Thủy Phong Tỉnh 6.4:

- “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ phúc.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng trắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng trong này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.”

- Tượng: Chín Ba có hành vi chưa được hiểu, thật khiến cho người ta động lòng chắc ẩn, “nhà vua sáng suốt” là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch.

9- Địa Phong Thăng 6.5:

- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”

- Tượng: Chín Ba thượng thăng sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

10- Sơn Phong Cổ 9.6:

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn.”

- Tượng: Chín Ba mạo hiểm đưa ra lời can gián, cuối cùng không thể có cữu hại

11- Sơn Thiên Đại súc 9.1:

- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn cư về, lợi hữu du vãng.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe, lợi về có sự đi.”

- Tượng: Chín Ba hợp chí với hào Chín Trên.

12- Sơn Hỏa Bí 6.2:

- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững chính bền được lâu dài sẽ được sự tốt lành.”

- Tượng: Chín Ba có thể làm được như vậy thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

13- Sơn Lôi Di 6.3

HÀO 6.4

1- Sơn Lôi Di 6.4:

- “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn ở ngôi trên mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Lòng đầy thèm muốn. Điềm cát, đã thực hiện xong công việc.

2- Phong Lôi Ích hào 4:

- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân.”

- Tượng: Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công

3- Thủy Lôi Truân hào 4:

- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”

- Tượng: Sáu Bốn muốn cầu hôn ở phía dưới mà tiến lên, như vậy là kẻ sáng suốt hiểu biết.

4- Thủy Địa Tỷ hào 4:

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, ở ngoài thân mật, gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành.”

- Tượng: Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng.

5- Thuần Khảm hào 4:

- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.”

6- Thủy Phong Tỉnh hào 4:

- “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất không cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn chỉ có thể sửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người.

7- Trạch Phong Đại quá 9.4:

- “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng viện với dưới, tất sinh thẹn tiếc.”

- Tượng: Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa.

8- Lôi Phong Hằng hào 4

- Lục Tứ, điền vô cầm.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đi săn không được cầm thú.”

- Tượng: Sáu Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?

9- Hỏa Phong Đỉnh hào 4:

- “Cửu Tứ, đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, vạc khó lòng chựu nổi sức nặng, chân vạc gãy, cao lương mỹ vị của vương công bị đổ hết, thân vạc ướt át bẩn thửu, có hung hiểm.”

- Tượng: Chín Bốn làm sao còn tín nhiệm được nữa. Chân đỉnh bị cắt, tức là lật đổ chế độ cũ, nên tin như thế nào cho phải?

10- Hỏa Thiên Đại hữu hào 4:

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, đừng để tỏ ra quá sự giầu có thì không bị họa hại.”

11- Thuần Ly hào 4:

- “Cửu Tứ, đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán diệt vong, bị vứt bỏ sạch trơn.”

- Tượng: hư thế của Chín Bốn sẽ làm cho nó không còn nơi phụ bám, chứa chấp. Vật đột nhiên đến, không có chỗ dung thân.

12- Hỏa Lôi Phệ hạp hào 4:

- “Cửu Tứ, phệ can tỷ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng, lợi về trong gian nan giữ vững được chính bền, tốt lành.”

- Tượng: đạo trị ngục của Chín Bốn chưa phát huy được sáng lớn, không sáng sủa gì.

13- Sơn Lôi Di hào 4

HÀO 6.5

1- Sơn Lôi Di 6.5

- “Lục Ngũ, phất kinh, cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự kẻ trên nuôi nình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường, ở yên giữ vững chính bền thìđược tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Sáu Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền lương dương cứng Chín Trên. Thuận tình đi theo cấp trên, là điềm lành do “cư trinh”.

2- Địa Lôi Phục hào 5:

- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận.”

- Tượng: Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, tự mình suy xét để thành được đạo phục thiện.

3- Thuần Khôn hào 5:

- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”

- Tượng: Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ đạo “trung”. “Hoàng thường”, văn hóa là trung tâm.

4- Địa Thủy Sư hào 5:

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vây bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nhiệm cho bậc trưởng giả cương chính thì có thể thống xuất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọ tuổi trẻ không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: “trưởng tử xuất sư”, hoạt động của trung tâm ; “đệ tử dư thi”, là kết quẻ của việc sử dụng người không đích đáng. Lệnh ban ra không thỏa đáng.

5- Địa Phong Thăng hào 5:

- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”

- Tượng: hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao, ý chí thật lớn lao.

6- Lôi Phong Hằng hào 5:

- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm.”

- Tượng: cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà tất có hung hiểm. Chồng ở rể, theo vợ là hung.

7- Trạch Phong Đại quá hào 5:

- “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sỹ phu ; vô cữu vô dự.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.”

- Tượng: “dương khô ra hoa” như vậy thì sức sống làm sao lâu bền được. “bà già lọm khọm”, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ.

8- Thiên Phong Cấu hào 5:

- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự nhiên.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che trở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống.”

- Tượng: tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. Hàm nghĩa 9.5 nói về hiện tượng lạ “thiên thạch từ trời rơi xuống.”

9- Thuần Càn hào 5:

- “Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

10- Thiên Hỏa Đồng nhân hào 5:

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp.”

- Tượng: “trước thì khóc lóc kêu rên”, do Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Phải đến khi đại quân xuất chiến mới tương ngộ hội hợp cùng kẻ chí đồng”, là do Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng.

11- Thiên Lôi Vô vọng hào 5:

- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà vui vì khỏi bệnh.”

- Tượng: Chín Năm không dùng thử linh tinh, không thể thử thuốc.

12- Phong Lôi Ích hào 5:

- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: Hữu phu huệ ngã đức.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, có lòng chân thành, tín thực ban ơn cho thiên hạ, không cong nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp: Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta.”

- Tượng: “tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi. “báo đáp ân đức của ta”, nói lên hào Chín Năm được lớn chí tổn thượng ích hạ. Cái đạt được lớn nhất là ý chí.

13- Sơn Lôi Di hào 5

HÀO 9.6

1- Sơn Lôi Di hào 6

- “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Chín Trên có phúc khánh lớn.

2- Sơn Địa Bác hào 6:

- “Thượng Cửu, thạc quẻ bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, quẻ lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”

- Tượng: “quân tử đắc dư”, nói lên ý trăm họ do vậy được bề trên che trở. “tiểu nhân bác lư”, nói lên kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được. Cuối cùng nhà nát không thể dùng được nữa.

3- Sơn Thủy Mông hào 6:

- “Thượng Cửu, kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối, không lợi về dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên ngừa giặc mạnh.”

- Tượng: Chín Trên có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

4- Sơn Phong Cổ hào 6:

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình.”

- Tượng: ý chí của Chín Trên đáng để noi theo. Không việc gì là không đến tay vương hầu.

5- Hỏa Phong Đỉnh hào 6:

- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi.”

- Tượng: Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. Cương nhu hòa hợp.

6- Thiên Phong Cấu hào 6:

- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác, lận, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, gặp nơi trống vắng, lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cưu hại.”

- Tượng: ở nơi cao cùng cực nên dẫn tới sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. Nghèo hèn sinh ra tiếc của (từ giầu có tụt dốc xuống thành nghèo khổ).

7- Trạch Phong Đại quá hào 6:

- “Thương Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập cả đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.”

- Tượng: cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. qua sông hỏng thuyền.

8- Trạch Thiên Quải hào 6:

- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.

- Tượng: Với tình thế ở cao bên trên cuối cùng không thể lâu dài.

9- Trạch Hỏa Cách hào 6:

- “Thương Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện, chinh hung, cư trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau làm thay đổi khuynh hướng thời trước, lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng: “quân tử báo biến”, ngôn ngữ hoa mỹ bay bổng. “Đánh dấu vào mặt tiểu nhân”, thuận tòng sự niến cách của nhà vua.

10- Trạch Lôi Tùy hào 6:

- “Thương Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi; vương dụng hưởng vu tây sơn.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà rằng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây.”

- Tượng: ở ngôi trên cùng, đạo theo cùng tận, “trên” nghèo khổ.

11- Thủy Lôi Truân hào 6:

- “Thương Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có sự cảm ứng) nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa.”

- Tượng: làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

12- Địa Lôi Phục hào 6:

- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc, quân hung, chí vu thập niên bất khắc chinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến nhiều năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển.”

- Tượng: Sáu Trên đi ngược với con đường của đạo quân chủ dương cứng. Ngược với đạo lý của vua.

13- Sơn Lôi Di hào 6

...

Chào VanTrungHac

- Theo Hà Uyên, 1 hào chỉ có 5 quá trình tiệm tiến chuyển hoá, Hà Uyên cũng đã trao đổi với Liêm Trinh. Khi chúng ta trao đổi với nhau, thì Hà Uyên phân tích 12 quá trình là để hiểu thêm về những nguyên lý của Kinh Dịch.

- Hai người cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ đến hỏi vận mệnh, thì Hà Uyên chưa có câu trả lời với VanTrungHac.

- Quẻ ứng tức thì,...Hà Uyên rất ít, thiếu kinh nghiêm.

Hà Uyên có thể cùng thảo luận với VanTrungHac về chủ đề: tại sao một cung, lại quy định 7 quẻ phải theo Ngũ hành của quẻ Bát Thuần, vì phần này Hà Uyên vẫn có nhiều chỗ lúng túng.

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG - HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG

Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số là 99, trong và ngoài đều là số “thành”, nội tĩnh ngoại tĩnh

Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49, trong là số “thành”, ngoài là số “sinh”, do quẻ Càn hào 6 biến. Ngoại động nội tĩnh.

Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, ngoài “sinh” trong “thành”, ngoaì do quẻ Càn hào 5 biến.

Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89, cả trong và ngoài đều là số “thành”, ngoài do quẻ Khôn hào 4 biến.

Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29, nội tĩnh ngoại động, ngoại động do quẻ Càn hào 4 biến.

Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu, số là 79, nội và ngoại đều là số “thành”, ngoại do quẻ Khôn hào 5 biến.

Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69, nội và ngoại đều là số “thành", ngoại do quẻ Khôn hào 6 biến.

Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái, số là 19, nội “thành” ngoại “sinh”.

Vị trí thứ 9 là Thiên Trạch Lý, số là 94.

Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài, số là 44.

Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê, số là 34.

Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội, số là 84 Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu, số là 24.

Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết, số là 74.

Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64 Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm, số là 14.

Vị trí thứ 17 là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách, số là 43.

Vị trí thứ 19 là Thuần Ly (10 + 9), số là 33.

Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong, số là 83.

Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73.

Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí, số là 63.

Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

Vị trí thứ 25 là Thiên Lôi Vô vọng, số 98 Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy, số là 48.

Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp, số là 38.

Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích, số là 28 Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân, số là 78.

Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di, số là 68.

Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục, số là 18.

Vị trí thứ 33 là Thiên Phong Cấu, số là 92.

Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá, số là 42.

Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng, số là 82.

Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, số là 62.

Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

Vị trí thứ 41 là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 82 Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán, số là 27.

Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông, số là 67.

Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư, số là 17.

Vị trí thứ 49 là Thiên Sơn Độn, số là 96.

Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm, số là 46.

Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ, số là 36.

Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá, số là 86.

Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm, số là 26.

Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66.

Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm, số là 16 Vị trí thứ 57 là Thiên Địa Bĩ, số là 91.

Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy, số là 41.

Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn, số là 31.

Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự, số là 81.

Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan, số là 21.

Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71.

Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác, số là 61.

Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

1- Càn ngoại:

- Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số thực dụng là 99

- Vị trí thứ 9 (1 +8) là Thiên Trạch Lý, số là 94.

- Vị trí thứ 17 (9 + 8) là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

- Vị trí thứ 25 (17 +8) là Thiên Lôi Vô vọng, sô là 98

- Vị trí thứ 33 (25 +8) là Thiên Phong Cấu, số là 92.

- Vị trí thứ 41 (33 +8) là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

- Vị trí thứ 49 (41 + 8) là Thiên Sơn Độn, số là 96.

- Vị trí thứ 57 (49 + 8) là Thiên Địa Bĩ (bế tắc), số là 91 2- Đoài ngoại:

- Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49,(58 + 8 = 66 – 64 = 2)

- Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài (vui vẻ), số là 44

- Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách (cải cách), số là 43.

- Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy (theo), số là 48.

- Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá (quá lớn), số là 42.

- Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

- Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm (trai gái cảm nhau), số là 46.

- Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy (nhóm họp), số là 41. 3- Ly ngoại:

- Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, (59 + 8 = 67 – 64 = 3)

- Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê (chia lìa), số là 34.

- Vị trí thứ 19 là Thuần Ly, số là 33.

- Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp (cắn để hợp), số là 38.

- Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

- Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

- Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ (bỏ nhà đi tha hương), số là 36.

- Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn (tiến lên), số là 31. 4- Chấn ngoại:

- Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89,(60 + 8 = 68 – 64 = 4)

- Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội (em gái về nhà chồng), số là 84.

- Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong (thịnh, lớn) số là 83.

- Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

- Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng (lâu dài), số là 82

- Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 87.

- Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá (quá chút ít), số là 86.

- Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự (vui sướng), số là 81. 5- Tốn ngoại:

- Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29 (61 + 8 = 69 – 64 = 5)

- Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu (có đức tin trong lòng), số là 24.

- Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

- Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích (tăng lên), số là 28. -

- Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

- Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán (chia lìa, tan tác), số là 27.

- Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm (tiến dần), số là 26.

- Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan (xem xét), số là 21. 6- Khảm ngoại:

- Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu (chờ đợi), số là 79 (62 + 8 = 70 – 64 = 6)

- Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết (tiết chế lại), số là 74.

- Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73, nạp Mậu Thìn, hành 9 vận.

- Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân (đầy và khó khăn), số là 78.

- Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

- Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

- Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

- Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. 7- Cấn ngoại:

- Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69 (63 + 8 = 71 – 64 = 7)

- Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64.

- Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí (rực rỡ, sáng sủa), số là 63.

- Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di (nuôi nấng), số là 68

- Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, (đổ nát, công việc), số là 62.

- Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông (non yếu, mù mờ), số là 67.

- Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66 (46), Cấn nạp Bính Dần, hành 1 vận.

- Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác (tiêu mòn, bóc lột), số là 61 8- Khôn ngoại:

- Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái (hanh thông), số là 19.

- Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm (lớn tới), số là 14.

- Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

- Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục (trở lại), số là 18.

- Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

- Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư (đám đông), số là 17.

- Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm (nhún nhường), số là 16.

- Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

...

Thiệu Ung viết: "Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8". Theo Tiên thiên, thì quẻ Thuần Càn ở vị trí thứ 1, cộng thêm với 9 thì tới quẻ Thuần Đoài có số thứ tự là 1 + 9 = 10. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Ly có số thứ tự là 10 + 9 = 19. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Chấn có số thứ tự là 19 + 9 = 28. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Tốn có số thứ tự là 28 + 9 = 37. Tiếp tục công thêm với 9 thì được quẻ Tập Khảm có số thứ tự là 37 + 9 = 46. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Cấn có số thứ tự là 46 + 9 = 55. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Khôn có số thứ tự là 55 + 9 = 64. Theo Hậu thiên, quẻ Thuần càn gồm: 1, 9, 17, 25, 33, 41, 49, 57 (1, 9, 7, 5, 3, 1, 9, 7). Từ số thứ tự cuối của quẻ Càn 57 + 9 = 66 ta trừ đi 64 quẻ 66 - 64 = 2. Nên quẻ thuần Đoài mang số thứ tự khởi đầu là 2. Thiệu Ung nói: Càn 1, Đoài 2. Theo Hậu thiên, quẻ Đoài gồm các số: 2, 10, 18, 26, 34, 42, 50, 58 (2, 0, 8, 6, 4, 2, 0, 8). Từ số thứ tự cuối của quẻ Đoài cộng thêm với 9, tức là 58 + 9 = 67 - 64 = 3. Do vậy 3 là số thứ tự đầu tiên của quẻ Ly. Nên nói Ly 3. Tiếp tục như vậy, nên Thiệu Ung viết: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Thiên Trạch Hỏa Lôi, Phong Thủy Sơn Địa - 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8.

...

Từ hai sườn dốc - từ đó sinh ra các đối lập tạo nghĩa. Âm Dương, tự nhiên luôn tồn tại "thái quá" và "bất cập", đối lập tạo nghĩa của Âm Dương cũng theo quy luật của tự nhiên, Âm thái quá và bất cập, cũng như Dương thái quá và bất cập, hình thành bốn trạng thái: Thái âm, Thiếu dương, Thái Dương, Thiếu âm. Trong tự nhiên, đặc thù mang tính khái quát cao đó là "nước", luôn luôn giữ được sự "thăng bằng". Trời 1 ở Bắc, Đất 2 ở Nam, Trời 3 ở Đông, Đất 4 ở Tây, Trời 5 ở Trung tâm, Đất 6 ở Bắc.

...

ỨNG DỤNG TIÊN THIÊN - HẬU THIÊN

Can Chi Năm-Tháng-Ngày-Giờ nạp quẻ Dịch

Ví dụ: Năm Kỷ Sửu 2009, tháng Kỷ Tị, ngày Canh Tý, giờ Mậu Tuất.

- Năm Kỷ Sửu, nạp quẻ Hỏa thủy Vị tế, có số thứ tự là 43, có số thực dụng là 37.

- Tháng Kỷ Tị, nạp quẻ Thủy Lôi Truân, có số thứ tự là 30, có số thực dụng là 78

- Ngày Canh Tý, nạp quẻ Lôi Phong Hằng, có số thứ tự là 36, có số thực dụng là 82.

- Giờ Canh Tuất, nạp quẻ Phong Hỏa Gia nhân, có số thứ tự là 21, có số thực dụng là 23.

+ Thiên Can: Kỷ - Kỷ - Canh - Canh nạp số thực dụng là 3-7-8-2, đã hội đủ TAM QUÝ: Sinh khí - Thiên y - Diên niên (Tham Cự Vũ)

+ Địa chi: Sửu - Tị - Tý - Tuất nạp số thực dụng là 7 -8- 2- 3, cũng hội đủ Sinh khí - Diên niên - Thiên y (Tham-Cự-Vũ)

...

Ý NGHĨA CỦA SỰ KẾT HỢP

CẶP SÔ KÊT HƠP

16, 27, 38, 49 là sao Tham lang, thần là Sinh khí (hào 3 biến)

12, 34, 67, 89 là sao Liêm trinh, thần là Ngũ quỷ (hào 2 – 3 biến)

19, 28, 37, 46 là sao Vũ khúc, thần là Diên niên (3 hào đều biến)

13, 24, 68, 79 là sao Văn khúc, thần là Lục sát (hào 1 – 3 biến)

18, 29, 36, 47 là sao Lộc tồn, thần là Họa hại (hào 1 biến)

14, 23, 69, 78 là sao Cự môn, thần là Thiên y (hào 1 – 2 biến)

17, 26, 39, 48 là sao Phá quân, thần là Tuyệt mệnh (hào 2 biến)

1- Sinh khí – Tham lang: phát sinh sự quan hệ về vật chất hay tinh thần, như có tiền, có tiền để trả nợ,… hay gặp gỡ đồng nghiệp, bạn cũ, chiêu đãi, …Sức khỏe tốt, sinh tài thêm đinh. Là những điều kiện sinh sôi, nảy nở, tiến hành thuận lợi, cây côi tươi tốt, chăn nuôi phát triển,…

2- Ngũ quỷ - Liêm trinh: là 5 thứ tà khí quấy rối sự sống, quấy rối quan hệ con người với con người, thường gây ra sự bực mình, rắc rối (do bị tai nan, mất mát, kiện thưa, cãi vã, vạ miệng,…), đi họp đi công tác, công việc bận rộn. Hay bị tai nạn nếu gặp thêm Ngũ hoàng (số 5)

3- Diên niên – Vũ khúc: là chủ về sự bền vững dài lâu, sức khỏa vững vàng, trường thọ, sự may mắn trong các mối quan hệ tình cảm gia đình và xã hội có tính bất ngờ (như trúng số, hay bị tai nạn mà người thì không bị sao,…) {chỉ Chấn và Tốn kết hợp mới được trường thọ bách niên}

4- Lục sát – Văn khúc: là sự thiệt hại những gì thuộc phạm vi chủ thể có trách nhiệm chăm sóc: như con cái, gia súc, cây trái,…là sự cản trở, công việc trái với ý định ban đầu, quan hệ bị xấu đi do tác động của bên ngoài. Tâm trạng thường bất an, công việc khó có kết quả (va chạm xe cộ).

5- Họa hại - Lộc tồn: là sự thiệt hại, hao tán tài vật thuộc quyền chủ thể quản lý sử dụng. Thiệt hại về vật chất hay tinh thần (trả tiền, mất tiền, đồ đạc đang sử dụng tự nhiên bị hư hỏng, cãi vã về đồ đạc, thị phi điều tiếng,…), phải đi xa, tổn tài, dễ mắc bệnh tật.

6- Thiên y - Cự môn: là sự giải thoát những vướng mắc trong đời sống mọi mặt. Người xưa cho rằng Thiên y như là một lực âm phù đã theo sát để cứu nguy. Giả thoát khỏi sự bế tắc. Đúng lúc gay go nhất, bí nhất, nan nguy nhất thì lại có cơ hội để vượt được qua như vật chất hay tinh thần. Có lợi cho sức khỏe, ít bệnh hay nếu có bệnh thì mau khỏi. Tâm lý ổn định, đạo đức lành mạnh.

7- Tuyệt mệnh – Phá quân: sức khỏe suy giảm, sự nghiệp trở ngại, tai nan, tình cảm hay các mối quan hệ bị xấu đi, bị người trở mặt, gặp sự chia lìa, gặp khách không mời mà đến,…, nhưng những việc lớn trong đời lại thường đến vào thời điểm này, tùy theo mệnh cục của mỗi người mà gặp hung hay cát.

8- Phục vị: là khí chất sinh học theo tự nhiên, mọi việc diễn tiến bình thường, nếu gặp tốt thì sẽ tốt, nếu gặp xấu thì sẽ xấu, căn cứ phụ thuộc vào các mối quan hệ và tại thời gian, thời điểm ảnh hưởng vào lúc đó. Ví như ngày là Phục vị, mà gặp tháng hay năm là Thiên y, thì sẽ thuộc về Thiên y, còn nếu gặp năm, tháng hay giờ là Ngũ quỷ, thì sẽ là Ngũ quỷ. Tuổi Khôn Cấn hay có sự va chạm nhất về xe cộ.

...

Đất và Trời giao nhau thì thái bình (Địa Thiên Thái), Sấm (lôi) và Gió (phong) giao nhau thì lâu dài (Lôi Phong Hằng), Thủy và Hỏa giao nhau thì vượt qua (Thủy Hỏa Ký tế), Đầm (trạch) và Núi (sơn) giao nhau thì trai gái cảm nhau (Trạch Sơn Hàm). Cứ một âm một dương gọi là Đạo, là con đường của sự điều chỉnh.

Dương sinh ở Đông mà thịnh ở Nam ; Âm sinh ở Tây mà thịnh ở Bắc ; trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, rồi Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng, rồi Bát quái, đều là tự nhiên mà có.

Hà đồ giải thích sự sinh thành của Ngũ hành: “Thiên 1 sinh Thủy, địa 6 đã thành ; Địa 2 sinh Hỏa, Thiên 7 đã thành ; Thiên 3 sinh Mộc, Địa 8 đã thành ; Địa 4 sinh Kim, Thiên 9 đã thành ; Thiên 5 sinh Thổ, Địa 10 đã thành”.

Lạc thư: “Dọc ngang đều là 15, mà 7, 8, 9, 6 lặp lại là giảm đi. Hư 5 chia 10, mà 1 hàm 9, 2 hàm 8, 3 hàm 7, 4 hàm 6, như vậy tham ngũ tổng hợp. Đan xen không thích hợp thì không gặp số hợp của nó.

Vạn vật sinh – thành đều có số và môi trường tồn tại, sinh - tử tồn vong, đủ số thì sinh, số tăng thì trưởng, số giảm thì suy, số hết thì mất. Thịnh suy được mất tất cả đều ở số.

Thiên thời, tức là sắp xếp sử dụng thời gian Năm – Tháng – Ngày - Giờ

...

Thiệu Ung viết: “Cái gọi là cung vị Mậu là ở hai ngôi sao Khuê (Tuất) và sao Bích (Hợi). Cung vị Kỷ là ở hai sao Giác (Thìn) sao Chẩn (Tị).

Khuê Bích là thời tiết giữa Lập thu đến Lập đông. Giác Chẩn là giữa Lập xuân đến Lập hạ, vì vậy là cửa ngọc của Trời Đất.”

Ngày dài thì thời tiết ấm áp, vạn vật phát sinh, đều bắt đầu từ cung vị sao Khuê sao Bích (Tuất - Hợi). Ngày ngắn thì thời tiết giá lạnh, vạn vật thu tàng, đều bắt đầu từ cung vị sao Giác, sao Chẩn (Thìn - Tị), vì vậy mà nói rằng: tiết Xuân phân thì chủ “mở”, tiết Thu phân thì chủ “đóng”.

Từ sao Khuê – Bích đi về phương Nam, mặt Trời là đạo Dương, vì vậy gọi là Thiên môn. Từ sao Giác - Chẩn đi về phương Bắc, mặt Trời là đạo Âm, vì vậy gọi là Địa hộ.

Từ cung vị sao Khuê, sao Bích, và can Mậu thì bắt đầu ngày dần dài ra, khí Dương thịnh dần, giống như là mở cửa Trời. Đến cung vị sao Giác, sao Chẩn, can Kỷ thì ngày dần ngắn lại, khí Âm thịnh dần, khí Dương thu bế, giống như mở cửa Đất. Cho nên gọi là Thiên môn Địa hộ.

Thuyết Thiên môn Địa hộ trình bày: “do Âm xuất Dương, do Dương nhập Âm”, thể hiện quy luật thịnh suy, chuyển hoá, tiêu trưởng Âm Dương bốn mùa. Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Nguyên lý này cùng ý nghĩa với “dương trưởng thì âm tiêu”, “âm tiêu thì dương trưởng”.

Cái máy của tạo hoá không thể không có sinh, cũng không thể không có chế ước. Không có sinh thì không có sự phát triển, không có chế ước thì sự phát triển cao lên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được.

Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương?

Quá trình sinh mệnh của con người từ khi sinh ra, lớn lên, khoẻ mạnh, già yếu và chết, cũng là giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương, từ Dương bắt đầu sinh, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng, đến Âm bắt đầu sinh, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh.

Nguyên lý Thái cực sinh ra Âm Dương, Âm Dương hoá hợp sinh ra Ngũ hành, Ngũ hành hàm chứa vạn vật. Khí hoá vận hành, Âm Dương thăng giáng: “Thuỷ là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực âm. Hoả là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương. Mộc chủ thăng phát, nên ở trên, ứng với vị trí phương Đông. Kim chủ thu giáng, nên ở bên phải, ứng với phương Tây. Thổ là mẹ của số thành, nên ở giữa.

Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh biến hoá.

Kỳ số

Nhất Lục cư hạ, Nhị Thất cư thượng, Tam Bát cư tả, Tứ Cửu cư hữu, Ngũ Thập cư trung. Phục hy tắc chi, dĩ họa Bát quái.

Số sinh từ 1 đến 5, tượng trưng sự phát sinh của vạn vật. Số thành từ 6 đến 10, tiêu biểu cho sự hình thành của sự vật. Thổ là nơi vạn vật bắt đầu sinh ra. Thổ là gốc của số sinh, cho nên số sinh và số thành đều là “5”.

Số dương của Hà đồ sinh ở “1”, cực ở “9”. Số âm sinh ở “2”, cực ở “8”. Lấy “9” làm cực của số dương, là bắt đầu của số âm.

...

Mô hình “từ trong ra” là mô hình mở, đi ngược chiều kim đồng hồ, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Khác với chiều vặn đi vào, đi thuận chiều kim đồng hồ, từ trái sang phải, là mô hình đóng.

Khi xét việc đã qua phải theo trật tự thuận, đi theo các con số lớn dần, (tức là chiều từ âm đến dương). Còn khi xét việc sắp tới thì phải theo trật tự nghịch của các con số, đi theo các con số nhỏ dần.(tức là chiều từ dương sang âm)

Theo nguyên tắc cơ chế tâm truyền, mọi thông tin đều phải từ giữa phát ra, đây là thời điểm xẩy ra sự việc. Nếu lấy thời điểm này mà xét, thì việc trở về quá khứ của sự việc, là trở về những quẻ đã sinh, tức là những quẻ ta đã biết trước. Như vậy phải là những quẻ ở miền dương, tức là từ Chấn-4 đến Ly-5, đến Đoài-6, rồi đến Càn-7. Đi từ Chấn đến Càn là miền Dương, là đi theo chiều thuận của các con số 4-5-6-7 là chiều các con số lớn dần.

Khi muốn xét tương lai của sự việc đang xẩy ra thì phải theo hướng các quẻ chưa sinh, tức là những quẻ chưa biết. Như vậy phải là những quẻ ở miền âm, tức là từ Tốn-3 đến Khảm-2, rồi đến Cấn-1, và đến Khôn-0, tức là đi theo chiều ngược của các con số (chiều các con số nhỏ dần 3-2-1-0), như người kể ngược bốn mùa vậy!

Càn-7, Đoài-6, Ly-5, Chấn-4, Tốn-3, Khảm-2, Cấn-1, Khôn-0.

<-- <-- <-- <-- --> - - -> - - -> - - ->

Khi ta cho rằng Chấn-Tốn là thời điểm hiện tại của sự việc thì, muốn biết tương lai phải đi theo chiều nghịch của các con số, tức là chiều các con số giảm dần cùng với các quẻ tương ứng của chúng. Cũng có thể tìm hiểu quá khứ của sự việc để đoán biết tương lai thông qua các quẻ đối xứng, là các quẻ biến dịch hay “quẻ đối” phản của chúng, vì quy luật sinh-thành của các con số là đối xứng từng cặp một, các con số đều có hai miền đối xứng: quá khứ và tương lai so với thời điểm xẩy ra. Tìm hiểu quá khứ để biết được tương lai, đây chính là chìa khóa của Dịch.

Mặt trời mọc từ Đông sang Tây, là quy luật của tạo hóa, là từ tối đến sáng, là từ âm đến dương, từ “không” đến “có”; giai đoạn này được gọi là “ quẻ đã sinh”, đây là trật tự thuận. Ngũ hành thuận bắt đầu từ: Thổ - Thủy - Mộc - Hỏa – Kim. Giai đoạn quẻ chưa sinh bắt đầu bằng trật tự từ Tây sang Đông, từ sáng đến tối, ngũ hành ngược lại là: Kim-Hỏa-Mộc-Thủy-Thổ. Nên nói Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 thì đều được các quẻ chưa sinh, như người kể ngược thứ tự bốn mùa vậy. Đây là thứ tự của quẻ chưa sinh.

Quy luật của tự nhiên tiến từ “không” đến “có”, cái “không” thuộc âm, cái “có” thuộc dương. Âm Dương cũng là trạng thái “đóng - mở” của tạo hóa. Tạo hóa tiến từ trạng thái “đóng” sang trạng thái “mở”, từ không đến có, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Cái “có” đầu tiên thuộc về Dương, nó tương ứng với số 1, là số lẻ, số cơ.

Vạn vật hiện hữu quanh ta thì muôn hình vạn trạng theo từng chủng loại, theo từng loài. Tất cả, đều xuất phát từ sự “sinh-thành” và vị trí ban đầu của các con số trong không gian, cũng như quy luật biến hóa theo “tượng âm dương” của chúng.

Biến Dịch là vòng tuần hoàn lớn của Tạo hóa, Càn Khôn đóng vai trò mở đầu và kết thúc những quá trình lâu dài. Đối với đời người cũng như vạn loại sinh giới, sự biến dịch từ Càn tới Khôn, đồng nghĩa với sự kết thúc chu trình sống này, để chuyển sang một chu trình sống khác. Sự biến dịch từ Âm sang Dương hay từ Dương sang Âm, là sự biến đổi về bản thể các tượng số, luôn luôm tiệm tiến trải qua 10 giai đoạn.

Suy nghĩ về bát quái

Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay.

Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”.

Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”.

Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này.

“Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông.

Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng.

Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946).

Posted Image

Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành.

Posted Image

Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9..

Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1

Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ.

Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng?

Bảng mã sẽ là:

Posted Image

Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn

Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.....6.... 7..... 8...... 9...

Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1...

Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích.

Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây:

- Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ.

- Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn.

Có thể xét thêm hai điều kiện phụ:

- Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm.

- Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới.

Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ:

- Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2.

- Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25.

- Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3

- Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới.

Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách:

- Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc).

- Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau:

Posted Image

Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn...

Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950

Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529

Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được:

Posted Image

............Quẻ dương...................................... Quẻ âm.............................

Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546

Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219)

Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529)

Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264)

Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung).

Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này.

Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./.

Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm

...

Một danh xưng khi bàn về Dịch, đó là phép xem Hồng phạm, dùng hai chữ "trinh, hối". Trong đó "trinh" tức là tĩnh, còn "hối" tức là động.

Nội dung chính của sánh căn cứ theo hai nghĩa “biến dịch” và “không biến dịch” làm chuẩn mực để làm sáng tỏ lẽ động và tĩnh của nhân sự. Cho nên, sách có nói, số cơ ngẫu là 7, 8 vậy, giao trùng là 6, 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7, 8 là “không biến dịch”, hào vạch theo số 6, 9 là "biến dịch" vậy. Quẻ tuy “không biến dịch”, mà bên trong có “biến dịch”, thì có nghĩa là "hối ". Hào tuy “biến dịch”, mà trong lại có cái "không biến dịch”, thì gọi là “trinh”.

Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ có dùng. Khi thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ có xử. Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt. Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đầu cho thoát được. Đó là nghĩa lý thâm sâu vi tế mà Thánh nhân làm Dịch vậy.

...

Hàm nghĩa cơ bản của “thần” là chỉ sự biến hoá. Sự biến hoá của “thần” được khởi nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ thượng: “Không suy đoán dược âm dương được gọi là thần”. Ý nghĩa của sự biến hoá, không những biểu thị “không lường được” biến hoá của âm dương, mà còn chứng tỏ sự biến hoá của vạn vật cũng rất diệu kỳ. Thần, chính là sự biểu hiện biến hoá tới những chi tiết nhỏ nhất của vạn vật, đạt tới đỉnh tối cao của tinh thần. Đây chính là: “cùng thần tri hoá, đức chi thịnh dã” (thần biến hoá đến tận cùng, để đạt được đức tối đa). Số chẵn, số lẻ và hào tượng cương nhu, sự biến hoá kỳ diệu của nó rất khó đoán định, cũng gọi là “thần”. Khi hào tượng biến hoá, trước tiên cũng khó xác định được: hào nào là hào Lão âm (6), hào nào là hào Lão dương (9), mà gốc nguồn cũng bởi âm dương rất khó đoán định. Tính chất biến hoá khôn lường của âm dương, Kinh Dịch gọi là “đạo”, còn Hệ từ” gọi là “thần”. Nên có câu “người biết đạo của biến hoá, thì hiểu được hành vi của thần”. Trời Đất vận hành, vạn vật động – tĩnh, đều là tự tạo - tự chuyển dịch - tự hoá, để thích nghi với môi trường của tự nhiên; Nó không phụ thuộc vào sự điều khiển chủ quan của ý chí con người, mà cùng chựu sự tác động qua lại, chi phối bởi tính chất của tự nhiên. Nguyên nhân của sự biến hóa khôn lường này, cũng được gọi là “thần”.

...

Thiên nhiên, cơ chế của tạo hoá luôn thấy ở "sinh," đồng thời cũng luôn thấy ở "chế ước". Không có "sinh" thì không có sự phát triển, không có "chế ước" thì sự phát triển thái quá mất đi tính quy luật của tự nhiên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được. Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương? Giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương. Từ Dương bắt đầu sinh do Âm xuất Dương, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng; rồi đến Âm bắt đầu sinh do Dương nhập Âm, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh. Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh "biến" và "hoá".

...

Âm Dương có nguồn gốc từ động tĩnh. Thịnh suy có nghĩa là đắp đổi lẫn nhau, nuôi nhau, cái này nương tựa vào cái kia mà biến thông, nhờ biến thông nên phối hợp với Bốn mùa. Âm thắng Dương thì Tĩnh, Âm thịnh thì nhu. Dương thắng Âm thì Động, Dương thịnh thì cương. Động đúng quy luật thì việc gì cũng thắng, động sai quy luật thì việc gì cũng hỏng. Động gây họa phúc, động tạo ra hưng thịnh hay diệt vong cũng là ý nghĩa ấy. Tại Thiên thì Dương động mà Âm tĩnh, Âm sinh ở trên. Tại Địa thì Dương tĩnh mà Âm động, Dương sinh ở dưới. Thăng giáng gây nên sự biến hóa. Thăng chủ sinh, giáng chủ tiêu. Do vậy, vạn vật đều phản sinh.

...

HÒA

Vạn vật luôn luôn sống động theo những hòa điệu nhịp nhàng. Heraclitus, nhà triết học cổ Hy Lạp, cho rằng tính năng động tuần hoàn của những cặp siêu lực đối nghịch là nguyên nhân của sự sống động của vũ trụ

Triết học Đông phương cũng có niềm tin tương tự. Triết học Trung Hoa cho rằng vạn vật luôn luôn biến hóa năng động nhịp nhàng giữa hai thái cực âm dương. Triết học Phật giáo thì có đạo trung dung biểu hiện qua Bát Chánh Đạo.

Khái niệm về một vũ trụ hài hòa và sống động cũng được biểu hiện trong những triết học cận đại. Saint-Simon nhìn những lịch sử văn minh nhân loại như những xen kẻ giữa những thời kỳ “hữu cơ” và những thời kỳ “khủng hoảng”. Herbert Spencer nhìn vũ trụ như đang biến đổi theo những thời kỳ thăng trầm hợp tan. Hegel thấy lịch sử nhân loại phát triển theo hình xoắn ốc từ hợp nhất đến phân hóa rồi trở lại hợp nhất ở một mức độ cao hơn. Toynbee thấy được những thăng trầm tuần hoàn của các nền văn minh nhân loại. Sorokin thấy được sự thăng trầm tuần hoàn của những nền triết học duy vật và duy linh.

Đạo, là quá trình biến đổi liên tục của vũ trụ, trong đó vạn vật biến đổi hài hòa trật tự giữa hai thái cực âm dương. Khi dương thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về âm. Tương tự, khi âm thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về dương. Âm dương điều hòa chính là Đạo. Những thái cực âm và dương không phải là hai thái cực riêng rẻ độc lập. Trái lại, chúng là hai giới hạn của một thể thống nhất. Quá trình biến đổi của mỗi hiện tượng hay sự vật là những dao động không ngừng giữa hai thái cực đó. Quá trình của một hiện tượng hay sự vật kể cả chúng ta, dù nam giới hay nữ giới, đều có cả âm tính lẫn dương tính. Dịu dàng, trực cảm, tổng hợp, hợp tác, bảo tồn là những âm tính. Hung hăng, thuần lý, phân tích, cạnh tranh, khai thác là những dương tính. Âm tính và dương tính liên hệ mật thiết với hai loại tâm thức tương ứng trong mỗi chúng ta. Chúng bổ sung lẫn nhau, phản ảnh những tầm nhìn, lời nói, hành động của chúng ta.

Xã hội đương thời của chúng ta dường như đang ở vào thời kỳ dương thịnh, một xã hội dựa trên phát triển khoa học kỹ thuật để cạnh tranh khai thác tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm và gây hại môi trường sống. Phương pháp phân tích dường như vẫn được tận dụng so với phương pháp tổng hợp. Điều này làm xã hội mất đi sự hài hòa âm dương, do đó trì trệ sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y học, kinh tế, chính trị, quân sự, v.v.

Sự nhấn mạnh vào triết học Descartes phân chia ranh giới giữa tri thức và vật chất đã dẫn đến quan điểm trong đó vũ trụ được xem như một hệ thống cơ khí với những vật thể được xem như những bộ phận riêng rẻ. “Cái tôi” của mỗi người được dựng nên như để tượng trưng cho phần hồn của mình với đầy đủ đầu óc phán đoán suy luận. Phần xác được xem như thứ yếu. Dần dần con người quên đi cái bản chất thực sự của suy tư là, không những xuất phát từ toàn bộ con người chúng ta mà còn từ môi trường chung quanh chúng ta nữa. Từ đó, chúng ta xem cơ thể chúng ta như những chiếc máy cơ khí, và xem thiên nhiên quanh chúng ta như độc lập với chúng ta, cần được chế ngự và khai thác triệt để.

Chúng ta tin rằng tính chất cục bộ có thể hoàn toàn xác định tính chất của toàn bộ. Do đó, chúng ta xem nhẹ mối tương quan mật thiết giữa những cơ cấu xã hội như giáo dục, văn hóa, y tế, kinh tế, chính trị, quân sự. Chúng ta xem trọng phẩm lượng và xem nhẹ phẩm chất. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng tương tự, các nhà nghiên cứu dường như xem những ngành chuyên môn khác không dính dáng gì đến ngành mình đang nghiên cứu. Môn hình học vị tướng chẳng hạn, trước đây được xem như một sản phẩm thuần túy của trí tuệ, độc lập với các ngành nghiên cứu khoa học. Bây giờ họ đã thấy tầm quan trọng của hình học vị tướng được áp dụng hữu hiệu trong nhiều ngành khoa học.

Thời xưa, thiên nhiên và nhất là địa cầu được xem như một người mẹ hiền hòa nuôi dưỡng chăm sóc sự sống trên địa cầu. Cổ Hy Lạp có nữ thần Gaia tượng trưng cho mẹ địa cầu. Vào thời cận đại, dương thịnh âm suy, thiên nhiên và mẹ địa cầu bị thống trị. Nam giới chiếm ưu thế. Capra cho rằng quan điểm này được Do Thái giáo và Ky Tô giáo ủng hộ, và do đó Thượng Đế được nhân cách hóa thành một nam giới, thống trị thiên nhiên bằng những định luật nhiệm mầu với những suy lý và quyền lực tối cao. Những định luật khoa học tự nhiên được xem như phản ảnh của những định luật nhiệm mầu đó của Thượng Đế. Ngày nay, thời dương thịnh đó dường như đã đạt đến mức tối đa và đã bắt đầu suy thoái. Nhiều người không còn tin rằng Thượng Đế là một nam giới đầy phép nhiệm mầu nữa. Kaku cho rằng sở dĩ khoa học và tôn giáo khó thông cảm nhau bởi vì khoa học tin vào một “thượng đế của trật tự” trong lúc tôn giáo tin vào một “thượng đế của phép lạ”.

Dường như văn minh nhân loại đã chuyển mình hướng về sự điều hòa âm dương. Đã đến lúc phân tích cần được phối hợp với tổng hợp, cạnh tranh phối hợp với hợp tác, thuần lý phối hợp với trực cảm, khoa học phối hợp với tôn giáo, nam tính phối hợp với nữ tính, văn hóa phối hợp với sinh hóa, v.v.

Tâm Đàn.

...

Lời của Đại tượng truyện 64 quẻ Dịch luôn hướng tới HÒA.

Tâm cảm.

...

Tự nhiên vốn tĩnh, đó là gốc của Đạo. Tĩnh sinh ra động, thế rồi Động sinh ra Trời Đất, mà sinh ra muôn loài. Vạn vật đoạt Khí của Trời Đất, con Người đoạt chất của vạn vật, vạn vật đoạt Khí lực của con người. Đây có phải cái lý tương sinh, tương dưỡng, tương thành của Tam tài: Trời Đất Người. (?) Có thể, Đạo Tam tài là kết cấu tạo nên một quái Dịch, có cấu tạo ba Hào. (!) Tâm sự.

...

DỊCH HỌC HỌ HÙNG VIẾT:

Tam Tòa hay Tam Tài

Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học.

1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác.

1 → 3 → 5 → 9

thái cực → tam tài → ngũ hành → cửu trù

1 cục →3 tòa → 5 hình → 9 chỗ

Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba.

Xã hội < = > Con người < = > Tự nhiên.

Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là: “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng.

Ở Âm mà vô Âm, Âm do đó được sinh ra. Ở Dương mà vô Dương, Dương do đó mà hình thành. Khi nói "nhất Âm nhất Dương", tuy là hai Khí, xong thường lấy cái nhất làm Đạo ở hư vô để sử lý. Theo thuộc tính riêng của vạn vật, khi ta làm một chiếc bàn gỗ, đứng ở quan điểm gỗ là "phá", nhưng đứng ở quan điểm cái bàn là "thành". Như vậy, "phá" và "thành" cũng là tương đối ở trong tình trạng biến đổi không ngừng, như Dịch đã bàn đến.

Nhất Tĩnh - Tam Động - Ngũ ứng - Cửu thông.

Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn

Hà Uyên mới tham gia vào diễn đàn này, với những bầy tỏ của Liêm Trinh, trong quá trình nghiên cứu vì sự yêu thích cá nhân của mình, Hà Uyên xin được chia sẻ cùng Liêm Trinh.

Chắc Liêm Trinh cũng hiểu cấu tạo của quẻ Dịch có 6 hào, khi một hào (hay nhiều) động, thì đều phải trải qua 10 quá trình. Ví dụ: quẻ Trạch Sơn Hàm động hào 2:

- Ta coi quẻ Trạch Sơn Hàm là số 1, theo thứ tự đến số 2 là quẻ Quan hào 3, đến số 3 là quẻ Tỷ hào 4, đến số 4 là quẻ Khôn hào 5, đến số 5 là quẻ Bác hào 6, đến số 6 là quẻ Di hào 1, đến số 7 là quẻ Tổn hào 2, đến số 8 là quẻ Đại súc hào 3, đến số 9 là quẻ Đại hữu hào 4, đến số 10 là quẻ Càn hào 5, đến số 11 là quẻ Quải hào 6, và cuối cùng đến số 12 là quẻ Đại quá hào 1.

- Như vậy, khi độn được 1 quẻ như ví dụ trên, quá khứ đã để lại cho chúng ta: hào âm biến thành hào dương, hào dương biến thành hào âm, gieo quẻ được quẻ Hàm hào 2 được quẻ Đại quá.

- Khi ta coi quẻ Hàm là "đầu", thì quẻ Đại quá là "cuối", nhưng thực chất bên trong đã phải trải qua 10 quá trình (10 quẻ)

- Trong 10 quá trình phải trải qua này, có 2 quẻ động đến hào 6, đó là quẻ Bác theo thứ tự là số 5 và quẻ Quải theo thứ tự là 11. Vấn đề ở đây, tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ hành, thì không cho biến động đến hào 6?

- Khi từ quẻ cuối cùng có số thứ tự là 12, là quẻ Đại quá, ta tiếp tục cho động hào 2 thì lại trở về quẻ ban đầu là Trạch Sơn Hàm hào 2. (1 = 13)

Như vậy, theo Liêm Trinh, thông tin được bộc lộ từ quẻ Dịch, chúng ta sẽ chon lựa điểm dừng ở đâu?

Mỗi một hào quẻ Dịch luôn chuyển hóa 12 lần, một quẻ có 6 hào, vậy một quẻ Dịch có 72 sự chuyển hoá. Do vậy 64 quẻ Kinh Dịch sẽ có 4608 sự chuyển hoá.

Mong được chia sẻ cùng Liêm Trinh, có thể chưa được sự đồng cảm, cũng mong sao Liêm Trinh góp ý thêm.

...

Cùng được bộc lộ thêm với Liêm Trinh, khi Hà Uyên có nói: 1 = 13 Tulokho có 52 quân bài (bỏ 2 fan), khi chia làm 4 thì được 4 phần, mỗi phần có 13 con bài, nếu ta coi f - q - k - a có trị số bằng 1 (f = q = k = A = 1). Chia 52 quân bài làm 2 phần bằng nhau (52/2=26). Lấy 1 phần có 26 quân bài, rút 1 quân bài xem. Xem xong, trộn đều 52 quân, thì ta vẫn tìm được con bài mà ta đã rút ra xem. Người Ấn độ nói: muốn học lập trình ở đất nước họ, thì phải hiểu văn hóa dân tộc của họ. Hà Uyên thấy có mối liên hệ giữa Kinh Dịch và 52 quân bài. Liêm Trinh có nghĩ như vậy không?

..

Vâng, chào Liêm Trinh.

Để thống nhất được với nhau về phương pháp tính toán, Hà Uyên xin được trình bầy theo quan điểm của mình, mong rằng các anh chị, cùng Liêm Trinh chia sẻ:

- Khi bốc Dịch được một quẻ, ta coi là số 1, thì quẻ số 7 luôn luôn là quẻ "đối phản".

Theo ví dụ mà Hà Uyên đã trình bầy, bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2, thì quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn, cũng động hào 2 (Thất sát)

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

Theo như quá khứ đã cho chúng ta biết, Quan quỷ động hóa Tử tôn, nhưng quẻ thứ 7 lại cho chúng ta thông tin về Thê tài. Thông qua quá trình trải nghiệm với nhiều môi trưỡng và lĩnh vực khác nhau, Hà Uyên cũng nhận thức được một số quy luật, xin được trình bầy sau.

- Sự thông "khí" của quẻ Dịch

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Trạch Sơn Hàm (không xét thuộc cung Đoài - Kim), động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ

2- Trạch Địa Tụy hào 3 là Huynh đệ Dậu

3- Thủy Địa Tỷ hào 4 là Tử tôn Thân

4- Thuần Khôn hào 5 là Thê tài Hợi

5- Sơn Địa Bác hào 6 là Thê tài Dần

6- Sơn Lôi Di hào 1 là Phụ mẫu Tý

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Dần

8- Sơn Thiên Đại súc hào 3 là Huynh đệ Thìn

9- Hỏa Thiên Đại Hữu hào 4 là Huynh đệ Dậu

10- Thuần Càn hào 5 là Huynh đệ Thân

11-Trạch Thiên Quải hào 6 là Huynh đệ Mùi

12- Trạch Phong Đại quá hào 1 là Thê tài Sửu

Khi ta lấy quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn làm "Trung Tâm", từ vị trí thứ 7 ta tiệm tiến thuận 7-8-9-10-11-12 và tiệm tiến nghịch 7-6-5-4-3-2-1, ta sẽ có 2 phương pháp để suy luận thông tin.

Hà Uyên xin phép sẽ cùng luận bàn sau.

...

Hà Uyên xin được trình bầy tiếp:

- Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự. Thì nẩy sinh rất nhiều điều kỳ lạ về thông tin. Liêm Trinh thử nghiệm cùng nhé.

- Kinh Phòng khi nạp Ngũ hành vào quẻ không cho "khí" Dịch phát triển đến hào 6. Hà Uyên sẽ trình bầy quan điểm ở một chuyên đề khác nhé.

...

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

13- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ

..

Hà Uyên tản mạn thêm. Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự 12 cung từ Tý, Sửu,..., đến cung Hợi. Như chúng ta đã biết, tổng số tối đa của môn Tử vi chỉ có 512640 bảng là số. Khi áp dụng mối quan hệ thông tin giữa Tử vi và Bốc Dịch, thì thống kê được: 512 640 x 4 608 = 2 052 245 120 So sánh với 6 tỷ người, mức độ tin cậy cần phải thống kê thêm.

...

Xin chào các Anh các Chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VIETHA. Quá trình nghiên cứu những gì Người xưa để lại, với sự đam mê tìm hiểu của mình mang tính cá nhân, Hà Uyên trong mục đích, không mang tính chuyên nghiệp. VIETHA có viết: "nguyên tắc trong gieo quẻ Dịch là: Tâm không động không được gieo, nếu gieo quẻ thì không chính xác". Xét về Ngôn ngữ học, tại thời điểm quyển sách được viết ra cho tới ngày hôm nay, đã để lại những "quy định" cho mỗi một người khi đọc, tiến tới thử nghiệm, rồi trải nghiệm, đều có những đắng cay riêng. Xét về mặt "thời gian", từ Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Trần Đoàn, Thiệu Ung cho tới Thiệu Vĩ Hoa, cũng chỉ có mấy con người để lại những kiến thức mà chính chúng ta đang quan tâm. Hà Uyên cũng có tìm hiểu về: thế nào là "Tâm không động"? Hà Uyên đọc, trong đó có quyển HUỲNH ĐÌNH KINH dịch từ nguyên tác tiếng Đức, cũng thấy rất nhiều vấn đề cần phải bàn về "TÂM" động và không động. Hà Uyên thấy rất lạ, một Người đàn ông quốc tịch Đức ở Thế kỷ 16, sau khi nghiên cứu về Thiệu Ung, lại thấy đồng cảm và đồng thuận về HỆ NHỊ PHÂN. Và ngày hôm nay, chính chúng ta đang được hưởng những lợi ích hết sức to lớn. Vấn đề VIETHA quan tâm là một khoảng trời rộng lớn, Hà Uyên xin phép được chia sẻ khi chúng ta cùng đồng thời có một sở thích.

...

Chào Liêm Trinh Cảm ơn Liêm Trinh đã dành thời gian cho Hà Uyên. Khi giao lưu trên diễn đàn này, Hà Uyên không hề có ý gì về "mưu lược". Hà Uyên chỉ bộc lộ quan điểm của mình: tại sao Trần Đoàn lại cấu tạo 12 cung trong môn TỬ VI, tại sao THÁI ẤT lại có cấu tạo 16 cung? Hà Uyên đã nhận thức được KINH DỊCH là gốc nguồn của các môn học thuật: 1 = 13. Tại sao Trần Đoàn trong môn TỬ VI, vòng Tứ hóa: LỘC-QUYỀN-KHOA-KỴ lại căn cứ vào Can của Năm để an sao.? Năm nay 2009 - Kỷ Sửu, Hóa kỵ an theo GIỜ, như vậy vào giờ Thân chiều nay, Hà Uyên gặp Hóa Kỵ rồi.

...

dichnhan07, on May 5 2009, 05:34 PM, said:

Bàn về Mai Hoa Dịch Số, trong lòng có thắc mắc nghi vấn điều gì đó đã có thể coi là Tâm động, giả sử có người cho rằng Tâm mình vẫn chưa thật động, chẳng lẽ lại phải đi cầu cho Tâm động thật mạnh hay sao?. Lập quẻ xong, nếu chỉ căn cứ vào quẻ đó thì e rằng phiến diện chủ quan nên cần thêm các phương pháp hỗ trợ đảm bảo, đó là Tam Yếu và Thập Ứng. Mai Hoa Dịch Số chỉ nói tới các sự việc bất thường, xem việc gần mà biết việc xa. Luận sự việc không nhiều được như lục hào hay các môn khác nhưng để trắc nghiệm một điều nghi vấn thì rất tiện lợi. Nói không luận được nhiều đó là nói về phương pháp lấy quẻ chủ động chứ không phải theo như các quẻ ví dụ trong sách Mai Hoa Dịch Số, phương pháp khác nhau do lý dùng khác nhau, điều này cần phải phân biệt rõ.

Vâng, xin chào dichnhan07.

Thú thực, Hà Uyên hầu như rất ít khi BỐC DỊCH, mà đã dành thời gian rất nhiều để tự trả lời với chính mình rằng: Tại sao (?) "Quá khứ - Hiện tại - Tương lai", khi nào thì hội tụ thành 1, có nghĩa là:

Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1

Có thể, chỉ có như vậy, thì các môn Học thuận mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta một sân chơi, mà không biết bao nhiêu Thế hệ, đều có rất nhiều Người đã dành THỜI GIAN về chủ đề này.

Khi đã và đang có số " 1 ", loài Người lại luôn luôn hướng về số " 0 "

Cảm ơn dichnhan07.

...

Liêm Trinh viết "Tôi gieo một que đơn thấy Hà uyên suất hiện ở diễn đàn vào vào đoài cung". Theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, thì Hà Uyên có thể tính như sau: Số người đã đăng ký tham gia diễn đàn LYHOCDONGPHUONG, tới lượt Hà Uyên là 3717. Hà Uyên lấy 3717 chia cho 64, số dư còn lại là 5. Số của Năm-Tháng-Ngày-Giờ mà Hà Uyên đăng ký tham gia lam Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Theo Tiên thiên thì 5 là số thứ tự của quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Theo Hậu thiên, thì số 5 bao gồm những quẻ: theo thứ tự như sau: Tiểu súc - Tổn - Vô vọng - Đỉnh - Hoán - Thuần Cấn. Liêm Trinh thấy Hà Uyên theo phương pháp này có được không?

...

Dear Liêm Trinh. Một tâm sự! Trước khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, số người đã đọc bài viết của Liêm Trinh là (ví dụ là:...), sau khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh, thì số người đã đã đọc bài viết này, tại thời điểm này là (ví dụ:... lượt đọc). Đây là một chủ đề mà Hà Uyên đang rất quan tâm, sẽ dành phần nhiều giời gian để tìm hiểu về chủ đề này. Trước khi TA sinh ra, đã tồn tại bao nhiêu Người? Sau khi TA sinh ra, sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao nhiêu NGƯƠI nữa? Trước khi ÂM gặp DƯƠNG, hoặc trước khi DƯƠNG gặp ÂM, sau khi ÂM gặp DƯƠNG hay sau khi DƯƠNG gặp ÂM, điều gì sẽ đến với chúng ta? Mong Liêm Trinh đừng hiểu sai ý nghĩa của sự giao lưu giữa hai chúng ta, Hà Uyên chỉ lấy "số lượt người đã đọc" (làm Hình - Tượng) mà làm một ví dụ thôi.

...

Xin chào các anh chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VanTrungHac. Khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, Liêm Trinh có nói: "...thống nhất về phương pháp tính..." Quá khứ mà "Cổ nhân" đã để lại cho mỗi người yêu thích về những môn học thuật này, đối với Hà Uyên còn nhiều trăn trở, Hà Uyên chưa dành nhiều thời gian về luận quẻ Dịch. Trước tiên mong VanTrungHac thật sự thông cảm. Hà Uyên đang tập trung vào tìm hiểu về: Nguyên lý cấu tạo các môn Học thuật mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta. Tính chính xác? Độ tin cậy? Tại sao lại "quy định" như vậy?. Hà Uyên.

...

Chào Liêm Trinh Khi Liêm Trinh nói: "Làm thế nào để BỐC DỊCH chính xác hơn" Hà Uyên xin kể lại: Những người đi trước đã hướng dẫn cho Hà Uyên: tư duy về "tượng quẻ trước". Sau đó mới tư duy về "Lục thân". Ví dụ: khi Bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2 được quẻ Trạch Phong Đại quá - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Dịch: quẻ Hàm tượng trưng cho sự giao cảm. Quẻ Đại quá tượng trưng cho sự quá mức - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Phòng, Bốc phệ chính tông, Tăng san bốc dịch: quẻ Hàm có tượng "Manh nha xuất thổ", rồi đến quẻ Đại quá có tượng: "Dạ mộng kim ngân" Cũng phải mất đến 8 tháng hay một năm sau, Hà Uyên mới thuộc được tượng của 64 quẻ, và cảm nhận được một phần nào đó về ý nghĩa của "tượng quẻ". Mặc dù tại thời điểm đó, Hà uyên trong lòng vẫn thích xác định được hào động, tìm lục thân, an Thế - Ứng, tìm dụng thần,... Bước thứ hai là: đi sâu vào phân tích 8 quẻ "bát thuần", khi Kinh Phòng đưa Ngũ hành vào nạp cho hào quẻ Dịch. Đây là bước quan trọng, mối quan hệ "mẹ - con"? từ quẻ Mẹ với 7 quẻ con? Hình thành một phương pháp tư duy cho mỗi người, thì các nước phát triển đã làm rất có hiểu quả. Phương Tây hình thành một phương pháp sư phạm chuẩn mực cho loài người. Từ cá nhân Hà Uyên, một chia sẻ kinh nghiệm, một người Hà Uyên giao lưu đầu tiên trên diễn đàn (số "1")

...

Hà Uyên trao đổi tiếp tục Mỗi chúng ta, không ai có thể làm đảo lộn được trật tự của thời gian. Từ đây, chắc rằng cũng rất ít người làm thay đổi được quá trình nhận thức của mỗi một cá nhân. Ví như, Hà Uyên không thể tự cho mình dùng kiến thức của học sinh lớp 4, mà chưa qua quá trình nhận thức của lớp 1, lớp 2. Cũng ví như, Hà Uyên và Liêm Trinh giao lưu trên diễn đàn lyhocdongphuong, được gọi là "số 1", thì đến vị trí thứ 5, Hà Uyên giao lưu với anh Thiên Sứ, số "5" được coi như vị trí "Trung tâm" của Hà - Lạc. Giả thiết như Hà Uyên có "mưu lược" như Liêm Trinh đã nói, từ cái "ngẫu nhiên" để biến thành cái "tất nhiên", thì đương nhiên đến người thứ năm Hà Uyên giao lưu, là anh Thiên Sứ. Vị trí của Trung tâm. Một đặc trưng cơ bản của BỐC DỊCH, là "dụng thần" lại do đối tượng Khách quan quy định, trên nền giao lưu của Hoàng đế Nội kinh: Hoàng đế hỏi - Kỳ Bá trả lời. Làm thế nào để bốc dịch được chính xác?, Ai là Hoàng đế, ai là kỳ bá? Ai là Âm, ai là dương? Giả thiết là Liêm Trinh chủ động giao lưu với Hà Uyên, như vậy Liêm Trinh là Dương mà Hà Uyên là Âm, nhưng thực tiễn thì Hà Uyên chủ động chào Liêm Trinh, như vậy thì Hà Uyên là âm chủ động gặp dương. Vậy thì, chưa thể dùng một mình hào động làm nguyên nhân "gốc" để xác định thông tin.

...

Tại sao lại như vậy? Khi Hoàng đế hỏi, có nghĩa rằng Hoàng đế động, tại sao lại coi là Hoàng đế động? Vì Hoàng đế có thắc mắc ở trong lòng mà chưa hiểu, như vậy là bên trong của Hoàng đế động, có thể coi như "Nội quái động" mà "Ngoại qoái tĩnh", cũng có nghĩa Hoàng đế là Dương gặp Âm vậy. Như vậy, ta có thể nói Dương động - Âm tĩnh được không?

...

Khi Hà Uyên chọn thông số ban đầu để tính, là căn cứ theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, lấy "số thứ tự" của Hà Uyên khi tham gia vào diễn đàn là 3717, chia cho 64 quẻ, được số 5. Lấy Năm-Tháng-Ngày-Giờ khi Hà Uyên đăng khí tham gia làm Tổng chia cho 6 tìm hào động.

- Đối với Hà Uyên, thì số 5 theo Tiên thiên là quẻ Phong Thiên Tiểu súc.

- Với diễn đàn này, thì số 5 được hiểu như thế nào đối với Hà Uyên? Vì sự giao lưu là: Liêm Trinh --> VIETHA --> dichnhan07 --> VanTrungHac --> Thiên Sứ (thực ra còn Như Thông nhưng vì Hà Uyên chưa giao lưu). Số 5 đối với Hà Uyên là anh Thiên Sứ.

Theo Nguyên lý vị trí: Vị trí trung tâm 5 - 10, thì Hà Uyên chọn giải pháp ứng xử theo "Đại cục", có nghĩa là, từ "Trung tâm", Hà Uyên tôn trọng nguyên tắc: Tìm về cội nguồn.

...

Chào Liêm Trinh

Thực tình, Hà Uyên chủ động chọn cách viết, khi chúng ta trao đổi trên diễn đàn, không phải là vì viết nhiều.

Hà Uyên trở lại với chủ đề: Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn? Trên tinh thần: Tìm về cội nguồn.

Cội nguồn của Bốc Dịch, có thể bắt đầu từ Kinh phòng. Ông nói:"Dương thắng âm là tráng, tráng cực tắc phản ở âm".

Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì có 3 quẻ nói về số 7, quan trọng hơn cả là quẻ Địa Lôi Phục. Tại sao lại nói đến số 7?

Quy luật của tự nhiên đã để lại cho người phương Đông thích ứng theo thời gian: cứ 19 năm thì có 7 năm có tháng nhuận.! Thời gian vẫn cứ tiếp tục trôi, khi chúng ta phải chấp nhận: tháng nhuận = "0", trong quá trình tính tháng nhuận cho chu kỳ 19 năm. (19 - 7 = 12, hoặc 7 + 12 = 19).

Kinh Phòng đưa ra thuyết Ngũ hành nạp vào Hào của quẻ Dịch, cũng vẫn trên nguyên lý của Kinh Dịch: số 7

Ví dụ: quẻ Thuần Càn, là quẻ Cha - Mẹ, khí Dịch bắt đầu từ hào 1

1- Thuần Càn hào 1

2- Thiên Hoả Đồng nhân hào 2

3- Thiên Lôi Vô vọng hào 3

4- Phong Lôi Ích hào 4

5- Sơn Lôi Di hào 5

6- Địa Lôi Phục hào 6

7- Thuần Khôn hào 1

Từ quẻ Thuần Càn hào 1, đến quẻ thứ 7 là quẻ Thuần Khôn, thì hào 1 là hào Dương quẻ Càn mới biến thành hào 1 là hào Âm quẻ Khôn. Tiếp tục từ quẻ Thuần Khôn khí Dịch lại bắt đầu từ hào 1:

7- Thuần Khôn hào 1

8- Địa Thuỷ Sư hào 2

9- Địa Phong Thăng hào 3

10- Lôi Phong Hằng hào 4

11- Trạch Phong Đại quá hào 5

12- Thiên Phong Cấu hào 6

13- Thuần Càn hào 1

Quẻ Thuần Càn khí Dịch bắt đầu từ hào 1, thì đến quẻ thứ 7 hào 1 dương biến thành âm, và đến quẻ thứ 12, thì "thể" của quẻ Thuần Càn trở lại ban đầu, duy nhất chỉ có hào 1 biến đổi dương thành âm. Ta có thể viết như sau:

1 -> 2 -> 3 -> 4-> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 10 -> 11 -> 12 -> 13

Như vậy: 1 = 13

Khi ta chấp nhận quẻ số 7 là quẻ "Trung tâm". Từ quẻ số 2 đến quẻ số 6 bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Tý -> Giáp Thân. Từ quẻ số 8 đến quẻ số 12 cũng bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Ngọ -> Giáp Dần. Mối quan hệ Lục thập hoa giáp với 60 hào này như thế nào? Vấn đề Giáp Tý bắt đầu khởi từ đâu?

Hà Uyên đang ở hào 3 quẻ Thuần Càn, khi cộng thêm với 7 thì ở hào 4 quẻ Thuần Khôn: "Thắt chặt miệng túi".

...

Liêm Trinh nói: "Đây là vấn đề hóc búa nhất và cũng cần giải quyết nhất vì nó liên quan đến đông y học cứu người. Liêm trinh đã mất không ít thời gian tìm cơ sở khoa học cho vấn đề này mà chưa tìm ra. Trong ứng dụng thực tiễn trên hệ tính toán Liêm trinh thấy hình như hệ này không nhất quán."

Như vậy, chúng ta cùng bắt tay nhau, tiến thêm một bước nữa xem xét lại từ đầu: những cống hiến của Kinh Phòng, để trả lời cho câu hỏi: có cách nào để bốc dịch được chính xác hơn?

Việc này, Liêm Trinh chủ động mở chủ đề mới, Theo Hà Uyên, chủ đề nên tập trung vào thế hệ đi trước chúng ta "một đời", tức là theo cách nói của Kinh Phòng, là quẻ Bố - Mẹ --> Càn - Khôn

...

Hà Uyên xin chào các anh chị trên diễn đàn Chào VinhL

Trước khi chúng ta trao đổi học thuật, chúng ta xem lại bối cảnh Lịch sử giai đoạn khi xuất hiện Thiệu Ung. Bắt đầu từ Khổng Tử, Ông nói: "Đồng Đồ nhi thù quy" (nghĩa cùng một dòng mẹ mà chia làm hai dòng con vậy). Tại thời điểm này, hình thành hai trường phái: phái tượng số và phái nghĩa lý. Phái Tượng số có quan hệ mật thiết với khoa học tự nhiên, còn phái Nghĩa lý lại có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học xã hội. Trong Lịch sử, hai trường phái này, là một "thể" thống nhất của cặp mâu thuẫn. Trong Kinh Dịch có viết: "Quan vật thủ tượng" (xem vật lấy tượng). Trong Dịch truyện có viết: "Quan tượng thủ nghĩa" (xem tượng lấy nghĩa). Chiêm phệ chỉ là một bộ phận của phái Tượng số, nhưng "chiêm phệ" có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và lưu truyền, nó có ý nghĩa truyền bá rộng và sâu cho Kinh Dịch. Thiệu Khang Tiết là người đại diện tiêu biểu cho phái Tượng số, phương pháp "tư duy số " của Thiệu Ung, hình thành một hệ thống, mà nền tảng từ Kinh Dịch, là một đóng góp hết sức to lớn. Như chúng ta đã biết, một người đàn ông quốc tịch Đức thế kỷ 16, Ông không bàn về "tâm" động hay tĩnh, mà Ông đã đồng cảm và đồng thuận với Thiệu Ung về HỆ NHỊ PHÂN. "Số" có hai nghĩa lớn: nghĩa thứ nhất là "âm dương số", ví như số lẻ gọi là dương, số chẵn gọi là âm. Nghĩa thứ hai là "hào số", lấy thứ tự của các "hào", để nói lên mối quan hệ về ngôi vị giữa các sự vật. Đặc trưng là lấy "số" 9 làm số dương, số 6 làm số âm. Do vậy, "tượng" và "số" là nội dung cơ bản của Dịch học, đã được Thiệu Ung phát huy, phát triển lên một tầm cao mới. Đối với quy luật của "thời gian", người Phương Đông xây dựng hệ thống Can - Chi, ngày âm lịch dựa vào chu kỳ của Mặt Trăng, mà hệ quả của hệ thống này là: tháng "nhuận" = "0". Theo Hà Uyên, thì Thiệu Ung đã nghiên cứu rất sâu ở lĩnh vực này, tìm ra những quy luật sai số về "thời gian" giữa mặt Trời với mặt Trăng. Cụ thể là, cứ 19 năm, thì có 7 năm có tháng "nhuận" = "0". Điều này có ý nghĩa rất lớn khi Thiệu Ung xây dựng học thuyết cho mình. Ví dụ: một hào luôn luôn trải qua 12 quá trình (12 quẻ), còn hệ thống Can - Chi, theo Thiệu Ung: 60 x 60 x 60 x 60 = 12 960 000 là một đơn vị tính. Khi Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1, thì buộc người Phương Đông phải chấp nhận "tháng nhuận", với quy luật của số "7". Thiệu Ung đã căn cứ vào đây, lấy số "7" làm vị trí "trung tâm", làm phương pháp cho tư duy của mình, khi ông tự ngôn. Do vậy, khi VinhL hỏi: Năm-Tháng-Ngày-Giờ để lấy quẻ Mai hoa, sử dụng bao nhiêu quẻ khi một hào động. Theo Hà Uyên thì có 7 quẻ, nhưng thực chất chỉ có 5 quẻ. Tại sao lại như vậy? Có lẽ, Hà Uyên phải dùng "tượng" của Dịch để trả lời: theo Nguyên lý vị trí của "trung tâm", với con số "nhị - ngũ" (2 - 5), nhiệt độ trung bình của con người là 37 độ, khi tiến thêm 5 (37 + 5 = 42), hoặc khi lùi đi 2 (37 - 2 = 35), đây là giới hạn cho sự tồn tại của con người, Hà Uyên qua quá trình trải nghiệm, thấy có tính thực tiễn, nên trao đổi với VinhL như vậy, VinhL có thể kiểm nghiệm thêm. Tại sao Càn 9 Khôn 1? Khi tư duy theo phương pháp của Thiệu Ung, Ông là người đưa ra khái niệm Tiên thiên - Hậu thiện thông qua Động - Tĩnh của âm dương chuyển hoá. Ví dụ, theo Tiên thiên, ta gọi Càn là vị trí số 1 thì cộng thêm với 9 là tới số thứ tự của Thuần Đoài. Như vậy, số "10" là một giới hạn cho sự chuyển hóa từ Càn đến Đoài. Nên Thiệu Ung lấy Tứ tượng xắp xếp như sau: - Thái dương tương ứng với cặp số 4 - 9, trong đó: Càn - 1, Đoài - 4 - Thiếu âm tương ứng với cặp số 3 - 8, trong đó: Ly - 3, Chấn - 8 - Thái âm tương ứng với cặp số 1 - 6, trong đó: Khôn - 1, Cấn - 6 - Thiếu Dương tương ứng với cặp số 2 -7, trong đó Tốn - 2, Khảm - 7 Đây là sự đối đãi giữa những con số, khi xây dựng học thuyết cho Ông. Những trao đổi trên, mang tính cá nhân, mong rằng đây là một sự tham khảo vậy.

...

Hà Uyên đính chính lại: - Thái dương tương ứng với căp số 4 - 9: trong đó Càn - 9, Đoài - 4

(Nguồn: Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Bàn luận về Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Âm dương trong hiện tượng xã hội , -Nam là dương còn nữ là âm ,-Quân tử là dương còn tiểu nhân là âm
Bàn luận về Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Âm dương Ngũ hành trong Tử vi

Âm dương:

    Học thuyết Âm dương được thể hiện rất đầy đủ trong kinh dịch. Cái gọi là thái cực sinh lưỡng nghi, thái cực là chỉ trạng thái hỗn độn lúc ban đầu của vũ trụ, là thể hỗn độn của trời đất, càn khôn, cương nhu, âm dương, có thể mãi mãi phân thành hai, lưỡng nghi chỉ sự trời đất, mở rộng ra là chỉ tất cả sự vật đều có thể phân thành hai , chỉ sự tương đối của tất cả sự vật hiên tượng

Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Ví dụ: Âm dương trong hiện tượng xã hội

-Nam là dương còn nữ là âm

-Quân tử là dương còn tiểu nhân là âm

Ngũ hành:

Học thuyết ngũ hành cho rằng, tất cả sự vật trên thế giới đều do sự vận động biến hóa của 5 vật chất cơ bản là:

  Hoả (lửa), Thổ (Đất), Kim (Kim loại), Thuỷ (nước, chất lỏng). Mộc(cây cỏ) tạo nên, thế giới chỉ là một trạng thái vận động tương sinh tương khắc của ngũ hành mà thôi.

Ngũ hành có quy luật sinh, khắc chế hoá lẫn nhau. 

Ngũ hành sinh:

      Ngũ hành sinh thuộc lẽ thiên nhiên:

      Nước nuôi dưỡng cây trồng (Thuỷ sinh mộc- màu xanh)

      Gỗ cháy sinh ra lửa (Mộc sinh hoả- màu đỏ)

      Lửa cháy hết thành than (Hoả sinh thổ: Màu vàng)

      Lòng đất tạo nên kim loại trắng ( Thổ sinh kim: màu trắng)

      Kim loại nung chảy thành nước (Kim sinh thuỷ- màu đen)

Ngũ hành khắc:

      Ngũ hành tương khắc (lẽ xưa nay)

      Cây phá đất mà mọc lên ( Mộc khắc thổ: Tụ thắng tán)

      Đất có thể ngăn nước (Thổ khắc Thuỷ: Thực thắng hư)

      Nước có thể dập lửa (Thuỷ khắc hoả: chúng thắng quả, nhiều thắng ít)

      Lửa có thể đốt cháy kim loại (Hoả khắc kim: Tinh thắng kiên)

      Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây ( Kim khắc mộc: cương thắng nhu).

Ngũ hành chế hoá:

      Chế hoá là ức chế và sinh hoá phối hợp nhau. Chế hoá gắn liền cả tương sinh và tương khắc. Luật tạo hoá là: mọi vật có sinh phải có khắc, có khắc sinh, mới vận hành liên tục, tương phản tương thành với nhau.

      Thổ khắc Thuỷ thì con của Thuỷ là Mộc lại khắc Thổ

      Kim khắc Mộc thì con của mộc là Hoả lại khắc Kim

      Thuỷ khắc Hoả thì con của Hoả là Thổ lại khắc Thuỷ

      Mộc khắc Thổ thì con của Thổ là Kim lại khắc Mộc

      Hoả khắc Kim thì con của Kim là Thuỷ lại khắc Hoả

Ngũ hành là nền tảng cơ bản của bộ môn khoa học tâm linhtử vi sử dụng học thuyết ngũ hành trong rất nhiều yếu tố của mình như: cung, sao, mệnh .v.v.v


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn luận về Thuyết âm dương ngũ hành trong tử vi

Phong thủy phòng ăn –

Phòng ăn nên được trang trí đẹp nhưng đơn giản, tạo cảm giác hài lòng và yên bình khi bước vào. 1. Hình dáng bàn ăn Bàn ăn cần đặt ở trung tâm phòng để mọi người có thể quây quần xung quanh một cách thoải mái. Bàn ăn nên có hình bầu dục hoặc hình trò

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ăn nên được trang trí đẹp nhưng đơn giản, tạo cảm giác hài lòng và yên bình khi bước vào.

1. Hình dáng bàn ăn

Bàn ăn cần đặt ở trung tâm phòng để mọi người có thể quây quần xung quanh một cách thoải mái. Bàn ăn nên có hình bầu dục hoặc hình tròn vì đây là loại tượng trưng cho bầu trời. Nếu là bàn hình vuông, chữ nhật thì nên có các họa tiết hình tròn, bầu dục trang trí ở giữa bàn để kích thích dòng chảy năng lượng. Số lượng ghế trong phòng ăn cũng phải nhiều vì không một vị khách nào muốn mình phải ngồi ghế phụ.

Đối với vị trí của người chủ gia đình, không đặt ghế ở vị trí quay lưng ra cửa. Tốt nhất nên đặt ghế chủ nhà ở hướng đối diện với cửa để không bị bất ngờ với những điều không mong muốn.

a1-5148-1396407088

2. Ánh sáng trong phòng ăn

Một phòng ăn đủ ánh sáng sẽ tốt cho dòng chảy năng lượng. Nến có thể được sử dụng như vật trang trí nhưng không được là nguồn sáng chính của phòng. Phòng ăn nên sử dụng đèn chùm đặt ở trung tâm căn phòng, ngay phía trên bàn ăn.

3. Màu sắc sơn tường, đồ nội thất

Phòng ăn nên được trang trí đơn giản nhưng thanh lịch, để mọi người không làm phân tâm khi ăn uống và trò chuyện. Màu sắc phù hợp giúp tạo ra bầu không khí lành mạnh và vui vẻ.

Có một số màu sắc được khuyến khích trong việc tạo phong thủy. Các màu như đỏ, vàng, xanh nhạt là lựa chọn có thể chấp nhận được. Màu xanh lá hoặc tím oải hương kích thích tiêu hóa và tạo chứng thèm ăn lành mạnh. Cũng có thể sử dụng màu hồng, xanh, vàng chanh vì chúng đem lại cảm giác bình yên. Màu cam là màu không nên dùng, trừ khi gia chủ muốn dọa đuổi khách đi.

4. Cách treo gương

Gương trong phòng ăn tạo cảm giác phong phú, dồi dào. Mọi vật dụng xuất hiện theo cặp đều được coi là may mắn trong phong thủy. Tuy nhiên, treo gương cũng cần chọn vị trí phù hợp, nếu treo sai sẽ có ảnh hưởng xấu. Gương nên treo ở độ cao vừa phải để mọi người có thể nhìn thấy khuôn mặt và phần vai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ăn –

Ngũ Hành

Ngũ hành nguyên là 1nguyên lý có cấu trúc khá đơn giản, mô tả 1 hình thái vận động tương tác củacác khối vật chất (Tôi sẽ gọi chung vật chất & hiện tượng bằng từ vật chất ) Ở Trung Hoa khi xưa, nó được phát triển thành như 1 học thuyết chi phốitoàn bộ hoạt động sống, đến mức nó đã từng được xem như chìa khoá vạn năng mởmọi cánh cổng của tri thức.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay, ngành Điều Khiển Học cũng có 1 nguyên lý gần tương tự với tên gọi là cơ chế Feed back (Hồi tác) lấy đại lượng đầu ra tác động lại đại lượng đầu vào. Tuy vậy, có 1 điểm khác giữa 2 nguyên lý này: Cơ chế feed back nhìn nhận đại lượng đầu vào là vật chất như 1 dạng thức duy nhất, Ngũ hành lại phân ra 2 dạng thức âm & dương.

Ngũ hành được thấy trong hầu hết các môn học dự đoán và được xem  như 1 nguyên tắc giải quyết mọi vấn đề khi dự đoán. Tuy nhiên, cũng từ điểm này đã nảy sinh ra bao phương pháp, cách thức áp dụng nguyên lý này vào công việc dự đoán khá kỳ dị, tương tự như trường hợp các nhà giả kim thuật bên phương tây thời trung cổ cho rằng có 1 qui tắc gỏ chì, gỏ đá thành vàng !

Ngũ hành để áp dụng được chính xác nó đòi hỏi người sử dụng cần phải có hiểu biết triết học cơ bản. Nói đến triết tưởng như là điều khó khăn, xa vời. Thật ra, học sinh trung học ở các quốc gia tiên tiến đều được học triết học cơ bản dưới các tên gọi khác nhau. Tôi khẳng định lại điều này: Không có hiểu biết triết học cơ bản sẽ không thể áp dụng chinh xác nguyên lý ngũ hành vào công việc dự đoán được ! Các bạn có thể tham khảo các sách bàn về Âm Dương Luận hoặc triết học biện chứng luận ở chương trình bậc đại học để bổ sung phần kiến thức này.

- Sinh: Hàm ý hỗ trợ, tạo ra ;
Khắc: Hàm ý khắc chế, kềm hãm.

- Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ chỉ là tên định danh, không phải là 5 đại diện vật chất như cách hiểu thô sơ trước đây.

2.    Ngũ hành biến hoá:

Vật chất vận động mang tính cân bằng tương đối. Khi sự cân bằng bị phá vỡ tất phải có nguyên nhân & kết quả. Tôi sẽ trình bày 10  nguyên nhân & kết quả ấy như sau:

Nguyên nhân Mộc vượng (Vị trí mộc mạnh lên,H.2)
Kết quả: Thuỷ & Hoả vượng theo
Còn: Thổ & Kim suy giảm.
Nguyên nhân Mộc suy (Vị trí mộc suy yếu. H.3)
Kết quả: Thuỷ & Hoả suy theo.
Còn: Thổ & Kim vượng lên.

* Nguyên nhân Hoả vượng (Vị trí hoả mạnh lên. H.3a)
Kết quả: Mộc & Thổ vượng theo.
Còn: Thuỷ & Kim suy giảm.
Nguyên nhân Hoả suy (Vị trí hoả suy yếu. H.3b)
Kết quả: Mộc & Thổ suy theo
Còn: Thuỷ & Kim vượng lên.


* Nguyên nhân Thổ vượng (Vị trí thổ mạnh lên. H.4a)
Kết quả: Hoả & Kim vượng theo,
Còn: Mộc & Thuỷ suy giảm.
Nguyên nhân Thổ suy (Vị trí thổ suy yếu. H.4b)
Kết quả: Hoả & Kim suy theo.
Còn: Mộc & Thuỷ  vượng lên.

* Nguyên nhân Kim vượng (Vị trí kim mạnh lên. H.5a)
Kết quả: Thổ & Thuỷ vượng theo,
Còn: Mộc & Hoả suy giảm.
Nguyên nhân Kim suy (Vị trí kim suy yếu. H.5b)
Kết quả: Thổ & Thuỷ suy theo.
Còn: Mộc & Hoả vượng lên.


* Nguyên nhân Thuỷ vượng (Vị trí thủy mạnh lên. H.6a)
Kết quả: Mộc & Kim vượng theo,
Còn: Hoả & Thổ suy giảm.
Nguyên nhân Thuỷ suy (Vị trí thủy suy yếu. H.6b)
Kết quả: Mộc & Kim suy theo.
Còn: Hoả & Thổ  vượng lên.

Qui tắc: “Một vị trí Vượng kéo theo 2 vị trí bên cạnh vượng theo, còn lại là suy. Một vị trí Suy kéo theo 2 vị trí bên cạnh suy theo, còn lại là vượng”

1.    Ví dụ minh hoạ:

Ví dụ 1: Ta xem xét 1 mối quan hệ sau:

* Khi cha mẹ tôi hỗ trợ cho tôi, thì: (hình 7)
Tôi hỗ trợ cho vợ tôi
Vợ tôi hỗ trợ cho bên thân tộc của cha mẹ tôi
Thân tộc hỗ trợ cho các mối quan hệ xã hội của cha mẹ tôi
Quan hệ xã hội hỗ trợ cho cha mẹ tôi

* Khi cha mẹ tôi kềm hãm vợ tôi, thì:
Vợ tôi kềm hãm quan hệ xã hội của cha mẹ tôi
Quan hệ xã hội sẽ kềm hãm tôi
Tôi sẽ kềm hãm mối quan hệ thân tộc
Quan hệ thân tộc sẽ kềm hãm cha mẹ tôi

Thấy rằng vị trí của người làm cha làm mẹ quan trọng như thế nào !

Ví dụ 2: Vẫn ví dụ trên, nhưng cho “Tôi” suy yếu đi

* Khi tôi lụn bại vì nghiện ngập, thì (hình 8)
Cha mẹ tôi & vợ tôi suy yếu theo
Quan hệ thân tộc vượng lên chế khắc cha mẹ tôi
Quan hệ xã hội chế khắc tôi.

Để thoát khỏi tình cảnh trên, đồ hình ngũ hành cho ta 3 cách:

  * Cách 1: Chính bản thân tôi phải tự vươn lên. (hình 9)

* Cách 2: Cha mẹ tôi vượng lên để kéo tôi lên theo (hình 10)

* Cách 3: Vợ tôi vượng lên để kéo tôi lên theo (hình 11)



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ Hành

Xem cách bài trí bàn thờ Phật

Không gian thờ cúng, không gian mang tính tâm linh trong nhà ở luôn cần đặt yếu tố gần gũi và giáo dục truyền thống lên hàng đầu để kết nối các thế hệ và giữ vững gia phong nề nếp gia đình.Với những ngưòi theo đạo Phật thì tín ngưỡng thờ cúng luôn được coi trọng. Cách bài trí bàn thờ Phật và tượng Phật cũng có những quy tắc phong thủy nhất định.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương hướng và điều kiện để lập bàn thờ Phật

Lập bàn thờ Phật là một công việc rất tốt, tạo nhiều phúc nghiệp, nhưng công việc đó không hề đơn giản chút nào. Theo như tập tục hàng ngàn năm nay, khi bài trí thờ cúng tượng Phật nên lưu ý những điều sau:


-Người thờ Phật phải có thành tâm, nhất thiết phải ăn chay vào ngày mùng 1 và ngày rằm. Vì hiểu theo cách thông thường Phật ăn chay, thấy được ích lợi của việc chay tịnh thì không thể phổ độ cho một chúng sinh thờ mình suốt ngày ăn mặn đựợc, nhất là sát sinh.

-Điều kiện thứ hai là người lập bàn thờ Phật không thể cúng dàng Phật bằng xôi gà, bằng thịt của động vật, vì Phật không hưởng thụ những thứ đó. Về hướng bàn thờ tốt nhất là quay theo cổng chính của căn nhà bạn, có trường hợp cũng có thể quay bàn thờ Phật về hướng xấu so với trạch mệnh của thân chủ, một phần để hóa giải hướng đó.

-Thứ ba là bài vị tổ tiên không được đặt cao hơn bàn thờ Phật sẽ phạm xung, vì hiểu một cách đơn giản theo dân gian Phật đã đạt được sự giải thoát, là bậc Đại giác, không thể ở thấp hơn chúng sinh. Thực ra chúng sinh cũng là Phật nhưng chưa giác ngộ, làm vậy là để trọng Phật. Có rất nhiều nhà thờ ảnh các thần cùng với ngài Quan Âm Bồ Tát, đó là không đúng cách, coi ngài là một vị thần cũng không đúng, nên người thờ Phật nên quy y để hiểu được những điều căn bản nhất về việc thờ cúng cho đúng với đạo, không được tùy tiện hiếu theo suy nghĩ chủ quan của mình mà có tà kiến về việc thờ, việc cúng. Nếu không làm được những điều kiện đó thì chúng ta nên cẩn trọng ở việc lập bàn thờ Phật.

Sắm lễ thờ Phật

Việc sửa soạn lễ cúng Phật những quy định cần tuân thủ là:


Sắm các lễ chay: Hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả. Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cùng lên bàn thờ Phật.

Hoa tươi lễ Phật là: Hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, không dùng các loại hoa tạp, hoa dại.

Trước ngày dâng hương làm lễ Phật cần- chay tịnh trong đời sống sinh hoạt ngày thường: Ăn chay, kiêng giới, làm việc thiện.

Hương cúng dàng Phật

Người Việt Nam đã quen chọn số lẻ m 3, 5, 7, 9) lúc thắp nhang, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm nhang chứ không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn.

Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau:

-Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng)

-Tam giới (Dục giới, sắc giới và Vô sắc giới)

-Tam thời (Quá khứ, Hiện tại, Vị lai)

-Tam vô lậu học (Giới, Định, Tuệ)

Nén hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp hương để nhớ đến sự vô thường. Vô thường là không vĩnh viễn, tất cả đều giả tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt, ngắn ngủi vô thường... Tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta chớ để thời gian trồi qua, uổng phí tháng ngày.

Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng, gồm có: Hương, hoa, đăng (đèn), trà, quả, thực (thức ăn). Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, không những uổng phí mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa.

Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá linh đình vì đúng ý nghĩa sự cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái ngọt, nưóc trong là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở trong tâm của con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén tâm hương - tức là hương từ trong tâm. Bởi vậy mới có năm thứ hương dùng để cúng dường chư Phật: Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương.

Cách bài trí tượng Quan Âm Bồ Tát:

Rất nhiều gia đình, cửa hàng hay nhà hàng đặt tượng Quan Âm Bồ Tát cùng các tượng khác như Quan đế. Như vậy rất không tốt, bởi những lý do sau:

Nếu trong nhà hàng, cửa hàng ăn uống thờ Quan Âm Bồ Tát sẽ không thích hợp bởi Quan Âm Bồ Tát vốn thanh tịnh, tinh khiết và ăn chay. Khi dâng đồ cúng Quan Âm Bồ Tát thường chỉ cần hoa tươi và hoa quả. Bởi vậy nếu đật tượng Quan Âm Bồ Tát cùng các tượng Thần khác sẽ không tốt khi cúng đồ mặn.

Không nên đặt tượng ngài Quan Âm Bồ Tát theo các hướng:

-Hưóng nhà vệ sinh.

-Hướng cửa phòng ngủ.

-Hướng bàn ăn.

Cách bài trí tượng Phật:

Thờ Phật tại gia bảo hộ bình an và cũng có những quy tắc nhất định:

-Tượng Phật đem về nhà không nên coi là đồ cổ hay vật báu mà cất giữ cẩn thận, như vậy sẽ ảnh hưởng tới mọi thành viên trong gia đình.

-Không nên đặt tượng trong phòng ngủ, bỏi lễ Phật phải uy nghi nghiêm túc. Nơi để bàn thờ Phật cũng vậy, nhà có điều kiện nên để một phòng riêng yên tĩnh, thoáng đãng, trai tịnh.

-Không nên mua quá nhiều tượng về nhà, chỉ cần một pho hoặc ảnh Phật là đủ, thành tâm thành ý niệm cầu hằng ngày.

-Tranh ảnh Phật không nên cuộn tròn lại, không được để xuống dưối ghế, không được ngồi lên trên...

-Tượng cũ bị mò mắt hoặc tay nên tô vẽ, lau chùi lại, vào các ngày rằm và mùng có thể dùng nước thơm tắm tượng. Nếu tượng hỏng thì thỉnh cầu các tăng rước thỉnh thả sông, thay bằng pho khác, nhờ chuyển lên chùa khai quang cẩn thận, không được tùy tiện vứt bỏ.

Nguồn Internet
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem cách bài trí bàn thờ Phật

Barack Obama: Tổng thống "Sư Tử" uy lực, mạnh mẽ nhưng thân thiện

Tổng thống Mỹ Barack Obama không chỉ là vị lãnh đạo tài ba mà còn là một chòm sao Sư Tử sôi nổi hoạt bát và cực kỳ thân thiện.
Barack Obama: Tổng thống "Sư Tử" uy lực, mạnh mẽ nhưng thân thiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt cập nhật thông tin Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope mới nhất gửi tới độc giả

Barack Obama Tong thong Su Tu uy luc, manh me nhung than thien hinh anh 2
Tổng thống Mỹ Barack Obama

 
Những người sinh ra dưới chòm sao Sư Tử luôn mong muốn được chứng tỏ mình, luôn muốn được chú ý và tỏa sáng giống như loài Sư Tử chốn rừng xanh. Ở họ có sự tự tin, tự tôn, sôi nổi hoạt bát, thân thiện và có tài…
 
'Có 4 yếu tố để làm nên sức hấp dẫn ở ông Obama trong mắt công chúng: Sức hấp dẫn của phong cách đời thường gần gũi, sức hấp dẫn của đời sống gia đình hạnh phúc, sức hấp dẫn của chính trị gia đẳng cấp, và sức hấp dẫn của biểu tượng văn hóa trong đời sống đại chúng Mỹ'. - Giáo sư John Quelch, Học viện Kinh doanh Harvard (Mỹ).
 
Ông Barack Obama sinh ngày 4/8/1961 thuộc cung Sư Tử. Là một nam Sư Tử xuất chúng khi biết khắc phục những hạn chế của bản thân để trở thành người lãnh đạo hàng đầu.

 

Tham vọng và ham mê quyền lực
 

Nhìn vào cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng ông hiện tại, người ta sẽ không ngờ rằng trước đây ông là một người khá lơ là gia đình, luôn bị vợ trách mắng với hàng loạt những khuyết điểm khó có thể chấp nhận được: hút thuốc, ngáy to, lười làm việc nhà…
 
Trong giai đoạn này, mặc dù có bị người nhà cằn nhằn thì Sư Tử vẫn khăng khăng làm theo ý mình vì lúc này, sự nghiệp mới là quan trọng nhất. Đây vừa là ưu điểm và cũng là hạn chế của bất kỳ Sư Tử nào trong giai đoạn đầu lập nghiệp.

 

Sắc sảo và đầy sức hấp dẫn
 

Nếu chỉ nói là thông minh thôi thì chưa đủ để nói về Sư Tử. Ở họ còn có sự sắc sảo, tinh tế và khôn khéo. Họ biết tất cả mọi thứ, họ nhạy bén với thông tin và nắm bắt các vấn đề rất nhanh.
 
Họ luôn biết được mình cần gì và những người xung quanh mình cần gì. Nhờ những điều này mà Obama đã gặt hái được sự thành công và thu hút bất kỳ ai:
 
Ông đã tạo ra một chiến dịch tranh cử không giống với bất kỳ chiến dịch nào trước đó bằng cách sử dụng Internet để… tự 'rao bán' mình. Trang web của riêng ông thu hút được 1,5 triệu cử tri trẻ với thu hút 600 triệu đô (hơn 13.200 tỷ VND) tiền quyên góp ủng hộ chiến dịch tranh cử.
 
Ông có khả năng nói trước đám đông một cách siêu việt, có thể nói suốt nhiều giờ liền mà không hề bị vấp váp lúng túng. Càng có nhiều người, có nhiều ống kính máy quay ông càng tự tin hơn. Thực tế, ông đã có nhiều bài diễn văn phát biểu lấy được nước mắt của hàng triệu người.
 
Ngoài ra, Sư Tử là một người quảng giao, dễ lấy lòng người khác và biết cách tận dụng những mối quan hệ đó để đạt được mục tiêu của mình. Điều này đã được Obama phát huy khá tốt, khi các chiến dịch tranh cử của ông luôn có sự góp mặt của những ngôi sao hàng đầu thế giới.

Barack Obama Tong thong Su Tu uy luc, manh me nhung than thien hinh anh 2
Nữ ca sĩ Beyonce rất thân thiết với ngài Tổng thống.
 

Chung thủy và trân trọng gia đình
 

Trong tình yêu, Sư Tử là một người sôi nổi, nhiệt thành. Họ sẵn sàng cho cả thế giới biết được mối quan hệ của mình, và khiến mọi người phải hờn ghen về mối quan hệ đó.
 
Điều này khỏi bàn cãi khi nhắc đến những hình ảnh và cử chỉ yêu thương ông Obama dành cho vợ mình trong các sự kiện, hội nghị hay cả trên show truyền hình thực tế…
 
Những cám dỗ đến từ mọi phía trong cuộc sống cũng không thể làm lung lay ý chí và tình cảm của người đàn ông quyền lực và đầy sức hút.

Barack Obama Tong thong Su Tu uy luc, manh me nhung than thien hinh anh 2
Không ngần ngại thể hiện tình yêu của mình dành cho vợ
  Ngoài ra, để có thể đạt được mục tiêu cao nhất, các bạn Sư Tử cần phải học hỏi ở ngài Tổng thống Mỹ những điều sau:
 
Tìm kiếm niềm vui trong công việc: Sư Tử lúc nào cũng tràn đầy năng lượng, họ có thể làm nhiều việc cùng một lúc, đây đều là những việc mang lại giá trị. 
 
Sắp xếp thời gian hợp lý: Trước khi đạt được mục tiêu của mình, bạn có thể dồn toàn lực cho nó. Nhưng đừng để công việc vùi lấp bạn.
 
Cân bằng thời gian để nghỉ ngơi, tái tạo năng lượng với bạn là điều cần thiết. Hãy nhớ: 'Người đàn ông bận nhất thế giới Obama vẫn có thời gian rảnh rỗi để làm việc nhà và chơi với con cái mỗi ngày.'
 
Tinh thần lạc quan: Sư Tử rất giỏi trong việc lắng nghe và động viên người khác nếu họ gặp khó khăn. Họ tràn đây năng lượng nhưng cũng không tránh khỏi những lúc bị suy sụp và căng thẳng… Thay vì chờ đợi người khác quan tâm, họ tự an ủi và động viên mình.

ST.

Góc nhìn chiêm tinh: Liệu Hari Won và Trấn Thành có phải cặp đôi hoàn hảo? Đo độ thân mật giữa Song Tử và 12 cung hoàng đạo (P1) Họa mi Mỹ Tâm: Cô nàng Ma Kết tài có thừa, tâm cũng chẳng thiếu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Barack Obama: Tổng thống "Sư Tử" uy lực, mạnh mẽ nhưng thân thiện

Tài lộc của người tuổi Thìn theo từng tháng - P1

Trong tháng Mão, tài lộc của người tuổi Thìn vẫn phát triển thuận lợi, có được nhiều tài lộc trong kinh doanh.
Tài lộc của người tuổi Thìn theo từng tháng - P1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 1

Trong tháng Dần, người tuổi Thìn có sao tốt chiếu mệnh nên gặp nhiều may mắn. Kế hoạch trong cả năm tập trung nhiều vào đầu xuân, họ nên biết tận dụng thời cơ để thực hiện được ý nguyện vươn lên của mình. Nếu nắm chắc được những cơ hội hiếm có này, người tuổi Thìn sẽ đạt được thành công mỹ mãn. Tuy nhiên, họ cũng cần chăm chỉ làm việc, cố gắng "bắt nhịp" với môi trường bên ngoài để nắm vững được xu thế phát triển của xã hội.

Tháng 2

Tháng Mão, vận thế của người tuổi Thìn vẫn phát triển thuận lợi, có được nhiều tài lộc trong kinh doanh. Tuy nhiên, họ gặp phải một số khúc mắc nhỏ cần bình tĩnh xử lý. Thời gian này, tinh thần lạc quan và sự chủ động là yếu tố cần thiết với người tuổi Thìn. Họ cũng nên cẩn trọng trong việc quản lý tài chính.

Tháng 3

Trong tháng Thìn, tài lộc của người này xấu đi nhanh chóng, thu nhập không được như ý muốn. Những khó khăn trong công việc liên tiếp ập đến, mối quan hệ với đồng nghiệp gặp phải một vài mâu thuẫn. Tháng này, người tuổi Thìn cần khéo léo xử lý mọi việc, phải biết "mềm nắn, rắn buông", luôn có thái độ tích cực trong công việc để có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này.

cam xinh
 

Tháng 4

Tài lộc của người tuổi Thìn có chuyển biến tích cực trong tháng Tỵ (tháng 4 âm lịch). Những khó khăn trong tháng trước dần được giải quyết thấu đáo. Tuy nhiên, trở ngại trong công việc vẫn còn, người này vẫn phải cố gắng nỗ lực để cải thiện tình hình. Họ nên phát huy hết sở trường của mình để tạo được sự tin tưởng từ người khác. Hơn nữa, họ cần rèn luyện đức tính khiêm tốn và kiên nhẫn, "biết người biết ta" để đạt được thành công trọn vẹn hơn.

Tháng 5

Do có sao tốt chiếu mệnh nên tài lộc của người tuổi Thìn trong tháng Ngọ có nhiều khởi sắc. Mọi khó khăn, trở ngại gần như đã hết. Họ trở về với quỹ đạo chính, từng bước thực hiện kế hoạch để thu được thành công. Tháng này, tuổi Thìn nên chủ động nắm lấy những cơ hội để tiến xa hơn nữa trên con đường phát triển sự nghiệp. Đồng thời, họ cũng cần tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh, tránh vì tình cảm riêng mà ảnh hưởng đến công việc. Họ nên đầu tư vào nhiều lĩnh vực, giữa tháng sẽ thu được lợi nhuận lớn.

Tháng 6

Tháng Mùi, người tuổi Thìn có sao dữ chiếu mệnh nên tài lộc không tốt, vận thế có chiều hướng đi xuống. Công việc kinh doanh của họ gặp phải sóng gió bất thường. Người này cần khiêm tốn, tạo nhiều thiện cảm với mọi người xung quanh để tránh "đơn thương độc mã". Mặt khác, họ cũng nên giải quyết mọi nợ nần từ trước, cân đối lại tài chính gia đình. Đặc biệt, người tuổi Thìn cần đặc biệt giữ sức khỏe.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Thìn theo từng tháng - P1

Hướng bếp hợp người sinh năm 1941 Tân Tỵ –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1941: - Năm sinh dương lịch: 1941 - Năm sinh âm lịch: Tân Tỵ - Quẻ mệnh: Khôn Thổ - Ngũ hành: Bạch Lạp Kim (Vàng chân đèn) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1941:

pthuy-bep-3

– Năm sinh dương lịch: 1941

– Năm sinh âm lịch: Tân Tỵ

– Quẻ mệnh: Khôn Thổ

– Ngũ hành: Bạch Lạp Kim (Vàng chân đèn)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y).

– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát).

Bếp nấu cũng là một yếu tố rất quan trọng, vì mọi bệnh tật, vệ sinh đều sinh ra từ đây. Hướng bếp nên đặt ở hướng xấu, và nhìn về hướng tốt, theo quan niệm Toạ hung hướng cát. Hướng bếp có thể hiểu là hướng cửa bếp đối với bếp lò, bếp dầu, hướng công tắc điều khiển đối với bếp điện, bếp gas.

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); , nhìn về các hướng tốt Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y); Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây. Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); Cửa của bếp nấu không được để thẳng với cửa chính của nhà, hoặc nhìn thẳng vào cửa phòng ngủ, người nằm ngủ sẽ gặp tai ương tật ách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1941 Tân Tỵ –

7 điều khiến bạn dễ dàng thành công trong cuộc sống (P1)

Để có được cuộc sống hạnh phúc, bên cạnh việc dưỡng tâm thì phải dưỡng cả tính, phải học cả cách làm người
7 điều khiến bạn dễ dàng thành công trong cuộc sống (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Để có được cuộc sống hạnh phúc, để trở thành một người thành công trong mọi lĩnh vực, để làm một “người tốt” thì phải dưỡng cả tâm, cả tính và học cả cách làm người.


1. Phải tập thể dục

7 dieu khien ban de dang dat thanh cong trong cuoc song hinh anh
Phải thường xuyên tập thể dục

 
“Có sức khỏe là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”. Có thể nói, một cơ thể khỏe mạnh là “cái vốn” lớn nhất của một đời người, sự nghiệp do con người tạo ra, nhưng nếu không có sức khỏe thì chẳng thể làm được gì kể cả có núi vàng núi bạc đi chăng nữa. Muốn thân thể được khỏe mạnh thì phải biết cách giữ gìn sức khỏe. Đối xử tốt với sức khỏe của mình chính là đối xử tốt với bản thân mình, đối xử tốt với xã hội. Để có một sức khỏe tốt thì cần: “Ba phần phải rèn luyện, bảy phần là do tâm thái’. Mỗi người không chỉ phải học cách gìn giữ cái thiện tâm của mình, mà phải hiểu được lười biếng chính là kẻ thù của sức khỏe, lười biếng làm giảm bớt tuổi thọ. Tâm động không bằng hành động, lựa chọn những bộ môn thể dục thể thao hợp với mình, kiên trì, bền bỉ luyện tập sẽ làm cho tinh thần được phấn chấn, tinh khí lưu thông.
 
2. Phải biết đối nhân xử thế

7 dieu khien ban de dang dat thanh cong trong cuoc song hinh anh 2
Phải biết đối nhân xử thế
Làm người phải phúc hậu, phải trọng tình trọng nghĩa, nhân từ, hết lòng giúp đỡ người khác mà không kể công. Tâm phải thiện, từ lời nói cho tới việc làm, chớ thấy việc ác nhưng nhỏ mà bỏ qua, chớ thấy việc tốt nhưng quá nhỏ lại không làm. Làm người phải thành thật, lấy Đức làm trọng, làm việc phải giữ chữ tín, đặt đạo đức lên đầu. Tôn trọng người khác, tình nguyện giúp đỡ người khác mới thực là người “khôn”. Đừng quá trông chờ vào sự báo đáp khi giúp đỡ người khác, nếu nghĩ mình là vĩ đại thì điều đó thật là ngu xuẩn. Làm người, đơn giản là tìm thấy sự hạnh phúc từ những điều nhỏ nhặt nhất.
 
3. Phải hiểu được mình đang làm gì

7 dieu khien ban de dang dat thanh cong trong cuoc song hinh anh 3
Cùng mọi người làm điều tốt, vận mệnh ắt sẽ tốt
Làm việc là để sinh tồn, để tạo nền móng vững vàng, để tích lũy vốn liếng, khi đã làm việc đại sự thì nhất định không được nóng lòng. Phải chu đáo, thận trọng, không được từ bụng ta suy ra bụng người, đừng vô cớ áp đặt ý muốn của mình lên người khác. Hãy khoan dung hơn một chút, bớt xét nét đi một chút, chớ nên đổ thêm dầu vào lửa, vẽ rắn thêm chân… Cùng mọi người làm điều tốt, vận mệnh ắt sẽ tốt. Nên đi từ cái nhỏ nhất, những chi tiết nhỏ nhất cũng có khả năng quyết định sự thành bại. Chớ nên do dự, muốn làm gì phải thành tâm thành ý, kiên trì bền bỉ, cũng không nên quá so đo, hãy nhớ lấy ba chữ “Nhân, Nhận, Nhẫn”, khó khăn cũng chính là hạnh phúc. Dũng cảm đương đầu, không nên để tâm tới những chuyện vụn vặt, tuyệt đối không chùn bước trước những việc khó khăn.
 
4. Phải biết nói lời “Cảm ơn”

7 dieu khien ban de dang dat thanh cong trong cuoc song hinh anh 4
Tri ân chính là động lực để thúc đẩy tình cảm giữa con người với con người
Đầu tiên phải biết nhớ ơn, nhớ ơn công lao dưỡng dục của cha mẹ, không quên công lao dạy bảo, truyền đạt kiến thức của thầy cô giáo, không quên tình cảm vợ chồng lúc khó khăn hoạn nạn, không quên sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè, phải cảm ơn xã hội đã mang lại cho ta cuộc sống như ngày hôm nay… Tri ân chính là động lực để thúc đẩy tình cảm giữa con người với con người, phải biết tri ân mới có thể cảm ơn, nếu muốn làm người thành đạt thì không thể không biết tri ân. Mỗi lần nói ra lời cảm ơn là một lần thấy cuộc sống tươi đẹp hơn.
 
(Còn nữa)

=> Đọc thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Phương Thùy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều khiến bạn dễ dàng thành công trong cuộc sống (P1)

Bí quyết bài trí nhà ở để giảm stress

Theo Kaylin, mấu chốt của việc giảm stress nằm ở chỗ tạo ra sự hòa hợp giữa Âm - Dương cũng như Ngũ hành trong căn nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài trí nhà cửa là một nghệ thuật. Đồ đạc, màu sắc, các tác phẩm nghệ thuật, ánh sáng - tất cả các yếu tố đó phải cân bằng mà hòa hợp.

Tuy nhiên, một không gian hòa hợp không chỉ được tạo nên bởi những tấm rèm đẹp hoặc chăn mền đồng bộ mà phải hợp mắt lẫn hợp tâm. Hơn nữa, không gian ấy sẽ hoàn hảo nếu nó có thể giảm trừ lo lắng và nuôi dưỡng sự hòa hợp nội tại. Đó chính là lúc người ta cần áp dụng thuật phong thủy.

"Bất kì sự mất cân bằng năng lượng nào cũng tạo ra căng thẳng", Natalia Kaylin, chuyên gia phong thủy ở Massachusetts nói, "Nếu bạn bị căng thẳng, không có động lực, thiếu năng lượng và gặp vấn đề với giấc ngủ thì có lẽ một phần nguyên do nằm ở môi trường sống của bạn".

Theo Kaylin, mấu chốt của việc giảm stress nằm ở chỗ tạo ra sự hòa hợp giữa Âm và Dương cũng như Ngũ hành. Ví dụ, một căn nhà rơi vào tình trạng dương thịnh (quá sáng, nhiều đường thẳng, nhiều cạnh sắc nét) có thể tạo ra một môi trường căng thẳng tương tự như căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành - có quá nhiều tính hỏa (đỏ đậm và nhiều hình tam giác).

Để cải thiện không gian sống của mình và đảm bảo một môi trường dễ chịu, bớt stress, bạn nên chú ý tới một số yếu tố sau:

1. Lối vào

"Lối vào là nơi đón và đưa năng lượng tới khắp nơi trong nhà", Kaylin cho biết. Chị tin rằng đây là một trong những không gian quan trọng. Để có được năng lượng tốt, bạn phải tuyệt đối tránh sự bừa bãi, bớt các yếu tố sắc nhọn và bổ sung đồ nội  thất với nhiều đường cong.

"Nếu lối vào nhỏ, bạn hãy mở rộng không gian bằng cách bài trí những tác phẩm nghệ thuật với chủ đề biển cả hay thảo nguyên", Kaylin chia sẻ lời khuyên. Ngoài ra, gương cũng là một giải pháp tuyệt vời nếu chúng được treo trên mặt tường vuông góc với cửa.

2. Phòng ngủ

Giữ cho không gian nơi phòng ngủ dễ chịu, thoải mái là một điều đặc biệt quan trọng bởi chúng ta dành phần lớn thời gian tại đó. "Phòng ngủ là nơi bạn ngả lưng vào ban đêm nhưng cũng là nơi bạn bắt đầu mỗi sáng", chuyên gia nội thất Vanessa Deleon nói.

Theo chị, giường nên được đặt xa cửa và không tiếp xúc với sàn nhà: "Nhờ vậy, năng lượng sẽ không mất đi khi bạn ngủ".

3. Phòng làm việc tại gia

"Không được bừa bãi", Kaylin nói về cách bài trí phòng làm việc, "Bừa bãi là nhân tố lớn nhất gây ra stress". Bạn nên tạo cho mình một hệ thống để sắp xếp đồ đạc được gọn gàng. Nếu bạn gặp vấn đề với việc giữ ngăn nắp, có thể căn phòng của bạn có quá nhiều tính Thổ (nhiều đồ vật hình vuông, bằng đá, màu đất). Lúc đó bạn sẽ phải làm mọi thứ cân bằng với yếu tố Kim (bổ sung màu kim loại, tượng hoặc bình hoa).

Ngoài ra, một yếu tố quan trọng khác là bàn làm việc. Kaylin và Deleon tin rằng bàn nên được đặt ở vị trí phù hợp. Bạn phải ngồi ngược với tường nhưng đặc biệt tránh nguồn sáng. Nếu bạn ngồi quay lưng về phía cửa, không khí căng thẳng, nặng nề sẽ bao trùm lên phòng làm việc của bạn.

Cuối cùng, bạn nên loại bỏ ánh sáng huỳnh quang ra khỏi phòng mình.

4. Phòng khách

Căn phòng này, giống như mọi phòng khác trong nhà, sẽ hài hòa nếu bạn chọn màu sơn đúng. Theo Kaylin, bạn nên tránh những màu như đỏ, cam, đen và thay vào đó, hãy chọn những sắc nhẹ như hồng phấn, vàng, lục, trắng. "Lục xám là màu ưa thích của tôi", Kaylin chia sẻ.

Chị cũng cảnh báo rằng: sơn xanh lên tường quay về phía Bắc là kiêng kị bởi các chuyên gia phong thủy cho rằng điều đó sẽ làm cho không gian trở nên lạnh lẽo, cô tịch.

Bên cạnh đó, kích cỡ và hình dáng của đồ nội thất trong phòng khách đóng vai trò quan trọng nếu bạn muốn mang lại không gian yên bình cho ngôi nhà. "Đồ đạc phải cân đối với diện tích phòng", Kaylin nói. Chị cho biết đồ đạc quá lớn sẽ làm gián đoạn sự tuần hoàn của năng lượng tốt. Bạn nên chọn đồ đạc có thiết kế với các đường tròn, đường cong bởi chúng đem lại vẻ tự nhiên hơn là đường thẳng, sắc cạnh.

Một điều nhỏ cần lưu ý nữa là: đừng trang trí quá nhiều. Theo các chuyên gia, quá nhiều đồ trang trí hay vật nhỏ như tranh ảnh có thể làm không gian "hỗn loạn". Bạn nên làm căn phòng gần gũi với thiên nhiên bằng cách bài trí cây kiểng.

5. Bếp

"Cách áp dụng phong thủy tốt nhất cho căn bếp chính là đặt lò nướng, tủ lạnh và chậu rửa ở vị trí tạo thành hình tam giác", Kaylin nói.

Nếu bạn không thể áp dụng cách bài trí này cho căn bếp của mình, Deleon giới thiệu với bạn một cách khác. Bạn hãy chuyển vật dụng của mình sao cho lò nướng không đối diện với bồn rửa, máy rửa bát hoặc tủ lạnh. "Để Hỏa và Thủy xung với nhau không phải là điều tốt", Deleon nói.

Ngoài ra, bạn nên chất đầy tủ lạnh và tủ đồ của mình bởi điều đó ý chỉ sự thịnh vượng, sung túc.

Nhưng trên hết, hãy nhớ rằng căn nhà và sở thích cá nhân là của riêng bạn. Có thể bạn sẽ mất thời gian để tìm ra phương thức nào phù hợp với mình. Dù vậy, bạn sẽ chẳng mất gì nếu thử áp dụng vài mẹo phong thủy trên.

(Theo Kienthuc.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết bài trí nhà ở để giảm stress

Những phong tục cổ truyền của người Việt trong ngày Tết Nguyên đán

Tết Nguyên đánlà ngày tết cổ truyền của người Việt Nam. Đây cũng là dịp gia đình quây quần, đoàn tụ bên nhau sau những ngày làm việc vất vả. Với người Việt Nam, tết Nguyên đán là những ngày lễ lớn nhất trong năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trải qua bao nhiêu năm, những phong tục cổ truyền của người Việt vẫn giữ được những nét bản sắc dân tộc.

Thăm mộ tổ tiên

Từ ngày 23 đến ngày 30 tháng chạp, con cái trong gia đình tề tựu đông đủ cùng nhau đi thăm, quét dọn mồ mả tổ tiên và đem theo hương đèn hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.

Trang trí, sửa soạn nhà cửa ngày tết

Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết đến xuân sang, nhà nhà đều dọn dẹp, sửa sang và trang hoàng nhà cửa thật đẹp theo đúng không khí của ngày Tết. Tất cả các đồ dùng trong gia đình, từ ghế ngồi, bàn thờ...đều được lau chùi sạch sẽ theo đúng nghĩa năm mới cái gì cũng phải mới. Trên tường treo những câu đối hoặc tranh tết. Trong nhà đặt các lọ hoa với đủ màu sắc tươi mới như cúc vàng, hoa hồng...hoặc những cây quất với những trái quất vàng ươm làm rực lên một góc không gian.

Nói đến tết không thể không nhắc đến hoa đào - loài hoa chỉ có vào mỗi dịp tết đến xuân sang ở miền Bắc, với người miền Nam thì có mai vàng.

Bên cạnh đó còn có mâm ngũ quả được bày lên trên bàn thờ. Các loại trái cây được bày lên thể hiện mong muốn của gia chủ cho một năm mới với những điều tốt lành.

Phong tục cúng ông Táo

Hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp, người Việt Nam lại có tục cúng ông Táo. Ông Táo hay còn gọi là Thần Bếp, có trách nhiệm theo dõi mọi việc xảy ra trong gia đình rồi trình bào cho Trời. Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày 23 tháng Chạp, nhà nào cũng thu dọn nhà cửa, bếp sạch sẽ rồi làm lễ cúng tiễn ông Táo lên trời, nhờ ông báo cáo những điều tốt đẹp để một năm mới bình an và may mắn.

Theo lệ, lễ cúng ông Táo được đặt trong bếp và phải có cá chép vì tục truyền rằng ông Táo cưỡi cá chép để lên trời.

Lễ rước vong linh Ông Bà

Là lễ mời ông bà về ăn Tết với con cháu.Chiều ngày 30 tháng Chạp, trên bàn thờ tổ tiên được bày 1 mâm cỗ bao gồm trái cây và thức ăn. Người gia trưởng thắp hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới. Theo sau đó mọi người trong gia tộc đều chắp tay cung kính thỉnh vong linh ông bà về ăn Tết.

Chợ tết

Những phong tục cổ truyền của người Việt trong ngày Tết Nguyên đán - Ảnh 1

Chợ ngày tết có không khí khác hẳn những phiên chợ ngày thường trong năm. Ảnh minh họa.

Chợ ngày tết có không khí khác hẳn những phiên chợ ngày thường trong năm. Theo thói quen, người đi chợ sắm tết thường mua rất nhiều đồ. Tuy nhiên, những đồ này không phải là để dự trữ trong những ngày tết mà là theo thói quen, người Việt Nam thường quan niệm, cả năm mới có một ngày tết nên mua sắm cũng nhiều hơn ngày thường. Đặc biệt, những món ngon độc lạ mà ngày thường không có thì được bày bán trong những phiên chợ tết. Người người đi chợ sắm tết tạo nên không khí ngày tết ấm cúng, sôi nổi.

Tục xông nhà

Theo phong tục, cứ đến đêm giao thừa mọi người thường ở trong nhà không đi đến nhà khác để đợi có người đến xông nhà, rồi mọi người mới được đi chúc tết nhà khác. Người ta tin rằng, người xông nhà đầu năm sẽ ảnh hưởng đến tương lai của chủ nhà trong cả năm mới. Tuổi tác người xông nhà cũng khá quan trọng, vì thế trước tết chủ nhà thường chọn người quen biết, hợp tuổi để đến xông nhà cho nhà mình.

Hái lộc đầu xuân

Trong đêm giao thừa, mọi người thường đi lễ chùa để cầu một năm mới tốt lành, sức khỏe tốt trong một năm mới. Sau đó người ta sẽ ngắt một cành lộc ở một cành cây nào đó. Nếu ngắt được cành lá tươi tốt thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên, ngày nay người ta ít làm tục này.

Phong tục chúc tết, mừng tuổi

Chúc tết hay mừng tuổi là những phong tục từ lâu đời để mong muốn những điều tốt lành nhất sẽ đến với mọi người trong gia đình. Theo lệ, thường thì vào mùng 1 con cái chúc tết ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chúc lại con cháu bằng một phong lì xì có tiền đi kèm với lời chúc hay ăn, chóng lớn. Tiền lì xì thường là những tờ tiền còn mới, vì người ta quan niệm rằng, năm mới cái gì cũng phải mới mẻ thì một năm sẽ gặp được nhiều điều may mắn đến.

Những phong tục cổ truyền của người Việt trong ngày Tết Nguyên đán - Ảnh 2

Mừng tuổi là những phong tục từ lâu đời để mong muốn những điều tốt lành nhất sẽ đến với mọi người trong gia đình. Ảnh minh họa.

Trong những ngày đầu năm, thường thì từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 3, mọi người còn đến chúc tết anh chị em, bà con họ hàng, bạn bè để chúc những điều tốt đẹp nhất cho một năm mới đến. Khi chủ nhà được chúc tết thường tiếp đãi người đến chúc tết ăn uống để thể hiện thành ý và tình thân với nhau.

Phong tục xuất hành

Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm mới. Người ta tin rằng hướng đi này sẽ có ảnh hưởng tới tương lai của mỗi người trong năm sắp tới. Cho nên, theo tuổi tác của mình, mỗi người xem sách lịch do những nhà bói toán viết ra để chọn hướng đi và giờ bắt đầu cho thích hợp. Ngày nay phong tục này không còn được nhiều người tin và làm theo.

Tục kiêng cử

Trong 3 ngày đầu năm người ta thường thận trọng lời ăn tiếng nói và hành động vì tin rằng có thể đem lại hên xui cho cả năm. Thí dụ như không quét rác, nhất là quét xác pháo ra khỏi nhà vì bị xem là quét tiền ra cửa. Không tặng thuốc men hay dao nhọn vì bị xem là dấu hiệu của bệnh hoạn và xung khắc. Không khóc lóc than thở hay đập vỡ chén dĩa vì đó là dấu hiệu của sự đổ vở trong gia đình. Không mặc đồ trắng hay đen vì bị xem là dấu hiệu của sự tang tóc.

HUYỀN NA (TỔNG HỢP)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phong tục cổ truyền của người Việt trong ngày Tết Nguyên đán

Giải mã sức hút của chàng trai Bạch Dương - Harry Lu

Chàng trai Bạch Dương Harry Lu bằng những bước tiến đầy bất ngờ vào giới showbiz, đã chiếm được cảm tình của không ít người hâm mộ, nhất là các fan nữ.
Giải mã sức hút của chàng trai Bạch Dương - Harry Lu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giai ma suc hut cua chang trai Bach Duong - Harry Lu hinh anh
 
Sinh ngày 17/04/1992,  dưới chòm sao Bạch Dương, anh chàng 'hotboy' xứ Đài còn sở hữu thêm sao Thủy và sao Kim ở cung Bạch Dương, khiến anh gặp khá nhiều tình huống và tin đồn khá tréo ngoe trên con đường hoạt động trong làng giải trí Việt.
  Bạch Dương vốn nổi tiếng là cung hoàng đạo khá bốc đồng, thích thử thách và không ngại thử nghiệm những thứ mới trong cuộc sống. Mang trong mình tính cách mạnh bạo và lối tư duy đơn giản, cùng đôi chút 'liều lĩnh' của chòm sao cung Lửa này, Harry không ngần ngại tham gia các cơ hội bất ngờ đến với mình, từ vai trò người mẫu ảnh cho các báo tuổi teen đến việc quyết định tham gia thử vai trong một bộ phim mới do bạn bè giới thiệu.
 
Sau thành công của bộ phim Thần Tượng cùng Hoàng Thùy Linh, những tưởng anh chàng sẽ tiếp tục gắn với hình ảnh 'hotboy' phim thần tượng Việt, nhưng với ý chí chinh phục không ngừng nghỉ của Bạch Dương, Harry đã nhanh chóng đánh sang sân chơi điện ảnh với bộ phim Hương Ga và tiếp tục bước một bước tiến bất ngờ vào dòng phim truyền hình với series Trở về.

Giai ma suc hut cua chang trai Bach Duong - Harry Lu hinh anh
 

 
Trên truyền thông, anh luôn khẳng định sẽ luôn nỗ lực cố gắng để vượt qua hình ảnh hotboy đóng phim của mình để được khán giả công nhận và gọi mình là diễn viên Harry Lu. Tuy nhiên, với ngoại hình điển trai, siêu dễ thương của mình, dĩ nhiên các fan Việt cũng như các nhà sản xuất sẽ chẳng thể để yên cho anh chàng này rời khỏi thế giới phim thần tượng dễ dàng đến thế.
 
Cuối năm 2015, Harry trở lại với phim ngắn Yêu anh một ngày vào đúng dịp lễ Giáng Sinh và nhanh chóng cán mốc 1 triệu lượt xem trên Youtube. Chưa hết, hiện tại, các 'fan' cũng đang rất mong chờ bộ phim '4 năm 2 chàng 1 tình yêu' ra mắt khi hàng loạt các cảnh hôn ngọt như mía lùi của Harry và Midu đang liên tục được tung ra trên các báo.   Bên cạnh những bước đi táo bạo trong nghệ thuật, Harry cũng có một bộ sưu tập 'bạn gái tin đồn' không nhỏ. Có lẽ sao Kim ở cung Bạch Dương đã gây ra cho anh chàng không ít rắc rối. Tình yêu với Bạch Dương cũng như một ngọn lửa khi mới nhóm lên. Cảm xúc chỉ cháy bùng khi mới bén lửa nhưng sau đó ngay lập tức sẽ giảm hẳn đi và chỉ còn liu riu hơi ấm như đám lửa trại nhỏ mà thôi. Đây cũng có thể là điểm dễ khiến các cô gái dễ hiểu lầm về tình cảm của chàng trai Bạch Dương này dành cho mình, hay vì chính những cảm xúc bốc đồng lúc đầu của anh chàng mà trót 'cảm nắng' rồi không có cách nào thoát ra được.
Giai ma suc hut cua chang trai Bach Duong - Harry Lu hinh anh
 
Không chỉ có thế, Harry còn là người khá khéo léo và luôn có xu hướng muốn làm hài lòng đối phương, đặc biệt là với phái nữ nhờ vào sự trợ giúp của Mặt Trăng ở cung Thiên Bình. Cộng thêm ảnh hưởng của sao Hỏa Song Ngư, luôn mang tới những hành động lãng mạn, bay bổng, bảo bọc người mình có cảm tình, việc anh chàng thường xuyên 'đốn nhầm' tim bạn diễn có lẽ sẽ không chỉ dừng lại như những 'thống kê' của báo giới hiện nay. Cảm xúc dễ bộc phát bất ngờ, khó kiểm soát; tâm lý luôn muốn chiều lòng mọi cô gái dù mới hay cũ; bản năng hành động lãng mạn không cần tập luyện; việc tiếp xúc với anh chàng Bạch Dương Harry Lu quả là một rủi ro lớn cho các cô nàng mắc chứng 'khó bình ổn nhịp tim'.
  'Đa mệnh, đa tài, đa hệ lụy', con đường trước mắt với nghệ thuật của Harry Lu có lẽ sẽ không chỉ đơn giản dừng lại ở phim ảnh, cũng như không chỉ dừng lại ở những tin đồn tình cảm nhẹ nhàng kiểu 'tuổi học đường' như bây giờ. Tuy nhiên, với tính cách đa phần khá vô tư, tự tin và không ngại thử thách của một Bạch Dương đầy nhiệt thành, đam mê, hi vọng Harry sẽ sớm chinh phục được ước mơ của mình và được công chúng công nhận với cái tên 'Diễn viên Harry Lu'.

ST.

Khám phá tính cách và sự nghiệp của bộ ba Bộ Bộ Kinh Tâm phiên bản Hàn Mai Ngô - cô nàng Sư Tử đầy kiêu hãnh Hòa Minzy, Công Phượng - Mối nhân duyên mong manh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã sức hút của chàng trai Bạch Dương - Harry Lu

Tuyệt chiêu phong thủy "dụ" chồng về nhà

Những mẹo phong thủy giữ chồng hay ho để kéo chồng về nhà.
Tuyệt chiêu phong thủy "dụ" chồng về nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngôi nhà là tổ ấm của vợ chồng, là nơi thể hiện rõ ràng nhất tình cảm của lứa đôi. Nếu chồng thường xuyên vắng nhà, đi sớm về khuya, hay đơn giản là muốn tình cảm gắn bó hơn, hãy thử áp dụng mẹo phong thủy giữ chồng dưới đây, bạn sẽ thấy hiệu quả bất ngờ.

Tuyet chieu phong thuy du chong ve nha hinh anh
 
Bố cục
Bố cục của căn nhà cần phải có sự cân đối giữa hai bên trái phải, bởi bên trái tượng trưng cho người chồng, bên phải tượng trưng cho người vợ. Nếu bên trái đặt những đồ đạc cao lớn hoặc phía trái nhà có tòa nhà cao tầng mà bên phải không có gì sẽ khiến vị thế của người chồng gia tăng, người vợ bị lép vế, chồng thiếu quan tâm gia đình.
 
Vì vậy, lúc này người vợ cần phải có sự thay đổi về bố cục căn phòng sao cho cân đối và hợp lý hơn, bài trí đồ đạc cân xứng hai bên để tạo thế cân bằng trong gia đình. Đây là mẹo phong thủy giữ chồng đặc biệt quan trọng.
 
Trang trí nội thất Nhà ở nên trang trí nhã nhặn, màu sắc vừa phải, tránh dùng những màu quá lòe loẹt, bắt mắt. Đặc biệt, không sử dụng nội thất như quán bar, quán cà phê, sàn nhảy để bố trí trong nhà. Quen với không gian như vậy, chồng bạn sẽ thường xuyên mơ mộng, tơ tưởng tới những chốn ăn chơi, và không lâu sau sẽ tự tìm đến.
 
Vị trí bếp Căn bếp được coi là vật tượng trưng cho nữ chủ nhân trong nhà. Tốt nhất phía sau bếp phải có tường bởi điều này ngụ ý rằng người vợ có điểm tựa và chỉ huy, quán xuyến được mọi việc trong nhà. Nếu phía sau bếp là cửa sổ, cho thấy phía sau lưng chơi vơi, không có điểm tựa đồng nghĩa với việc người vợ không hề có tiếng nói trong gia đình. Nếu phạm phải lỗi phong thủy này, người vợ nên thay đổi, bố trí lại để tạo vị thế trong gia đình. Có vị thế, ắt chồng phải quay về nhà.
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyệt chiêu phong thủy "dụ" chồng về nhà

Những vật đại kị để trong phòng ngủ

Tình cảm vợ chồng có thể bị rạn nứt và mâu thuẫn nếu như gia chủ bài trí những vật kị trong phòng ngủ dưới đây.
Những vật đại kị để trong phòng ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình cảm vợ chồng có thể bị rạn nứt và mâu thuẫn nếu như gia chủ bài trí những vật kị trong phòng ngủ dưới đây.

1. Di ảnh người đã khuất

Trong phong thủy phòng ngủ, di ảnh của người đã khuất mang ý nghĩa không tốt lành. Nó khiến cặp vợ chồng dễ bị mộng mị, bóng đè, ảnh hưởng xấu tới giấc ngủ và sức khỏe. 

Nhung vat dai ki de trong phong ngu hinh anh
Không nên treo di ảnh người đã khuất trong phòng ngủ

Nếu muốn bày di ảnh người quá cố, bạn nên để ở một vị trí trang trọng trong phòng khách hoặc một nơi an tịnh sạch sẽ, tiện cho việc thờ cúng.
 
2. Tượng Phật, thần linh

Xét về góc độ tín ngưỡng tôn giáo, tượng Phật hoặc thần linh là vật đại kị trong phòng ngủ. Còn theo quan điểm phong thủy, đó là việc làm không mang lại may mắn và tài lộc cho gia chủ. Công danh sự nghiệp của người này sẽ chỉ ở mức trung bình, không thể vượt trội.
 
Nếu thực sự có tâm thờ Phật hoặc thần linh, gia chủ nên bài trí những vật này ở phòng khách hoặc xây một Phật đường riêng biệt để thờ phụng. Tốt nhất nên sắp xếp một không gian chuyên dùng cho việc thờ cúng, phục vụ tín ngưỡng tôn giáo của mỗi người.
 
3. Bài trí bể cá trong phòng ngủ
 
Không ít gia chủ nhầm tưởng rằng, bể cá đặt trong phòng ngủ sẽ kích thích mối hòa hợp giữa vợ chồng. Theo phong thủy phòng ngủ, bể cá, bồn rửa mặt hoặc tranh vẽ hồ nước, biển, sông, suối…thuộc hành Thủy, nếu đặt trong phòng ngủ sẽ ảnh hưởng đến tình cảm đôi lứa. Vợ chồng thường xuyên xảy ra bất hòa, dễ hiểu nhầm hoặc giấc ngủ bị gián đoạn, bất an.
 
4. Cổ vật quý giá
 
Những cổ vật hoặc di vật cổ là thứ thuộc về quá khứ. Nếu cất giữ nó trong phòng ngủ sẽ khiến tâm trí vợ chồng bất an, hay mộng mị, tinh thần xuống dốc, không thể tập trung làm việc…Do đó, nên tránh bài trí vật đại kị này trong phòng ngủ.

5. Bài trí nhiều đồ dùng bằng kim loại
 
Nguyên tắc bài trí đúng phong thủy phòng ngủ đó là dùng nhiều vật bằng gỗ hơn là kim loại. Những đồ vật bằng kim loại có sát khí nặng, dễ gây bất an thậm chí là tổn thương bên ngoài cho người trong phòng ngủ.
 
Con người sinh ra đã gắn liền với cây cối. Yếu tố Mộc chính là cái nôi nuôi dưỡng con người. Do đó, nên bài trí nhiều đồ gỗ hơn kim loại trong phòng ngủ để thu hút nguồn năng lượng tốt, cải thiện mối quan hệ vợ chồng.

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật đại kị để trong phòng ngủ

Thông tin về sinh mệnh nhân thể học có quan hệ như thế nào với phong thủy? –

Con người là chúa tể của trái đất, là tinh hoa của vũ trụ, linh trưởng của muôn vật. Trong tất cả các nghiên cứu của chúng ta, bao gồm cả phong thủy học hiện đại, đều là vì con người, vì phục vụ cho nhân loại, làm cho cuộc sống của con người trên tin

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

h cầu này ngày càng mạnh khỏe, càng tốt đẹp, càng thoải mái hơn.

70074269-86169sm

Đương nhiên, mỗi giờ mỗi khắc nhân loại đều chịu ảnh hương tốt xấu của các nhân tố và tin tức, năng lượng trong giới tự nhiên, địa cầu và vũ trụ. Phải nghiên cứu các ảnh hưởng quy luật của năng lượng, thông tin này đối với sinh mệnh nhân thể, từ đó tìm ra được phương pháp hướng lợi tránh hại, hướng cát tránh hung, thì nhất thiết phải nghiên cứu bân thân nhân thể, nghiên cứu quy luật tin tức sinh mệnh nhân thể.

Cơ thể con người là do nhiều loại sinh mệnh thể hữu cơ cao cấp nhất cấu thành, bản thân cơ thể con người cũng không ngừng sản sinh ra các tin tức và năng lượng; các tin tức, năng lương này nhất thiết phải hài hòa đồng bộ với các tin tức, năng lượng của giới tự nhiên mới có thể đạt được hiệu ứng cộng hưởng hài hoà, con người mới ngày càng sinh tồn và phát triển tốt hơn.

Phong thủy học truyền thông cho răng: Mơi sinh mệnh của cá nhân đều có “mệnh cách” không giống nhau. Dùng tin tức nhân thể học để giải thích giản đơn chính là: Mỗi cơ thể cá nhân đều có tin tức sinh giống nhau. Đấy là “mệnh cách” không giống nhau hoặc là sự đối tiếp, giao hoán trạng thái năng lượng, tin tức sinh mệnh, năng lượng và tổ hợp kết cấu không giống nhau với địa điểm vị trí không giống nhau và với tin tức năng lượng tự nhiên không giống nhau sẽ sản sinh ra hiệu ứng chính phụ không giống nhau. Đây chính là đối tượng cần nghiên cứu của tin tức sinh mệnh nhân thể học và phong thủy học.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thông tin về sinh mệnh nhân thể học có quan hệ như thế nào với phong thủy? –

Thống kê các loại đá quý phong thủy –

Đá quý phong thủy một tên gọi rất quen thuộc. Ở những bài trước chúng ta đã tìm hiểu Thạch anh là gì? đặc tính, ý nghĩa của Đá Thạch Anh cũng như là tác dụng của đá thạch anh... Còn trong bài viết sau đây chúng tôi sẽ thống kê các loại đá quý phong t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá quý phong thủy một tên gọi rất quen thuộc. Ở những bài trước chúng ta đã tìm hiểu Thạch anh là gì? đặc tính, ý nghĩa của Đá Thạch Anh cũng như là tác dụng của đá thạch anh… Còn trong bài viết sau đây chúng tôi sẽ thống kê các loại đá quý phong thủy để mọi người cùng tham khảo và chọn cho mình sản phẩm từ loại đá quý yêu thích và phù hợp.

Nội dung

  • 1 Đá quý
    • 1.1 Nhóm đá quý theo tiêu chuẩn quốc tế
    • 1.2 Ý nghĩa 4 loại đá trong nhóm đá quý theo tiêu chuẩn quốc tế
  • 2 Nhóm 4 loại đá quý theo tiêu chuẩn quốc tế
    • 2.1 Kim cương
    • 2.2 Ruby
    • 2.3 Sapphire
    • 2.4 Emerald

Đá quý

Dựa trên cơ sở khoa học có rất nhiều yếu tố để đánh giá một viên đá. Một viên đá quý phải thỏa mãn được các điều kiện: Hiếm gặp trong tự nhiên, có độ cứng cao để không bị xây xước khi sử dụng, có màu sắc đẹp, không bị ăn mòn, có ánh lấp lánh …

Nhóm đá quý theo tiêu chuẩn quốc tế

Theo tiêu chuẩn quốc tế, nhóm đá quý chỉ bao gồm 4 loại đá là Kim Cương (Diamond), Hồng Ngọc (Ruby), Lam Ngọc (Sapphire), Ngọc Lục Bảo (Emerald).

Ở một số nước, nhóm đá quý còn được bổ sung một số loại đá khác là Ngọc mắt mèo (Chrysoberyl), Alexandrite (Cũng là 1 loại đá trong nhóm Chrysoberyl, có khả năng đổi màu dưới các ánh sáng khác nhau), Ngọc trai (Pearl) và Ngọc cẩm thạch hoàng gia (Jade màu lục)

Ý nghĩa 4 loại đá trong nhóm đá quý theo tiêu chuẩn quốc tế

Có một điều không phải ai cũng biết, đó là màu sắc của 4 loại đá quý Kim cương, Ruby, Sapphire, Emerald cũng chính là đại diện cho 4 yếu tố cơ bản trong văn hóa phương Tây bao gồm Nước (Water) – Sapphire, Lửa (Fire) – Ruby, Đất (Earth) – Emerald và Khí (Air) – Kim Cương.

Ngoài ra 4 loại đá quý này cũng đại diện cho 4 mùa trong năm. Emerald mang màu xanh tươi tắn của mùa xuân. Ruby rực lửa của mùa hè. Sapphire xanh biếc tĩnh lặng như mùa thu. Còn Kim cương trắng trong, tinh khiết tựa như băng tuyết mùa đông.

Nhóm 4 loại đá quý theo tiêu chuẩn quốc tế

Kim cương

Trong thế giới đá quý, không có gì phải lăn tăn khi nói rằng Kim Cương (Diamond) chính là loại đá hoàn hảo nhất và có giá trị cao nhất.

Kim cương có đầy đủ những đặc tính để khiến nó vượt xa tất cả các loại đá khác. Cái tên Diamond bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, mang ý nghĩa “không thể phá hủy”. Thật vậy, Kim cương có độ cứng tuyệt đối 10/10 trong thang đo độ cứng Mohs.

Kim cương cũng có chiết suất cao nhất trong các loại đá tự nhiên, khiến cho mức độ phản xạ, khúc xạ và tán sắc ánh sáng cực mạnh, tạo ra ánh lửa lấp lánh nhất khi được mài cắt. Đồng thời Kim cương cũng là loại đá hiếm và khó khai thác nhất, khi chúng hình thành ở những điều kiện ngặt nghèo nhất của thiên nhiên, dưới áp suất lên tới 5 gigapascal và nhiệt độ khoảng 1200 độ C ở độ sâu tới 150km trong lòng Trái Đất.

Kim Cương cũng là loại đá có tuổi đời lâu nhất, hình thành từ 1 tỷ đến 3,3 tỷ năm trước. Mỗi viên Kim Cương đều là tinh hoa mà thiên nhiên sinh ra và ban tặng. Chỉ những biến cố lớn của thiên nhiên như động đất, núi lửa mới đủ sức mạnh để đẩy Kim cương từ sâu trong lòng đất lên gần lớp bề mặt và con người có thể khai thác.

Hiện nay mỗi năm thế giới khai thác được khoảng 26 tấn Kim cương tự nhiên và sản xuất khoảng 100 tấn Kim cương nhân tạo. Tuy nhiên chỉ 20% trong số đó đạt chất lượng làm trang sức. Số còn lại sẽ sử dụng trong các ngành công nghiệp và nghiên cứu. Do vậy Kim cương lại càng hiếm và có giá hơn.

Kim cương hợp với người mệnh Kim hoặc Thủy.

Kim Cương là biểu tượng của chòm sao Bạch Dương, Kim Ngưu, Sư Tử trong cung hoàng đạo.

Ruby

Từ xưa đến nay, Ruby (hay còn gọi là hồng ngọc) luôn được mệnh danh là ông hoàng của các loại đá quý. Tên Ruby bắt nguồn từ tiếng Latinh “rubeus” có nghĩa là màu đỏ sẫm.

Truyền thuyết kể rằng, Ruby chính là những giọt máu rỉ ra từ trái tim người mẹ vĩ đại của muôn loài – Thần Đất. Chính vì thế, màu đỏ rực rỡ của Ruby chính là tượng trưng cho mặt trời, tự do và quyền lực.

Thời xa xưa, các chiến binh đã găm những viên hồng ngọc dưới da và tin rằng chúng sẽ mang lại sự quả cảm cho họ trong trận chiến. Ruby còn được sử dụng như một loại bùa chú có tác dụng cảnh báo trước hiểm hoạ và tai ương, mang đến sức khoẻ tốt và sự bình an trong tâm hồn.

Từ thời xa xưa, Ruby đã được gán cho những tính chất siêu nhiên, trong đó có khả năng ngăn ngừa các căn bệnh nặng và tạo cho cơ thể nguồn năng lượng.

Người ta cho rằng Ruby chữa các bệnh về tim, não, làm tăng thêm sức mạnh và trí nhớ của con người. Người ta gán cho Ruby cả tác dụng giải độc. Những viên đá này dường như cứu người chủ của nó thoát khỏi các loại chất độc. Ruby có khả năng chữa các bệnh về máu, bệnh ở cột sống và khớp.

Ngoài ra, còn nhận thấy khả năng của Ruby trong việc ngăn ngừa những cơn động kinh, có ảnh hưởng tốt tới hệ thần kinh. Loại đá này có khả năng chứa chứng trầm uất, điều trị bệnh mất ngủ và tâm thần phân liệt.

Trên thế giới, nếu quê hương của kim cương là Châu Phi, Nga, Australia… thì những cái nôi của ngọc Ruby huyền thoại lại ở các nước Phương Đông trong đó có Việt Nam. Tỉnh Yên Bái ở phía bắc Việt Nam hiện nay có một lượng ruby rất lớn. Ngoài ra, vùng núi Quỳ Châu tỉnh Nghệ An cũng có nhiều ruby có độ phát sáng cao.

Quan niệm gắn sự thiêng liêng của đá quý với con người đã có từ rất xa xưa, và bây giờ, nó trở thành một thứ niềm tin trong cuộc sống hiện đại. Với Ruby, người ta tin rằng sở hữu được viên ngọc là có được sức khỏe và lòng tự tin, sự quyết đoán để đi tới vinh quang, đồng thời bảo vệ mình bình an trước những phong ba bão táp của cuộc đời. Không phải ngẫu nhiên mà Ruby – hồng ngọc luôn được gắn trên những chiếc nhẫn đăng quang của các bậc vua chúa tại các quốc gia châu Âu, và là món đồ trang sức ưa thích bởi các thành viên trong hoàng tộc.

Ruby hợp với những người mệnh Hỏa hoặc mệnh Thổ.

Ruby là đá biểu tượng của những người sinh tháng 7.

Ruby là biểu tượng của chòm sao Bạch Dương, Cự Giải, Sư Tử, Bọ Cạp, Nhân Mã trong cung Hoàng Đạo.

Sapphire

Đẳng cấp của Sapphire thì khỏi phải bàn cãi. Sapphire cùng với Kim cương, Ruby và Emerald là 4 loại đá được xếp vào nhóm đá quý, có giá trị cao nhất trên thị trường trang sức. Bên cạnh đó Sapphire còn có rất nhiều giá trị và tác dụng khác.

Không phải ngẫu nhiên mà Sapphire được gọi là “đá của các nữ tu”, nó giúp họ gìn giữ trinh tiết. Người ta cho rằng Sapphire có năng luợng cảm thụ;

Chúng làm giảm huyết áp, có tác dụng chống mất ngủ, đau lưng, cảm mạo và thậm chí cả với ung thư.

Nhẫn, vòng tay gắn Sapphire đeo ở tay trái giúp điều trị bệnh hen suyễn, bênh tim và bệnh đau dây thần kinh. Người ta tin rằng, Sapphire có khả năng chữa khỏi bệnh phong và “mọi thứ u ác khác”. Nước ngâm Sapphire giúp chữa các bệnh về mắt.

 

Từ xa xưa, Sapphire đã được coi như biểu tượng của sự thông thái, quyền lực, chiến thắng và sự công bằng. Người ta cho rằng, Sapphire làm cho con người trở nên bình tĩnh, chế ngự niềm đam mê và có khả năng ảnh hưởng tới dòng chảy của thời gian. Đặc biệt “có sức mạnh” là những viên đá mà nhờ có tạp chất rutile nên khi mài xong sẽ xuất hiện ba tia sáng cắt nhau trên bề mặt của chúng. Những viên đá này có liên hệ với các sức mạnh vĩ đại là niềm tin, hy vọng, tình yêu. Người ta cũng cho rằng nhẫn gắn Sapphire giúp cảm nhận được lời nói dối. Nó cũng có khả năng giúp con người tìm được mục đích trong cuộc sống, vựơt qua sợ hãi, lười biếng và sự vô công rồi nghề, đánh thức sự khát khao kiến thức.

Sapphire xanh/đen phù hợp với người mệnh Thủy hoặc mệnh Mộc. Sapphire vàng hợp với người mệnh Thổ hoặc mệnh Kim. Sapphire xám hợp với người mệnh Kim hoặc mệnh Thủy.

Sapphire là đá biểu tượng của những người sinh vào tháng 9.

Sapphire là biểu tượng của chòm sao Xử Nữ, Thiên Bình, Nhân Mã trong cung hoàng đạo.

Emerald

Emerald (Ngọc lục bảo), loại đá quý cao cấp nhận được rất nhiều sự quan tâm của dân sành đá. So về đẳng cấp thì Emerald xếp ngang hàng với Ruby, Sapphire, và là 1 trong 4 loại đá có giá trị cao nhất trên thị trường đá quý.

Khoảng 4000 năm qua, các nền văn hóa trên khắp thế giới xem emerald là báu vật, người ta cho rằng nó giúp phát triển trí thông minh cũng như chất xúc tác tình yêu. Truyền thuyết kể rằng ai sở hữu nó sẽ có được tài hùng biện.

Xác ướp Ai Cập xưa được chôn cùng với Emerald đeo trên cổ để chứng tỏ tuổi trẻ bất diệt. Emerald cũng là loại đá quý được Cleopatra ưa thích.

Các Mogul (vua chúa Hồi giáo cổ từ thế kỷ 16 đến 19) ở Ấn Độ, trong đó có Shah Jahan, người đã xây đền Taj Mahal, thích emerald đến nỗi mà họ hay khắc lời kinh lên chúng và đeo như là bùa chú. Một số đá quý linh thiêng này, được gọi là Emerald Mogul, ngày nay vẫn còn thấy chúng trong các bảo tàng và các bộ sưu tập.

 

Ngay cả các ngôi sao Hollywood cũng cực kỳ ưa chuộng trang sức gắn đá Emerald. Một trong số đó là Angelina Jolie. Cô thường xuyên xuất hiện trong các sự kiện lớn với trang sức Emerald.

Nhờ có màu lục mạnh là màu của mùa xuân nên từ lâu người ta xem emerald là biểu tượng của tình yêu và sự tái sinh.

Vì emerald không tạp chất cực kỳ hiếm cho nên người ta chấp nhận emerald có một số tạp chất nhất định và chúng không làm giảm giá trị viên đá.

Emerald thường được cắt mài theo kiểu hình chữ nhật, giác tầng đặc trưng. Kiểu cắt này được dùng luôn làm tên chuẩn quốc tế: Kiểu cắt Emerald. Màu xanh lục đặc trưng của Emerald cũng được đặt tên theo tên đá: Xanh Emerald.

Emerald hợp với những người mệnh Mộc hoặc mệnh Hỏa.

Emerald cũng là đá biểu tượng của những người sinh tháng 5.

Emerald là biểu tượng của chòm sao Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Thiên Bình trong cung hoàng đạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thống kê các loại đá quý phong thủy –

Mơ thấy mặt trời mọc: Có cảm giác dựa dẫm vào cha –

Mặt trời trong mơ đại diện cho tình cha ấm áp và cao lớn. Mơ thấy mặt trời, cho thấy người nằm mơ có cảm giác dựa dẫm vào cha, luôn hy vọng được cha bảo bọc chở che, luôn khát khao được cha quan tâm săn sóc, không muốn một mình ra khỏi nhà, chẳng mu
Mơ thấy mặt trời mọc: Có cảm giác dựa dẫm vào cha –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mặt trời mọc: Có cảm giác dựa dẫm vào cha –

Đi đền chùa như thế nào cho đúng?

Từ xưa đến nay, đi lễ chùa – một hoạt động gắn liền với đạo Phật đã trở thành một tập tục đẹp luôn được duy trì trong mỗi người con, mỗi gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai đến chùa cũng có những mục đích giống nhau và không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa nên bên cạnh những người đến chùa với đúng nghĩa lễ Phật.
Đi đền chùa như thế nào cho đúng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Từ xưa đến nay, đi lễ chùa – một hoạt động gắn liền với đạo Phật đã trở thành một tập tục đẹp luôn được duy trì trong mỗi người con, mỗi gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai đến chùa cũng có những mục đích giống nhau và không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa nên bên cạnh những người đến chùa với đúng nghĩa lễ Phật. Sự thiếu hiểu biết về đạo Phật đang làm méo mó, biến dạng các lễ hội gắn với chùa chiền. Do vậy, để hoạt động tín ngưỡng diễn ra đúng với bản chất, góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc, bài trừ mê tín dị đoan thì cần có cái nhìn đúng đắn về chùa chiền và giáo lý đạo Phật.

** Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐI CHÙA LỄ PHẬT **

Chùa chiền là cơ sở tu học và truyền bá giáo pháp. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói chùa là một ngôi trường dạy về đạo Phật, là nơi gìn giữ và truyền bá tư tưởng của Đức Phật thông qua hoạt động truyền pháp.

Vậy đến chùa để làm gì?

Thứ nhất, đối với những người có hiểu biết về Phật giáo, tự nguyện phát tâm hướng Phật, thì đến chùa trước hết là lễ Phật. Lễ Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân, mà chỉ vì quý kính công đức, trí tuệ của Phật. Khi lễ Phật, người làm lễ cúi lạy Phật để thấy mình còn thấp kém, còn nhiều dục vọng, tham lam… mà sửa đổi. Sau lễ Phật là tham gia tụng niệm, học hỏi Chánh pháp, tập tu đức hạnh. Phật giáo với tám vạn bốn nghìn pháp môn nên không thể một một sớm một chiều mà lĩnh hội được. Do vậy phải thường xuyên tới lui cửa thiền để học tập. Trong trường hợp này, hễ có thời gian thì người ta đi chùa, không cứ phải ngày lễ, ngày Tết.

Thứ hai, phần lớn người dân Việt Nam đi lễ chùa, họ đi đến chùa để cầu xin từ chuyện cầu bình an, sức khỏe đến việc mong “trời Phật phù hộ” cho kết quả học tập của con cái, hay chuyện làm ăn, buôn bán, tình duyên sẽ thuận lợi và ngày càng tốt hơn. Thông thường, mọi người sẽ đi chùa vào các ngày Rằm và mồng Một hàng tháng hoặc khi có các sự kiện Phật giáo.

Thứ ba, những người không vì cầu xin bình an, sức khỏe hay hỏi đạo mà vẫn đi chùa. Đây là trường hợp vì mưu sinh, đua chen trong cuộc sống thần kinh bị căng thẳng, hoặc là nhiều người cũng đến chùa vì gặp khúc mắc trong cuộc sống, như khi thi trượt, đau khổ vì chia tay người yêu, thất nghiệp,…và khi không thể giải quyết được những vấn đề khó khăn, rơi vào trạng thái khủng hoảng, bế tắc nên tìm đến thiền môn. Với họ, đến chùa không những giúp bình tâm trở lại mà đôi khi việc đi chùa còn giúp họ tìm thấy được con đường hay nói cách khác là cách giải quyết những trăn trở của mình.

** ĐI CHÙA NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG **

Phần lớn người dân Việt Nam đi lễ chùa theo truyền thống gia đình. Tuy nhiên, việc sửa soạn đi lễ chùa, hoặc sắm lễ vật để đi lễ chùa, người đi lễ cần phải biết những quy định căn bản của nhà chùa mà người hành lễ phải tuân thủ

1./ Trang phục khi đi lễ chùa

Chọn màu sắc nhã nhặn:

Nếu có thể, bạn hãy chọn những trang phục có cùng tông màu với loại áo tràng các Phật tử thường mặc đi lễ chùa là màu nâu và lam

Chọn nhưng trang phục màu sắc nhã nhặn, cùng tông màu áo các Phật tử thường mặc

Khi đi lễ chùa bạn nên chọn trang phục nhã nhặn, sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, không mặc váy ngắn, quần cộc, áo xuyên thấu, khêu gợi…Bởi theo ngôn ngữ Phật giáo, ăn mặc gợi cảm quá mức vừa phạm giới uế tạp Phật đường, vừa phạm giới bất kính, dù người đó có mất công thờ cúng cũng không có ích gì.

Ngoài ra, Những loại trang phục rườm rà rất dễ gây vướng víu ở những nơi đông đúc như các đền chùa ngày đầu năm, quần áo có thể dễ dàng vướng vào hương hoặc bị tàn hương rơi làm rách, cháy vải. Có nhiều nơi quy định phải tháo bỏ giày dép trước khi vào sắp lễ nên hãy chọn những đôi giày đơn giản, dễ tháo, dễ đi. Đối với Phật tử thì phải mặc áo lễ khi đến điện thờ Phật trong chùa.

Không nên mặc những quần áo hở hang, không đúng thuần phong mỹ tục khi đi lễ chùa

2./ Nguyên tắc khi ra vào chùa

Khi bước vào nhà chính của đền, chùa, bạn không được đi vào từ cửa giữa. Khi đi qua cổng Tam quan vào chùa nên đi vào cửa Giả quan (bên phải) và đi ra bằng cửa Không quan (bên trái). Cửa Trung quan (chính giữa) chỉ dành cho Thiên tử, bậc cao tăng, bậc khoa bảng đi vào chùa và đi ra cũng theo cửa này.

Ngoài ra, bạn cũng không được dẫm lên bậu cửa nhà chùa.

3./ Về xưng hô

Nói chuyện với các nhà sư thì xưng là A di đà Phật, bạch Thầy… và xưng là Con. Xưng hô như vậy tức là nhìn thấy tăng mà tưởng nhớ thầy Thích Ca Mâu Ni, nghĩa là xưng hô với Đức Thích Ca. Nếu nhà sư đó là Thầy hướng dẫn bạn tu tập, thì xưng hô là Thầy ngoài ý nghĩa trên còn mang nghĩa là Thầy dạy học đạo. Khi thưa gửi với nhà sư thì đều chắp tay hình búp sen.

4./ Về đồ lễ khi đi chùa

Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm các lễ chay: hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè… không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả. Không đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện tức là chính điện, tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh.

Lễ dâng hương tại chùa là các đồ chay như hoa quả, bánh kẹo...

Việc sắm sửa lễ mặn chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Thánh, Mẫu và chỉ dâng ở đó mà thôi. Tuyệt đối không được dâng đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện (chính diện), tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh.

Lễ mặn (nhưng thường chỉ đơn giản: gà, giò, chả, rượu, trầu cau…) cũng thường được đặt tại ban thờ hay điện thờ (nếu xây riêng) của Đức Ông - Vị thần cai quản toàn bộ công việc của một ngôi chùa.

Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chỉ đặt ở bàn thờ Thần Linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông. Tiền giấy âm phủ hay hàng mã kiêng đặt ở ban thờ Phật, Bồ Tát. Tất cả tiền thật đều nên đặt vào hòm công đức chính. Không nên đi "rải" tiền trên tất cả ban thờ, đặt vào tay tượng. Nếu cẩn thận hơn, hòm công đức nào nằm lệch, không chính giữa ban thờ thì bạn hãy đặt tiền công đức vào hòm này. Thực tế đo đạc bằng máy móc cho thấy hòm công đức đặt chính giữa, ngay trước ban thờ sẽ tạo ra trường khí xấu gây nhiễu loạn tại ban thờ. Đặt tiền vào đây vô tình làm trường khí xấu càng bị xáo động, bất lợi cho mọi người.

Rượu, bia, thuốc lá không đặt được trên ban thờ Phật nhưng có thể đặt trên ban thờ Thánh. Hoa tươi lễ Phật là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu… không dùng các loại hoa tạp, hoa dại…

Tại chùa, cứ đến rằm tháng Bảy thì mọi người sắm sửa lễ vật đến cầu siêu cho ông bà, cha mẹ hay những người đã khuất, thậm chí cho cả cô hồn. Vào tiết này, sắm thêm lễ vật đặc trưng: đồ hàng mã chế tác theo hình vật cúng chúng sinh: cháo lá đa, ngôi, bánh đa, khoai… Tất cả dâng đặt ở ban thờ Đức Thánh chứ không đặt ở bàn thờ khác hay ban chính điện.

Riêng với các trường hợp “bán khoán” hay làm lễ “cầu siêu” thì cần phải sắm sửa lễ vật theo chỉ dẫn cụ thể của vị tăng trụ trì tại chùa.

5./ Khi thắp hương

Không để hương bị tắt trong khi đang sử dụng.

Nếu là hương que: Chú ý phải cắm thẳng, không để nghiêng lệch. Nếu thấy đã có hương, không cần thắp tiếp. Chỉ dùng một nén hương là được, không cắm hay thắp cả thẻ/gói hương.

Với hương tháp: Phải đặt vào giữa đĩa hương hoặc lư hương. Hương vòng: Chú ý đặt thuận theo chiều kim đồng hồ.

Không phải chỗ nào cũng cắm hương được. Chỉ cắm vào bát hương, nếu bát hương có hương rồi không cần cắm tiếp. Không cắm hương tùy tiện vào tay tượng, gốc cây, hay đồ lễ... 

6./ Cách hành lễ khi đi chùa

Bước 1 – Đặt lễ vật: thắp hương và làm lễ ở ban thờ Đức Ông trước tiên.

Bước 2 – Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang rồi làm lễ chư Phật, Bồ Tát.

Bước 3 – Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà bái đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.

Bước 4 – Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu).

Bước 5 – Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tùy tâm công đức.

Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ. Nếu muốn cầu xin may mắn trong sự nghiệp, tình cảm…thì bạn nên vào đình, đền.

Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật.

Khi bước đi không nên cắt ngang qua mặt những người đang quỳ lạy. Muốn làm lễ thì không nên quỳ phía sau những người đang đứng thắp hương. Tùy vào từng môn phái, có thể đứng/quỳ khi làm lễ nhưng cần phải lên trước.

7./ Lấy lộc để bàn thờ tại nhà

Không nên mang các đồ ở đình chùa về đặt lên bàn thờ nhà mình.

Chỉ cần đặt tiền vào hòm công đức, không cần lấy giấy công đức. Nếu có lấy cũng không nên mang đặt lên ban thờ nhà mình để báo công. Không lấy cành lộc mang về đặt lên bàn thờ nhà mình. Có thể lấy lộc là bánh kẹo, bao diêm, bật lửa nhưng không được đặt lên ban thờ.

Bùa, phù, chú... đa phần có trường khí âm, không nên mang về nhà, càng không nên đặt lên ban thờ hay nhét vào ví. Đặt bùa chú vào ví, cũng như luôn mang một trường khí âm, hỗn loạn theo người, chỉ gây thêm bất lợi cho bản thân.

** NHỮNG VIỆC KHÔNG NÊN LÀM KHI LỄ CHÙA **

1. Không chạy qua chạy lại, nói chuyện, bình phẩm, ngồi hoặc nằm trong Phật đường. Không tùy tiện hắt hơi, sổ mũi, khạc nhổ,… quanh khu vực Phật điện, tam bảo.

2. Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật

3. Vào Phật đường, tam bảo không nên đi giày dép, nhai trầu, hút thuốc. Tam bảo là nơi tôn nghiêm, có giới hương, định hương, chân hương, đòi hỏi phải trì giới để di dưỡng thanh tịnh, tuyệt đối không gây ồn ào, hỗn tạp.

4. Không nên mang theo mũ áo, khăn, túi xách, gậy gộc, bao tay… vào tam bảo bái Phật. Lỡ đặt những đồ đạc như vậy trên bàn, trên chiếu hoặc trong góc tam bảo để bái Phật thì mọi công quả tu dưỡng bấy lâu đều tiêu tán. Đi lễ chùa, tốt nhất không mang theo những đồ tùy thân khi vào tam bảo.

5. Trước tượng Phật nên cung kính nghiêm trang, không nhìn ngang ngó dọc, khệnh khạng trước tam bảo. Nếu muốn chiêm ngưỡng tượng Phật, nên đứng từ ngoài để quan sát.

6. Không nên chụp ảnh, quay phim tùy tiện trong chùa.

7. Tuyệt đối không được tự ý lấy sử dụng hoặc mang bất kỳ đồ đạc gì của nhà chùa về làm của riêng. Và cũng không nên mang các đồ ở đình chùa về đặt lên ban thờ nhà mình. Đồ đã cúng rồi không thể cúng lại; hơn nữa nhiều đồ có chứa trường khí âm, ảnh hưởng xấu đến ban thờ

** NHỮNG BÀI VĂN KHẤN TRUYỀN THỐNG TẠI CHÙA **

1. Văn khấn Đức Ông - Đức Chúa Ông (Tôn giả Tu-đạt)

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Tín chủ con là .................................................................................................

Ngụ tại ............................................................................................................

Cùng cả gia đình thân tới cửa chùa ................................... trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, (nếu có đang lễ vật thì khấn thêm “hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài”), chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.

Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh chùa đây.

Thiết nghĩ chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, ba tháng hè chín tháng đông, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)

2. Văn khấn Đức Thánh Hiền (Đức A-nan-đà Tôn Giả)

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Tín chủ con là .................................................................................................

Ngụ tại ............................................................................................................

Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa.

Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, sức khỏe dồi dào, an ninh khang thái, gia đạo hưng long, thịnh vượng.

Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.

Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)

3. Văn khấn cầu tài, cầu lộc, cầu bình an ở ban Tam Bảo (Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo)

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Tín chủ con là .................................................................................................

Ngụ tại ............................................................................................................

Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng (nếu viết sớ đặt trên mâm lễ vật) lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.

Chúng con xin dốc lòng kính lễ:

- Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc Tây phương.

- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.

- Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ cõi Đông phương.

- Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.

- Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần Chư Thiên Bồ Tát.

Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được .................................... (công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).

Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc, tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai quan nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khoẻ, trên dưới thuận hoà an khang thịnh vượng.

Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.

Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

4. Văn khấn Bồ-tát Quán Thế Âm

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

Nam mô Đại từ Đại bi Linh cảm Quán Thế Bồ Tát.

Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thuỳ từ chứng giám.

Chúng con có nghe Đức Phật dạy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn rằng

"Dù chỉ nghe tên Quán Thế Âm

Hay dù chỉ thấy bức chân dung,

Nhất tâm trì niệm hồng danh ấy,

Thoát mọi hung tai, được cát tường".

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Tín chủ con là .................................................................................................

Ngụ tại ............................................................................................................

Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới toà sen hồng.

Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.

Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát! (3 lần, 3 lạy)

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đi đền chùa như thế nào cho đúng?

Vận trình tử vi trọn đời Ất Sửu nam mang chi tiết

Ất Sửu nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ất Sửu nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1925, 1985 và 2045
Cung TỐN. Trực KIÊN
Mạng HẢI TRUNG KIM (vàng dưới biển)
Khắc BÌNH ĐỊA MỘC
Con nhà BẠCH ĐẾ (phú quý)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CON CHÓ

Ông Quan Đế độ mạng

Ất Sửu số mạng cuộc đời,
Bà con hàng họ chẳng nhờ chẳng trông.
Anh em sung khắc chẳng gần,
Người dưng giúp đỡ thích thân chẳng nhờ.
Phụng thờ của quý có duyên,
Lợi danh được chút hảo huyền mà thôi.
Tánh người chơn chánh thật thà,
Làm ơn cho bạn sau mà phản ngay.
Bạc tiền trợ giúp hỏi vay,
Ăn rồi lấy dao trở tay đâm mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai.
Số phải tu niệm ăn chay,
Không thì khổ nảo bị mang giam cầm.

xem bói tử vi tuổi Sửu

CUỘC SỐNG

Tuổi Ất Sửu thuộc Mạng Kim. Cuộc đời có nhiều trầm lặng và chỉ sôi động từng lúc, suốt cuộc sống không bao giờ có được những giây phút ngơi nghỉ về tinh thần. Hoàn cảnh làm cho cuộc đời cũng có nhiều đau xót khổ tâm, những hưởng thụ bởi vật chất không làm cho con người được hoàn toàn đầy đủ hay ít ra cũng thanh thản về tinh thần. Đời sống ở vào một tình trạng đặc biệt, tuy có đôi phần thoải mái, nhưng không thời gian nào được lâu bền vì mạng số ở trong một cung kỳ giao động mãnh liệt, tuổi nhỏ đa đoan, tuổi lớn lại nhiều lo lắng không bao giờ được yên trí mà hưởng thanh nhàn.

Tóm lại, cuộc đời ở vào tình trạng như một trận cuồng phong gió bão luôn luôn có trong cuộc đời mình và ít khi được sóng lặng gió yên.

Tuổi Ất Sửu có mạng giàu, nhưng thường hay bị thất bại về nghề nghiệp thình lình, số hưởng thọ trung bình từ 60 đến 65 tuổi. Nhưng nếu có phúc đức thì tăng thêm niên kỷ.

TÌNH DUYÊN

Từ lúc nhỏ cho đến khi lớn tuổi, lẽ ra tuổi này phải yên vui hạnh phúc, nhưng lại có nhiều thắc mắc, về vấn đề đau xót lắm sự trắc trở tuy nhiên muốn cho rõ được những diễn tiến của tình duyên, bạn cũng nên xem dưới đây coi có đúng với trường hợp của bạn không, trong suốt cuộc đời, hay sẽ còn thay đổi nữa trong vấn đề tình duyên hạnh phúc. Sự gãy gánh nửa đường, sự nối tiếp lấy con đường hạnh phúc hay sống hẩm hiu có quạnh với tuổi đời chồng chất lên cao.

Nếu bạn sanh vào những tháng này, thì hạnh phúc tình duyên của bạn sẽ có ba lần thay đổi, đó là những tháng: 5, 6 và 9. Nếu sanh nhầm vào những tháng này thì bạn ít lắm cũng phải hai lần thay đổi lương duyên, đó là những tháng Giêng, 2, 7, 10, 11 và 12. Nếu sanh trong những tháng này thì tình duyên chung thủy, sống cuộc đời không có sự thay đổi vợ chồng, đó là bạn sanh nhằm những tháng 3, 4 và 8 vậy. Trong cuộc đời về lương duyên có ba hoàn cảnh khác nhau, và sự sanh sản cũng tùy theo đó mà biết được sự thay đổi lương duyên trong một cuộc đời, vậy những điều kể trên chắc chắn sẽ không sai, chạy một phần nào cả.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Phần gia đạo tuổi Ất Sửu cũng có rất nhiều phiền phức, nhưng nhờ ở sự nhẫn nại và nhịn nhục nên sự sống đối với gia đạo không có gì xảy ra làm có thể gây nên nhiều sự khổ tâm, phần con cái có cơ hội phát triển nghề nghiệp, công danh hơn là cá nhân mình. Về công danh tuổi nhỏ cũng có phần sôi động đôi chút nhưng từ 38 trở đi thì lắng xuống và im lặng không có những phát triển về vấn đề này. Tuổi Ất Sửu, có phần phát triển công danh về con cháu hơn là cá nhân mình, tuy nhiên, không phải không có, nhưng chỉ có thể có chút ít ở đời người, những con người có chút địa vị trong xã hội là những người đã có nhiều âm đức, nên có phúc đức để hưởng được phần công danh lên cao của cả con cháu sau này.

Sự nghiệp được bền vững và phát triển từ năm 32 tuổi, trước thời gian này có sụp đổ đôi lần, nhưng sau đó thì nắm lại được và về sau thì rất vững chắc hoàn toàn. Sự nghiệp từ đó đó về sau không gặp sự lo lắng hay có thể bị ngăn trở bất ngờ nữa. Nếu gặp trường hợp mà người vợ có tuổi trùng hợp được kể theo những phần dười đây sẽ nắm phần thắng lợi và vững vàng về tiền của. Tiền bạc tuổi này cũng vô ra bất thường, nhờ ở sự khéo léo và sáng suốt, tiền tài có phần vượng phát mạnh vào những năm tuổi càng cao.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trong vấn đề làm ăn bạn cần nên lựa chọn những tuổi có sự trùng hợp với tuổi Ất Sửu mà hợp tác, hùn hạp hay cùng hợp tác trong mọi công việc khác mà khỏi sợ bị thấy bại, những tuổi này còn giúp bạn phát triển mạnh mẽ trong mọi khía cạnh của đời sống, ngoài vấn đề tiền bạc, công danh và sự nghiệp có cơ hội tạo tác mạnh mẽ, đó là những tuổi rất đại hợp với tuổi bạn như tuổi: Ất Sửu, Mậu Thìn, và Tân Mùi. Ba tuổi này đối với tuổi bạn rất tốt, tìm được ba tuổi này làm ăn, hùn hạp hay phát triển nghề nghiệp thì có nhiều may mắn, có cơ hội tạo được nhiều tiền của. Sự nghiệp vững vàng, công danh thành đạt.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong việc xây dựng hạnh phúc cũng rất liên quan cho cả đời sống và cuộc đời của bạn. Con người tuy có số mạng và sự diễn tiến từ đợt của nó, nhưng nếu gặp sự may mắn có tuổi hùn hạp trong việc lựa chon hạnh phúc hôn nhân cũng đem lại cho cuộc đời nhiều may mắn, chẳng những hưởng trọn hạnh phúc, mà trong việc xã hội, tiền bạc nhờ ở hai tuổi mà có cơ tạo lập được sự nghiệp vĩ đại. Nếu trong cuộc đời bạn mà lựa chọn được những tuổi này, thì bạn sẽ hưởng được một cuộc sống cao sang, quyền quý nhất trong đời: những tuổi mà Ất Sửu có thể kết hợp lương duyên rất tốt đẹp đó là các tuổi: Ất Sửu, Mậu Thìn, Tân Mùi, Đinh Sửu, Quý Mùi, Kỷ Mùi. Những tuổi trên đây đều hạp với tuổi Ất Sửu, và tăng thêm tài lộc, công danh lẫn sự nghiệp.

Cuộc sống trung bình là không giàu sang cũng không có nghèo hèn, chỉ ở vào mức trung thôi. Khi lương duyên của bạn gặp những tuổi này, tuy có số hạp nhưng không tăng tiến về tài lộc, không thịnh vượng về tiền tài chỉ đủ ăn, đủ mặc mà thôi. Đó là tuổi Ất Sửu kết hôn với những tuổi: Đinh Mão, Quý Dậu, Canh Thân. Ba tuổi này hạp về tình cảm, chỉ hạp về sự yêu thương mà không hạp về tài lộc.

Khi đã gặp những tuổi này mà bạn vì thương yêu phải kết hợp lương duyên, thì cuộc sống bạn suốt đời túng quẫn, việc làm ăn khó khăn. Đó là trường hơp mà kết duyên với những tuổi này: Kỷ Kỵ, Canh Ngọ, Ất Hợi, Tân Tỵ, Giáp Tý và Quý Hợi. Những tuổi trên rất khắc với tuổi Ất Sửu. Khi kết hôn với nhau chỉ sống trong sự nghèo nàn túng thiếu khó vượt được lên cao.

Trong cuộc đời bạn lại có những năm mà bạn không nên cưới vợ, vì những năm ấy khắc tuổi, nếu cưới vợ thì bạn phải chịu cảnh xa vắng, hẩm hiu, có thể cuộc hôn nhân không thành và không có hạnh phúc đó là những năm mà bạn ở vào những tuổi: 17, 23, 24, 35, 41, 47 và 53 tuổi. Vì những năm này rất xung khắc với tuổi của bạn và không hợp cho việc xây dựng hạnh phúc. Nếu muốn xây dựng hạnh phúc đời đời nên tránh đi những năm kể trên.

Theo những tài liệu chiêm tinh, khoa học đoán lý số thì tuổi Ất Sửu sanh vào những tháng này có số lưu thê thường hay đau khổ về đ àn bà, đó là bạn sanh nhầm những tháng 1, 5, 5, 9, 10, 11 và tháng12 Âm lịch. Bạn nếu sanh vào những tháng này chắc chắn sẽ có rất nhiều vợ hay thường thay đổi tình yêu hạnh phúc.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Dưới đây là những tuổi đại kỵ cho bạn trong việc kết hôn cũng như mọi khía cạnh làm ăn trong cuộc sống kết hôn thì sanh ra cảnh tuyệt mạng hay biệt ly, hợp tác làm ăn thì sanh ra tai nạn hay gặp cảnh xô xát làm chết bất đắc kỳ tử, đó là những tuổi: Bính Dần, Nhâm Thân, Giáp Tuất, Mậu Dần, Nhâm Tuất và Canh Thân. Đó là những tuổi mà Ất Sửu đại kỵ nhất trong cuộc đời. Nếu cãi sẽ gặp những trường hợp xui xẻo hay xảy ra những việc không may cho bản thể.

Khi gặp tuổi kỵ thì phải cúng sao giải hạn và cầu Trời cho tai qua nạn khỏi; tùy theo sao hạn của mình mà thắp nhan đ èn, theo phương hướng. Cúng sao thường nhật trong suốt thời kỳ bị đại hạn thì sẽ được giải hạn.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Ất Sửu trải qua những năm khó khăn nhất, có thể bị bịnh hoạn, tai nạn hay suýt bị chết chóc, làm ăn không được dồi dào phát triển, đó là những năm mà bạn ở vào tuổi 22, 26, 28, 31 và 34 tuổi. Ngoài ra những tuổi kể trên bạn được vượng phát về tài lộc lẫn nghề nghiệp.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Tuổi Ất Sửu rất hạp ngày lẽ giờ chẵn và tháng chẵn. Bạn cứ như thế mà xuất hành làm ăn, giao dịch, phát triển sự nghiệp, thì mau tấn phát, tiền tài cũng thâu được nhiều thắng lợi, không sợ bị thất bại hay bị thiệt hại về đời sống.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 42 đến 45 tuổi: Trong tuổi 42, rất khá và phát vượng về tài lộc, có thể sanh quý tử. Năm này sanh con gái thì gặp sự phát tài liền, tuổi 42 khá lắm, mên tìm cơ hội mà tạo việc làm ăn thắng lợi ngay, 43 tuổi, tình trạng sức khỏe bị yếu kém, làm ăn có nhiều thất bại, đại kỵ vào tháng 6 không nên đi xa có tai nạn, 44 tuổi, tình trạng gia đình, sự nghiệp có phát triển đôi chút về tài lộc, nhưng phần con cháu có sự đau buồn. Kỵ tháng 8 có chuyện buồn trong gia tộc, 45 khá tốt, phần tài vượng phát thấy rõ, hào con vui tươi và êm ấm con cháu có thay đổi việc làm hay được thăng chức.

Từ 46 đến 50 tuổi: 46 tuổi có yếu về thân thể, làm ăn có tiến triển mạnh, tài lộc vô nhiều vào những tháng 7 và 8. 47 khá tốt, vào những tháng 5 và 7 Âm lịch, 48, không được hay và trong gia đạo hay có chuyện xích mích, ngoài cuộc đời hay xảy ra những chuyện không may mắn, có bịnh vào mùa Đông. 49 tuổi, gia đạo và cuộc đời ở trong tình trạng trung bình và 50 tuổi có hao hụt tiền bạc, con cháu ly tán, năm bị sao hạn lớn, đề phòng bịnh nặng.

Từ 50 đến 55 tuổi: Tuổi 50 và 51, êm đẹp chỉ có bịnh hoạn hám dọa mà thôi. 52 và 53, không mấy may mắn, nhưng tình trạng gia đình và ngoài cuộc đời vẫn trung bình. 54 và 55 tuổi, có nhiều nguy cấp, nếu không có đủ phước đức, sẽ có thất bại, hay nguy hiểm cho tánh mạng vào những năm nầy, nhất là kỵ Thu Đông.

Từ 55 đến 60 tuổi: Số những năm nầy không được tốt lắm, đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra trong gia đạo và cả cuộc đời, con cháu làm ăn không được may mắn.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Sửu

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Ất Sửu nam mang chi tiết

Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Bạn đã từng hỏi niềm vui lớn nhất trong cuộc đời mình là gì chưa? Bạn mải theo đuổi những niềm vui nơi xa xôi mà dễ quên đi hạnh phúc căn bản quanh ta
Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có bao giờ bạn tự hỏi: niềm vui nào lớn nhất trong đời? Thành công, giàu sang hay có được điều mình mong muốn. Tất cả chúng ta đều cố gắng tìm kiếm cho mình những niềm vui trong cuộc sống. Nhưng khi có được thứ này chúng ta lại muốn có được thứ khác. Quá trình đuổi bắt cứ kéo dài suốt năm này qua năm khác, chúng ta không dễ gì nhận ra, niềm vui lớn nhất trong đời gần gũi và thân thương biết chừng nào.

Ngay từ lúc mới sinh ra, được sống trong vòng tay của cha mẹ chúng ta hạnh phúc và cảm thấy bình yên. Mỗi ngày là một ngày vui, lúc đó, cha mẹ tuyệt vời nhất. Thế rồi, lớn lên, chúng ta muốn thoát khỏi sự kiềm kẹp của mẹ cha. Muốn tự do bay lượn, chê đấng sinh thành giờ đây lạc hậu, không có những suy nghĩ tân tiến, hợp thời. Để rồi xa cách cha mẹ hơn, nhưng bạn ơi, niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là:

  1. Được sống cùng cha mẹ
  2. Được làm công việc mình thích
  3. Lấy được người mình yêu
  4. Sống trọn vẹn mỗi ngày

4 niềm vui lớn nhất trong cuộc đời

1. Được sống cùng cha mẹ

Trải qua những năm tháng tuổi trẻ bồng bột và ích kỷ, chúng ta trở về với những toan tính của cuộc đời. Không còn tự do bay nhảy, không còn những suy nghĩ ấu trĩ và ngông cuồng. Giờ đây chúng ta có cả một gia đình cần gánh vác. Lúc ấy mới chợt nhận ra rằng, được sống cùng cha mẹ là một niềm hạnh phúc to lớn.

Không chỉ dựa dẫm vào đôi vai gầy yếu của mẹ cha mỗi khi bước chân ta trên đường đời rệu rã, không chỉ được ăn bát cơm mẹ nấu, được cùng cha đàm đạo mỗi lúc chiều tà. Quãng thời gian đó yên bình và hạnh phúc biết bao. Không phải chỉ có cười thật to, hét thật lớn thì mới được gọi là niềm vui. Đôi lúc niềm vui bình dị và nhẹ nhàng biết bao, nhưng nó sẽ ngấm sâu vào ký ức của ta, an ủi vỗ về ta mỗi khi mệt mỏi và đau đớn trong cuộc đời.

2. Được làm công việc mình thích

Niềm vui này sẽ chẳng có niềm vui nào có thể sánh được. Đó là cảm giác thỏa mãn bởi vì chúng ta đã làm được điều mà mình thích. Không ít người không làm được việc mình thích, không dám theo đuổi ước mơ và hoài bão của bản thân. Chán nản, thất vọng để rồi họ nhận ra cuộc sống của mình thật nhàm chán, thật buồn bã.

Chỉ khi chúng ta được làm công việc mình thích, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui đến từ những điều bình dị, những điều tưởng chừng như vốn có của cuộc sống nhưng không phải lúc nào cũng cảm nhận được. Thế nên, nếu bạn cho rằng công việc chỉ là một công cụ để nuôi sống bản thân thì bạn hãy suy nghĩ lại đi nhé. Bởi vì chỉ khi yêu thích công việc của mình chúng ta mới làm tốt nó được. Được làm công việc mình thích là niềm vui lớn nhất trong đời.

3. Lấy được người mình yêu

Bất kỳ ai trong chúng ta đều muốn có được hạnh phúc trong cuộc sống vì vậy chúng ta mới trao đi tình yêu của mình. Có người lấy được người mình yêu, tin tưởng để làm chỗ dựa suốt đời cho mình, có người lại quyết định kết hôn trong lúc nóng vội. Rất nhiều người đã nếm quả đắng vì vội vàng trong tình yêu.

Một trong những niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là lấy được người mình yêu và yêu mình. Khi sống cùng nhau, những bất đồng, những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, nếu không có một tình yêu lớn dành cho nhau, ít khi chúng ta có thể tha thứ và chấp nhận lẫn nhau được. Lấy được người mình yêu là niềm vui lớn nhất trong đời. Lớn hơn rất nhiều những niềm vui do tình cảm tạo ra trước đó. Thế nên, hãy trân trọng cuộc sống gia đình và trân trọng người bạn đã lựa chọn.

4. Sống trọn vẹn mỗi ngày

Đây là niềm vui rất lớn bởi hàng ngày chúng ta đều cố gắng tìm kiếm nó nhưng ít người nắm giữ được nó. Có người lo lắng cho những việc không đâu để rồi cáu gắt với người thân và con cái của mình, làm mất đi một ngày đẹp đẽ. Bạn ơi, hãy đối diện với cuộc sống mỗi ngày, dẫu khó chịu bao nhiêu cũng đừng đổ lỗi lên đầu người khác. Hãy tìm cách chế ngự sự giận dữ của mình và bao dung với người bên cạnh, để mỗi ngày với bạn trọn vẹn hơn. Có thể bạn không nhận ra, nhưng mỗi sớm mai thức dậy, tâm trạng bạn thoải mái bạn sẽ có một ngày ngập tràn niềm vui.

Vậy nên, hãy mỉm cười khi ánh bình minh chiếu qua cửa sổ, bởi vì ít nhất thì chúng ta vẫn còn một ngày để làm những điều mình muốn. Hãy sống trọn vẹn từng ngày một với công việc, gia đình, con cái và những niềm đam mê nho nhỏ của bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Vai trò của huyền quan trong phong thủy nhà ở

Huyền quan là một trong những vị trí đặc biệt quan trọng trong phong thủy nhà ở, ảnh hưởng tới vận thế của cả ngôi nhà.
Vai trò của huyền quan trong phong thủy nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyền quan là một trong những vị trí đặc biệt quan trọng trong phong thủy nhà ở, ảnh hưởng tới vận thế của cả ngôi nhà. Tuy nhiên, do vấn đề diện tích, nhiều nhà ở hiện này đã thiết kế thiếu vị trí này mà không lường được hậu quả.


Vai tro cua huyen quan trong phong thuy nha o hinh anh
 
Huyền quan trong phong thủy là vị trí chuyển tiếp giữa cửa nhà và phòng khách, có thể coi là vùng không gian đệm giữa bên trong và bên ngoài nhà. Huyền quan tốt thì vận khí thịnh, huyền quan xấu thì vận khí suy nên nhất định phải coi trọng, không được bỏ qua.    Huyền quan là khái niệm phong thủy ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Xuất phát từ đạo giáo, huyền quan tức là bước đột phá đầu tiên để tiến vào chính thức. Trong kiến trúc, huyền quan có nghĩa là thông qua một lối nhỏ mới đi vào nhà chính.   Phong thủy xuất phát từ Trung Hoa – quốc gia có nền văn hóa truyền thống lâu đời với những lễ nghi sâu sắc. Người Trung Quốc cho rằng, một ngôi nhà cần phải có “tàng”, tức là cần phải được ẩn đi cái tinh thần, không phô bày ra bên ngoài. Nơi ở thể hiện văn hóa của gia chủ, nên xây bình phong ở cổng để người ngoài không thể trực tiếp nhìn vào trong nhà cũng là để có không gian để chủ khách đón tiếp nhau từ bên ngoài, có cái nhìn toàn diện về ngôi nhà. Đó chính là lý do mà huyền quan xuất hiện.
 
  Nằm lòng kiến thức phong thủy cho nhà ở nông thôn 30 điều cần nhớ cho người có ý định mua nhà (P2) 30 điều cần nhớ cho người có ý định mua nhà (P1) Cấm kị phong thủy nhà ở, phạm phải khó mà yên ổn 7 việc cần làm trước khi dọn về nhà mới
Huyền quan bảo vệ sự riêng tư của gia chủ, tránh sát khí xộc thẳng vào nhà và tránh cát khí trôi tuột ra ngoài. Người trong nhà sẽ không cảm thấy bất an, khách tới chơi cũng không được tùy tiện. Ấy là cái hay của phong thủy nhà ở truyền thống.
  Ngày nay, huyền quan là nơi để người từ bên ngoài về thay giày, cởi áo khoác ngoài rồi mới tiến vào nhà. Cũng là không gian giap tiếp giữa bên ngoài và bên trong, thích ứng với sự thay đổi không gian một cách từ từ. Người từ xa về rũ bỏ ám khí tại huyền quan rồi mới bước vào nhà. 
Vai tro cua huyen quan trong phong thuy nha o hinh anh
 
Huyền quan không cần lớn, chỉ là một khoảng nhỏ nhắn vừa đủ nhưng vì là nơi có tần suất sử dụng cao nên chắc chắn không thể lơ là. Theo phong thủy dương trạch, huyền quan phải sáng sủa, diện tích ít nhất 5 thước, không tối ám, không lộn xộn. Có thể bày trí một số vật dụng như tranh tường, gương hay ghế dài.    Huyền quan hướng Bắc còn có thể hình thành khu vực chênh lệch nhiệt độ, tránh gió mùa Đông Bắc khi mở cửa xâm nhập trực tiếp vào nhà.    Nhà tốt hay xấu nhờ cả vào sắc khí phong thủy Nắm vững 5 điều, chọn nhà siêu dễ Tình yêu nở rộ nhờ đặt bình hoa ở vị trí tốt nhất trong nhà

=> Xem phong thủy và những ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vai trò của huyền quan trong phong thủy nhà ở

Tướng đàn ông cằm nhọn –

Xét về ngũ quan, trán là bộ phận thể hiện tiền vận. Còn sống mũi và gò má thể hiện trung vận, trong khi đó bộ phận cằm là dấu hiệu cho thấy hậu vận của mỗi người. Vì vậy, tất cả những việc liên quan tới hậu vận đều liên quan tới bộ phận cằm. Nếu như
Tướng đàn ông cằm nhọn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông cằm nhọn –

“Điểm danh” những nguyên tắc tối kỵ với nhà bếp theo phong thủy

Theo quan niệm của phong thủy, bếp ăn nên đặt ở vị trí “tọa hung hướng cát”, có nghĩa là nên đặt bếp nằm ở hướng dữ nhưng (núm, cửa bếp) nhìn về phương lành để bếp nấu có thể hỗ trợ việc áp chế những luồng khí gây bất lợi cho gia chủ. Ngoài ra, nhà bếp cần tránh gió, tránh nước, cách xa phòng ngủ. Đồng thời, bếp phải thông thoáng, cửa nhìn hướng lành thì mới đón được phúc…
“Điểm danh” những nguyên tắc tối kỵ với nhà bếp theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiêng đặt bếp ở vị trí trung tâm của nhà

Theo quan niệm của phong thủy, đặt bếp ở vị trí Trung Cung hoặc Thượng Tâm của ngôi nhà là điều cực kỳ tối kỵ. Bởi vì Trung Cung là một cung bị động, nơi mà mạch Khí phải được ổn định và bình an, nếu đặt nhà bếp ở cung này sẽ mang lại sự xáo trộn về sức khỏe và những khó khăn liên tục, triền miên cho những người cư ngụ. Vì thế, ở vị trí Trung Cung hoặc Thượng Tâm của ngôi nhà không nên đặt bếp.

Vị trí tốt nhất để đặt gian bếp là thật sâu trong căn nhà.

Nếu có điều kiện về không gian, diện tích thì nên bố trí một phòng phía sâu sau nhà để làm gian bếp, một mặt của nhà bếp nên nhìn về chỗ thoáng của ngôi nhà như sân sau nhà, ban công, khoảng trống bên hông nhà… sẽ mang lại may mắn, phúc lộc cho gia chủ.

Kiêng dùng ánh sáng mờ ảo cho gian bếp

Nhà bếp là nơi rất quan trọng trong cuộc sống gia đình do đó khi thiết kế gian bếp cần đặc biết lưu ý đến độ sáng và không gian thoáng đãng của gian bếp. Nếu không tận dụng được ánh sáng tự nhiên, thì nên sử dụng các loại đèn phổ quang để có ánh sáng mạnh và rõ.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nên hạn chế sử dụng đèn huỳnh quang vì loại ánh sáng này rất mờ, yếu và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của gia chủ, do vậy cách tốt nhất là nên lắp đèn tuýp hoặc đèn chùm.

Bếp nấu kỵ gió

Bếp nấu phải "Tàng phong tụ khí" tức là phải tránh gió để tụ được khí.

Nếu bếp nấu nhìn thẳng ra cửa chính và phía sau bếp nấu có cửa sổ đều không tốt về mặt phong thủy và tiện lợi khi nấu nướng. Nếu bếp gas hoặc bếp củi bị gió thổi thì mùi khói, mùi gas sẽ gây độc, tốn nhiên liệu, lại dễ gây hỏa hoạn.

Bếp nấu kỵ nước

Trong phong thủy, hỏa khí của bếp nóng không thể dung hòa với thủy mát lạnh của nước, chính là cái gọi là "thủy hỏa bất tương dung", bếp nấu sẽ xung khắc.

Có 3 cách bố trí để bếp tránh nước: Thứ nhất, tránh đặt bếp nhìn về hướng bắc. Hướng bắc là phương vị thủy đang vượng, thủy khắc hỏa nên không có lợi cho bếp. Thứ hai, tránh đặt bếp lên trên rãnh, mương, đường nước. Thứ ba, không để bếp kẹp giữa hai thứ có yếu tố thủy như máy giặt, tủ lạnh, bồn chậu rửa bát...

Bếp đặt "Tọa hung hướng cát"

"Tọa hung hướng cát" có nghĩa bếp đặt lên hướng dữ nhưng cửa bếp phải nhìn về hướng lành. Cửa bếp là nơi đưa củi vào đáy nồi đốt, phải đặt nó quay về hướng lành, như thế nhanh có phúc. Như vậy, bếp đặt "Tọa cát hướng cát" không tốt bằng "tọa hung hướng cát".

Không nên đặt bếp sát phòng ngủ

Phòng bếp nóng bức, khói, dầu mỡ nhiều, con người sẽ bị ảnh hưởng đến sức khỏe. Để tránh vấn đề nói ở trên, cần chú ý để bếp không chiếu thẳng với cửa nhà, không để sát với giường ngủ.

Đặc biệt, cần bảo đảm cho bếp sạch sẽ, gọn gàng: Người phương Đông rất coi trọng ăn uống nhưng chưa để ý đến vệ sinh môi trường của nhà bếp, luôn chất nhiều thứ không cần thiết, thậm chí làm cho bếp hẹp lại, tối tăm và ẩm ướt. Môi trường như vậy tạo điều kiện cho côn trùng phát triển, dễ sinh dịch bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Cho dù là căn nhà có phong thủy rất tốt, nhưng nếu môi trường vệ sinh của nhà bếp quá kém thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống.

Ngoài ra, bếp nấu nên ốp gạch kính để dễ lau chùi. Nền bếp lát gạch dễ vệ sinh, chống trượt, không ẩm thấp. Nhà bếp nên trang bị hút mùi, có tủ đựng và nên dùng ánh sáng trắng khu vực nấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: “Điểm danh” những nguyên tắc tối kỵ với nhà bếp theo phong thủy

Có nên trang trí nhà loè loẹt không? –

Nhà ở là nơi mọi thành viên trong gia đình nghỉ ngơi, sinh hoạt, phong thủy học cho rằng chọn lựa vật liệu và màu sắc trang hoàng cho một ngôi nhà đều có thể ảnh hưởng nhất định tới sức khỏe của người cư trú trong đó. Do vậy, khi trang hoàng nhà cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cần chú ý:

–  Căn cứ vào thuyết phong thủy dân gian, kết hợp với sở thích của từng thành viên trong gia đình để phân chia vị trí cho mỗi người.

–   Chọn vật liệu xây dựng một cách kỹ lưỡng: cần phải dùng loại vật liệu bảo vệ môi trường, tuyệt đôi không nên dùng những loại vật liệu mang tính ô nhiễm phóng xạ vì nó có khả năng phá hoại nghiêm trọng tới thần kinh não người, gây nên những triệu chứng mất ngủ, đau đầu.

Trang-tri-phong-de-don-may-man

–  Xác định màu chủ đạo cho tường, trần, sàn nhà, rồi tại mỗi căn phòng của từng thành viên trong gia đình chọn lựa màu sắc phù hợp riêng theo ý thích.

Nên chọn gam màu sáng như màu trắng, vàng, lam, xanh, phớt hồng hoặc màu gỗ là hợp nhất.

Màu sắc của tường phải thích hợp và đồng bộ với ngũ hành của ngôi nhà và cũng không nên có nhiều hơn 2 màu.

Màu sắc trần nhà nên nhẹ nhàng, sử dụng gam màu nhạt như màu lam nhạt, tượng trưng cho màu xanh da trời bao la thoáng đãng, còn màu trắng tượng trưng cho những đám mây trắng lững lờ trôi. Còn nền sàn nhà nên mang màu đậm để phù hợp với ý trời nhẹ, đất nặng.

Hoạ tiết hoa văn đơn giản, phóng khoáng thể hiện sự bình yên, cát lành. Do đó, các hoa văn kiến trúc phải đẹp, sáng mới tăng hiệu quả an lành, hoà hợp.

Cửa chính của những toà nhà lớn hay nhà riêng đều phải đáp ứng được yêu cầu về không gian. Đó là không gian phải sáng sủa, nhiều sinh khí, hấp thu được đầy đủ ánh sáng mặt trời, thể hiện được chiều hướng phát triển và cơ hội mới. Do vậy, không nên có bất cứ đồ vật nào hoặc các địa hình tự nhiên nào che chắn, cản trở trước cửa.

Nguyên tắc cơ bản khi xây dựng một ngôi nhà là chú trọng tới sự đơn giản, thanh khiết và cân xứng, không nên quá lòe loẹt.

Phong thủy học cho rằng, trong phòng tràn đầy dương khí là cát (lành), nhưng trang trí quá lòe loẹt thì ngôi nhà đó chưa hẳn đã có dương khí đích thực, nếu có thì chỉ như đốm lửa của cây nến leo lét sắp tàn, bỗng sáng bừng lên trước khi tắt ngâm, đó là điềm báo bắt đầu của sự suy vong.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên trang trí nhà loè loẹt không? –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd