Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chùa Diệu Đế - Huế

Chùa Diệu Đế trải qua thăng trầm của lịch sử, từng huy hoàng, cũng từng suy vong theo thời cuộc, nhưng chùa vẫn đứng vững với thời gian
Chùa Diệu Đế - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Diệu Đế tọa lạc ở 100 đường Bạch Đằng, phường Phú Cát , thành phố Huế. Chùa là ngôi Quốc tự thứ ba ở Huế, được Vua Thiệu Trị liệt hạng là một trong 20 thắng cảnh của đất Thần Kinh. Sở dĩ chùa có tên là Diệu Đế là vì nhà Vua muốn vừa làm nơi bảo vệ cho kinh thành vùa trấn tĩnh những người lầm đường lạc lối trở về với điều thiện.

Chùa Diệu Đế là một trong những cơ sở Đông Y khám và điều trị bệnh miễn phí có uy tín, góp phần không nhỏ trong chăm sóc và phát triển sức khỏe của cộng đồng không chỉ tại thành phố Huế mà còn ở nhiều địa phương khác trong và ngoài tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chùa do Vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1844 với qui mô đồ sộ trên nền phủ đệ cũ của nhà vua, nhưng qua nhiều cuộc chiến tranh đã hư hỏng. Năm 1889, Hòa thượng Tâm Truyền được Vua Thành Thái ban tiền để trùng tu. Chùa lại bị hỏng do cơn bão năm 1904.

Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải là đường chùa Ông.

Ban đầu, kiến trúc chùa rất qui mô. Tuy không đẹp bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia). Kiến trúc chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1953, ở trần chánh điện có bức tranh vẽ “Long Vân khế hội”, nét vẽ điêu luyện.

Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn.

Chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ…về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.

Trong chùa chính giữa còn có các tượng Tam Thế với sắc vàng cháy của nước vàng thếp ngày xưa còn lại. Và có một pho tượng của ngài A-Nan, một tượng của ngài Ca-Diếp, và đặc biệt là pho tượng Chuẩn Đề có nhiều tay rất mỹ thuật. Phía trái có 3 tượng Phật, 3 tượng Thánh, phía phải còn có 5 tượng Phật, tượng Đức Di-Lặc thờ ở giữa. Sát vách bên trái còn có khám thờ vua Thiệu Trị và một vài công chúa, hoàng tử con vua, phía phải còn có khám thờ chư linh.

Sau Đại Giác Điện, hai bên tả hữu rất cân đối, có hai nhà Tăng Xá, rồi hai trù gia tức là hai nhà bếp. Cạnh hai trù gia xích vào trong có hai cái giếng. Có lẽ là cái giếng phía trái, nước rất trong mà chùa Diệu Đế đang dùng hiện nay là một trong hai cái giếng ngày xưa còn lại.Tất cả các lối đi từ sở này sang sở khác đều được lát bằng gạch Bát Tràng…

tam bảo
Tam bảo chùa

Sự hoành tráng của một ngôi quốc tự đã đi qua nhưng không gian và cảnh vật cũng như sự linh thiêng của Diệu Đế vẫn còn đó. Hình tướng bát bộ kim cang ở hai Lôi gia có thể làm cho những ai “yếu vía” cảm thấy sợ.

, vẫn là nơi lui tới cho những người con Phật. Ngày nay chùa đang được trùng tu tuy chưa lấy lại được vẻ huy hoàng xưa nhưng cũng xứng đáng là một nơi để tham quan vãng cảnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Diệu Đế - Huế

Đeo tất chân phong thủy sai cách, cẩn thận xui xẻo ập đến

Một trong những điều cần lưu ý khi đeo tất chân phong thủy là phải giữ vệ sinh tất sạch sẽ và nhớ thay đổi kiểu dáng các loại tất.
Đeo tất chân phong thủy sai cách, cẩn thận xui xẻo ập đến

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Xét theo góc độ phong thủy, khi đi tất có màu không phù hợp bản mệnh còn ảnh hưởng tới vận thế của bạn, dễ có kẻ tiểu nhân đeo bám, tìm cách hãm hại, gây điều phiền nhiễu.


6. Không biết chọn màu tất theo bản mệnh


Bản mệnh mỗi người có màu sắc cũng như con số may mắn riêng biệt theo ngũ hành. Nếu biết mình thuộc ngũ hành nào, bạn sẽ chủ động trong việc lựa chọn và phối kết hợp với màu sắc tương sinh, mang lại sự hài hòa về mặt phong thủy.

Ví dụ, nếu bạn mệnh Hỏa, nên chọn màu xanh lá tương sinh cho bản mệnh, hoặc màu đỏ, tím, hồng thuộc ngũ hành bản mệnh để gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Ngược lại, nên tránh chọn các màu đen hoặc trắng, biểu trưng của hành Thủy, tránh Thủy Hỏa xung khắc, không tốt cho tài vận cũng như sức khỏe của bạn.

Xét theo góc độ phong thủy, khi đi tất có màu không phù hợp bản mệnh còn ảnh hưởng tới vận thế của bạn, dễ có kẻ tiểu nhân đeo bám, tìm cách hãm hại, gây điều phiền nhiễu.

Deo tat chan phong thuy sai cach, can than xui xeo ap den hinh anh
 
7. Đi tất bẩn

Với một số người, đi lại tất đã dùng là chuyện bình thường, vì nhìn bằng mắt thường, tất vẫn khá sạch, không có vết bẩn. Nhưng trên thực tế, tất đã dùng một lần cũng tích tụ nhiều vi khuẩn, bụi bẩn, mùi hôi khó chịu do mồ hôi tiết ra.

Bên cạnh đó, đi tất bẩn cũng ảnh hưởng không nhỏ tới vận thế của bạn, đa phần là ảnh hưởng tiêu cực, mang tới điều xui xẻo. Vậy nên, bạn đừng quên giặt tất thường xuyên, kể cả những đôi lâu ngày không dùng tới mà để ở nơi ẩm thấp.

Đeo tất chân sai cách, cẩn thận xui xẻo ập tới (P1)
– Một đôi tất (vớ) nhỏ xíu nhưng nếu bạn không biết cách phối hợp sao cho hài hòa về mặt phong thủy, e rằng xui xẻo sẽ gõ cửa nhà bạn lúc nào
8. Đi tất chiếc ngắn chiếc dài, không cân xứng

Trường hợp này thường gặp ở các bạn nữ nhiều hơn. Có thể là do thói quen hay cách phối thời trang khác người nào đó mà họ chọn cho mình những chiếc tất có độ ngắn dài không bằng nhau. Đây là một trong những trường hợp đeo tất chân phong thủy sai cách.

Theo góc độ phong thủy, cách làm này ảnh hưởng tới vận tình duyên của bạn. Nó như rào cản, ngăn vận đào hoa đến với bạn, tình cảm không như ý muốn.

Deo tat chan phong thuy sai cach, can than xui xeo ap den hinh anh 2
 
9. Đi tất không phù hợp với từng hoàn cảnh

Khi tham dự một bữa tiệc sang trọng, bạn không nên đi tất giày cộm kèm theo đó là đôi giày thể thao to đùng. Đó là một trong những ví dụ điển hình nhất cho việc đi tất không đúng với hoàn cảnh.

Cách làm này khiến bạn bị mất tự tin giữa đám đông, vận thế vì vậy cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.

10. Bốn mùa đều đi một kiểu dáng tất như nhau

Điều này thường thấy ở nam giới hơn nữ giới. Theo quan điểm phong thủy, việc đi những đôi tất có kiểu dáng và màu sắc y chang nhau quanh năm suốt tháng như vậy sẽ tạo ra sự nhàm chán, ảnh hưởng tới tài vận và tình cảm lứa đôi.

Bên cạnh đó, nó còn khiến bạn rước họa tiểu nhân vào người, có kẻ xấu luôn rình mò tìm cách hãm hại.

(Hết)

Hoàng Lam

Khéo đặt bình uống nước, tài lộc gia tăng không ngừng
– Theo quan điểm phong thủy, bình uống nước thuộc tính Thủy, có liên quan đến tài lộc. Vị trí đặt bình uống nước đúng chuẩn góp phần thúc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đeo tất chân phong thủy sai cách, cẩn thận xui xẻo ập đến

Chọn vị trí đặt bình hoa tốt cho gia chủ

Việc đặt bình hoa trong nhà theo hướng và vị trí hợp phong thủy không chỉ giúp cho không gian sống của bạn thêm đẹp, có sức sống mà còn giúp mang lại sự giàu có, thịnh vượng và rất tốt cho đường tình duyên của gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc đặt bình hoa trong nhà theo hướng và vị trí hợp phong thủy không chỉ giúp cho không gian sống của bạn thêm đẹp, có sức sống mà còn giúp mang lại sự giàu có, thịnh vượng và rất tốt cho đường tình duyên của gia chủ.

đặt bình hoa ở vị trí đào hoa
Đặt bình hoa ở vị trí đào hoa (đào hoa vị) rất tốt cho đường tình duyên


Theo phong thủy, đào hoa vị là một huyệt đạo mà nếu được tác động sẽ làm tăng vận khí đào hoa của người sống trong ngôi nhà đó. Đặt bình hoa ở đúng vị trí đào hoa của mỗi người sẽ rất tốt đối với chuyện tình duyên của gia chủ:

Bình hoa cần được đặt ở vị trí đào hoa, vị trí này được xác định theo tuổi. Cụ thể:

- Đối với tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa nằm ở hướng chính Đông, do vậy nên đặt bình hoa ở hướng chính Đông.

- Đối với tuổi Thân, Tí, Thìn: nên đặt bình hoa ở hướng chính Tây.

- Đối với tuổi Tị, Dậu, Sửu: nên đặt bình hoa ở hướng chính Nam.

- Đối với tuổi Hợi, Mão, Mùi: nên đặt bình hoa ở hướng chính Bắc.

Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo màu sắc thì cần tìm màu chủ đạo của bình hoa, cụ thể:

- Đào hoa ở hướng chính Đông thì nên đặt bình hoa màu xanh lục.

- Đào hoa ở hướng Tây thì đặt bình hoa màu vàng kim (vàng óng), màu trắng.

- Đào hoa ở hướng Nam nên đặt bình hoa màu đỏ, tím, cam.

- Đào hoa ở hướng Bắc nên đặt bình hoa màu đen, xám.

Theo phong thủy, bình cắm hoa tốt nhất nên được làm bằng chất liệu gốm hoặc sứ. Bình hoa bằng sứ nên đặt ở hướng Đông Bắc hoặc Tây Nam, còn bình hoa làm bằng thuỷ tinh thì nên đặt ở phía Bắc căn phòng hay ngôi nhà. Hình dạng bình hoa cũng là vấn đề rất quan trọng, bình hoa có hình dạng khác nhau thì nên đặt ở các hướng khác nhau. Các loại bình hoa hình cầu nên đặt ở hướng Bắc hoặc Tây Bắc, hình nón thì nên đặt ở phía Nam.

Phòng ngủ là nơi tốt nhất để đặt bình hoa. Trong nhà, bạn có thể đặt nhiều bình ở những hướng tốt khác nhau. Nếu bình làm bằng thủy tinh, gốm sứ đựng nhiều đá quý, thuộc hành Thổ thì bạn nên đặt bình ở trong tủ thuộc góc Thổ của phòng ngủ, tức là hướng Tây Nam. Tuy nhiên, nếu không có điều kiện, bạn đặt ở góc Đông Bắc cũng có thể chấp nhận được. Còn bình làm bằng kim loại thì nên đặt ở góc Tây hoặc góc Tây Bắc.

Đối với phái mạnh, dù đã cao tuổi hay còn thanh niên, nếu muốn thu hút sự chú ý của phái nữ thì có thể đặt một bình hoa với vài cành hoa tươi ở vị trí bên phải cửa ra vào.

Tuy nhiên, gia chủ cũng cần thận trọng và lưu ý khi đặt bình hoa trong nhà. Cụ thể:

- Không được để bình hoa rỗng trong nhà, nếu không sẽ khiến chồng hoặc vợ ngoại tình

- Cần thường xuyên thay nước hoặc bổ sung nước cho bình hoa, để nước trong bình bị hao hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tài sản trong gia đình

- Nên hạn chế cắm hoa khô/hoa giả bởi sẽ làm căn nhà không có sức sống, gây nên một số trở ngại. Nếu đặt bình hoa khô/hoa giả thì phải để một lọ nước hoa ở bên cạnh.

- Hoa úa, tàn thì cần phải bỏ/thay ngay, để lâu ngày sẽ phá hỏng bầu không khí trong gia đình.

- Không gian xung quanh nơi đặt bình hoa phải đảm bảo sạch sẽ, gọn gàng.

(Theo Gia đình & Xã hội Online)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vị trí đặt bình hoa tốt cho gia chủ

Xem tướng phụ nữ qua gò má –

Hai gò má (lưỡng quyền) được khoa nhân tướng học ngày nay đưa vào hạng mục “tướng của xương” để xem xét góp phần phân tích và dự báo về “đường đời” của mỗi người trong cuộc nhân sinh... Nhất là hai gò má của phụ nữ thường được gợi lên bằng các hình d

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hai gò má (lưỡng quyền) được khoa nhân tướng học ngày nay đưa vào hạng mục “tướng của xương” để xem xét góp phần phân tích và dự báo về “đường đời” của mỗi người trong cuộc nhân sinh…

Nhất là hai gò má của phụ nữ thường được gợi lên bằng các hình dung từ bay bướm như: má hồng, má phấn, má đào… Phụ nữ có má đào là “má đỏ như quả đào chín”, má phấn là “má tô phấn, thường chỉ người gái giang hồ” và má hồng dùng “tỷ dụ người đẹp” . Song đó chỉ là những cách gọi dựa phần lớn vào sắc diện bên ngoài; chứ thực tướng của các “gò má” được quyết định bởi cấu trúc của phần xương bên trong.

Đối với phụ nữ mà nói thì đôi gò má trên gương mặt chính là nơi thể hiện cá tính của người này trong cuộc sống hôn nhân và sự nghiệp của họ.

Vì thế để xem xét nhân tướng cho rạch ròi, người ta đã gọi lưỡng quyền ở mỗi người (cả nam lẫn nữ) bằng hai tên gọi: “gò Tây” (gò má phía bên phải của khuôn mặt) và “gò Đông” (gò má phía bên trái của khuôn mặt), chẳng hạn:

Theo nhân tướng học thì người phụ nữ có khuôn trăng đầy đặn với hai gò Đông – Tây nằm cân xứng ở hai bên mặt thì là người phụ nữ có mệnh số cao, tương lai có thể vào hàng phu nhân quyền quý trong xã hội.

Nếu xương ở hai gò má không nhô cao lắm và nằm cân xứng nhau ở vị trí ngang với tóc mai là tướng tốt, sẽ đem đến nhiều điều may mắn, thuận lợi và sức khỏe ngay từ tuổi hoa niên. Còn như xương gò má kéo dài đến hai bờ tóc mai và nhô lên có sắc hồng hoặc có ánh vàng trơn láng vào giờ Ngọ, sẽ được nhiều người mến mộ, theo đuổi và thương yêu.

Xương gò má cùng các xương khác trong người đại thể có nhiều tướng trạng khác nhau, song theo các nhà nghiên cứu và dịch thuật có uy tín về nhân dạng học như Lê Giảng, Hoài Chiêm Tinh, Mã Khắc Hồng, Mai Giáo Chủ, thì tất cả các xương có một số đồng dạng về nhân tướng sau đây.

Hễ xương lộ ra quá mức sẽ thường gặp chuyện tranh chấp, cãi vã với người chung quanh. Hễ xương nhô ra có hình nhọn sẽ gặp trắc trở trong công việc kinh doanh vào tuổi trung niên. Người ta còn gọi gò Đông là “Đông nhạc” và gò Tây là “Tây nhạc”.

Người phụ nữ có Đông nhạc cao và cân xứng với Tây nhạc sẽ sống thọ – cao và nhô lên sát hai bên tai thuộc dạng xương Phượng Vỹ, tức đuôi con chim phượng, nếu theo nghiệp võ sẽ thành đạt vào hàng tướng tá quan quyền…

Cách xem tướng gò má phụ nữ đoán tính cách, sự nghiệp

Gò má nhô cao

Đối với những người phụ nữ có gò má quá cao là những người nhân tướng học cho là xấu số nhất. Người phụ nữ có gò má quá cao có tướng sát phu, gây hại cho chồng còn, thường xuyên gặp chuyện tranh chấp cãi vã với người xung quanh. Những người phụ nữ này thường không gây được thiện cảm đối với người lớn tuổi. Đôi gò má quá cao cũng làm gương mặt người phụ nữ trở nên già nua, góc cạnh hơn, mất đi tính thẩm mỹ của gương mặt.

Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kì một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các nước phương Tây những người phụ nữ gò má cao luôn được đánh giá là người có cá tính mạnh mẽ và cuộc sống hôn nhân của họ không hề bị ảnh hưởng bởi quan điểm trên.

Trong công việc, cá tính mạnh mẽ ấy chính là ý trí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, có khả năng gánh vác được nhiều việc quan trọng. Hơn nữa, tính cách cởi mở với mọi người giúp người phụ nữ chiếm được cảm tình của gia đình và bạn bè của mình. Đối với những người phụ nữ gò má cao và chóp mũi to, đây quả là sự kết hợp tuyệt vời. Chủ nhân vốn hiền lành và lương thiện này sẽ gặp nhiều may mắn và thành công hơn trên mọi lĩnh vực.

Người phụ nữ có gò má cao thường là người đạt được sự giàu có nhất định bởi theo nhân tướng học, người phụ nữ có gò má cao thường tích cực có ý chí phấn đấu, tuy nhiên do quyền hành cao hơn năng lực bản thân, nên để củng cố quyền hành cần phải cố gắng quá nhiều, thậm chí dùng cả thủ đoạn, dẫn tới chỗ trở thành kẻ hung hăng, tiểu nhân, dẫn tới hậu quả xấu cho người đó, vậy coi như gò má xếp nhầm chỗ (cao hơn mũi) không tốt.

Cung gò má quá to

Người phụ nữ có cung gò má quá to: Chủ nhân bản tính khá ương ngạnh và cố chấp. Thường gây mâu thuẫn với mọi người xung quanh vì không chịu nhường nhịn mọi người cuộc sống hôn nhân vì thế cũng có phần khó khăn.

Cung gò má nở rộng

Việc sở hữu đôi gò má nở to được xem là một hình mẫu lý tưởng, bởi chủ nhân của đôi gò má này là người có trí tuệ sắc sảo, có tinh thần cảnh giác cao và đặc biệt là khả năng nhìn xa trông rộng. Hầu hết ở họ điểm chung nổi bật nhất là có tố chất làm lãnh đạo. Nhờ vào ưu điểm đặc biệt này, bạn có thể thành công ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế với tư cách là đầu tàu.

Nếu người phụ nữ cung gò má nở rộng, mũi nhỏ, thì là người phụ nữ tính tình nóng vội, hay can thiệp chuyện của chồng, gây chuyện thị phi, đa nghi điều này khiến vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn. Cần phải biết kiềm chế và suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn.

Gò má vừa rộng vừa cao

Trong cuộc sống, người này tự tin làm việc độc lập mà không cần nhận sự giúp đỡ của một ai khác khiến mọi người tưởng rằng bạn theo chủ nghĩa cá nhân. Đôi khi họ lại hơi quá tập trung vào giai đoạn ăn mừng chiến thắng làm bạn bè và người thân hiểu lầm rằng họ tự đắc. Nhưng nhờ sự chân thành, nỗ lực không ngừng khắc phục những nhược điểm của mình, mọi người không chỉ hiểu họ hơn mà còn ủng hộ họ thực hiện tiếp những hoài bão của mình. Phụ nữ độ tuổi trung niên là khoảng thời gian họ gặt hái được nhiểu thành công nhất.

Gò má thấp

Người phụ nữ sở hữu kiểu gò mà này thường nung nấu trong mình nhiều ước mơ và hoài bão cháy bỏng. Tuy nhiên, điểu đó chưa đủ để biến chúng thành sự thật nếu kế hoạch và chiến lược thực hiện không được triển khai. Lý do lớn nhất là họ vẫn chưa đủ lòng tin để xúc tiến một mình và họ lo sợ về khả năng thất bại cao. Đôi lúc tính cách rụt rè, nhút nhát, hướng nội đã làm cản trở họ thực hiện niềm đam mê. Điều quan trọng của mẫu người phụ nữ sở hữu loại gò má này chính là củng cố lòng tin vào chính mình.

Gò má tròn đầy đặn

Lưỡng quyền đầy đặn: là người có ý chí kiên cường, tinh thần phấn đấu cao, có năng lực ứng phó. Nếu phụ nữ tướng này sẽ là tướng vượng phu (giúp ích cho chồng trong sự nghiệp và cuộc sống). Phụ nữ có gò má đầy đặn, cao, tròn và thanh, không lộ xương là tướng gò má đẹp. Họ sẽ đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp ở tuổi trung niên.

Không thích sự gò bó, thích phiêu lưu, chan hòa, hướng ngoại, khao khát sự chú ý của mọi người và có khả năng ứng phó với tình huống là những tính cách điển hình của người này. Trên con đường sự nghiệp, họ tỏa sáng và được sống thực với con người mình nhất chính là những công việc liên quan tới nhóm ngành giải trí như diễn viên điện ảnh, người mẫu, hoặc nhà báo…v..v.

Mặc dù áp lực công việc luôn đè nặng đôi vai nhưng sự thông minh và khéo léo của mình đã giúp họ cân bằng được mọi việc. Trong cuộc sống hạnh phúc gia đình, họ không chỉ là một người vợ, người mẹ chăm sóc chồng con chu đáo mà còn là nguồn động viên kịp thời cho những người thân yêu.

Gò má hai bên không cân xứng

Với những người phụ nữ có gò má hai bên không cân xứng nhau hay cái cao cái thấp thì được dự đoán là là người gặp khó khăn trên đường làm ăn,đường tình yêu gặp nhiều trở ngại, phải lớn tuổi mới lập gia đình. Tục ngữ xưa cũng đã đúc kết việc hai gò má không cân xứng nhau thành câu:

“Gò má mà chẳng cân phân. Cuộc đời cam chịu lắm phần lao đao”.

Nếu hai gò má sát gần với đuôi lông mày, hậu vận sẽ có phần khá hơn, vì được sự giúp đỡ của quý nhân và con cháu.

Cách xem tướng gò má phụ nữ đoán định vận mệnh và tình duyên, hôn nhân, hạnh phúc gia đình

– Phụ nữ có gò má thanh, tròn và ẩn, mắt và mũi thanh, chủ nhân là mẫu người vợ hiền, mẹ giỏi, có thể lấy được người chồng thành đạt, có trách nhiệm với gia đình.

– Phụ nữ có bờ gò má cao tới Thiên Thương (phía trên chân mày), chủ nhân là người từng trải, song, hôn nhân không mấy tốt đẹp, gia đình gặp chuyện xung khắc hoặc ly tán.

– Cung gò má của người phụ nữ nhô cao, chủ nhân cả đời nghèo hèn. Cung gò má lõm, chủ nhân không giúp được gì cho chồng con.

– Cung gò má quá to, chủ nhân bản tính dữ dằn, không hiếu thuận, hôn nhân cũng không mấy tốt đẹp, cuộc sống vất vả, về già cô độc.

– Cung gò má nhô cao, trán cao, chủ nhân có lối sống không lành mạnh, có thể khắc tới ba đời chồng.

– Cung gò má cao và to, bàn tay to, chủ nhân có thể chịu đựng được gian khổ, giỏi lập nghiệp nhưng khó hưởng phúc của chồng con.

– Cung gò má cao nhưng mũi lại nhỏ, chủ nhân hay làm trái lời chồng, chồng gặp nhiều khó khăn, cuộc sống hôn nhân không mấy tốt đẹp.

 

– Cung gò má nở rộng, mũi nhỏ, chủ nhân tính tình nóng vội, hay can thiệp chuyện của chồng, gây chuyện thị phi, đa nghi và đời sống hôn nhân không tốt đẹp.

– Cung gò má có sắc khí vàng tươi, môi đỏ, chủ nhân là cánh tay đắc lực của chồng con, được hưởng hạnh phúc đến già. Nếu có sắc khí vàng sẫm, chủ nhân có cuộc sống nghèo hèn.

– Sắc khí cung gò má xanh biếc, chủ nhân có tâm ý độc địa, khắc chồng, gia đình tan vỡ.

– Cung gò má lúc trắng, lúc đỏ gọi là “khuôn mặt đào hoa”, chủ nhân có lối sống buông thả, hời hợt trong chuyện tình cảm.

– Cung gò má và một số bộ phận khác có sắc trắng bệch, chủ nhân khắc chồng con, hôn nhân không mấy tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ qua gò má –

Bố trí phong thủy hợp mệnh năm Ất Mùi

Cuối năm, các gia đình, công ty thường bày trí lại nhà cửa, văn phòng hợp phong thủy để đón Tết, kích hoạt trường khí tốt, hóa giải trường khí xấu.
Bố trí phong thủy hợp mệnh năm Ất Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Có nhiều trường phái phong thủy, tuy nhiên thông dụng và hiệu quả nhất hiện nay là phương pháp sắp xếp theo Cửu tinh - hệ thống sao thuộc chòm Bắc Đẩu - vận hành liên tục theo chu kỳ nhất định. Mỗi năm có một ngôi sao chủ quản, các ngôi sao còn lại trong hệ thống 9 ngôi sao ở một vị trí tương ứng, kết hợp với âm dương ngũ hành, tạo ra những tác động đến môi trường sống xung quanh chúng ta.   Để bố trí đồ đạc theo nguyên lý phong thủy, cần biết đến "phong thủy trận đồ" hàng năm. Trong năm 2015, phong thủy trận đồ là:  
Bo tri phong thuy hop menh nam At Mui hinh anh
Phong thủy trận đồ năm 2015
Cách bố trí phong thủy cho từng sao:   1. Sao Nhất Bạch: Thuộc Thủy, chủ về đào hoa, nhân duyên.   Năm nay sao Nhất Bạch (số 1) ở phía Đông. Nơi đây xuất hiện ca sĩ, diễn viên có triển vọng nhưng cũng đi kèm nhiều tai tiếng, scandal. Nhất Bạch tăng cường trí tuệ, trí thông minh, hỗ trợ sự nghiệp, tăng tài lộc và khoa cử, văn chương. Xuất ngoại, hay thăng chức, thi cử cũng kích hoạt sao này.    Người mệnh Nhất Bạch dễ nhận được ích lợi từ nguồn năng lượng này, đặc biệt trong thời gian từ 6/6 đến 6/7/2015. (Cách xem mệnh của bạn)   Nhất Bạch thuộc Thủy, chủ về đào hoa, nhân duyên, muốn tăng cường tình duyên thì nên đặt Bát nước, guồng nước; đá núi lửa, mã não đen. Muốn ngăn chặn đào hoa sát nên đặt cây màu xanh. Đặt tháp Văn Xương, voi cũng tăng cường vận nghề nghiệp. Đặt đôi uyên ương mạ vàng sẽ tăng vận tình cảm, tình duyên. Tại công ty, văn phòng cần hạn chế màu đỏ ở cung này, nếu không có thể dẫn đến phá sản.   2. Sao Nhị Hắc: Thuộc hành Thổ, chủ tật bệnh, ôn dịch.   Năm nay Nhị Hắc (số 2) nằm ở phía Đông Nam. Đây là nơi có nhiều dịch bệnh, tai nạn, bệnh về thận hay đường sinh dục. Nhị Hắc là năng lượng xấu, có thể làm suy yếu sức khỏe, hệ thống miễn dịch cho những ai sử dụng phòng chức năng chính như phòng ngủ, phòng làm việc. Số 2 đại diện cho ổ năng lượng xấu dễ bùng phát.   Hạn chế động thổ ở hướng này. Nếu cửa chính/ nơi đón khí chính rơi vào sao Nhị Hắc thì dễ mắc bệnh truyền nhiễm hoặc sức khỏe tự nhiên chuyển biến xấu. Phòng ngủ vợ chồng ở đây cũng phải lưu tâm. Hỏa hoạn cũng hay xảy ra từ phương này. Nếu hay sử dụng căn phòng tại vị trí Đông Nam, bạn cần tiết giảm hệ năng lượng xấu bằng cách dùng kim loại hay đá trắng.   Người mệnh Nhị Hắc dễ bị ảnh hưởng của nguồn năng lượng xấu này, đặc biệt là trong thời gian 6/5 đến 5/6/2015.   Do đó ngoài việc cần hóa giải theo biện pháp trên cần tăng cường duy trì một chế độ ăn uống lành mạnh và tập luyện đều đặn trong suốt cả năm, nhất là các bài tập cảm nhận khí, loại bỏ khí xấu khỏi cơ thể.   Nhị Hắc thuộc Thổ nên tránh màu vàng, màu đỏ. Lấy Kim tiết bằng cách dùng phong linh (chuông gió) kim loại, tiền xu, hồ lô đồng, thạch anh trắng, mã não trắng, tượng mạ vàng. Có điều kiện thì nên dùng động mã não trắng, vì nó có trường khí mạnh hơn. Đặt tỳ hưu, long quy, kỳ lân bằng đồng cũng hóa giải được.   Hiện nay người dân hay dùng chuỗi tiền xu, phong linh bằng kim loại hay bình hồ lô thu sát khí, song hiệu quả đến đâu thì cần phải xem xét. Vì bản thân những vật dụng này có trường khí không cao nên khả năng tiết giảm khí xấu cũng có hạn chế nhất định.   3. Sao Tam Bích: Thuộc hành Mộc, chủ khẩu thiệt thị phi.   Tam Bích (số 3), năm nay nằm ở vị trí trung cung (giữa khu đất). Tam Bích tăng cường sự cạnh tranh, có thể mang lại cơ hội cho những người làm việc trong ngành luật, ngân hàng, tài chính, thể thao, bán hàng và quảng cáo nếu biết tận dụng hợp lý. Những ngành khác nó sẽ mang đến sự đối chọi, thậm chí cả thị phi, điều tiếng, tranh chấp không ngừng. Về bệnh tật hay liên quan đến chân tay, gan mật.   Thông thường sao nhập trung cung sẽ mất bớt tác dụng của mình. Nếu cửa chính /nơi đón khí chính rơi vào sao Tam Bích, vợ chồng sẽ cãi nhau triền miên, bất hòa tăng, con cái ngỗ nghịch, khó bảo. Năng lượng của Tam Bích khi thuận lợi có thể giúp bạn tích cực cạnh tranh với phe đối lập. Tuy vậy trong thời điểm vận 8, tính chất xấu sẽ bị phát tác hơn rất nhiều. Để giảm bớt khía cạnh tiêu cực này, cần dùng hành Hỏa để tiết giảm, như để lọ hoa hồng, cầu thạch anh hồng ở khu vực trung cung.   Người mệnh Tam Bích dễ bị ảnh hưởng của nguồn năng lượng xấu này, nhất là thời gian từ 5/4 đến 5/5/2015. Nếu làm trong những lĩnh vực có tính chất cạnh tranh cao, bạn cần tìm ra phương pháp uyển chuyển hơn mới giúp giải quyết công việc.   Tam Bích thuộc Mộc nên tránh màu xanh, dùng Hỏa tiết Mộc. Có thể cắm hoa hồng (đã cắt bỏ lá), đặt nến đỏ hoặc đặt viên đá ruby đỏ, thạch anh hồng, thạch anh mắt hổ đỏ. Có điều kiện hơn thì nên dùng cầu thạch anh tím, nho mã não đỏ, hay động thạch anh tím.   4. Sao Tứ lục: Thuộc Mộc, chủ về khoa cử.   Trong năm Ất Mùi sao Tứ Lục (số 4) nằm ở phía Tây Bắc. Nó sẽ tăng cường nguồn năng lượng tích cực cho những người làm việc tri thức, các học giả, nhà nghiên cứu, những người trong ngành công nghiệp giải trí, nhà văn, nghệ sĩ, nhà thiết kế, những người làm công việc sáng tạo nói chung.   Người mệnh Tứ Lục dễ được tăng cường sức sáng tạo, sự lãng mạn và may mắn trong con đường học thuật của mình, nhất là trong thời gian từ 6/3 đến 4/4/2015, 7/12/2015 đến 5/1/2016. Khi thất vận, Tứ Lục dễ gây họa đào hoa, mắc bệnh hen suyễn, gan mật, bệnh tật hoặc sự cố về thuốc.   Tứ Lục thuộc Mộc, cần bổ sung cây xanh như trúc phát lộc, tháp Văn Xương, thạch anh mắt hổ xanh, lục ngọc để tăng cường vận Tứ Lục.   5. Sao Ngũ Hoàng: Thuộc Thổ, chủ tai họa bệnh tật.   Ngũ Hoàng (số 5) tích tụ nguồn năng lượng hỗn loạn, nên tĩnh không nên động, năm nay sao nằm ở phía Tây. Tuyệt đối tránh động thổ ở đây do dễ tổn nhân đinh. Nếu cửa chính/ nơi đón khí chính rơi vào sao Ngũ Hoàng dễ có khí xấu hay vãng vong tác động. Trong các sao xấu thì Ngũ Hoàng cần được ưu tiên hóa giải đầu tiên.   Người mệnh Ngũ Hoàng dễ gặp tai họa, sự cố trong thời gian từ 4/2 đến 5/3/2015, 8/11 đến 6/12/2015.   Ngũ Hoàng thuộc Thổ, cần dùng Kim tiết, nên tránh màu vàng, đỏ. Không được treo Thái tuế phù màu đỏ ở đây vì sẽ có tác dụng ngược lại. Có thể dùng tiền đồng, phong linh kim loại, la bàn hóa sát, thạch anh trắng, mã não trắng, quả cầu trắng. Ngồi ở đây niệm “Kim cương kinh” cũng hóa giải được sát khí. Linh khí phong thủy nên dùng là tỳ hưu, long quy, kỳ lân.   6. Sao Lục Bạch: Thuộc Kim, chủ về chức vụ, tài lộc.   Năm nay sao Lục Bạch (số 6) nằm ở Đông Bắc. Nó chứa đựng nguồn năng lượng tốt cho những người làm hành chính hay những người trong vị trí quyền lực. Ngân hàng, tài chính trong khu vực này có chuyển biến tốt. Lục Bạch cũng liên quan đến di cư, du lịch, đi xa hay chuyển nghề, nếu quan tâm có thể kích hoạt ở vị trí tương ứng.   Người mệnh Lục Bạch dễ được hỗ trợ để phát triển về nghề nghiệp, địa vị và quyền lực, nhất là trong thời gian từ 5/1 đến 3/2/2015, 8/10 đến 7/11/2015.   Khu vực có sao Lục Bạch không được để nhà kho, chất nhiều đồ đạc, hay nếu rơi vào vệ sinh sẽ thất thoát tiền tài, thậm chí phá sản. Nếu cửa chính/ nơi đón khí chính rơi vào sao Lục Bạch sẽ có lợi về tiền tài, nhưng cần dọn sạch sẽ thường xuyên. Nếu đặt nhầm tượng nam nữ, tranh nam nữ ở đây dễ gây bất hòa trong gia đình.   Lục Bạch thuộc Kim, muốn thúc đẩy công danh nên đặt đồ màu vàng, đỏ như nuôi cá vàng, thạch anh mắt hổ, chậu tụ bảo, cây rung tiền... Đặt voi hoàng ngọc hay voi vàng ở đây sẽ thúc vận quý nhân, có thăng tiến.   7. Sao Thất Xích: Thuộc Kim, chủ tai nạn, trộm cướp, phẫu thuật.   Năm nay sao Thất Xích (số 7) nằm ở phía Nam. Thất Xích ẩn chứa nguồn năng lượng suy giảm nên sẽ làm tăng thêm đối thủ cạnh tranh, hiểu lầm, những tin đồn và trộm cắp. Thất Xích cũng liên quan đến hỏa hoạn, hệ thống hô hấp, bệnh tay chân miệng, bệnh phổi, phế quản. Sẽ tốt hơn nếu khu vực này không có cửa sổ, cửa ra vào hay nơi đón khí chính.   Nếu ở vị trí này đang có đồ đồng, kim loại thì cần tháo bớt hoặc chuyển vị trí. Ti vi, điều hòa, đồng hồ... cũng có thể là những tác nhân xấu liên quan đến tai nạn, sự cố hay phẫu thuật. Màu đỏ như thảm đỏ, hoa đỏ... ở đây lại tăng bất đồng quan điểm, tranh cãi, bệnh tim.   Người mệnh Thất Xích cần cảnh giác với an ninh hay những thông tin sai lệch, nhất là trong thời gian từ 7/12/2014 đến 4/1/2015, 8/9 đến 7/10/2015.   Thất Xích thuộc Kim, để giảm sức mạnh của Kim cần bổ sung Thủy, như guồng nước, bát nước, đá núi lửa, thạch anh đen, mã não đen. Người kinh doanh cổ phiếu, chứng khoán đặt hồ lô ngũ sắc, thất tinh ngũ sắc ở đây sẽ tăng nhiều cơ hội tốt cho mình.   8. Sao Bát Bạch: Thuộc Thổ, chủ về tài vận.   Bát Bạch (số 8) nằm ở phía Bắc. Kinh tế khu vực này khởi sắc. Có nhiều nhân tài, doanh nhân giỏi xuất hiện. Các ngành liên quan về đào hoa như mỹ thuật, nghệ thuật có cơ hội phát triển lớn.   Bát Bạch chứa đựng nguồn năng lượng mạnh mẽ nhất, có thể tăng các cơ hội phong phú, nhất là khi khu vực này có nhiều hoạt động thường xuyên trong năm. Bát Bạch mang đến danh lợi, phúc lộc, điền trạch cũng như khoa cử, là sao tốt nhất trong 9 sao (cửu tinh) từ nay đến hết vận 8 (tức hết năm 2023).   Tương tự như sao Lục Bạch, nếu cửa chính/ nơi đón khí chính rơi vào sao Bát Bạch thì cần dọn sạch sẽ thường xuyên, nếu không kiếm tiền sẽ khó khăn, hoặc nếu có kiếm được cũng sẽ nhanh thất thoát.   Người mệnh Bát Bạch rất được hỗ trợ thuận lợi, nhất là trong thời gian từ 8/8 đến 7/9/2015. Bát Bạch thuộc Thổ, muốn tăng cường tài vận, nên bổ sung đồ màu đỏ hay vàng như nuôi cá vàng, đặt nến đỏ, cắm hoa hồng, đặt động thạch anh vàng, nho mã não đỏ, động thạch anh tím, đá thịt lợn màu đỏ.   9. Sao Cửu Tử: Thuộc Hỏa, chủ về may mắn.   Cửu Tử (số 9) nằm ở phía Tây Nam. Năm nay sẽ có nhiều người nổi danh trong lĩnh vực âm nhạc, diễn thuyết. Cửu Tử chứa đựng nguồn năng lượng tích cực, may mắn, vui vẻ trong gia đình bạn, nhất là khi ở đây có tổ hợp sao số 9 sức mạnh sẽ được tăng cường đáng kể.    Người mệnh Cửu Tử rất sẽ nhận nhiều tác động, nên có hai xu hướng trái ngược nhau, một là bạn nhận được nguồn năng lượng tích cực, phát triển quan hệ xã hội và sự may mắn, hai là bạn phải chú ý nhiều hơn để tránh những sự cố nảy sinh, nhất là thời điểm từ 7/7 đến 7/8/2015.   Cửu Tử cũng liên quan đến đào hoa, cầu tự. Chưa có con cái có thể kích hoạt vị trí này bằng quả cầu thạch anh hồng, nhất là trường khí cao sẽ có hiệu quả nhanh chóng.   Cửu Tử không đồng nghĩa với mọi may mắn, nếu sai cách cục phong thủy như đây là vệ sinh, nhà kho, chỗ đổ rác,... thì nam nữ háo sắc, dễ có bệnh mắt, cũng như tai nạn, sự cố.   Cửu Tử thuộc Hỏa, nên tăng cường Hỏa vận bằng bổ sung màu đỏ như thạch anh tím, san hô đỏ, thạch anh mắt hổ đỏ, nho mã não đỏ. Vận tình duyên cũng có thể kích hoạt ở đây, nhất là khi phòng ngủ ở vị trí sao này.   Một số lưu ý để đạt hiệu quả trong việc bố trí phong thủy:   - Không cần bê giường, chuyển phòng... sang các vị trí tốt như nhiều người lầm tưởng mà chỉ cần kích hoạt trường khí ở các vị trí tương ứng là được.   - Sử dụng đá quý, ngọc tự nhiên vốn có nguồn năng lượng tích tụ lâu năm để sử dụng lâu dài. Nếu lựa chọn bột đá, nhựa ép, đá tổng hợp, nhuộm màu hay bùa chú có tính chất mê tín sẽ mang lại hại họa, âm khí cho căn nhà của bạn. Đá quý, ngọc tự nhiên cần có trường khí trong mức 350 đến 890 MHz. Khi trường khí thấp quá sẽ không kích hoạt được mà lại gây ra tác động xấu, bất lợi cho người sử dụng. Do đó, việc lựa chọn đá là khâu rất quan trọng, nên tham khảo tư vấn của chuyên gia hoặc mang đến phòng lab đo đạc.   - Không nên kích hoạt cả 9 cung, mà nên chọn ra 3-4 cung quan trọng và cần thiết nhất. Do đó, bạn cũng chỉ cần mua 3-4 linh khí phong thủy và thay đổi vị trí hàng năm là được.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí phong thủy hợp mệnh năm Ất Mùi

Tướng đàn ông háo sắc dễ nhận biết nhất

Tướng đàn ông háo sắc: Đàn ông sở hữu chiếc mũi thẳng và hai cánh mũi dày thường khá “sành sỏi” trong các mối quan hệ tình cảm.
Tướng đàn ông háo sắc dễ nhận biết nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ cần chú ý một vài đặc điểm tướng cách dưới đây, quý cô sẽ nhanh chóng "bắt bài" những anh chàng háo sắc.


1. Lòng trắng mắt có nốt ruồi

Dù là đàn ông hay phụ nữ, nếu lòng trắng mắt xuất hiện nốt ruồi hoặc đốm nâu phản ánh nhu cầu tình dục khá cao.

Đặc biệt là nam giới, nếu sở hữu tướng nốt ruồi này, vận đào hoa rất mạnh. Người này đi tới đâu cũng có phụ nữ theo đuổi nên dễ bị cám dỗ bởi những điều mới lạ.

Tuong dan ong hao sac de nhan biet nhat hinh anh 2
 
2. Hai cánh mũi dày

Đàn ông sở hữu chiếc mũi thẳng và hai cánh mũi dày thường khá “sành sỏi” trong các mối quan hệ tình cảm. Họ háo sắc, dễ nảy sinh tâm lí ham chơi nên khó tránh khỏi chuyện ngoại tình sau hôn nhân. Đây là một trong những đặc điểm của tướng đàn ông háo sắc.

Những tướng mặt chưa chuẩn nhưng lại dễ phát tài trong năm 2016
Dù chưa sở hữu những nét tướng phú quý, nhưng đừng buồn bởi năm 2016 bạn có nhiều cơ hội cho những ai luôn phấn đấu không ngừng nghỉ.
3. Môi trên và môi dưới rất dày

Đôi môi cũng là một trong những căn cứ giúp quý cô có thể “nhận dạng” đàn ông háo sắc. Đàn ông môi dày thường có tính cách phóng khoáng, nhiệt tình và dục vọng lớn. Khi đối phương không đáp ứng được yêu cầu đề ra, họ chẳng ngần ngại “đường ai nấy đi”.

Tuong dan ong hao sac de nhan biet nhat hinh anh 2
 
4. Ánh mắt liếc ngang liếc dọc


Có câu “Con gái yêu bằng tai, con trai yêu bằng mắt” quả thật không sai. Những anh chàng háo sắc, thích khám phá điều mới lạ thường sở hữu đặc điểm trên. Đặc biệt, khi nhìn thấy các cô nàng xinh đẹp, ánh mắt của họ bất ngờ lóe sáng.

Có thể nói, ánh mắt người này luôn trong trạng thái động, liếc ngang liếc dọc, khó tập trung lâu vào một điểm nhìn hay đối tượng nào đó. Điều này cũng thể hiện phần nào tính cách dễ dàng thay đổi của họ.

Tuong dan ong hao sac de nhan biet nhat hinh anh 2
 
5. Đàn ông ti hí mắt lươn


Mắt nhỏ, hẹp và khá dài là đặc trưng chủ yếu của đôi mắt lươn. Đàn ông sở hữu tướng mắt này thường có tinh lực dồi dào, sức khỏe cường tráng nên nhu cầu về “chuyện ấy” cũng khá nhiều.

► Xem bói nốt ruồi đoán vận mệnh chuẩn xác

Việt Hoàng (Theo DYXZ)




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông háo sắc dễ nhận biết nhất

Yếu lĩnh chống ẩm khi lắp đặt cửa nhà vệ sinh –

Có người phát hiện ở phía dưới cửa phòng vệ sinh nhà mình có một đoạn sơn bị rộp lên, đồng thời xuất hiện các dám mốc. Nghĩ rằng, có khá năng khi làm cửa nhân viên thao tác đã không chú ý đến vòi nước lắp ở trên cửa. Lâu rồi vì ảnh hưởng của vòi nước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mà tấm gỗ kia bị mốc và sơn kia cũng không tốt nên mới bị bong lên. Nếu bạn không muốn thay toàn bộ cửa mà chỉ xử lý chỗ bị bong rộp nấm mốc thôi thì làm thế nào?

Mẫu-cửa-nhựa-nhà-vệ-sinh-có-chia-pano

Một người khác thì than phiền về căn phòng vệ sinh nhỏ bé nhà mình, căn phòng chỉ không đến 2m2, nên khoảng cách từ khung cửa đến vòi tắm rất gần, nước rất dễ phun vào cứa và khung cửa, làm thế nào để khung cửa không bị ướt?
Thứ tự các công đoạn gia công chống thấm nước bên trong nhà vệ sinh rất quan trọng, rất nhiều người chắc rằng khi xem xét vấn đề chỉnh trang lại nhà vệ sinh đã ý thức rất rõ điểm này, nhà vệ sinh là nơi sử dụng rất nhiều nước. Nói dến vấn dề phòng chống ẩm cho cửa, thường chỉ biết đến mấy biện pháp là đệm lót bằng giấy chống ấm và dùng sơn quét. Có thể thấy rằng vấn đề chống ấm ướt không hề đơn giản, nó liên quan chặt chẽ với việc chọn vật liệu và thứ tự thi công các công đoạn, nếu xem nhẹ thứ tự thi công các hạng mục công việc thì gặp trục trặc là điều rất dễ xảy ra. Phòng chống ấm cho cửa nhà vệ sinh như thế nào?

(1) Sơn nhiều lớp lên mặt sau cửa

Căn cứ theo quy định, mọi loại cửa gắn vào tường nhà vệ sinh đều phải được xử lý chống ẩm. Xử lý chống ẩm bình thường gồm những vấn đề sau: Khi chỉnh trang nhà ở cần nhắc thợ hết sức chú ý những nơi này. Thứ nhất là chỗ tiếp giáp cửa và tường phải được sơn thật kỹ, tốt nhất là sơn nhiều lần, như vậy mới có thể ngăn được hơi ẩm từ tường ra cửa; thứ hai, nếu nhà vệ sinh không thiết kế ngường cửa bằng đá thì giừa cửa và nền nhà phải để ra một khoảng trống khoảng 1cm, mục đích là tránh nước ngấm từ nền nhà lên cửa; thứ ba, mặt sau cửa dán một lớp vật liệu chống nước để ngăn hơi ẩm xâm nhập vào cửa; thứ tư, dùng gạch men hoặc đá ốp phần tường sau cửa.

(2) Ngưỡng cửa và thân cửa phải khớp nhau

Trong phòng chống ẩm cho cửa cần chú ý đến thứ tự thi công các công việc. Nếu như làm sai thứ tự này, hơi nước có thể thấm vào trong cửa. Thứ tự thi công đúng là lát gạch nền trước, sau đó làm ngưỡng cửa, tiếp đến làm cửa, chú ý độ rộng của ngưỡng cửa phải bằng độ rộng thân cửa, lắp cửa theo hướng từ trái sang phải, hết sức tránh để cửa tiếp xúc trực tiếp với vật liệu ẩm ướt.

(3) Vữa xi măng cát vào mùa đông phải được phơi 7 ngày

Thực tế thì không chỉ riêng cửa của nhà vệ sinh mới cần chú ý đến việc chống ẩm, chỉ cần là vữa xi măng cát làm nền, nếu nó tiếp xúc với vật liệu gỗ thì đều có thể sinh ra mốc. Điều này giải thích nguyên nhân tại sao nền xi măng cát nhất định phải được làm trước. Vì muốn tranh thủ thời gian mà đôi khi người ta thi công đan xen cả phần nề và phần mộc, cách làm này hết sức thiếu khoa học, bất lợi là hơi nước bèn trong vữa không thoát ra được. Để chống ẩm được tốt, báo đảm nước trong vữa xi măng bốc hơi được hết, thường người ta phơi vữa này sau khoảng 3 ngày rồi mới tiếp tục công đoạn làm mộc (chủ yếu áp dụng cho các công việc liên quan đến gỗ có tiếp xúc với tường như khung cửa, dụng cụ cố định), vào mùa đông thì cần phơi ít nhất 7 ngày.

Ngoài ra, trong quá trình thi cồng, thợ có kinh nghiệm phải trực tiếp làm các công việc đòi hỏi sự khéo léo như xử lv dường khe giữa gạch và tường, làm thế nào để hơi ẩm thoát ra dễ dàng, tránh đế gỗ hút phải hơi ẩm mà sinh mốc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yếu lĩnh chống ẩm khi lắp đặt cửa nhà vệ sinh –

Bạn sẽ không ngờ nốt ruồi ở ngực và gáy lại nói lên điều bất ngờ này đâu

Người có nốt ruồi trước ngực hay sau gáy lại có vận mệnh suôn sẻ hơn người có lúm đồng tiền.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi và lúm đồng tiền thường là 2 đặc điểm được nhiều người quan tâm trong việc dự báo về số phận của mình. Về nhân tướng học, những người có má lúm đồng tiền không quá may mắn trong cuộc đời, trong khi đó người có nốt ruồi trước ngực hay sau gáy lại có vận mệnh suôn sẻ hơn.
Lúm đồng tiền
not ruoi 1

Con gái có lúm đồng tiền là người đào hoa nhưng thường thiếu may mắn trong chuyện tình cảm. Vận mệnh của họ cũng không quá tốt. Tuổi trẻ được thương yêu nhưng về già hay gặp bất hạnh, cuộc sống giảm sút. Con gái có lúm đồng tiền rất dễ tranh cãi với người khác, hay gặp rắc rối trong các mối quan hệ giao tiếp xã hội. Lại hay bị cuốn vào chuyện thị phi của người khác, rắc rối không ngừng. Vì vậy họ nên chịu khó làm việc thiện, tích phúc để có cuộc sống yên ổn hơn.

Con trai có lúm đồng tiền thuở nhỏ được mọi người thương yêu, nửa đầu cuộc đời sẽ suôn sẻ, nhẹ nhàng. Tuy nhiên họ lại không may mắn trong sự nghiệp, làm ăn dễ bị phản bội, lừa dối. Họ không thể tự mình gây dựng sự nghiệp mà cần phải có sự hỗ trợ của người khác. 
Nốt ruồi trước ngực
Not ruoi 2

Nếu nốt ruồi trước ngực là màu đỏ thường sẽ tốt hơn màu đen hay nâu rất nhiều. Người có nốt ruồi trước ngực rất đào hoa, được nhiều người theo đuổi.

Nếu phụ nữ nốt ruồi nằm giữa khe ngực là người chủ động, biết cách hưởng thụ cuộc sống, giỏi biểu đạt tình cảm, thường ít giấu tâm sự. Nếu nốt ruồi ở trên ngực thường là người khéo sinh và nuôi dạy con cái, đây cũng coi như là quý tướng, nếu là nốt ruồi đỏ lại càng tốt hơn nhiều.
Trong khi đó đàn ông có nốt ruồi trên ngực thường khao khát có được sự nghiệp thành công. Tuy nhiên họ lại hay ảo tưởng, nói giỏi hơn làm nên sự nghiệp thường trắc trở. Nếu kiên trì và giữ vững niềm tin vẫn có thể thành công trong tương lai gần.
Nốt ruồi ở gáy
Not ruoi 3

Nốt ruồi ở gáy thường được coi là chỗ dựa vững chắc cho vận mệnh của mỗi người. Những người có nốt ruồi sau gáy thường được quý nhân phù trợ, gặp khó khăn đều dễ dàng vượt quá. Người có nốt ruồi sau gáy tính cách khiêm tốn, không thích khoe khoang lại thích tiết kiệm.

Đa phần họ thường không có lý tưởng hoặc lý tưởng quá cao xa nên trừ khi gặp được cơ hội, nếu không cả cuộc đời sẽ rất tầm thường, không có gì nổi bật. Tuy nhiên nếu cố gắng thì khi về già chắc chắn sẽ rất giàu, sở hữu gia tài bạc triệu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn sẽ không ngờ nốt ruồi ở ngực và gáy lại nói lên điều bất ngờ này đâu

Phật chỉ ra việc không đáng để làm trong đời người

Đời người ai chẳng phạm sai lầm, thực hiện việc không đáng làm để phải gánh hậu quả. Nhưng nếu nghe lời Phật dạy, biết mà tránh thì cuộc đời sẽ an nhiên, khoan
Phật chỉ ra việc không đáng để làm trong đời người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Đời người ai chẳng phạm sai lầm, làm những việc không đáng để phải gánh hậu quả. Nhưng nếu nghe lời Phật dạy, biết mà tránh thì cuộc đời sẽ an nhiên, khoan thai hơn rất nhiều.


=> Cùng đọc Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

1. Trốn tránh trách nhiệm


Để làm được điều này quả thực không dễ dàng bởi thật khó để giữ tâm bình thản khi đối diện với khó khăn.

Nhưng bình tĩnh đối diện mới là chìa khóa giải quyết mọi khó khăn, còn trốn tránh trách nhiệm thì chỉ lãng phí thêm thời gian cũng như sự lo lắng của bản thân mà thôi.

Phat chi ra 7 viec khong dang de lam trong doi nguoi hinh anh
 
2. Tự lừa dối bản thân


Huyễn hoặc hay lừa dối bản thân cũng là một. Mình không tài giỏi nhưng cứ tự lừa dổi rằng mình giỏi giang hơn người, mình đang đau khổ nhưng lại cứ huyễn hoặc bản thân trong thứ hạnh phúc mông lung, khó nắm bắt.

Tự lừa dối bản thân là điều không đáng làm trên đời này. Bởi khi ấy, bạn sẽ chẳng nhận ra khả năng và vị trí của mình ở đâu, không có hướng đi rõ ràng, luôn quẩn quanh trong những suy nghĩ tiêu cực.

Vậy nên, nếu muốn gặp được cơ hội tốt, muốn được thành công và hạnh phúc, hãy bắt đầu từ việc chân thành đối đãi với chính mình. Có yêu bản thân thì mới yêu được mọi người xung quanh cũng chính vì lẽ đó.

3. Cố gắng trở thành người khác

Ai cũng từng một lần trong đời ngưỡng mộ người khác và mong muốn bản thân mình trở thành người ấy. Đó thực sự là một sai lầm không đáng có.

Một người xinh đẹp, thông minh, thành đạt, ưu tú... hơn mình, nhưng có một sự thật là họ không phải mình và mình chẳng bao giờ là họ.

Thay vì cố gắng để trở thành người khác, hãy là chính bản thân mình, cố gắng hết sức để trở thành người tốt, lương thiện, bao dung nhân loại. Và khi ấy, chính bạn cũng trở thành người đáng ngưỡng mộ trong mắt mọi người xung quanh.

4. Chìm đắm mãi trong quá khứ


Phật chỉ ra điều không đáng làm trong đời người, trong đó có việc chìm đắm mãi với quá khứ. Quá khứ là thứ đã qua đi, không lấy lại được. Tương lai là những gì sắp diễn ra, không nắm bắt được. Hiện tại mới là cuộc đời, là lẽ sống của mỗi người.

Vì thế, đừng mãi đắm chìm trong quá khứ để rồi khi thực sự thức tỉnh đã thấy mình già nua, lạc hậu, khó lòng bắt đầu cuộc đời mới.

Phat chi ra 7 viec khong dang de lam trong doi nguoi hinh anh 2
 
5. Sợ phạm sai lầm, trách móc bản thân


Có người làm mọi việc bất chấp sai lầm, nhưng cũng có người không dám làm việc gì vì sợ phạm sai lầm. Thử hỏi trong đời, có mấy người là không từng trải qua sai lầm để gặt hái thành công.

Đôi khi, điều khiến bản thân mỗi người hối hận, day dứt mãi không phải là làm một việc sai lầm mà là không dám làm nó.

Trách móc bản thân vì phạm sai lầm, cũng là điều tốt để phản tỉnh, đánh thức cái thiện lương trong tâm hồn, giúp bản thân trưởng thành hơn. Mỗi sai lầm hôm nay sẽ là bài học kinh nghiệm cho tương lai, giúp bạn hoàn thiện chính mình.

Vì thế, thay vì trách cứ bản thân, chi bằng hãy tìm cách sửa đổi nó, biến nó thành động lực để giúp mình bay cao bay xa hơn nữa trong cuộc đời.

6. Đáp ứng mọi nhu cầu bản thân


Phật chỉ ra rằng, dục vọng con người như chiếc thùng không đáy, gần như là vô hạn. Bởi thế, trong đời này, nhu cầu bản thân, những điều chúng ta mong muốn là vô cùng nhiều, khó mà kể hết.

Tuy nhiên, có những thứ thực sự khiến ta thỏa mãn và hạnh phúc đôi khi rất ít và đơn giản, đó có thể là nụ cười, là sự cho đi, là tình yêu thương...

Hãy tu tâm dưỡng tính, biết được nhu cầu nào là cần thiết và điều gì cần buông bỏ. Mải mê chạy theo để đáp ứng mọi nhu cầu bản thân là điều không đáng để làm trong đời này.

7. Lãng phí thời gian vào nhầm người


Cuộc đời ngắn ngủi, sinh tử liền kề, nên đừng đem những ngày tháng quý giá ấy để lãng phí nhầm người. Đôi khi chúng ta chìm đắm trong đau khổ mà quên mất cách buông bỏ, đẩy lùi phiền não.

Bạn bè tốt là cả khi giàu sang hay cơ hàn đều nghĩ tới nhau. Chứ người mà khi phú quý huy hoàng mới đến kết giao thì chưa chắc đã là bạn chân chính.

Tâm Nhân
Văn khấn Thanh Minh tại nhà
Tiết Thanh Minh tảo mộ là một trong những lễ nghi truyền thống rất đáng quý. Tuy nhiên, nhiều người không có điều kiện để tới tận nơi cúng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật chỉ ra việc không đáng để làm trong đời người

Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tuất

Tuổi Giáp Tuất (mệnh Hỏa, sinh năm 1994) mệnh số may mắn, công thành, danh toại, tài lộc dồi dào, con cái thành đạt. Tuổi này thuở nhỏ gặp chút vất vả, đến năm
Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: 26 tuổi sẽ có cuộc sống sung sướng, vật chất đầy đủ.

 
Những tuổi đại kỵ với tuổi Giáp Tuất không nên hợp tác làm ăn hoặc kết hôn là: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Ất Dậu, Kỷ Sửu, Tân Mão, Quý Dậu, Đinh Mão.

Tính cách: Là người hiền lành, nhạy cảm, tính tình bộc trực, thẳng thắn, chân thật, có sức chịu đựng bền bỉ nên rất được mọi người tin tưởng, kính nể.

Tình duyên: Tuổi này số đào hoa, tình cảm yếu đuối nên đường tình bất ổn đặc biệt là  nữ sinh vào các tháng 3, 6, 8, 10; nam sinh vào các tháng: 2, 3, 9.

Tuổi Giáp Tuất không nên kết hôn với các tuổi: Quý Mùi, Tân Mùi để tránh cảnh bần hàn, bất hạnh.

Công danh sự nghiệp: Tuổi Giáp Tuất tuy đường này đến muộn nhưng lại thành đạt, vững chắc, năm 40 tuổi sẽ có sự nghiệp vẻ vang, có địa vị lớn trong xã hội.

Tuổi này nên kết hợp với các tuổi Mậu Thìn, Nhâm Thân, Giáp Tuất công việc làm ăn sẽ thuận lợi, phát đạt.

Tiền bạc: Tuổi Giáp Tuất tiền bạc bất ổn, đến tuổi 38, 39 gặp nhiều may mắn trong làm ăn, tiền của dồi dào, về già giàu có, sung sướng.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tuất

9 tác dụng phong thủy của gương, dùng đúng thì cực tốt

Gương là vật dụng không thể thiếu trong nhà, cùng xem 9 tác dụng phong thủy của gương để vận dụng thật hiệu quả.
9 tác dụng phong thủy của gương, dùng đúng thì cực tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gương là vật dụng không thể thiếu trong nhà, không chỉ có tác dụng để soi, làm đẹp không gian mà nó còn có những công năng phong thủy rất lớn. Cùng xem 9 tác dụng phong thủy của gương để vận dụng thật hiệu quả.

9 tac dung phong thuy cua guong, dung dung thi cuc tot
 

1. Công dụng khuếch đại năng lượng phong thủy
 

Ở một nơi nhất định bày gương lớn hoặc nhiều gương có thể khiến cho người ta có cảm giác không gian rộng rãi, khoáng đạt hơn. Ví dụ, phòng có chiều dài và chiều rộng quá chênh lệch, tỉ lệ thiếu cân đối, phòng hẹp mà dài hay đại sảnh nhỏ hãy bày gương kích thước phù hợp. Tác dụng phong thủy của gương là khuếch đại năng lượng, bù đắp sự mất cân đối của không gian, cân bằng âm dương.

2. Công dụng tái tạo năng lượng phong thủy

  Trong phong thủy, trường hợp cửa đối cửa là vô cùng bất lợi, chủ về thị phi khẩu chiến, đào hoa dữ, có người thứ ba xen vào tình cảm,… Gương đối diện cửa cũng có ảnh hưởng tương tự về mặt phong thủy, đặc biệt là tình huống gương có chiều cao lớn hơn ½ chiều cao của cửa. Lúc này chiếc gương tái tạo năng lượng, có ý nghĩa tương tự như một chiếc cửa.
Xem thêm bài viết Treo gương đúng phong thủy: Nên và không nên
 

3. Công dụng chuyển hóa năng lượng phong thủy

  Căn cứ vào vị trí trong phong thủy, trái Thanh Long, phải Bạch Hổ, trước Chu Tước, sau Huyền Vũ thì có thể thấy, phía sau nên có chỗ dựa để cảm giác an toàn, vững vàng, chân thực. Như thế nào là có chỗ dựa? Tức là vị trí ngồi sao cho lưng tựa vào tường.   Nhưng có nhiều trường hợp trên tường lại có gắn gương thì chính chiếc gương này sẽ chuyển hóa năng lượng, biến tường thật thành tường ảo, khiến sự vững chãi của tường không còn. Lúc này lại không nên ngồi dựa vào tường.  

4. Công dụng dẫn dụ năng lượng phong thủy


Cong dung cua guong trong phong thuy
 
Tác dụng phong thủy của gương là tích lũy và tạo ra năng lượng. Với một căn phòng không đủ ánh sáng thì có thể sử dụng gương dẫn dụ năng lượng tia sáng để tăng cường ánh sáng trong phòng. Có thể lợi dụng điểm này để cải thiện phong thủy cho phòng không có cửa sổ.    Phòng không có cửa sổ tạo cảm giác tù túng, chật hẹp, không có nguồn năng lượng bổ sung. Lúc này nên bày gương để gương dẫn dụ năng lượng, có thể thay thế cửa. Một điểm cần lưu ý là tránh bày gương ở nơi phản xạ ánh sáng mặt trời.   

5. Công dụng giả lập năng lượng phong thủy

  Trong phong thủy luôn nhấn mạnh gương không thể đối diện giường ngủ, vì sao lại như vậy? Vì giường ngủ là nơi riêng tư nhất, cẩn mật nhất, phong thủy lưu ý người ngoài miễn vào. Nhưng gương lại có khả năng giả lập năng lượng, tức là tạo ra nguồn năng lượng giả, thế giới khác nên xem như là có một người khác tiến vào, rất không tốt.
 
Xem thêm bài viết Hướng dẫn hóa giải lỗi phong thủy gương đối giường

6. Công dụng phô bày năng lượng phong thủy

  Công dụng này chủ yếu được biểu hiện nếu bày gương ở vị trí thu hút hỉ cát năng lượng thì nó sẽ phản chiếu lại năng lượng tốt, ngược lại nếu gương lại treo ở nơi có năng lượng chán chường, buồn bã thì đối lại cũng là một nguồn năng lượng xấu. Vì thế treo gương nhất định phải tìm nơi đón cát tránh hung.   

7. Công dụng bù đắp năng lượng phong thủy

  Gương thuộc ngũ hành Kim, với trường hợp dùng gương đồng, gương thủy ngân. Bởi vậy gương có tác dụng bù đắp nguồn năng lượng Kim bị thiếu hụt, người mệnh khuyết Kim cần bày gương trong nhà. Ngoài ra, gương màu vàng là thuộc ngũ hành Thổ, tương sinh với ngũ hành Kim, gương màu xanh lam thuộc ngũ hành Thủy được Kim tương sinh. Hãy căn cứ vào ngũ hành bản mệnh của mình để chọn loại gương thích hợp nhất.  

8. Công dụng phản xạ năng lượng phong thủy

  Công dụng của gương trong phong thủy là hóa sát, dựa vào chức năng phản xạ. Ví dụ nên ngoài có hình tiêm sát, vật sắc nhọn hay góc tường chiếu thẳng vào nhà thì mang tới thị phi, tiểu nhân, thương tai, họa huyết quang,… nhưng chỉ cần lắp một chiếc gương chiếu thẳng tới nguồn cơn hung sát để thế sát bị phản xạ lại thì mọi việc sẽ êm xuôi.
Xem thêm bài viết Bạn đã biết cách treo gương bát quái hợp phong thủy hay chưa?
 

9. Công dụng hủy hoại năng lượng phong thủy

  Gương tạo ra thế giới mơ hồ, ảo ảnh, không trọn vẹn nên khá bí hiểm. Nếu gương bị tổn hại, nứt vỡ thì cần loại bỏ ngay bằng không sẽ mang tới những năng lượng trái chiều, ảnh hưởng tới vận trình của chủ nhân và vận trạch của ngôi nhà.    5 điều cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh Nhà treo nhiều gương có tốt không? Cách hóa giải khi làm vỡ gương để tránh gặp chuyện chẳng lành Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 tác dụng phong thủy của gương, dùng đúng thì cực tốt

Hào - Thuật Ngữ Trong Phong Thủy

Tìm hiểu về thuật ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hào - Thuật Ngữ Trong Phong Thủy

Hào - Thuật Ngữ Trong Phong Thủy

Hào - Thuật Ngữ Trong Phong Thủy:

Hào là những vạch liền và đứt đoạn tạo nên bát quái. Sự biến hóa của quái (quẻ) được quyết định bởi sự biến hóa của Hào, cho nên Hào là sự biểu tượng của giao thoa và mang ý nghĩa chỉ sự biến động. Phù hiệu để tạo ra bát quái

"-" là Hào dương

"--" là hào âm. cứ 3 Hào thì hợp thành một thẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hào - Thuật Ngữ Trong Phong Thủy

SAO ĐỊA VÕNG TRONG TỬ VI

địa võng (Thổ) * * * 1. Ý nghĩa của địa võng: Đây là một ám tinh, có nghĩa: - hiểm ác ngầm - gây rắc rối, ngăn...
SAO ĐỊA VÕNG TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

địa võng (Thổ)


* * *


1. Ý nghĩa của địa võng:

Đây là một ám tinh, có nghĩa:

- hiểm ác ngầm

- gây rắc rối, ngăn trở mọi công việc

- chủ sự bắt bớ, giam cầm

Người có Địa Võng thủ Mệnh, Thân bụng dạ khó lường, tính nết tráo trở, hiểm ác ngầm, hay hại kẻ khác mà nạn nhân không biết được.



2. Ý nghĩa của địa võng và một số sao khác:



- Võng, Linh Đà, Liêm Tham: bị bắt giữ, xử tử



- Võng và các sao giải: làm giảm bớt hay tan biến đặc tính xấu của Địa Võng. Các sao giải này là Tuần, Triệt, Tử Vi, Hóa Khoa, Thiên Giải, Giải Thần.



- Địa Võng, Trực Phù: làm tăng thêm ác tính của đương số.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO ĐỊA VÕNG TRONG TỬ VI

Điểm danh những con giáp yêu trọn đời trọn kiếp

Chàng trai tuổi Dần là một trong những con giáp yêu trọn đời trọn kiếp.
Điểm danh những con giáp yêu trọn đời trọn kiếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chàng trai tuổi Dần lúc nào cũng oai phong, mạnh mẽ và lạnh lùng tới mức hiếm khi nói ra những lời ngọt ngào chứ đừng nói tới chữ “yêu”. Nhưng một khi đã nói yêu là trọn đời trọn kiếp.



1. Chàng trai tuổi Tỵ

Luôn dẫn đầu về sự thông minh, lanh lợi, chàng trai tuổi Tỵ rất chú trọng tới nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Nếu để ý kĩ, bạn sẽ phát hiện thấy, dù anh chàng này nhiệt tình và bí hiểm nhưng khi nói tới chuyện yêu đương là không bao giờ khẳng định 100% tình yêu ấy là “vĩnh cửu”.

Diem danh nhung con giap yeu tron doi tron kiep hinh anh
 
Khi chưa xác định được tình cảm đích thực từ trái tim đôi bên, chàng tuổi Tỵ không bao giờ đề cập tới chữ “yêu”, mức cao nhất cũng chỉ dừng lại ở chữ “thích” mà thôi.

Với người cầm tinh con Rắn, rất khó để khẳng định rằng tình yêu sẽ kéo dài mãi mãi. Nhưng khi đã nói lời yêu chính thức hoặc bày tỏ mong muốn kết hôn, chàng ta sẽ đặt dấu chấm hết cho cuộc sống độc thân của mình và trao gửi niềm tin yêu trọn vẹn cho nửa kia. Đây là một trong những con giáp yêu trọn đời trọn kiếp và hết lòng cưng chiều nửa kia.                         

2. Chàng trai tuổi Dần


Vốn tôn sùng chủ nghĩa đại trượng phu, phong cách, khí thế của anh chàng tuổi Dần lúc nào cũng oai phong, lẫm liệt. Họ mạnh mẽ và lạnh lùng tới mức hiếm khi nói ra những lời ngọt ngào chứ đừng nói tới chữ “yêu”.

Diem danh nhung con giap yeu tron doi tron kiep hinh anh 2
 
Nhưng một khi đã nói yêu, anh chàng tuổi Hổ sẽ yêu trọn đời trọn kiếp. Chỉ cần quan sát những hành động chăm sóc ân cần, chu đáo của họ là bạn có thể thấy ngay mức độ tình cảm họ dành cho mình mãnh liệt tới nhường nào.

Hơn thế, người tuổi Dần nói là làm, nó đã trở thành thói quen ăn sâu vào tiềm thức, suốt đời khó mà thay đổi được. Khi cuộc sống đã có nửa kia bầu bạn, mọi sự trên đời chỉ như diễn viên phụ ngoài lề. Nếu coi cuộc đời họ là một bộ phim, thì mọi chủ đề chỉ xoay quanh hai nhân vật chính là bản thân họ và nửa kia mà thôi.

3. Chàng trai tuổi Thân

Thích những nơi náo nhiệt, khám phá và chinh phục điều mới mẻ là điểm nổi bật rất dễ thấy ở chàng trai tuổi Khỉ. Chính vì thế, trái tim anh chàng này rất khó nắm bắt. Họ thích chủ động trong tình yêu, chúa ghét bị con gái theo đuổi hoặc tỏ tình trước.

Diem danh nhung con giap yeu tron doi tron kiep hinh anh 3
 
Khi đã rơi vào lưới tình, con giáp này “cải tà quy chính”, có thể từ bỏ sở thích cá nhân để dành nhiều thời gian chăm sóc nửa kia, gia đình chu đáo hơn. Cuộc sống sau hôn nhân của người tuổi Thân khá viên mãn. Họ là người chồng, người cha hết mực gương mẫu, đi tới đâu cũng khiến mọi người thầm trầm trồ, ngưỡng mộ.

=> Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Việt Hoàng

Treo tranh con giáp trong nhà thế nào mới đúng?
– Không phải ai cũng phù hợp để treo tranh con giáp trong nhà. Hãy cùng ## tìm hiểu tường tận vấn đề tuy nhỏ bé nhưng lại có tác

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những con giáp yêu trọn đời trọn kiếp

Xóa tan nỗi lo hướng cửa chính xấu

Nhiều ngôi nhà có hướng cửa chính không hợp phong thủy. Dưới đây gợi ý một số cách hóa giải hướng cửa chính xấu.
Xóa tan nỗi lo hướng cửa chính xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa chính là vị trí hết sức quan trọng trong phong thủy. Đặt cửa chính không hợp phong thủy thì ngôi nhà tất gặp vận hạn, gia chủ mắc nhiều tai ương. Dưới đây là một số cách hóa giải hướng cửa chính xấu.

Xoa tan noi lo huong cua chinh xau hinh anh
Trải thảm là cách hiệu quả để thay đổi phong thủy cửa chính theo hướng tích cực

Thay đổi vị trí cửa chính trong nhà bằng cách mở thêm một cửa ở hướng lành, hợp phong thủy. Sử dụng đó làm cửa ra vào chính, cửa hướng xấu đóng lại, ít mở.
 
Trong trường hợp kết cấu nhà không cho phép thêm cửa, có thể sử dụng các loại thảm màu để hóa giải phong thủy xấu của hướng cửa chính. Việc lựa chọn màu thảm dựa vào sự vận động trong nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành.
 
Người ngũ hành Mộc, Hỏa, Thủy là mệnh Đông tứ, nếu như cửa mở hướng Tây tứ tức là hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam hoặc Đông Bắc thì không được lý tưởng, sẽ gặp phải tà khí khắc. 
 
Người thuộc Thủy, Mộc mở cửa hướng Tây, Tây Bắc cần trải thảm màu lam hoặc màu xám ở cửa chính để hóa giải, còn người thuộc Hỏa thì trải thảm màu đỏ hoặc tím.
 
Cửa hướng Tây Nam và cửa hướng Đông Bắc gặp tà khí của Thổ, vì vậy người thuộc Thủy cần trải thảm màu trắng hoặc vàng sẫm ở cửa chính, còn người thuộc Mộc và Hỏa thì cần trải thảm màu xanh, hoặc màu lục.
 
Với trường hợp Tây tứ mệnh (Thổ, Kim) gặp phải cửa Đông tứ (hướng Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc) sẽ gặp phải các tà khí khắc.
 
Cửa hướng Đông và Đông Nam gặp tà khí của Mộc, cho nên người thuộc Thổ thì trải thảm hồng hoặc tìm ở cửa để hóa giải, còn người thuộc Kim thì cần trải thảm màu trắng hoặc vàng sẫm.
 
Cửa hướng Nam gặp tà khí của Hỏa, cho nên người thuộc Thổ và Kim cần trải thảm màu nâu hoặc màu vàng để hóa giải.
 
Cửa phía Bắc gặp tà khí của Thủy, cho nên người thuộc Thổ và Kim cần trải thảm màu nâu hoặc màu vàng để hóa giải.     ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xóa tan nỗi lo hướng cửa chính xấu

PHÂN BIỆT HAI CÁCH TÍNH KIM LÂU VÀ MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG

Cách tính kim lâu có hai cách. Thông thường, không phân định rõ mục, nên nhiều khi người sử dụng, tính toán rất dễ bị nhầm lẫn hoặc không hiểu rõ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước đây, nhiều người vẫn có sự nhầm lẫn về cách tính Kim lâu. Tôi vẫn thường thắc mắc, tại sao có tới hai cách tính mà kết quả của hai cách tính này lại khác biệt nhau. Và bức màn bí mật, sự thắc mắc của tôi đã được giải thích một cách thấu đáo.

  Kim lâu là gì ? Là những năm không tốt, bất lợi cho việc mưu tính, khởi công hoặc làm đại sự. Nếu như phạm phải, cuộc sống gặp nhiều trở ngại, bất trắc, không được như ý muốn. Theo mục đích của cuộc sống người ta phân chia ra hai cách tính kim lâu, dành cho các đối tượng và công việc khác nhau, cần phải phân biệt và chú ý cho tinh, kẻo có sự nhầm lẫn.

  Cách tính tuổi kim lâu khi chọn tuổi kết hôn: “Người xưa thường nói, lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Như vậy, các quý cô sau khi trải qua quá trình yêu đương tìm hiểu, quyết định xây dựng tòa lâu đài hạnh phúc cho mình đều phải lưu ý. Cách tính Kim lâu trong hôn nhân, chỉ áp dụng có phái nữ, có cách tính như sau : Lấy số tuổi âm, chia cho 9, nếu dư 1, 3, 6, 6 là phạm kim lâu, không nên tổ chức đám cưới vào năm đó. Kim lâu còn phân ra bốn dạng:

   Sau khi chia cho 9 nếu số dư là 1 là Kim lâu thân : Bản thân có những bất lợi về sức khỏe, công danh.

   Nếu dư 3 là Kim lâu phu thê : Dễ gặp tai nạn, hình khắc chia li, gãy đổ cho gia đạo, hôn nhân chẳng được hạnh phúc, cơm lành canh ngọt.

   Nếu dư 6 là Kim lâu tử : Bất lợi cho con cái

   Nếu dư 8 là Kim lâu súc : Các loài vật nuôi trong nhà sẽ bị bệnh dịch mà chết, gây thiệt hại đến sản xuất và kinh tế.

   Ví dụ cô Nguyễn Thúy Hằng, sinh năm Canh Ngọ 1990, đến năm 2015 là phạm Kim lâu súc. Ta lấy 2015 – 1990 = 25 + 1 (Tuổi bào thai) =  26 : 9 dư 8. Nếu cô kết hôn vào năm nay sẽ gặp tình huống đó. Gia đình mà làm kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi quy mô lớn, ắt phải để tâm đề phòng.

   Cách tính Kim lâu trong khởi công xây dựng cửa nhà, hoặc mưu toan đại sự, thường áp dụng cho nam giới. Chúng ta áp dụng biểu đồ như sau.

                     

Bắt đầu từ cung Cấn là 10 tuổi, tính thuận chiều Kim đồng hồ, 11 ở cung Chấn, 12 ở cung Khôn, 13 ở cung Ly, 14 ở cung Tốn, 15 ở cung Đoài, 16 ở cung Càn, 17 ở cung Khảm, 18 ở cung Cấn, 19 ở cung Chấn, nếu tuổi nào rơi vào các cung màu xanh là phạm Kim lâu, chớ nên khởi công, động thổ xây dựng. Nếu phạm vào cung Cấn là Kim lâu thân : Hại cho bản thân chủ nhà. Nếu phạm vào cung Khôn là Kim lâu thê : Không lợi cho vợ của gia chủ. Phạm vào cung Tốn là Kim lâu tử : Con cái gia chủ phải giữ gìn. Phạm vào cung Càn là Kim lâu lục súc : Các vật nuôi trong nhà dễ bị bệnh dịch.

   Đến năm 20 tuổi thì lại khởi hạn từ cung Chấn và theo chiều thuận Kim đồng hồ, đến năm 30 tuổi thì hạn lại được khởi từ cung Khôn, cứ như vậy, tiếp tục, đó chính là cách tính Kim lâu trong khởi công xây dựng làm nhà. Ngoài ra, người ta con tính cả hạn tam tai và hoang ốc nữa. Nhưng ở đây, cần phân biệt để không bị nhầm lẫn trong mục đích sử dụng.

                                                                           Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: PHÂN BIỆT HAI CÁCH TÍNH KIM LÂU VÀ MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG

Những câu phú Tử Vi ứng nghiệm thế nào?

Bài viết nghiệm lý các câu Phú Tử Vi của tác giả Phong Nguyên. Đây là một bài viết rất hay!
Những câu phú Tử Vi ứng nghiệm thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Phong Nguyên

Xin chớ lầm vì một số những câu phú, dù là những câu phú đã “nổi tiếng” như:

• Đẩu quân ở Tử Tức cung
Đến già không thấy tay bồng con thơ.
• Mấy người bất hiển công danh
Bởi vì Nhật, Nguyệt đồng minh Sửu, Mùi
• Chỉ hiềm Khôi, Việt phùng Không.

Ông Phong Nguyên kể mấy câu chuyện lý thú về những cách đó để tặng quý bạn.

1) Đẩu Quân ở cung Tử Tức

Tất cả những ai đã biết về Tử Vi, dù chưa giỏi, cũng đều biết câu phú

Đẩu Quân kỵ Tử Tức cung
Đến già chẳng thấy tay bồng con thơ.

Cũng chỉ vì câu phú này mà tôi đã bị một người bạn chê trách và giận tôi khá lâu. Tôi còn nhớ rõ hồi anh bạn tôi mới lấy vợ có nhờ tôi coi số Tử Vi cho cả hai vợ chồng để xem tương lai có tốt đẹp không, nhất là về phương diện con cái vì anh bạn tôi rất chú trọng đến vấn đề nối dõi. Trong phần này tôi chỉ nói đến cung Tử Tức. Qua lá số của anh, tôi thấy cung Tử Tức có Cô Quả, Riêu Hình Kỵ, Kình Đà Linh, còn lá số của vợ anh có Đẩu Quân, Cự, Kỵ…. ở cung Tử Tức. Sau một phút đắn đo, tôi đi tới kết luận là số anh rất hiếm con, nếu không muốn nói là tuyệt tự. Anh ta thất sắc và hỏi gặng lại xem có đúng thế không. Hồi đó tôi mới biết sơ về Tử Vi nên chỉ biết căn cứ vào mấy cuốn sách thông thường (như cuốn Tử Vi Lập thành của Nguyễn Phúc Ấm chẳng hạn), và do đó tôi liền mở một cuốn ra cho anh ta coi về đoạn nói về câu phú kể trên để xác định lời quyết đoán của mình. Vì thấy sách nói rõ như vậy nên anh ta đành phải tin và vẻ mặt trông thẫn thờ, thật tội nghiệp…

Cách độ mười năm sau, tình cờ tôi gặp lại anh bạn tôi và xem ý anh ta không niềm nở mấy trong khi tôi tay bắt mặt mừng. Nhưng chỉ một phút sau là tôi hiểu lý do, vì anh ta có “mạt sát” tôi liền về lời giải đoán của tôi hồi trước và cho biết rằng anh đã có hai con trai khôi ngô đĩnh ngộ. Anh còn nói thêm là nếu không kiêng cữ thì có lẽ lúc anh gặp tôi ít ra anh cũng có năm sáu con rồi. Bị trách móc nặng nề như vậy tôi rất lúng túng và chỉ còn biết thú tội là tôi đâu có rành về Tử vi mà tin quá vậy, nhưng anh lại trách thêm là nếu không có khả năng thì đoán làm chi. Sau khi nói chuyện với nhau một cách bình thường tôi bèn bảo anh ta đưa lại hai lá số của anh và vợ xem tại sao lại có sự sai lầm nặng nề như vậy, không lẽ giờ sanh của hai người cùng sai. Vừa mới nhìn sơ qua lá số của vợ anh tôi giật mình là hồi trước mình chỉ biết một mà chẳng biết hai, cứ áp dụng câu phú “Đẩu Quân kỵ Tử

Tức cung…” một cách máy móc. Vì thực ra, bất cứ ai đã theo dõi, chú trọng đến các câu chú đều biết câu:

“Hiếm hoi gặp được Thiên Hình
Cát tinh trước cửa lại sinh quý hòe”

Câu này cũng không phải là câu xa lạ gì lắm vì tôi có được đọc trong một hai cuốn sách Tử vi đã xuất bản nhưng những người mới học Tử Vi có lẽ không thể hiểu rõ nổi câu này.

Hai chữ “hiếm hoi” ứng vào sao Đẩu Quân (vì sao này nếu không có Thiên Hình thì hiếm thật) và khi đã có Thiên Hình đồng cung (tam hợp không ứng nghiệm) mà lại được tam phương có cát tinh củng chiếu (như Quang Quý, Long Phượng, Thai Tọa, Nhật Nguyệt thành bộ) thì nhất định là vẫn sinh nhiều con như thường, không những thế, con cái lại thành danh (quý hòa). Đây chính là trường hợp lá số của vợ bạn tôi, do đó, lời giải đoán hổi trước của tôi sai lầm một trăm phần trăm rồi. Tuy nhiên về cung Tử Tức của anh và vợ anh vẫn có điểm khác đúng vì các sao Cô Quả Kình Đà Linh Kỵ nếu nói theo một cách thực thế thì thường chủ về vấn đề kiêng cữ sinh đẻ hữu hiệu (bởi thế mình đừng nên nói là mình có thể cải được số bằng cách kiêng cữ, vì nếu không có sao tiết chế thì còn lâu mới chống lại được số), do đó anh ta mới chỉ có sanh 2 con thôi, còn lá số của người vợ có Cự Kỵ Hình nên con anh ta có đứa chết hụt về nước và còn bị té gẫy tay nay đã lành, một đứa bị té muốn nứt đầu…

Cũng về sao Đẩu Quân ở cung Tử Tức, có vị (cụ Song An Đỗ Văn Lưu) lại nói với tôi rằng câu phú đầu tiên phải đọc là

Đẩu Quân kỵ Tử Tức cung
Đến già còn thấy tay bồng con thơ

(Tức là chữ “còn” thay cho chữ “chẳng”)

Vì cụ cho rằng người nào cung Tử Tức có cách đó thì sanh con trễ chứ không hiếm, nếu không sẽ sinh nhiều và tới già còn sanh nữa. Tôi đã chiêm nghiệm nhiều lần thì thấy nhận định của cụ Song An không đúng chút nào. Có nhiều người cung Tử Tức có rất nhiều sao tốt, chỉ vì bị sao Đẩu Quân mà không có Thiên Hình nên không có người con nào, hoặc cùng lắm thì chỉ có một hai người con gái (thường theo Tử Vi ít ai tính tới con gái). Tuy nhiên, quý bạn cũng nên chiêm nghiệm xem ý kiến của cụ Song An có đúng trong trường hợp nào không?

Vì bị sai lầm nặng nề như trên cho nên tôi ít khi thích trưng câu phú ra để thuyết phục những người coi, chỉ sợ rằng lại có những câu khác “chế hóa” lại mà mình không được biết chăng.

2) Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi

Nếu có người cho rằng Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu hoặc Mùi thì công thành danh toại, chắc chắn quý bạn nghĩ là trái hẳn với câu phú:

Mấy người bất hiển công danh
Bởi vì Nhật, Nguyệt đồng minh Sửu Mùi

(có sách ghi là “đồng tranh”)

Đây không phải là ý kiến của tôi mà chính là của một người có căn bản về Tử Vi hiện đang sống tại Sài Gòn (mà tôi xin giấu tên).

Vị đó có nêu ra câu:
Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi, công danh phỉ hiển
(xin ấn công (người in báo) nhớ để dấu hỏi trên chữ “PHỈ” để khỏi hiểu lầm) để chứng minh và bảo rằng chữ “PHỈ” có nghĩa là được thỏa mãn, đầy đủ, nhưng vì bị lầm với chữ “phi” (không có dấu) có nghĩa là không (như trong chữ phi nghĩa, phi dân tộc…) cho nên mới có người đặt ra là “bất hiển” vì chữ “bất” cũng có nghĩa giống như chữ “phi”.

Về phần tôi, tuy nhận thấy ý kiến của vị đó rất hợp lý nhưng tôi nghiệm thấy không ứng vào trường hợp nào cả vì tình cờ trong số bạn bè và cả trong gia đình, họ hàng của tôi có rất nhiều người có cách Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi mà chẳng có ai làm nên gì hết. Tôi nghĩ rằng có lẽ câu “phỉ hiển” chỉ ứng nghiệm khi Nhật Nguyệt ở cung xung chiếu, nghĩa là khi mệnh vô chính diệu tại Sửu có Nhật Nguyệt đồng cung tại Mùi hoặc ngược lại, nhất là đối vơi tuổi Bính Tân. Tôi xin ghi nơi đây câu phú liên hệ để quý bạn tiện đối chiếu:

“Nhật Nguyệt đồng cung Sửu, Mệnh an Mùi,
Bính Tân nhân cát hầu bá chi tài”

Bởi vậy, nói chung quý bạn cần lấy nhiều lá số và theo dõi, kiểm chứng thì mới mau giỏi về Tử Vi chứ nhiều khi có căn bản vững mà không có kinh nghiệm thì vẫn đoán sai trật như thường, và điều quan trọng bao giờ cũng vẫn là vấn đề giải đoán chính xác.

3) Chỉ hiềm Khôi Việt phùng Không

Tôi có thể nói rằng chỉ vì câu “Khôi Việt phùng Không” mà tôi đã đem hết tâm trí vào việc nghiên cứu khoa Tử Vi. Tôi hãy còn nhớ rõ hồi tôi còn ít tuổi tôi cùng với một người bạn thân đi coi một thầy Tử Vi già ở ngoài Bắc về phương diện học vấn. Tôi ngồi nghe thầy đó đoán cho anh bạn tôi, còn tôi không coi vì hồi đó tôi không tin về khoa tướng số, tử vi. Sau chừng một phút bấm Tử Vi trên bàn tay (vì thiếu thị giác) thầy đó chép miệng cho anh bạn tôi hay rằng anh ta khó có thể học được tới đích cao khoa và kỳ thì sắp tới bị trục trặc nhưng không rớt. Vì hồi đó tôi chưa biết gì về Tử Vi nên tôi chỉ nhớ sơ qua thầy ấy nói rằng mạng anh bạn tôi thiếu văn tinh (tức là Xương Khúc, Khôi Việt, Hóa Khoa, v.v…) mà đại hạn tuy có Khôi Việt nhưng lại ngộ Thiên Không và xung chiếu có Triệt trong khi tiểu hạn lại trùng phùng với đại hạn. Rồi cuối cùng thầy đó cứ nhắc đi nhắc lại câu “chỉ hiềm Khôi Việt phùng Không” để đi đến kết luận như trên.

Một tháng sau, anh bạn tôi đi thi trung học đệ nhất cấp (hồi đó quen gọi là “diplôme”) với tinh thần hơi xáo trộn vì bị ám ảnh bởi lời giải đoán của thầy Tử Vi đó. Nhưng rồi anh ta làm bài vở rất ngon lành và đã đậu kỳ thi viết khiến anh ra rất đỗi vui mừng và nghĩ là thầy đó đoán trật. Đến khi thi vấn đáp anh ta không còn lo âu nữa và trong thâm tâm rất lạc quan, nhưng không ngờ anh ta lại rớt chỉ vì một môn chính bị số không. Lúc đó tôi mới khâm phục thầy Tử vi đó và mới bắt đầu quan tâm đến khoa lý số.

Bây giờ, sau khi đã có chút vốn liếng về Tử vi, tôi lập lại lá số của anh bạn tôi (mà tôi còn giữ ngày giờ sanh để chiêm nghiệm) thì thấy rằng khía cạnh đó cũng không có gì khó đoán. Sở dĩ anh bạn tôi chỉ bị trục trặc về kỳ thi vấn đáp (sau anh đậu kỳ nhì) vì Thiên Không tuy cũng ứng vào câu phú, tức là hại cho Khôi Việt, nhưng không ngăn trở mạnh bằng Triệt, Tuần, hơn nữa mạng anh bạn tôi là Hỏa tương hợp với Thiên Không là hỏa nên không bị trở ngại mạnh mẽ, cho nên tuy rớt kỳ nhất nhưng đậu kỳ nhì. Anh ta bị phá ngang vì mệnh thiếu sao văn học, chứ không do đại hạn bị Thiên Không. Tôi còn cần nói thêm là trong đại hạn này còn có Song Hỉ, Cáo-Phụ, Quan Phúc, Đào Hồng là những sao chủ về may mắn, thành công, công danh nhẹ bước, như thế làm gì mà bị cản trở mạnh.

Ngoài ra, tôi cũng còn cần lưu ý quý bạn về một điểm chung là không phải trường hợp nào Khôi Việt cũng sợ Tuần, Triệt, Thiên Không. Nếu Khôi Việt ở chỗ hãm địa như Sửu chẳng hạn) thì lại rất cần gặp Không thì mới thành đạt về khoa cử được. Tôi đã chiêm nghiệm thấy rất đúng vì tôi có vài người bạn đã đậu rất cao ở ngoại quốc nhờ có Khôi Việt ngộ Triệt ngay tại Mệnh.

(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu phú Tử Vi ứng nghiệm thế nào?

Làm thế nào để xác định Phi tinh đồ của ngôi nhà

Phi tinh đồ của ngôi nhà giúp chúng ta xác định những khu vực may mắn, thuận lợi và những khu vực bị ảnh hưởng xấu để có thể cải thiện tình hình.
Làm thế nào để xác định Phi tinh đồ của ngôi nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phi tinh đồ của ngôi nhà giúp chúng ta xác định những khu vực may mắn, thuận lợi và những khu vực bị ảnh hưởng xấu để có thể cải thiện tình hình bằng cách áp dụng các biện pháp hóa giải phù hợp.


Giới thiệu sao Sơn Tinh và sao Thủy Tinh

  Những con số biểu thị sao Sơn Tinh hoặc Thủy Tinh mang lại vận may hoặc vận rủi. Sao Thủy tinh chủ về tiền bạc, tài sản, thu nhập, nghề nghiệp. Sao Sơn tinh chủ về các mối quan hệ và sức khỏe, đặc biệt chỉ rõ ngôi nhà có năng lượng chủ về hạnh phúc và niềm vui hay không. Giai đoạn thứ 7 là giai đoạn thiên về việc kiếm tiền và làm giàu, bởi vì quẻ chiếm ưu thế là quẻ Đoài, tượng trưng cho đầm, ao, hồ - nước là biểu tượng của tiền bạc.
 
Trong giai đoạn thứ 8, sao Sơn tinh mạnh hơn nhiều, bởi vì giai đoạn này quẻ thống trị là quẻ Cấn, tương trưng cho núi. Sao Sơn tinh biểu hiện một thời kỳ trong đó thiền định, tự kiểm, và xu hướng quay về cuộc sống tinh thần ngày càng trở nên quan trọng hơn. Vì thế, trong giai đoạn thứ 8, bạn sẽ thấy các mối quan hệ và những giá trị tinh thần được đặc biệt coi trọng.
 
Nhận dạng được những sao may mắn Sơn tinh và Thủy tinh trong nhà sẽ giúp bạn biết chính xác khu vực nào trong nhà cần phải kích hoạt bằng nước và khu vực nào cần phải cung cấp năng lượng với pha lê để cải thiện tình trạng phong thủy của ngôi nhà. Cung cấp năng lượng cho các sao Sơn tinh và Thủy tinh là một cách hiệu quả để có được vận may về các mối quan hệ và tài sản, vì vậy bạn cần phải xác định vị trí chính xác của những ngôi sao may mắn này.
 

Xác định biểu đồ quái số cho ngôi nhà của bạn
 

Mỗi biểu đồ quái số sẽ dựa trên hướng đối diện của ngôi nhà (gọi là hướng mặt tiền), vì vậy để xác định đúng biểu đồ tương ứng, trước hết bạn cần phải sử dụng la bàn. Xác định hướng mặt tiền của ngôi nhà đôi khi cũng là một thách thức, bởi vì có một số ngôi nhà không có hướng mặt tiền rõ ràng. Ngoài ra, hướng đối diện của cửa chính không phải lúc nào cũng trùng với hướng mặt tiền của ngôi nhà. Vì vậy, bạn cần phải xác định thật cẩn thận. Phi tinh đồ cũng phụ thuộc vào tuổi của ngôi nhà – tính từ lúc nhà được xây dựng hoặc từ khi nhà được làm mới lại.
Xem thêm: La bàn Lỗ Ban là gì? Phong thủy Phi tinh là gì? 
 

Xác định sự phân bổ vận may


Trước khi trở nên phổ biến như hiện nay, hầu như có rất ít người biết đến phong thủy Phi tinh, chỉ có những nhà phong thủy thời xưa mới vận dụng. Ở đây phong thủy Phi tinh đã được cải tiến cho đơn giản và dễ dàng, bạn chỉ cần xác định chính xác hướng mặt tiền của ngôi nhà và xem ngôi nhà thuộc biểu đồ giai đoạn thứ 7 hay giai đoạn thứ 8.
 
Bước tiếp theo, sử dụng biểu đồ đó để nghiên cứu sự phân bố vận may trong nhà. Từ đó, tất cả những gì bạn cần phải làm để mang vận may đến cho ngôi nhà là áp dụng những giải pháp phong thủy để khắc chế, hóa giải những ảnh hưởng xấu và tăng cường sinh khí cho ngôi nhà của bạn.   
Lam the nao de xac dinh Phi tinh do cua ngoi nha
 

Ba cách để cập nhật biểu đồ Phi tinh của ngôi nhà


Để việc thực hành phong thủy mang lại lợi ích tối đa, bạn cần phải biết Phi tinh đồ của ngôi nhà. Tuy nhiên, trước hết bạn cần phải chuyển đổi ngôi nhà bạn đang sống sang ngôi nhà thuộc giai đoạn thứ 8. Để làm được điều này, bạn cần phải thay đổi ba loại năng lượng trong nhà.
 
1. Thay đổi năng lượng Thiên bằng cách thay đổi ít nhất vài bộ phận của mái nhà. Nếu bạn sống trong căn hộ thì thay đổi vài bộ phận của trần nhà.
 
2. Thay đổi năng lượng Địa bằng cách thay đổi vài bộ phận của nền nhà.
 
3. Thay đổi năng lượng Nhân bằng cách thay đổi cửa chính.
 
Cập nhật ngôi nhà sang giai đoạn thứ 8, người trong nhà sẽ được hưởng nhiều lợi ích, bởi vì khi chuyển sang giai đoạn thứ 8 (bắt đầu vào ngày 04/02/2004) tất cả các ngôi nhà có thể sẽ mất đi sinh khí đã có ở giai đoạn thứ 7 nếu như Thiên khí, Địa khí và Nhân khí không được tăng cường kịp thời.

Nếu không thực hiện điều này, dần dần bạn sẽ nhận ra rằng có nhiều điều xấu bắt đầu xuất hiện trong ngôi nhà của bạn. Vì vậy, tốt nhất là bạn nên cập nhật biểu đồ của ngôi nhà sang giai đoạn hiện tại là giai đoạn thứ 8 và tận hưởng những lợi ích mà giai đoạn mới này mang đến.
 

Xác định hướng mặt tiền của ngôi nhà


Để có được lơi ích từ công thức phong thủy la bàn, điều cần thiết là phải xác định hướng đối diện (hướng mặt tiền) của ngôi nhà một cách chính xác.
Hướng mặt tiền của ngôi nhà không nhất thiết phải cùng hướng với hướng đối diện của cửa chính. Nếu cửa chính và mặt tiền của ngôi nhà đối diện cùng một hướng thì tiềm năng phong thủy của ngôi nhà đó sẽ tốt hơn. Nhưng nếu không cùng hướng thì việc xác định hướng mặt tiền cần đến sự phán đoán của bạn.
 

Chọn hướng mặt tiền
 

Thông thường thì hướng mặt tiền của ngôi nhà rất rõ ràng và có một số hướng dẫn giúp bạn xác định được hướng này. Tuy nhiên, đối với một số ngôi nhà, việc xác định hướng mặt tiền cần phải cân nhắc cẩn thận. Trước tiên, bạn hãy quan sát ngôi nhà của bạn từ mọi góc.
 
Hầu hết người ta chọn hướng mặt tiền của ngôi nhà sao cho ngôi nhà đó có thể nhận được tối đa nguồn năng lượng tốt. Đó là hướng có sự chuyển động và hoạt đông của con người. Hoặc hướng mặt tiền là nơi cửa sổ đối diện với một cảnh quan tươi đẹp một tiền sảnh rực sáng (vùng không gian tươi sáng trước cửa chính, như một lối đi hoặc sân trước). Chỉ khi nào xác định chính xác hướng mặt tiền của ngôi nhà thì bạn mới có thể sử dụng la bàn để điều chỉnh ngôi nhà theo phong thủy.
 

Xác định chính xác hướng nhà
 

Khi bạn không chắc chắn về hướng mặt tiền của ngôi nhà và không tin sẽ sử dụng đúng biểu đồ quái số, bạn có thể chọn hai hướng mặt tiền theo phán đoán của bạn và xác định hai biểu đồ tương ứng. Sau đó, bạn có thể phân tích nhanh vận may của những căn phòng chính trong ngôi nhà để xem biểu đồ nào phản ánh chính xác nguyên nhân của những biến cố chính sẽ xảy ra trong nhà. Có thể có một số vấn đề như bệnh tật, rủi ro, bất hạnh hoặc một chút may mắn… xảy ra trong thời gian gần đây biểu hiện rõ ràng và thích hợp ở biểu đồ này hơn biểu đồ khác.
 
So sánh hai biểu đồ thích hợp là một trong những cách tốt nhất để xác định chính xác biểu đồ quái số cho ngôi nhà của bạn. Sau khi đã xác đhịnh được biểu đồ bạn có thể tạo ra những điều kiện phong thủy tốt nhất bằng cách tăng cường năng lượng cho các khu vực may mắn. Đồng thời, đưa ra những giải pháp để hóa giải ảnh hưởng của những sao xấu.

Một số sách về Phi tinh cho rằng những giải pháp để hóa giải những ảnh hưởng xấu chỉ là vô ích và giải pháp duy nhất là không sử dụng những căn phòng đó. Điều này hoàn toàn không đúng, Mọi ảnh hưởng xấu của sao Phi tinh đều có cách hoá giải và các giải pháp đó đều có liên quan đến lý thuyết Ngũ Hành và các biểu tượng thuộc Ngũ Hành.

ban do phong thuy phi tinh
  

Phong thủy biểu tượng

 
Khi áp dụng những công thức phong thủy cho ngôi nhà của bạn, điều quan trọng là bạn phải làm quen với các biểu tượng phong thủy – túc là phải biết ý nghĩa của các biểu tượng, hình dạng, màu sắc, và Ngũ hành. Những biểu tượng này được vận dụng như những giải pháp để tăng cường năng lượng dựa trên những biểu hiện của Phi tinh đồ. Sự hiểu biết về những biểu tượng phong thủy sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc thực hành phong thủy.
 

Đọc Phi tinh đồ của ngôi nhà
 

Để áp dụng biểu đồ quái số cho ngôi nhà của bạn, bạn cần phải đặt biểu đồ đó lên trên bản vẽ của ngôi nhà. Điều này đòi hỏi bạn phải xác định hướng la bàn cho những khu vực trong nhà. Để làm được điều này, bạn phải:
 
  - Dùng một la bàn loại tốt và đáng tin cậy
 
  - Đứng giữa nhà và xác định tất cả các góc khác nhau của ngôi nhà.
 
  - Sau đó chuyển ba con số của mỗi khu vực trên la bàn vào một khu vực tương ứng trên bản vẽ.
 
  - Bạn sẽ biết ngay hững con số chủ về vận may của những khu vực trong nhà.
 
Những con số trong mỗi ô vuông cho bạn thông tin về vận may của mỗi khu vực trong nhà:
 
Thực hành phong thủy chính là nghiên cứu ý nghĩa và mối quan hệ giữa những con số này. Ngày xưa, những thầy phong thủy luôn sử dụng phương pháp Phi tinh để tăng cường năng lượng cho nơi ở của bạn, bởi vì công thức Phi tinh có nhiều thuận lợi và chính xác hơn trong việc xác định những căn phòng chịu ảnh hưởng xấu do sự thay đổi của năng lượng theo thời gian.

Xem thêm: Cửu cung phi tinh năm 2017 và cách bài trí phong thủy phù hợp (P1)Cửu cung phi tinh năm 2017 và cách bài trí phong thủy phù hợp (P2) 
 

Nghiên cứu biểu đồ tháng và năm
 

Ngoài việc sử dụng Phi tinh đồ theo từng giai đoạn để cải thiện tình trạng phong thủy trong nhà, Phi tinh đồ còn có thể giúp bạn vận dụng phong thủy sao cho ngôi nhà không những được may mắn mà những thành viên sống trong ngôi nhà đó được an vui và hạnh phúc.

Vì vậy, bạn phải để ý đến việc áp dụng Phi tinh đồ cho từng tháng và từng năm. Những biểu đồ này cộng thêm một chiều thời gian cho việc cập nhật tình trạng phong thủy của ngôi nhà.
 
Để làm được điều này, bạn cần phải theo dõi Phi tinh đồ hàng tháng và hàng năm của ngôi nhà. Những biểu đồ này giúp bạn cập nhật một cách có hệ thống tình trạng phong thủy của ngôi nhà.

Vì vậy, vào đầu năm bạn phải xem qua một lượt để xác định những khu vực may mắn, thuận lợi và những khu vực bị ảnh hưởng xấu. Ghi nhận tất cả những ảnh hưởng xấu như xui xẻo, tai nạn, mất mát, bệnh tật, cãi nhau… được tiêu biểu bằng những con số từ 1 đến 9. Phân tích chính xác để biết số nào rơi vào góc nào của ngôi nhà. Sau đó bạn mới có thể đưa ra những giải pháp đúng cho từng giai đoạn thời gian.
 

Xác định biểu đồ tháng và năm
 

Biểu đồ tháng và năm giống như những biểu đồ của giai đoạn 7 và 8, mỗi biểu đồ cũng có 9 ô vuông.
 
Dưới đây là biểu đồ của năm 2006. Trong biểu đồ này, bạn sẽ thấy con số ở giữa là 3, được xem là số Lạc Thư của năm. Năm 2007 số Lạc Thư của năm là 2. Vì vậy, trong các biểu dồ hàng năm, con số ở giữa sẽ theo thứ tự giật lùi. Chỉ sử dụng 9 con số, Vì thế, sau khi số 1 xuất hiện ở ô chính giữa thì số của năm tiếp theo phải là 9.
 
Ngoài ra biểu đồ năm còn cho biết vị trí của Tam Sát và Thái Tuế, tức thần ngự trị trong năm.    
Bieu do phi tinh 2006
 
 Kate Nguyễn
Xác định vị trí của Cửu Cung Phi Tinh năm 2017 - cát hung trong tầm tay Bài trí phong thủy theo Huyền không phi tinh Tìm hiểu về Huyền không phi tinh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nào để xác định Phi tinh đồ của ngôi nhà

Con giáp nào rất sợ nỗi cô đơn ám ảnh

Cô đơn thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người tuổi Mùi, Sửu, Tỵ.
Con giáp nào rất sợ nỗi cô đơn ám ảnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Sửu

Con giáp này hay quan tâm, giúp đỡ bạn bè nên mọi người thường nghĩ họ luôn mạnh mẽ, kiên cường. Đôi khi bạn thấy họ tự hài lòng và vui vẻ với cuộc sống độc thân nhưng thực tế lại trái ngược. Những cô nàng tuổi Sửu, thậm chí là anh chàng, đều yếu đuối về tình cảm và không thể chịu nổi nỗi cô đơn gặm nhấm từng ngày.

suu-7843-1412778706.jpg

Với người tuổi Sửu, cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có tình bạn, dù cho họ được sống trong nhung lụa giàu sang. Chính lý do này khiến họ luôn nhiệt tình giúp đỡ ai gặp khó khăn, với mong muốn có được sự hòa đồng và niềm vui không cần báo đáp.

No2: Tuổi Tỵ

Ẩn sâu trong tâm hồn luôn lạc quan của người tuổi Tỵ là tính tình bất ổn, hay lo lắng thái quá về mọi thứ xung quanh. Thậm chí, họ còn hoài nghi, thiếu niềm tin vào tình yêu của mình và đối phương. Lúc nào con giáp này cũng có cảm giác không an toàn, sợ bị phản bội. 

ti-8943-1412778706.jpg

Chính những suy nghĩ quẩn quanh đó khiến người tuổi Tỵ cảm thấy cô đơn, lạc lõng, không có được sự đồng điệu về tâm hồn với nửa kia. Chẳng khác nào họ tự "mua dây buộc mình", khiến tinh thần thêm áp lực và muộn phiền.

No3: Tuổi Mùi

Người tuổi Mùi không thể chịu đựng được cuộc sống cô đơn, tẻ nhạt. Do đó, họ chủ động kết thân nhiều bạn bè và dù có làm việc ở xa, họ vẫn cố gắng dành thời gian về thăm nhà. Với con giáp này, gia đình luôn là nơi mang lại cảm giác an tâm và hạnh phúc nhất.

mui-6768-1412778706.jpg

Họ cực ghét việc phải ăn cơm một mình. Bởi lẽ cảm giác lạnh lẽo khiến họ có thể bật khóc bất cứ lúc nào. Cô đơn thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người tuổi Mùi.

Mr.Bull (Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào rất sợ nỗi cô đơn ám ảnh

Cách hóa giải sao tuần triệt –

Có 3 cách hóa giải Tuần Triệt dựa trên nguyên lý hình thành của nó. a. Động cung xung chiếu. Sao tốt gặp Tuần Triệt là đáng được thuận lợi, tự do mà lại bị kìm hãm, vô hiệu hóa, nên xấu. Vậy dùng cách động cung xung chiếu, đó là phá cửa nhà tù mà ra.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có 3 cách hóa giải Tuần Triệt dựa trên nguyên lý hình thành của nó.

H. Clinton

a. Động cung xung chiếu.
Sao tốt gặp Tuần Triệt là đáng được thuận lợi, tự do mà lại bị kìm hãm, vô hiệu hóa, nên xấu.
Vậy dùng cách động cung xung chiếu, đó là phá cửa nhà tù mà ra. Dùng cây gỗ lớn tông thẳng vào cửa mà phá xích. Dùng quân tinh nhuệ, lính đánh thuê tập kích phá tung tường bao, giải thoát tù nhân, thả hổ về rừng.
Với Tuần là kích tung lên cho mất cái trì trệ, chậm chạp. Đó là làm con đường xuyên qua vùng đất lạc hậu để nó phát triển đi lên. Con đường càng đâm thẳng vào vùng đất đó, càng đi xuyên qua vùng đất đó càng lợi, nên động cung xung chiếu là đắc cách.

b. Chủ động tạo sự ngăn cách.
Cách này tạo ra cái giống Tuần Triệt để giảm tác dụng của nó.
Vì Tuần Triệt là vùng đất có qui chế đặc biệt, là chỗ xa xôi, là nơi ngăn cách, nên đi xa là một cách tạo hiệu ứng tương tự. Đi đến vùng đất lạ, đi xa hẳn nơi sinh là cách giải rất tốt.
Hoặc chủ động tạo ra sự riêng biệt, tự tách riêng ra. Tự áp đặt cho mình qui chế đặc biệt, không cần cái ngoại lực nào nữa. Đó là khi ở cùng nhà mà tách hộ ăn riêng, làm cùng chỗ mà chia tách riêng các bộ phận. Để Tuần Triệt ứng vào ngăn cách, chia lìa.

c. Dùng sao Tử vi
Đây là một cách giải hết sức hữu hiệu, rất đặc biệt.
Vua có thể ra lệnh biến vùng đất xa xôi nào đó thành thị xã, thành phố, xóa cái lạc hậu chậm tiến đi.
Vua có thể can thiệp để ân xá, giảm án cho tù nhân nên Tử vi có thể giải cái hung của Tuần Triệt.
Đây là một kết quả cực kỳ quan trọng trong ứng dụng. Tử vi ở đâu, nếu dụng được cung đó thì sẽ làm Tuần Triệt nhẹ đi nhiều. Hạn đến Tử vi sẽ xảy ra hiệu ứng bung Tuần Triệt ở cung bị cùm khóa, như vua lên ngôi đại xá thiên hạ, nhà tù mở cửa giải thoát.
Mệnh Thân có Tử vi thì Tuần Triệt tại đâu cũng nhẹ đi nhiều rồi, tức tự mình có quyền tha giết, bắt bớ, nên không sợ Tuần Triệt. Hạn đến Mệnh hoặc xung Mệnh thì sự bung vỡ rất rõ.
Mệnh Thân bị Tuần Triệt, trong các cung xung chiếu, tam hợp chiếu có Tử vi mà dụng được cung đó là coi như đã được giải nhiều rồi. Điều này rất ứng nghiệm, có giá trị cao trong giải đoán.
Tử vi là vua nên dù bị Tuần Triệt đóng tại bản cung vẫn có tác dụng. Thường chỉ ứng là có giám sát chặt chẽ, có xa cách như di chuyển, thay đổi, không bị trì trệ quá đáng, không thể bị vô hiệu hóa.
Tử vi nắm quyền tha giết, Tuần Triệt phải ở trong tay nó. Động cung có Tử vi có thể làm nhẹ Tuần Triệt.
Có gia đình bố mẹ già con cái đùn đẩy không ai muốn phục vụ. Một người con dù vai thấp nhưng đón về nuôi. Người đó Mệnh bị Triệt, có Tử vi ở cung Phụ mẫu, vậy là đã vô tình rước vua vào nhà để giải Triệt. Cuộc sống từ đó liên tục phát tài, có may phúc rất khó hiểu.

Một ví dụ khác là như nàng Kiều bị cùm khóa nơi đất thấp, gặp Từ Hải là phá tung xiềng xích, trở nên khác hẳn.
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
Câu trên thực ra là của Sở Khanh hót để khoe khoang với Kiều, nhưng nó lại ứng việc Từ Hải là Tử vi dễ dàng giải thoát Kiều khỏi lầu xanh. Khi Từ Hải chết rồi thì Kiều rơi trở lại đất thấp…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải sao tuần triệt –

3 chòm sao có gia đình hạnh phúc đáng ngưỡng mộ

3 chòm sao có gia đình hạnh phúc dưới đây hãy cảm ơn trời đất khi có được một chốn đi về bình yên và đầy ngưỡng mộ. Top 3 chòm sao này may mắn nhất trong các
3 chòm sao có gia đình hạnh phúc đáng ngưỡng mộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi gia đình đều có câu chuyện riêng, trong cuộc sống hiện đại bộn bề như hiện nay thì những câu chuyện gia đình tan vỡ, gia đình bất hạnh không còn hiếm. Vì thế 3 chòm sao có gia đình hạnh phúc dưới đây hãy cảm ơn trời đất khi có được một chốn đi về bình yên và đầy ngưỡng mộ.


chom sao may man hinh anh 2
 

Song Tử

  Chòm sao may mắn Song Tử là người hướng ngoại, tính tình sôi nổi và hiểu biết rất rộng rãi. Ấy là vì họ trưởng thành trong một gia đình hạnh phúc, có nhiều người lớn ở bên cạnh chỉ bảo, dạy dỗ, rèn luyện. Cũng bởi thế nên chòm sao có gia đình hạnh phúc Song Tử biết cách yêu thương người khác và biết cách để cân bằng gia đình. Khi họ đến tuổi trưởng thành, tự lập cho mình một gia đình riêng thì dù có những lúc vợ chồng tranh chấp, đối lập Song Tử cũng biết dung hòa. Song Tử còn nổi tiếng là những ông bố bà mẹ rất tâm lý. Song Tử biến những yêu thương, vun đắp mà mình được nhận từ người thân thành những yêu thương, vun đáp mình dành cho gia đình nhỏ, nên hạnh phúc nối tiếp hạnh phúc.  

Song Ngư

  Song Ngư là chòm sao may mắn, không phải chỉ bởi sinh ra đã ngậm thìa vàng mà họ còn rất biết cách biến cuộc sống của mình và của người khác trở nên tốt đẹp hơn. Đây cũng là chòm sao có gia đình hạnh phúc đáng ngưỡng mộ. Song Ngư biết cách chăm sóc mọi người, để cùng người thân trải qua hạnh phúc sẽ tình nguyện hi sinh, tận lực dốc sức, không bao giờ nề hà. Dù cho bản thân chịu thiệt thòi một chút nhưng đối phương vui là Ngư nhi cảm thấy mãn nguyện rồi. Thật may là Song Ngư cũng rất biết cách yêu thương bản thân mình, không giấu tâm sự trong lòng, lúc nào cũng để cho nhau biết rõ tâm tư. Một gia đình chính là như vậy, cùng nhau san sẻ, cùng nhau nhường nhịn, cùng nhau trải qua những tháng ngày tràn ngập tiếng cười.
chom sao may man hinh anh 2
 

Cự Giải

  Chòm sao yêu gia đình như Cự Giải chắc chắn sẽ nỗ lực để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Sở thích của Cự Giải là cống hiến cho người thân, rất chuyên cần, rất thật thà, oan ức giấu trong lòng, buồn phiền cũng giấu trong lòng, chỉ cần người thân vui vẻ là được. Chòm sao có gia đình hạnh phúc Cự Giải chỉ cần vì gia đình là sẽ không bao giờ so đo tính toán, cũng không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, đau khổ. Vì thế mà gia đình của họ thường rất hiền hòa, yên ấm, được gắn kết với nhau qua những nỗ lực của Cự Giải. Giải Giải của chúng ta thật sự là người bạn đời tuyệt vời. 
Các chòm sao sinh ra có phú quý mệnh Tỏ tình liền tay, thoát ngay kiếp ế với 3 chòm sao may nhất mùa Thất Tịch 4 chòm sao tình tiền như ý, gặp vận may đỉnh nhất tháng 8
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao có gia đình hạnh phúc đáng ngưỡng mộ

Vì sao có quan niệm " Trai mùng 1 gái hôm rằm "?

Những lý giải về quan niệm: Trai mùng 1 gái hôm rằm của dân gian xa xưa và còn tồn tại trong tiềm thức người Việt cho đến ngày nay.
Vì sao có quan niệm " Trai mùng 1 gái hôm rằm "?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dân gian thường nói “Trai mùng 1 gái hôm rằm. Nuôi thì nuôi vậy nhưng căm dạ này” để chỉ những đứa trẻ sinh ngày mùng một và ngày rằm có tính khí khác thường, khó nuôi, khó dạy. Các nhà khoa học giải thích về vấn đề này như thế nào?


Tu dau nen tich trai mung 1, gai hom ram hinh anh
 

Lý giải về điều này, có hai quan điểm, một là dựa vào khoa học, hai là dựa vào tâm linh.


Quan niệm của tâm linh

  Theo thuyết tâm linh, văn hóa phương Đông vẫn tồn tại những câu chuyện bí ẩn về việc ma cà rồng xuất hiện cùng chu kỳ của mặt trăng. Ngày mùng 1 là bắt đầu cho một chu kỳ mới, ngày 15 trăng sáng nhất lại đánh dấu chu kỳ tiếp theo là trăng mờ dần. Vì thế người ta gắn câu chuyện này vào những người được sinh ra trong hai đêm đó để tăng thêm tính huyền bí.
 
Hay mùng 1 là ngày đầu tháng, tức ngày cực dương (Mặt Trời chiếu sáng mạnh nhất), con trai (thuộc dương) sinh ngày này sẽ mang tính cách cực thịnh về dương. Ngày 15 hôm rằm là ngày cực âm (Mặt Trăng tròn nhất), con gái (thuộc âm) sinh ngày này mang tính cách cực thịnh về âm. Mà hễ là cực thịnh dù là âm hay dương đều bất thường. Bởi thế mà "trai mùng 1, gái hôm rằm"  tính cách mạnh mẽ, vượt ngoài khuôn phép, khó "trị" được.


Quan niệm của khoa học

  Các nhà khoa học lại lý giải quan niệm này dựa trên cơ sở sức hút của Mặt trăng với thủy triều.
 
Theo đó, sức hút của mặt trăng theo âm lịch, mặt trời theo dương lịch. Sức hút của mặt trăng gây ra trạng thái “thủy triều sinh học” trong cơ thể con người, khiến chất lỏng trong cơ thể thay đổi. 
 
Nó chính là nguyên nhân gây nên những kích thích thần kinh đến khủng hoảng, bị rối loạn và mất thăng bằng, làm trầm trọng thêm các chứng bệnh thần kinh. Những ai sinh vào hai đêm đó sẽ có những biến đổi sinh học đặc biệt hơn so với người sinh vào các đêm khác.  
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao có quan niệm " Trai mùng 1 gái hôm rằm "?

Nhà chung cư chuẩn phong thủy: Theo hướng cửa chính hay ban công?

Hướng nhà chung cư là hướng cửa chính hay hướng ban công là một trong những câu hỏi mà bất cứ gia đình nào mua chung cư cũng muốn biết câu trả lời.
Nhà chung cư chuẩn phong thủy: Theo hướng cửa chính hay ban công?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là một trong những câu hỏi mà bất cứ gia đình nào mua chung cư cũng muốn biết câu trả lời.

  Theo các chuyên gia phong thủy, hướng nhà chung cư chuẩn phong thủy được tính theo hướng cửa chính, bởi bạn đi vào từ đâu thì đó sẽ được tính là hướng chính của ngôi nhà. Hướng ban công không quyết định căn hộ đó có phù hợp với chủ nhà hay không.

Nha chung cu chuan phong thuy Theo huong cua chinh hay ban cong hinh anh
Ảnh minh họa
  Tuy nhiên, có không ít thông tin cho rằng hướng nhà chung cư tính theo hướng ban công. Thực ra, đó chỉ là một trong những chiêu mời chào bạn mua căn hộ đó để giải quyết vấn đề là hướng cửa chính không thực sự đẹp và phù hợp với mệnh bạn.   Cách chọn hướng cửa chính: Người mệnh Đông tứ nên chọn về những hướng Đông tứ (Đông, Đông Nam, Nam, Bắc), người mệnh Tây tứ nên chọn hướng Tây tứ (Tây, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc). Để biết mình thuộc mệnh Đông tứ hay Tây tứ bạn có thể tra trong "Bát trạch tam nguyên". Ví dụ: Chủ nhà sinh năm 1983 thuộc mệnh Đông tứ. Sơ đồ tốt xấu như sau:

Nha chung cu chuan phong thuy Theo huong cua chinh hay ban cong hinh anh 2
Ảnh minh họa
   Ngoài ra, sau khi chọn hướng nhà chung cư chuẩn phong thủy theo mệnh, nếu kết hợp thêm với hướng tòa nhà hợp tuổi thì càng tốt.    Trong phong thủy nhà ở, ngoài hướng cửa chính, những yếu tố phong thủy dưới đây cũng khá quan trọng, góp phần tạo nên sự hài hòa cho cuộc sống của bạn.   - Hình dáng nhà: Vuông vức, cho ánh sáng và năng lượng tốt. Tránh những căn méo mó hoặc bị khuyết những góc quá lớn, vừa không tốt về phong thủy, vừa khó khăn trong việc sắp đặt nội thất bên trong.   - Phòng bếp: Khu bếp được tiếp cận với bên ngoài để luôn sạch và thoáng, tránh gió và nắng trực tiếp vào bếp.   - Khu vực phòng tắm, nhà vệ sinh: Không nên đè vào những hướng tốt theo bát quái đồ của bạn. Chú ý nên tránh khu vực phòng tắm, nhà vệ sinh gần cửa ra vào hay khu vệ sinh giữa nhà, về phong thủy hay trong môi trường sinh hoạt đều không tốt.   - Phòng ngủ: Dựa vào sơ đồ bát quái tuổi của chủ nhà, bạn có thể chọn phương hướng hợp với mệnh của mình.  
► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Theo
Ngày nay
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà chung cư chuẩn phong thủy: Theo hướng cửa chính hay ban công?

Mơ thấy heo con –

Trong giấc mơ, những chú heo xinh xắn tượng trưng cho tài lộc, sự may mắn và hạnh phúc. 1. Mơ thấy heo sinh con đẻ cái đầy đàn, tín hiệu cho thấy sự nghiệp của bạn sẽ thuận lợi và thành công rực rỡ. Gia đình bạn vui được vui vẻ, hòa thuận và hạnh phú
Mơ thấy heo con –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy heo con –

Sưu tập các bài viết của tác giả VuiVui

Một bài viết sưu tầm lại các bài viết của tác giả VuiVui. Mời các bạn cùng đọc.
Sưu tập các bài viết của tác giả VuiVui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả VuiVui trên các diễn đàn lý số

Tứ Trụ

Tứ trụ, trong tử vi cũng như tử bình là thời gian. Nói như thế thì quá tầm thường. Nhưng sẽ không tầm thường chút nào cả khi chúng ta biết rằng. Đông phương, người ta gọi Vũ Trụ, tương ứng với người Tây phương gọi là Không gian Thời gian. Vũ là Không gian, Trụ là Thời gian. Vì thế, tứ trụ không phải là bốn cột trụ, nó là bốn mốc thời gian. Vì thế gọi là Tứ Trụ, diễn nôm là Tứ Thời. Cho nên, Tử vi cũng như Tử bình, được lập bởi 4 trụ – thời gian này. Chứ không phải là 4 yếu tố, hay 4 cột trụ nào của số mạng cả. Nó chẳng khác gì như hàm trạng thái của hệ vật lý được xác định – theo quan điểm cổ điển – là Lagrangien – là một hàm L với hai biến x và t là hai biến không gian và thời gian vậy. Ở đông phương học, yếu tố Vũ được quán xét bởi Phong Thủy. Còn yếu tố Trụ được quán xét ở các môn tử vi và tử bình. Mặc dù ở cả các môn này, cả Vũ và Trụ đều được quán xét, nhưng với phong thủy thì yếu tố Trụ ẩn, còn tử vi và tử bình thì yếu tố Vũ ẩn, mà yếu tố Trụ nổi và được sử dụng trực tiếp. Điều này, nếu liên hệ với vật lý lượng tử thì chúng ta cũng sẽ rất dễ hiểu khi chúng ta xét hàm trạng thái của hạt vi mô. Nó có nguyên nhân sâu sa, bởi ngay từ đầu đông phương học đã không coi không thời gian là tách biệt. Điểm này, Descartes đã không xét đến.

Nhưng nếu chỉ nói đến đây thì rất tầm thường, mặc dù chúng ta đã có thể hiểu tứ trụ là bốn thời – thời gian của tử vi và tử bình. Và có thể cũng thấy ngay rằng, tử vi và tử bình thực chất chỉ là hai phép biểu diễn khác nhau của cùng một bài toán. Chúng ta cũng thấy nó tựa như là sự liên hệ giữa hai biểu diễn cơ học lượng tử như biểu diễn Heidenberg và biểu diễn Srodinger vậy. Và nói theo thời đại thì tử bình và tử vi có một "đối ngẫu Langland" như là đối ngẫu Langland của hình học và đại số vậy. Trong đó, tử vi ứng với hình học, tử bình ứng với đại số.

Nói thế cho dễ hiểu đối với những ai có tây phương học.

Bây giờ ta xét thuần túy đông phương. Bởi có hiểu đó là 4 Trụ, thì mới nói chuyện đông phương được. Do Vũ và Trụ là một cặp âm dương. Vũ âm, còn Trụ dương. Vũ thì tĩnh, Trụ thì động. Đúng với mệnh đề Dương động, Âm tĩnh. Trụ của đông phương đối với tử vi, lịch pháp là sự phối hợp thiên can địa chi. Với ngũ hành, ta có ngũ hành nạp âm. Đó là hình ảnh thời gian vuông – tròn, hình vuông nội tiếp hình tròn – do trời tròn, đất vuông. Trời quay về bên phải, bao lấy đất. Ngược lại Đất quay về bên trái nằm trong vòm trời mà hình thành nên thời gian, đó là Trụ. Được lập bởi thang "đo" thiên can và địa chi. Theo nguyên lý âm dương giao phối, vạn vật sinh. Thì Trụ với lịch pháp và tử vi, mô tả thiên văn khí tượng bốn mùa, con người sinh sinh hóa hóa mà phát triển, thì đương nhiên Trụ của nó phải là sự giao phối âm dương thiên địa. Chính là sự giao phối thiên can địa chi mà thành ra ngũ hành nạp âm.

Bởi vậy, lịch pháp, tử vi cũng như tử bình, dựa trên Trụ mà ngũ hành là ngũ hành nạp âm, đã đảm bảo một tiêu chuẩn khởi đầu, khả dĩ mô tả được vạn vật bốn mùa và đời sống con người!

Nhưng đi tiếp, chúng ta sẽ thấy. Trụ là thời gian. Thời gian động, nên trôi, chảy mãi vô tận. Đông phương cho thời gian tuần hoàn viên miễn. Vậy thời về mặt hình học ta cũng dễ thấy, hình vuông và hình tròn "đều quay". Nhưng hình vuông và hình tròn thì quay không thể đồng bộ được như hai bánh xe tròn của một chiếc xe được. Thể hiện thiên can thì chỉ có 5, còn địa chi thì có 6. Chính sự "khập khiễng" thiếu khuyết này cần được bù lấp để thỏa mãn cho cái gọi là thời gian phải Động. Hay nói theo đông phương thì Trụ phải đồng bộ. Người xưa đã bổ sung sự thiếu khuyết này bằng một chữ Tuần. Mục đích là để san bằng sự lệch giữa thiên can và địa chi trong hành trình của thời gian-Trụ. Theo tây học thì chúng ta gọi Tuần là một Đại lượng. Đông phương học, có nơi xem Tuần như một Thần sát. Tử vi, xem Tuần như một Sao. Qua đây, chúng ta thấy ngay, bản chất của Tuần là Thời gian. Nên chúng ta không lạ gì Tuần là Không – sau này khi đi sâu bản chất sao của tử vi, chúng ta sẽ thấy tuần có cái nghĩa Không. Nhưng ngay ở đây, chúng ta cũng thấy Tuần là Dương, động, ứng với Không. Đối lập với Triệt liên hệ với Vũ nên âm, ứng với Vong!

Đến đây, chúng ta thấy Cơ nhân có một cái gọi rất chặt chẽ, khoa học và thống nhất. Tuần dương, nghĩa Không, và Triệt âm với nghĩa Vong. Tuần có bản chất thời gian, triệt có bản chất vũ nên triệt ứng với phương vị. Nên mới nói là triệt lộ, ngăn cách. Như nói hình ảnh: Đường đi gặp triệt là tắc. Hoàn toàn mang ý nghĩa phương hướng của không gian. Trong khi Tuần có ý nghĩa ngưng trệ, là bản chất của thời gian.

Đến đây, chúng ta có thể thấy chỉ cần hiểu đúng khái niệm mà Cổ nhân đặt cho chúng ta gọi, chúng ta cũng sẽ thấy được nhiều điều bổ ích, thấy được bản chất. Mà ở đây, ví dụ là thấy được Tuần xuất hiện là bởi cái gì. Liệu chúng ta có Dám vứt bỏ Tuần đi không luận nữa không?

Chúng ta thử vứt Tuần đi xem thế nào nhé. Có nghĩa là chúng ta đã xem thời gian đông phương không còn là vuông tròn nữa, không còn là ngũ hành nạp âm, do can chi âm dương phối hợp nữa. Tức là chúng ta đã vứt bỏ điều kiện tiên quyết để cho tử vi khả dĩ mô tả được cuộc đời của một con người!!! Tự nhiên chúng ta đã làm tử vi biến dạng đi một cách đáng sợ.

Chúng ta cũng thấy rằng, các kiến thức về Tuần ở trên, cũng như cách thiết lập Tuần là không có gì mới lạ cả. Có đầy đủ ở trong các sách. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được bản chất của Vũ Trụ là không thời gian đông phương. Là một cặp âm dương thì chúng ta mới có thể hệ thống hóa mà thấy được bản chất cũng như thấy sự cần thiết phải có nó.

Nhân đây chúng ta cũng thấy năng lực tư duy siêu việt của cổ nhân. Đã nhìn thấy sự bất đối xứng âm dương của Vũ Trụ và xuyên qua nó mà xây dựng nên một nền lý học đồ sộ – đó không phải là Khoa học thì nó là cái gì? Để có lý đâu chúng ta cứ thắc mắc cái sự bất đối xứng âm dương bởi các quái phối trên đồ thư rồi phán quyết là phải đổi Tốn – khôn? Mới là khoa học? Ngay đến bản chất của Vũ Trụ, cổ nhân đã thấy rằng không có sự đối xứng âm dương!!! Huống chi với một Đồ – Thư. Đó có phải là do chúng ta đã không hiểu lý học đông phương cho tới nơi chốn, nên mới có chuyện sáng tạo vô lối như thế không?

Tiếp nữa, nếu chúng ta suy tư với tư duy tây phương, sẽ thấy rằng. Tây phương với triết học Descartes cho rằng không – thời gian là tuyệt đối độc lập với nhau. Không gian là trống rỗng. Thì tới Einstein không – thời gian không còn tách biệt, và không thời gian cũng không còn là trống rỗng nữa. Chúng đã chứa Vật chất. Vật chất đó là gì? Tây học đang minh thuyết. Nhưng với đông phương học, Vũ Trụ là một Thể thống nhất, không tách rời, đã phối với nhau để "làm ra" vạn vật – theo nguyên lý âm dương giao hòa vạn vật sinh. Vậy bên trong Vũ Trụ là gì? Chu Hy đã nói: "Trong khoảng trời đất, chỉ có một vật là Khí, chia ra làm hai thì là âm, dương (khí âm và khí dương), năm hành gây dựng (khí ngũ hành) muôn vật trước sau bị cai quản ở đó – trích kinh dịch.

Đó là Khí, Khí của Vũ Trụ, là "vật chất" đông phương đó. Chúng ta, những người học tây phương, cứ mãi không hiểu Khí là gì, nó từ đâu tới. Bản chất ra sao. Lại cứ đi tìm cách xác định, định nghĩa, rồi đo nó. Thì đây, có một đối ngẫu với không thời gian tây phương. Choán trong không thời gian là vật chất – như năng lượng. Thì choán trong Vũ Trụ chính là Khí. Nhưng "metric của Không thời gian và Vũ Trụ thì hoàn toàn khác nhau.

Tại sao Chu Hy không nói: Trong khoảng vũ trụ mà lại nói là trời đất? Hậu học không hiểu trời đất của Chu Hy chính là vũ trụ càn khôn. Không hiểu vũ trụ can khôn chứa đầy Khí thì làm sao nắm được cấu trúc của quái dịch! Cho nên có nhiều Vị đã vội vàng phê phán Chu Hy chẳng phải là sự lầm lỡ hay sao?

Đến đây thì các Vị có thể hiểu làm thế nào để có thể khoa học hóa đông phương? Chứ không phải là những mô tả bằng tư duy tây phương mà áp đặt cho đông phương học được. Muốn làm được cái việc áp đặt đó. Trước hết các Vị cần phải hiểu được Vũ Trụ đông phương cái đã. Hiểu rồi thì các Vị sẽ thấy việc áp đặt thật sự là khập khiễng. Bất toàn.

Còn nhiều thứ bất ngờ nữa lắm khi nghiên cứu lý học đông phương. Vấn đề Vũ Trụ mới là tầng thấp nhất của lý âm dương thôi. Nên tôi thấy, khoa học hóa đông phương học không đơn giản như các Vị đã trình bày. Chỉ nội Hiểu sao cho đúng cổ nhân, và có sự so sánh, đối chiếu để thấy được đối ngẫu giữa hai nền lý học, đã vô tận rồi.

Thân ái.

Mệnh Chủ

Trước hết về mệnh chủ. Tôi nhắc lại, mệnh chủ dùng để định cách cục. Cũng như phương trình vật lý toán, muốn giải thích hiện tượng, hiệu ứng,... vật lý được biểu diễn bởi phương trình xác định thì phải xác định nghiệm của phương trình đó. Rồi từ nghiệm đó người ta mới lý giải cái vấn đề được đặt ra. Có nghiệm trực tiếp và có cả nghiệm gián tiếp. Nhưng đều thu được từ việc giải phương trình đó mà ra. Trong tử vi cũng vậy, phải xác định cách cục rồi thì mới luận được. Phép hội sao là phép xác định cách cục cổ điển. Nó đòi hỏi phải có hai điều kiện như tôi đã đưa ra.

Điều kiện thứ nhất nói đên tính xác xuất khả dĩ lớn nhất, tức là tìm ra đặc điểm chung của cách cục. Người ta đã thấy ngay bản chất của điều kiện này. Phụ thuộc vào kinh nghiệm sống, linh cảm, năng khiếu của người giải đoán. Tức là tổng quát hóa.

Điều kiện thứ hai là tính khả dụng, tức là áp dụng cụ thể vào thực tế thì liên hệ trực tiếp tới vốn sống, kinh nghiệm và sự hiểu đời – liên quan tới ngũ sự, … – của người giải đoán. Chả thế mà chúng ta vẫn hay nghe nói những người giỏi luận tử vi nào la cần năng khiếu, cần giác quan thứ sáu, cần trải đời, v. v... Trước kia chúng ta chỉ hay nghe nói thế thôi, nhưng nay thì thấy rõ, bản chất của nó là do cái phép hội sao nó yêu cầu tới hai điều kiện trên, do đó số người giỏi tử vi mới ít như vậy, và cũng ít người có thể theo được đến cùng. Tức là đặc biệt hóa.

Nhưng tiền nhân ta đã không thỏa mãn sớm như vậy. Họ đã nghiên cứu, mày mò để tìm cách hóa giải những khó khăn của hai điều kiện trên. Phép hóa giải đầu tiên là việc đưa ra hai sao chủ mệnh và chủ thân ở thiên bàn của lá số. Nhưng phép này ta thấy ngay là thô thiển – tuy nhiên trong một vài trường hợp, mà đối với xã hội xưa kia thì cũng thấy khá là đủ bởi đâu có phức tạp và phong phú như cuộc sống xã hội hiện đại. Thô thiển là bởi vì, hai sao chu thân mệnh được xác định như là quy tắc cố định theo năm sinh. Mỗi năm có một cặp sao mà thôi. Dễ thấy là cho dù mỗi lá số, với cùng cặp chủ mệnh thân tuy luận sẽ có khác nhau, nhưng cùng một lá số là không có cách gì luận khác nhau được cả. Tinh tế hơn chút nữa chúng ta cũng thấy, mỗi năm có tới hơn 8 ngàn lá số. Chúng ta lại luận theo kiểu xác định cách cục chính tinh phụ tinh thì chúng ta sẽ rơi vào cái thế tự trói chân tay minh. Ví dụ như chúng ta thấy có cách phủ tướng triều viên. Đương nhiên không thể bỏ. Lại chỉ có một cặp chủ thân mệnh, nên không thể thoát ra khỏi hai cái giới hạn đó. Chỉ còn có cách mở bằng gia hội thêm sao, chế hóa, … các bạn nào chưa làm thì bây giờ làm thử xem. Sẽ rơi vào mê hồn trận. Tệ hơn nữa là luận xong rồi, chẳng biết có đúng không nữa. Mà khi biết là sai thì cũng chẳng biết sai ở đâu. Cứ thử đi!. Rồi các bạn sẽ còn gặp nhiều chuyện bất khả, và tức mình hơn nữa. Cái phép chủ mệnh thân này nó cổ lỗ, và thô tới mức nhiều người còn không thèm học. Đặc biệt là những người của phái đông a. Tiền nhân ta khi nghiên cứu tử vi đều nhận ra điểm này mà tìm cách khắc phục nó. Một hướng khác phục có lẽ là phổ biến nhất hiện nay, nhưng nguồn khởi của nó, thú thực tôi không dám xác quyết, vì thực tế nắm được là những gì truyền lại, lại không có những kiểm chứng khoa học. Nên chỉ viết ra đây, xem như là một chút thư giãn, khỏi bức bối mà thôi.

Số là khi giải đoán những lá số mệnh VCD tiền nhân ta đã đúc kết khá nhiều công thức. Nhưng phảng phất thấy vai trò của những hung tinh, cát tinh đặc biệt. Mà một trong các thông số đặc biệt đó là sự đồng hành với ngũ hành bản mệnh của một vài tinh đẩu có trong cách cục được nêu bởi các công thức – tuy không phải là tất cả một cách tuyệt đối – nhưng phảng phất và dễ tìm được cái lý để các tinh đẩu đó lộ diện. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, sẽ gặp ngay cản trở bởi tính hạn chế của sự đồng hành chỉ trong cung mệnh.

Tiền nhân ta tháo gỡ khó khăn này bằng cách không hạn chế xét sao nòng cốt chỉ ở trong khuôn khổ một cung an mệnh, hay cung an thân mà mở rộng ra tới cung thiên ri, tài và quan. Nhưng có một số người không hiểu lại giàu trí tưởng tượng liền mở rộng cho các cung khác nữa, có biết đâu rằng do hạn chế bởi sự mất cân đối của ngũ hành, nên sự mở rộng càng lớn thì tính mất cân đối càng lớn và do đó tính phi lý càng rõ nét, đưa tới sự vận dụng ngày càng mơ hồ hơn, gượng ép hơn. Hơn hết là cho dù sự mở rộng hợp lý, nó vẫn gặp những trở ngại không vượt qua được. Thực tế là phương pháp định cách cục dừng lại ở đây rồi lại loanh quanh trở về với phép hội sao và kết hợp cả hai. Nhưng lối thoát vẫn không thể có, người đời không chịu dừng lại và thế là cách mạng, là sáng tạo. Nhưng hầu hết đều nhằm vào cải tiến cách luận và trên cơ sở đó mà đưa thêm nhiều thông số, nhiều biến hóa của cách cục, tinh đẩu. Phép lưu tứ hóa, phép thái tuế, phép hóa khí, … tất thảy chỉ là những phép nhằm giải quyết vấn đề là do phép định cách cục bị hạn chế, nên phải mở rộng “phạm vi hoạt động” của cách cục, sao cho cải thiện được cái điều kiện thứ nhất là xác xuất khả dĩ lớn nhất – tức là sẽ khắc phục sự mơ hồ của tâm linh phần nào – và khả dụng lớn nhất vì khi cho cách cục biến hóa thì cái kinh nghiệm sống, sự trải đời của người giải đoán mới có “đất dụng võ”.

Như thế, giải đoán đã phát triển thành hai hướng, hướng nâng cấp phép định cách cục và Hướng thứ hai là mở rộng phạm vi hoạt động của cách cục. Rõ ràng hướng thứ hai rất dễ được chấp nhận, và thực tế nó đã được hào hứng tiếp đón. Nhưng rút cục, tình hình tuy có được cải thiện, song vấn nạn vẫn còn đó.

Tổ tiên phái đông a – bằng con đường riêng của minh – đã phát minh ra sao treo. Nhưng giữ thật kỹ. Cho nên, mặc cho đời xoay chuyển, càn khôn nổi sóng gió thế nào Nó vẫn lẳng lặng giữ yên “một bờ cõi”. Thiên hạ bàn tán xôn xao, tò mò hay chọc ngoáy, Nó vẫn sản sinh ra những lời đoán thần kỳ. Ẩn hiện như rồng lượn khiến người đời ngưỡng mộ mà phải liệt nó vào những giai thoại. Phương pháp sao treo, vượt lên phép nòng cốt – mặc dù sự ra đời của sao treo chưa chắc đã là do sự khắc phục hạn chế của các phép định cách cục trên – mà là do họ đã hiểu được bản chất thực của tử vi. Nhưng tự nhiên, nó giải quyết được hàng loạt vấn nạn của môn tử vi. Song, nó vẫn im lặng. Nó trở thành bí truyền.

Phương pháp mệnh chủ tiếp nối nền tảng của phép treo sao. Có vậy thôi. Không nên thấy nó có chữ mệnh chủ mà ngộ chữ rồi hỏi thế còn thân chủ đâu rồi!

Linh Xương Đà Vũ và Cải Số

Những người xem tử vi, có lẽ không ai là không biết cái bộ này?. Sách vở đều cho rằng, gặp bộ này là số: Nào là tự tử, nào là bị bức tử, bị độc tử, …Nhưng có lẽ, khi gặp nó, hầu như chỉ đoán đến thế thôi. Hạn gặp nó, tất bị hung họa nặng, có thể dẫn đến cái chết thảm thương. Bộ này ở cung nào, gây tai ách cho cung đó. Nhưng nặng nhất, và có ý nghĩa xác định phải là ở những cung: Mệnh – Thân, Phu/Thê, Tử tức, Phụ mẫu, Huynh đệ. Và cả những cung trong tam hợp hay xung chiếu với Mệnh.

Khi câu hỏi, có cái gì chế hóa, hay hóa giải được nó không?. Gặp nó thì Cải số như thế nào?. Thì với sự hiểu biết về nó đơn sơ như vậy, thời không thể giải được!. Vì thế, câu hỏi đặt ra, thực thì nó tác hóa như thế nào?. là một lẽ tự nhiên.

Phải nói rằng, Linh Xương Đà Vũ rất độc. Cái độc của nó không phải chỉ là ở cái chết của đương số. Mà cái độc của nó nằm ở chỗ bức tử đương số. Cái chết nào rồi thì cũng là chết. Có cái chết nặng tựa Thái sơn, có cái chết nhẹ tựa Lông Hồng. Có cái chết đau đớn quằn quại, trên phương diện tinh thần cũng như thể xác. Có cái chết tưng tửng. Ra đi vào cõi vĩnh hằng mà cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Thì cái chết do bộ Linh Xương Đà Vũ gây ra, quả thật thuộc về cái chết đớn đau. Nặng nhất về tinh thần. Sau nữa là sự giày vò về thể xác.

Người xem tử vi có kinh nghiệm, thấy rằng đằng nào cũng chết, nếu gặp Linh Xương Đà Vũ thì thà gặp Kiếp sát Hình Hổ hơn. Nhìn về mặt lý số, thấy cái anh Kiếp sát Hình Hổ sát khí nặng như thế, sao lại bảo thà gặp nó hơn là gặp Bộ Linh Xương Đà Vũ?.

Thật ra, tuy sách vở đều đề cập bốn sao, đủ cả bốn sao: Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc. Nhưng thật ra, cái bộ này, nhân của nó là Linh Xương Đà. Mà hạt nhân trung tâm lại chỉ có Xương Đà mà thôi!. Thực ra Vũ khúc không phải là cái nhân họa của bộ này. Người ta có thể thấy, nếu không phải là Vũ khúc, có thể là một sao khác. Chẳng hạn như thế Vũ khúc bằng Kiếp sát, hoặc cả bộ như Cơ Lộc Mã cũng vẫn nguy hiểm như là với Vũ khúc. Nhưng cái cách bức tử con người ta sẽ khác nhau, cũng như nguyên nhân kích hoạt cái bộ Linh Xương Đà sẽ khác nhau mà thôi.

Điểm đặc biệt, nếu là Vũ khúc, thì bất kể Vũ có thể miếu vượng, vẫn hung hiểm như thường. Bởi vì đó là do khả năng chế giải của Vũ khúc với Linh Đà, đặc biệt là Đà la âm hiểm và tàn độc, khi Vũ khúc gặp nó, khác nào Chuột gặp Mèo đang đói. Thế nhưng Linh Xương Đà mà gặp phải Thiên phủ thì đương số chỉ lao đao thôi, chứ sức mấy mà bức tử nổi đương số. Tùy mỗi cách cục gặp Linh Xương Đà, mà gia giảm hung họa khác nhau.

Vũ khúc thì bị bức tử vì cùng quẫn. Âm Dương thì bị bức tử vì tuyệt vọng, bế tắc không tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Cơ Lộc Mã thì bế tắc, tuyệt đường sinh nhai, chứ không phải là cứ đi ăn mày là thoát. …

Như đã nói, cái Nhân của nó là Linh Xương Đà. Nhưng cái Hạt nhân trung tâm, chính là Đà Xương. Có điều, nó liên quan đến sự thành cách. Không phải cứ thấy Xương Đà là tá hỏa tam tinh.

Việc thành cách, kiểu gì cũng có những dạng sau đây:

-Mệnh – Thân hay trong tam hợp có cả Xương lẫn Đà, và chỉ khi chúng thực là sao bản mệnh mới đúng là thành cách Xương Đà. Khi ấy, vào Vận, chỉ cần gặp Linh, các cách cục tham gia hội họp ra sao, đều là ở vị thế thay cho Vũ khúc mà thôi, đó gọi là biến cách. Gặp một Linh, là đủ quyết đoán rồi. Nếu ngay trong mệnh thân không có sao hay cách cục hóa giải Xương Đà, hay có sao ngăn chặn Đà la. Thì Họa tất sẽ xảy ra.

-Gặp cả ba sao này trong mệnh – thân và tam hợp, mà không có sao hay cách cục khác chia cắt chúng, thì cách này thành với điều kiện Đà Xương phải là sao bản mệnh, còn nếu chỉ có Linh là sao bản mệnh thì cũng không sợ, cho dù cách cục đã thành.

-Nếu chỉ có một sao Xương hay Đà, dù là sao bản mệnh, khi nhập vận gặp Đà hay Xương, thì cũng không thành cách. Nhưng trái lại, gặp Linh thì vẫn hung hiểm như thường, nhưng khi ấy không phải là hung hiểm của bộ Linh Xương Đà. Vì thế, dù có thấy cả bộ, chớ có đoán rằng đương số sẽ bị bức tử!. Đoán như thế, mu rùa có thể bị đập bể có ngày đó. Hi Hi …

-Xương và Đà gặp nhau kết thành hạt nhân trung tâm của cách, cũng phải xét đoán cho tinh. Đừng thấy khi Đà la độc thủ Dần – Thân là miếu địa mà đã vội cho hạt nhân này là cách cục tốt. Đừng tưởng Văn xương yếu liễu đào tơ, khuê các mà gặp được người anh Hùng – Đà la độc thủ cung VCD tại Dần – Thân là miếu địa, dẫu có gia thêm Bắc đẩu bội tinh (Ấn Tướng) để trở thành anh hùng QDND mà đã vội mừng. Các bậc phụ mẫu chớ có đem gả bán con gái mình vào những nơi như vậy. Đừng tưởng đó là trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp nhau. Nhầm to đấy. Ây là đưa con gái mình vào chỗ chết. Sướng cũng chết, mà khổ cũng chết. Còn khi Đà la hãm địa, thì khỏi nói rồi.

-Sợ nhất là khi Xương gặp Kỵ. Nó mà thành cách Xương Đà, thì chả cần gặp Linh. Đơn sơ như vậy cũng đủ hồn về chín suối rồi, bởi khi ấy cả hai đứa đều “tranh nhau” làm sao bản mệnh.

Còn nhiều biến cách nữa, từ cái hạt nhân này. Mỗi biến cách đều có những luận giải khác nhau. Cần cẩn thận xét đoán, không thì nó tốt lại tưởng là xấu và ngược lại. Đơn cử như Linh Xương Đà hội đủ thành cách là cách cực xấu. Nhưng nếu có thấy Vũ được thay bằng Cự – cho dù là hãm địa – mà hóa Quyền thì trước cùng cực, nhưng sau đại phát, cách này là phản vi kỳ cách, người có cách này, làm quân nhân thì lên tướng, cầm quân đánh đông dẹp bắc, uy quyền khét tiếng. Đi buôn thì lỗ lên lỗ xuống, trốn chui trốn lủi, cuối cùng hanh thông, độc bá thiên hạ (đây chỉ là cách dùng hình ảnh thôi nhé, đừng tưởng thành vua thành chúa, rồi khi không được làm vua, làm chúa đến đòi đập mu rùa thì oan khiên lắm).

Xem thế, bộ Linh Xương Đà thật vi diệu, nhiêu khê. Phải tường tận thì mới mong cải được số do nó gây ra.

Không phải cứ thấy Linh Xương Đà, thầy bói kê đơn Cải số, là cứ cho một toa thuốc là sẽ giải được đâu. Có khi uống nhằm thuốc độc, nặng thêm, đẩy con người ta tới chỗ cùng cực hơn đó.

Ví như lá số Endopain. Lá số này, dẫu có thấy Đà la nhị hợp cũng không thành cách Xương Đà được. Vì vậy, lá số này không bị hại về Linh Xương Đà cố định. Nhưng ở vận 44-53 tất sẽ bị hại, lý do chính là bộ Linh Xương Đà Sát lưu động bị Liêm Phủ ở Mệnh rung dữ dội kích hoạt mà sụp đổ.

Số này, đại vận này giàu có, mặc dù từ nay đến lức 44 có một lần bị rung chuyển, nếu nói về số lượng nhà cụ thể, thời tử vi, như Tôi thì bó tay, đơn giản là vì, một triệu đô, người ta có thể mua vài ba căn nhà, nhưng cũng có khi lại chỉ có một căn mà thôi. Cũng có thể dùng Mai hoa dịch hay các môn khác mà đoán ra số lượng nhà cửa đã có. Nếu theo tử vi, chúng ta có thể xem xét ở dạng, tổng số tài sản, ước lượng là bao nhiêu. Thời, cái lá số này, vào thời điểm này thì tiền mặt không có bao nhiêu, đủ dùng xài (tiền mặt có bao nhiêu đều nhăm nhe đầu tư buôn bán). Nhưng tài sản nằm trong bds cũng đã có trên 10 triệu Mỹ kim rồi.

Sơ lược về cách Linh Xương Đà Vũ là như vậy!.

Nên nhớ, không phải là hỏi cách giải bộ này, mà phải là cải số, khi bị bộ này tác hóa. Tuy nhiên, biết được căn nguyên của nó, mới chỉ là bước đầu gọi là chẩn đoán bệnh. Còn giải, tức là kê toa thuốc ra sao, lại là chuyện khác, chuyện của cải số. Có những nguyên tắc của nó.

Tử Vi Lý Số: LẬT LẠI CHỦ ÐỀ CẢI SỐ.

Đây là một vấn đề, về thường lý, nó rất nan giải. Từ đó dễ dẫn đến những ngộ nhận sau:

-Sau khi tìm được phép Cải số, ví dụ như trường hợp của Jany. Việc tìm người có lá số như đã được chỉ dẫn là vô cùng khó. Ngay cả khi đã tìm được rồi, chắc gì người ấy đã có thể cùng với mình kết thành phu thê?.

Về thường lý thì đúng là vậy. Nhưng về lý số thì không như vậy!.

Thật vậy. Lấy ví dụ, người có bệnh. Tìm thầy có khả năng chữa đúng được bệnh cho mình là khó. Nhiều khi, với bệnh nan y, lại vô cùng khó. Nhưng đó là công cuộc, là vận động nhân sinh. Nó không thuộc về cái gọi là lý luận của y học. Vì thế, đương nhiên, không chỉ bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân, bạn bè, …cùng nỗ lực tìm kiếm. Đó chính là sự vận động nhân sinh, là sự nỗ lực của con người trong việc chữa bệnh. Còn khi gặp rồi, đương nhiên, khi người thầy thuốc thấy đúng con bệnh mà mình có khả năng chữa. Có khi nào người thầy thuốc đó từ chối không chữa, để mặc cho bệnh nhân chết không?. Có thể có, nhưng ít lắm. Và cái phần trăm nhỏ nhoi đó, nó không thuộc về cái gọi là lý luận y học. Nó thuộc về y đức.

Cải số cũng gần giống như vậy. Tìm được người đúng như đã được chỉ dẫn. Khó thật. Nhưng đó là sự vận động của con người, sự cố gắng, bản lĩnh và nghị lực cùng với biết bao nhiêu nhân tố khác nữa!. Có thể người ta bảo rằng, gặp được đó cũng là Phúc. Vâng!, đúng là Phúc. Nhưng trên phương diện mệnh lý tử vi, thì phúc đó không phải là phúc theo cái lý của tử vi!. Đó là cái Phúc tổng quát hơn nhiều. Nó thuộc về lý luận nào, chẳng ai nói tới cho cụ thể được. Có người thì bảo đó là do Phúc thực tại. Ừ thì là Phúc thực tại. Khi mà ta không sờ được nó, không thấy được nó bằng xương bằng thịt. lại chẳng có một cái lý luận cơ bản nào hướng dẫn. Thì nói thế nào mà chẳng được. Thế nên, nếu nói Mệnh, mà chẳng nói là mệnh lý tử vi, thì nói thế nào mà cũng được. Nhưng ở đây, rõ ràng, bệnh được chỉ ra trên mệnh, chính là theo cái lý của tử vi. Thì muốn chữa cái bệnh đó, thời dùng chính lý tử vi mà chữa. Chứ nếu chỉ nói chung chung như: Bảo con bệnh rằng: cứ tu đi, làm việc thiện, hãy thanh tâm, hãy ăn chay, mà quên đi cái cần có là phải dùng y học để chữa bệnh, thì đó đâu phải là chữa bệnh. Mệnh cũng thế. Phải nói bằng chính cái lý của tử vi thời để chữa cho cái mệnh lý tử vi.

Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, mệnh vẫn có thể chữa, hay cải được bằng những phép chữa mệnh tổng quát hơn trên nền tảng mệnh lý tổng quát nhất. Nhưng rõ ràng, người ta, nếu theo phương pháp đó, từ xưa đến nay, vẫn đã và đang, có lẽ cũng là sẽ vẫn làm thì không thể có một môn học xác định. Cũng như kiểu chữa bệnh bằng tập thể dục vậy. Tất nhiên sẽ khỏe mạnh, nhưng y học sẽ không thể phát triển nếu cứ lấy đó làm phương pháp bao trùm cho hết thảy.

Khi đã tìm ra rồi. Thì khỏi lo. Một lá số đã ứng như thế, khi gặp nhau, họ sẽ thấy sự cần thiết phải có nhau. Về mặt lý số, đó gọi là ứng số. Cho dù trên lá số của Jany, người chồng đúng số là người chẳng ra gì!.

xem ra, có vẻ thấy mâu thuẫn?. Nhưng thực không phải vậy. Bởi đây là sự vận dụng những nguyên lý tổng quát nhất, có tính chất nền tảng của tử vi vào thực tiễn đời sống. Có thể hình dung như thế này:

Một chiếc xe ô tô. bạn đang lái nó, nhưng đến giữa đường bị hỏng, chẳng hạn như két nước làm mát bị vỡ. Khi đó, đương nhiên chiếc xe đó bị hỏng, không thể tiếp tục được hành trình. Nếu cố gắng thực hiện hành trình, thời máy sẽ cháy. Hệ lụy của nó là vô lường. Nhưng nếu bạn là người có kiến thức về động cơ, hay xe. Bạn sẽ có cách khắc phục nó để đi tới nơi có thể sửa chữa. Hoặc như bạn có cái quạt điện, nhưng nó lại bị nóng khi chạy, chạy lâu sẽ cháy. Bạn tìm cách làm mát nó, thì bạn sẽ dùng được nó.

Tôi lấy ví dụ đó, để cho thấy rằng, con người ta, đối với hệ động lực hoạt động theo các nguyên lý vật lý, thì khi nó bị sự cố, muốn khắc phục sự cố, người ta cũng phải vận dụng những định luật khác khả dĩ khắc phục được sự cố đó. Các định luật đó cũng vẫn sẽ là những định luật vật lý. Thì ở cải số cũng vậy. Trường hợp trên lá số gặp người chồng chẳng ra gì, thì bằng những nguyên lý vận hành mà tử vi tiềm tàng, chúng ta khai thác nó, vận dụng nó đúng đắn thì những điểm yếu trên lá số, như lá số Jany về người chồng, rồi cả việc sinh đẻ, là có khả năng khắc phục.

Nếu Bạn là cái người có biết về trường hợp giờ Kim sà, mà Tôi đã đưa ra tới ba lá số: Một lá số của người thầy, hai là số của người con nuôi, và cuối cùng là số của người con dâu. Tổ hợp cả ba lá số đó chính là đã có sự sắp xếp về lý số để cho cái mục tiêu Cải số, khắc phục cái tính lý nguy hiểm của giờ Kim sà có thể được thực hiện.

Bạn nói đúng. Việc tìm những lá số đó khả dĩ đối với thời đại ngày xưa. Nhưng ở thời đại ngày nay, người ta vẫn nỗ lực được, và cao nhất là bằng tâm và đức. Cùng với sự kiên tâm, tất sẽ có khả năng thành công. Với sự lần lượt, đầu tiên phải tìm cho được người thầy. sau đến đứa con nuôi. Cứ kiên tâm làm, cánh cửa vào kho tàng dần sẽ mở toang!.Tôi không còn bao nhiêu bài nữa, cũng như đã hứa không tranh luận. Nhưng viết như apollo như trên, thật là chẳng hiểu gì cả. Không chỉ có thể chứng minh ràng mạch cái bộ Linh Xương Đà Vũ, mà cách này còn có thể nhìn từ nhiều khía cạnh để nhìn rõ bản chất.

Vì thế, apollo có hiểu hay không, không còn là vấn đề của Tôi, nhưng trong chủ đề này của Tôi, Là người đề cập đến cách cục này, nên vì trách nhiệm với bạn đọc, ở mức độ cho phép, Tôi viết thêm ý nữa, nếu bạn đọc có hiểu, thì tốt, nếu không hiểu thời đành chịu.

Trước hết cần thấy rõ bản chất hung họa của bộ Linh Xương Đà Vũ. Do bức đương số đến chỗ tự vẫn. Tiến trình của hung họa cũng do đó mà bộc lộ rõ ràng. Từ Hung đến Sát. Ta thấy rõ, Đà chủ hung, Linh chủ sát. Tuy rằng cả hai đều âm độc. Từ đó mà suy, thấy rõ Đà đến trước, Linh đến sau. Ép đương số cho đến chết. Quá trình là rõ ràng, chẳng có cái chết nào chết trước, phiền muộn, lo lắng sau cả!!! Xem Bộ Linh Xương Đà Vũ, thấy ngay Đà là hung, Linh thì Sát, Vũ là kết cục cũng là nội dung của họa hại, bởi thế, nếu không phải là Vũ, mà là Cơ Lộc Mã thì tuyệt đường sinh nhai mà chết. Còn nhiều biến cách nữa.

Biến cách Linh Đà Xương Vũ rất phức tạp và tinh tế. Trong đó, thấy rõ chỉ có ba sao đóng vai biến hóa là Xương Đà Vũ. Mỗi biến hóa là một biến cách. Chỉ có Linh cố định, ngồi ỳ một chỗ. Nhưng như thế không có nghĩa đó là nhân. Cái nhân của cách cục ở đây chỉ rõ là cái nhân gây họa. Chứ không phải là một cái nhân tĩnh tại.

Có hiểu được lẽ biến hóa đó, mới có thể hy vọng vận dụng được biến hóa của Linh Xương Đà Vũ.

Đừng nhìn thấy, đương số nào bị dính Linh Xương Đà Vũ là có kết cục của cái chết, rồi nói rằng Linh chủ Sát, gây nên cái chết mà cho rằng đó là hạt nhân trung tâm. Nắm bộ này theo cách đó, thì làm sao hiểu được biến hóa và vận dụng biến cách của Kiếm chiêu, qua một chiêu này.

Bao nhiêu trường hợp ví dụ mà mọi người đã hỏi, đủ thấy biến hóa của Bộ này như thế nào. Nếu lấy sự cố định của Linh mà luận làm trung tâm, thì làm sao hiểu được căn nguyên, cội rễ của hung họa.

Viết đến thế này là quá nhiều. Tôi sẽ không trình bày thêm.

Phép lưu cung trong đoán hạn

Kể từ lúc ông VDTT phỏng dịch một số bài luận tử vi của ông Trần Thế Hưng, một tử vi gia xứ Đài mà theo thông tin của ông VDTT thì tử vi gia này cũng khá nổi danh. Nội dung của các bài đó có đề cập tới một phương pháp luận vận hạn. Đó là phương pháp lưu cung. Tôi đã có ý định viết một bài giới thiệu về phương pháp này. Không phải nhằm "chạy đua" với những tử vi gia xứ Đài, mà nhằm mục đích lưu ý những người học tử vi cần lưu ý tới những ngộ nhận và sai lầm về sự vận dụng của tác giả đối với phương pháp này. Nhưng công việc bận rộn, cứ lần chần mãi. Mới rồi lại thấy có người cũng có tinh thần cầu thị, nhưng sở học chưa tới đã vội sử dụng phương pháp này và trình bày luận đoán của mình theo phương pháp đó. Sai mà lại không biết là Sai, lại còn phê như sau:

Trích:

Tác giả VuiVui không sao hiểu cách Lưu Cung và các chuyển vận rất động rất tinh tế, nên có lời phê bình ấu trỉ và ganh tị nhắm vào lão HC tại VietLySo cách nay chừng 2-3 ngày. Đó là sự thiếu sót quê mùa đến đáng buồn của lý số gia hàng nội dập theo1 khuôn mà lại cho mình là đỉnh cao của thiên hạ.

Nguồn TVLS.net

.............

Quả nhiên sự lấn cấn của tôi là hợp lý. Tôi thật không hiểu, khi người ta học tử vi lâu năm, lại còn tham gia nghiên cứu mà lại có thể hiểu sai và vận dụng sai một phương pháp sơ đẳng như vậy. Thực ra phương pháp lưu cung không mới. Nói như những người lâu năm lăn lộn trong lĩnh vực bói toán hay nghiên cứu tử vi thì phương pháp này được xem như là phương pháp cổ lỗ. Cổ lỗ cả về hai nghĩa;

-Nghĩa thứ nhất. Cổ quá rồi. Trở thành chuyện "xưa như trái đất" khi mà bàn đến nó.

-Nghĩa thứ hai. Nó không những đơn giản mà còn đầy khiếm khuyết, cần phải được nhiều phương pháp khác bổ trợ một cách trực tiếp. Chứ không phải là bổ trợ theo kiểu như: Anh dùng tử, tôi dùng tử bình, còn anh kia dùng nhân tướng, anh nữa xài Hà Lạc,... rồi chúng ta ráp lại với nhau để có sự luận giải chung nhất, hy vọng đưa ra kết quả luận đoán chính xác nhất có thể.

Nói một cách đơn giản nhất, sự phối hợp, chẳng hạn như: phối phép lưu cung với phép lưu thái tuế và các sao lưu.

Đọc những dòng trên của người lầm lẫn bởi sự thiếu mạch lạc trong tư duy, thiếu căn cơ vững chắc không chỉ nền tảng lý học đông phương mà ngay trong lĩnh vực tử vi cũng mơ hồ. Chung quy cũng chỉ vì học thuật không có căn bản. Nay tôi trình bày ở đây, hy vọng hóa giải phần nào cho các bạn học tử vi, kẻo sai lầm.

Trước hết tôi trình bày phép luận hạn tổng quát. Cái này được trình bày ở hầu hết các sách vở tử vi. Tuy nhiên mức độ hệ thống có khác nhau, chỉ bởi vì nó phụ thuộc vào trình độ thực có của tác giả.

Trước hết nói về Đại vận 10 năm.

Chúng ta cứ thừa nhận đại vận 10 như một sự tất nhiên, đó là giai đoạn 10 năm của mỗi con người trong cả một đời người. Chúng được sắp xếp theo một trật tự xác định, khởi từ mệnh, lấy theo số Cục mà định. Ví dụ, cục thủy là số 2, thì 10 năm đại vận đầu tiên sẽ ở mệnh cung, tính từ tuổi 2 đến hết năm 11 tuổi. Các đại vận kế tiếp được sắp xếp theo quy luật: dương nam âm nữ xếp theo chiều thuận, nghĩa là đại vận kế tiếp, ví dụ 12-21 sẽ ở cung phụ mẫu, tiếp nữa là đại vận 22-31 nhập cung phúc đức, và cứ thế ta an tiếp các đại vận tiếp theo. Đối với âm nam dương nữ thì an ngược lại, đại vận 12-21 nhập cung bào, đại vận 22-31 nhập cung phu/thê, và cứ thế tiếp tục cho các đại vận sau nữa.

Đến đây chúng ta phải tự hỏi. Xác định cung an mệnh trên lá số. Nếu không lý đến vận trình, rõ ràng cung an mệnh, đúng là cung an mệnh của lá số xác định toàn bộ cuộc đời. Nói cách khác, cung an mệnh là một cung cuộc đời. Phải chăng, cung mà đại vận 10 năm nó nhập sẽ là cái gì?. Câu trả lời sẽ rất tự nhiên, nó chính là Cung Vận đại diện cho cung an Mệnh khi Mệnh "trôi" tới đó. Mà người xưa – hãy nhớ là người xưa, chớ không phải là người nay, chứng tỏ rằng tư tưởng, chuyển thành phương pháp, đã Cổ lắm rồi – mới nói, đó là Mệnh Vận. Lẽ tự nhiên, Người xưa cũng dễ dàng coi rằng, Mệnh như "tâm" của lá số, hay nói cách khác, như là Tâm Vị của 12 cung lá số. Vây thì, khi mệnh trôi, tức là mệnh vận dịch chuyển, thì chẳng có lý do gì ngăn cản các cung khác không dịch chuyển theo theo cái thế tương quan bắt buộc. Cái thế tương quan này nó nằm trong luật nhân quả chi phối trong việc xây dựng lá số tử vi. Cái này, khi có dịp trao đổi về triết đông trong bài toán tử vi, tôi sẽ đề cập tới sau.

Theo lẽ đó, khi có mệnh vận, đương nhiên tương ứng sẽ có 11 cung vận là phụ mẫu vận, phúc vận, điền vận,....

Nếu chỉ dừng tới đại vận 10 năm. Sẽ rất là đơn giản, và cũng chẳng có gì đáng phải bàn. Vấn đề sẽ phức tạp hơn ở chỗ, khi ta xét đến vận lưu niên, rồi ứng dụng nó để đoán vận. Hiểu đúng, hay bá láp là ở chỗ này nó lòi ra ngay.

Bởi vì. Chẳng hạn, khi xét vận lưu niên. Chúng ta có ba cung. Lưu niên đại vận, Lưu niên tiểu vận và cung Lưu thái tuế an vị. Có câu hỏi tự nhiên bật ra: Vậy trong ba cung này, cung nào sẽ là Mệnh vận lưu niên đây?.

Chỉ mới tới đây thôi, đã thấy ngay cái người viết nói tôi phê bình ấu trĩ và ganh tị thực đã không hiểu gì về vấn đề này. Chúng ta hãy thực nghiệm khi ông ta luận lá số Đặng Tiểu Bình, về hạn Bố của Đặng chết.

Trích:

Năm cha của Đặng bị Thổ Phỉ chặt đầu là năm 1938 tức năm Mậu Dần, tức các thứ sau đây giải thích tại sao cha chết:

1. Đặng lúc đó đuợc 1938 - 1904 = 35 t AL, gốc DH tại Hợi, tức Lưu cung Phụ tại Tý.

2. Năm Mậu an Lưu Kình trực xạ vào Lưu Phụ tại Tý, gia Lưu Đà La, Tang Hổ cố định, Lưu Tang, Lưu Khốc, Lưu Hư là cách khóc cha.

3. TH năm Mậu Dần an tại cung Thân tức Lưu Phụ tính theo TH, an tại Dậu cũng hứng Kình Đà Kỵ Kiếp Sát Thái Duơng, cũng là cách chết cha.

Nên nhớ Tuần Triệt của lá số Đặng ăn mạnh vào cung Duơng nên thiếu thời Đặng gian nan nếm mùi tân khổ, xa cách cha (Triệt an giữa Mệnh và Phụ) còn Tuần vào Di phá Thiên Mã nhiều lần, gia hại Lộc Tồn làm cho cách Mã Lộc Khốc Khách kém hay, thất bại ê chề. Ngay cả khi hạn hành vào cung Di tức lúc này Tuần và Triệt có cơ hội phá nhau để Đặng đuợc tháo gỡ Triệt tại Mệnh nhưng lúc đó Đặng đã hơn 60 tuổi thì Triệt đâu còn gì để Tuần phá nên Tuần siết cung Di, làm hại Mã, thất Lộc rất nhiều đối với Lưu Mệnh của Đặng.

Nguồn TVLS.net

................

Chỉ cần với những gì tôi đã trình bày ở trên, các bạn cũng đã có thể vạch được chỗ ấu trĩ của lời luận giải này. Xin mời các bạn tự nhiên, rồi tôi sẽ tiếp tục. Chúng ta sẽ đi tiếp tới mục tiêu nhận chân lời giải của Trần Thế Hưng.

Xin nhớ, đây không phải là sự phản biện, mà chỉ là đóng góp giúp các bạn học tử vi nhận rõ đường lối trong việc học tử vi. Khả dĩ nhận ra đúng sai của cái gọi là Lý trong tử vi luận. Bởi như tôi đã nói, tôi chỉ phản biện trực tiếp với tác giả, chứ không muốn phản biện qua bất cứ trung gian nào.

Xin cám ơn sự quan tâm của các bạn.

Thân ái.

...

Chúng ta tiếp tục.

Theo cái lý trên, chúng ta thấy sự xuất hiện các cung lưu, như phụ mẫu lưu, huynh đệ lưu, phúc lưu,... có vẻ như rất tự nhiên. Và chính đó là lý do hết sức thuyết phục về sự tồn tại của các cung này. Điều này đưa tới sự đòi hỏi vận dụng chúng vào giải đoán vận hạn. Song cần nhớ rằng, đó không phải là những chứng minh sự tồn tại của các cung lưu, mà chỉ là những lời biện giải thuyết phục mà thôi. Việc chứng minh bài toán cung lưu phức tạp và khó khăn nhiều. Ta có thể hình dung nó tương tự như việc bổ đề Langlands. Cái bổ đề này được xem là đúng đắn khá là tự nhiên, nhưng đối với các nhà toán học, sự tự nhiên một cách cảm tính, cho dù đó là những cảm tính thiên tài, thì vẫn không thể nào làm cho các nhà toán học yên tâm được, cũng như không thể bảo đảm cho sự đúng đắn tuyệt đối của cái bổ đề ấy. Việc chứng minh các bổ đề ấy khó, vì thế, đã qua hơn 30 năm kể từ khi bổ đề ấy được phát biểu, chẳng có ai chứng minh được nó. Cho dù các nhà toán học vẫn cứ thừa nhận và sử dụng nó. Cuối cùng, người chứng minh nó là NBC, và giải thưởng fields đã dành cho người chứng minh được nó. Vì vậy, chúng ta hãy cứ thừa nhận các cung lưu như một sự tự nhiên, còn chứng minh nó một cách chặt chẽ thì... đành phải chờ một ai đó, nếu như tôi không công bố phép chứng minh của tôi.

Tuy nhiên cần phải nói trước rằng thừa nhận là một chuyện. Còn sử dụng được chúng trong đoán vận lại là một chuyện khác. Sẽ có nhiều người, do sử dụng không được có thể đi tới sự phủ nhận chúng. Nếu sử dụng được chúng hiệu quả, tất sẽ thấy sự hay ho ở chúng. Nhưng cũng có người sử dụng sai. Khi ấy ngoài sự hồ nghi – đó là tốt nhất và chỉ có người thông minh mới có thể được như vậy – còn có người cứ mù quáng tin tưởng theo, rồi giải đoán công ra gà, gà ra vịt. Sai mà không biết mình sai, đó mới là điều nguy hiểm.

Như trên, tôi có đặt ra câu hỏi, trong ba cung niên vận. Cung nào là Mệnh vận lưu niên?.

Thực ra câu trả lời này rất dễ, và cũng rất tự nhiên. Đó chính là cung Đại vận lưu niên. Cái lý rất đơn giản, bởi vì nó được khởi từ đại vận 10 năm tính đi. Khi cung đại vận lưu niên xuất hiện, bây giờ ta gọi là mệnh vận lưu niên cũng được. Đương nhiên, các cung lưu niên cũng sẽ xuất hiện theo đó. Có người nói rằng, xem như vậy thì dường như mỗi hạn ta đều có một lá số mới chồng lên lá số cũ. Mà muốn xem tới vận lưu niên, tức là ta đã có ba lá số chồng lên nhau. Đó là các lá số: Lá số đầu tiên là lá số tổng quát, lá số thứ hai là lá số lưu đại vận 10 năm, lá số thứ ba là lá số đại vận lưu niên. Cùng với nó có tiểu vận lưu niên và cung có thái tuế nhập. Thêm bao nhiêu sao lưu nữa thì... chúng ta sẽ tá hỏa bởi chỉ mới đoán đến vận lưu niên thôi mà đã quá ư là phức tạp. Làm sao xử lý được tới ba lá số chồng đống lên nhau. Rồi các sao sẽ được an vị thế nào?. Tại sao khi lá số lưu xoay chuyển như thế mà các sao lại "đứng ỳ ra đó", chỉ có một số sao là dịch chuyển, đó là các sao lưu mà thôi?.

Chúng ta đã thấy sự phức tạp, và đưa tới ngày càng mơ hồ, khiến cho những ai muốn học và nghiên cứu tử vi cũng phải phát nản lòng?.

Thực ra không phải như vậy. Đó là bởi vì, chúng ta đã có ý niệm sai ngay từ đầu rằng kết quả giải đoán đến vận lưu niên là đã có ba lá số chồng lên nhau. Cũng như bài toán lưu cung. Việc chứng minh hoàn toàn không đơn giản. Nhưng chúng ta có thể tạm đồng ý với nhau bởi vì những lý do sau:

-Lý, mệnh và vận phân ly. Cái lý này, như tôi đã có nghe, ngày trước ông VDTT đã có đề cập tới đó là ý kiến của một số tử vi gia Đài cảng. (tôi tôn trọng trình tự thời gian vì nó đã được công bố trước, chứ thực ra cái lý này tôi đã biết từ khi mới bắt đầu học tử vi, rất lâu trước khi sự kiện này được ông VDTT nhắc đến)Theo ý kiến này, sự thiết lập ba lá số chồng lên nhau là tự nhiên, từ đó đương nhiên, người ta có thể xét chỉ một lá số lưu cuối cùng mà thôi. Nhưng sẽ khiên cưỡng, bởi vì từ đó phải tuyệt đối an sao lưu toàn bộ. Nhưng với những sao an theo năm thì còn có thể. Những sao an theo tháng, ngày giờ thì lấy cái gì để an đây?. Chả nhẽ lại suy từ ngũ hành của cung an mệnh vận?. Đây là điều bất khả do tính đa trị cuả nó, cũng như về lý rất khiên cưỡng.

-Lý, mệnh vận liên kết. Sẽ đưa tới sự lược bỏ rất lớn đối với các lá số lưu, khiến chúng ta, suy cho cùng kỳ lý – bởi sự không nắm được bản chất cấu trúc của tử vi – thì sẽ lược bỏ vô tội vạ, cuối cùng thì chẳng có một lá số lưu nào cả, hay chỉ là những cung lưu về mặt hình thức mà thôi.

Nhưng thực tế thì, cả hai lý trên đều đúng. Có điều, nghiêng hẳn bất cứ về cái lý nào, cũng đều cực đoan cả. Trong tử vi luận, khác với lý luận hay lô gíc thông thường của khoa học là khi suy luận giải các bài toán khoa học, người ta thường "làm quá" các giả thiết, hay các chứng cứ, cũng như điều kiện của bài toán để tìm ra lời giải của bài toán, thì tử vi luôn không được phép làm như vậy. Tại sao vậy. Giải thích nôm na rằng làm như vậy là vi phạm cái lý âm dương. Nhưng để hiểu được thì không đơn giản tý nào.

Đây là một điều rất khó cho người viết khoa học về tử vi, bởi mỗi bước đi phải có chứng minh chặt chẽ. Muốn làm được việc đó, cần phải trình bày hệ thống lý thuyết từ "a đến z". Trong một bài như thế này là không thể, chỉ còn có cách là chúng ta cứ phải thừa nhận những điều, ít nhất là có thể xem như rất hiển nhiên mà thôi.

Quay trở lại hai lý trên, chúng ta đương nhiên phải chọn giải pháp "trung dung". Nhưng trung dung tới mức độ nào, lại còn phụ thuộc vào trình độ của tử vi gia. Ở trình độ này, người giải sẽ phải vận dụng thêm nhiều phép phối hợp khác. Một trong các phép đó, chính là bên cạnh lưu cung còn có lưu sao?. Nên nhớ, cung tiểu hạn lưu niên và lưu thái tuế là do tự thân nó có, chứ không phải là sự phối hợp thêm do yêu cầu của bài toán lưu cung.

Theo lý đó, tử vi gia phải thiết lập một sự phối hợp sao cho việc giải đoán các biến cố sao cho biến cố được giải đoán phải có những biến cố không được phép xảy ra nhiều lần trong đời. Chẳng hạn như trong lá số của họ Đặng. Biến cố cha chết bị chặt đầu không thể được xuất hiện từ hai lần trở lên. Đến đây, chứng ta thấy ngay, với lối giải đoán mà tôi trích dẫn trên, chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra và thời điểm mà cha ông ta bị chặt đầu, có nghĩa là phải chết vài lần, thậm chí theo kiểu chết không toàn thây.

Thật vậy. Xét ngay trong đại vận ở Hợi cung, lấy năm mậu dần để thể hiện sao lưu chúng ta thấy lý luận của anh ta thế này:

-Năm 1938 mậu dần Đặng 35 tuổi, đại vận đương nhiên nhập cung Hợi, phụ mẫu lưu sẽ ở cung Tý – đúng.

-Năm mậu lưu Kình trực xạ vào cung phụ mẫu lưu tại Tý, gia lưu Đà cùng tang hổ cố định. Lưu Tang hợp chiếu từ thìn cung, gia hội lưu khốc lưu hư từ tam hợp chiếu về Tý cung lưu phụ mẫu. Nên nhớ, Lưu tang ở tam hợp!.

Chúng ta xét 8 năm sau, đó là vào năm Bính Tuất. Lưu Kình Lưu Đà như lưu năm có can Mậu, vì thế ta cũng sẽ nói được, lưu kình trực xạ vào cung Tý nơi phụ mẫu họ Đặng lưu trú 10 năm. Tang Hổ cố định thì đương nhiên 10 năm cha họ Đặng lưu trú ở đó, tất gặp luôn luôn. Năm bính tuất, lưu khốc lưu hư cũng nằm ở thìn và thân cung, chỉ khác chiều là năm mậu dần thì lưu khốc ở thìn, lưu hư ở thân, năm bính tuất thì lưu hư ở thìn còn lưu khốc ở thân. Nhưng lưu Tang lưu hổ thì mới khiếp, nhè ngay cung Tý, nơi cha Đặng ở mà phạm, chứ không tam hợp chiếu mỗi Tang lưu như năm Dần.

-Còn Tiểu hạn, năm Dần rơi vào Mệnh tại cung thân, kêu rằng lưu phụ mẫu theo tiểu hạn là cung Dậu – học không đến nơi đến chốn, lại còn bịa ra chi tiết này – rồi luận ép rằng: Hứng kình đà kỵ kiếp sát thái dương là cách chết cha. Xin hỏi, thái dương đồng cung thái âm, thái dương ở sửu vượng hơn thái âm, sao chết cha mà không chết mẹ?.

Nay xét năm bính tuất, cứ theo cái lý luận đó thì lưu phụ mẫu theo tiểu hạn lưu niên sẽ là cung Tị, xơi luôn Đà Kỵ Thái dương Kiếp sát Kiếp Không (điạ) cùng thiên không hội thêm nhị hao bại địa. (địa kiếp địa không vỗ mặt)

Chúng ta hãy so sánh:

Năm mậu dần và năm bính tuất, những tiêu chí như nhau là lưu kình trực xạ. Nhưng lưu đà cùng tang hổ cố định, tang lưu và khóc hư lưu thì năm bính tuất nặng hơn nhiều, cũng là lưu đà, nhưng tang hổ hội cả lưu tang lưu hổ nhập cung phụ mẫu lưu, đây mới là cách tang tóc (nhưng nếu chỉ như vậy cũng chưa đủ tang tóc xảy ra, huống chi là nhẹ hơn thì càng khó xảy ra). Còn lưu khốc lưu hư thì như nhau. Vậy xét lưu can chi năm thì năm bính tuất nặng hơn năm mậu dần.

Tiểu hạn năm Dần, rơi vào thân cung, thì năm tuất ở thìn cung. Xét về vị trí thì như nhau – nếu không để ý đến triệt. Thực ra triệt ở đây sẽ làm giảm cái xấu đi, còn năm tuất thì không có triệt, nên cái xấu y nguyên. Nhưng thôi, không xét đến triệt nữa. Nếu năm dần, lưu phụ mẫu cung tại dậu hứng kình đà kỵ kiếp sát, thì năm bính tuất lưu phụ mẫu cung sẽ chịu đà kỵ kiếp sát cùng địa không địa kiếp nhị hao, phối hợp với cách tang tóc lưu tang gặp tang, lưu hổ gặp hổ thì dễ quyết đoán tang cha hơn nhiều so với năm mậu dần. Cùng cách thái dương đà kỵ mà không bị triệt ngăn trở. Như thế theo cùng cách xét như nhau, để khỏi ngụy biện vì nó thế này, còn cái kia thì thế khác, chúng ta cũng thấy tiểu hạn lưu phụ mẫu năm bính tuất cũng nặng hơn năm mậu dần. Chúng ta hãy nhớ, năm bính tuất họ Đặng 43 tuổi là năm cuối của cùng đại vận ở Hợi cung, chung đại vận với năm 35 tuổi.

Như thế, theo cái kiểu xem số như trên,trong một đại vận, cha họ Đặng bị chặt đầu ít nhất là hai lần?. Rõ ràng là vô lý.

Chúng ta cứ theo cái kiểu lý luận lưu cung ấy, dù muốn biện bạch kiểu gì thì cũng thấy năm bính tuất nặng hơn năm mậu dần. Nhưng cha họ Đặng chết năm 1938 là thực tế, chúng ta không thể dịch nó sang năm bính tuất để mà nói năm mậu dần nhẹ hơn năm bính tuất, nên cha họ Đặng suýt chết năm mậu dần, mà đến năm bính tuất mới chết.

...

Bây giờ chúng ta quan tâm tới lưu niên tiểu vận.

Có câu hỏi, tại sao xem vận lưu niên lại có lưu niên tiểu vận, mà xem vận 10 năm – ít nhất là như vậy – thì lại không có lưu niên kiểu như tiểu vận vậy?. Tức là xem đại vận 10 năm, chỉ có hai cung, mệnh vận và thái tuế lưu chứ không có ba cung như xem lưu niên vận.

Trả lời câu hỏi này không dễ, nhưng có thể nói đại lược đó là do tính ước lệ của thời gian. Từ cái điểm khác nhau này chúng ta có thể trả lời tiểu vận lưu niên không phải là mệnh vận lưu niên, mà chỉ có đại vận lưu niên mới là mệnh vận lưu niên mà thôi. Đã không là mệnh vận thì làm sao lấy đó để mà xuất hiện thêm lưu cung phụ mẫu được chứ?!.

Cũng có thể có người ngụy biện rằng, năm mậu dần cha Đặng đã chết, thì dù năm bính tuất có nặng hơn thì lấy đâu ra người cha nữa để mà chết. Chẳng có gì đảm bảo là những năm sau năm mậu dần họ Đặng không bị nhiều tai ách nặng hơn?.

Xin thưa rằng, đó là xem mệnh, biến cố tại mệnh, chứ không phải là xem biến cố cho phụ mẫu. Chả thế mà Thái thứ Lang đã nói. Xem hạn chết là phải tìm đến đại vận xấu nhất, rồi tìm đến năm xấu nhất, tiếp tìm đến tháng, rồi ngày, rồi giờ xấu nhất. Tìm đủ như vậy, khi đó mới dám quyết là hạn chết. Bởi vì, cái chết chỉ có một lần thôi. Còn như tìm không được, chỉ trách đó là vì mình tìm không được cái Xấu Nhất mà thôi.

Thân ái.

...

Lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) không phải là mệnh vận lưu niên nhưng ta vẫn xét đến nó khi giải đoán cho mệnh. Nhưng khi xem như thế ta có cân nhắc đến ảnh hưởng của các cung tam hợp và xung chiếu của cung lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) lên mệnh không ạ?

Tam hợp và xung chiếu là các quan hệ tạp thành cách cục trong tử vi, nó giống như các phép toán trong các công thức toán học vậy. Sau khi cách cục hình thành, người ta mới dùng để luận giải. Cách cục hình thành từ mệnh vận thì luận đoán cho ra thông tin của mệnh tại vận đó. Có câu hỏi xuất hiện tự nhiên rằng: Luận cách từ mệnh vận cho thông tin của mệnh trong vận đó, vậy thì luận cách cục từ LNTH và Thái tuế thì cho ra thông tin về cái gì?.

Đây là câu hỏi tự nhiên, nhưng là câu hỏi mang tính chất rất trừu tượng, do đó mà câu trả lời cũng không thể hy vọng có tính chất rạch ròi, như hai chia hai bằng một được. Ta nên hiểu như thế này.

Phàm những gì được giải đoán từ lá số tất thảy đều thuộc về những biến cố cuộc đời của đương số. Đoán về mệnh vận dài hạn, cũng như mệnh vận ngắn hạn. Có khi đều cho ra những biến cố cụ thể, mà những biến cố đó chỉ xảy ra trong thời gian một năm, thậm chí còn thời gian ít hơn một năm, nghĩa là chỉ vài tháng thôi. Nhưng cho dù chỉ là vài tháng, chúng ta cũng chỉ thấy nó thể hiện trong đại vận 10 năm, vậy mà trong vận một năm hay nhiều năm trong đại vận đó lại chẳng thấy nó xảy ra. Nhưng rồi trong một năm nào đó, và trong năm đó, chỉ có vài tháng là xảy ra. Chúng ta nói rộng ra cho dễ hiểu, chẳng hạn có số nào đó bị tù đày, nhìn trên số tổng quát thấy rõ là số bị tù. Nhưng trong thực tế thì người có số chỉ bị tù vài năm thôi, chứ không bị tù cả đời. Và vài năm đó chỉ xảy ra trong đại vận nhất định nào đó mà thôi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Cho nên mới có câu hỏi: Số bị tù, nhưng khi nào mới bị tù?.

Đấy là nói về vận. Còn với LNTH và Lưu thái tuế thì hiểu thế nào?.

Trên tinh thần hiểu như trên khi nói tính tương đối của Vận, thì cái gọi là thông tin từ LNTH và LTT cũng là thông tin về Mệnh tại vận đó. Một sự tổng hợp thông tin có được từ cả ba cung đó, sẽ cho ta một bức tranh toàn diện hơn về các biến cố đối với mệnh trong bối cảnh toàn diện của các quan hệ mọi mặt của đời sống, hơn là khi mà ta chỉ khu trú, giới hạn trong việc xét thông tin mỗi một cung vận của mệnh. Vì thế, khi thấy một cách cục trong một cung, không nên võ đoán vội ra tiêu chí ngay, mà phải xem xét trên tổng thể, nếu thấy chúng xuất hiện với tần xuất nhiều lần thì tiêu chí, hay biến cố sẽ càng chắc chắn xảy ra. Thay vì chỉ có một lần xuất hiện ở một cung, mệnh vận lưu niên chẳng hạn, thì không nên vội kết luận. Điều này càng có ý nghĩa trong hóa giải. Chẳng hạn như mệnh vận lưu niên thấy tai nạn giao thông xảy ra, nhưng tiểu hạn lưu niên lại thấy được hóa giải và lưu thái tuế lại thấy chẳng hạn như vợ con yên bình thì có thể đoán quyết là tai nạn sẽ không xảy ra, mà chỉ hú hồn thôi, hoặc giả tai nạn có xảy ra nhưng nhẹ và được cứu thoát kỳ lạ,... Cho nên gặp những trường hợp đó rất khó nói ra, bởi khi nói ra rất dễ làm trò cười cho thiên hạ nghe giải đoán, hoặc lại bị cho là hù dọa lấy tiền, lấy danh,... mà không nói ra thì...đáng tiếc những trường hợp như thế lại gặp rất nhiều trong giải số.

Trích:

Theo chú viết thì khi xem đại vận thì ngoài mệnh vận còn có lưu thái tuế phải không ạ? Đây là điều mới đối với cháu nên cháu hỏi cho chắc ạ.

Đúng vậy.

Thân ái.

...

Cháu cảm ơn chú nhiều ạ. Chú có thể giải thích kĩ thêm dùm cháu cách xem lưu thái tuế ảnh hưởng đến vợ con như thế nào không ạ? Tại lưu thái tuế không phải là mệnh vận lưu niên nên cháu không biết nó ảnh hưởng thế nào đến các cung khác ngoài mệnh ạ (vì theo cháu hiểu thì phải là mệnh vận hay mệnh vận lưu niên mới có các cung lưu, không biết cháu có hiểu sai không). Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?

Vận dụng giải đoán bằng cung lưu thái tuế cũng như các cung vận là không đơn giản, cần phải được trải qua nhiều kinh nghiệm để rèn luyện kỹ năng mới có thể hiểu thấu được những gì thu được, rằng tại sao lại đoán như thế, tại sao lại là cách cục này mà không phải cách cục kia và trên hết là tại sao đối với cùng một lá số, hai người sinh đôi, hay cùng một lá số mà khi giải đoán lại thấy giải đoán mỗi khác, đồng thời phối hợp chế hóa các cách cục trên các cung vận khác nhau để luận đoán.

Vì thế, câu hỏi của cháu muốn trả lời được cần phải thông qua những trường hợp cụ thể, sau khi thực sự luận giải được vài trường hợp, người học giải số sẽ nhận thức được vấn đề.

Cho nên, trong chủ đề này, chú cũng đã có ý định đi vào phân tích - phân tích chứ không phản biện - những bài luận của các ông TTH và TV do ông VDTT đăng trên TVLS, nhằm mục đích cho các Bạn học tử vi hiểu được những kiến thức mà các ông ấy phô bày, dù rằng là đơn sơ. Đồng thời, trong quá trình phân tích, chú cũng sẽ cố gắng trình bày các phương hướng khả dĩ phát triển - mà có thể các vị đó cũng đã đạt được rồi - về kỹ thuật luận giải và những lý luận phát khởi.

Từ từ rồi chú sẽ viết ra.

Trích:

Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?

Không ai làm thế cả.

Thân ái.

...

Chúng ta hãy lưu ý. Đây là cuộc đàm thoại về tử vi. Có hỏi và đáp. Nhưng ngay từ đầu bài phrng vấn này, chúng ta không thấy câu hỏi của anh Lý, mà là câu trả lời của ông TV.

Trích:

Đáp: “Tại sao không lấy nổi vợ? Số này giả như sinh sớm một hoa giáp, chỉ cần gia thế trung đẳng, người không tàn tật thì đã kết hôn trong hạn Giáp Dần (hạn thê đắc song Lộc giáp Lộc) (dgc: đây hạn Giáp Liêm hóa Lộc chiếu vào cung Hợi VCD thành thử Tí là hạn thê có Lộc Tồn nguyên thủy đắc hóa Lộc nguyên thủy và đại hạn Lộc giáp). Nhưng ông này sinh vào thời hiện đại, lại học bác sĩ, khi còn đi học thì chuyện hôn nhân sớm nhất phải chờ đến khi tốt nghiệp là hạn Ất Sửu, sau khi vào xã hội làm bác sĩ. Nghĩa là sớm nhất hạn Ất Sửu mới kết hôn. Đó là vì thời đại khác nhau, dính líu đến tao ngộ cá nhân, chẳng thể quy hết vào mệnh lý”.

Tôi không nghĩ là anh Lý chưa kịp hỏi thì ông TV đã Đáp rồi. Nên chắc là có một câu hỏi trước đó đã khiến cho ông TV quyết đoán là BS Dương cho đến thời điểm của cuộc trao đổi là chưa có vợ!. Xét lá số, thấy ngay - như theo bài thì thấy thời điểm đó là năm 1987 - là BS Dương khi ấy cỡ 35 tuổi (tuổi ta). Một người cỡ 35 tuổi, lại là BS, tức là có danh vị trong xã hội, theo anh lý nói lại không đui què mẻ sứt gì, gia thế cũng khá - giảm chút cho chắc, hơi khá - mà vẫn chưa có vợ thì đương nhiên cái chuyện thành gia lập thất của vị BS này có vấn đề. Lẽ tự nhiên ông TV phải xem xét xem hai đại vận 12-21 và 22-31 như thế nfao, nhằm giải thích tại sao hai đại vận ấy chưa có vợ.

Trước hết hãy xét đại vận 12-21.

Phàm xem số, các tử vi gia có chút kinh nghiệm, hay có chút trình độ, khi khán hôn nhân, phải hiểu nằm lòng quy tắc đơn giản sau:

Nói đến hôn nhân, về đại vận, hạn hôn nhân mạnh nhất, có sức thành tựu lớn nhất phải chính là đại vận nhập cung phu/thê hay phúc cung. Khi đó, chỉ cần có dấu hiệu, dù là nhỏ về các tiêu chí hôn nhân, mà mệnh không phá vỡ nó thì tất sẽ có kết quả thành gia lập thất. Vì thế các tử vi gia khi giải đoán đoán hôn nhân trong giai đoạn này thường rất ứng và tương đối dễ dàng.

Nhưng ngoài đại vận này, đoán hôn nhân thuộc các đại vận khác thường rất khó, phải hội tụ nhiều tiêu chí về hôn nhân mới có thể đoán định nổi. Như đã nói ở trên, tình hình đó, thoạt tiên ông TV đã loại trừ được hai đại vận trước năm 32 tuổi là BS Dương chưa có hôn nhân. Vậy thì phải xem xét đại vận từ 32 trở đi. Nhưng một người cẩn thận vẫn phải xem xét hai đại vận trước đó để giải thích cái đáp án đã có sẵn là chàng BS này chưa vợ!.

Điểm thứ hai, bao giờ cũng phải khán Mệnh cái đã. Có khán mệnh mới xem xét nổi các Vận, nếu không thì chỉ là đoán mò, hay rơi vào quan điểm của phái Mệnh - Vận phân ly. Mà ông TV thì không thuộc phái này. (cần nhớ rằng, nói mệnh là phải hiểu đó là tổ hợp mệnh - thân) Vì thế theo ông TV, thấy rằng Thân cư Thê. Ông Tv theo quan điểm bỏ Triệt, vì thế thân tại thê có cách như ông TV đã liệt kê: Tử Phá được cát hóa nên quan niệm về hôn nhân mạnh mẽ. Tại sao nói là cát hóa?. Trường hợp này ông TV thấy Phá hóa Lộc, tử phá thành cách. Vốn Tử Phá bán hung bán cát, gia Kình dương thì hung đa cát thiểu, nói về hôn nhân thì đó là một trở ngại, gặp gỡ dễ thành, nhưng tiến xa thì dễ vỡ. Đồng thời cũng biểu hiện là người dạn dĩ với vấn đề hôn nhân, hoàn toàn không phải là người nhút nhát, e dè thổ lộ tình cảm cảm với người khác phái, mà trái lại có phần mạnh dạn, nhanh nhảu. Khi gia hội thêm liêm tham kỵ thì tính này càng mạnh mẽ, nhiều khi chỉ cần nhận thấy đối phương có chút tình ý với mình, hay có chút hòa ái là đã muốn tiến nhanh tiến mạnh rồi. Tử phá hóa lộc là hóa cát chứ không là hung, nên những vấn đề trên sẽ không còn tính "hung bạo" khiến cho đối phương phải chạy, hay phản ứng ngược lại làm cho cho đương số bẽ mặt, hoặc giả phải chắp vá với loại chả ra gì mà trái lại, mạnh dạn nhưng cố chấp, định kiến. Nói một cách dân dã là khá số sàng nhưng lại xét nét. Thành ra rất bất lọii với những cuộc tình mang tính luyến ái, tìm hiểu.... chỉ thuận cho những cuộc tình mì ăn liền, đồng ý cái rụp. BS Dương, xét về mệnh thân và thông tin từ Lý có thể cho phép ông TV khẳng định BS Dương không phải là loại" mèo mả gà đồng" mà cũng là người có danh và giá. Vì vậy, chỉ có những cuộc tình đồng ý cái rụp là dễ thành.

Trên cơ sở như thế, đại vận 12-21, chúng ta thấy, như ông TV xác định đó là đại vận Giáp dần. Giáp thì liêm hóa lộc, hội với thê cung cố định thành cách song lộc hội hợp, lộc tồn nhập cung Dần giáp với thê cung, cùng với tuồi quý lộc tồn tại Tý nên thê cung thành cách giáp lộc và song lộc hội chiếu. Đó là cách hay với người theo quan điểm bỏ quyền - khoa không xét. Lại thấy có Đào Hồng Thanh long, thái dương hóa kỵ thành cách Thanh long Hóa kỵ thì có thể nói hội đủ điều kiện thành gia lập thất. Nhất là người có gia thế như BS Dương. Thái tuế lưu cũng nhập cùng cung đại vận mà thành cách. Nên cách thành gia lập thất càng mạnh mẽ.

Nhưng trên thực tế thì BS Dương lại chưa có vợ, không thành gia thất trong hạn này. Vậy chỉ có thể giải thích - theo ông TV, đó là do cá tính mạnh và xét nét cùng với thời đại khiến ông coi trọng sự nghiệp. Vì sự nghiệp chưa thành nên chuyện lấy vợ "hãy để lại đã, chưa muộn" đồng thời có có ý "mắt cao quá đầu" nên đại vận có cơ hội mạnh mẽ về hôn nhân đã bị bỏ qua.

Kết luận này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ông TV, rằng cách cục trên tử vi chỉ là "hình thái ý thức", vì thế cái hình thái ý thức này đã bị quan niệm của chính đương số "làm hỏng", nên đại vận này không có hôn nhân là vì vậy.

(còn tiếp).

Chú ý: Tôi chỉ diễn dịch để mọi người hiểu ý ông TV, chứ không phản biện đúng - sai, nên không có ý kiến riêng của tôi trong các giải đoán này.

Thân ái.

...

Trước khi diễn dịch tiếp những câu Đáp của ông TV, tôi xin lưu ý với quý bạn đọc rằng sự diễn dịch của tôi dựa trên quy tắc suy diễn theo một trật tự có xác xuất lớn nhất, chứ không phải là sự diễn dịch theo những lô gíc nhất định. Bởi lẽ lô gíc của tư duy tuy rằng có những quy tắc chính xác, song cũng có tính tương đối và định xứ. Chẳng hạn như nói, toán học có lô gíc của toán học, sinh học có lô gíc của sinh học, kinh doanh có lô gíc của kinh doanh - như là lô gíc của toán học thì 2 công với 2 đương nhiên phải bằng 4, anh A khác anh B thì không thể anh vừa là anh A vừa là anh B mà chỉ có thể là hoặc anh A hoặc anh B. Lô gíc của sinh học thì có "cá lớn nuốt cá bé", cá thể A mạnh hơn cá thể B thì cá thể A sẽ cạnh tranh thắng cá thể B. Lô gíc của kinh doanh là không có ai là bạn vĩnh viễn và cũng chẳng bao giờ có kẻ thù vĩnh cửu, kẻ có lợi cho ta thì ta gần, kẻ có hại cho ta thì cần tránh xa - xã hội có lô gíc của xã hội,... và theo đó, đương nhiên anh Khùng cũng có cái lô gíc riêng. Đem cái lô gíc này áp chế loại trừ cái lô gíc kia là điều không dễ, cũng khó chấp nhận và cũng chưa chắc đã phải là chân lý.

Vì thế, nếu như ông TV có quá nhiều dị biệt trong tư duy thì lẽ đương nhiên tôi không dám cho rằng những diễn dịch của tôi gần đúng với ý của ông TV. Khi đó, phiền đến các bạn, muốn hiểu được ông TV, cần phải có những suy luận khác thường tới mức - nhưng ông ta lại không trình bày - cỡ như vất tuần triệt, bỏ quyền khoa (nhưng trường hợp này ông ta đã trình bày, nên chúng ta theo đó đã ước lượng được những tầm vóc và chiều hướng suy luận cũng như kiến thức của ông ta. Khả dĩ suy đoán được những hướng suy luận của ông ta.

Vì thế, trong khuôn khổ những gì chúng ta có thể biết được từ ông ta - do đã được trình bày - thì những diễn dịch của tôi, có thể cố gắng được ở mức có xác xuất cao nhât.

Thân ái.

Lý thuyết cung trọng điểm

Gấu Trắng viết tiếp đi.

Ở diễn đàn này, mỗi khi thảo luận học thuật cũng khá buồn tẻ. Ở bên TVLS thì lại quá nhiều rác. Có gấu trắng tham gia, hy vọng sẽ sôi nổi thêm.

Nghiên cứu tử vi, cũng như đông phương học nói chung, người ta rất trọng Lý. vậy mới nói: Lý học đông phương. Nhưng cái Lý này nó như... có chân. Nắm bắt được nó không dễ.

Lý thuyết cung trọng điểm. Có nghĩa là trong nhiều cung khi giải đoán có liên hệ với đối tượng, biến cố giải đoán mà ta quan tâm tới, vốn ta không thể hay không có khả năng đồng thời khảo sát tất cả các cung đó để đưa tới những giải đoán xác định. Nguyên nhân có thể là do khả năng, hoặc do bản chất của phép giải đoán phải tồn tại cái gọi là cung trọng điểm. Nếu là nguyên nhân thứ nhất, tự nhiên lý cung trọng điểm không có ý nghĩa và sự nghiên cứu lý thuyết cung trọng điểm chẳng có giá trị gì. Nếu là nguyên nhân thứ hai, lý thuyết cung trọng điểm trở nên xác đáng. Nhưng điều này không hề được chứng minh. Những người nghiên cứ khi nghiên cứu nó cũng không thấy đề cập đến lý do phải nghiên cứu cung trọng điểm, mà cứ mặc nhiên là phải có cung trọng điểm, rồi lao đầu vào nghiên cứu nó. Đó là việc làm thiếu sót đáng trách của người nghiên cứu. Nó khiến cho tử vi ngày càng nhiều lỗ hổng, và những lỗ hổng đã có ngày càng to ra.

Sự thật, khi giải đoán, ví dụ giải đoán vận hạn. Ta giả sử việc cần giải đoán là có thể phân loại, như thuộc về sự nghiệp, tiền bạc, quan hệ,...và thậm chí, việc giải đoán chỉ biết là việc, như kiện cáo, tù đày, thị phi, tranh chấp,... giải đoán vào việc, rõ ràng chúng ta phải quan tâm tới vận hạn. Như ví dụ trên, hạn vào đại vận canh tý. lưu niên hạn tại tuất. đương nhiên ta thấy ngay có những cung tham gia vào giải đoán là tuất cung, tý cung, thìn cung, cung lưu niên đại hạn, cung lưu niên tiểu hạn, cung mệnh nguyên thủy, cung quan nguyên thủy. Đó là những cung trực tiếp. còn những cung gián tiếp nhưng có ý nghĩa bao trùm, nhiều khi quyết định thành bại của việc giải đoán. Vì thế thực tế cung liên quan đến giải đoán, về lý tự nhiên nhiều lên rất nhiều. số lượng cung càng nhiều, giải đoán càng phức tạp. nếu thêm sao lưu nữa thì càng nhiều sao lưu thì các cung chứa chấp nó cũng bị lôi cuốn vào việc giải đoán. Xuất phát từ thực tế này thì đương nhiên người giải tử vi phải nghĩ tới là làm giảm tối đa sự phức tạp do quá nhiều cung liên hệ. Đây là giải pháp thường lý. Có thể đúng, có thể sai. Nên muốn khẳng định nó là đúng đắn thì phải chứng minh, phải lập luận có lý.

Thế nhưng việc quy thành cung trọng điểm, nhiều trường hợp tự nhiên thành. Như ví dụ trên, khi nhập hạn canh tý, đương nhiên cung thìn là quan vận. việc giải đoán liên quan điến quan nghiệp, đương nhiên phải lấy quan vận cung, quan cung trong sự phối chiếu của các cung tam hợp, xung chiếu - như là lẽ thường tình, một nguyên tắc bất di dịch. Nguyên như vậy, ít nhất đã thấy có 8 cung tham gia luận đoán. không tính đến nhị hợp cung mà đã như vậy. Vì thế thực tế việc lấy cung trọng điểm, mà nếu luận đoán hợp lý, thì như trên đã thấy, thực chẳng có ý nghĩa gì. cho dù ta cứ phát biểu rằng chỉ có hai cung là trọng điểm mà thôi. Rõ ràng, nếu cứ cho là phải có cung trọng điểm, nhưng thực tế giải đoán, chúng ta chẳng thu được cung trọng điểm gì cả. Chưa nói đến áp dụng thái tuế nhập quái thì cung có thái tuế nhập không bỏ qua.

Cho nên, theo tôi, nói là cung trọng điểm, nhưng thực chất chẳng có trọng điểm gì cả. Đó chỉ là phép nói chữ, tự mình làm quan trọng hóa phương pháp bằng ngôn ngữ mà thôi.

Thực chất, muốn giải đoán, phải theo đúng phương pháp về cách cục, chế hóa một cách toàn diện, chứ không thể áp dụng những suy diễn thường lý mà ép cho lý số phải thực hiện những suy nghĩ thường lý đó. Đó là phương pháp sai trong nghiên cứu tử thường rất hay gặp.

Thân ái.

...

Tôi phân tích cho rõ để thấy bản chất của vấn đề nhé.

Trích:

(1) hai người quen nhau năm Ất Hợi.

(2) Bạn gái sinh năm Mậu Thân, nhập vào lá số của B, chúng ta sẽ tìm ra được cung trọng điểm đối với chuyện tình cảm này là cung Thân.

Lý do như sau:

1. Hiện nay là đại hạn Canh Tuất, can Canh Thái Dương hóa lộc do Tý hội nhập đại hạn phu thê cung Thân, khiến nó được cát hóa (trở nên tốt lành).

2. Năm kia (Ất Hợi) quen nhau, can Ất Thiên cơ hóa lộc cũng do cung Dần hội nhập cung Thân.

3. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, đem nhập vào lá số, thủ tọa cung Thân của lá số.

4. Vào đại hạn khi quen nhau cũng như năm quen nhau, thiên can hóa lộc ảnh hưởng mạnh nhất là cung phu thê của đại hạn còn cung phu thê tiên thiên cũng như lưu niên đều không có biểu hiện rõ ràng. Thêm vào đó, cung vị nhập quái của bạn gái cũng là cung Thân. Vì thế, chúng ta nên chọn cung Thân là cung trọng điểm để đi sâu phân tích.

Đại vận canh tuất, đương nhiên phu thê vận là cung thân! Vì thế khi xét vấn đề liên quan đến hôn nhân bắt buộc phải xét phu thê vận.

Đại vận Canh thái dương hóa lộc tại Tý chiếu lên cung thân, lý rằng bảo đó là tốt - cát hóa - thì không có mấy chất lượng, bởi vì thái dương hóa lộc mà tốt thì tại mệnh tốt hơn nhiều so với cái cung vận - thân cung. Hà cớ gì lại bảo cung thân tốt do thái dương được cát hóa. Đương nhiên thái dương chiếu lên thân cung thì thân cung cũng được "hưởng" do nó là vô chính diệu được thái dương chiếu theo lý tọa không bằng chiếu của nhật nguyệt. Nhưng thực thì không phải bởi vì thái dương ở tý là hãm địa, cái lý tọa không bằng chiếu chỉ đúng với chính nhật nguyệt, chứ khi đã hóa rồi thì thái dương không còn nguyên vẹn là thái dương nữa, nên cái lý tọa không bằng chiếu không chính xác. hơn nữa, nếu tọa không bằng chiếu thì thái dương hãm chiếu lên thân cung vcd sẽ làm thân cung kém đi. Suy lý thì phải như vậy, nhưng tôi cũng không cần đến cái lý đó vẫn có thể cho thấy lấy thân cung làm trọng điểm chẳng có cơ sở.

Lại thấy thiên cơ hóa lộc thì cho rằng thân cung tốt lên, nhưng thiên cơ tại dần hóa cát mà tốt thì dần cung tốt hay hơn là thân cung tôt. bởi cùng lúc nó chiếu thân cung - phu thê vận - lại chiếu tam hợp cung phu thê cố định. Hà cớ gì lại cứ phải lấy cung thân cho được, mà không thấy cung dần hay hơn, hơn nữa cung dần chính là phúc cung cố định, đồng thời tam hợp với thê cung cố định thì khi sáng sủa phạm vi tác động của nó rộng hơn rất nhiều, nên những cách cục tốt xuất hiện ở nó sẽ cho thấy dễ dàng hơn, và việc luận đoán cũng rõ ràng hơn nhiều, thay vì thân cung cứ phải cố ép cho nó là tốt.

Điểm nữa vô cùng quan trọng là tất cả những cái gì gọi là hóa cát, là tốt thực thì chỉ là những cái tốt chung chung, chẳng liên hệ gì với những cách cục hôn nhân, tình cảm yêu đương trai gái cả. Nếu cứ dựa vào những cách cục đó để mà giải đoán những tiêu chí hôn nhân, tình cảm thì đúng chỉ là bói dựa, nói mò thôi. Muốn giải đoán về hôn nhân, bắt buộc phải tìm đến cách cục hôn nhân, tình cảm, cách cục về hạnh phúc gia đình, về dịch chuyển. Chứ các cách cục trên chỉ là cách cục được hóa cát - đấy là ép cho rằng chúng hóa cát, chứ thực ra có hóa cát thật hay không thì phải xem cụ thể, chứ không phải thấy hóa lộc, quyền khoa rồi cho là hoa cát, hóa thành kỵ thì cho hóa hung đâu! xét phiến diện như vậy thì hoàn toàn sai lầm.

Vì thế những lý do biện minh cho việc lấy thân cung làm cung trọng điểm không đủ trọng lượng. Thêm nữa khi giải đoán, thực chất vẫn phải lấy các cung tam hợp và xung chiếu của nó, mà chính những cung đó mới là những cung gốc của cái tốt, chứ không phải cái cung thân mới là cung tốt. duy nhất phải chú trọng thân cung vì cô gái tuổi thân, phu thê vận nhập thân cung. Nhưng như thế, việc lấy thân cung để giải đoán là đương nhiên, cũng như các cung nhập vận khác, chẳng phải vì thế mà bảo nó là cung trọng điểm.

Thân ái.

...

Tử Vi chế được tính hung ác của Hỏa, Linh. Đây có phải cái lý "chế" mà chú muốn nói đến? Nếu như vậy thì vì sao Tử Vi lại chế được Hỏa, Linh? Nếu lấy lý ngũ hành, Hỏa Linh là hành hỏa sinh xuất cho Tử Vi hành thổ nên bị Tử Vi khắc chế, nếu vậy tại sao Tử Vi lại sợ Không Kiếp?

Còn "hóa" phải chăng chú muốn nói đến Tứ hóa.

Tử vi đúng là chế được hỏa - linh, là một ví dụ về cái gọi là chế!

Nhưng sự Chế không phải là cái lý sinh khắc của ngũ hành. Rất cần phải lúu ý tới vấn đề này. Đừng nghĩ rằng cái cực chế nó có bản chất khắc chế của ngũ hành. Ngay cả chuyện như chuyện khắc chế tam hợp của ngũ hành như phái thiên lương phát biểu là hoàn toàn không hiểu gì về bản chất tương tác của ngũ hành. Ngũ hành có sinh có khắc. Như hóa - thủy khắc nhau, thì người ta nói thủy khắc hỏa. Đó là khi thủy hỏa Gặp nhau thì cái sự khắc mới xảy ra. Chứ trên thiên bàn lá số, tam hợp, chẳng hạn thân - tý - thì là thủy, dần - ngọ - tuất là hỏa mà lại bảo là thân tý thìn khắc thắng dần ngọ tuất? Thế nào là khắc thắng? chúng có gặp nhau đâu mà khắc. Vận hành của chúng là vận hành theo cung số, chứ đâu có trực tiếp khắc nhau đâu. Như vận hành của bốn mùa vậy! Theo vận hành đó, sinh khắc đều tác dụng, nhờ vậy mà bốn mùa biến hóa. Có đúng vậy không! Vì thế mà khi cố gắng áp dụng cái lý sai trái đó vào gaiir đoán, như nói, do thủy khắc hỏa, nên nếu mệnh ở trong tam hợp hỏa thì thua thiên ri ở trong tam hợp thủy. Vì thế người có mệnh như vậy thì ra ngoài sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi, thua thiệt.

Đó là những giải đoán không thực. Hoàn toàn mang tính chủ quan, xuất phát từ nhận thức sai lầm.

Thân ái.

...

Tôi có lưu ý nhỏ với các bạn quan tâm tới lý mệnh chủ;

Trước hết cần hiểu rằng, mệnh chủ – có thể gọi là sao treo, trong một nghĩa hẹp – không phải, và cũng không dùng để ĐOÁN số, mà chỉ được dùng để GIẢI số. Nên khi các bạn thấy tôi xác định được mệnh chủ rồi thì chớ có dùng nó luôn để phục vụ cho việc đoán số, như đoán hạn, đoán việc, đoán hôn nhân, đoán thăng quan tiến chức, đoán phát tài,... chúng ngẫu nhiên được dùng, là bởi vì trong một số trường hợp, nó trùng với chủ cung, hay sao rung mà thôi. Lưu ý này rất quan trọng!

Sao rung khi Rung, không phụ thuộc vào vị trí nó đóng mà phụ thuộc vào vận trình. Vì thế, ở bất cứ cung nào, ở mỗi vận đều có thể xuất hiện sao rung. Không cần cung đó có là cung trọng điểm hay không trọng điểm. Không cần cung đó có liên hệ với cái cung có cái tên liên hệ với việc luận đoán hay không! Chảng hạn, sao rung có thể ở cung nô vận mà không nhất thiết xuất hiện ở cung quan vận cho dù ta đang xét về sự nghiệp. Hoặc cũng cùng một lúc trên nhiều cung, kể cả cung nguyên thủy, cũng như cung nhập vận đều có thể xuất hiện sao rung.

Về nguyên tắc, lý mệnh chủ có thể "hòa nhập" vào hầu hết các phép giải đoán. Cho nên, cung trọng điểm, nếu tồn tại thì sao rung cũng hoàn toàn có thể xuất hiện trong cung trọng điểm. Nhưng nếu lý cung trọng điểm đúng, đương nhiên phải có một mệnh đề: Ở mỗi cung trọng điểm, sao rung chắc chắn sẽ xuất hiện.

Một khi lý cung trọng điểm đúng đắn, thì mệnh đề trên sẽ rất quan trọng, có vai trò như một định lý vậy!

Vì thế, điểm quan trọng là phải chứng minh: Thật sự có cung trọng điểm!

Việc xem xét cung vị như là một sao, đứng về ý tưởng, có thể xem là đột phá. Nhưng về lý thuyết, thật khó chấp nhận. Chúng ta có thể chứng thực được, bằng hình ảnh sau: xét vật thể chuyển động trong không thời gian. Để xác định trạng thái của vật – cơ học cổ điển – thì ta phải có một cặp tọa độ và tốc độ của vật được xác định. Việc đồng nhất cung với sao chẳng khác gì ta đem đồng nhất vật thể chuyển động với tọa độ không gian mà không lý gì đến chuyển động của nó. Nôm na là như vậy. Chưa nói đến đối với lý học đông phương, những quan hệ như vậy thì biện chứng hơn rất nhiều so với quan hệ siêu hình như thế trong cơ học cổ điển. Chúng biện chứng tới mức, có trời mà cũng có ta!

Thực chất, phép luận giải theo cung trọng điểm, nếu tồn tại, thì sẽ làm đơn giản bài toán giải đoán số tử vi đi rất nhiều. Nếu xem xét nó bằng tư duy vật lý thì chẳng khác gì ta giải bài toán nhiều vật bằng lý thuyết trường hiệu dụng vậy! Vì thế nếu như muốn học, hay nghiên cứu về cách giải đoán tử vi, với những người cứ tự nhiên cho rằng nó có cung trọng điểm thì mặc nhiên nghiên cứu. Với những người thận trọng, mỗi bước đi là một bước khẳng định, thì việc khẳng định sự tồn tại của nó là bước khởi sự!

Nhưng muốn khẳng định, đòi hỏi người nghiên cứu, hay giải đoán phải nắm vũng kiến thức tử vi, kỹ thuật giải đoán cơ bản. Có như thế mới có thể có nền tảng để phán xét.

Như nói về cô Kha!

Chúng ta hãy đọc bài dịch của gấu trắng. Thông tin về cô Kha cho thấy cô ta là người thoải mái trong chuyện tình cảm, có tính đồi hỏi cao trong chuyện chăn gối. Trong giao tiếp thì cởi mở như đàn ông... tựu trung, nhìn trên lá số, ta không cần phải vận dụng đến lý mệnh chủ, cũng không cần phải thái tuế nhập quái, hay lưu tứ hóa,...mà chỉ bằng phép hội sao thông thường cũng có thể phân tích được lá số này một cách khá kỹ lưỡng. Hơn nữa, nếu chúng ta đọc kỹ về lý luận các sao, cách cục của tác giả này thì chúng ta sẽ phát hiện thấy kiến thức về tinh đẩu của ông ta có vấn đề. Vì thế trong nhiều trường hợp, biến cố cũng như tính tình của cô Kha đã rõ ràng và rất tự nhiên thì tác giả lại thấy cứ như là mới, sau khi luận ra, lại cứ tưởng đó là kiến thức mới lạ, do mình sáng tạo ra vậy.

Thật vậy, như nói về sao tham lang. Vốn tham lang là Phiếm Thủy Đào Hoa. Là một Đào hoa tinh với tính chất của đào hoa hội với riêu, hình thậm chí trong nhiều trường hợp gia giảm còn mang thêm tính chất hội tụ của kình đà nữa. Bởi vậy, cách tử tham, thì chúng ta đều rõ là tử vi bị tham lang làm hỏng, nên mới nói đào hoa phạm chủ. Tự nhiên với cách này, thân cư thiên ri là người hướng ngoại, ngộ kình dương hãm địa thì làm tình có phần phóng túng, có thể nói là Dâm, thậm chí việc làm tình có tính chủ động và bạo. Anh chàng nào yếu bóng vía mà gặp cô này thì chỉ được ba bữa là chạy mất dép, hi hi... Trong tam hợp thấy cô quả hội đủ sát phá liêm tham gia thêm đào hoa, kình tại thiên ri thân cư thì khỏi cần nói ai sống với cô này cũng hoảng tam tinh, chạy như thoát hoan chui ống đồng ba năm sau cũng còn tim đập chân run, chứ đừng nói là ở chung với cô ta. Thêm nữa xương khúc gặp triệt lại ở quan nữa thì cái nghề cua trai cũng là một sở thích mang tính nghề nghiệp, nhưng sự bất như ý - bởi triệt – thì tính lãng mạn do xương khúc quy định càng mất đi, lòng dục lại càng bốc cao, sự thực dụng lại càng mạnh mẽ. Tính chất này mà mang vào đời sống chức nghiệp thì nó lại càng ghê rợn, khiến người ta phải xa lánh. Vì thế cô ta dính cô quả, hội hợp với các cách cục trên là cái sự cô độc của "trái táo thối" chứ đâu có hàm oan cái gì. Lại thêm kình đẩu quân thì tính tình lại càng khắc nghiệt, hành động càng bất chấp đạo lý. Cứ xem xét cụ thể thì càng thấy có nhiều cách cục hội tụ làm gia tăng ý nghĩa này của cô ta. Nếu ta lấy mỗi cung nệnh là cung trọng điểm mà phớt lưof các cung khác thì thực khi giải đoán đã bỏ sót rất nhiều đặc trưng của con người này, cũng từ đó đi đến khó có thể giải đoán được những uẩn khúc trong con người cô ta, cũng như việc xem xét vận hạn sẽ rơi vào phiến diện vậy.

Ta thấy những kiến thức trên hoàn toàn phổ thông, là những kiến thức có sẵn, hoàn toàn không mới, nhưng tác giả lại luận giải cứ như là những kiến thức mới, từ việc xem tham lang như sinh ra tính đào hoa, nào là tử vi thiếu vắng tả hữu khó tránh khỏi làm việc cô độc, trong khi đó thì cô quả, đẩu quân hội tụ đầy đủ. Mà thực chất tử vi dẫu có thiếu vắng tả hữu đi nữa thì cũng là đế tinh, bản chất của nó là người nào ăn vào sao này đều có tính quảng đại, quần chúng. Có tả hữu giúp vào thì trở thành người lãnh đạo, có tinh thần xã hội cao, luôn có quần thần, người trợ thủ đắc lực. Chứ không phải thiếu vắng là trở thành người cô độc!. Cần chú ý điểm này vì rất dễ đưa người giải đoán đến chỗ nhầm lẫn lung tung, không phân biệt được chính xác tính tình, hay thái độ, cũng như tư cách của đương số.

Cho thấy việc cố ép cho có một hay hai cung trọng điểm gì đó tự nhiên xuất hiện rất nhiều bất cập trong giải đoán, cũng như ngộ nhận nhiều về lý thuyết, kiến thức tử vi vì thế cũng bị tự mình bóp méo mà không biết!

Thân ái

...

Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khi giải đoán, trong rất nhiều cung liên quan người ta nhận thấy có một số biến cố, thông tin về đương số lại thấy đầy đủ khi khảo sát trên một cung trong số các cung liên quan. Có lẽ vì thế mà có sự suy đoán về sự tồn tại của cung trọng điểm chăng?

Có điều từ một vài trường hợp như thế, việc suy tổng quát mà không chứng minh là một việc thiếu thận trọng. Và như chúng ta đã thấy, có thể đưa đến sai lầm, ngộ nhận trong việc giải đoán. Thậm chí do gượng ép mà nảy sinh ra những quái thuyết!

Thân ái.

...

Chú Vuivui có thể giải thích cho cháu hiểu sự khác nhau giữa GIẢI số và ĐOÁN số từ quan điểm của lý thuyết Mệnh Chủ được không, vì rằng cháu thường nghĩ về giải và đoán là một, có điều giải là nói về quá khứ, đoán là nói về tuơng lai.

Vì rằng cháu rất quan tâm và tò mò về lý thuyết sao rung, nhưng không biết chỗ nào để có thể học về nó, chú có thể kiểm định một giả thuyết như sau:"Trong lá số, cung trọng điểm chính là cung mà sao treo/rung xuất hiện.".

Giải, là quá trình tìm ra cách cục để đoán. Bởi như đã nói, giải đoán tử vi thế nào cũng phải tìm cho ra những cách cục để mà luận được số. Cũng như giải một bài toán vật lý vậy, kiểu gì cũng phải tìm được nghiệm hay đáp số của bài toán.

Đoán, là lý luận, tìm ý nghĩa, thông tin trên cách cục đã được tìm ra đó. Như dựa trên công thức nghiệm của bài toán mà ta đi phân tích ý nghĩa của nó.

Chỉ thế thôi, nhưng từ trước đến nay, mọi người cứ hay gộp chúng làm một, không để ý đến điều tự nhiên này.

Lý thuyết sao rung là của phái đông a, như đã biết, phái này giấu tuyệt các tri thức về tử vi của họ. Ngày trước, tiền nhân tôi, không biết có học được từ phái này không, tôi không được biết. Nhưng tôi được truyền lại, và sau đó phát triển. Kể thì cũng xem như là của gia truyền vậy. Khi tiền nhân mất đi, cũng không cho phép công khai những gì tôi được học. Nay chỉ có thể nói ra những gì thuộc về vòng ngoài cùng, cũng như là câu chuyện trà dư tửu hậu vậy. Để cho mọi người biết là... có cái ấy, chứ không thể hiểu được nó là cái gì vậy.

Mà tôi cũng nói thực, có muốn hiểu thì cũng phải học tới mấy tầng lý học đông phương mới có thể năm được phương pháp. Cho nên, thực cũng áy náy khi nói ra những điều này mà không giúp gì được. Nhất là những người như Gấu Trắng, có lòng với học thuật đông phương. Hơn nữa lại cùng nghề với tôi, mà tôi thì biết rằng nếu thấm nhuần lý học đông phương thì với kiến thức vật lý toán của gấu trắng, chắc chắn cống hiến khoa học vật lý cũng như triết học sẽ rất nhiều. Đơn cử như trả lời câu hỏi: Thời gian là gì?.

Quả thực, tôi, lực bất tòng tâm.

Thân ái.

...

Giả thuyết như sau:"Trong lá số, cung trọng điểm chính là cung mà sao treo/rung xuất hiện.".

Nên sửa một chút: Bỏ chữ sao treo.

Về hình thức thì giả thuyết này cũng hợp lý. Thậm chí nó còn mạnh hơn mệnh đề: Ở mỗi cung trọng điểm chắc chắn có sao rung xuất hiện. Bởi vì giả thiết trên dựa vào sự tồn tại của sao rung mà khẳng định về cung trọng điểm. Trong khi mệnh đề chỉ đúng khi mà có sự tồn tại của cung trọng điểm mà thôi. Cho nên nói, về hình thức khi chấp nhận cung trọng điểm thì giả thuyết của gấu trắng cần phải xem khái niệm cung trọng điểm mạnh hơn khái niệm sao rung, khi ấy thuyết này mới có ý nghĩa.

Nhưng như thế, trong nhiều trường hợp thực tế, một sự việc, hay biến cố - nôm na là thông tin - lại không thể dùng một cung mà giải đoán được. Sao rung cũng vậy, khi có nó, nó lại cần "nhìn" ra nhiều cung mới cho được thông tin cụ thể. Như tôi đã nói, lý mệnh chủ rất tương thích với phép hội sao. Nhưng với cung trong điểm, theo các phân tích trên thì không được tương thích như đúng với đánh giá về cung trọng điểm so với sao rung!.

Theo tôi, nên xem xét kỹ vấn đề này. Mặc dù nó không phục vụ cho việc giải đoán, nhưng lại rất lợi ích cho việc nghiên cứu bản chất lý thuyết tử vi.

Thân ái.

...

Đối ngẫu Langland - tử vi về hình thức thì thì có vẻ như chấp nhận được. Ở góc độ toán học, người ta chấp nhận bởi vì người ta xét được nó về bản chất. Bởi vì có tồn tại những đối xứng xác định, chẳng hạn như đối xứng gương,... Đối với tử vi, thực ra cũng có hàng loạt những đối ứng có thể gán ghép đối ngẫu langland một cách hình thức. Nhưng cách gán đối ngẫu mà Gấu Trắng đưa ra ở trên có vẻ bất hợp lý. Đơn giản chỉ vì giữa bắc phái và nam phái, có một phái đúng và một phái sai!. Chỉ bởi vì tử vi hiện nay chưa làm cho người ta công nhận phái nào đúng, phái nào sai. Nên các cuộc tranh luận mới đi vào ngõ cụt. Chỉ khi nào bài toán thiết lập "phương trình tử vi" được công bố, và những phương pháp giải đoán được phát minh trên những kiến thức phương trình tử vi - như phép giải các phương trình vật lý toán vậy - thì ta mới phân biệt được phái nào đúng, phái nào sai. Chứ không phải dựa vào truyền thuyết mà cãi nhau.

Khi ấy người ta sẽ vứ bỏ phái sai. Và chỉ còn lại một phái mà thôi.

Tôi thấy không có chuyện thống nhất hai phái nam và bắc được đâu!

Thân ái.

...

Bắc phái và nam phái, có một phái đúng và một phái sai

Tại sao lại có thể nói vậy?

Vấn đề này sẽ rất dễ trả lời khi lý thuyết lập "phương trình tử vi" được trình bày. Nhưng hiện nay, lý thuyết đó chưa được thể hiện thì lấy cái gì để khẳng định có một phái sai, một phái đúng?! rõ ràng là khi nói một sai, môt đúng, người ta sẽ hỏi ngay, phái nào sai, phái nào đúng? Đó là đòi hỏi tự nhiên. Nhưng câu trả lời khi mà chưa có lý thuyết vừa nói thì sẽ không tự nhiên chút nào, nên chỉ có thể khẳng định được sự đúng sai của chỉ một phái.

Đó là vì, hai phái này có mâu thuẫn rất lớn, mang tính nền tảng. Có tính chất phủ định lẫn nhau. Thật vậy, mỗi phái đã khẳng định độ tuổi trưởng thành, lập thân khác nhau tới 10 năm, xác định bởi một đại vận!

Nam phái xác định tuổi lập thân từ 22 tới 36. Trong khi đó bắc phái xác định tuổi lập thân từ 12 tới 26. Chính xác từ thực tiến ta không thể xác định tuổi lập thân từ 12 tuổi cho tới 36 tuổi được. Theo mọi quan điểm, từ cổ xưa tới hiện đại, bằng vào các nghiên cứu sinh lý tuổi trưởng thành, thì các chứng cứ khoa học ủng hộ tuổi lập thân từ 17 đến ngoài 30 tuổi. Sớm hơn hay muộn hơn cũng chỉ 1 hoặc 2 năm mang tính chất thống kê. Chứ không thể trải rộng từ 12 tới 36 tuổi. Điều này đi tới kết luận rằng, cung nhập hạn cho tuổi lập thân phải phù hợp với thực tế. Nhưng sự phối hợp cả hai phái không chấp nhận sự phù hợp này, buộc phải loại trừ một phái.

Mặc dù chúng ta dễ thấy rằng, tuổi lập thân cho tới 36 tuổi dễ chấp nhận hơn khởi từ 12 tuổi. Bởi lẽ 12 cho tới 15, thực tế cho thấy người ta còn nhỏ quá, các nghiên cứu tâm sinh lý đều cho thấy ngoài việc chưa vào tuổi dậy thì, còn các mặt tâm lý, sinh hoạt đời sống cũng không đáp ứng các tiêu chuẩn tâm sinh lý của tuổi dậy thì. Hơn nữa theo thống kê, những trường hợp ngoại lệ vào tuổi dậy thì, trưởng thành, khả năng thân tự lập thân cũng rất nhỏ so với thống kê ngoài 36 tuổi còn đang đầy đủ các tiêu chuẩn tráng niên - bởi còn có giai đoạn hồi xuân chờ trước mặt.

Đó là xét vòng ngoài, trên các tiêu chuẩn của khoa học khác nhìn vào tử vi. Cũng là phép nhìn từ "ba chiều" vào "hai chiều" vậy.

Đấy là một ví dụ!

Thân ái.

...

Chúng ta có thể nhận xét sơ bộ trong phần giải đoán cho vị Sư Huynh nọ, tuy tác giả đặt trọng tâm tới lý của cung trọng điểm. Nhưng có thể thấy là dường như trong luận đoán, tác giả đã "quên" mất mà không tập trung sử dụng cung trọng điểm trong giải đoán! Thanh thử, việc phân tích về phép sử dụng lý cung trọng điểm là không còn ý nghĩa.

Nhưng nhân đây, gọi là trà dư tửu hậu, chúng ta nghiên cứu lối đoán của tác giả thêm cho vui.

Như tác giả viết:

Trích:

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ. Tuy nhiên, do sự tác động của Liêm Trinh hóa kị, vận thế bình ổn, thuận lợi trước đây sẽ này sinh một chút dao động khiến đương số có ý muốn thay đổi).

Đại hạn tọa quyền hội lộc và đại hạn hóa kỵ tự nhiên (tự nhiên nhi nhiên) sẽ khiến đương số kiên trì hơn người khác trong công việc (?).

Xem ra lối đoán của tác giả về đại vận này có phần khác lạ. Thật vậy, như chúng ta đều rõ, đại vận này thấy có cách sát phá tham hóa quyền gặp tả phù. Tọa cung là cách phá quyền tả phù miếu địa thì có thể thấy ngay được đó là đại vận nhiều xung động - do hung sát tinh miếu vượng thủ - nhưng có nhiều lợi ích bất ngờ. Cái cách hung tinh miếu thủ thì bao giờ chả thế, dẫu có hung sát tinh lâm nhập miễn là sáng sủa thì đều hay cả, là cách anh hùng thời loạn chứ có gì đâu mà phải viện dẫn do liêm trinh hóa kỵ không hình thành hung cách nên không gặp điều dữ? Kỳ thực thì liêm hóa kỵ hội tang linh hổ khốc hư là bại cách, đối với liêm trinh mà hóa kỵ thành cách này thực chất là hung cách, một trong những cách đại xấu, khi mà cung tật ách hội đủ Cự Hình Hao Kiếp Không. Vậy mà tác giả lại nói ngược. Lấy cái cách ép cho không thành hung cách để mà "hóa giải" cái đại nạn này.

Nên nhớ, vào đại vận bính tý, bính đồng cơ xương liêm. Liêm hóa kỵ, đồng thời kình nhập ngọ thuộc cách mã đầu đới kiếm, không là hung cách thì là cái gì, đà la lưu nhập thìn hội chiếu về thì phá quân thủ tại đại vận nơi tý cung thành cách hung phá kình đà liêm kỵ tang hổ là đại hung cách. Chả hiểu sao người ta cứ hay lờ đi nhỉ. Phá quân ở đây miếu địa, hội đủ hung bại tinh hãm, liêm hóa kỵ là cách sát tinh. Tác giả lại muốn giải thích, hay luận đoán bằng cách không muốn hung họa cho người sư huynh này chăng khi mà lấy cái cơ liêm hóa kỵ không hội hung sát thành hung cách?

Cái lý đoán kiểu này, may mà trúng? hay là còn có cái gì đó giấu nghề, có ngón giải đặc biệt, hóa giải hung cách này mà không nói ra chăng?. Chứ mà cứ đoán như thế, hậu học làm sao mà học cho nổi?

Thực ra nhìn vào đại vận này thấy ngay được là sự nghiệp hanh thông, tấn phát, nhưng ra ngoài có va chạm, hung hiểm, thị phi và tranh đoạt. Cuộc sống trong giai đoạn này như con thuyền ra khơi xa, giông tố, nhưng có tay lái vững vàng, thuyền to không ngại sóng lớn. Cái hóa giải là ở chỗ chủ cung mạnh, hợp cách cục, cùng với phúc tiên thiên và phúc vận tương hợp, biến hung thành cát. Chứ đâu cần phải khuyên người sư huynh nọ phải đối đãi phải đạo hay khuyên nhủ sư huynh thế này thế nọ với người sinh năm 41 đâu. Tự số nó thế, gặp hung hóa an, gặp nguy hóa lành ở nơi xa, ra ngoài là như vậy.

Mọi người cứ ngẫm kỹ mà xem có phải vậy không? có cần phải viện dẫn những lý giải rất mơ hồ như vậy không. Cố tình không nhìn thấy cái nó phải nhìn thấy to đùng.

Mới chỉ lược đại vận đã nhận thấy lối giải đoán gượng ép. Chúng ta nên kỹ lưỡng khi đọc.

Thân ái.

...

Bạn đọc thân mến.

Tôi không có thời gian để vô đây phân tích chi tiết. Tuy nhiên chúng ta cũng dễ thấy được vài điều, mà nếu theo yêu cầu xác định để có cung trọng điểm và cung trọng điểm là quan trọng đối với luận đoán. Khiến nó trở thành một phương pháp thì tôi cho rằng không hợp lý. Như các bài trên tôi đã chỉ ra những điểm mà không cho chúng ta thấy vai trò của cung trọng điểm. Bài này, sau khi Gấu Trắng đã post xong phần dịch về luận đoán cho sư huynh của tác giả, chúng ta hãy nhận xét thêm vài điều cho rõ ràng hơn.

Như trên, khi luận đại vận bính tý, tác giả đã có ý kiến với cung ngọ, và cho rằng nó không hình thành hung cách, dù có liêm trinh hoá kỵ.

Trích:

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ.

Nhưng tôi đã có phân tích rằng thực theo lý luận đoán thì cung ngọ ở đại vận bính tý đã phải phát sinh hung cách với cách cục: Liêm hoá kỵ ngộ Kình lưu (lưu của đại vận) gia hội Tang môn hổ linh khốc hư. Cách cục này không thể bỏ qua.

Sau đó, khi luận vào tiểu hạn lưu niên bính tý – năm 1996, tác giả lại cho rằng:

Trích:

(4) Lưu niên Bính Tý, can Bính lại khiến cung Ngọ hình thành hung cách. Do đó phát sinh việc bất hòa với cấp trên.

Vậy là sao? Làm sao có thể tác giả lại để xảy ra sự mâu thuẫn như vậy? Đại vận bính tý, và tiểu vận bính tý cùng với lưu sao là như nhau, mà với đại vận thì không thành hung cách, nhưng tiểu vận thì có hung cách. Phải chăng tác giả đã cho rằng đối với đại vận, chỉ cho phép dùng lưu tứ hoá, còn ở tiểu vận lưu niên thì ngoài dùng lưu tứ hoá còn có 9 sao lưu động nữa? Một điểm chúng ta khó chấp nhận.

Điểm nữa, khi xác quyết đại vận bính tý, cung ngọ hình thành hung ccách đưa tới sự giải đoán chuẩn mực hơn khi giải ra được đại vận vùa hung vừa cát. Là đại vận xung động, có nhiều thăng tiến, sự nghiệp hanh thông đồng thời cũng xảy ra những hung ách như lời đoán của tôi trước hai bài luận cụ thể về vị sư huynh nọ. Đến đây, các bạn có thể tự đánh giá vấn đề!

Nói về cung trọng điểm. Tác giả xác quyết cung ngọ và cung tuất là hai cung trọng điểm khi giải đoán. Chủ yếu, ví dụ như năm bính tý, tập trung luận về hung cách. Nhưng thật sự có phải như vậy không?

Ngay khi luận đại vận, tác giả đã nêu một tiêu chuẩn khi xem về vấn đề quan hệ trong công tác của đương số và xác quyết rằng luận về vấn đề đó phải xem cung thiên ri. Ở vận nào thì phải xét thiên ri của vận đó. Đại vận bính tý, ri vận là cung ngọ! Dựa vào đó nên tác giả đã tập trung vào giải đoán cung này!

Thế nhưng ở lưu niên bính tý, tác giả lại lưu tâm tới cung tuất, nhưng lại muốn giải đoán về đúng cái hung ách mà tác giả đã cố lờ đi khi cho rằng cung ngọ của đại vận bính tý không hình thành hung cách. Để rồi bây giờ, ở tiểu vận lưu niên bính tý lại cho rằng cung ngọ hung cách xuất hiện, dodòng thời cùng xử lý trên cung tuất và cho rằng cung tuất lúc này:

Trích:

(5) Lưu niên Bính Tý, đương số và cấp trên nảy sinh bất hòa, lúc này cung Tuất cũng hình thành các hung cách như “Linh Xương La Vũ’, “Hình nhân giáp ấn”...

Thứ nhất, tác giả không nhất quán. Bởi sự việc cũng vẫn là giải đoán về quan hệ công tác. Nhưng ở trên thì xét thiên ri vận của đại vận, nhưng tiểu vận lại xét mệnh vận! Tại sao không xét thiên ri vận của vận lưu niên bính tý này? Phải chăng do tác giả nhìn không ra cácch cục hung cách, mà chỉ xảy ra ở năm bính tý mà thôi?

Tôi cho là như vậy. Vì thực ra chỉ cần xét ri vận của hai loại vận là thấy rất rõ. Đó là cách Đà (lưu) Tuế tại ri vận lưu niên ở cung thìn. Phối hợp hai vận cùng can chi làm tăng hệ số lên gấp bội do hội cùng cách hung đã xác quyết thông tin về năm bính tý, từ đó co thể kết luận qua năm bính tý, cách cục này biến mất, cùng với mệnh của đại vận mạnh mẽ như vậy thì đương nhiên hung ách mau chóng qua đi! Cần già mà phải viện tới cách linh xương la vũ – cách hung cố định, đâu cần phải vào năm bính tý mới có để mà nêu ra? Về thực tế thì sao! Cách linh xương la vũ này không phải là hung cách để mà đem nó luận vào biến cố như thế này. Cách này chỉ là sự cản trở, không may mắn. Là mồi châm cho các loại hung ách trên đời. Mang tính xung động một cách tiêu cực, chứ không đưa người có số tới tai hoạ. Nhưng Đà Tuế là cách ẩu đả, tranh đoạt và thị phi nặng - sách đã dẫn, TTL -, khi tại tài vận ở ngọ chiếu về tuất, hung cách liêm hoá kỵ cùng đà tuế chiếu qua chiếu lại do hai lần bính tý đã đủ đưa người có số gặp biến cố trên rồi.

Sẽ lại càng mơ hồ hơn nữa khi muốn xác định cung tuất làm cung trọng điểm để mà lân la luận cho năm giáp tuất. Bởi sự vận hành của thời gian đâu có ngưng đọng tại chỗ nào?

Còn lý luận để minh chứng hai cung là cung trọng điểm thì như các bạn đã thấy. Gần như tác giả đã luận xong bao nhiêu cung rồi, luận hết tiêu chí bằng việc sử dụng tất cả các cung liên hệ. Sau rốt mới đề ra cái gọi là cung trọng điểm. Mà kỳ thực, trong lập luận đã cho thấy sự gượng ép. Nếu thẳng thắn, khách quan luận đoán một cách tự nhiên, thì cung trọng điểm người ta đã thấy: Đó là Ri vận! Chỉ vậy thôi!Chẳng thể là hai cung như tác giả đã chỉ ra.

Nhưng đó là luận giải tự nhiên, chẳng cần quan tâm gì tới cung trọng điểm cả. Xét mỗi bài toán, sẽ có những chú ý, phép giải thích hợp tương ứng. Vậy thôi.

Hy vọng các bạn đã nhận ra được vấn đề.

Thân ái.

...

Như vậy, thực sự là một điều rất khó hiểu, khi mà giữa Nam Phái và Bắc Phái, chỉ có một phái đúng, vì hai phái này về cơ sở sẽ loại trừ nhau hoàn toàn.

Một câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên, tại sao cả hàng ngàn năm mà hoàn toàn không có nổi một test để xác định xem phái nào đúng, phái nào sai? Chỉ cần lấy một ví dụ không tầm thường rồi giải đoán là có thể quyết đoán, mọi việc cực kì đơn giản. Trừ khi giới tử vi của cả hai bên quá bảo thủ, còn lại thì khó có thể có một lý do nào để giải thích mâu thuẫn cả ngàn năm này.

Không phải chỉ là quá bảo thủ, hơn thế nữa kìa. Là Quá Cuồng Tín về môn phái.

Đồng thời không có lý thuyết chính thống dẫn đường nên mới xảy ra tình huống: "Những người mù dắt tay nhau xuống hố!!!"

Môn phái có thể có lý thuyết chuẩn tắc như phái đông a thì giấu biệt kiến thức của họ?! Âu đó cũng là cái "truyền thống" của người phương đông! Nơi mà "quân tử là những kẻ khờ""người tốt thì phải đi tu, xuất gia nhập phật"...

Nên chẳng lạ gì, khi mà đông phương: Chẳng có thành tựu gì, ngoài việc chém giết và trấn lột của nhau!

Thân ái.

Tuần không

Tứ trụ, trong tử vi cũng như tử bình là thời gian. Nói như thế thì quá tầm thường. Nhưng sẽ không tầm thường chút nào cả khi chúng ta biết rằng. Đông phương, người ta gọi Vũ Trụ, tương ứng với người Tây phương gọi là Không gian Thời gian. Vũ là Không gian, Trụ là Thời gian. Vì thế, tứ trụ không phải là bốn cột trụ, nó là bốn mốc thời gian. Vì thế gọi là Tứ Trụ, diễn nôm là Tứ Thời. Cho nên, Tử vi cũng như Tử bình, được lập bởi 4 trụ – thời gian này. Chứ không phải là 4 yếu tố, hay 4 cột trụ nào của số mạng cả. Nó chẳng khác gì như hàm trạng thái của hệ vật lý được xác định – theo quan điểm cổ điển – là Lagrangien – là một hàm L với hai biến x và t là hai biến không gian và thời gian vậy. Ở đông phương học, yếu tố Vũ được quán xét bởi Phong Thủy. Còn yếu tố Trụ được quán xét ở các môn tử vi và tử bình. Mặc dù ở cả các môn này, cả Vũ và Trụ đều được quán xét, nhưng với phong thủy thì yếu tố Trụ ẩn, còn tử vi và tử bình thì yếu tố Vũ ẩn, mà yếu tố Trụ nổi và được sử dụng trực tiếp. Điều này, nếu liên hệ với vật lý lượng tử thì chúng ta cũng sẽ rất dễ hiểu khi chúng ta xét hàm trạng thái của hạt vi mô. Nó có nguyên nhân sâu sa, bởi ngay từ đầu đông phương học đã không coi không thời gian là tách biệt. Điểm này, Descartes đã không xét đến.

Nhưng nếu chỉ nói đến đây thì rất tầm thường, mặc dù chúng ta đã có thể hiểu tứ trụ là bốn thời – thời gian của tử vi và tử bình. Và có thể cũng thấy ngay rằng, tử vi và tử bình thực chất chỉ là hai phép biểu diễn khác nhau của cùng một bài toán. Chúng ta cũng thấy nó tựa như là sự liên hệ giữa hai biểu diễn cơ học lượng tử như biểu diễn Heidenberg và biểu diễn Srodinger vậy. Và nói theo thời đại thì tử bình và tử vi có một "đối ngẫu Langland" như là đối ngẫu Langland của hình học và đại số vậy. Trong đó, tử vi ứng với hình học, tử bình ứng với đại số.

Nói thế cho dễ hiểu đối với những ai có tây phương học.

Bây giờ ta xét thuần túy đông phương. Bởi có hiểu đó là 4 Trụ, thì mới nói chuyện đông phương được. Do Vũ và Trụ là một cặp âm dương. Vũ âm, còn Trụ dương. Vũ thì tĩnh, Trụ thì động. Đúng với mệnh đề Dương động, Âm tĩnh. Trụ của đông phương đối với tử vi, lịch pháp là sự phối hợp thiên can địa chi. Với ngũ hành, ta có ngũ hành nạp âm. Đó là hình ảnh thời gian vuông – tròn, hình vuông nội tiếp hình tròn – do trời tròn, đất vuông. Trời quay về bên phải, bao lấy đất. Ngược lại Đất quay về bên trái nằm trong vòm trời mà hình thành nên thời gian, đó là Trụ. Được lập bởi thang "đo" thiên can và địa chi. Theo nguyên lý âm dương giao phối, vạn vật sinh. Thì Trụ với lịch pháp và tử vi, mô tả thiên văn khí tượng bốn mùa, con người sinh sinh hóa hóa mà phát triển, thì đương nhiên Trụ của nó phải là sự giao phối âm dương thiên địa. Chính là sự giao phối thiên can địa chi mà thành ra ngũ hành nạp âm.

Bởi vậy, lịch pháp, tử vi cũng như tử bình, dựa trên Trụ mà ngũ hành là ngũ hành nạp âm, đã đảm bảo một tiêu chuẩn khởi đầu, khả dĩ mô tả được vạn vật bốn mùa và đời sống con người!

Nhưng đi tiếp, chúng ta sẽ thấy. Trụ là thời gian. Thời gian động, nên trôi, chảy mãi vô tận. Đông phương cho thời gian tuần hoàn viên miễn. Vậy thời về mặt hình học ta cũng dễ thấy, hình vuông và hình tròn "đều quay". Nhưng hình vuông và hình tròn thì quay không thể đồng bộ được như hai bánh xe tròn của một chiếc xe được. Thể hiện thiên can thì chỉ có 5, còn địa chi thì có 6. Chính sự "khập khiễng" thiếu khuyết này cần được bù lấp để thỏa mãn cho cái gọi là thời gian phải Động. Hay nói theo đông phương thì Trụ phải đồng bộ. Người xưa đã bổ sung sự thiếu khuyết này bằng một chữ Tuần. Mục đích là để san bằng sự lệch giữa thiên can và địa chi trong hành trình của thời gian-Trụ. Theo tây học thì chúng ta gọi Tuần là một Đại lượng. Đông phương học, có nơi xem Tuần như một Thần sát. Tử vi, xem Tuần như một Sao. Qua đây, chúng ta thấy ngay, bản chất của Tuần là Thời gian. Nên chúng ta không lạ gì Tuần là Không – sau này khi đi sâu bản chất sao của tử vi, chúng ta sẽ thấy tuần có cái nghĩa Không. Nhưng ngay ở đây, chúng ta cũng thấy Tuần là Dương, động, ứng với Không. Đối lập với Triệt liên hệ với Vũ nên âm, ứng với Vong!

Đến đây, chúng ta thấy Cơ nhân có một cái gọi rất chặt chẽ, khoa học và thống nhất. Tuần dương, nghĩa Không, và Triệt âm với nghĩa Vong. Tuần có bản chất thời gian, triệt có bản chất vũ nên triệt ứng với phương vị. Nên mới nói là triệt lộ, ngăn cách. Như nói hình ảnh: Đường đi gặp triệt là tắc. Hoàn toàn mang ý nghĩa phương hướng của không gian. Trong khi Tuần có ý nghĩa ngưng trệ, là bản chất của thời gian.

Đến đây, chúng ta có thể thấy chỉ cần hiểu đúng khái niệm mà Cổ nhân đặt cho chúng ta gọi, chúng ta cũng sẽ thấy được nhiều điều bổ ích, thấy được bản chất. Mà ở đây, ví dụ là thấy được Tuần xuất hiện là bởi cái gì. Liệu chúng ta có Dám vứt bỏ Tuần đi không luận nữa không?

Chúng ta thử vứt Tuần đi xem thế nào nhé. Có nghĩa là chúng ta đã xem thời gian đông phương không còn là vuông tròn nữa, không còn là ngũ hành nạp âm, do can chi âm dương phối hợp nữa. Tức là chúng ta đã vứt bỏ điều kiện tiên quyết để cho tử vi khả dĩ mô tả được cuộc đời của một con người!!! Tự nhiên chúng ta đã làm tử vi biến dạng đi một cách đáng sợ.

Chúng ta cũng thấy rằng, các kiến thức về Tuần ở trên, cũng như cách thiết lập Tuần là không có gì mới lạ cả. Có đầy đủ ở trong các sách. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được bản chất của Vũ Trụ là không thời gian đông phương. Là một cặp âm dương thì chúng ta mới có thể hệ thống hóa mà thấy được bản chất cũng như thấy sự cần thiết phải có nó.

Nhân đây chúng ta cũng thấy năng lực tư duy siêu việt của cổ nhân. Đã nhìn thấy sự bất đối xứng âm dương của Vũ Trụ và xuyên qua nó mà xây dựng nên một nền lý học đồ sộ – đó không phải là Khoa học thì nó là cái gì? Để có lý đâu chúng ta cứ thắc mắc cái sự bất đối xứng âm dương bởi các quái phối trên đồ thư rồi phán quyết là phải đổi Tốn – khôn? Mới là khoa học? Ngay đến bản chất của Vũ Trụ, cổ nhân đã thấy rằng không có sự đối xứng âm dương!!! Huống chi với một Đồ – Thư. Đó có phải là do chúng ta đã không hiểu lý học đông phương cho tới nơi chốn, nên mới có chuyện sáng tạo vô lối như thế không?

Tiếp nữa, nếu chúng ta suy tư với tư duy tây phương, sẽ thấy rằng. Tây phương với triết học Descartes cho rằng không – thời gian là tuyệt đối độc lập với nhau. Không gian là trống rỗng. Thì tới Einstein không – thời gian không còn tách biệt, và không thời gian cũng không còn là trống rỗng nữa. Chúng đã chứa Vật chất. Vật chất đó là gì? Tây học đang minh thuyết. Nhưng với đông phương học, Vũ Trụ là một Thể thống nhất, không tách rời, đã phối với nhau để "làm ra" vạn vật – theo nguyên lý âm dương giao hòa vạn vật sinh. Vậy bên trong Vũ Trụ là gì? Chu Hy đã nói: "Trong khoảng trời đất, chỉ có một vật là Khí, chia ra làm hai thì là âm, dương (khí âm và khí dương), năm hành gây dựng (khí ngũ hành) muôn vật trước sau bị cai quản ở đó – trích kinh dịch.

Đó là Khí, Khí của Vũ Trụ, là "vật chất" đông phương đó. Chúng ta, những người học tây phương, cứ mãi không hiểu Khí là gì, nó từ đâu tới. Bản chất ra sao. Lại cứ đi tìm cách xác định, định nghĩa, rồi đo nó. Thì đây, có một đối ngẫu với không thời gian tây phương. Choán trong không thời gian là vật chất – như năng lượng. Thì choán trong Vũ Trụ chính là Khí. Nhưng "metric của Không thời gian và Vũ Trụ thì hoàn toàn khác nhau.

Tại sao Chu Hy không nói: Trong khoảng vũ trụ mà lại nói là trời đất? Hậu học không hiểu trời đất của Chu Hy chính là vũ trụ càn khôn. Không hiểu vũ trụ can khôn chứa đầy Khí thì làm sao nắm được cấu trúc của quái dịch! Cho nên có nhiều Vị đã vội vàng phê phán Chu Hy chẳng phải là sự lầm lỡ hay sao?

Đến đây thì các Vị có thể hiểu làm thế nào để có thể khoa học hóa đông phương? Chứ không phải là những mô tả bằng tư duy tây phương mà áp đặt cho đông phương học được. Muốn làm được cái việc áp đặt đó. Trước hết các Vị cần phải hiểu được Vũ Trụ đông phương cái đã. Hiểu rồi thì các Vị sẽ thấy việc áp đặt thật sự là khập khiễng. Bất toàn.

Còn nhiều thứ bất ngờ nữa lắm khi nghiên cứu lý học đông phương. Vấn đề Vũ Trụ mới là tầng thấp nhất của lý âm dương thôi. Nên tôi thấy, khoa học hóa đông phương học không đơn giản như các Vị đã trình bày. Chỉ nội Hiểu sao cho đúng cổ nhân, và có sự so sánh, đối chiếu để thấy được đối ngẫu giữa hai nền lý học, đã vô tận rồi.

Thân ái.

...

Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau: “Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên.

Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết.[Chính là tôi và ba em tôi ]. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…)

Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”. (trang 174-175). Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy: – Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.

Sự thực, theo tôi thì khoa (Tử vi) đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.

Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa? Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được. Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.

Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.

Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.

So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.

...

Trên đây là đoạn trích hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê. Cụ NHL tuy nghiên cứu tử vi, nhưng do sách vở tử vi khiếm khuyết nên chưa thể đi sâu vào tử vi. Nhưng cụ đã nhận xét về ba khoa: tử vi, tử bình, bát tự hà lạc " Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau nhưng kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10".

Tử vi đi vào chi tiết; Tử bình ít chi tiết, hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Vì thế, không nên khen chê khoa nào.

Theo Tử bình, bốn cột trụ của số mạng là tứ trụ. Khi lấy số bát tự người ta thường viết thành bốn cột Năm Tháng Ngày Giờ, mỗi cột có can trên, chi dưới. Tử bình là phép toán đơn giản về thời gian và không gian của đời người. Tử vi chi tiết hơn, mô tả con người và xã hội xung quanh, là bài toán phức tạp hơn rất nhiều. Tuy nhiên, phép tính nào cũng nhằm giải bài toán mệnh số. Nghiên cứu lý số chính là nghiên cứu mệnh khí của từng con người trong vũ trụ.

HTD đồng ý với ý kiến của vuivui:

Trích:

tử vi và tử bình thực chất chỉ là hai phép biểu diễn khác nhau của cùng một bài toán. Chúng ta cũng thấy nó tựa như là sự liên hệ giữa hai biểu diễn cơ học lượng tử như biểu diễn Heidenberg và biểu diễn Srodinger vậy. Và nói theo thời đại thì tử bình và tử vi có một "đối ngẫu Langland" như là đối ngẫu Langland của hình học và đại số vậy. Trong đó, tử vi ứng với hình học, tử bình ứng với đại số.

Trong Tử bình, các trụ năm tháng ngày giờ cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh của Không vong (Tuần Không) và cũng có nhiều cách cục hay như tử vi.

...

Có thể nói rằng, Cổ nhân xưa với lý học đông phương thực đã rất khoa học mới có thể dựng lên được những thành tựu như tử vi, tử bình, hà lạc, kỳ môn, dịch,... Nhưng có điều, cần phải hiểu rất sâu sắc nền tảng cơ bản của lý học thì mới có đủ huệ nhãn để xây dựng được những tòa lâu đài tử vi, tử bình... đó. Sự xây dựng không những công phu, tầm vóc mà minh triết sâu xa. Nếu chỉ là những đoán mò, xây dựng tù mù, gặp đâu làm đấy như chúng ta hiện nay thì không thể có những thành tựu như thế. Cũng tương tự như khoa học ngay nay vậy. Phải có những nền tảng cơ bản sâu sắc và vững trãi mới có những thành tựu như ngày nay. Đó không thể là kết quả của một vài cá nhân, cũng không phải là kết quả của việc làm hời hợt, mà đó là kết quả của sự nghiên cứu. Nếu cho rằng tây học thâm sâu, quảng bá và chặt chẽ,... thì đông phương lý học cũng có những tầm vóc như vậy. Thậm chí còn nặng về thâm sâu. Có lẽ vì thế mà hậu học ít hiểu, mà không thấy cái logic, cái tư duy hệ thống của nó, đã vội cho chúng là huyền bí. Từ chỗ không hiểu, rồi đến hiểu sai, quy chụp mà sáng tạo ra biết bao nhiêu kiến thức sai lạc, để rồi tự nó trở nên là huyền bí học. Chứ thwujc ra, hiểu cặn kẽ, tôi không thấy có gì huyền bí cả. Chỉ là, thay vì thực nghiệm, người ta có thực tế trả lời bằng những nghiền ngẫm phải trả bằng cả một đời người, nhiều đời người. Nó vô hình mà rất rõ ràng. Nhưng lại cứ tưởng vô hình rồi thì nói gì cũng được.

Có rất nhiều học giả cũng vì hiểu không đến nơi, mà nên nông nỗi.

Thân ái.

...

Chào các bạn.

Tôi vừa trở về từ VN. Suốt cả thời gian ở VN, không có lấy một lần vô internet. Trở lại với D Đ, trả lời câu hỏi bạn Green.

Trích:

xin hỏi bác vuivui: theo quan điểm của bác thì Tuần dương, Triệt âm.

Đời người trải qua 4 quá trình: sinh lão bệnh tử, tức là đi từ dương về âm, từ đó rút ra: càng về già thì "sao âm" ảnh hưởng càng mạnh, tức Triệt - âm ảnh hưởng về hậu vận????

nhưng thực tế vốn là: triệt chỉ tác động mạnh vào trước 30t <lập thân>, sau 30t tác động của triệt suy giảm.

Tại Bạn chưa hiểu hết về lý âm dương, nên mới vậy. Thực ra là thế này.

Phân biệt trẻ già có cường - nhược phân âm dương, phát triển và suy vong phân âm dương. Nhưng trẻ - già về thời gian cũng phân âm dương, trong đó, với quan hệ cường - nhược thì cường dương, nhược âm. phát triển thuộc dương, suy vong thuộc âm. trẻ - già trong quan hệ thời gian thì trẻ âm, già dương. Như quan hệ tôn ti, thì cha dương, con âm. Đại nhân thì dương, mà tiểu nhân thì âm.

Thế nên, tuần dương, triệt âm tác hóa theo thời gian, thì phải lập âm dương theo trẻ - già với quan hệ thời gian. Vì vậy, triệt âm tác hóa mạnh ở tam thập nhi lập, tuần dương mạnh dần về hậu vận. Song đó cũng vẫn chỉ là tương đối, không có nghĩa là tuần không tác hóa đầu đời, mà triệt không có giá trị ở cuối đời. Mà chúng chỉ biểu thị chiều hướng, hay xu thế về cường độ ảnh hưởng, tăng giảm mà thôi.

thân ái.

...

Trích:

1. Quy tắc các phép chiếu

- Phép nhị hợp: có trường phái cho rằng chỉ với cung dương mới lấy sao nhị hợp từ cung âm.

vd: cung Dần sẽ được lấy các sao nhị hợp ở cung Hợi, bởi lẽ Hợi Mão Mùi tam hợp Mộc, Dần Ngọ Tuất tam hợp Hỏa. Mộc sinh Hỏa nên cung Dần sẽ câu hút được các sao từ cung Hợi???

- Phép xung chiếu: vì cung xung bao giờ cũng là "địch- đối đầu với ta" cho nên ta "thắng" thì mới được hưởng.

vd: mệnh ở Tý, Di ở Ngọ. vì Tý thủy khắc Ngọ hỏa nên các sao ở cung Di sẽ hội về mệnh. ngược lại nếu mệnh ở Ngọ, Di ở Tý thì mệnh sẽ ko được hưởng các sao ở Di???

- Phép tam hợp: tam hợp sinh nhập thì có ảnh hưởng mạnh hơn

vd: mệnh tại Tý, quan tại Thìn, tài tại Thân.

do Thìn thổ sinh Thân kim sinh Tý thủy cho nên nếu xét Mệnh thì các sao ở cung Tý và cung Thân ảnh hưởng mạnh, sao ở cung Thìn thì ảnh hưởng ít hơn???

Tôi, trong thực tế không mấy xem trọng Nhị Hợp. Ngoại trừ thấy có cách cục được hình thành là cách minh lộc ám lộc. Nhưng thực tế thấy cách này cũng không mạnh như những gì sách đã ghi, Thậm chí khi xem, thấy có cách này, nhưng lại thấy những thành tựu của đương số không đúng ứng với cách minh lộc ám lộc mà đúng ứng với cách cục khác thủ tại mệnh và trong tam hợp. Ngay như cách minh lộc ám lộc tôi đã thấy như thế, thì việc phân biệt tới mức chỉ có cung duơng mới lấy được sao nhị hợp thật là tế vi, nên khi xem trong thực tế tôi cũng không muốn xét tới.

Phép xung chiếu.

Có nhiều thuyết giải thích ý nghĩa đối địch này, như vận dụng ngũ hành, thấy có sự khắc chế về ngũ hành thì bảo đó là sự đối địch. Điều này là sự hoang tưởng, suy diễn theo cái lý Vơ Vào của nhiều tử vi gia. Sự đối địch này thực sự chỉ là một trường hợp tổng quát về ý nghĩa của cung Thiên ri đối với Mệnh cung mà thôi. Cung thiên ri là cung ngoại đối với cung an mệnh là nội theo nghĩa nội ngoại âm duơng. âm duơng có tương giao, tiêu trưởng. Bởi vậy, ý nghĩa đối địch này nằm trong nghĩa tiêu trưởng, chứ không phải là khắc chế như yêu cầu của ngũ hành. Cần lưu ý điểm này. Vì khắc ngũ hành là khắc triệt để, như nước lửa không dung nhau, và nếu khi lý tới ngũ hành, thì phải xem xét sự khắc chế qua sự tổng hợp ngũ hành các sao trong hai cung - mà điều này là bất khả, chưa nói đến sự chẩn xác về ngũ hành của các sao chưa được thống nhất. Và khi đã theo khắc chế ngũ hành thì không thể xem được vấn đề cung di tốt xấu ảnh hưởng lên số ra sao. Như một cung di tốt. Theo lý ngũ hành, vì là đối địch, nên về lý, càng tốt thì sẽ càng xấu đối với ta - mệnh và cung di càng xấu tệ bao nhiêu, càng nhược bao nhiêu thì ta càng có lợi. Điều này phi thực tế. Hoặc như cách tốt thiên ri giáp song lộc, nếu theo khắc ngũ hành thì tính ngũ hành ra sao với cách giáp song lộc này? Rõ ràng là không thể.

Nên đối địch chỉ có thể là trong nghĩa tiêu trương âm duơng. Tức là ta mạnh quá, thì đối phuơng suy, theo nghĩa nếu thấy nhiều cách cục trong mệnh cung tự chủ, thì đối phuơng, hoàn cảnh nếu có cách cục ứng với nó sẽ bị khuất phục, nhờ thế đuơng nhiên ta sẽ có lợi, theo thế mà âm duơng giao hòa, lợi về mình. Ngược lợi thì mình sẽ làm cho đối phương có lợi. Như Khôi mà thủ mệnh, Việt ở thiên ri. Đương nhiên khi khôi mạnh hơn việt thì việt khôi thành cặp lợi cho mệnh, ta ít nhất sẽ có được nhị Cát. Nhưng nếu khôi yếu hơn việt thì đối phương có lợi hơn mình, mà mình muốn có lợi, thì phải Ra Ngoài mới có lợi, cũng đồng thời là khi ra ngoài, mình theo người ta. Ra ngoài có được danh giá, nhưng về nhà chưa chắc à nghe. Ra ngoài vênh vang một cõi, nhưng ở nhà lại dúm dó ấy chứ.

Tam hợp.

Chuyện sinh nhập, tôi thấy không đúng trên thực tế, mà nếu có tranh luận thì cũng chẳng ai định lượng được để mà so sánh mạnh yếu. Chỉ bằng cảm nhận mà thôi. Mà cảm nhận thì tôi không thấy đúng. Hơn nữa, nếu theo cách làm đó, về lý thuyết thấy không được rồi, lại sa vào cái lý vơ vào, suy diễn lung tung! Thật vậy, tam hợp lập thành ngũ hành. Ngũ hành này là ngũ hành phức hợp, do đó mà sao thành cách. Những cách cục này đã "nguyên khối", nay lại bẻ bó ra, đập vỡ nó ra để xem to nhỏ, thì tính hợp nhất của ngũ hành tam hợp đâu còn nữa?!

Thân ái.

...

Trích:

2. Phân chia chủ - khách

- Khi nào ta gạt người, khi nào người gạt ta?

- Khi nào được lộc, khi nào mất lộc?

- Với người thân cư Phúc, thân cư Phu Thê. khi nào hạn xảy ra với bản thân, khi nào hạn xảy ra với họ hàng, chồng/vợ?

Theo nghĩa biến hóa của cặp âm dương chứ không phải ngũ hành chế hóa. Như đã nói ví dụ ở thiên ri cung vậy, theo đó mà biến hóa áp dụng. Còn muốn rõ hơn, phải có cái cụ thể.

Thân ái.

...

Khác thường hay nghịch thường

Không có ý định tạo chủ đề mới này, mặc dù chủ nhân của topic này có nick tên là buna đã mở bên TVLS.net. Chủ đề này đạo tạo được môt không khí khá "hot". Nhưng không phải vì thế mà tôi muốn đề cập nó ở đây. Mà vấn đề là số của buna đưa ra, thật có những điểm mà những người quan tâm tử vi nên xem xét nó như là một trường hợp đặc trưng cho một thể loại mới.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình, theo đương số tự thuật, có thể nói là tương đối mô phạm. Ấy vậy mà, như lời tự thoại. Các bạn có thể thấy.

Trích:

1. Hồi bé bé, em từng xxx với 2 anh hàng xóm. Chuyện này diễn ra trong 2 năm liền, khá nhìu lần (>100), cái đó các anh í gọi là ‘’chơi’’, cứ cho e kẹo, truyện tranh... rủ e là e:P. Nếu mà xét theo pháp luật thì 2 anh ấy chắc vô tù vì quan hệ với trẻ dưới vị thành niên. Sau đó khi lớn hơn, rùi biết là có thể có bầu nên không dám nữa. Mà suốt sau đó đến chừng 19 tuổi thì cũng thắc thỏm âu lo, kiện cáo thì ko nghĩ đến nhiều, chỉ sợ mất trinh thì về sau chồng biết thế nào (bây giờ thì hok sợ nữa:D tại chả tha thiết j chồng con nữa hé hé).

Vậy đố mọi người biết, mà thật ra cũng hỏi luôn tại vì e chưa nhìn ra cách cục của chuyện đó là gì ạ? (từ đó cho bít chuyện đó xảy ra khoảng năm nào. Với cả tại sao lại xảy ra? )

Tại sao xảy ra thì em thì tạm trả lời là theo kiểu nhân quả là kiếp trước em trước làm gì chuyện gì bậy bạ, hoặc là dâm tính nhiều lắm nên mới thế, nhưng trả lời theo lá số tử vi thì không rõ. Tại cung phúc đức của e có Thiên Riêu, Thiên Y ạ?

2. Nói chung khi đi học em luôn thuộc loại học giỏi top 3 của lớp, nhưng có hồi cấp 2, ngoài môn tự nhiên thì không cần em chứ toàn quay bài mà đứng nhất lớp, dành thời gian viết truyện sex với chơi game khá nhiều +_+ đến cấp 3 thì do vào trường chuyên, lại làm lớp trưởng, bí thư nên mới nghiêm chỉnh ko quay bài, thì vẫn đứng nhất lớp. Về việc học hành như thế, có sao nào mà làm em giảo hoạt thế ạ? (dùng từ này có đúng?)

3. Nhưng mà thời ấy lại có chuyện là dù bên ngoài rất vẻ vang, bạn bè nhiều, nhưng bên trong thì trầm uất, một phần cũng do mắc phải toàn Dovtoeski, Camus, một phần vì tuổi dậy thì (? Nói thế chứ là sao nao đấy?)... em uống thuốc ngủ + rượu tử tử mấy lần (đấy là cách để tự tử dễ nhất) nhưng mà đến đêm thì nôn thốc ra, sáng dậy mới biết. Bản năng sống mạnh thế là do sao nào đấy ạ? Mà hồi đó sao nào/ cách cục nào làm em điều đứng vậy?

Hỏi luôn là cách cục tử tử, trầm uất... mọi người có link nghiệm lý nào không ạ?

Lá số thì chắc đúng mệnh thiên lương, người hơi thấp, mũm mĩm, mũi thẳng, mặt tròn chữ nhật, người yêu quí thì khen xinh vô cùng, người ghét thì bảo xấu như ma cấu +_+

Em vào đọc diễn đàn đã lâu, phục và trân trọng nhiều bác anh, chị. Em rất ít khi reply (mệnh Quan Phủ, nhận ít trả lời nhiều muh), lần này viết chắc vì cái gì đó:D, không expect câu trả lời ngay trong này, vì đã hỏi thì chắc chắn sẽ được trả lời right time, right place, and people, chỉ hi vọng nó có thể giúp được ai đó, khi họ google, hay truyền miệng và have fun với mọi người...

Anw, học hỏi luôn là chính mà.

Mến thân.

...

Cám ơn anh Vân Từ đã link số của buna-hình như là bunatino thì phải?!

Nhân thể anh có đề cập đến một số vấn đề, tôi nghĩ đó cũng là những vấn đề có thể nói là hóc búa, khó tranh luận và cũng khó thuyết phục nhất. Nhưng hiện thực lại cứ sờ sờ trước mắt ta. Vấn đề trùng lặp lá số và vấn đề cải số.

Dù biết rằng vấn đề này có nói đi nói lại, cũng vấn cứ phải nói lại... để rồi nói đi. Tranh luận về nó, chả khác gì người ta tranh luận con gà và quả trứng? con gà có trước hay quả trứng có trước? Mặc dù vấn đề này cũng đã được giải quyết, cũng như cuộc tranh luận vật chất có trước hay tinh thần có trước của triết, hoặc Triết học Mac, CNCS sai ở chỗ nào? Thì cũng đã được trả lời rõ ràng. Nhưng người ta vẫn cứ lấn cấn, vẫn khó rời bỏ nó, vẫn thắc mắc rất là cố chấp. Chung quy, thực cũng chỉ vì người thì không dám rời bỏ nó vì đã "lỡ" xem nó là nền tảng của cuộc sống, của tư tưởng nên không dám, cũng không thể bước ra khỏi cái nền đó. Người thì thấy nó đẹp, nó khoa học - theo tư duy của cá nhân mà không thể nhận thức được cái sai của nhận thức đó. v. v....

Như tôi đã nói nhiều lần. Cải số! Trước hết, không ai định nghĩa, và cũng không định nghĩa được Cải số là gì. Nó chỉ là một thể hiện được hiểu như một cặp từ vựng hàm nghĩa về khái niệm, mà chính khái niệm đó cũng chưa hẳn được xác định. Cũng như khái niệm Số mệnh vậy! Cho nên nói, hiểu được số mệnh là gì, thì sẽ hiểu được ngay thế nào là cải số. Đấy là nói cho thật chặt chẽ, khỏi tranh luận lôi thôi, mà để cho nó đúng như là một mệnh đề mang tính nguyên lý. Còn hiểu đại khái thì có thể hiểu, đó là sự thay đổi cái mà ta gọi là số mệnh của ta nhưng do chính ta chủ động. Vậy thì số mệnh phải được biết nó có hình hình ra sao thì mới nói chuyện ta thay đổi được chứ! Cũng như chiếc ô tô đang chạy vậy, con đường ta phải đi và đích đến lập thành một tổ hợp các điều kiện Buộc ta phải thực hiện. Nhưng ta không đến đó nữa, cũng không đi đường đó nữa, mặc dù ta đang đi trên đúng con đường đó. Bằng cách, thay đổi đích đến, thay đổi hành trình. Thế là ta đã có sự thay đổi do chính ta, hoặc do điều kiện, bối cảnh đã cho phép ta thay đổi, nhưng ta hoàn toàn có quyền quyết định sự thay đổi đó.

Hiểu như thế, rõ ràng ta nói, ta đã chủ động thay đổi, khi mà tổ hợp mục đích và hành trình đã xác định. Nếu số mệnh cũng được tường minh như vậy đương nhiên ta đã nói đúng là ta đã Cải số.

Nhưng bởi vì, ta nói rằng, số mệnh đâu có được tường minh như thế. Đương nhiên, Cải số cũng sẽ không còn tường minh nữa, và người ta khẳng định, không phải cải số. Mà đó là do Phúc, do những gì gì nữa, thiếu gì lý do, nguyên nhân để quàng vào nó, cho nó một cái lý, rằng sự thay đổi đó không phải do ta chủ động mà được, và nó cũng không nằm ngoài cái Số đã định!

Thế cho nên, đi đến tận cùng là không thể. Bởi vì người ta đã sử dụng tính Tuyệt đối của khái niệm số mệnh. Thì lẽ đương nhiên sự Cải số sẽ tự nhiên phải "lùi" về cái Không tuyệt đối. Bởi vì Cải số và Số mệnh là hai thái cực, hai giá trị đối cực. Một khi đã tuyệt đối một cực, thì đương nhiên cực còn lại cũng phải trở nên tuyệt đối. Có nghĩa là, khi người ta đã tuyệt đối hóa Số mệnh - mọi sự đều không nằm ngoài số mệnh - thì đương nhiên sẽ không có Cải số.

Nhưng ta biết rằng, mọi môn, kể cả khoa học chính xác, cái gọi là khoa học nhất của khoa học. Không có cái gì là tuyệt đối cả. Điều này đã thể hiện rõ ràng bởi định lý Golden. Vì thế, ngày nay, ai nói đến tuyệt đối đều bị cho là thiếu hiểu biết. Mọi sự, hay vạn vật trong thế giới, đều là tương đối. Điều này, phù hợp với tinh thần của Dịch. Và trong Dịch có câu: Thái quá thì bất cập. Mọi sự đi quá về một cực đều đổ vỡ.

Vậy thì cái gọi là Cải số và Số mệnh. Nếu chúng ta hiểu một cách tuyệt đối, rõ ràng là Bất cập, là Sai lầm vậy!

Nhưng, hiểu Số mệnh một cách tương đối thì thực là rất khó hiểu. Và thật là dễ hiểu, thật là dễ chịu. Nó làm cho trí não của ta được phép lười nhác một cách sung sướng, tự hào vì cái bộ não đó đã nhận thức được một cái tuyết đẹp. Một chân lý tuyệt đối. Ví như CNCS là con đường mà nhân loại tất phải đi tới. Một chân lý tuyệt đối được tuyên ngôn và rất được hoan hỉ chấp nhận bởi những người nông dân chân lấm tay bùn, suốt đời "nhìn" vào cái đít Trâu, cũng như những người công nhân tay lấm lem dầu mỡ, suốt đời chỉ nhìn thấy mấy cái bánh răng nó quay. Khi ta hiểu Số mệnh một cách tuyệt đối.

Một lá số tử vi, trong hệ thống thuyết tử vi là một bản đồ của số mệnh. Có lý nào ta xem số mệnh chỉ là tương đối mà ta lại có thể cho lá số tử vi là một thứ tuyệt đối? Và khi đã không còn là tuyệt đối, thì đương nhiên, Cải số có giá trị của nó! Giá trị tới đâu thì còn phải phụ thuộc vào giá trị của số mệnh tiến đến tuyệt đối tới đâu. Cho dù trái đất hơn 6 tỷ người, với lý thuyết mệnh chủ, có tới hơn 6 tỷ cuộc đời - nghĩa là mỗi người chỉ có một cuộc đời ứng với số tử vi xác định như quy tắc vân tay, hay vân môi đi nữa, thì tử vi, vẫn chỉ là tương đối. Điều này là sự khẳng định về lý thuyết, chứ không phải là sự khẳng định do trình độ giải đoán. Dù trình độ giải đoán có tới tuyệt đỉnh. Thì tính tương đối vẫn y nguyên!!!

Toàn bộ lý luận trên chính xác đúng theo tinh thần Dịch lý! Đó mới là Dịch lý chân chính.

Xin các bạn nhớ cho, không hiểu điều này, cho dù đã học thuộc Dịch Kinh, đọc thiên kinh vạn quyển của sách thánh hiền, Bói Dịch như thần thì cũng chưa phải là đã hiểu được Dịch lý.

Còn tiếp.

...

Chào các bạn quan tâm.

Bàn luận lá số của một con người. Tốt, hay thì không có gì nghiêm trọng. Cho dù vẫn phải có sự đồng ý, tự nguyện của chính thân chủ. Nhưng với trường hợp không mấy tốt, thậm chí xấu xa thì dù có được sự chấp thuận của đương số. Chúng ta cũng vẫn có gì đó áy náy, bất nhã.

Nhưng ở trường hợp này, khá đặc biệt. Và cũng chính vì sự đặc biệt này mà tôi mạn phép đưa nó từ một trang web lý số khác là TVLS.net về trang nhà để chúng ta cùng nghiên cứu, xem xét và có những nghiệm lý mong rằng là hữu ích cho học thuật. Nhưng nếu như đương số có ý kiến không chấp nhận, hoặc có bất kỳ ace nào phản đối, thì dù bất cứ ở thời điểm nào, với bất cứ lý do gì, cũng xin ban quan trị lập tức xóa đi hộ cho, vâng, xóa tất cả những gì liên quan đến đương số, và đồng thời tôi cũng có lời xin lối đương số cũng như xin dừng ngay chủ đề này lại.

Cũng nhân thể, xin lối đương số trước vì sự thẳng thắn, có sao nói vậy – qua lá số – của tôi, khi giải luận lá số này. Nếu như có những lời nói quá bộc trực, hay sự luận giải thật thà – nhằm phục vụ học thuật.

Thưa các bạn quan tâm. Trước hết ta cứ bỏ quên tất cả những gì mà đương số đã có tự sự, chúng ta cũng cố gắng không có những nhận xét chủ quan – thông qua ngôn ngữ, văn phong của đương số. Bởi thực tế quan sát gần đây về giới trẻ, ngôn ngữ, ứng xử, hành vi và những thể hiện cái gọi là đạo đức đã trở nên quá xa lạ đối với lớp người có tuổi, cũng như truyền thống văn hóa đạo đức của vn ta. Như người ta thường gọi, đó là sự xuống cấp của một nền giáo dục, sự suy đồi của nếp sống văn hóa của con người vn ta những thập niên gần đây dưới sự giáo dục và thấm nhuần nếp sống, đạo đức của những người CS. Cả một xã hội dối trá, sống gấp, duy vật một cách thảm hại. Thì trách sao thế hệ trẻ, sống dưới nền giáo dục suy bại như vậy đã có thể hiện ra lối sống, văn hóa cư xử, nhận thức thiếu lành mạnh, rất con... vật như vậy. Tất nhiên, cũng có những người, những bạn trẻ có thể thoát ra được mà vẫn sống với nhân cách, đạo đức của con người văn minh, văn hóa, và trọng đạo theo truyền thống của cha ông. Có, thậm chí không ít. Nhưng không thể nói số đó chiếm đa số. Mà chỉ là thiểu số. Vì thế, cái đa số, chính là cái ta đang nói đây.

Bunatino là một cô gái, nếu bình thường thì cũng đã có thể có những thể hiện nhân cách qua văn phong như chúng ta chứng kiến. Huống chi, cứ theo số thì bunatino đâu có bình thường. Từ mệnh chủ của lá số, chúng ta xác định được chủ cung an mệnh và chủ cung an thân là sao Kình dương, và Thái dương tại tý. Kình dương tại ngọ, hãm địa, vào cách mã đầu đới kiếm. Ngoài cái sự chủ hung, nó còn là sao nói lên tính cách, cũng như bản năng của một con người của một sao thủ mệnh. Kình dương hãm tại ngọ nói lên điều gì? Có thể gói gọn vào chứ: Loạn!!! Đó là con người nổi loạn, ương bướng, liều lĩnh và bừa bãi. Con người như thế ở đàn ông thì là tên cuồng đồ, lưu manh thuộc hạng nguy hiểm. Sống trong giang hồ, trên đao dưới kiếm. Bất cận nhân tính. Nhưng là con gái, khác với liêm tham tại tị hợi. Con người kình dương thuộc loại bất chấp, gàn bướng và có cá tính nổi loạn cũng kéo theo những hệ lụy chủ về hung ách. Cương thì thì đó là tai họa giang hồ. Nhu thì đó là những dạng tai ương họa hại của những con người sa đọa, sai lầm trong cuộc sống, gặp văn tinh, hoặc sao tinh thần sẽ trở nên ân hận, suy trầm, phiền hận, chán đời, tuyệt vọng. Cụ thể như thế nào do do cách hội với những sao gì.

Ở đây, Kình dương gặp Thiên lương, được thiên lương soi rọi, giáo dục. Thiên lương không chỉ là sao lương tâm, còn biểu thị cho nhân cách, văn hóa, sự mô phạm. Chủ về lương tâm giáo dục, tư cách của một người thầy. Hội thêm văn tinh thì sớm giác ngộ, giàu trí tuệ, tri thức. Nếu thấy khoa là sự giác ngộ. Sự giao thủ kình dương với thiên lương là một đại bất hạnh cho con người này. An mệnh sẽ là đại họa về tâm tưởng. Đó là sự giác ngộ, bị giáo hóa khiến tâm tính bị đảo lộn, chao đảo dữ dội. Nặng thì đi đến tuyệt mệnh. Nhẹ thì cũng gọt tóc đi tu. Đi tu để tránh hồng trần vì tội lỗi. Nếu không gặp thiên lương, thì kình dương tội lỗi đầy mình, thì cứ tội lỗi, đâu biết mình là tội lỗi. Tới hạn thì đúng là mã đầu đới kiếm mà hóa kiếp. Đằng này, gặp thiên lương là sự khổ ải, nhọc nhằn về tinh thần.

Nhưng, ta hãy nhớ, kình dương là bắc đẩu tinh, thiên lương nam đẩu. Sự giao thoa về cường độ sẽ đưa đương số càng về hậu vận thì hoạt động của kình dương càng giảm, mà thiên lương giác ngộ càng mạnh. Chủ về hậu vận nhẹ thì đi tu cho thoát nợ hồng trần, khỏi phải tủi hổ những lỗi lầm của mình gây ra trong quá khứ.

Đó là về thiên hướng.

Thế nhưng, cái sự loạn cụ thể này nó thể hiện ra sao thì phải xét đến cái Thân hành động. Chứ cái sự loạn kia mới chỉ thấy ở trong tâm tưởng, tính cách và cái Tâm bất thiện. Được giáo dục bởi thiên lương, rồi ra hậu vận được hóa giải thế nào mà nương nhờ cửa phật, hay tu đạo, hoặc là tự cô lập bản thân, hoặc là trút những tâm tư tình cảm vào những tác phẩm hoặc là văn học, hoặc là nhật ký, hoặc là sự tư lự để đi tới minh triết về sự đời – cụ thể thì phải phụ thuộc vào sự gia hội thêm các sao khác nữa.

Thân thì sao. Thấy ngay Thái dương hãm hội Riêu Đà Cự Mộc dục là một đám ám tinh, chủ về sự dâm dục. Cái sự dâm dục này thâm căn cố đế, là sự ham muốn từ cội rễ không chỉ giàu sinh lực mà còn phong phú về trí tưởng tượng, sự kích dục bản thân. Ở đây đặc biệt ta thấy sự có mặt của thiên hình thì phải quả quyết rằng sẽ của người này thật quái đản, nhiều hình thức, lắm trò trụy lạc. Nhưng có triệt thì phải thấy rằng những hình thức trụy lạc không được phát huy, bộc lộ mà giàu tính tưởng tượng, dẫn tới sự thủ dâm. Khi thiếu vắng bạn tình thì đó là sự chủ động tự mình làm thỏa mãn cho chính mình.

Sơ lược như vậy, chưa nói tới sự trao đổi giữa mệnh và thân còn có thể bóc ra được nhiều tiêu chí, nghiên cứu được kỹ lưỡng hơn về đương số, và thật hay khi có sự tham gia của cung phu. Một phu cung thật đặc trưng.

Chính cách cục như vậy, nó đã đưa tới cuộc đời của một con người. Khi đi qua các vận hạn, tùy vào những gì mà nó gặp gỡ, sự tao ngộ đó sẽ ra những biến cố. Thậm chí có thể thấy những biến cố khó có thể tưởng tượng. Vì vậy những gì mà đương số bộc bạch, với sự tự thoại, tự trưng bày lên phương tiện đại chúng những "chiến tích" của mình, mà người ta gọi là "show hàng" cũng là một dạng biến cố đáng ngạc nhiên vậy!

Ta thường nói về sự dâm bằng câu: Loạn dâm hay dâm loạn. Nhiều người thường không phân biệt chúng, nhưng qua trường hợp này chúng ta thấy rõ sự phân biệt, loạn dâm khác với dâm loạn. Trường hợp này phải gọi là Loạn Dâm. Loạn rồi mới Dâm. Loạn về tâm tính, mà Dâm trong hành vi. Loạn là sự nổi loạn, không nhất thiết phải lang chạ lung tung như súc vật. Trong khi nếu nói dâm loạn, thì đó là loại dâm của loại như súc vật. Cần nhớ điều này mới thấy rõ cái số này nó minh bạch.

Viết đến đây, tôi cảm thấy bất nhẫn, thật không muốn viết tiếp những gì thấy được ở hạn mà đương số bộc bạch. Vậy thành thật xin lỗi đương số về bài viết trên, và nếu được phép tôi mới viết tiếp.

Thành thật xin lỗi và cám ơn sự thông cảm. Mặc dù chưa biết có được thông cảm hay không!

Thân ái.

Có thể cải số được không?

Chào diễn đàn cùng toàn thể hội viên của diễn đàn Huyền không lý số!

Nhân dịp đầu xuân, khai bút là cái việc của người làm bút, cũng là cái cơ hội của người đi học và được đi học. Âu cũng là để đi tìm cái may mắn về kiến thức, là tìm một chỗ tâm sự cho tâm hồn thư thái, tỉnh táo cùng với hơi ấm của tình người. Tôi xin viết gửi tặng các bạn một bài, là một bài có nội dung trăn trở của bao người làm lý số, những người quan tâm tới vận mệnh của mình, cũng mang hơi thở của tranh luận học thuật trường kỳ. Số lý và Lý số có ý nghĩa gì cho cuộc đời mỗi con người?

Đó cũng là câu hỏi, biết được số mạng, thì có ý nghĩa gì?

Mỗi con người, khi được sinh ra. Bắt đầu từ khi cất tiếng khóc chào đời, "đồng hồ" bắt đầu chạy. Mỗi thời khắc trôi qua, các biến cố cứ theo nhau "mà đến" với người. Phải chăng, thời gian cứ trôi, biến cố cứ đến. Biến cố dù tốt, dù xấu, cho dù ở dạng gì, việc nó đến với ta, liệu ta có thể lựa chọn được chăng?

Cái gọi là mệnh lý, cũng có nhiều quan điểm. Cho rằng vận mệnh an bài, con người ta chẳng thể tự chủ. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, vận mệnh của ta, nằm trong tay ta. Do ta làm chủ. Tranh luận trải hàng bao nhiêu năm, bao nhiêu đời, chẳng thể ngã ngũ. Giải quyết vấn đề phải trên cả hai phương diện. Lý và thực tiễn. Đối với mệnh lý, quan trọng nhất, xuất phát lại không phải từ thực tiễn mà là từ Lý. Tại sao vậy? Bởi vì cuộc đời thực của mỗi con người, khi chưa xảy ra, nếu không có mệnh lý (không nói tới những cái gọi là giác quan thứ sáu,...), chúng ta có thể nói là "chẳng biết gì". Xảy ra tới đâu, thì biết tới đó. Như thế, mọi sự trở nên phức tạp khi chúng ta có cái gọi là mệnh lý. Mệnh lý, dù nói thế nào đi nữa, cũng chỉ là để "tiên tri" cho cuộc đời con người. Tiên tri số phận của ta. Một khi biến cố đã xảy ra, tốt thì hoan hỉ, xấu thì đau buồn cũng đều nói, đó là số phận!

Theo đó, khi nói mệnh lý, ta nói rằng, mệnh lý đã tiên tri, số phận ta sẽ thế này, hoặc thế kia!!! Thế tức là, khi có biến cố xảy ra ở vào cái vận trình mà mệnh lý tiên tri đó. Ta có cái thực tiễn để mà đối chứng. Đúng thì ta nói, số phận đã an bài. Không ứng đúng, ta nói, mệnh lý tiên tri Sai!

Thường thì người ta chỉ hiểu đến đó là hết. Đúng thì nói là mệnh lý đúng, còn được dùng, còn được tin tưởng. Rủi mà sai, thì xổ toẹt, chẳng có giá trị gì, vứt nó vào sọt rác. Rồi cứ thế thành thói quen, thành quan niệm cố hữu, đã là số mệnh thì chẳng thể cải đổi, thượng đế đã an bài!!! Có biết đâu, khi ta quan niệm như thế, chính ta đã vô tình đồng nhất cái gọi là mệnh lý bất kể cái lý của mệnh đó đúng hay là sai, là cứ phải đúng cái đã. Và khi đã đúng, thì cái mà mệnh lý nói tới, chính là cái số mệnh đã được an bài bởi thượng đế rồi. Và do đó, chúng ta, không thể có khả năng nào cải đổi được nó.

Nhưng, như mọi cái Lý khác, như lý của vật mà ta có cái gọi là Vật lý, rồi Lý của hóa học, cũng thành lập nên cái môn Hóa học, Lý của toán thì ta có toán học, Lý của triết thì ta có môn triết học,... Giải một bài toán, giải đúng, ra được đáp số, nhưng khi đem vào thực tiễn lại cũng có thể cho ta nhiều đáp số của cùng một bài toán, chứ cái gọi là đáp số đúng tuyệt đối, thì đã lùi vào dĩ vãng rồi. Ngày nay chúng ta đều biết rõ nghiệm của bài toán có rất nhiều thực tiễn đối ứng với nó. Mỗi nghiệm ứng đúng một thực tế – hay thực nghiệm – đều có sự gia giảm của những điều kiện mà ta gọi là điều kiện phụ, bổ sung, hoặc do chính bản thân tính đa nghiệm, tính hỗn độn, tính xác xuất của hiện tượng, của vấn đề. Đối với khoa học, chúng ta xem xét vấn đề trên phương diện lý thuyết, và đã tìm ra được rằng, cái Lý không có sai. Nhưng sự không ứng đúng theo cách một – một đó có bản chất của tự nhiên, chứ không phải là do chúng ta có một cái khoa học sai. Khi ta có những bổ sung nhất định, thì thực nghiệm chứng minh được cái Lý của khoa học đó sẽ đúng!!!

Nhưng mệnh lý khá bị bất công. Khi không ứng đúng một cách một – một thì lập tức nó bị sổ toẹt. Chỉ để rồi trong bối cảnh nào đó, trong những may mắn nhất định, thì cái tiên tri cho người này, lại ứng đúng đối với người khác – có cùng một lá số. Vậy thì, ta chẳng thể bảo được rằng, mệnh lý đã sai!!! Cũng có nghĩa là chúng ta đã đi tới một sự xác tín rằng, mệnh lý có thể có nhiều nghiệm!!!

Nói như thế, không có nghĩa ta đã vội cho đây là sự chứng minh về khả năng cải được số mạng của ta. Mà ở đây, chỉ đơn thuần là chứng minh sự không đối ứng một – một giữa lý và số, hay nói cách khác là không có sự đối ứng một – một giữa mệnh lý và cuộc đời, hay số phận.

Một cách nhìn khác, tuy rất sơ sài, và không thể hiện được bản chất của vấn đề là sự so sánh giữa số người trên trái đất với số lượng lá số khả dĩ. Nhưng theo cách nhìn này, chúng ta dễ đồng ý với nhau rằng, một lá số có nhiều cuộc đời. Nhưng để thấy rõ bản chất mệnh lý và cuộc đời không ứng một – một thì chúng ta phải xét theo hướng lý luận trên. Nhưng chúng ta cũng không nên đem đồng nhất bản chất hỗn độn của tự nhiên, tính bất định của hạt trong vật lý với tính nhiều nghiệm của mệnh lý. Mà tính nhiều nghiệm của mệnh lý nó có bản chất từ thực tiễn. Có nghĩa là đã có sự "gắn số phận" của mỗi người vào mệnh lý, chứ không phải là từ mệnh lý áp vào số mệnh mỗi con người.

Đây chính là cơ sở của phép giải số theo lý mệnh chủ. Rằng phải có những biến cố cụ thể ứng với mỗi người, gắn vào mệnh lý của họ, rồi ta mới có được một sự đối ứng một – một giữa mệnh lý và cuộc đời. Ngày xưa, tiền nhân ta cũng có những phép giải số như vậy, trên cơ sở nhìn hình tướng mà xem số. Nhưng rõ ràng bản thân phép hình tướng cũng đa nghiệm, chứ đâu có ứng một – một giữa hình tướng của một người với cuộc đời của họ. Nó chỉ là sự chính xác hơn so với phép giải số chung chung như ta đã biết mà thôi.

Bây giờ chúng ta đi đến xét bản chất của việc cải số. Hay nói cách khác là trả lời câu hỏi, biết số thì có ý nghĩa gì?

(còn tiếp)

Thân ái.

...

Trích:

Vận gặp Thiên Không, Hóa kỵ... người biết số thì chọn con đường nghiên cứu huyền học, tu tĩnh thân tâm, học hành --> thu được sở đắc. Người không biết số thì vẫn cứ tưởng mình vẫn thông minh hơn người (Thiên không luôn đi kèm Thiếu dương - chủ thông minh hơn người) nên vẫn lao đầu vào tranh đua --> kết quả thua thiệt hoàn không (hạn gặp Thiên không)...

Tôi trích đoạn này làm ví dụ. Chẳng hạn, khi gặp vận thiên không, người biết số, nghĩ rằng có thể chuyên tâm học hành, tu tập,.... để mà "cải số". Nghĩ rằng chẳng có gì cản trở cái ý muốn của ta. Ta muốn thì ta làm, ai bắt, ai cấm được.

Thế nhưng thực tế, có người vào hạn thiên không, nói rằng sợ buôn bán, sợ làm ăn, vì sẽ phá sản, sợ cứ làm rồi lại hỏng, đổ vỡ. Thế nhưng nếu không làm, lấy gì mà ăn, lấy gì nuôi gia đình? Không đi làm ư, ai nuôi mình đây. Rơi vào tình trạng, không muốn cũng phải làm, biết là thất bại, cũng vẫn phải lao vào. Tính sao đây? Có người sẽ bảo, thế mới là số, biết rồi mà vẫn phải chịu. Chứ mà cứ nói thôi, phương án nào mà chả có, trí tuệ cao thì nghĩ ra được nhiều thứ, nói là để giải, để cải số. Vậy mà chẳng được vậy!!!

Thân ái.

..

Ở bài trên, tôi có viết một đoạn, rằng

Trích:

Chỉ để rồi trong bối cảnh nào đó, trong những may mắn nhất định, thì cái tiên tri cho người này, lại ứng đúng đối với người khác – có cùng một lá số. Vậy thì, ta chẳng thể bảo được rằng, mệnh lý đã sai!!!

Có thể sẽ có người nói rằng, nói như thế, nhưng đã có ai để kiểm chứng. Cho dù tôi có nói, tôi đã kiểm chứng rồi, thì có bao nhiêu người kiểm chứng, do đó cũng không thể mang tính khoa học được. Bởi muốn khoa học, thì sự kiểm chứng phải mang tính phổ biến. Một mình anh nói, ai tin?!

Có thể trả lời vấn đề trên bằng một chứng cứ phổ biến như sau: Khi xét lá số của một người gặp tai nạn đã mất – hoặc bị thương mang tật chẳng hạn. Với một lá số cụ thể, khi ta giải đoán bằng cách nghiệm lý, ta thấy, ừ đúng, với những thể hiện như thế, như thế trên lá số thì việc xảy ra tai nạn ứng đúng. Ta yên trí ta đã giải đúng. Nhưng cũng lá số đó, người ta cũng có thể giải ra rằng, ở vào vận trình đó, người có lá số đó không hẳn sẽ gặp tai nạn. Và câu trả lời rất rõ ràng, có rất nhiều người mang cùng lá số đó, không lẽ vào thời điểm đó, toàn bộ những người đó đều gặp tai nạn? Thực tế, đương nhiên là không!!! và chính khẳng định thực tế này là tương đương với câu nói trên của tôi.

Rồi người ta lại giải thích, sở di nhiều người khác có cùng lá số không bị tai nạn là vì... nào là phong thủy, nào là phúc đức tổ tông, v. v.... đủ thứ cái nào là.... Nhưng lại rất rõ là khi nghiệm lý, chẳng có ai lấy những cái đó, đưa vào giải đoán để rút ra kết luận là chỉ có người tai nạn mới ứng đúng mà thôi, còn người khác tuy có chung lá số, nhưng không ứng?!

Rõ ràng với cách giải đoán, cách nghiệm lý như thế vốn đã không chặt chẽ, phi logic, không khoa học tý nào. Nhưng người ta lại cứ hay coi như là đúng rồi, để bác cái mà người ta muốn bác một cách chủ quan.

Quay trở lại vấn đề. Chúng ta đều dễ chấp nhận một điều, xem như đó là quan niệm phổ biến. Xem con người, như một chủ thể, sinh tồn trong thiên nhiên, nói rộng ra là trong vũ trụ. Như một thể hiện cụ thể đó là Tam Tài thiên – địa – nhân. Trong đó quan hệ qua lại trong tam tài, phần được coi là chủ động là chiều quan hệ từ nhân ra thiên địa, phần còn lại xem ra nhân là bị động. Cái phần bị động và cái phần chủ động tác động qua lại lẫn nhau. Nghiêng về phần nào, người ta xem xét và thấy đó là chủ yếu. Nếu phần chủ động thắng thế, người ta nói rằng, con người làm chủ thiên nhiên, vận mạng của ta, nằm trong tay ta. Nghiêng về bị động, người ta thấy rằng cứ như cuộc đời ta, ý muốn của ta, tham vọng của ta hình như không phải là do ta định đoạt. Cái phần quyết định đó, nhường lại cho thiên nhiên, nằm "ở tận nơi nào đó, xa xăm trong vũ trụ", nên nói hai chữ càn – khôn không chỉ nói đến bề rộng của chiều kích, mà còn nói đến bề sâu của tâm linh, của uy lực thiên nhiên mà sức người thì nhỏ bé, bó tay phó mặc vận mạng của mình cho Chúa Trời vậy.

Con người trong vũ trụ, tương tác với vũ trụ như "đi trong môi trường thiên nhiên, vũ trụ càn khôn (nói theo đông phương học thì đó là cả thiên nhiên và xã hội). Với người thấy mình thật bé nhỏ với thiên nhiên thì số phận là một cái gì đó bất khả cưỡng. Với người thấy sức mạnh của con người, thấy được vai trò của trí tuê,... thì thấy thiên nhiên là cái gì đó có thể điều hành, tác động cải biến, do đó mà thấy số phận của ta phải do ta làm chủ. Hai loại người này mỗi bên đều tự động đi về phía hai cực đối lập nhau, đều rơi vào vị thế của sự cực đoan.

Thực tế lại chẳng như thế, theo quan điểm dịch học thì cũng đã rõ, mọi sự cực đoan đều bất cập. Nhưng nói thì dễ, quả thật để tránh khỏi cực đoan thật là khó, ngay như khoa học cũng thường rơi vào tư duy siêu hình, quan niệm siêu hình. Theo đó mà nhìn thế giới siêu hình – khoa học phương tây thời cận đại là một minh chứng. Nói như thế, thì mỗi cá thể bé nhỏ, dẫu có thiên tài thế nào, cũng khó mà thoát khỏi. Có chăng, chỉ nhờ vào cái gọi là trào lưu, là sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại mà có thể thoát ra được cái sự cực đoan này.

Dịch lý, vốn cung cấp cho nhân loại một cái nhìn không cực đoan, vốn trung thực với thế giới như cái vốn có của nó. Vậy mà, dù có thế nào đi nữa, người học nó, lâu dần rồi cũng tự mình rơi vào cái vòng xoáy cực đoan của phương pháp luận, của tư duy mà ngày càng xa rời dịch lý rất tự nguyện, tự giác. Rồi xem đó là tự nhiên, một sự đúng đắn bất khả cưỡng. Thực tế, bản chất dịch lý trong vấn đề mệnh lý hoàn toàn không khó hiểu. Để dễ hình dung, chúng ta bắt đầu từ một điểm, mà thoạt đầu chúng ta có thể thấy, nó chẳng liên hệ gì đến vấn đề ta đang quan tâm.

Mệnh lý và Quy luật.

Có rất nhiều vấn đề thuộc về quy luật, mà không thuộc về mệnh lý. Đã nói đến những gì thuộc về quy luật, thì không thể dựa vào mệnh lý mà bàn được, ngược lại cũng vậy. Như quy luật: Nhịn ăn mãi, tất chết. Nhịn thở chết nhanh hơn nhịn ăn. Lao lực quá độ, tất sinh bệnh tật. Tội ác trời bất dung thứ, tất có ngày đền tội. Giấy không gói được lửa, tội ác dẫu có bưng bít đến đâu, cũng có ngày được lịch sử phán xét....

Cái gọi là quy luật, dù nó được phát biểu bởi khoa học tây phương, hay của đông phương. Đó thuộc về bản chất vận động của thế giới, mà con người cũng nằm trong sự vận động chung của nó mà thôi. Trong phạm vi đó, con người không tách mình ra được khỏi thiên nhiên để mà có thể phán xét, điều hành, cũng như tự nhiên không thể phân biệt tài nhân như một đối tượng mà nó phải có trách nhiệm tác động lên nó, bắt nó phải tuân theo ý mình. Rơi vào quy luật, con người và thiên nhiên nhập vào làm một, là một thực thể như về toàn bộ. Không có chuyện vạn vật đồng nhất thể ở đây, xin đừng nhầm lẫn – khi nào có dịp, chúng ta có thể trao đổi về vấn đề này, là một đề tài lớn, nhưng rất thú vị. Tuy nhiên mang tính triết học sâu xa, đạo lý thâm sâu. Ở đây, chúng ta chỉ quan tâm tới mệnh lý.

Để tóm lược và minh chứng, tôi xin trích một đoạn mà Không Tử đã nói tới điều này.

Lỗ ai Công hỏi Khổng Tử. Có trí tuệ thì trường thọ phải không? Khổng Tử đáp: "người có ba cái chết không phải do mệnh chủ định, mà là do người tự chuốc lấy. Người nghỉ ngơi không đúng lúc, ăn uống không tiết chế, làm lụng quá độ thì bệnh tật sẽ kéo đén sát hại là một cái chết. Người ở địa vị thấp mà cứ phạm thượng, ham dục quá độ, yêu sách không ngừng thì sẽ bị hình phạt kéo đến sát hại là hai cái chết. Người ít mà xâm phạm chỗ người đông, nhỏ yếu mà khinh khi lớn mạnh, giận dữ mà không tự lượng sức mình, thì sẽ bị binh khí ập đến sát hại là ba cái chết. Ba cái chết kiểu ấy không phải do mệnh mà là do người ta tự chuốc lấy".

(còn tiếp)

Thân ái.

...

Rất vui khi thấy có nhiều bài viết tham luận trong chủ đề này. Đa tạ mỹ ý của mọi người. Qua các bài tham luận, có rất nhiều ý kiến khác nhau, quan điểm khác nhau về vấn đề này. Tôi không thể tranh luận với từng bài tham luận được. Có một nhận xét chung, nhưng ngay từ bài đầu của chủ đề, tôi cũng đã đề cập tới rồi. Thiết nghĩ sự tranh luận cần có, nên có những bài với nội dung trao đổi thẳng vào các vấn đề về mệnh lý. Có được sự hiểu biết – cái mà tôi đã và đang trình bày – về mệnh lý, mới hy vọng làm sáng tỏ vấn đề.

Quay trở lại vấn đề đang trình bày.

Chúng ta hãy xét bài toán mà về hình thức, có sự tương tự hữu lý với bài toán mệnh lý.

Đó là bài toán Đạn Đạo.

Một quả tên lửa được phóng lên không gian, quả tên lửa bay trong trọng trường của trái đất, với một thế hấp dẫn được xác định. Quỹ đạo mà tên lửa đó bay sẽ được xác định bởi nghiệm của phương trình, mà thuật ngữ chuyên môn, người ta gọi là phương trình đạn đạo.

Để giải được phương trình này, có những thông số cần biết trước. Đó là:

-Khối lượng của tên lửa đó.

-Lượng chất đốt cần thiết để tên lửa thực hiện trọn vẹn hành trình được đề ra.

-Loại chất đốt, cho ta sự xác định tốc độ cháy.

-Chương trình định hướng của tên lửa, được xác lập bởi những thiết bị sẵn có, - đơn giản nhất là con quay tự do, chẳng hạn.

-Cấu hình khí động học của tên lửa và vật liệu làm vỏ tên lửa – xác định được ma sát của khí quyển đối với tên lửa.

-Lượng nhiên liệu và loại nhiên liệu cần có để đạt được tốc độ ban đầu của tên lửa khi rời bệ phóng.

-Hướng xác định của bệ phóng – thường là phóng thẳng đứng so với mặt đất – đối với tên lửa hành trình có tầm xa.

Đó là những thông số cơ bản nhất để chế tạo và có được một tên lửa hành trình, có thể tác chiến được nhằm phục vụ yêu cầu chiến đấu. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác nữa, nhưng về cơ bản của kỹ thuật, đó là những thông số cần thiết. Khi đã có, quỹ đạo của tên lửa khi được phóng lên sẽ được xác định hoàn toàn.

Khi tên lửa bay trong không gian, trong trường trọng lực. Quỹ đạo được xác định, tên lửa "có nhiệm vụ" bay theo quỹ đạo đó. Khi đã rời bệ phóng – nếu không phải là tên lửa thông minh – thì quỹ đạo sẽ không thay đổi được. Và tên lửa chỉ có việc bay đến mục tiêu.

Khi tên lửa rời khỏi bệ phóng, gia tốc và hướng bay được xác định và cùng với các thông số như chúng ta vừa mới liệt kê thì một quỹ đạo cho tên lửa bay tới mục tiêu đã được vạch ra. Quỹ đạo này chỉ có thể thay đổi khi xuất hiện những tác động của ngoại trường lên tên lửa. Những yếu tố này rất nhiều, chẳng hạn như bị tên lửa đánh chặn của đối phương bắn trúng, khi ấy không phải là tên lửa thay đổi đường bay, mà còn có thể bị hủy diệt, vĩnh viễn không thể bay tới mục tiêu. Hoặc nếu là tên lửa thông minh, đường bay được điều khiển bằng thiết bị GPS, có thể tránh được tầm kiểm soát của ra đa đối phương, có thể bay tránh được những vùng khi tên lửa bay qua sẽ bị tấn công, hoặc bay tránh những vùng có điều kiện địa hình hay thời tiết bất lợi cho việc công kích.

Không những thế, lượng nhiên liệu cho tên lửa đảm bảo đầy đủ cho hành trình là yếu tố quyết định cho tên lửa có tới được mục tiêu hay không. Trong hành trình, vì lý do nào đó mà nhiên liệu bị hết sớm, đương nhiên tên lửa sẽ rơi. Hay khối lượng tên lửa quá lớn, loại nhiên liệu không đảm bảo đưa tên lửa đạt được gia tốc ban đầu cần thiết thì quỹ đạo bay cũng sẽ không thể đạt được như mong muốn, như để vượt ra khỏi sức hút của trái đất, bay theo quỹ đạo tròn quanh trái đất mà không bị rơi trở lại thì có tốc độ vũ trụ cấp 1, cỡ 7,9 km/s. Tốc độ vũ trụ cấp 2 cỡ 11,2 km/s, là tốc độ để tên lửa thoát khỏi sức hút trái đất, bay tới mặt trăng, còn có tốc độ vũ trụ cấp 3 là tốc độ thoát ly khỏi sức hút của trường hấp dẫn của mặt trời,... Tùy theo mục đích muốn đưa tên lửa tới đâu mà tốc độ ban đầu sẽ quyết định. Khi đó sẽ ứng với loại nhiên liệu cần thiết, cấu hình và trọng lượng tương ứng,... cho tên lửa, chứ không phải là khi tên lửa có tốc độ cấp 1 rồi, thì lại thay đổi ý kiến muốn đưa tên lửa bay ra khỏi sức hút của mặt trời, nghĩa là ứng với tốc độ cấp 3 mà được đâu! Muốn đạt được, phải xác định ngay từ đầu, để tên lửa rời bệ phóng, tốc độ ban đầu phải đạt được cấp 3 rồi.

Như thế ta thấy rằng, chỉ đối với tên lửa thôi mà muốn thay đổi quỹ đạo bay của nó đã nhiêu khê rồi. Với trang bị GPS, ta có thể thay đổi đường bay tới mục tiêu, nhưng cũng chỉ loanh quanh ở độ cao nhất định, chứ không thể thay đổi độ cao thế nào cũng được, hoặc giả hạ độ cao thì được, hoặc thay đổi quỹ đạo với độ cao không đổi thì được, chứ không thể bắt tên lửa thay đổi hành trình bằng cách bay ra khỏi sức hút trái đất, tiêu dao chán ngoài không gian rồi mới quay trở lại trái đất để tấn công mục tiêu. Cũng thế, phải xác định hành trình bay sớm để cung cấp đủ nhiên liệu ngay từ đầu cho nó, còn khi đang bay, lúc đầu muốn nó có hành trình 1000 km, sau lại đổi ý, muốn nó bay với hành trình 8 km, thì chắc tên lửa cũng bó tay.

Với máy bay thì thông minh hơn, vì có con người lái, có thể tiếp dầu trên không,... nhưng cũng dễ thấy ngay rằng, cũng có giới hạn của nó. Máy bay lạc hậu so với máy bay tân tiến, thì sự thực hiện hành trình bay cũng khác nhau nhiều, chất lượng thực hiện hành trình bay cũng khác nhau xa.

...

Bài toán này có thể mở rộng cho đối tượng bất kỳ, ở dạng tổng quát, đó là bài toán vật thể bay trong trường tác dụng. Xem con người như một thực thể, tồn tại trong mối tương quan chủ thể và khách thể, với cách hiểu, khách thể là tài thiên – địa, mà chủ thể là tài nhân, thì về hình thức, chúng ta có những tương tự với bài toán trên vậy.

Cho nên, về hình thức, chúng ta có thể xét chúng như cặp đối ngẫu. Xin thưa không phải là đối ngẫu Langland. Đó là đối ngẫu về bản chất, đối ngẫu hình học – đại số, đã được chứng minh trong toán học. Còn đối ngẫu ở đây, chỉ là một hình thức mà thôi, xin đừng lôi chuyện nọ xọ chuyện kia, tẩu hỏa nhập ma đó.

Cho nên, về hình thức, chúng ta hoàn toàn có quyền so sánh từng cặp.

Mệnh lý – như bài toán lý thuyết đường đạn vậy. Ở đây, những thông số ban đầu của tên lửa cho ứng với tứ trụ, nghĩa là thời gian mà đương số được sinh ra. Ứng với thời gian xác định – tứ trụ – thì có một lá số xác định – như một tên lửa được ra đời, được đặt lên bệ phóng. Cho nên, muốn tên lửa bay cao tới đâu, phải có loại nhiên liệu tương ứng. Cũng vậy, con người, khi được sinh ra, tứ trụ của họ đã xác định họ có "một khoảng không gian" xác định rồi, mỗi khoảng không gian đó, như một thiên hà đối với một hành tinh vậy. Đi từ lá số này sang một lá số khác, cũng tựa như ta bay từ thiên hà này sang một thiên hà khác. Mà với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay, tốc độ vũ trụ cấp 4, 5 chúng ta còn khó khăn trong việc thực hiện, thì muốn ra khỏi thiên hà, có làm nổi không?

Nhưng thay đổi trong Khoảng Không Gian của cùng một lá số, thì lại không phải là việc không tưởng. Nhưng cũng là bài toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Không phải thay đổi muốn thế nào được thế ấy. Cũng giống như hành trình tên lửa. Cho dù không bắt nó phải thay đổi độ cao, bay cao hơn, ra khỏi sức hút trái đất, nhưng muốn thay đổi hành trình cũng phải tuy vào trang bị của nó. Như đối với định hướng cổ điển thì chúng chỉ có thể bay theo hành trình xác định. Nếu thay vào đó bằng định hướng có điều khiển, trang bị thêm thiết bị dẫn đường, thì hành trình trong khuôn khổ không thay đổi độ cao, không bắt nó bay xa hơn quá lượng nhiên liệu dự trữ cho phép, thì nó sẽ thực hiện được. Nếu như nó trúng phải tên lửa đánh chặn, thì có khác gì một tai nạn giao thông, Còn nếu muốn nó thay đổi hành trình, hay tiêu diệt nó, lại không dùng tên lửa đánh chặn, mà dùng súng trường, hay súng lục thì sao nhỉ? Không nói cũng tự biết, khác nào đem xe đạp đâm vào vào xe ô tô để hy vọng xe ô tô tan nát, người lái xe bị thương?

Những người nghĩ đến chuyện Cải Số, có bao giờ nghĩ đến chuyện như thế này không nhỉ? Hay là cứ thấy nói đến hai chữ Cải Số, là cho rằng mình đã thử Cải rồi, Cải mà không được, rồi kết luận rằng, Ta đây đã Cải rồi mà còn không được, thì ai có thể Cải được số đây???!!! Vậy Ta là Chúa trời chăng? Khiêm tốn thì bảo, không, ta chỉ là người bình thường!!! thế tại sao, mới chỉ thử Cải, không cải được, đã tự cho là không thể Cải số?

Mỗi mục tiêu cải số, trên tử vi, đều ứng với những cách cục, ứng với những tinh đẩu nhất định. Có sao to, có sao nhỏ. Với sao to, khác nào tên lửa muốn bay vào không gian vũ trụ. Với sao nhỏ, chỉ là tên lửa muốn bay tránh vùng có thời tiết không thuận lợi cho việc công kích mà thôi. Cho nên, ngay trong lòng một lá số, muốn Cải, cũng còn tùy vào mệnh chủ của ta, to hay nhỏ, là cách cục hay sao đơn? Mệnh chủ to, kể từ lục sát tinh trở đi, từ thái tuế trở đi đã là sao to rồi, mà nếu mệnh chủ là cách cục thì nó còn to nữa. Muốn thoát khỏi nó, lấy gì để thoát. Như cách cục đi tu, tử tham kiếp không mão dậu, muốn thoát khỏi tu, muốn làm sư ăn thịt, cũng khó lắm. Nhưng với người trần mắt thịt, cách cục thông thường, ai cấm anh tu, anh không tu được ở chùa, thì cấm gì anh tu tại gia. Anh muốn lấy vợ mà vẫn tu, người khác bảo là anh tu... hú, nhưng cái tâm ta được giải thoát, thế không gọi là tu sao? Ai cấm anh, đâu cứ phải anh chiếm bằng được cái cách tử tham mão dậu phùng kiếp không dán vào mình, rồi mới bảo như thế là Tu, để dạt cho được Chân Tu???? Anh tu rồi, nhưng lại muốn đắc đạo, muốn làm một chân tu, mà anh lại đòi tu tại gia, anh vẫn lấy vợ sinh con, đẻ cái thì làm sao được? Mà cái Không Gian Lá Số của anh, nó có cách cho anh tu không đây? Nếu không có, thế ra anh muốn nhảy từ lá số này sang lá số khác ư? Vậy phải xem anh có đặt được vận tốc thoát ra khỏi thiên hà không cái đã! Với tên lửa, những thông số ban đầu quyết định hành trình – vận mệnh. Với con người, anh muốn quyết định vận mệnh mình – trong khuôn khổ lá số, thì anh cũng phải có cái Tâm, cái Trí, Cái Dũng, Nghị lực. Tùy mệnh chủ của mình mà cái Tâm, Cái Trí,... đó lớn hay nhỏ, vừa phải hay phải rất lớn mới làm nổi. Như anh mắc nghiện cũng vậy, đâu phải việc cai nghiện ai cũng giống ai. Có người cai không khó lắm, có người vật vã, có người phải trả giá bằng sinh mạng. Bởi vì nó còn tùy vào cái cách cục gây ra nghiện của thân chủ vậy. Cách nhỏ thì vượt không khó, nhưng cách đủ to thì khó lắm, vô phúc lại vớ phải cách Hỏa Linh Hình Kỵ Riêu, chỉ một sao thôi, cũng đủ táng mạng rồi. Không phải là anh có đủ Dũng, Nghị lực hay không nữa, mà còn phải có sức khỏe, có Tâm, và Trí cùng với sự giúp đỡ của xã hội nữa.

Sau khi anh thoát ra khỏi bệnh đó, anh sẽ đạt một trạng thái mới, mà thường gọi là vận hội mới. Vận hội này sẽ xác định cho anh một vận tốc và hướng mới, hay là mệnh chủ mới, mệnh chủ này có thể gần với mệnh chủ cũ, như thế sự thay đổi số mệnh sẽ không bao nhiêu, nhưng nếu mệnh chủ mới là sao to, khác nhiều so với mệnh chủ cũ thì cuộc đời anh sẽ có những bước ngoặt. Giải trên lá số, người giải số vẫn giải cùng lá số ấy thôi, nhưng nếu không giải theo lý mệnh chủ, sẽ không hiểu là có cải số, mà vẫn giải trên lá số ấy, với những cách cục xác định, cho ta những tiên tri mới. Có biết đâu, những cách cục cho tiên tri mới đó, người giải số như thế không có cách nào xác minh được người có số đã có số phận khác rồi. Và như thế cứ đinh ninh rằng, chẳng có cải số, nếu anh ta đoán đúng, còn nếu đoán sai thì lại đổ thừa tại giải không trúng, trình độ kém,....Trong khi, với phương pháp giải đoán đúng, chẳng có lý do gì lại phải tự nghi ngờ mình rồi phủ nhận chính mình, phủ nhận học thuật của mình!!!

p/s. Htruongdinh muốn đưa một trường hợp nào đó thì xin cứ tự nhiên. Mọi người cứ thảo luận thoải mái.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi TanLen73 Xem bài gởi

Bác Vuivui ví con người với tên lửa thì xem ra không hợp lý. Vì nếu tên lửa bị hỏng hóc nhỏ thì nó cứ phải nằm đó thôi nếu không có con người sửa chữa cho, các loại máy móc khác cũng vậy. Nhưng con người thì khác, nếu họ bị bệnh tật, nếu bệnh nhẹ thì cơ thể tự đào thải bệnh tật và bệnh tự khỏi, thậm chí nhiều bệnh nặng mà họ tự luyện tập cũng tự khỏi, còn những đồ vật không thể tự khỏi bệnh được. Chiếc đồng hồ hay Tên lửa tự hỏng chắc nó phải nằm chết, con người thì không vậy. Đó mới là cái hay của con người, cho nên có Bác sỹ còn cho rằng chữa bệnh cực dễ.

Tôi nghĩ đây cũng là lý do để con người có thể cải đổi vận mệnh.

Vài lới tham khảo

Kính

Tanlen nói tôi ví con người như tên lửa là sai. nên đọc kỹ lại bài tôi viết. Tôi nói rẩ rõ rằng, lấy bài toán về đạn đạo là một sự so sánh về hình thức, liền đó còn nhắc nhở đừng lôi cái gọi là đối ngẫu - mà hiện đang trở thành mốt thời thượng bởi cái đối ngẫu Langland với bổ đề cơ bản mà NBC được mề đay đó. Đó là một sự so sánh tương đối, trên hình thức luận là chấp nhận được mà tôi đã chứng minh rõ. Chứ không phải là Ví Như, hay là một sự đồng nhất!!! Vì thế cái vấn nạn mà Tanlen đưa ra, không có ý nghĩa gì ở đây cả. Đây là phương pháp tư duy cơ bản của con người - phương pháp so sánh - mà con người, từ dạng thấp nhất về trí tuệ cũng đã có sự sử dụng, và hơn nữa, trong lý học lại rất hay dùng. Như phép gán Tượng cho Quái là một ví dụ. Quái Càn có tượng là Vua cha, là Con ngựa già, là Trời, là.... Tượng là cái mà Giống, là cái mà được đem ra để so sánh - về tính, về lý của quái, để mà lấy đó mà xét biến hóa của quái, để mà thấy cái Hình của quái,... Nhưng như thế, không có nghĩa là ta đã ví quái càn là vua, cũng không vì thế mà suy ra vua là con ngựa già???

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi HacLongGiangzzz Xem bài gởi

Thưa bác vuivui, bác có nói đến cách Hỏa Linh Hình Kỵ Riêu dẫn đến tên lửa gặp nạn, so với cách Hỏa Linh Hình Việt Phi được lưu truyền giường như có hơi khác, phải chăng không cần Việt thì vẫn thành cách?

Bác có nói rằng bác đã xây dựng thành công lý thuyết về cấu trúc lá số cũng như cách an sao, cháu xin được hỏi lý thuyết này cho kết quả về Hành của sao, Quy tắc an sao, và Vị trí miếu vượng đắc hãm của các sao có khác gì so với Quy tắc an sao trong sách của VĐTTL không? chẳng hạn như: An tứ hóa cho tuổi Canh, Nhâm; sao Thiên trù hành gì, an sao Thiên trù như thế nào; Song Hao đắc tại đâu? Sao Thiên Hình có hành Hỏa hay hành Kim,...

Cháu xin cảm ơn bác.

-Tôi nêu hỏa linh hình kỵ riêu là có tính cách liệt kê những sao, dù chỉ khi đơn thủ, nó cũng tác họa mạnh mẽ, làm ví dụ. Chứ không phải đó là cách cục.

Theo cấu trúc sao của bảng tử vi mà tôi xây dựng, trước hết về 14 chính tinh, và bảng tứ hóa, hầu như là đúng theo Vân Đằng Thái Thứ Lang. Tuy nhiên bảng tứ hóa có một vài khác biệt, có lẽ cũng không phải là khác với VDTTL mà là do các bản in có khác nhau. Theo đó thì tôi xác định, như Tuổi Canh thì tứ hóa sẽ là: Nhật - Vũ - Âm - Đồng, mà không phải là Nhật, Vũ, Đồng, Âm. Tuổi Nhâm là Lương - Vi - Thiên phủ - Vũ khúc. chứ không phải là Lương, Vi, Tả phù, Vũ khúc.

Về miếu vượng đắc hãm của các chính tinh, cũng có một số khác so với bản in của tôi, như tử vi ở hợi là bình hòa, sát ở hợi đắc địa, trong khi ở một số tài liệu khác, hay bản in khác mà tôi được biết thì tử vi thất sát ở hợi đều là vượng địa. Với tôi thì tử sát tại tị mơi vượng địa. Tử vi tại tý là bình hòa. Có một số tài liệu thì cho rằng tử vi tại tý vượng địa.

Chẳng hạn thế.

Song hao đương nhiên hành Hỏa, miếu tại mão dậu và dần thân. Còn lại đều hãm địa. Thiên hình hành kim, là dương kim. Miếu tại Thân, vượng tại Dần. Kỳ dư đều hãm. Thiên trù hành thổ. Cách an như thái thứ lang thôi.

Có nhiều sách viết thiên trù hành hỏa. Điều này sai.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi Whitebear Xem bài gởi

Thưa chú VV.

Cháu xin hỏi, tại sao Thiên Phủ lại xuất hiện trong bảng an Tứ hóa? Có cơ chế gì không ạ?

@Gấu Trắng

Tất nhiên là phải có cơ chế. Cơ chế này nằm trong nền tảng chung của bài toán tứ hóa, và bài toán tứ hóa lại nằm trong bài toán lớn về nguồn gốc bảng tử vi. Để giải bài toán về nguồn gốc tử vi, việc đầu tiên là phải giải thích được sự tồn tại thiên bàn 12 cung với những mô tả như chúng ta đã biết hiện nay. Phải nắm được bản chất dịch lý của các phép chiếu, hội hợp, phá cách và hợp cách thực chất là gì theo đó chúng có thể được vận dụng như những "phép toán" trong lời giải của các phương trình vậy. Tiếp theo phải lý giải được quy luật nạp âm ngũ hành, sự hình thành cục, hành bản mệnh là cái gì và tại sao cổ nhân lại cho đó là Bản mệnh mà không phải là Mệnh được an tại cung mệnh, hay như cục vậy? Rất nhiều vấn đề, phải làm rõ trước khi đi vào hệ thống tinh đẩu. Cái quan trọng nhất là phải chứng minh rằng chúng thực sự tồn tại, và chúng phải thế trên nền tảng của tử vi - chứ không lại thành môn khác mất rồi! tử vi như là một biểu diễn mệnh cũng như tử bình hay nhân tướng,... vậy, chỉ là những biểu diễn khác nhau về mệnh thôi, do đó nó phải có chung một hệ thống lý thuyết tổng quát mà tử vi chỉ là biểu diễn trong số các biểu diễn khác nhau mà thôi. Như (một cách hình thức) biểu diễn Schrödinger và biểu diễn Heisenberg đối với vật lý lượng tử vậy.

Bởi vậy, việc nói cơ chế tứ hóa, dù chỉ là với một can Nhâm thôi, cũng sẽ là một hệ liền mạch của cả hệ thống.

Nay tôi chỉ nêu một số gợi ý, để có thể thấy tính hệ thống của nó mà thôi.

Không như nhiều tử vi gia khác xem tứ hóa như là Hóa khí của bốn mùa - thực ra chúng ta hoàn toàn có thể thực chứng được vấn đề này, nhưng nhiều người lại "cố tình" lờ đi, hoặc cố tỏ ra là vấn đề phải thực chứng là không tồn tại - để có thể thấy được là hóa khí bốn mùa có "vào" tử vi hay không. Tứ hóa, đơn giản chỉ là Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ Khí mà thôi. Không cần thiết phải vễ vời nào là cho rằng Lộc là hóa khí của mùa xuân, quyền là hóa khí của mùa hạ, khoa là hóa khí của mùa thu, kỵ là hóa khí của mùa đông. Để rồi từ đó tìm những tính chất của bốn mùa mà ghép cho tứ hóa. Từ đó dẫn tới nhiều tính lý của tứ hóa "lạ lẫm" mà người ta cứ thản nhiên chấp nhận.

Khi chúng ta hiểu về Khí trong đông phương học, liên hệ với can chi, với thần sát,... chúng ta sẽ hiểu được khi biểu diễn các tinh đẩu của tử vi, có một số tinh đẩu, khi nạp Can, sự biến hóa sẽ xuất hiện và nảy sinh tứ hóa. Những quy tắc xác định tứ hóa sẽ xác định bảng tứ hóa mà trong đó Can nhâm thì lương vi phủ vũ được thấy rõ.

Sau khi có sự xác định như thế, xét về nhiều mặt ứng dụng và tính lý, chúng ta cũg sẽ thấy sự hợp lý, liên hệ, can nhâm, tử vi hóa quyền thì lương phải hóa lộc, vũ phải hóa kỵ - nghĩa Ẩn đi - thì Thiên phủ phải Hiện ra.

Thân ái.

...

Lan man chút chuyện lý học và tử vi.

Kính chào mọi người - thành viên của diễn đàn huyền không lý số!.

Mấy hôm nay vào diễn đàn mấy lần, mỗi lần vào là một lần viết bài, nhưng kỳ lạ thay, hễ cứ post vào diễn đàn là bài viết biến đâu mất tiêu. Kỳ lạ là ở chỗ, bài viết được viết dưới một chủ đề mới mà tôi lấy tên - tử vi là gì. Mở đầu mỗi bài viết, đều là chúc mừng diễn đàn huyền không lý số cùng với lời chào kính trọng tới toàn thể anh chị em thành viên cũng như các bạn đọc xa gần đã ghé thăm trang web này. Bây giờ cũng vậy, viết thêm một lần nữa lời chúc và kính chào mọi người - nhưng đặt tên chủ đề khác với trước, xem thử thế nào?. Ngồi ngẫm nghĩ, không biết có phải là cái tên chủ đề - tử vi là gì - nó có to nhớn quá hay không?. Hay là "Thiên cơ" chưa được phép tiết lô?.

Thôi thì xem đó như là một "định mệnh". Mọi sự cứ để tự nhiên, tới đâu hay tới đó.

Cũng định mở một "phòng giải đoán tử vi" với ý định, người thiên hạ, giúp người thiên hạ. Nhưng còn đang vướng bận, chưa kết thúc được chủ đề cùng mục đích ở bên tử vi lý số. Đành xin khất lại, khi kết thúc, thì chuyển phòng giải đoán đó sang bên này.

Nói đến đây, lại mấy hôm trước có đọc chủ đề do anh Vân Từ lập ra, "Một lá số nhiều cuộc đời". Thấy cũng có nhiều ý kiến ra vào. Nếu là ở bên Tử Vi Lý Số, thì tôi cũng vốn là bỏ qua. Ai muốn bàn sao thì bàn, nói sao thì nói. Tôi chưa công bố sách, thì cứ "bình chân như vại", "bình thản như không". Nhưng ở bên nay, Tôi không muốn những ai đã vào đây, lại có sự ngộ nhận, cũng như hiểu biết sai lệch về tử vi nói riêng và Đông phương dịch lý nói chung. Nên, nhân đây, cũng có đôi lời:

Vốn Tử vi, những người sáng lập ra nó, hay sự tồn tại của nó, chỉ là - chỉ là thôi, nhưng đã to tát biết nhường nào - xem bói!!!, nói cho có vẻ sang là, nghiên cứu cuộc đời con người, hay nói theo mệnh học, là nghiên cứu về số mạng con người, với một bộ số liệu gồm năm - tháng - ngày - giờ sinh của người xem số. Bởi vậy, hai tiếng, tử vi cùng với người giải số (thày bói) vừa bị người đời coi thường - vì mê tín - vừa bị người đời tò mò. Lại khơi gợi sự tín ngưỡng ở nơi mỗi con người mỗi khi cuộc đời "sa vào địa ngục. Còn khi, cuộc đời lên hương, thì tử vi cùng với thầy bói, lại "được" đặt dưới Đít của các Vị đã từng tín ngưỡng trong một thời khốn khó!.

Nên, Tử vi và cái nghiệp xem Bói. Nó Bạc lắm. Đừng học nó làm gì. Mà ngộ nhận về nó, thì người ngộ nhận lại càng tai hại. Hậu quả nhiều khi vô lường!.

Tử vi, tự bản thân, từ khi nó được sinh ra, vốn nó đã mang trong mình nó nhiều vấn nạn!. Nhưng có thể đoan quyết rằng, những vấn nạn gặp phải này, hầu hết là do... Không Hiểu tận gốc nền lý học đông phương. Mỗi người quan tâm, lại vốn có óc tò mò, vì cái sự huyền bí của nó, thêm vào cái óc tưởng tượng phong phú, mà nhào nặn một cách vô tình, cũng như có ý thức bởi những dục vọng nhất định nào đó, nên mới ra nông nỗi. Rồi thì, vấn nạn thăng hoa, khiến cho tử vi, cũng như lý học đông phương ngày càng trở nên phi lý, mê muội, dần dần trở nên cực đoan cả về hai phía. Phía tích cực thì cố gắng "gào" cho thật to: Nó là Khoa học, mà chẳng làm được cái gì để khẳng định tính khoa học của nó. Phía kia thì cũng La Hét thật lớn rằng: Đồ mê tín - dị đoan. Cũng lại chẳng làm được gì để mà xóa bỏ nó. Bởi vì, chính hắn, khi thất cơ lỡ vận, lại "rón rén" tìm đến để xin "một quẻ" xem khi nào thì Đời Con Khá Lên, Thưa Cụ!. Gớm, sao nói ngọt ngào thế!. Chả bù cái lúc anh chửi người ta!. - hi hi.. Rát Cả Mặt. Thậm chí các Quan lại còn Đốt sách, bỏ tù những các Thày. Khổ thay!!!. Cũng vì điều này. Hậu nhân ngày nay, chịu bao thiệt thòi, Không có Sách (thật), Không còn Minh sư. Thành ra, phần nhiều tự học. Chỉ có Hải Ngoại, một thời, lý học đông phương được coi trọng ở miền nam, năm 1975, những người tâm huyết và một số thầy còn sống sót, may mắn được ra hải ngoại, gìn giữ và sưu tập được một số ít, tuy vẫn còn hiếm hoi. Nên, nếu có một cái nhìn tổng quát, thì không thể phủ nhận, lý học đông phương và tử vi, chắc tử bình cũng vậy ở hải ngoại thì chính tông!. Còn ở quốc nội thì lâm bệnh: Trăm Hoa Đua Nở!. Đáng tiếc, phần nhiều là Hoa Dại!. Về Lý học, mang đạm màu Triết học của đông phương, ngay cả các Vị được xem là những Học giả, mà Tôi biết còn là Hàng đầu, lại rất chi là ú ớ!.

Đáng buồn chứ không đáng vui.

Huyên Không Lý Số, có tham vọng... hay chăng?... dù chỉ là gìn giữ!! Sá gì cái gọi là Dịch Kinh của ai?. Tử vi là của ai?. Bởi vì, ở cả hai nơi, dù là Tàu, hay VN, đều có thể hiện chứng bệnh: Trăm Hoa Đua Nở kia mà. Làm sao có thể lấy cái Khuyết của người ta mà chê, mà bai, để giành cái chân lý về cho mình được?. Cái quan trọng là, cống hiến thế nào, thì được đánh giá như thế. Người cống hiến có quốc tịch gì, thì nước đó đại diện mang danh sáng tạo ra cái cống hiến đó!. Vậy thôi. Như Einstein lập thuyết tương đối, ổng là người Do Thái, mang quốc tịch Đức, thì Dân tộc do thái tự hào, Nước Đức tự hào. Chả đúng hay sao!.

Thế nên, nghiên cứu, tìm tòi, hầu có nhiều cống hiến. Văn hóa là của chung nhân loại. Mấy anh tàu, khi nói chuyện với Tôi, cứ khoe Khổng Tử này nọ. Nhưng khi Tôi phê: Khổng Tử nhà chúng mày là Vạn Thế Sư Biểu. Chúng tao học đến đâu, biết Ổng vĩ đại đến đó. Nhưng có mấy cái, Sai Toét. Nói ra, chúng mày cũng tắc họng. Thì hay ho gì mà khoe. Nếu Tao khoe rằng: Khổng tử nhà chúng mày sai toét, tao đúng, chẳng lẽ Tao hơn được Khổng Tử à?. Sai phải không!!!. Nhưng bảo Khổng tử vĩ đại, lấy đó mà khoe, mà làm cao với chúng tao, thì không được. Kính nhi viễn chi thôi!!!. Đời nào, biết đời ấy. Cái chí là để cho Tâm nó Tĩnh, Óc nó sáng. Thế mới học được cái hay của tiền nhân, biết được cái dở của tiền nhân!.

Thôi, dài rồi. Buổi đầu gặp mặt, mà cứ lan man. Chẳng ra sao cả. Xin thứ lỗi!.

Thân ái.

...

Xin cảm ơn thịnh tình của các anh Vân Từ, anh Văn Hoài cùng anh chị em đã đọc chủ đề này.

Như đã nói, tử vi vốn đã có nhiều vấn nạn, hầu hết là do không hiểu đến nơi đến chốn, rồi phóng tác. Một trong những vấn nạn, mà nhiều người nhắc đến, xuyên suốt một chiều dài lịch sử cận đại. Đó là số lượng lá số tử vi là rất ít so với số người thực tế hiện sinh. Theo tính toán, số lượng đó chỉ hơn nửa triệu lá số. Vậy mà, chả nói đâu xa, ngay chỉ ở việt nam không thôi, đã có số dân lên tới gần 90 triệu người. Cái lý tự nhiên là buộc mỗi lá số phải "gánh" nhiều hơn một cuộc đời. Và như vậy, hiển nhiên, một lá số không thể, dù bằng lý luận kiểu nào, chỉ tương ứng với một người xác định nào đó. Đó là lý do đầu tiên, dễ thấy nhất cho những người không hiểu tử vi, và cũng chả cần hiểu, để bôi bác!. Nếu hiểu thêm chút nữa về chiêm tinh học, thì người ta sẽ ngưỡng mộ chiêm tinh học tây phương, bởi mỗi lá số được chính xác tới từng phút. Thế nhưng, tử vi vẫn là tử vi, vẫn có những lời giải đoán kỳ quái, chính xác tới độ chiêm tinh cũng phải kính ngưỡng!. Người bạn tôi, vốn là một nhà sử học, cũng là một viện sỹ hàn lâm, giáo sư, nghiên cứu nhiều năm về chiêm tinh, cũng phải sửng sốt trước cái uyên thâm của tử vi, cũng như tính cụ thể và độ chính xác của nó!!!. Ông ta có nói. Chiêm tinh học có hạnh phúc một thời đã được các nhà toán học, vật lý học, cũng như triết học châu âu, vì sinh kế mà nghiên cứu nó, như Kopecnik, Gauss,... Chính họ bằng kiến thức và trí tuệ của mình đã tạo nên phong cách, phương pháp luận cho môn chiêm tinh học.

Tử vi, vốn ngày xưa, Tiền nhân đâu có vấn nạn số lá số ít ỏi này. Tiền nhân ta vẫn giải đoán chính xác, nhưng đáng tiếc, những huyền thoại về một lá số đoán cho nhiều cuộc đời lại không thấy ghi lại trong sử sách, cũng như truyền khẩu. Bởi vậy, có thể võ đoán rằng, vấn nạn này đã được lờ đi. Tử vi được sử dụng như một công cụ, mà không được thâm cứu cho đàng hoàng. Có chăng, chỉ là những bổ sung nhằm phục vụ cho những lợi ích trước mắt.

Khái niệm Mệnh chủ - do Tôi được đưa ra, vốn không phải là nhằm vào mục đích giải quyết vấn nạn này. Trên tuvilyso.net có người cũng đưa ra và nghiên cứu nó. Chỉ đáng tiếc, nó được đưa ra hơi muộn, sau khi Tôi đã chứng nghiệm trên dưới 20 lá số bằng pương pháp xác định mệnh chủ - nếu sơm hơn, thì có thể mọi người có quyền nghĩ rằng, Tôi đã học được từ người này chăng?.

Nhưng điều quan trọng mà Tôi cần phải nói, nếu các bạn có quan tâm tới lý thuyết mệnh chủ đó thì hãy tìm hiểu cho thấu đáo, tránh tình trạng Râu ông nọ cắm cằm bà kia. Bởi lý thuyết mệnh chủ mà Tôi đề xướng hoàn toàn không có bản chất như vậy. Cách tìm mệnh chủ, dù người ta cố gắng đoán ra, cũng vẫn cứ là không phải. Và đặc biệt là cách dùng mệnh chủ, lại càng phải thận trọng. Bởi dùng sai, đương nhiên dẫn đến kết quả sai. Như nhiều người, có một thời tôn thờ phương pháp sao treo, sao rung bởi những kết quả giải đoán kinh ngạc của nó. Cũng đã có cố gắng học hỏi và tìm tòi phương pháp đó, để mà sử dụng. Nhưng hỡi ôi, tất cả đều đi vào bế tắc, dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Để rồi khi dùng không được thì nguyền rủa nó, vứt bỏ nó. Thậm chí, khi thấy nó xuất hiện trở lại thì có thái độ kỳ thị!.

Mệnh chủ, tổng quát hơn sao treo rất nhiều. Nền tảng của nó không cùng một nền tảng của sao treo. Song về hình thức, có thể xem sao treo như một người bạn xa nhau lâu ngày gặp lại vậy!. Mệnh chủ có những quy tắc xác định với tính chất khẳng định, chứ không phải bằng linh cảm, không phải bằng sự ứng hợp, như tìm dụng thần trong tử bình. Nếu hiểu như là tìm dụng thần thì đó là một tai họa cho tử vi. Tìm mệnh chủ, có đầy đủ điều kiện cần và đủ. Thiếu chúng, dù chỉ một điều kiện nhỏ, cũng đưa tới sự mơ hồ cho việc xác định mệnh chủ, khiến cho luận đoán rơi vào sự thiếu quyết đoán.

Nhưng vai trò của mệnh chủ không dừng ở chỗ giải đoán. Nếu các bạn quan tâm đã từng nghe nói, Tôi đã từng có một chủ đề gọi là Cải Số, thì Mệnh chủ chính là chìa khóa để giải quyết nó. Tuy rằng, có thể nói, cho đến nay, vấn đề cái số tôi đã chứng minh được nhiều mệnh đề và có tính ứng dụng khá đặc sắc. Song phải nói thẳng rằng, Cải số, thật vô cùng khó.

Một lá số trong chủ đề giải đoán cho những người được hứa bên tuvilyso.net đã được dùng để giải đoán cho người cha - lá số của mylive123 - đã thấy sự đắc dụng của giải số.

Thật vậy, với lá số ấy, Tôi đã giải đoán: Nếu là ngày xưa thời không thể qua khỏi. Nhưng với thời nay thì lại khác. Khả dĩ có thể hóa giải. Và Tôi đã đoán cụ thể cách hóa giải. Sau này được chính thân chủ tường min. Rõ ràng với căn bệnh nhồi máu cơ tim, mà dẫn đến tồn tại cục máu đông nằm ngay trong buồng tim, không có cách nào lấy ra được, trừ phi phải đại phẫu. Thử hỏi, với ca ấy mà ngày xưa, tim làm sao mổ. Vậy có phải là không thể qua khỏi hay không!. Đó là số Chết - đúng không?. Nhưng ngày nay, chuyện mổ tim, lấy máu đông trong buồng tim bằng đại phẫu đã được giải quyết. Nhờ đó mà bệnh nhân được cứu sống!. Đó chẳng phải là Cải Số thì là cái gì đây!.

Giải đoán được đến nhwu thế, chỉ vẽ đường đi được đến như thế, không có mệnh chủ, ắt không thể giải đoán nổi!!!.

Nhưng mệnh chủ, dùng đâu có đơn giản. Các bạn không nên thông qua những gì mà Tôi chưa công bố, làm cái việc râu ông nọ cắm cằm bà kia, để rồi thất vọng mà trách Tôi đấy nhé!. Muốn dùng được mệnh chủ, phải có hệ thống lý thuyết dẫn đường, như giải một phương trình toán học vậy. Phải có phương pháp giải!. Mà muốn có phương pháp giải, thời phải học bao nhiêu lý thuyết toán, lý mới có thể sử dụng được chúng. Chứ đâu có phải là vài câu khơi khơi mà dùng được ngay. Tử vi, nếu đúng về môn học, xét theo khoa học, hay nôm na là lý học, thời nó phức tạp và khó khăn hơn học khoa học như ta học trong trường cho đến bậc đại học, cũng như đi làm tiến sỹ nhiều. Xin các bạn đừng vội vã.

Thân ái.

...

Thân chào anh Vân Từ và Huongvi.

Ý kiến của anh và huongvi, tôi cũng đã có suy nghĩ. Như tôi đã có trình bày trước ở trên, dự định mở một "phòng giải đoán" ở đây, cho diễn đàn vui vẻ. Song còn dang dở bên trang tuvilyso.net. Mà danh sách bên đó, mặc dù đã đóng rồi, nhưng vẫn còn dài quá. Hơn nữa, dạo này phần vì bận rộn, phần vì sức khỏe không mấy tốt, nên tiến độ chậm quá. Nhiều khi nhìn vào danh sách, cũng thấy sốt ruột. Hơn nữa, mỗi lần giải đoán xong cho lá số nào đó là một lần nữa, hàng loạt câu hỏi tiếp theo lại được nêu ra. Cứ với tình hình như thế, thì có đến... tết Công Gô...

Thành ra, suy đi tính lại, có lẽ xin phép ban quản trị ở đây. Tôi mở một Phòng gọi là trao đổi các vấn nạn tử vi, để mọi người vô đó thoải mái đặt vấn đề, đánh đố cũng được, bài xích cũng được. Và trong phạm vi cho phép, nếu không vi phạm vào nguyên tắc bản quyền bí quyết sách vở, kiến thức thì tôi sẽ cố gắng trao đổi cùng quý vị, nhằm, trong chừng mực nào đó giải quyết những vấn nạn, hoặc định hướng lại những kiến thức khả dĩ lệch lạc.

Có câu, một cây làm chẳng nên non. Kiến thức của tôi, cũng chỉ là hạt cát trên sa mạc mà thôi. Nên mong có thêm nhiều cao thủ tham gia, bổ sung, giúp đỡ và trao đổi cùng tôi, thêm mở mang kiến thức.

Xin cám ơn sự quan tâm của tất cả các bạn.

Thân ái.

...

Chào các Bạn quan tâm.

Tôi lại xin phép lan man một chút về một số câu chuyện tử vi!.

Số là hôm trước, có vào đây viết bài. Viết được một bài dài về cái sự vô lý, hiểu sai trong một số câu chuyện huyền thoại tử vi. Bài viết khá dài. Nhưng khi post bài vào diễn đàn, thì....nó lại biến... mất tiêu. Chán quá, nên bỏ, mấy ngày!. Hôm nay mới vào lại. Thôi thì cứ cố "mò" vào đây. Viết lại cái bài này xem sao.

Ngày xưa - vì lâu quá, quên mất tiêu vào thời gian nào của cuộc đời mình - có nghe được câu chuyện, mà là chuyện kể, chứ không đọc trên sách báo. Mãi sau này mới đọc được câu chuyện trên sách báo. Đó là câu chuyện về ông vua khai sáng triều đại Minh bên... Tàu Khựa lận. Ông Chu Nguyên Chương. Tất nhiên, câu chuyện này thì, ối người biết. Nhưng cái vô lý, nó chứng tỏ rằng cái người viết ra câu chuyện đó, có lẽ không phải là một tử vi gia chính tông!. Hay là tác giả có cái máu... bốc phét. Nhưng mà, khổ một cái, ối người tin. Và!. Có bao nhiêu người đọc, thì chí ít, cũng có thể lắm, tới 60 - 70% số đó, là Tin "sái cổ".

Nay xin tóm tắt câu chuyện "hoang đường" này.

Số là khi Chu Nguyên Chương lên làm Vua, một hôm ngồi buồn mới ngẫm lại cuộc đời của mình, mới tự cho rằng: Đúng là cái Số của mình là số làm Vua. Số làm con Trời mà. Chứ không thì làm sao có chuyện lạ lùng. Một thằng đệ tử của Ma Giáo (gọi cho hay là Minh Giáo, nên mới có cách giải thích là triều đại nhad Minh) như mình, ngoi mãi mới lên được chức Đường Chủ. Thế rồi, thời thế tao loạn, mà bỗng chốc có ngày hôm nay. Làm Vua một nước Trung Quốc vĩ đại - to đùng. Không phải là do Trời ban, do Số đã định thì làm sao mà mình thành Vua được chứ?. Mà cái Dân TQ, đa phần là Ngu, Dốt nát - mà Mình thì cũng ở trong số đó. Nhưng cũng có một tầng lớp, hay chí ít, đếm không xuể bao nhiêu thằng nó khôn rách giời, thông minh tuyệt đỉnh. Thế mà chúng nó lại không làm Vua được, lại đi Phò - đúng là Phò - tá cho Mình, phò cho một thằng Ngu như mình lên làm Vua, mở ra một triều đại, rất chi là Văn minh, lại văn minh bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa vĩ đại này mới ác chứ.

Ậy!. Nhưng cái giống đời là vậy. Cái giống dân châu á này cũng lạ thiệt. Sao mà, cứ thằng nào cũng như thằng nào, đều Đội nhưng thằng vừa ngu, vừa ác, vừa bất lương lên đầu. Tự nguyện cho nó đè đầu cưỡi cổ suốt đời mình mới lạ chứ. Đấy có phải là do cái Truyền thống văn hóa nó thế không nhỉ?. Đó có phải là do cái tư tưởng Khổng Mạnh nó chế ngự, nó thấm vào máu cái Dân này như thế không nhỉ?. Nhưng mà thôi. Đó lại là cái chuyện triết học, tư tưởng và chính trị. Trở lại cái chuyện "xưa như trái đất" kia đã.

...

Khi ấy, họ Chu mới nghĩ rằng: Phàm đã là số, thì số mà làm vua, thế nào cũng làm vua. Như thế, không lẽ, những kẻ, mà có cùng năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh với mình, cũng phải có số làm vua. Mà như thế, ngai vàng của mình đâu có vững nữa. Sẽ có ngày những kẻ đó thoán đoạt ngôi báu của mình. Âu là ta đi tìm chúng, giết quách hết đi khỏi hậu hoạn.

Thế là họ Chu kia mới sai quần thần đi khắp nơi, cùng chốn trong nhân gian, hòng tìm cho hết những kẻ có cùng ngày sinh tháng đẻ với mình mà đem giết hết đi. Giết mãi, đến một hôm, lại "ngồi buồn" bần thần nghĩ mà rằng, hay là ta cứ thử hỏi xem mấy cái thằng ấy nó làm nghề gì, cuộc đời chúng nó đã ra sao?. Rồi đem giết, cũng chưa muộn!!!.

Hỏi ra, mới biết, có thằng thì nuôi ong,... mà hình như hi hi... cũng có thằng nuôi... chuột thì phải . Như cái thằng nuôi ong, nó nuôi 9 cái tổ ong, mỗi tổ, - đếm theo kiểu của người TQ - thì cũng có tới 9 vạn, 9 ngàn - 9 trăm - 99 con ong lận (nói theo kiểu không cần đếm, nói bừa đi thi cứ gọi là cái 9 vạn 9 nghìn ấy mà) Thế là Họ Chu mới giật mình nghĩa rằng: Mình cũng làm Chúa 9 châu, mà Dân TQ thì cũng thế, cũng là cái loại: 9 vạn 9 nghìn ấy. Thế thì, thằng Chả nuôi ong, làm Chúa của loài ong, mình làm Chúa loài người - chỉ TQ thôi nhé!.

Thế ra, cả Lũ chúng ta, thằng nào cũng làm Vua cả. Thế thì giết chúng làm quái gì cho mệt, lại tổn Đức nữa!. (vậy mà cũng còn nghĩ đến Đức nữa???).

Nghĩ rồi, liền Tha Bổng. Từ đó về sau, yên trí, gối cao, ngũ kỹ.

Lại có chuyện, như trong Nhân Tướng Học của Hy Trương có kể lại.

...

Có hai người cùng ngày tháng năm sinh. Một người thì được Đẻ ở dưới sông (ấy chết, lộn, trên thuyền, thuyền bơi trên sông có nước!!! hi hi ) Còn kẻ kia thì được đẻ ra bên bếp "lò rèn". - Không có nước, chỉ toàn có lửa, lửa tứ bề.

Thế là: một đứa, để dưới sông, sau này làm Quan To... đùng. Còn thằng bé - gọi là thằng, vì nó không làm quan - sinh ra bên lò rèn, thì... nó... làm thợ rèn. Thế là, liền có lối giải thích, vì một đứa đẻ ở dưới sông, nên có Thủy chế Hỏa, mà tứ trụ của hai đứa này Hỏa quá vượng, cần Thủy để cân bằng, nên Ông Bé - gọi bằng ông, vì nó làm quan - sinh ra dưới sông được cân bằng ngũ hành, thế là làm quan. Còn thằng kia, nó phải làm lò rèn, vì không có nước - hình như là nó được sinh ra rồi, bà mụ quên mãi sau mới cắt rốn cho nó, và lâu sau nữa mới cho nó tắm, nên cái Hỏa của lò rèn không được nước trong chậu tắm cân bằng - hi hi .

Rồi lại có chuyện, ở Việt Nam mới ác, lại liên quan đến cái nhân vật có Thật, Thật 100% kia. Là ông Nguyên Công Trứ. Chuyện này, mới được post lại bên chủ đề Một lá số, nhiều cuộc đời. Mà cũng thấy na ná giông giống với cái chuyện hai ông bé sinh ra, một dưới sông, một ở cạnh lò rèn của Hy Trương. Không biết có chuyện "Đạo Chích" văn chương, hay điển tích gì gì đó ở cái nền văn học hai nước khổng nho này hay không? nữa đây!. Mà không biết là ai Đạo của ai, ai Chích của ai?. Thôi thì, đều là học trò Không - Mạnh cả. Cái Giống nó thế .

...

Thế nhưng, tất cả, dù có là thật 100% đi chăng nữa về cốt chuyện, nhưng nếu nhận xét, thảy đều có mục đích nói rằng: Có, một lá số, nhiều cuộc đời, mà lại khác nhau cả. Như vậy, rõ ràng là để nhằm minh chứng cái chuyện một lá số, có nhiều cuộc đời - nhưng mà chỉ tìm được có Hai thôi, còn những thằng kia, đều chết hết cả rồi. Vấn đề là ở chỗ đó. Song lại tự ông lại đấm lưng ông. Bởi vì rằng, nếu muốn minh chứng, một lá số, có nhiều cuộc đời, thì sao lại dẫn chuyện ngớ ngẩn, lối giải thích lại càng ngớ ngẩn hơn nữa. Càng chứng tỏ, chả hiểu quái gì về tử vi cả, chả hiểu gì về lý số cả.

Thật vậy. Với câu chuyện Chu Nguyên Chương. Nếu một lá số, mà thảy đều làm Vua, như họ Chu nghĩ, thì sao có thể một họ Chu lại Giết được cả Lũ kia cho nổi, chỉ còn mỗi Chu sống?. Rồi thì cái Thằng nó làm Chúa ong, nó sinh cùng ngày sinh tháng đẻ với họ Chu, thế những thằng không sinh cùng ngày sinh tháng đẻ, mà nó cũng nuôi ong, thế hóa ra nó là làm Quan ong à?. Thế sao không so sánh thằng làm chúa ong với thằng làm quan ong, xem thằng nào phát đạt hơn thằng nào?. Thằng nào nuôi nhiều ong hơn (vì chỉ cần nuôi mưới vạn con ong, chả cần 9 vạn 9 nghìn là đã thắng rồi)?. Sao không biết khối thằng, đứa nuôi bò, đứa nuôi cá, đứa nuôi lợn, đâu có cần chúng cứ phải có ngày sinh tháng đẻ cùng với họ Chu?. Đó là chưa kể, một quyết định, hay lối suy nghĩ như vậy, chả lẽ triều thần đều ngu cả hay sao mà không lý lẽ nổi. Làm quái gì có chuyện đó. Đúng là hoang đường!.

Rồi thì cái chuyện đứa đẻ dưới sống, đứa trên cạn, mà làm quan hay làm dân đen. Rồi giải thích là làm cân bằng ngũ hành. Nghe đã thấy vô lý. Bởi vì rằng, cái sự bổ sung ngũ hành đó, trong câu chuyện, chưa có thấy nêu tác động hiệu quả của nó thực thụ. Nghĩa là, cái việc đẻ dưới sống, thì ngay khi đó, đã có biến cố gì xảy ra với hai đứa trẻ để chứng minh là hiệu quả điều hầu của ngũ hành?. Không nói được tới cái đó, làm sao có thể minh chứng được cái việc sinh ở dưới sông là có tác dụng thực sự?. Có khác gì là nói lấy được, để mà giải thích cái điều mà hàng chục năm sau mới thấy rõ là khác nhau, mới là cái hiệu ứng của lò rèn, của cái thuyền trên sông?.

Qua đó. Chúng ta đều thấy, cả ba câu chuyện trên, đều là "Bịa" cả. Hậu học, khi học mà không phân tích kỹ, cứ nghe thế nào, rồi đem kể lại. Thành thử, mấy môn Bói Toán, trở nên Dị Đoan cũng là phải!!!.

Thân ái.

...

Cách tính Nguyệt và Thời vận

Chào anh Vân Từ!.

Lâu rồi, không gặp anh. Hôm nay vào đây, lại thấy anh mở chủ đề này. Nên góp vui đôi lời.

Vấn đề nguyệt hạn và thời hạn, chúng ta nên tìm hiểu cả hai phương diện, lý thuyết và thực tế. Sau đó mới rút ra bài học cho chính mình.

-Lý thuyết. Hầu như sách nào cũng đề cập đến vấn đề này. Nhưng chỉ nói sơ sơ. Nhận xét qua các sách, tài liệu mà tôi được biết, thì theo tôi, sách của Vân Đằng Thái Thứ Lang là trung thực nhất. Còn các sách khác, ví dụ như của nguyễn phát Lộc, cũng như nhiều sách khác mà tôi đã xem qua đều cố gắng lựa chọn và chỉ một lựa chọn về cách xem nguyệt vận. Trong khi của VDTTL lại có ghi chép tới ba phương pháp xác định cung nguyệt hạn. Xem xét kỹ một chút là thấy ngay, các vị kia, chỉ ghi một cách xác định cung nguyệt hạn, nhưng kỳ thực là lối trình bày hình thức, cũng không dám nói thẳng là có tới ba cách xác định nguyệt vận - sợ rằng sách sẽ giảm giá trị, vì không xác tín, không có tính quyết đoán chăng?. Theo tôi cũng còn một nguyên nhân nữa, kỳ thực các vị đó cũng chẳng hiểu gì về cách xác định này. Nên không dám đương đầu với thực tế như VDTTL. Nếu có viết ra tới ba cách lận, thì ngộ nhỡ có người hỏi thì cũng sẽ ấm ớ, không trả lời được. Mà đòi nghiệm lý thì cũng ngắc ngoải nốt. Nên tốt nhất là cứ sao chép, và sao cho có vẻ nghiêm chỉnh, hoàn thiện, thì chỉ nêu một cách xác định và chỉ một mà thôi, thế là người đọc, về tâm lý thì chả thể nào có thắc mắc mà lật ngược vấn đề. Thế là, lúc sinh thời, thì sẽ được an toàn. Sách in ra, quý hồ có độc giả, bán được là ok!!! Ngược lại, VDTTL thì khác hẳn, ông ta nói thẳng ra rằng, đây còn đang là vấn đề, cần phải nghiên cứu. Nên người đọc, đến đó tất sẽ phải có suy ngẫm, nghiên cứu mà xác định. Quý hồ, mỗi người đi theo một đường lối, sẽ tự xác định cho chính mình một lối xem nguyệt hạn riêng.

-Về thực tế. Có thể nói, đã xem đến nguyệt hạn, thời phải là đại cao thủ. Phải vượt qua ngưỡng xem đại vận, tiểu vận rồi mới tới được nguyệt vận. Nhưng không phải chỉ có thể. Bởi vì khi xem tiểu vận, người giải đoán đã phải vật lộn với câu hỏi, thưc chất là ngưỡng, là cái Barie rất khó vượt qua. Đó là xem tiểu hạn phải đối mặt với ba cung xác định tiểu vận: Lưu niên, Tiểu vận và Thái tuế, cùng với 9 sao Lưu. Chính ở nơi đây, đoán biến cố thật dễ - bởi vì nó có tới ba cung với 9 sao lưu động, khiến cho người đoán dễ nói nhăng nói cuội, xác xuất trúng vẫn cao, nhưng cũng lại là nơi thể hiện trình độ của người giải đoán rõ nét nhất. Bởi vì, đoán trăm phát trăm trúng, đoán được tới mức cụ thể không thừa không thiếu. Đoán cho ai cũng vậy, đều có độ chính xác tối đa, chứ không đoán theo kiểu người này thì trúng, người kia thì không!. Hoặc đoán về từng vụ việc, có việc thì trúng, có việc thì sai!. Khi đã đoán ở dạng lúc trúng lúc sai, thì đó là Đoán Mò. Chắc chắn là không biết đoán, cho dù nói năng thao thao bất tuyệt, nghiệm lý hoành tráng, cũng chỉ là bốc phét, hoặc giải đoán theo kiểu gọt chân cho vừa giày mà thôi. Kỳ thực là chưa biết giải đoán, hoặc nói cho trung thực là chưa có phương pháp giải đoán.

Phàm đoán vận lưu niên còn chưa được, thì dù có nói rồng, nói phượng đoán cho nguyệt vận thế này thế nọ, cũng chỉ là sao rỗng, lòe người mà thôi!. Khi việc xảy ra rồi mới nghiệm lý, rồi thì phán rằng nó xảy ra là vì cách này, cục nọ. Đó thực là không đúng. Chúng ta hoàn toàn có quyền nghi ngờ trình độ của họ. Bởi vì rằng: TTL đã nói toạc móng heo rằng, có tới ba cách xác định cung nguyệt vận, thì nếu ta nói tới cách cục nào đó, xác định bởi cung nào đó, thì lời đoán phải gắn với một cách xem xác định. Vậy mà có tới ba cách xem, ngay TTL còn chưa xác định nổi, thì bằng vào đâu mà Ta có thể nói như thánh như tướng vậy?.

Chưa hết. Còn có một vấn đề vô cùng quan trọng, mà nếu không nắm được trọn vẹn, thì không thể nào giải đoán được. Đó là ý nghĩa của cách cục nhập vận. Bởi vì khi nhập vận, ý nghĩa của cách cục khác xa so với ý nghĩa của cách cục hay sao khi giải đoán tổng quát. Mà trong sách vở, cũng như phú đoán, thử hỏi chúng ta có được bao nhiêu?.

Ngay như giải đoán tổng quát, có thể nói là tầng thấp nhất mà đã có mấy ai vượt qua cái ngưỡng đoán trăm phát trúng cả trăm!!! ngay như đoán có mỗi việc giàu hay nghèo, sang quý hay bần tiện, quân tử hay tiểu nhân, đáng tin hay không đáng tin, người tốt hay xấu còn ú ớ. Còn như mà đoán được vài chục phần trăm, cũng có nghĩa là đoán chưa tới, trình độ vẫn còn là chưa xác định mà thôi!. Chẳng thể đánh giá được!. Hay nói như các nhà khoa học thì có nghĩa là: Không đáng tin. Thôi, anh đi chỗ khác cho tôi nhờ!!!.

Thì làm sao mà có thể dám đặt cược tương lai cho Chàng, khi chàng đoán Vận???.

Thân ái.

Luận bàn Thiên Không

Xưa nay, sách vở cứ nói. Trước tam thập niên khán mệnh, hậu tam thập niên khán thân. Người học cứ thế dùng. Nhưng nếu đặt câu hỏi. Thế dùng như thế nào?.

Thường có câu trả lời rất ngây ngô rằng: Thì trước 30 tuổi khi xem số nên tập trung vào cung an mệnh. Sau năm 30 tuổi thì tập trung vào cung an thân. Lấy lý rằng, trước 30 tuổi chưa tự lập, còn sau 30 tuổi, con người ta đã trưởng thành, thân tự lập thân. Xem mệnh như Thể, Thân là Dụng, nên mới phân ra cách xem như thế. Nói sai thì chẳng sai, nhưng không biện chứng. Và rốt cuộc, chẳng có ai nhờ xem như thế mà cho lời giải xác đáng cả.

Bởi vì, mệnh thân là một cặp âm dương. âm dương thì tiêu trưởng. Theo tứ tượng thì trong mệnh có thân và ngược lại. Thế nên, ở tuổi nào mà chả có cái thân hành động, ở tuổi nào mà chả có cái ta ở trong đó. Nên nói, mệnh âm thân dương là nói lên động tĩnh, vật chất và tinh thần... ở trong chúng. vì thế, khi giải đoán, khán mệnh thì thì xem xét các sao vật mà luận, khán thân thì xem sao tinh thần, thấy sự tương giao, thích hợp thì đó là tốt, ngược lại thì phẩm chất mệnh thân không mấy hay. Chẳng hạn thấy chủ mệnh là thái âm, mà chủ thân là thái dương thì thật là hay. ấy là người thông minh tuyệt đỉnh, công danh sáng sủa, căn cơ vững vàng, vật chất đầy đủ, phú quý thập toàn và số lại thọ nữa. Nếu ngược lại mà mệnh là thái dương, thân là thái âm thì cương nhu đảo lộn. chỉ là loại vinh thân phì gia, cho dù có được hưởng bổng lộc, hay vật chất thì phú quý chóng tan, thọ mệnh cũng không được lâu, là loại người u tối. dẫu nhật nguyệt có sáng sủa đi chăng nữa cũng chỉ là nhất thời mà thôi.

Hay như mệnh TPVT mà Thân thì SPT đó là hợp lẽ cương nhu, khẳng định được ngay là người có tài, tiến thoái đúng mực, khôn ngoan hơn người, lại có tài chế phục thiên hạ. Người như thế lo gì mà không thành tựu. Nếu có cách cục toàn hảo thì đó là phi thường cách, như VDTTL phê số đâu có sai. Cái lý phi thường nằm ở đó.

Nhiều lắm.

Thân ái.

...

Trích:

Trường hợp Mệnh có chính tinh mà Thân vô chính diệu, không có Tuần Triệt hoặc sát tinh đắc địa tọa thủ thì không tốt

Điều này đúng!. Nhưng nếu hỏi, tại sao lại nói là không tốt?. Các sách mà chúng ta từng biết đều đã trả lời, bởi cung VCD như "nhà không có nóc". Thực ra, câu này nói với mệnh cung - theo nguyên bản. Nhưng nó cũng vẫn đúng đối với cung VCD bất kỳ. Nhưng chỉ đến đấy dừng thì đúng, nếu luận sâu hơn, xa hơn thì lại có khi sai toét. Bởi vì, chẳng hạn như nói vận, gặp vận nhập cung VCD, đúng là nhà không nóc thật. Nhưng chưa chắc đã không phải là hay. Bởi vì, nếu gặp Mệnh có nhật nguyệt sáng sủa thì vận nhập cung đó chỉ cần vắng sát tinh là hay rồi, nếu thấy được khôi việt, xương khúc, hay tam minh cùng tả hữu thì hay nữa. Hoặc mệnh cũng VCD nhưng được Tam không thì vận đó cũng sẽ hay. Nhược bằng mệnh VCD mà có sát tinh nòng cột miểu thủ, vốn là hay, nhưng nhập vận cung VCD, thì thế nào cũng bế tắc, mà dẫn đến tình trạng động loạn, thất bại thê thảm.... Nên nói, VCD như nhà không nóc chỉ là một sự nhắc nhở, cần chú ý tới cái sự không tốt này mà gia giảm, chế hóa sao cho khéo, chứ không dễ thành đoán bậy.

Trích:

Mệnh thể hiện sự thụ hưởng tinh thần, Thân thể hiện sự thụ hưởng thể xác.

Kết luận như thế mà để dùng luận đoán tất sẽ phiến diện, kết quả luận đoán sẽ chỉ dừng ở một điểm nào đó. Khi luận xa hơn, sâu hơn sẽ thành sai. Thực chất, biện chứng mệnh - thân là biện chứng âm dương, cái nền dịch lý đầu tiên nó nằm ngay trong đó. Đi sâu hơn, xa hơn để thấy được cái tinh hần dịch lý trong tử vi là kiến thức cao cấp. Nay chỉ tạm nói với mệnh - thân mà thôi.

Thật vậy, mệnh - thân là một cặp âm dương, vốn chẳng có thể định nghĩa được. Có một khẳng định là, mệnh - thân, bản chất là không thể định nghĩa. Hễ ai muốn định nghĩa, hay nói là định nghĩa được, thế tất có thể kết luận ngay: Sai, sai về căn bản, sai hẳn về gốc rồi.

Mệnh - Thân, không định nghĩa, do hễ đã định nghĩa, hay muốn định nghĩa, tức là ta đã muốn xác định Nó là Cái gì rồi!. sai là ở chỗ đó, không hiểu cũng là ở chỗ đó. Mệnh thân, đơn giản là cặp âm dương, được hiểu theo ngôn ngữ âm dương học. Nên nói, Thể - dúng liên hệ với mệnh - thân, cương - nhu liên hệ với mệnh - thân, vật chất - tinh thần liên hệ tới mệnh - thân, tiền vận - hậi vận liên hệ với mệnh - thân, nhân - quả liên hệ với mệnh - thân, phú - quý liên hệ với mệnh - thân, cường - nhược liên hện với mệnh - thân,... Nhưng chớ tá hỏa mà cho rằng, cao - thấp, phải - trái, điện tích âm - điện tích dương, vĩ mô - vi mô, đực - cái liên hệ với mệnh thân trong cái biện chứng của tử vi. Chúng ta thấy, cái "tổ hợp" mệnh thân như thế, hỏi có thể định nghĩa, nó là cái gì được chăng?.

Vì thế, khi giải đoán, phải lấy tinh thần dịch lý ra mà luận. Hễ gặp cương nhu thì phải xét mệnh cần nhu, thân cần cương, ấy là hợp cách, mệnh thân như thế, lo gì tai họa, sợ gì cường quyền. Thời loạn, gặp người như vậy là có số thọ, làm được việc lớn, tin cậy được bởi biết lùi biết tiến, dám nghĩ dám làm,... Như mệnh Phú, mà Thân Quý thì hay, chứ ngược lại thì chỉ là loại thùng rỗng mà thôi, thậm chí số lại yểu nữa là đằng khác, như thấy luận mệnh cần lấy sao vật làm chủ thời hay, luận thân cần lấy sao tinh thần là đúng cách. Được như thế tất là quý nhân, chứ không thể là phàm nhân tục tử được. Hay ở đây, thân VCD mà có Triệt tức là có Không Vong rồi. Nhưng Thân cần Không hơn cần Vong, nếu có Tuần thì hay hơn. Nhưng không vì thế mà bảo có Triệt không hay, còn phải xem Mệnh có cái gì đã, có tương hợp với luận chứng âm dương hay không không nhất thiết là chỉ có thẩ thành công chỉ về tinh thần được. Chẳng hạn như mệnh mà có sát phá tham thân VCD có Triệt thì phú quý vô tả, nhưng nếu mệnh âm dương thì cũng thường thường thôi, hoặc mệnh mà gặp Cơ Đồng Lương thì với cái Thân ấy cũng nên vất đi, thọ được ngày nào hay ngày ấy, thảng hoặc mệnh mà TPVT thì với thân ấy cũng long đong lận đận, đa hư thiểu thực.

Muốn luận tử vi, bước đầu tiên của luận đoán, cần xem xét chỗ này rồi mới luận tiếp theo được. Bước chân đầu tiên đặt sai vị, thì các bước tiếp theo sẽ hỗn loạn, không nhìn được cái gì cả, dễ thành luận giải lung tung.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi Thiên Khốc Xem bài gởi

Thưa bác Vuivui,

Mệnh Thân ghép vào Âm Dương TK đọc thấy có mâu thuẫn như vầy

Đầu tiên bác viết: Nên nói, mệnh âm thân dương... Chẳng hạn thấy chủ mệnh là thái âm, mà chủ thân là thái dương thì thật là hay... Nếu ngược lại mà mệnh là thái dương, thân là thái âm thì cương nhu đảo lộn... Hay như mệnh TPVT mà Thân thì SPT đó là hợp lẽ cương nhu.

Nhưng phần sau bác lại viết: Như mệnh Phú, mà Thân Quý thì hay, chứ ngược lại thì chỉ là loại thùng rỗng mà thôi, thậm chí số lại yểu nữa là đằng khác, như thấy luận mệnh cần lấy sao vật làm chủ thời hay, luận thân cần lấy sao tinh thần là đúng cách.

Theo TK hiểu Phú vốn là Dương so với Quí là Âm! Phía trên bác chọn chủ Mệnh nên là sao Âm (tinh thần, nhu, Thái Âm, TPVT) nhưng dưới bác lại luận Mệnh cần sao vật chất (Dương - tức so với trên phải hiểu là cương, Thái Dương, SPT )!!! Như vậy Mệnh cần sao chủ Âm hay sao chủ Dương để được đúng cách??? (Và ngược lại Thân nên luận cần sao Dương hay Âm?)

Thật là quờ quạng đến bối rối!!!!

TK hiểu sai rùi. Thế nên mới bối rối!

Vật chất - Tinh thần là một cặp âm dương, âm chủ vật, dương chủ thần. Thái âm so với thái dương là âm, Thái dương chủ về tinh thần, theo lẽ thì nó chủ về sự tôn quý. Thái âm chủ về vật chất theo thế thì nó là phú tinh. Vì thế mới nói, thái âm chủ về điền trạch, chủ về tài lộc, mà thái dương chủ về quan lộc, là quyền tinh! nên mệnh có thái âm mà thân có thái dương là đúng cách. Dù có là hãm địa, hay xấu nhất là âm dương phản bối đi chăng nữa thì cũng là người có danh vọng, tuy nghèo. Cũng là người thông minh hơn người, đa tài, đa nghệ, mẫn cảm.

Phú - quý là cặp âm dương, phú âm mà quý thì dương. nên mới nói, phú thì giàu có, lắm tiền tài, nhiều của nả vật chất. còn quý thì sang trọng, quyền quý, có danh dự,... đó là những đặc tính thuộc dương.

Thân ái.

...

HTD thấy luận giải của anh MINHMINH ở diễn đàn TVLS khá hay nhưng đáng tiếc là bị phản bác mà anh MINHMINH không đáp trả. Anh MINHMINH không có ở diễn đàn HKLS nên HTD không gửi được lời xin copy lại.

Trích:

CUNG ÁCH: THIÊN PHỦ GẶP KHÔNG KIẾP THÌ ĐÃ DỰ BÁO CHO BIẾT TRONG ĐỜI THẾ NÀO CŨNG CÓ LẦN PHÁ SẢN.

ĐẠI HẠN VÔ CHÍNH DIỆU CHỦ SỰ KHÓ KHĂN BẾ TẮC, ÁCH CÓ KHÔNG KIẾP ĐẾN HẠN GẶP LỘC TỒN LÀ CÁCH KIẾP LỘC HAO TỐN MẤT MÁT VỀ TIỀN BẠC NHÀ CỬA, VIỆC XẢY RA BẮT ĐẦU TỪ NĂM 48 TUỔI LÚC LƯU NIÊN ĐẠI HẠN VÀO CUNG MÃO LÀ CÁCH THỔ KHẮC ĐÔNG NAM PHÙNG CHÂN TỐN < MÃO MỘC KHẮC THỔ >, CUNG MÃO LÀ CUNG CHẤN, CHẤN VI LÔI CHO NÊN SỰ VIỆC XẢY RA RẤT NHANH KHÔNG KỊP TRỞ TAY. NƠI ĐÂY CŨNG HỘI KHÔNG KIẾP Ở HỢI CHIẾU VỀ. NĂM 07 LÀ NĂM ĐINH HỢI, ĐINH HỎA KHẮC CANH KIM, MẤT LUÔN THIÊN THỜI LÀM SAO CHỊU NỔI.

PHẢI CHỜ ĐẾN 52 TUỔI THÌ MỚI PHỤC HỒI MỘT CHUT, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC NHƯ XƯA.

VỀ VÒNG THÁI TUẾ: CỤ THIÊN LƯƠNG KHÔNG NÓI, SÁCH CỦA TÁC GIẢ THIÊN LƯƠNG CŨNG KHÔNG CÓ CHỖ NÀO NÓI KHI VÀO VẬN THÁI TUẾ THÌ GIÀU CÓ.

KHI VÀO VẬN THÁI TUẾ NGƯỜI TA THƯỜNG HAY ĐƯỢC THỎA MÃN CÁI CHÍ CÁI ƯỚC MUỐN CỦA MÌNH, VÀ SẼ CÓ NHIỀU NGƯỜI BIẾT ĐẾN MÌNH < TỨ LINH >. TUY NHIÊN KHÔNG CÓ GÌ LÀ TUYỆT ĐỐI, NHẤT LÀ CÒN TÙY THUỘC VÀO NHIỀU YẾU TỐ PHỤ THUỘC KHÁC, TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY NGƯỜI TUỔI CANH KIM, MỆNH THỔ LÀM SAO HƯỞNG THÁI TUẾ

THÁI TUẾ MỘC KHẮC THỔ, THẾ THÌ CÒN PHẢI HOẠN NẠN VỚI HẠN THÁI TUẾ NỮA LÀ KHÁC, HẠN NÀY NGOÀI VIỆC BẠI SẢN CÒN PHẢI ĐỐI PHÓ VỚI NHIỀU CHUYỆN THỊ PHI, GIẤY TỜ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬT PHÁP.

VẬY NHƯNG AI ĐÓ CỨ NẰNG NẶC NHƯ IN ĐẾN HẠN TAM HỢP THÁI TUẾ LÀ NHẤT ĐỊNH PHẢI THĂNG QUAN TIẾN CHỨC PHẢI GIÀU CÓ... THÌ THẬT LÀ MỘT SAI LẦM.

...

Chào chị htruongdinh.

Như Tôi đã trình bày, mong muốn có được một sự phản biện, nhìn nhận một cách có hệ thống về lý thuyết vòng thái tuế. Bởi vậy, để khách quan và rộng đường dư luận, cần có những trích dẫn chính xác, trung thực với nguyên bản. Chứ không phải là những nội dung được người ta hiểu, hay vận dụng. Bởi vì, khi phản biện, không thể phản biện trên các nội dung ấy. Sẽ mất đi tính chính xác, khách quan về nội dung, cũng như tư tưởng của người khai sáng ra nó. Khi ấy, hậu duệ của họ sẽ có những phản biện có thể phản biện ngược lại rằng, tư tưởng của người khai sáng đã bị hiểu sai, từ đó, sẽ có những lập luận mất đi tính phản biện khoa học. Biến nơi đây thành những cãi vã, xung đột cá nhân.

Nội dung trên của anh MM khi lý giải đại vận thái tuế của anh alan, về đường lối là không khác gì với tôi cả. Cụ thể thì có khác, bởi anh ấy dùng những phương pháp lập luận khác tôi, song kết quả không mâu thuẫn. Hơn nữa, về bản chất, cũng là sự phản đối lý luận thái tuế. Bởi vậy, Tôi không muốn có ý kiến gì cả.

Tôi đã nói nhiều lần. Như theo chỗ tôi biết, cụ Thiên Lương không bao giờ có nói rằng vào vận thái tuế thì PHẢI GIÀU, PHẢI CÔNG THANH DANH TOẠI. Mà chỉ nói vào đại vận thái tuế thì người có số THƯỜNG được THỎA MÃN, DỄ THÀNH TỰU, THÀNH DANH VỚI ĐỜI....nếu như trong đại vận không bị xung phá quá mạnh. Mệnh đề đó nhằm giải thích cho những lá số mà cụ gặp phải khi nhập vận Thái tuế thì những người đó thường có danh tiếng, bộc phát công danh, và mọi sự hanh thông.

Xin hãy nhớ điều này. Nếu viết lệch đi, thì dễ hiểu lầm ý cụ. Nhiều khi, chưa chắc đã bị phản đối, khi mà giải thích lá số thấy đúng với thực tế với trường hợp xác định. Nhưng ngộ nhỡ, ở trường hợp khác không thấy đúng, mà nếu bị phản biện, những người bảo vệ lý thuyết thái tuế sẽ đưa ra phản biện rằng chúng ta đã hiểu sai lý thuyết đó, và lại đưa chúng ta sang những vấn đề mới, nhiều khi chẳng liên quan đến vấn đề đang được quan tâm, và cuối cùng, sự tranh luận là vô hồi kỳ trận, không có điểm nhấn.

...

Chị htruongdinh thân mến.

Khi giải đáp lá số của anh alan giai đoạn vận thái tuế, tôi dã có tiên liệu rằng, những người bảo vệ thuyết thái tuế thế nào cũng tìm cách nắn cái vận trình thất bại của anh alan cho nó đúng vào với vận trình có thiên không. Cách nắn đơn giản nhất, và cũng hiệu quả nhất, khó phản biện nhất là cho anh ấy sinh ở giờ khác với giờ ứng với lá số anh ấy lập ra. Nhưng có lẽ, họ cũng Run khi muốn có kết quả ấy, bởi vì đương số sẽ phản ứng mạnh, ít nhất cũng quyết đoán như là có ý kiến khi anh Vân Từ link sai lá số. Thành ra, họ lựa chọn phương pháp thay đổi việc khởi đại vận. Nhưng khi chọn phương pháp này, chắc hẳn họ quên mất cái điều sơ đẳng, làm như thế có khác nào lạy ông con ở bụi này. Bởi vì, khởi đại vận khac nhau, sai lệch một cung, nghĩa là các tinh đẩu, cách cục tham gia vận trình là hoàn toàn khác nhau. Điều này, tự bản thân nó, lý thuyết về tinh đẩu đã không thể đồng nhất. Cũng như lý thuyết về tinh đẩu của nam phái và bắc phái không thể đồng nhất với nhau vậy. Nay lấy khởi đại vận theo bắc phái, mà lại luận tinh đẩu của nam phái thì khác gì làm cái chuyện râu ông nọ cắm cằm bà kia.

Đó là một vế. Vế khác nữa là thể hiện căn bản học thuật không vững, nghèo nàn. Thật vậy. Khi tôi luận vận thái tuế của anh alan, tôi dùng hoàn toàn lý thuyết sách vỡ cũ, cũ như trái đất mà không hề có lời nào dùng lý luận hóa khí, mệnh chủ và lý quản chế. Trong khi đó, ở vận thiên không, tôi lại dùng nó rất cụ thể. Đồng thời tôi có tuyên rằng, ai đó có khả năng phản biện vận thái tuế thì xin mời. Thực chất là Tôi mong có cao thủ nào khác vào tận đây phản biện. Hy vọng cao thủ đó thực sự là cao thủ chân chính của học phái thiên lương, họ sẽ có những chiêu số tân kỳ để phản biện. Thế nhưng, đáng tiếc chẳng có ai, lại có một con gà chui đầu vào gáy vào buổi chiều tà. Lôi ra cái học phái Bắc phái mà lại hầu như không nắm được kiếm chiêu của bắc phái. dùng lộn kiếm chiêu của nam phái cho bắc phái, mà còn lớn tiếng thách thức.

Thực ra, như tôi đã trình bày ngay từ đầu với lá số của anh alan, rằng có nhiều phương pháp luận vận trình thái tuế cả anh ấy, mỗi phương pháp sẽ cho ra kết quả tổng thể là tương đương nhau, nhưng mỗi phương pháp sẽ có sự cụ thể khác nhau, thậm chí tính cụ thể, chi tiết sẽ tăng dần theo tầm vóc của phương pháp. Phương pháp càng tinh vi thì lời đoán càng tới chỗ cụ thể và tinh tế. Như thế, với phương pháp của tiền nhân mà tôi đã nói, có ở tất cả các sách cũ, thì độ chính xác chỉ đến chỗ đại khái thế thôi. Muốn chi tiết hơn, phải phối chí thêm sao, nhưng cũng sẽ vẫn ngày càng khó khăn, bởi thực sự giới hạn cuả phương pháp đó là như vậy. Với phương pháp hóa khi, mệnh chủ thì đoán chi tiết hơn rất nhiều. Và tôi đã ý tứ đoán cho đại vận kế sắp tới ủa anh alan.

Tóm lại, về mặt thực tiến, với lá số của anh alan làm một ví dụ, tương đối điển hình để bác lý thuyết thái tuế. Và với những gì tôi đã lập luận, thiết tưởng là đã đủ. Nay chỉ còn phản biện về mặt lý thuyết nữa mà thôi. Nhưng cũng là một việc khá dây dưa. Bởi dùn thực tế chứng minh, thì sẽ khả thấy. còn dùng lý mà luận chứng, lại có thể hay không, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và thái độ nghiêm túc của đối phương. Một khi mà họ thiểu năng trí tuệ, hay sở học kém quá, cũng như không có thái độ nghiêm túc thì cũng Bótay.com. Nhưng thôi, Tôi không quan tâm, chỉ quan tâm tới các bạn đọc của Tôi mà thôi. Theo phương châm: Nói phải củ cải cũng nghe!.

Hẹn bài tới, chúng ta luận chứng trên lý thuyết.

Thân ái.

...

Chào bạn nguoisaigon.

Rất vui khi có bạn vào đây phản biện. Tuy chưa có thể khẳng định Bạn có phải là một cao thủ như tôi mong muốn hay không. Nhưng với lập luận bảo vệ phái thiên lương như vậy, kể cũng là một lập luận xác đáng. Và cũng nhờ lập luận này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của học phái thiên lương, như cách nói của hậu bối học theo lý của cụ Thiên lương.

Khi luận vận trình thái tuế của anh alan, Tôi có nêu ra ba điểm, làm yếu tố chủ đạo để khẳng định sự suy thoái, phá tán của vận đó. Bao gồm:

-Mệnh – Thân đồng cung chính tinh thủ thuộc nhóm CNDL, gặp vận cung VCD – một cách tổng quát – được Nhật Nguyệt sáng chiếu (trường hợp của anh alan) (Tôi không xét hóa khí, vì chỉ dùng lý của tiền nhân, trước cả cụ Thiên lương) là bế tắc, không phát triển được, thiếu may mắn. Nên nhớ tôi không khẳng định về sự phá sản do cái lý này!!!.

-Mệnh Thân đồng cung có Cơ Lương miếu thủ đắc là đẹp, nhưng ngộ Tuần, theo TTL là phản ngược, sáng thành tối. Nên xấu. Bản thân Tôi không cực đoan như vậy, nên chỉ khẳng định mệnh thân cơ lương sáng sủa ngộ tuần là mệnh yếu. Vì thế, vốn khi sáng sủa gặp vận trình cung VCD thì đã bế tắc, khó phát triển. Nay Mệnh bị Tuần án thì yếu, gặp hoàn cảnh không thuận thì đương nhiên sẽ tăng nặng, dẫn đến suy thoái. Vâng, suy thoái, chứ không phải là phá sản, cơ đồ, sự nghiệp đi tong.

-Chỉ khi vào vận, đã VCD, lại có hung tinh, sát tinh hạng nặng – Bạch hổ thủ (trường hợp của anh alan), cho là miếu địa (theo TTL và nhiều sách cũng đồng ý Bạch hổ đắc địa tại Thân) thì về lý thuyết chung, mệnh thân yếu, gặp vận trình có sát tinh thủ nòng cột (xin hãy hiểu nòng cốt ở đây không phải là nòng cốt như là trụ cột của mệnh, để buộc nó phải đồng hành với hành của bản mệnh, mà phải hiểu rộng hơn, đó là sao thủ vai chính cho vận. Vì thế, với cung VCD, như lý thuyết tổng quát khẳng định rằng, cung VCD mà có Sát tinh thủ, thì Sát tinh đó sẽ thủ vai chính cho cung đó. Nếu Sát tinh đó hãm, thì cung đó xấu, nếu sát tinh đó đắc địa thì cung đó như được cứu, nghĩa là sẽ tốt). Bởi vậy, Vận VCD có Bạch hổ đắc thủ, là được cứu. Nhưng Mệnh Thân yếu, nên không thể thủ đắc được, tất phát rã như lôi. Có phát tất rã.

Tổng hợp ba điều trên, có thể phán rằng, Vận thái tuế của anh alan tất phát, rồi tất phá sản. Cụ thể vào thời gian nào thì với lý luận này phải xét vào từng niên vận cụ thể, khó có được cái nhìn tổng quan vào thời gian nào như lý hóa khí, hay lý mệnh chủ. Nhưng như tôi đã nói, Tôi chỉ dùng lý của tiền nhân.

Như vậy, xét ba lý trên, đều xem cung hạn của anh alan như là một cung bình thường, không quan tâm tới sự có mặt của Thái tuế hay không!!!.

Xét lý của nguoisaigon, cho rằng bởi vì mệnh thân gặp tuần, và hỏng là tuần, chứ với bất cứ cung nào, (bởi vì nói rằng không phải là do thái tuế hay VCD gì cả) vận nào mà không có Triệt tháo gỡ đều phải lãnh hậu quả là phá sản. Lập tức sẽ xuất hiện những vấn đề sau:

-Nếu Triệt không nằm trên đường vận hành của đại vận, chẳng hạn như không là dương nam, mà là âm nam, hay cho là dương nam, nhưng triệt nằm ở tý – sửu, chứ không nằm ở ngọ – mùi, thì theo cái lý này, tất đương số sẽ bị phá sản, cả đời không ngóc đầu lên được?. Bạn đọc có thể nghiệm lý điểm này mà đi tới kết luận ngay lập tức!.

-Với cái lý phá sản do tuần tại mệnh, bất kể là thái tuế hay VCD thì như vậy, có thể suy trực tiếp rằng, Vậy Vận Thái tuế chẳng có ý nghĩa gì đối với mệnh ngộ tuần triệt!. Điều này, tự nó trái với lý thuyết thái tuế, cho rằng vào vận thái tuế đương số phải được thỏa mãn, và đối với vận tốt như vận của anh alan thì đương số phải thành tựu (chỉ là lớn hay nhỏ thôi, chứ không thể phá sản, nhưng thành tựu phả là khả dĩ nhất trong đời). Nay chỉ vì Tuần không án mệnh, mà bỏ đi cả, và thậm chí, vào bất cứ vận nào, nếu không được triệt tháo gỡ thì đời cũng đi tong. Bởi vì thái tuế đẹp như vậy mà còn phá sản thì vận khác không đẹp bằng thì đương nhiên phải gánh hậu quả nặng nề hơn rất nhiều. Điều này là vô lý, không đúng thực tê, có thể thấy ngay trên rất nhiều lá số khác. Và điều này, sự bảo vệ cái lý vận thái tuế, vô tình lại tự bác cái lý vận thái tuế là vận đẹp nhất trong đời, thậm chí còn có lý luận cho rằng, vào vận thái tuế, chỉ khi bị xung phá quá nặng mới hỏng, nhưng cũng có tiếng tăm để đời. Hoàn toàn tự mâu thuẫn.

-Với cái lý tuần không án mệnh, phủ nhận hai lý do trong ba lý do tôi trình bày ở trên, có thang bậc, cấp độ tác họa của nó đã cho thấy bằng lý luận này không thể thấy được cấp độ tác hóa của tuần không cho từng trường hợp cụ thể với những cung mệnh khác nhau. Như thế là thiếu biện chứng, bất khả luận giải. Chỉ có tính chất tung hỏa mù về mặt lý luận. Không có khả năng thực tiễn. Trong khi đó, với ba lý do trên, vận trình được gọi là thái tuế vẫn có chỗ đứng, không chỉ vận thái tuế, mà vận nào cũng được, mỗi vận tùy theo cụ thể mà luận, vẫn có thể có thành tựu, hay xui rủi.

Đến đây, bạn đọc có thể tự đánh giá.

Thân ái.

...

Chào chị htruongdinh

Bởi lo rằng người có số mà chị vừa đưa lên sắp tới đây gặp nhiều cơ hội, công danh sự nghiệp sẽ tấn phát mà không biết thì sẽ lỡ làng. Nên tôi giải vận này của lá số này. Đồng thời cũng chứng minh luôn, chẳng có thái tuế gì ở đây cả.

Trước hết cần chú ý. Xem số phải có phương pháp chuẩn. Một phương pháp chuẩn là phương pháp đó phải áp dụng được mọi lá số, mọi trường hợp. Không thể có chuyện, với lá số này thì phương pháp này dùng được, với lá số khác thì lại không dùng được. Chỉ có chuyện là độ chi tiết, tinh tế với những trường hợp khác nhau thì có thể khác nhau đôi chút, do nguyên nhân là cùng một phương pháp, nhưng đối với một lá số nhất định có thể dễ giải hơn lá số khác. Chỉ có vậy thôi.

Khi giải lá số của anh alan ở vận thái tuế. Tôi có đưa ra ba điểm, mang tính phương pháp luận. Điểm thứ nhất là mệnh CNDL, gặp vận VCD. Điểm thứ hai là Mệnh – Thân đồng cung gặp vận VCD. Điểm thứ ba là Vận VCD có Bạch hổ thủ vai chính. Đối với lá số mà chị đưa ra. Lý Mệnh CNDL đương nhiên phải có vận hành, chứ không thể thoái thác, tìm cách vứt nó đi, hoặc cố tình bỏ quên cho được nó. Mệnh cơ lương sáng sủa là tốt, gặp vận VCD cũng sẽ gặp nhiều trở ngại, thiếu may mắn, khó phát triển. Nay gặp Tuần thì mệnh trở nên yếu, gặp Vận VCD, thì như trên chúng ta đã thấy. Nhưng Lá số này khác hẳn với lá số của anh alan bởi cái Thân không đồng cung với Mệnh. Thân này lại VCD gặp Bạch hổ sát tinh thủ đắc được hành bản mệnh tương sinh nên thân này tốt đủ sức cứu mệnh. Tiên lượng hậu vận người này tốt, vâng, rất tốt là đằng khác, bởi vậy, dù vào vận thái tuế này cũng sẽ phát mà không rã. Nhưng với Mệnh yếu bởi Tuần thì muốn phát thì cũng phải chịu năm lần bảy lượt vấp ngã, trục trặc mới nên thân người. Nhưng cái sự phát này là do Bạch hổ đắc thủ tại vận, cũng như thủ thân, chứ chẳng có vai trò của thái tuế gì gì đó ở đây chút nào cả. Có chăng thái tuế ở vận này chỉ làm khổ thêm cho thân chủ bởi vì thái tuế hội cùng Hóa kỵ hợp chiếu về thân, nên phải chịu sự điều tiếng, bất tín nhiệm, sự không hài lòng cùng những nghi kỵ,... là những nguyên nhân tham gia vào việc phải chịu sự thất nghiệp. Chứ chẳng phải gặp thái tuế là một sự bộc phát, sự thỏa mãn, dương danh với đời gì ở đây cả.

Đó là về tổng quan. Khi xét vận này. Với trường hợp của anh alan, thì phải cách nhật nguyệt chiếu cung VCD là cách cục chính. Nhưng với trường hợp của người này thì lại không phải, mà cách cục chính của anh ta là dịch mã động, phùng nhị lộc gia cách minh lộc ám lộc ngộ tuần. Từ cách này mà luận thì khẳng định rằng, bởi có tuần chi phối cách cục minh lộc ám lộc án trên dịch mã thì buộc phải có sự dịch chuyển nhiều lần và thay đổi công việc một cách cơ bản. Sự dịch chuyển này là truân chuyên do Tuần, cùng với bản chất minh lộc ám lộc chủ về cuối vận mới phát. Gia thêm cách nhị lộc hội họp hóa cát, cũng là cách chủ ăn về hậu vận. Vì thế vận này còn mấy năm nữa cuối vận, tất anh ta sẽ phát rất nhanh, để tới cuối vận thì đã định danh. Nhưng xin chớ lầm nó với vận thái tuế, thấy nó phát và hết vận được định danh thì đóng vai thái tuế để cướp công các cách cục khác. Cái trò cướp công, thì trong đời thường là một việc bỉ ổi, không lẽ trong học thuật, vì dốt nát nên để xảy ra tình trạng này chăng?. Tôi thật không hiểu nổi.

Năm nay, từ quý 4 trở đi, anh này sẽ gặp may mắn, thế nào cũng khởi phát từ một hợp đồng công tác. Chị nói anh ta đừng để tuột cơ hội này.

Thực tế sẽ chứng minh lời tiên đoán này. Cũng sẽ cho thấy, chẳng có thái tuế gì ở đây cả. Có chăng, chỉ là sự khó khăn thêm cho đương số. Không phải như sự ngộ nhận cho rằng vận thái tuế thì phát. Một lý thuyết không đúng thực tế, dù có bằng lời văn hoa mỹ bao nhiêu, cũng nên dũng cảm mà vứt bỏ nó đi. Cũng như việc mua thuốc đắt tiền, nhưng vô dụng, thậm chí là thuốc độc bảng A, nhưng vì tiếc tiền mà cứ uống đại. Để tính mạng bị nguy nan. Có phải là dại dột không!.

Thân ái.

...

Anh TuHepluong thân mến.

Cũng chỉ là nhân thể khi phản biện lý thuyết của học phái thiên lương, mà có đôi lời về lá số của anh. Theo luận giải của tôi, số anh về hậu vận khá giả, tuy rằng bản chất công danh, sự nghiệp của anh gắn liền với những thay đổi, dịch chuyển. Nhưng sự nghiệp càng ngày càng ổn định, chứ không thể như anh nghĩ là bất trắc, nhiều khó khăn thât bại được. Bởi thế, khi thấy anh nói rằng những năm sau đây và đại vận tới là xấu thì tôi không nhất trí, vì vậy tôi xin giải tiếp cho anh năm tới và đại vận tới để anh rõ.

Trước hết, do tôi kiểm chứng, phúc của anh chế được tài, nhưng tài cung của anh nhập nhọang những mảng tối sáng khác nhau, chen lấn nhau, tài khí lại yếu mà mệnh chủ vốn yếu nên khẳng định được ngay rằng cuộc đời của anh, tiền tài lên xuống thất thường, kiếm ăn vất vả chứ cho tới nay thì chưa có của họanh tài. Công việc làm ăn khi thông khi tắc. Nhưng dù vậy anh cũng vẫn không bao giờ lâm vào tình trạng thiếu thốn, đói khổ. Chỉ là làm ăn vất vả mà thôi. Từ sau 50 tuổi trở đi, mệnh chủ của anh biến hóa. Đây là điểm hết sức tốt trong lá số của anh, và cũng chính nhờ vậy mà điểm khẳng định của phúc chế tài được ứng chính xác. Khi mệnh chủ đã biến, từ yếu thành mạnh, từ hung hóa cát thì hậu vận trở nên sáng sủa. Nhưng mà nhìn trên lá số của anh, vào đại vận tới thấy có liêm phá hãm thủ, ngộ kình địa không thì ai nhìn mà chả thấy là xấu. Song không phải vậy, khi xét hóa khí, mệnh chủ của anh không những đã biến hóa, mệnh chủ cũ cũng hóa cát, dịch mã trở nên không động, lại no đủ thì chẳng có lý do gì mà xấu cả. Hơn nữa, do mệnh chủ biến hóa, nên cách cục thủ vai chính của đại vận tới không phải là liêm phá kình địa không, mà là Vũ tham quyền. Chứ nếu chúng là liêm phá thì anh khó thóat khỏi án kiện lắm – có thể có người hỏi rằng, tại sao lại không thành bộ SPLT mà xét, lại đi tách chúng ra, rồi lại chọn lấy sao tốt mà luận thì chẳng phải là từ xấu thành tốt không?. Thưa rằng, dó là do quy định từ mệnh chủ. Tuy rằng, trong tổng thể, mệnh cơ lương thì vào vận liêm phá, đương nhiên phải đụng độ. Nhưng khi đã được „người chỉ huy” tài năng, thì hung hóa cát là chuyện đương nhiên -. Khi ấy, không chỉ phải đối mặt với tòa mà còn phải chịu sự trưng biên tài sản. Rất may là không phải chúng. Anh không những không bị các họa này, mà còn vượt lên trên chúng, biến hung thành cát. Những họa đó chỉ là những đe dọa kiểu thị phi, kèn cựa, tranh ăn của những tập đòan đối thủ mà thôi. Nhưng cũng vì điều này mà công việc của anh cũng có xáo trộn. Như đã nói, sự nghiệp dần vào ổn định. Sự xáo trộn lại không phải là những điều không may, mà đó lại là những cơ hội cho anh gặt hái thêm thành công, anh trở nên có quyền hành. Lại trở thành người dễ dãi, dễ thỏa mãn. Âu đó cũng là điều hay khi tuổi xế chiều, vật chất và quyền uy dễ làm hư hỏng người ta, mà lại bị con thiên không nó chiếu vỗ mặt như thế thì nguy hiểm thật. Kỳ lạ là một cách tự nhiên, thiên không nằm đó mà lai chẳng làm gì được anh, bởi tự căn anh đã lọai trừ nó rồi. Chứ không như những người khác, cùng một lá số, nhưng có mệnh chủ khác là rụng rời với thằng thiên không này ngay. Như nếu dính vào cách kình không kiếp hình thì chắc ăn đòn nặng với thằng thiên không, không những ngồi tù, mà còn phá sản. rồi thì ngồi trong tù mà cũng là tu luôn.

Năm tới anh thường có những phi vụ ngon ăn, tiền tới trước miệng như người ta tự đem tới. Đồng thời cũng không phải đi lại nhiều lắm đâu, mặc dù công việc vẫn ở nơi xa mới có lộc nhiều. Đây là năm anh khá sung túc so từ trước tới nay thì anh sẽ cảm thấy no đủ, cuộc đời lên hương. Tự thấy thỏa mãn có một năm hạnh phúc. Song công việc vẫn có biến động, phải thay đổi, hay dịch chuyển, tuy không nhiều, nhưng mỗi lần thay đổi là đáng kể, và cũng làm thay đổi đáng kể tình trạng kinh tế của anh. Đó là những thay đổi tốt. Thời gian cũng không còn bao xa, anh cứ nghiệm xem lời tôi nói có đúng không.

Chúc anh nhiều may mắn.

Thân ái.

...

Các bạn quan tâm thân mến.

Bây giờ, chúng ta tiến hành phản biện về mặt lý thuyết. Có thể nói, nếu chỉ nói khởi khơi, thì việc phản biện sẽ vô nghĩa. Nhưng như đã nói ở trên, trước hết chúng ta phải xem chính tác giả của thuyết này nói gì. Một cách trung thành với nguyên bản.

Trong tác phẩm TVNL toàn thư, Tác giả TL có viết:

BÀN THỂ THỰC CHẤT CỦA THÁI TUẾ

Trên 30 năm học hỏi với nhiều đợt từ biệt Tử vi, đến nay mỗi lần cầm trên tay một lá số, việc đầu tiên là tính coi xem Mệnh Thân ở trong một vị trí nào của Thái Tuế. Thành thực mà nói lòng riêng những kính mến nhưng ai đâu là người được đặt trong vị trí tam hợp tuổi.

Một Mệnh hay một Thân, chứ đứng nói cả Mệnh lẫn Thân hay Mệnh Thân đồng cung Thái Tuế, đó là chuyện quá sức mong chờ hãn hữu. Nhớ lại ngày mới học Tử vi, theo chỉ dẫn của vị ân sư tài tử thì sợ Thái Tuế hơn cọp dữ. Nào là tù tội, nào là miệng tiếng thị phi, tranh chấp tang thương. Nay thì cảm phục không chút trù trừ do dự và thật lòng tin tưởng những công cuộc của người Thái Tuế đã làm như theo có sứ mạng.

Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ.

Thái Tuế được đặt theo địa chi của tuổi của số, có nghĩa là người đó có được đặt ngay vào vị trí sở hữu chủ là chính mình hay không? Nếu mình nằm ngay Thái Tuế, tất nhiên mình có bổn phận có trách nhiệm nơi miếng đất mình sanh tồn. Mình dẫu có lòng dạ hững hờ như kiều dân đến ăn bám ở nhờ chỉ nghĩ đến tư lợi, hay thì ở dở thì bước. Nằm trong tam hợp Thái Tuế là ở trong thế liên minh hữu nghị thuộc địa quyền công dân không phải là mất, vẫn được đối đãi ngang hàng cùng người sinh quán, vẫn tự do làm bổn phận mỗi khi đất mẹ cần đến. Một là phải suy tính kỹ càng ( Quan Phù), hai là khi đã vén tay áo là hăm hở cho đến cùng ( Bạch hổ).

Người trong tam hợp Thái Tuế là người có miếng đất cắm dùi có bổn phận trách nhiệm cho miếng đất mình sinh sống, không lẽ mình phá hoại căn nhà mình đã được cha truyền con nối có dầy dẫy kỷ niệm hào hùng hay bi đát, tổ tiên đã gây dựng lên tốn hao biết bao mồ hôi cơm gạo, để mình thụ hưởng mà mình quên bổn phận bảo tồn và tô điểm thêm lên cho khởi sắc. Phải chăng Thái Tuế là chỗ ngồi tinh thần cao đẹp nhất của tuổi số.

Người trong tam hợp Thái Tuế, tối thiểu là có tư cách, từ người làm mướn đến tột đỉnh cao sang tuỳ theo thứ lớp, địa vị người đó đứng trong xã hội. Ví dụ tam hợp Thái Tuế là khu đất chắc nịch, nhà nào được xây dựng lên được yên lòng, không sợ lún sâu như chỗ sình lầy đổ rác phủ qua một lớp đất mỏng, người xấu số không biết cứ lập lên 3, 4 tầng lầu. Rồi ngày qua tháng lại chỉ một cơn mưa dầm, nhà sẽ đổi ngay bộ mặt thành nứt nẻ nghiêng vẹo. Thử hỏi ai là người gan dạ tin ở sự vững chắc của căn nhà mà dám dọn đồ đến trú ngụ.

Người được một Mệnh hay Thân ở tam hợp Thái Tuế, kể như đã có một thành quả nào rồi, nhưng chưa hẳn mãn ý. Như Mệnh ở tam hợp Tuế Phá mà Thân ở tam hợp Thái Tuế là người tuy thiếu thời gặp bước lưu ly nhưng tấc dạ sắt son không thể ùa theo vô nghĩa. Tự mình vẫn vạch lấy con đường lý tưởng mình đi. Thương cho ai mệnh Thái Tuế mà Thân bị lọt vào tam hợp Tuế Phá, cuộc đời của mình không thiếu sót bổn phận. Vậy mà vãn niên thấy như bị ép buộc, không cho phép mình được thi thố theo sở ước, mà còn bị bạc đãi nữa là khác ( có 2 trường hợp: người dương nam mệnh ở Thái Tuế thì ngoài 50 tuổi hết hạn Thái Tuế, tiếp ngay đến hạn Thiên Không. Trái với người âm nam trên 30 tuổi phải gặp Thiên Không như người được huấn nhẫn trước rồi ngoài 40 mới được Thái Tuế bù lại.Tưởng đó là một cuộc thử thách cho người, có chi nhẫn nại và nghịch lý âm dương). Nào phải là người miệng nói đạo nghĩa là thực hiện lại theo ma giáo, vì định mệnh đã tạo cho người đó là Thái Tuế ( Mệnh) thì không thể có đầu óc làm quấy. Sở dĩ không đạt được trọn vẹn ý muốn vì một lẽ gì khiến mình buộc lòng phải theo, mình không thể thổ lộ, cam chịu sự bạc bẽo đành nhận lãnh không đổ trách nhiệm cho người khác ( Thân Tuế Phá). Từ 14 chính tinh đến trung tinh và sát tinh chỉ là đồ trang hoàng, bài trí làm cho căn nhà có vẻ phong phú đài các hay nghèo khó xác xơ, nói toạc ra là chỉ lớp áo phủ ngoài một pho tượng vàng hay đất làm cho người ngoài dễ lầm lạc ngộ nhận.

Như 2 sao Tử Phủ ở Dần Thân hay Phá Quân ở Thìn Tuất chẳng hạn. Người nào được khoác áo Tử Phủ hẳn cho là người đó ở hạng quân tử, đứng đắn, kẻ cả đàn anh, còn Phá Quân ở Thìn Tuất hẳn là quân bất nhân, lừa thầy phản bạn.

Thưa rằng nghĩa nó là thế không phải là không đúng. Nhưng nếu không xét từ cội rễ là một chuyện bé cái lầm. Nếu là Tử Phủ ở Dần với người tuổi Dần Ngọ Tuất, Mệnh ở ngay Dần Ngọ Tuất thì xin khoanh tay kính chào. Đó là người xứng đáng được trọng vọng dầu có bị Không Kiếp trà trộn, chỉ thêm lòng bác ái ngại cho ai không được đời biết đến hay bị đố kỵ mà yếm thế, hạng người này không phải ăn ở hai lòng, xin dâng danh hiệu là Nhạc Bất Quần, ngụy quân tử nếu được thêm 2 ông phụ tá Không Kiếp trợ lực, thật không biết kính dâng ông cái thẻ bài gì để ông đeo cho xứng đáng tư cách chúa trùm của ông.

Còn Phá Quân ở Tuất, nếu là người tuổi Dần Ngọ Tuất chỉ là người mang tiếng phản bội không trung thành, đáng được minh oan. Thật ra chỉ vì một cái thế kẹt gì đó mà oan tình, ngoài ra lòng thành thực chỉ có cao xanh hoạ chăng thấu rõ. Trái lại Phá Quân ở Tuất mà lại tuổi Thân Tí Thìn thì xin miễn nói vì tiếng đặt cho sao và vị trí đóng nó đã đầy ý nghĩa rõ ràng không cần bàn thêm.

Một người Tả Hữu Không Kiếp cũng vậy. Trường hợp ở vị trí tam hợp tuổi có Tả Hữu Không Kiếp là người đa tài mà không đắc dụng. Ngược lại người có Tả Hữu Không Kiếp ở vị trí tam hợp Tuế Phá là người không thể đặt niềm tin, một khi họ chủ trương một công việc gì có thể coi là công ích vị tha, luôn luôn người đó nghĩ đến bản thân trước có thừa thãi mới là lợi chung.

Vậy cung và sao là 2 bộ phận của Mệnh viên, cũng là hình thể chắc hay ốp, khoẻ mạnh hay ốm yếu. Sao là phấn son tô điểm, là quần áo sang trọng hay xềnh xoàng vá rách. Một thân hình khoẻ mạnh lồng trong bộ quần ào rách vá, vẫn thấy người đó đi đứng chững chạc của nội trạng lực sỹ hào hùng, khác xa hẳn mã người chệch choạng lẩy bẩy với bộ gấm vóc mà mặt mũi hốc hác, chân tay khẳng khiu.

Tìm tòi thực chất của Thái Tuế là vạch vòi, với mốc căn nguyên bản số của người, như các cụ xưa kia, mỗi người khi dựng vợ gã chồng cho con cháu, là xem xét dòng giống của đầu rễ cội gốc nào, gia phong ra sao, nay thấy là chuyện không phải không có ý nghĩa sâu xa.

Vòng Thái Tuế có thể nói là phần căn bản của số chỉ 12 chỗ đứng mà thấu đáo hết cốt cách của người, thêm phần sao để biến dạng phần nào. Rồi cùng thời gian đưa dẫn thế nhân từ nơi sáng vào chỗ tối, hay từ chỗ tối dìu dẵt đến nơi sáng, tức là vận hành cũng không ngoài vòng Thái Tuế điều khiển.

Nhớ lại cũng một ngày đầu xuân năm ngoái, đựơc tiếp một cụ tuổi Giáp Dần ( 62 tuổi ). Cụ sợ mất thì giờ của tôi, cụ chỉ xin 15 phút để nói chuyện Tử vi.

Xin thưa ràng tôi có tật ít khi xem số của ai để số trước mặt, chỉ xin cho biết năm tháng ngày giờ sinh và vẽ ngay số bằng hình hỷ hà học theo tam hợp, để người có số dễ hiểu đời mình thế nào. Thấy Mệnh cụ đóng ở Tuất có Phá Quân. Tôi hỏi ngay có phải cụ chỉ thắc mắc ở chỗ Phá Quân Tuất này không? Hỏi rồi, tôi tự trả lời ngay: cụ chỉ bị đời hiểu lầm là Phá Quân, thật ra Cụ một lòng sắt son với bạn hữu. Cụ Tuổi Dần, Mệnh ở Tuất là trong tam hợp Thái Tuế. Người của tam hợp Thái Tuế không có tư cách của Phá Quân thường tình, dầu rằng tuổi Giáp Dần là Thuỷ Mệnh mà Phá Quân lại là thuỷ tinh.

Ông cụ đứng ngay lên, nắm tay tôi, xin phép một ngày trở lại coi. Cụ quá ư cảm động.

Viết lên bài này để kỷ niệm ngày tái tiếp cụ cũng ngày đầu Xuân năm nay ( Ất Mão) với đầy ý nghĩa. Cụ đã cho biết tất cả những gì đã đem đến cho cụ trên 30 năm nay vì Phá Quân ở Tuất cung của người tuổi Dần Ngọ Tuất.

Thân ái.

...

Qua mấy ngày chúng ta suy ngẫm về đoạn văn này của cố tác giả Thiên Lương. Hẳn nhiên chúng ta có nhiều nhận định. Nhưng trước hết, chúng ta cần xác định, đây là vấn đề học thuật. Không vì một bất cứ lý do cá nhân nào, cũng như không vì chuyện phải kính trọng một vị tiền bối mà chúng ta không được phép đặt tính đúng sai lên bàn cân để mổ xẻ. Song dù sao, khi bước vào phản biện. Bất cứ ai, hoặc muốn tham gia phản biện, hoặc bảo vệ. Xin đừng vì lý do cá nhân mà vi phạm. Xin cám ơn sự quan tâm của quý vị.

Tác giả Thiên Lương đã có quan niệm về vòng thái tuế, trong quan hệ với hai vòng lộc tồn và vòng tràng sinh. Tác giả đã đặt vấn đề:

Trích:

Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ.

Từ tư tưởng này, cụ Thiên Lương cho rằng ba vòng lộc tồn, thái tuế và tràng sinh lần lượt tương ứng với ý nghĩa mỗi vòng là đại diện của một Tài trong tam tài thiên – địa – nhân. Đó là: vòng Lộc tồn là vòng thiên can, vòng thái tuế là vòng địa chi, và vòng tràng sinh là vòng nhân sinh. Bởi vòng lộc tồn xác định can niên sinh, vòng thái tuế xác định bởi chi của tuổi. Vòng tràng sinh xác định bởi nạp âm của tuổi.

Chúng ta thấy ngay tác giả Thiên Lương đã sai cơ bản ngay từ đây. Lần lẫn cho rằng vòng tràng sinh xác định bởi nạp âm của tuổi. Chúng ta có thể kiểm tra trực tiếp, vòng tràng sinh được xác định bởi nạp âm của cung an mệnh, có tên gọi là Hành của Cục. Chứ không phải được xác định bởi ngũ hành bản mệnh.

Nay có thể có người, để bảo vệ cái ý nghĩa vòng tràng sinh là vòng của tài nhân, bên cạnh vòng thiên và vòng địa tương ứng lộc tồn và thái tuế. Biện lý rằng, vòng tràng sinh được xác định bởi ngũ hành nạp âm. Do nạp âm là sự phối hợp của thiên can và địa chi, vì thế mà tổ hợp thiên can, địa chi và nạp âm của nó cho ta một tam tài. Thưa rằng, đúng như vậy. Một tổ hợp thiên can địa chi và nạp âm cho ta một tam tài, trong tam tài vũ trụ thiên địa nhân có thập thiên can, thập nhị chi và lục thập hoa giáp. Cấu trúc tương ứng, cho phép mỗi ngũ hành nạp âm thuộc tam tài thiên địa nhân với mỗi can và mỗi chi tương ứng, chứ không có chuyện một nạp âm xác định được bởi bất cứ một cặp can chi bất kỳ nào khác. Bởi vậy, ba vòng lộc tồn, thái tuế, và tràng sinh, vốn nó không phải là một hệ thống tam tài cho một lá số. Bởi vậy, khi xét một lá số xác định, ba vòng này không thể đóng vai trò đó là ba vòng thiên địa nhân của đương số được. Từ lý do này, khi giải đoán, chúng ta không được phép râu ông nọ cắm cằm bà kia. Cho rằng đương số đứng trong tam tài, với đại diện của tam tài là ba vòng, lộc tồn, thái tuế, và tràng sinh. Từ đó mà nói, không được xem có sự tồn tại của cái gọi là đắc hay hẵm ba vòng này, tương ứng khi mệnh có thái tuế, lộc tồn và tràng sinh đóng hay thuộc tam hợp của chúng. Để mà nói, đắc được ba vòng, đương số được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là một ngộ nhận căn bản. Không chỉ là đưa chúng ta tới sự giải đoán sai, mà còn sai lầm về minh triết sâu sắc. Bẻ cong lý luận của tử vi. Đẩy lý luận của tử vi vào chỗ suy luận chủ quan.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi phamphong Xem bài gởi

Rất mong anh vuivui phân tích tiếp để hậu bối hiểu rõ hơn về 3 vòng.

Trân trọng,

Phamphong

Vâng!. Nhưng trước khi đi sâu về ba vòng mà Cố tác giả Thiên Lương đã gọi đó là ba vòng thiên - địa - nhân một cách sai lầm do không hiểu về tam tài một cách thấu đáo. Hơn nữa, hậu duệ của tác giả cũng không có khả năng suy xét thấu đáo về vấn đề này, do đó mà tới nay không hề thấy có sự chỉnh sửa. Vẫn cứ theo khuôn mẫu mà phán xét, khi giải số, đều cố gắng xem xét cái thế thiên thời địa lợi nhân hòa trên lá số tử vi được đẻ ra do bởi ba cái vòng ngộ nhận này. Với Cố tác giả Thiên Lương, thời có thể châm chước ở lẽ Cụ chỉ nghiệm lý thôi. Nhưng ngay những lời bình giải góc độ nghiệm lý chúng ta cũng thấy khiên cưỡng, nhất là khi áp đặt lý thuyết vòng thái tuế với tam tài thiên địa nhân. Tôi thực cũng rất mong có cao nhân thực thụ của trường phái này vô đây. Chí ít thì cũng còn gọi là có tiếng nói bảo về kiến thức của tôn sư, bảo vệ môn phái. Sau là, nếu có nổ ra tranh luận học thuật, thì vấn đề sẽ càng được sáng tỏ.

Còn như những lý số gia theo trường phái này, rời bỏ phạm vi nghiệm lý mà vượt sang phạm vị giải đoán, cho dù chỉ là ở tầng thấp, như cá vượt vũ môn, thì e rằng cá chép vẫn là cá chép, nhưng bị bong vẩy, gẫy vây, chứ không thể hóa thành rồng được.

Chúng ta nên xem xét qua cái hiểu thực sự của Cố tác giả Thiên Lương về âm dương ngũ hành như thế nào!. Bởi điều này cực kỳ quan trọng. Đúng hay Sai, cũng từ đây mà ra. Ai cũng biết, cơ sở của lý học đông phương, mà tử vi chỉ là một ứng dụng, là lý luận âm dương ngũ hành. Ấy vậy mà trang 6 cuốn Tử vi nghiệm lý toàn thư phần nguyên lý nạp âm hoa giáp, có viết:

Trích:

Mọi sinh vật sống trong vũ trụ đã được nhận định theo luật âm dương. Cây cỏ cũng có hoa đực hoa cái, côn trùng con kiến cũng có con cái con đực, cho đến vật dụng hàng ngày hầu như cũng dị biệt giữa đực và cái. Luật âm dương chi phối vũ trụ mọi sự sinh hoạt. Không gian đã có thiên là phải có địa. Thời gian càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn.

Đã có mùa đông giá lạnh, phải có mùa hạ nóng hầm, mùa xuân ấm tươi, phải có mùa thu dịu tàn.

Âm dương là tinh thần, phần vật chất là ngũ hành, Thiên can là dương, Địa chi là âm. Thiên can có ngũ hành của Can, Địa chi có ngũ hành của Chi. Ngũ hành của Can có cái dương và cái âm. Địa chi cũng vậy. Âm dương ngũ hành của Can có 10 chữ rất rành mạch. Nhưng địa chi sao lại 12, thấy trội dư 2 cái Thổ (1 dương và 1 âm).

Thấy rằng thời gian của 4 thời tiết từ cái xanh tươi (xuân) đến nắng gắt (hạ) lần theo mát dịu (thu) kế tiếp lạnh lẽo (đông) rồi lại nối đến xanh tươi (xuan)... thời gian cứ quanh quẩn như thế phải mất trên 365 khoảng mặt trời đồng thời gian đêm tối.

Trong đó chúng ta chú ý phần trích dẫn được in đậm. Thấy ngay rằng, cái hiểu về âm dương ngũ hành của Cụ đã sai một cách nghiêm trọng. Thật vậy.

Như tôi đã từng trình bày trong nhiều tranh luận về âm dương. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rằng, âm dương không có định nghĩa cụ thể, mà chỉ là một sự khái quát vũ trụ như một phạm trù triết học, nó cho chúng ta hiểu, để nhận thức rõ về bản chất và vận động của âm dương. Từ đó mà có thể vận dụng trong các đối tượng quan sát, nghiên cứu và vận hành của mình. Không phải ngẫu nhiên mà có thể nói, hiểu âm dương có nhiều cấp, rất nhiều thang bậc. Như cây cối cũng biết được âm dương mà phân biệt, bởi cành lá ngọn thì vươn lên khỏi mặt đất mà quang hợp, rễ cây thì bám chặt vào lòng đất mà hút chất dinh dưỡng nuôi sống cây, âm dương phối hợp mà cây lớn lên. Động vật cũng biết phân biệt đực cái mà thực hiện giao phối để duy trì nòi giống. Chứ nếu chúng không biết phân biệt thì con cái đến kỳ động đực mà lại tìm con cái thì nòi giống chúng sẽ ra sao?. Như con mèo, con chó cũng phân biệt được cao thấp, để mà nó biết sợ độ cao nên không dám nhảy từ tầng 10 xuống mặt đất chết tan xương. Ấy là cấp thấp cũng biết âm dương. Còn như con người, chẳng cần học cũng biết được âm dương, chỉ bởi vì, họ phải biết được đâu là chân trái, chân phải, đầu và đít, gái và trai, đàn ông cùng đàn bà, có biết hôn phối là sự kết hợp giữa đàn ông và đàn bà để thành lập một gia đình - tế bào của xã hội, rồi phải biết có ngủ có thức, có nghỉ ngơi và lao động. Cũng biết đâu là linh hồn và đâu là thể xác, biết được giá trị tinh thần và giá trị của vật chất. Rồi tới kẻ có học âm dương thì nhận thức âm dương sẽ cao hơn, như thấy đươc không thời gian là âm dương, bốn mùa cũng phân âm dương, rồi như vật chất và tinh thần là một cặp phạm trù âm dương, linh hồn và thể xác thuộc về âm dương, thống nhất để mà có một con người, mà lại được phân thành âm dương, biến hóa, tương phối mà vận động, phát triển....

Thế đấy. Học âm dương, tối thiểu phải hiểu rõ ràng như vậy. Đã rõ ràng là vật chất - tinh thần là một cặp âm dương, sao lại còn phát biểu âm dương là tinh thần, ngũ hành là vật chất ?.

Một khi đã hiểu như vậy, thì tinh thần đâu còn được phân chia âm dương nữa, mà cứ nghĩ tới ngũ hành là thấy vật chất rồi, thì thử hỏi, một cách trực tiếp nhất, làm sao có thể thấy được sự trao đổi, tương tác, quan hệ giữa vật chất và tinh thần theo quy luật âm dương tiêu trưởng, thịnh suy, rồi phản phục,....mà khi đã không hiểu những thứ đó, làm sao có thể suy lý được cái lý âm dương ngũ hành trong tử vi?.

Có phải như vậy?. Thì đến đây, chúng ta đã rõ rằng, thấy cần phải nghiêm túc xem xét lại cái lý luận của môn phái này, mà tiêu biểu cho nội dung của nó là lý luận vòng thái tuế cùng ba vòng thiên địa nhân.

Xin mời các bạn tham luận.

Thân ái.

...

Chào ngươisaigon.

Rất vui về sự có mặt của bạn trong chủ đề này. Xin cám ơn bạn trước.

Bạn có viết:

Trích:

Tôi thấy anh Vuivui có vẻ nôn nóng trông chờ người biện thuyết với anh, ấy không phải là thái độ của Huyền học, bởi vì kẻ đã đến Bờ thì không ai biện thuyết với anh nữa còn kẻ lao nhao thì cãi nhau đến bao giờ, người ta đã không biết thì càng nói lắm càng khiến người ta không biết lắm, tôi thấy anh hay nói về triết Đông vậy thì tư tưởng của Đông phương là khơi gợi để con người tự khải phát sự hiểu biết chứ không phải là biện thuyết tìm đúng sai, phản bác biện luận để tranh hơn kém hoặc tìm sự đúng sai nó gần vời toán học, khoa học thực nghiệm hơn và nếu chỉ có thế thì tử vi cũng chẳng còn gì hứng thú nữa.

Thì tôi có ý kiến như thế này.

Nguyên trong bài khởi tạo chủ đề này, Tôi đã có trình bày về mục đích của chủ đề là minh bạch một hệ thống lý luận, mà nhiều người cho rằng nó xứng đáng được gọi là một trường phái, một môn phái. Thực ra, nếu đó là một cảnh huống nội bộ, mang tính "đóng cửa" bảo nhau, chỉ truyền cho truyền nhân, nội bộ mà thôi. Thì cái việc đúng sai đâu cần minh bạch. Nhưng một khi đã ra công chúng, đó là một sự phổ biến kiến thức, một sự thể hiện về mặt học thuật, có tác động đến sự phát triển hay lụi tàn của cả một nền lý học, một tài sản chung của nhân loại. Điều này có khác gì, như một khoa học, là phải có sự minh bạch. Sự minh bạch, sự tìm kiếm những chân lý, như đã biết, đối với khoa học, thì con đường phản biện học thuật là con đường hữu hiệu và được thế giới xác nhận, ủng hộ nhất. Vì thế, với mục tiêu của chủ đề thì việc phản biện là hợp lý.

Để phản biện cái hợp lý này, Bạn đã đưa ra cái gọi là Thái độ huyền học. Cũng như đã có sự cảnh giác của tôi, sự phản biện học thuật rất dễ bị biến tướng, chuyển thành phản biện phi học thuật, chính bởi đang thảo luận về học thuật, thì lại nhẩy sang nói chuyện thái độ. Và có thể, nếu không có sự phân biệt, thì nó sẽ nhảy sang cả những vấn đề khác, hoàn toàn chẳng liên hệ gì đến với học thuật cả.

Bởi thế, Tôi có đôi lời về vấn đề này:

Bạn nói tới cái gọi là Thái độ huyền học!. Vậy hỏi nhỏ bạn, thế nào là thái độ huyền học?. Tôi cho rằng bạn đã giải thích bởi câu:

Trích:

bởi vì kẻ đã đến Bờ thì không ai biện thuyết với anh nữa còn kẻ lao nhao thì cãi nhau đến bao giờ, người ta đã không biết thì càng nói lắm càng khiến người ta không biết lắm, tôi thấy anh hay nói về triết Đông vậy thì tư tưởng của Đông phương là khơi gợi để con người tự khải phát sự hiểu biết chứ không phải là biện thuyết tìm đúng sai, phản bác biện luận để tranh hơn kém hoặc tìm sự đúng sai nó gần vời toán học, khoa học thực nghiệm hơn và nếu chỉ có thế thì tử vi cũng chẳng còn gì hứng thú nữa

Thì bạn nói đúng, mà lại không đúng. Thật vậy, nói là kẻ đã đến Bờ thì không biện thuyết. Điều đó đã hẳn. Nhưng ai có thể nói là đã đến Bờ của huyền học?. Nói ngay trong khoa học hiện đại đây thôi, cũng chả ai dám nói là đã đến bờ!!!. Nhưng phản biện vẫn cứ phải phản biện. Biết đến đâu, nói đến đó. Biết và nói, tranh luận là để hiểu, để tìm cái đúng, cái sai trong cái mà chính ta đã được biết đến. Nếu như không có tranh luận, một mình mình nghĩ, tự cho là mình đúng, tự cho là mình đã đến Bờ, để khỏi cần biện thuyết với ai nữa, thì làm gì có cái đúng cái sai nữa. Làm gì còn có sự phát triển nữa. Thái độ này, ngày xưa còn có thể hiểu, nhiều khi tặc lưỡi, ok. Nhưng thực tế, dù là ngày xưa, các đạo sĩ, tăng ni đắc đạo thường xa rời hồng trần, xa rời thế tục. Và nhữ vậy, một thái độ huyền học chỉ có thể hữu ích với chính họ. Nhưng các môn phái vẫn mọc ra, các đệ tử vẫn được truyền lại kiện thức, và trong tâm khảm các tổ sư, tôn sư vẫn cứ muốn Phát Dương Quang Đại bản phái. Thế thì, họ có phải là tự mâu thuẫn với chính mình. Một mặt giữ thái độ huyền học, nhưng một mặt lại muốn phát dương quang đạo để ngạo thế. Chung cuộc, thì đó là sự giả dối, có thể quy về cái gọi là Tham, Sân, Si. Chứ đâu còn có sự minh bạch để phục vụ lợi ích của tha nhân, của cộng đồng là sự phát triển chung của tri thức?.

Tư tưởng của triết đông không phải là khơi gợi. Mà là vì nó vốn khó hiểu, trừu tượng và đầy cảm tính - một trong những nguyên nhân khiến người ta gọi nó là huyền bi - nên người ta mới cho rằng nó cần phải được Chiêm Nghiệm. Mà mọi sự chiêm nghiệm, ngoài sự thu thập hiểu biết, nó phải được minh chứng đúng hoặc sai. Sai thì bỏ đi, đúng thì nó là kiến thức. Như Tôi đã nói, chủ đề này cần tìm đúng sai, chứ không phải là để tranh thắng. Kể như, một khi ta đã thấy sai, chả nhẽ lại cứ khư khư ôm lấy nó, bảo là còn phải nghiệm lý nữa. Như thế, có nghĩa là: Chứng tỏ ngay cả cái gốc của Lý học cũng đã không có sự nghiệm lý đúng đắn rồi, thì mới có sự, trên cơ sở minh chứng từ cái gốc đó, thấy lý luận của môn phái này Sai, thì đương nhiên không cần nghiệm lý nữa. Người ta chỉ nghiệm lý, khi mà thấy cái mà mình đề cử, phát kiến ra hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với kiến thức cũ đã được nghiệm lý, hoặc giả là sáng tạo, nhưng vẫn phải đứng trên vai những người khổng lồ thì mới cần nghiệm lý tiếp. Có nghĩa là, về mặt Lý thì phải đúng cái đã, rồi mới có cái sự Học chứ. Đằng này, biết là không có Lý mà lại cứ Học, thì mới đúng không phải là Lý Học!!!

Trích:

Tôi thấy anh Vuivui có vẻ nôn nóng trông chờ người biện thuyết với anh

Thì xin minh bạch thế này.

Vốn diễn đàn này có ít người tham gia, lại nữa, người tranh luận lại còn ít hơn nữa. Thì nếu nói tôi nôn nóng, thì đó là cái nôn nóng để cho diễn đàn có được cái sự bình đẳng về học thuật, biết đến đâu, cứ tranh luận đến đó. Tôn trọng tinh thần học thuật. Đó là sự phát triển chân chính. Tránh vết xe đổ của nhiều diễn đàn, tranh luận hầu như mang tính chỉ trích cá nhân, phi học thuật.

Còn như để phản biện phân thắng thua, thì Tôi không cần, bởi nếu như chẳng có ai phản biện. Thì hoặc là chẳng có ai có thể phản biện, hoặc là phải thừa nhận tôi nói đúng về mặt học thuật. Vậy thì còn cần gì thắng với thua nữa mà sốt ruột hay nóng ruột?.

Đó là vài lời minh bạch, cũng là để chúng ta cùng chú ý, cần có thái độ học thuật, chứ không nên có thái độ huyền học (bởi vì chẳng có ai thực sự thực hiện được thái độ huyền học cả).

Thân ái.

...

Trích:

Mong các bạn đưa lên hộ tôi lá số này: Lá số người nam(đàn ông) sinh ngày 20 tháng 11 năm Tân Hợi giờ Dậu. Đây là lá số của một người rất nổi tiếng ở việt nam mình, chính người mang lá số này cũng vô cùng thắc mắc về lá số của mình vì không biết giải thế nào ở vận Quan Lộc.

Trích:

Xin nói thêm là có thể phần lớn các anh chị đều có biết qua người này, bản thân tôi sau thời gian loay hoay thì thấy nếu không dùng Thái tuế theo cách của Thiên Lương thì không giải được.

Người này chắc sinh năm tân hợi 1911, chứ không phải là năm 1971. Nhưng thực tôi cũng biết người này. Song không thể nói, bằng vào lý thuyết thái tuế là có thể giải thích được trường hợp này. Thật vậy, chỉ bởi vì, một lá số có nhiều cuộc đời. Nên vào vận thái tuế, khi chúng ta cứ khăng khăng cho rằng hạn thái tuế, bất chấp các xung phá của các cách cục hãm địa mạnh mẽ như: SPLT mà Liêm Tham hãm địa ở hợi, hội hình linh hổ hãm địa. Toàn sát tinh hạng nặng cả. Vì vậy, nếu theo thuyết thái tuế, chúng ta phải có một giả thiết là vận thái tuế mạnh đến nỗi át cả những xung phá mạnh mẽ, mạnh đến nỗi mà cả những cách cục sát tinh hạng nặng cũng phải chào thua. Nhường bước cho khí vận thái tuế. Chỉ ngay trong một lá số như thế này, cũng đã khó chấp nhận. Huống chi lại có thể có nhiều lá số khác mà nếu sử dụng giả thiết mạnh mẽ của vận thái tuế thì lại sai lớn.

Thêm nữa, nếu chúng ta đòi hỏi giải đoán sâu hơn nữa vận thái tuế của lá số này với điều kiện là chúng ta không phải nghiệm lý, mà là giải đoán, tất sẽ không giải được, mà chỉ có thể giải đoán một cách chung chung mơ hồ rằng: Vận thái tuế này bộc phát, thỏa mãn.

Nhưng thực tế, lá số này hoàn toàn không cần đến lý thuyết thái tuế của ông Thiên lương mà vẫn giải được. Tuy nhiên, tùy vào phương pháp mà sự cụ thể trong giải đoán có khác nhau.

1, Lý thuyết mệnh chủ. Lá số này có khá nhiều cuộc đời. Ở vận thái tuế, mỗi cuộc đời có những ứng xử khác nhau. Như có một cuộc đời, người này là quân nhân, cuộc đời chinh chiến vào sinh ra tử. Vào vận thái tuế người này bị tù đày và cũng trong đại vận này được thoát tù và thăng tiến, tiếng tăm lẫy lừng. Trong đại vận này, lên tướng. Có một cuộc đời khác, người này làm chính trị, có khiếu chính trị, thuộc gia thế dòng họ tài phiệt, và quyền thế. Nhưng gặp thời tao loạn nên phải bôn ba. Đến vận thái tuế trở nên hanh thông mà thành chính trị gia có tiếng tăm, lại giàu có.

Đó là hai cuộc đời ví dụ ứng với lá số này. Thảy đều không dùng lý luận thái tuế một chút nào.

2, Lý thuyết khí hóa vận. Đại vận thái tuế, hung hóa cát. Nhờ tranh đấu mà thành danh, danh tiếng lớn. Lộc hoạnh tài.

Phối hợp hai lý thuyết trên, có thể mô tả người có lá số này một cách chi tiết ở đại vận thái tuế.

Đây là những phương pháp luận số tử vi không phổ biến. Bởi vậy, tôi chỉ nói kết quả mà không dùng để phản biện lý thuyết thái tuế trên lá số này. Mà chỉ có ý rằng, quả thật cái gọi là phải dùng lý thuyết thái tuế để giải số này chẳng qua là vì chưa biết những phương pháp giải đoán khác khả giải mà thôi. Đồng thời cũng có thể khẳng định rằng với lý luận thái tuế thì thấy có vẻ thuận với lá số này, nhưng lại vấp với lá số khác. Trong khi có những phương pháp khả giải khác lại thuận lý với mọi lá số, mọi trường hợp như những phương pháp mà tôi đã và đang sử dụng – tôi chưa gặp bất cứ một trường hợp nào bất khả.

Nay tôi sẽ dùng những phương pháp truyền thống để giải quyết cho lá số này. Nhưng vì các phương pháp truyền thống đều có tính chung chung, lý luận không chặt chẽ và chắc chắn như những phương pháp của tôi. Thành thử, sẽ là hợp lý và chuẩn tắc khi chúng ta nghiệm lý hơn là giải đoán.

Tôi sẽ tiếp sau.

Thân ái.

...

Trích:

Nguyên văn bởi nguoi saigon Xem bài gởi

Thưa các anh chị, đây là lá số tử vi của nhà văn Nguyễn Hiến Lê, Ông sinh năm Tân Hợi 1911. Nhưng khi tới đây tôi lại thấy hình như có một sự ngộ nhận nào về cách hiểu về vận Thái Tuế của chúng ta chăng, vận Thái tuế chỉ cho biết rằng con người ta vào đó thì được thiên thời, mà thiên thời này chỉ có ý nghĩa là được may mắn theo hoàn cảnh lá số của mình thôi, tới Tuế nếu có sao phải đi tù thì vẫn đi tù thôi, có điều là khi ở tù cũng hơn người đồng cảnh ngộ với mình ví như được bạn tù quý mến, cai tù nể sợ, được ăn trên ngồi trước, chứ thực tình Thái Tuế đâu có cho con người ta một danh vọng hay quyền thế hay sự giàu sang nào. Vậy liệu có ngộ nhận nào về cách hiểu vận Thái Tuế giữa chúng ta chăng? Lần sau tôi xin lược lại cuộc đời của nhà văn Nguyễn Hiến Lê từng giai đoạn để các anh chị chiêm nghiệm. Sự hay dở của từng vận còn phải tùy thuộc vào sao của đại vận đó cộng với những tiền đề bất di bất dịch là mệnh, thân chứ làm gì có chuyện Thái Tuế nắm quyền chi phối đại vận và quyết định luôn đại vận đó được.

Cám ơn bạn nguoisaigon.

-Quả thật là tôi không nhớ ra số này là của học giả Nguyễn Hiến Lê. Khi bạn nói tới Nguyến Hiến Lê, thời tôi nhớ lại ngày trước bên TVLS tôi cũng đã có tham gia thảo luận, nhưng không giải lá số này mà chỉ phản biện ông TKTV, khi ông ta phân tích lá số trớt quớt mà thôi. Bởi vậy, nên lá số này chả có ấn tượng gì trong tôi cả. Cho nên hôm qua, khi xem xét lá số. Dùng phương pháp mệnh chủ, mà lại không có chút thông tin nào để xác định mệnh chủ, thành ra, việc liệt kê hai mệnh chủ khả dĩ. Dù đúng một, nhưng vẫn có khiếm khuyết trong việc gia giảm. Bởi vậy, chỉ mới nói được đến người này là chính trị gia. Xem lại thực tế. Nguyễn Hiến Lê là học giả thực thụ, bản thân ông ta viết nhiều sách. Nhưng chuyên môn và các tác phẩm của ông ta hầu là triết học và sử học. Đều mang tư tưởng và có bản chất chính trị. Sự thành danh là danh dự, nổi tiếng về các tư tưởng của ông ta. Thật sự nói là một nhà chính trị, là một sự thiếu khuyết tương ứng với sự thiếu khuyết trong xác định mệnh chủ vậy. Tức là: Mệnh chủ xác định đầy đủ tới đâu, thì sự giải đoán sẽ có độ chính xác tương ứng. Một khi mệnh chủ thiếu khuyết, thì độ chính xác và cụ thể cũng chỉ ở mức độ khái lược, mang bản chất tương tự. Như đã nói ở trên.

Như tôi đã từng nói. Giải đoán, xác định được mệnh chủ, là giải đoán được lá số tới 70 % rồi. 30% còn lại chỉ là sự cụ thể hóa tiêu chí mà thôi. Nay qua lá số này, chúng ta cũng thấy rõ yêu cầu về sự chính xác của mệnh chủ quan trọng như thế nào!.

-Như bạn nói, có hay chăng sự hiểu lầm về lý luận thái tuế. Tôi thấy không đúng như vậy. Tôi đã nói, nếu dùng lý thái tuế trong lá số này, buộc phải nâng tầm vóc của thái tuế, và vận của nó vượt lên trên các sao xung phá thì đời mới thành danh được, cho dù người đó có bị tù đày - nhưng là tù cha, tù chúa, nói như trong trước tác của ông Thiên Lương - hay là dù có bị chết thì cái chết đó cũng thành danh. Lá số này, cứ như theo truyền thống thì quan cung Tử Phá hội đủ các sát tinh hạng nặng như Linh Hình Hổ hãm địa, tài cung hợp chiếu Liêm Tham hãm hội Riêu Y, mà Mệnh Vũ Sát ngộ tuần là cảnh tranh tối tranh sáng của giá trị miếu hãm, với Vũ Sát là cặp tinh đẩu chủ gian truân, tranh đấu sống còn, thì dù có được quang quý hội tụ thì bản thân nó đã nói lên cái đức của một con người sống trong hoàn cảnh khó khăn, tranh đấu (nên nhớ, đó là luận theo truyền thống). Thể hiện đúng đắn về cái đức của Học Giả Nguyễn Hiến Lê, chứ đâu có chỗ cho Thái tuế nhập vào để thành chính nhân quân tử được. Đồng thời, cũng vì thế, làm sao Thái tuế có thể đảo ngược bộ tinh đẩu hung hãn để mà làm cho đương số thành danh được, mà sự thành danh ở đây vốn là do cái đức (quang quý) cùng với một cuộc đời tranh đấu không mệt mỏi (Vũ Sát - Tuần) {nên nhớ Vũ Sát chỉ là chủ tranh đấu chứ không có nói thiện ác hay đức độ} và nổi lên do Thiên phủ được Lộc tồn ở thiên ri chiếu. Chứ chẳng có Thái tuế nào chen vào đây cả. Thái tuế ở Hợi đã hội với Hình Riêu hãm, cùng Liêm Tham đồng độ, làm sao có thể bảo là danh dự được ở đây.

Bởi vậy, nên tôi mới nói, để dùng lý thái tuế chứng minh cho cái sự thành danh của lá số này, rõ ràng là phải phớt lờ những lý giải trên, buộc điều kiện rằng Thái tuế phải đè bẹp được các lý giả trên, và chiến thắng được quang quý để đoạt cái đức của quang quý, thắng cái gan da, tinh thần đấu tranh của Vũ Sát, và thắng cái Danh trong thiên ha của Thiên phủ Lộc tồn từ thiên ri chiếu. Rồi ra, khi chịu sự xung phá của Hình Linh Hổ Riêu Liêm Tham hãm địa để mà nói tới cái gọi là Thành Danh nhưng bị tù đày, hay gì gì đó.

Theo đó, chúng ta thấy rõ, dù là cố ép, thì lý thái tuế cũng khiên cưỡng và đầy sự áp đặt, ngay trong lá số này.

Thân ái.

...

Chúng ta tiếp tục.

Như bài trên, chúng ta có thể đi tới nhận định rằng: Nếu chúng ta quyết tâm áp đặt lý luận Thái tuế, để minh chứng đại vận 43-52 của Nguyễn Hiến Lê (xin viết tắt: NHL) là đại vận Thoả mãn. Thời chúng ta phải đi tới cho rằng, cái Lý của Thái tuế lấn át được các cách cục như đã liệt kê, để xác định NHL là một chính nhân quân tử (tức là, một Thái tuế, hội Long Phượng – xin bỏ Hổ vì Hổ hãm địa – Cái, Mà Long ngộ Tuần, như Long trì là cái ao vua - tượng như vậy, thời phải trong và đẹp. Vậy khi Tuần “nguậy” thì thế nào nhỉ?., phải chăng nước trong ao trở nên “đục ngầu”?. Hay là ao vua không được thay nước, nên trở thành ao tù?. Vậy là, trong Tứ Linh, đã có hai Linh trở nên vô dụng!!!. Chưa nói thực chất đó là Hoạ, chứ không phải là Phúc).

Vì thế, một thái tuế, cứ cho là Quân – thái tuế là Vua – thì vua này cũng không phải là ba đầu sáu tay. Huống hồ lại gặp Liêm Tham loại Trai giang hồ, Gái tứ chiếng, hội Riêu Hình, chủ về sự bại hoại. Trong khi Vũ Sát ngộ Tuần - ốc không lo nổi thân ốc, lo gì được cho ai. Tử vi thì gặp Phá quân, cũng là thiện ác bất phân. Xem ra, muốn định vị cho NHL là một chính nhân quân tử, Thái tuế đây thật là khó khăn. Rõ ràng, bản chất Thái tuế, tự thân nó phải là một Chính nhân mạnh mẽ, như Sen trong Bùn. Là một “Tăng nhân Đắc Đạo” nên dù hoàn cảnh có xấu thế nào đi nữa thì cũng vẫn là Chính nhân quân tử!. Vậy chứ, đâu cần đến Tứ Linh định vị cho Thái tuế ở ngôi Chính nhân quân tử nữa?.

Xin đừng động tới Quang Quý. Bởi vì Lý Thuyết Thái Tuế không có cầu quang quý. Thế nên, phải hiểu, Chính nhân quân tử ở đây, NHL, phải là Thái tuế. Bởi vì xung quanh toàn Sát Nhân Bại Hoại cả rồi.

...

Từ đó, ta có thể kết luận: Từ giả thiết, buộc Thái tuế vốn là chính nhân quân tử bất di bất dịch – không cần đến Tứ Linh, hay nói cách khác, Tứ Linh chỉ là cái áo khoác cho thấy cái cốt cách của chính nhân quân tử. Một khi cái áo có rách, lộ tý “xương sườn”, hay “mảng da” nào đó, thì vẫn cứ là chính nhân quân tử. Để mà NHL là một chính nhân quân tử, khiến ta đi tới kết luận khá cực đoan: Thái tuế là Cát tinh, Tinh đẩu hàng đầu, vượt lên trên cả TPVT. Điều này đã được một số hậu bối của phái này suy diễn ra. Nay với lá số của NHL, đã thấy có sự thống nhất.

Bây giờ chúng ta đặt vấn đề thế này.

Giả sử, trong tay chúng ta không có phương pháp giải số Mệnh chủ, Khí hoá vận, Quản, Lý, Chế. Chúng ta không dựa vào Lý Thái tuế!. Vậy chúng ta, các luận giải như trên, đã có thể Đọc ra: NHL, một học giả, một nhà tư tưởng, một triết gia, sử gia, một nhân cách – theo Khổng Nho (thực ra là một nhà chính trị theo Khổng Nho, nhưng bất phùng thời) hay không?. Và sau đó, với Lý thái tuế, có thể giải được điều này hay không?.

Quả vậy, theo lý thuyết truyền thống, điển hình nhất, được xem như một kinh điển, thì Mệnh Vũ Sát – Kim, đồng hành với bản mệnh thì Vũ Sát là hai sao nòng cốt, một sáng một tối. Vũ Sát một cặp dù không gặp sát tinh xung phá, thì cũng chủ một đời gian truân, hợp với ngành võ. Ngộ Tuần thì càng gian truân hơn nữa. Nhưng cũng có người nói rằng, ngộ Tùân thì hết gian truân, khiến cho không còn hợp với ngành võ nữa. Ví như cây kiếm đã bị Tùân bẻ gãy, thì hết ý chí chiến đấu. Ta lần lượt xét theo hai khả năng đó:

...

-Lý thứ nhất: Ngộ tuần càng gian truân hơn nữa.

Điều này hợp với người tranh đấu. Với một quân nhân, ở thời loạn, đây đúng là người lính thực thụ. Rồi ra, người lính đó phụng sự lý tưởng nào, ái quốc hay phản quốc thì cũng chỉ là quan niệm của đời người, theo những tư tưởng chính trị khác nhau mà phán xét. Chứ bản thân Vũ Sát nào có phân biệt đâu là chính với tà mà phân biệt ra chính nghĩa với phi nghĩa. Nhưng dù không là một quân nhân, hay nói một cách văn học là, không cầm sung, thì cầm bút, thì cái nội dung tranh đấu đâu có mất cái vẻ ác liệt của nó. Cho nên nói, chúng ta cứ có thói quen cho rằng, chỉ có người lính cầm sung mới là chiến đấu, thời không đúng chỗ vậy. Đặc biệt, sống trong các chế độ độc tài, ý nghĩa một người lính cầm bút lại càng tỏ rõ một cuộc chiến tuy âm thầm, nhưng thật sự là khốc liệt. Cái gan tranh đấu chẳng thể so sánh được.

-Lý thứ hai: Ngộ Tuần, cụt hết ý chí tranh đấu.

Thì còn làm gì được nữa?. Suốt đời chả lẩn trốn, an phận thủ thường thì còn có thể có gì khác hơn chứng minh cho cái sự thủ tiêu tranh đấu. Thể hiện ra đời, dù làm nghề gì đi nữa thì cũng là người xu thời, xu mị mà phản bội lý tưởng tranh đấu của mình.

Từ đây, chúng ta nghiệm lý, thấy ngay cái Lý thứ nhất là ứng. Vì thế, cần phải loại trừ cái nghĩa cho rằng Ngộ Tuần thì cụt ý chí tranh đấu.

Thế nhưng, cái gì khiến cho một người Vũ Sát không cầm súng, mà lại cầm bút?. Cái gì đã làm cho một người Vũ Sát có một tầm tư tưởng, một nhân cách cao quý, một chính nhân quân tử?.

Phải chăng một Thái tuế đủ khiến là một chính nhân, một tư tưởng, một người cầm bút?. Hay là Quang Quý đã quy định như vậy?. Hay là đổ cho Thai Cáo Quang Quý?.

...

Xin đừng gộp Thái tuế vào với Thái Cáo Quang Quý nhé. Vì như trên đã phân tích rồi. Chỉ một Thái tuế thôi. Còn như Hình Hổ Lưu hà dẫu có đắc địa cũng chỉ là Hùng biện gia, luật gia, làm chính trị gia thì đúng, chứ đâu có cầm bút mà làm chính trị gia thật như NHL?. Như vậy, chúng ta phải loại trừ hình hổ lưu, vì chúng hãm địa, dẫu có đắc địa và hội với thái tuế cũng không được, không ứng đúng với NHL!. Chỉ còn có Thái Cáo Quang Quý và Thái tuế cô đơn! làm ứng cử viên

Nhưng mà, chúng ta có thấy Thái tuế viết lách bao giờ đâu nhỉ?. Có hàng tá lá số thái tuế đó. Những ¼ nhân loại kia. Mà sao số người viết lách lại không tới con số này nhỉ?. Nếu như đúng là ¼ nhân loại cầm bút làm chiến sỹ trên mặt trận văn hoá tư tưởng – vì họ là chính nhân quân tử, nên khi đã cầm bút thì đương nhiên phải là dạy dỗ nhân loại rồi. Có thế mới phân biệt được loại quân tử cầm bút với tiểu nhân cầm bút chứ!. Thế thì phải loại thái tuế.

Còn Thai Cáo Quang Quý. Thôi thì cứ cố ấn cho đây là cách cục cầm bút đi. Chứ thực thì Thai Cáo cũng là một cặp sao hùng biện mà thôi, nhưng mang nghĩa một giáo sư, nhà sư phạm. Nên có cùng quang quý, thì cũng có tâm của một nhà sư phạm đích thị rồi. Chỉ có điều, xem ra, nó chẳng có gì đặc sắc cả, khi mà một ông giáo lại gặp cơ cảnh Hình Linh Hổ Riêu Liêm Tham thì cũng khó mà có kiến thức để cầm bút viết tràng giang đại hải như NHL. Đó là chưa nói đến cái cảnh tranh đấu - tự bản thân can trường, nhưng cũng là hoàn cảnh phải tranh đấu của Vũ Sát ngộ Tuần.

Nếu đi sâu hơn nữa, xem ra cái cách Thai Cáo Quang Quý khó mà ứng với NHL. Nhưng còn khả dĩ hơn Thái tuế cô đơn.

Tóm lại. Theo cách truyền thống và lý thái tuế. Chúng ta thấy khó mà chấp nhận, với cái lý thái tuế khả dĩ vẽ ra con người của NHL. Và cái lý Thái Cáo Quang Quý thì khiên cưỡng, có vẻ tù mù. Nếu như chấp nhận, thì lại phải trang bị - bịa thêm – cho Thái Cáo nhiều đức tính quá.

Trình bày dài như thế để làm gì?. Chỉ để cho thấy rằng, tổng quát, còn chưa vẽ nổi một con người, thì khi vào vận, làm sao nói cụ thể được. Thật sự như thế nào khi nhập vận, với cách lý giải như trên, chúng ta sẽ thấy.

Hẹn tiếp sau.

Thân ái.

...

Chào anh VuivuiLúc sinh thời chinh NHL đã nhiều lần thắc mắc với nguoisaigon về lá số của mình( NHL cũng có nghiên cứu Tử Vi, Địa lý, Tử Binh và Hà Lạc). NHL vẫn không lý giải thế nào mà lại thành nhà văn (ông đích thị là nhà văn, nhà khảo cứu văn hóa thuần túy chứ không có tư tưởng chính trị gì cả, về khoảng 10 năm cuối đời ông có nghiên cứu, biên khảo về triết học thời Tiên tần và viết ra độ 10 cuốn về Lão tử, Trang Tử vv..còn lại trên 80 phần trăm tác phẩm thuộc vào loại học làm người, tản văn, kinh tế, ngữ pháp VN, vv..Ông là nhà văn đồng thời là nhà giáo) vì thế cho đến cuối đời ông tỏ ra không tin vào Tử Vi lắm, nay khơi gợi lại lá số của NHL thấy anh Vuivui phân tích nguoi saigon thấy có phần hứng thú trở lại, mặc dù không nhận những phân tích của anh vuivui là đúng song nhờ nó nguoi saigon lai ngộ ra được nhiều điều có thể xua tan mọi nghi vấn mấy mươi năm về lá số này, anh vẫn đang phân tích dở dang nên xin mời anh tiếp, để người đọc được liền mạch tư tưởng của anh. nguoi saigon sẽ tiếp lời anh sau. Chúc anh vui và bình an.

Chào nguoi saigon.

Không biết nguoi saigon là anh hay chị. Nhưng một khi đã từng đàm thoại với NHL, chắc cũng có tuổi. Thôi thì cứ gọi bằng tên Nick. Có gì không phải, mong thông cảm.

Như tôi đã nói ngay từ đầu, nay nhắc lại, trước khi tiếp tục về lá số NHL.

-Phương pháp mệnh chủ đòi hỏi phải xác định được mệnh chủ trên cơ sở một tập ít nhất khả dĩ dữ liệu thực của chính đương số. Mệnh chủ được xác định chính xác tới đâu, thì thông tin luận giải được cụ thể và chính xác tới chừng đó. Hai cuộc đời ví dụ của lá số này, tất nhiên lá số này còn có nhiều cuộc đời nữa, song tôi lấy ngay hai cuộc đời điển hình. Và cho rằng cuộc đời thứ hai, có khuynh hướng chính trị là ứng với NHL. Nhưng, với sự chứng thực của nguoi saigon rằng: NHL vẫn không lý giải thế nào mà lại thành nhà văn (ông đích thị là nhà văn, nhà khảo cứu văn hóa thuần túy chứ không có tư tưởng chính trị gì cả, về khoảng 10 năm cuối đời ông có nghiên cứu, biên khảo về triết học thời Tiên tần và viết ra độ 10 cuốn về Lão tử, Trang Tử vv..còn lại trên 80 phần trăm tác phẩm thuộc vào loại học làm người, tản văn, kinh tế, ngữ pháp VN, vv..Ông là nhà văn đồng thời là nhà giáo.

Thì tôi thấy cũng cần có một chút lý giải.

NHL là một nhà văn?. Nhà khảo cứu về triết học, sử học?. Hay viết văn với các tác phẩm thể loại học làm người?. Vậy có thể nói, một nhà văn thuần túy, thì NHL không phải là loại nhà văn lãng mạn, cũng không phải là loại nhà văn hiện thực, mà là một nhà văn xã hội với các tác phẩm mang tính Đạo học, Triết học và Sử học. Như thế, đứng ở góc độ đông phương học, có thể xem NHL như một nhà Nho. Như chúng ta đều biết, một chính trị gia có thể không cần phải tham lý về Đạo học, Triết học và Sử học. Nhưng hầu hết những người có tư tưởng chính chị, hay những chính trị gia lỗi lạc của đông phương đều tham thiền các lĩnh vực này, và đều là những người xuất sắc trong các lĩnh vực này. Như nguyễn trãi, trần hưng đạo, la sơn phu tử, nguyễn du,...rất nhiều nữa. Bảo họ là những nhà văn, nhà thơ cũng được. Nhưng các tác phẩm của họ đều có đầy tư tưởng nhân văn, mang hơi thở của chính trị, và trên thực tế, họ cũng là những chính trị gia thực thụ. NHL không làm quan, có thể xem là không phải là chính trị gia. Nhưng một người là một nhà Đạo học, Triết học và Sử học thì nếu bảo là không mang tư tưởng chính trị thì có lẽ khó thuyết phục. Chỉ có chăng, nếu đưa vấn đề ra tranh luận, thì cũng sẽ mơ hồ, bởi ranh giới giữa chúng rất mơ hồ, dường như không có ranh giới vậy. Khi đưa vào tử vi, một bộ sao của một người làm chính trị lại vẫn không là chính trị gia là chuyện rất thường, như TPVT, CN, hay SPLT chẳng hạn. Song cái chất chính trị gia không thể không có đối với những người này. Khi gia hội với những cách cục khác nữa, thể hiện có thể thay đổi, rất khác với cốt cách của một chính trị gia, như trở thành nhà văn, nhà khoa học,...song, cái chất chính trị vẫn không mất đi được. Chính cái nền này nó quy định cái chất Văn, hay Chất khoa học và do đó nó định hướng cống hiến, công trình của người ta. NHL, nói không có tư tưởng chính trị, không là chính trị gia, song cái chất Văn đã đầy các tưởng, gọi là xã hội nhân văn như đã thấy qua các trước tác của ông, thì không thể phủ nhận được. Như ngày trước, khi tham luận trên lá số NHL, Tôi đã xác định mệnh chủ của NHL là Thiên phủ hội Lộc tồn Khoa Xương Khúc. Nhưng tôi không tham gia giải số, nên cũng chẳng có ấn tượng gì, nay có nhắc lại, thoạt đầu thì chẳng nhớ, nên chỉ xác định mệnh chủ Thiên phủ hội Lộc tồn mà thôi. Giả như, ngay từ đầu mà nguoi saigon đưa ra một chút thông tin về đương số để xác định mệnh chủ, thời nó sẽ nhắc lại cái mệnh chủ của NHL mà tôi đã xác định trước đây.

Chỉ cần nói đến mệnh chủ như vậy, cũng đã đủ để luận giải đúng lá số này rồi. Thậm chí, không cần đến Hóa khí vận, vẫn có thể giải chính xác.

Nhưng cái mà tôi cần ở đây là minh chứng:

-Thuyết thái tuế cũng khiên cưỡng, áp đặt.

-Các phương pháp giải số truyền thống cũng không khắc phục được trong lá số NHL. Có chăng chỉ mơ mơ hồ hồ. Nên NHL cuối đời có không tin tử vi lắm cũng không có gì ngạc nhiên.

Nhưng không nên nghĩ rằng, xác định mệnh chủ mà nói NHL là nhà văn thì dĩ nhiên đưa bậy ra một cách cục văn chương rồi bảo đó là mệnh chủ. Rồi từ đó cho rằng, xác định như thế khác gì bói dựa,... Mà thực ra, việc xác định mệnh chủ đâu có cần nói đó là NHL, đâu có cần nói đó là nhà văn, hay nhà gì gì đó đâu. Chỉ cần một hai thông tin: Như năm nào tốt nghiệp thậm chí chỉ là thành chung, năm nào cưới Vợ. Thế là đủ.

Các bài trên, Tôi lý luận để khẳng định phương pháp giải số truyền thống là khiên cưỡng, phương pháp thái tuế là sai lạc. Nên chú ý rằng, khi giải số, tử vi gia thường mắc tật: Tìm cách cục, phối hợp chế hóa mà định cục, để rồi suy luận ra tiêu chí. Thường đó là phương pháp kinh điển, nhưng hay mắc lỗi là định cục bằng định kiến, phớt lờ những chế hóa rối rắm mà xa rời lô gíc. Bởi vậy, khi đặt trọng tâm là phản biện, Tôi đặt nặng logic chứ không định cục. Huống hồ, trong lá số NHL, việc định cục để giải đoán tất sẽ dẫn đến những lý giải rất ngớ ngẩn.

Bạn nguoi saigon có nói rằng:

mặc dù không nhận những phân tích của anh vuivui là đúng

Thì cũng hy vọng nuoi saigon trình bày những lý giải chứng minh tôi sai, trên cơ sở rằng: Lấy logic làm trọng. Một khi phi logic, thì không có giải đoán nào có giá trị cả.

Phần 1, xác minh tính sai lầm trong việc sử dụng thuyết thái tuế trong lá số NHL và sự khiên cưỡng của phương pháp truyền thống. Nên chú ý rằng, Tôi lấy phương pháp sao nòng cốt là phương pháp mang tính logic cao nhất của tử vi phổ thông hiện nay, xem như đó là đại diện cho phương pháp truyền thống để chứng minh nhận định của mình.

Giờ mời Bạn trình bày lý giải của mình.

Chúc Bạn an khang.

Thân ái.

...

Chào nguoi saigon.

Rất vui khi thấy nguoi saigon đã có một loạt bài trả lời. Dù mới đọc qua, cũng đã thấy sự trao đổi của nguoi saigon thật sự nghiêm túc, và cũng đã có cung cấp không ít thông tin về NHL. Thực tế, về NHL tôi hầu như chỉ nghe nói, chứ không tìm hiểu. Những thông tin mà nguoi saigon đưa ra, thật cũng hữu ích cho việc nghiệm lý một lá số, mà có thể nói - đặc biệt khó - với hầu như tất cả các phương pháp xem tử vi truyền thống.

Tuy nhiên, ở đây tôi xin nhắc lại hai chú ý:

-Lá số này được đưa ra với mục đích nghiệm lý, chứ không phải là giải đoán. Nhưng như Tôi đã nói, ngay từ đầu, tôi lại không muốn xem đó là nghiệm lý – trong khi nguoi saigon thuần tuý là nghiệm lý – mà tôi muốn dùng nó để chứng minh thuyết thái tuế là sai, cùng với các phương pháp giải đoán truyền thống là gượng ép.

-Nhưng trước đó, tôi đã dùng phương pháp mệnh chủ để sơ lược giải đoán, trong điều kiện hoàn toàn không có điều kiện để xác định mệnh chủ. Vì thế, việc để bạn đọc, cũng như nguoi saigon dễ dàng dẫn tới hiểu lầm là bói dựa, cũng không là điều khiến tôi ngạc nhiên. Song chỉ cần lưu ý một chút, không phải chỉ ở diễn đàn này, mà trước đây rất lâu, khi còn ở bên TVLS, Tôi đã nói nhiều lần, phương pháp mệnh chủ là phương pháp mở, khi tập điều kiện để xác định mệnh chủ càng lớn, thì mệnh chủ càng được xác định chính xác. Mệnh chủ được xác định càng chính xác bao nhiêu thì mức độ chính xác của gỉai đoán càng chính xác bấy nhiêu. Nó từa tựa như trong tướng học, khi thầy tướng càng quan sát tinh tế bao nhiêu, kỹ lưỡng bao nhiêu thì sự giải đoán về nhân tướng càng chuẩn xác bấy nhiêu. Điều này rất đúng lẽ tự nhiên. Thực không có gì phải bàn. Mà cái chính, là phải năm được phương pháp mệnh chủ, còn như không biết, tời việc suy luận hay phán xét chỉ như là nhìn từ bên ngoài vào, mắt nhắm mắt mở và phán thôi. Cho nên, Tôi đã nói, đầu tiên là đưa ra mệnh chủ, với một mẫu người có liên quan đến chính trị. Nhưng khi biết được là NHL, hay dù không biết, mà có những thông tin chính xác một hoặc vài biến cố đầu đời, chắc rằng không đến nỗi phải để nguoi saigon phải nghĩ rằng tôi bói dựa.

Nay nhân những bài nguoi saigon viết ra đây, Tôi xin phép lần lượt phân tích từng chi tiết một cho thấy cái sai của thuyết thái tuế, cũng như những nhận định sai về phương pháp mệnh chủ phối với phương pháp hoá khí vận. Mà với những phương pháp này khi phối hợp, sẽ chứng minh chặt chẽ và chắc chắn từng vận mà NHL đã trải qua một cách cục thể, chứ không hời hợt như Thái tuế pháp, chỉ thấy được đến thái tuế là phất lên, mà không thấy được vai trò của các sát tinh ra làm sao.

...

Còn đây là cái sai thứ hai của vuivui trong thực hành giải đoán lá số này đó là: Nếu ta có khiên cưỡng chấp nhận nhà văn NHL là nhà nho, nhà văn hơi hướm chính trị thì nó cũng sai luôn vì NHL chỉ thực sự viết văn, hành nghề viết văn khi ông bước vào vận Quan lộc tức đã ở tuổi 40.

Vậy chẳng lẽ lý thuyết Mệnh Chủ chỉ đoán con người từ 40 về sau, còn một quãng đời rất dài phía trước NHL làm kỹ sư công chánh ta ném nó đi đâu.

Đây là một sự ngộ nhận của nguoi saigon về thuyết mệnh chủ. Thuyết mệnh chủ không có cái lý thô sơ như vậy. Mệnh chủ của một người, có thể nằm ở bất cứ một cung nào trong lá số, có thể là một cách cục, một bộ sao,... Khi giải đoán, hay khảo sát cuộc đời một con người thông qua mệnh chủ, thời phải "soi" mệnh chủ với từng cung, từng vận. Mệnh chủ có thể biến, biến hóa nhiều lần trong đời, cũng có thể không biến hoá. Mệnh chủ được soi vào các cung, nhưng trên cái nền của Phúc đức. Mệnh chủ phải thấu triệt được Hóa khí, nếu không mệnh chủ không có giá trị gì cả.

Nguoi saigon không hiểu mệnh chủ, không nắm được phương pháp giải của nó, nên nói như vậy là sai.

Mệnh chủ có thể, không chỉ phối hợp được với Hóa khí vận, mà còn phối hợp được với hầu như tất cả các phương pháp giải số mà tôi đã biết - từ các phương pháp truyền thống, phương pháp nòng cốt, phương pháp sao rung, phương pháp ngũ hành tướng, phương pháp tự hoá, hóa khi vận, chế, lý, quản, phương pháp phi tinh,.... Và cũng nhờ mệnh chủ, có thể đáng giá được sự đúng sai của bất cứ phương pháp giải số bất kỳ. Vì thế, việc cho rằng mệnh chủ chỉ giải đoán được như trong lá số NHL sau 40 tuôi là không đúng.

...

Trích:

Nếu nói như vầy các bạn thấy có được không: Ông này (NHL) có thân cư thiên di có Thiên Phủ, Lộc Tồn thì khi lập thân đi xa sẽ khá, đám văn tinh Xương, Khúc, Khoa không ở Mệnh nên Mệnh không thấy có số làm văn học nghệ thuật, những văn tinh tụ hết ở Thê, thê bàng chiếu về Thân nến đến vận quan sẽ đổi nghề thành nhà văn, còn nếu không dám đoán chắc nịch là nhà văn thì đoán rộng hơn tí xíu là ông này sẽ đổi nghề mà nghề mới gắn với văn chương nghệ thuật thì cũng nghe lọt lỗ tai.

Điều này không đúng. Bởi vì trong giải đoán số không ai lấy những sao đối diện với quan cung để tìm nghề của đương số cả. Đấy chỉ là gượng ép, cố ép thành thế. Có thể thấy ngay sự vô lý này. Thật vậy, nếu lấy xương khúc để hóa thành nhà văn, thì Tử Phá Linh Hình Khốc bỏ nó đi đâu, và khi nào thì xương khúc mới quy định cho NHL thành nhà văn?. Rõ ràng là chịu. Nhưng mệnh chủ với hóa vận thì xác định rất rõ đầu đời làm việc không dính tới nhà văn, do bộ SPLT quy định, nhưng chất văn chương ở trong ông là vốn có, bởi mệnh chủ quy định. Vào đại vận trước thái tuế, mệnh chủ rung nên bản chất văn chương lộ ra. Xuất phát từ vận thiên không, mệnh chủ do Thiên phủ Lộc tồn làm gốc, chủ vật chất nên dính đòn thiên không mà bại sản - lý luận này tôi đã đề cập nhiều lần khi bàn về thiên không. Xong thành phần mệnh chủ có Xương Khúc Khoa nên bộ này, gặp Thiên không là hiển lộ - tôi cũng đã trình bày nhiều lần về vấn đề này rồi.

Sang đến vận thái tuế, bộ Liêm Tham hóa Cát, đó là phản vi kỳ cách, nên bộ SPLT mà vận nhập cung Tài chứ không phải nhập ở cung Quan, hưởng phản vi kỳ cách mà phất lên. Nhưng do là phản vi kỳ, nên đương số phải đi từ con số âm, từ khó khăn gian khổ mà vươn lên. Song dù là phất lên, nhưng bộ Linh Hình đều hãm địa, bản chất phản vi kỳ cách của Liêm Tham vẫn là sự liên đới, vẫn có hung hiểm của pháp luật, chính quyền. Có bị đe dọa bởi hung hiểm do Linh Hinh Liêm hãm mà ra. Bộ Xương Khúc trong mệnh chủ, tọa tại Thê cung phối với Tham Liêm Riêu triều mệnh thì chủ đa thê là đúng chứ còn thế nào nữa.

Cho nên, qua đây ta thấy ngay, với cái lý thái tuế, chẳng thể nào nói được cái gì trong vận này cả.

Còn như NHL là người như thế nào?. Đó chẳng phải là người Thiên phủ Lộc tồn Xương Khúc Khoa hội Thai Cáo Quang Quý sao?. Khỏi phân tích thêm, cứ thấy cách cục như thế là đã ra con người của NHL rồi!!!. Đâu có chuyện là phải lấy Thái tuế mới cho ra nhân cách cao quý đâu. Bộ Thiên phủ Lộc tồn gặp Quang Quý Thai Cáo thì mẫu mực quá rồi còn gì. Ai dám bảo bộ này là ngụy quân tử?.

Bằng vào bài này, chúng ta có thể thấy toàn bộ những lý giải của nguoi saigon dưới là không đúng. Tất thảy chỉ vì nguoi saigon không biết phương pháp của tôi. Mà Tôi thì không nói cụ thể. Trên đây chỉ là nêu cái kết quả thôi, chứ tôi không đưa lời giải minh thị được. Tin hay không thi tuỳ.

Lưu ý trước năm 40, NHL làm kỹ sư công chánh. Chỉ nhìn vào Mệnh chủ, thấy ngay khi đó mệnh chủ không rung, nhưng liên hệ với mệnh cung rất chặt chẽ, không chỉ có thế, mà cả quan cung và tài cung đều liên hệ chặt chẽ với mệnh chủ qua Thiên phủ cùng Lộc tồn. Chỉ cần chỉ đến đây thôi, NHL không chỉ làm kỹ sư công chánh, mà còn là nhà Kỹ sư thất bại nữa. Một người bất thành tựu trong chuyên mộn kỹ thuật, khi gia hội, Thai Cáo, như đã phân tích ở trên, có hơi hướng của nghề giáo, khi mệnh chủ rung, thì thai cáo cũng phát lộ.

Bám vào lý này, có thể nghiên cứu NHL đến từng chân tơ kẽ tóc. Ai không hiểu thì đành chịu. Không tin cũng không sao.

Thân ái.

...

Chào các bạn quan tâm.

Như tôi đã tường trình, chủ yếu không phải là tôi dùng phương pháp mệnh chủ làm chủ để phản biện lý thái tuế. Mà chỉ cho đó là một ví dụ, để có thể thấy, một khi các phương pháp truyền thống lâm vào bế tắc, thì chúng ta cũng không phải là bế tắc một cách tổng quát, tới mức mà phải dùng đến những phương pháp vốn nó đã sai từ gốc, lại cố khiên cưỡng, ép lý cho bằng được để sử dụng nó. Nay ta quay trở lại, xem xét xem sự khiên cưỡng của lý thái tuế trong việc lý giải lá số NHL.

-Trước hết, về mặt tổng quát, mỗi lá số có nhiều cuộc đời. Các phương pháp truyền thống đều không giải quyết được vấn nạn này. Lá số NHL chắc chắn cũng có nhiều cuộc đời ứng với nó. Lý thuyết mệnh chủ cho phép giải quyết bài toán này một cách triệt để, trên phương diện lý luận. Còn thực tiễn thì phụ thuộc vào "công lực" giải đoán của mỗi người. Người càng giỏi, càng tinh tế thì khả năng phân biệt càng nhiều cuộc đời trong cùng một lá số. Song lý thuyết này, hiện nay chưa được phổ biến và lý thuyết của nó cũng chưa được tiết lộ thì việc dùng nó chứng minh các lý thuyết khác sai là một điều khó chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, rõ ràng với những phương pháp truyền thống không cho phép chúng ta phân biệt được các cuộc đời khác nhau trong cùng một lá số, và thậm chí, những lá số gần nhau cũng đưa chúng ta lâm vào tình trạng không phân biệt nổi. Vì thế mới xảy ra tình trạng cãi nhau bất phân thắng bại trong việc định giờ sinh.

Như thế, với những phân biệt tương đối khác nhau, trên những lá số khác nhau, mà còn khó phân biệt nổi giữa chúng với nhau, để tìm ra lá số đúng với cuộc đời thực. Huống chi, lý thuyết thái tuế, hầu như bất biến về nội dung, như: Vào hạn thái tuế thì được thăng hoa. Dẫu có gặp xui rủi mà táng mạng thì cũng được bù trừ là nhiều người thương tiếc. Người thái tuế là chính nhân quân tử – nhưng chính nhân thế nào thì không phân biệt. Nhiều khí đổ cho người tuế phá là không yêu nước, người thái tuế thì nhất định là người yêu nước. Rồi người thái tuế thì tự hào, còn người tuế phá tang môn thì bất mãn. Nhưng lại không nói ta tự hào cái gì?, bất mãn cái gì?. Nếu đem thường lý mà nói, ai được sinh ra trên đời, lại chẳng có chút tự hào cho chính mình!. Làm được một việc, được khen, không tự hào à?. Bị ăn chặn, dù có là người thái tuế cũng không khỏi bất mãn....thế thì cái niềm tự hào hay bất mãn là cái tư tưởng cá nhân, sao lại có thể đem nó quy thành một luật cho xã hội được. Tại sao tôi lại nói vậy. Một khi, chỉ xét trên một lá số, thì tính cách là thuộc sở hữu cá nhân, nhưng khi đã tổng quát hóa thành quy tắc, hễ là người thái tuế thì....đương nhiên, nó sẽ là hiện tượng xã hội, bởi nó trở thành phổ biến, một quy tắc trong thống kê xã hội.

Điều này, dẫn đến cho phép chúng ta thấy rằng, lá số NHL, là người thái tuế, đương nhiên theo lý thuyết thái tuế, sẽ cho ra kết quả một con người chính nhân quân tử, một con người mẫu mực này nọ,... rất nhiều ưu điểm nữa, mà chỉ với vai trò của thái tuế mà thôi. Thì làm sao phân biệt được NHL với người Thái tuế ở lá số khác?. Phải chăng khi đó lại gia giảm?. Xin thưa rằng, lúc đó thái tuế vẫn là cái nền tảng, thì dù xấu tốt thế nào, cũng chỉ là hình thức tăng nặng hay nhẹ mà thôi, chứ làm sao thay đổi được từ người yêu nước thành kẻ phản quốc được. Thế nhưng, điều này hoàn toàn không đúng với thực tế. Lá số NHL rõ ràng thái tuế bị xung phá rất mạnh, không lẽ NHL vẫn còn là một chính nhân quân tử với cái lý thái tuế?. Và như vậy, một phần tư nhân loại là chính nhân quân tử, thậm chí cốt cách còn cao hơn NHL, vì trường hợp NHL bị xung phá rất nặng. Té ra là NHL cũng chẳng có nhân cách cao quý gì lắm theo thuyết thái tuế. Vậy thì có gì mà phải ngợi khen?. Hi hi...

...

Chỉ riêng về mặt này, chúng ta đã có thể bài trừ lý thuyết thái tuế.

-Khi giải thích cái sự hành nghề văn chương của NHL, xem xét như nguoi saigon:

Trích:

Nếu các bạn đi sâu vào Xương, Khúc hơn tí xíu hẳn bạn sẽ thấy Văn Xương vốn là sao giỏi văn tự từ chương, còn Văn Khúc thì tinh thông thuật, Văn Xương sáng tác, Văn Khúc nghiên cứu, có câu Văn khúc cửu lưu thuật sĩ nên Văn Khúc khả dĩ vào âm dương thuật số là hợp cách, 2 thằng này tụ lại làm nên 1 cách cục riêng biệt tạo nên 1 con người mẫn tiệp thuộc hàng thông minh và có công danh, trên thực tế con người NHL nhìn vào sự nghiệp trước tác của ông ta thấy, những tạp văn ông viết đã làm xúc động nhiều thế hệ người đọc như: Làm con nên nhớ, Cháu bà nội tội bà ngoại, Hương sắc trong vườn văn, những sản phẩm này thuộc về Văn Xương, còn những khảo cứu của ông như biên khảo triết học thời tiên Tần, loại học làm người, giáo dục thanh niên, ngữ pháp VN, vv…Những cái này thuộc về Văn Khúc, ngoài ra NHL cũng nghiên cứu âm dương thuật số tuy những môn này ông không muốn đào sâu, thế còn Khoa, xin thưa NHL trước viết văn ông có dạy học cho 1 Tư thục ở Long Xuyên, và những trước tác của ông phần lớn mang nội dung giáo dục, nên nhiều thế hệ đọc sách NHL khi gặp ông ngoài đường đều gọi ông bằng thầy mặc dù họ không học với ông ngày nào, nghề giáo của ông không chính thức bởi Hóa Khoa của ông ở vào cung ban đêm (Tam Hóa là áo gấm cần ở ban ngày mới chính danh). Trên là chỉ dùng mấy cái sao sơ đẳng mà cũng nhìn ra được chứ cần chi đến phương pháp chi bí áo, phức tạp. Phần lớn chúng ta mắc một cái lỗi là càng học sâu chúng ta càng chìm lấp trong những lý thuyết phức tạp, chết luôn trong đó đến nỗi quên cả những quy tắc bất di bất dịch ban đầu khi mới đặt chân vào đó là: Nửa đời đầu của Mệnh, nửa đời sau là của Thân thực sự hai cái lớn này nó sẽ đóng khung những cái chạy theo nó, nó được mình định trước đầu đề thế nào thì cứ phải bám vào nó mà đoán ví dụ nói nủa đời sau khá thì logic là mọi đại tiểu vận đều phải chạy trên cái nền đó, ở lá số này chỉ cần tinh mắt tí là tìm ra văn chương nghệ thuật thôi( Chỉ dựa vào sao, cách cục), chỉ cần nhìn ra bốn thằng Thiên Phủ, Lộc Tồn, Xương, Khúc quản cung Thân của đương số thì cơ bản đã xong không cần nói thêm ( đó là cũng chưa cần kể vị trí của 4 sao này.)

Là hoàn toàn sai lạc bản chất của luận giải tử vi. Thật vậy, trước hết chú ý về hai sao xương khúc. Văn xương là sao âm, văn khúc là sao dương. Đối với âm dương nam nữ đều có sự tương hợp, ăn sao nào nhiều, ăn sao nào it do sự tương thích mà ra. Như ở lá số NHL, tuổi tân khúc hóa khoa, xương hóa kỵ. May mà NHL là nam nhân nên tương hợp với Khúc hơn là xương. Vì thế, xương hóa kỵ tuy có trong thành phần cốt cách của NHL nhưng không chủ đạo, mà chinh là Khúc hóa Khoa mới là chủ đạo. Nay cứ cho là không có lý thuyết mệnh chủ đi nữa, thì với các lý thuyết khác cũng không thể vô tư mà cứ lấy bừa xương khúc khoa, lờ tịt hóa kỵ đi, rồi gán cho thiên phủ vì thiên phủ lộc tồn tọa thủ tại thân cư ri. Bởi vì khi ấy thiên phủ lộc tồn ở thế tuế phá tang môn lại đều hãm địa cả, phải chăng nếu lấy lý thái tuế chính nhân quân tử, thì thân cư tuế phá là hành động của kẻ tiểu nhân?. Lại thêm xương khúc khoa Kỵ nữa thì càng thâm hiểm?, Lý là phải thế, khi mà theo thuyết thái tuế. Và tóm lại, phải kết luận NHL là kẻ Ngụy Quân Tử. Nói một đường, làm một nẻo?. Dù có là nhà văn đi nữa thì cũng là loại dối trá!. Nay theo lý âm dương, thì chỉ có khúc khoa là tương thích. Rõ ràng luận văn chương của NHL là phải lấy cái văn của Văn khúc hóa vi Khoa chủ về khảo cứu, hùng biện, biện giải và danh tiếng, chứ đâu có hoen ố của hóa Kỵ, nếu như văn chương của ông ẻo lả, lãng mạn, tất sẽ bị chê bai lập tức. Thành ra, ông lấy cái Đạo để dạy người, lấy cái sự Khảo cứu tìm chân lý làm cứu cánh để thức tỉnh thiên hạ, đó chẳng phải là cái Dũng trong văn chương mà chỉ có Văn khúc mới đáp ứng nổi với tính chất tuôn chảy, mà đằm của văn khúc, hào hùng cũng của văn khúc.

Còn nếu như mà nói, cái nghiệp văn chương là do thiên phủ lộc tồn cùng xương khúc cai quản theo cái lý nó hội ở Thân thì như đã nói, còn có các cách cục khác mạnh mẽ hơn chi phối quyết định thì làm sao?. Như Cách Phủ Tướng triều viên hội Lộc tồn là cách thực Lộc, lại thêm Tang Kỵ nữa thì sao nó không phá cái cách văn chương cho nát bét ra nhỉ?.

...

Cái cách luận như vậy có giải quyết được vấn đề này không?. Không chứ gì?. Thế thì làm sao dám bảo đảm cho thiên phủ khúc xương vẹn toàn thành cách văn chương, rồi lại bảo vì nó thủ Thân nên chi phối nửa đời sau của NHL nên tới 40 tuổi mới thành nhà văn?. Rồi lại phải trả lời câu hỏi: Chỉ với cách văn chương thủ Thân thì hành nghề văn chương nửa đời sau, liệu có tính ra nổi sao nó lại khởi từ đại vận thiên không mà không khởi từ thái tuế có hợp lý hơn không?.

Rõ ràng, với kiểu ký giải như vậy, sẽ rất vướng mắc, chỉ có thể phán xét một cách chung chung, không đưa ra được một bản chất nào cả. Như vậy, chỉ với nhiệm vụ Nghiệm Lý không thôi, cũng đã thấy bất cập rồi.

Trích:

Ngày nay ta chỉ biết đến NHL là một nhà văn, học giả đó là cũng do 1 bước ngoặt khi ông vào vân Thái Tuế (1 quyết định mà ai cũng cho là ông liều lĩnh, phiêu lưu). Tới đây ta lại nhới tới lý thuyết Thiên Lương cho rằng vận tới Thái Tuế là 1 bước ngoặt làm thay đổii hẳn cuộc đời đương số, còn điểm này nữa, khi đã khá giả phong lưu rồi NHL dành thì giờ chuyển sang viết những loại sách mà ông cho là tuy bán chậm, kén đọc giả nhưng nó rất có giá trị về văn hóa như triết học thời tiên Tần, ở đây ta thấy tư cách của ông, mà theo Thiên Lương Thái Tuế chủ về tư cách.

Như trên chúng ta đã thấy, nếu nói thái tuế chủ về tư cách, thì Thân cư Ri của NHL phải là hành động của người ngụy quân tử. Bởi vì cái Thân là cái Ta hành động. Chứ đừng có xiên thành cái sự khó khăn, lực bất tòng tâm. Bởi vì mệnh đã là Vũ Sát ngộ Tuần thì khó khăn lắm rồi, lực bất tòng tâm là nó ở đó, chứ đâu có chuyện Thiên phủ. Thực tế vào đại vận đó, ổng đâu có khó khăn, nếu như ổng viết văn theo trào lưu. Thế thì chỉ có mỗi cách lý giải là tuế phá chi phối hành động NHL mà buộc NHL hành động không có nhân cách vậy!. Thế chẳng phải là, nếu cố gắng giải cho rằng NHL là người có tư cách hóa chẳng phải là "gọt chân cho vừa giày" đó sao!?.

...

Trích:

Vuivui đã viết rằng sở dĩ không đoán ra là tại chưa biết được những phương pháp đoán khác, nguoi sai gon xin nói thật là, dù có dùng phương pháp gì cũng không thể đổi trắng thay đen được với cái đám Sát Phá Tham hãm địa ở Quan của ông NHL, và sẽ không thể thuyết phục được người học Tử Vi cho dù mình có biện thuyết hùng hồn tới mức nào, cho dù mình có nói mình logic cỡ nào thì thực tế sai nó vẫn cứ sai, học Tử Vi dù Lý thuyết mình có lỗi lạc tới thiên thư bách khoa mình vẫn phải đưa đầu về đối diện với những lá số rất thực tế, rất cụ thể, những cuộc đời cụ thể, chứ không thể ngồi đó thuyết suông mà hiểu được đời người.

Tôi mà viết ra cái vận NHL nó hóa cát như thế nào, và chỉ phối được tốt đẹp đúng với mệnh chủ một cách toàn diện trên phương diện tài lộc và danh vọng thì các vị cũng sẽ giật mình bởi sự chính xác và tính duy nhất của nó chẳng kém gì toán học cả. Khi ấy, thấy rõ mồn một SPLT vận nhập Tài hóa Cát, làm biến chuyển sự nghiệp của NHL như thế nào. Ấy là cái sự "đổi trắng thay đen cái đám SPLT" đấy!. Mà không cần hùng hồn biện thuyết đâu.

Trích:

Tử vi chẳng qua cũng là một môn thường nghiệm, tham vọng đưa nó về 1khoa học thực nghiệm với những logic chặt chẽ như toán học thì sao hiểu nổi Tử Vi, làm sao Tử Vi có thể 2x2=4 được, 1 thuyết về lý luận thì sai, nhưng ốp vào thực tế nó vẫn cứ đúng thì cái sai đây là sai trong lý luận chứ về mặt quan sát và quy nạp nó không sai mà tử Vi thì không phải là lý luận và người ta vẫn cứ dùng nó (vì thực tế xác suất đúng của nó cao). Ngược lại 1 thuyết mà khi lý luận rất chặt chẽ, nhưng ốp vào thực tế nó lại sai thì thuyết đó lại trở nên hư vô và người ta sẽ không dùng.

Không nhìn ra thì không nên có kết luận theo kiểu: Lý sai mà thực tế đúng, và ngược lại được.

Vốn có câu: Danh bất chính thì ngôn bất thuận, Ngôn bất thuận do Lý bất thông.

Từ Lý đã bất thông, sao còn có thể hy vọng một hành động đúng, một việc làm được thiên hạ nhất trí được!!!.

Trích:

Nhưng thưa các bạn, đòi hỏi 1 lý thuyết như thế thì thật là nhảm nhí với Tử Vi, nếu có, thì nó chỉ để thỏa mãn óc nhị nguyên của những kẻ quá thiên về lý thuyết của sự phân tích, của sự phân chia manh mún, trong Tử Vi nếu ta đòi hỏi như thế thì chẳng khác nào ta đòi phải giải thích cho ta rạch ròi tại sao cung an Mệnh thì phải ở chỗ này, còn cung an Thân thì phải ở chỗ khác, hay tại sao người sanh giờ Tý, Ngọ thì Thân Mệnh lại ở đồng cung, trả lời được ta may ra chỉ có Trần Đoàn. Mà tôi đoan chắc rằng nếu Trần Đoàn có sống lại chắc ông cũng phải nát óc với mớ lý thuyết sách vở chất đống có chiều cao hàng cây số của đám hậu học, với đạo học càng học càng xa là thế.

Điều này Trần Đoàn đã làm rồi, và việc lý giải cũng không khó khăn lắm, nhưng với những người mà ngay cả lý âm dương ngũ hành cũng chưa thông thì thật sự là vô cùng khó, bất khả!.

Không có lý thuyết tường minh, thì không có thực tiễn phát triển. Đó là chân lý. Không chỉ đúng với Khoa học Tây phương, mà cả Đông phương học cũng vậy. Và cũng chỉ bởi, Đông phương học với cái lý u u minh minh, nên thực tiễn mới Bó Chân và Bó Tay. Com như ngày nay chúng ta thấy. Vì thế, không nên ngụy biện, bôi sơn, tô vẽ cho cái bế tắc của mình.

Trích:

Có lẽ nguoisaigon cũng có ít lời thô lậu gởi đến các bạn trẻ, nhất là các bạn mới bước chân vào Tửvi đó là: Tử Vi không là Toán học, Tử Vi cũng không phải là khoa học thực nghiệm, nó đặt cái tàng trên kinh Dịch nên nó đầy mâu thuẫn và huyền ảo, nó vốn linh động khó nắm bắt chứ Tử Vi không là một mớ qui tắc khô khan chết cứng mà chỉ cần cất công học thuộc lòng nó là có thể đoán số cho người, bởi thế, dầu sao nó cũng chỉ dành cho người có căn mới vào sâu được.

Không nên hiểu các quy tắc đi liền với sự khô khan chết cứng, mà phải vận dụng được chúng một cách "thấu Dịch" trên nền tảng Dịch Lý. Đừng lấy cái sự khô khan chết cứng ra dọa các quy tắc. Như quy tắc: Âm Dương Bất Giao – Tuyệt, là quy tắc, mà sự vận dụng nó uyển chuyển vô cùng. Hỏi có mấy ai vận dụng cho ra hồn, sao bảo nó là khô khan, chết cứng được?. Tử vi là như thế, quy tắc của tử vi, vốn có, và muốn giải được nó, thời phải nắm rất vững Lý học đông phương?. Nắm không vững thì sự ra đời của lý Thái tuế không có gì lạ, và sự cố gắng vận dụng nó, cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tôi không biết, như cụ NHL có biết thuyết thái tuế không?. Có lẽ cụ biết, vì cụ sống qua thời đó, cái thời mà thuyết thái tuế một thời vang danh thiên hạ, khi mà cụ đang rất băn khăn về lá số của mình, lại cũng biết về tử vi, thế nào cụ chả biết thuyết thái tuế. Nhưng chắc cụ cho là không đúng về căn bản học thuật, nên cụ không xài. Chứ mà cụ cũng xài cái thứ đó, thời tôi cũng sẽ nghi ngờ luôn kiến thức đông phương học của Cụ vậy!.

Thân ái.

...

WhiteBear

Hôm nay, buồn tay thử so cơ với lá số cụ Hiến Lê một chút:

Lá số sinh tháng 11, cung Tý, nơi có Thủy Đế Vượng. Mệnh hành Kim, cung mệnh tại Mão, có Vũ Sát hành Kim, Thân đóng cung Dậu có Kim đế Vượng. Vậy Đương số thiếu Hỏa một cách trầm trọng, vậy do đó tối ái Hỏa, thứ nhì ái Mộc dưỡng cho Hỏa, và tối kỵ Kim và Thủy quá Vượng. Ông sinh ngày 20, 20/5 =4, vậy Kỳ Số Cục là Kim tứ cục.

Vậy, chúng ta có thể nói gì về đại vận 33-43: Vào cung Thủy đế vượng, gặp Cự Môn hành Thủy. Áp dụng lý thuyết vòng trường sinh lưu, can Bính cung Tý có nạp âm là Thổ, lại là cung Thổ Đế Vượng (thổ an theo Thủy) hút hết toàn bộ hành hỏa của lá số. Vì vậy, dù Cự Môn có vượng thì vẫn gây rất nhiều khó khăn cho đương số, khiến đương số không thể dụng được. Đây ứng với đại vận khó khăn trong cuộc đời của ông dù chính tinh miếu vượng.

Tiếp theo, đến đại vận 43-53, dù Liêm Phá hãm, chủ rất nhiều biến động trong cuộc đời, nhưng Liêm Trinh hành Hỏa dưỡng cho hỉ thần, cung Thủy, vòng trường sinh lưu là Mộc tam cục, vòng hạn ứng với vị trí trường sinh, nên Mộc cực vượng. Thủy đáng nhẽ là kỵ thần của đương số, nhưng được chế hóa vì Thủy dưỡng mộc của vòng trường sinh lưu, Mộc vượng sinh ra hỏa là hỉ thần, đồng thời Mộc cũng dưỡng cho Liêm Trinh hành hoả dù hãm địa. Vì vậy, Liêm Tham hãm địa chủ biến động, khiến đương số đổi nghề, và vì hỉ kỵ phù hợp nên cách đổi nghề này lại khiến đương số phát lên về sự nghiệp-nơi vượng của vòng trường sinh lưu. Xung không điền thật, tướng ấn Mã chiếu về, Vũ Tham được cát hóa bởi hóa lộc xâm vào cung Quan đại vận, Hóa quyền vào Mệnh đại vận.

Đây là dấu chỉ rõ ràng nhất về biến đổi cuộc đời cuả cụ HOàn toàn không liên quan đến Thái Tuế.

Cái xấu của đại vận này chính là Hóa Kị xâm vào cung Phúc đại vận, đồng thời là cung phu thê. Tin chắc rằng vợ của cụ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống quan hệ vợ chồng.

Vậy, đây là một phép giải đoán khác hoàn toàn không sử dụng đến Thái Tuế.

 

Tổng hợp

Thực ra chẳng có ai tranh công, tranh danh vị phát minh trước sau gì cả. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Như tôi chẳng hạn. Tôi biết nhiều phép giải đoán tử vi từ rất là lâu. Nhưng biết là biết nội dung có những tên gọi mang tính cá nhân – do người truyền lại tự đặt tên. Nên nhiều khi có nói ra cũng chẳng gây hiệu ứng gì, hoặc cũng chẳng có thể so sánh với chính phương pháp đó nhưng khoác một cái tên đã chính danh. Chỉ khi có điều kiện nào đó đem sánh các phương pháp đó với nhau, mới té ngửa ra rằng, chúng cùng một nội dung. Như phép quản, chế, lý chẳng hạn. Tất cả các phương pháp, từ treo, rung, tràng sinh bay, lưu tứ hóa, thái tuế nhập quái mà không có quản chế lý thì có xem cũng khó đi đến quyết đoán. Cùng lắm chỉ có thể liệt kê được ra cách cục, đưa tới lời giải đoán mang tính xác xuất cao. Nhưng mà, nói ra cái tên, nghe thì biết để đấy. Nếu có ai hỏi, nhiều khi muốn trả lời, cũng phải trình bày dài dòng, có khi người đọc chả hiểu. Mà quả thực, cũng chả mấy ai hiểu. Không phải vì người đọc kém cỏi. Mà vì cái nền chung là người học tử vi hiện nay, kiến thức về triết đông phương rất yếu. Lý âm dương ngũ hành chưa thông tỏ thì giải thích, giảng giải sao đây. Đâu phải cứ chỉ chiêu thức là xong. Ví dụ như: Phương pháp luận mệnh thân tôi đã nhiều lần trình bày. Là một trong những phương pháp căn bản của luận giải tử vi. Thông tỏ được nó, chỉ cần có nó, thoạt nhìn lá số đã có thể phân biệt người có số ở tầm mức nào trong xã hội, thọ yểu, phú quý ra sao cũng sơ bộ đánh giá có tính quyết đoán đươc rồi. Nhưng phương pháp này muốn thông tỏ, phải nắm rất vững lý âm dương dịch. Tôi đã thử trình bày đôi lần trên cả TVLS lẫn cả HKLS, nhưng đều rơi vào thinh không. Thế là đủ hiểu, có nên trình bày hay là trình bày ra tới đâu. Và cũng chứng tỏ rằng, muốn để bạn đọc nắm được, rõ ràng phải cần có một khối lượng kiến thức khổng lồ từ âm dương dịch lý, thiên văn, tượng số đến hà lạc đồ thư cũng như không thời gian đông phương học và cả lịch pháp nữa được hệ thống thành một dòng, mạch liên tục rồi mới đưa hậu học tới tử vi được. Điều này là bất khả nếu không viết thành sách. Nên nhiều khi, nói ra ở những chỗ này lại còn bị chửi bới: khoe chữ, khùng, lắm chuyện. Lại còn bị bới móc ở những dấu phẩy, dấu chấm, từ ngữ mà trong bối cảnh sinh hoạt phổ thông thì đáng lẽ nên đọc lời để được ý thì lại không làm. Đúng là một cái chợ. Mà đã là cái chợ, thì ai có tiền, phải thủ cho kỹ. Không thì tiền dễ mất, tật cũng mang!!!

Đến như phép lưu tứ hóa. Tôi có dùng lâu lắm rồi. Nhưng nay có người hỏi tới, tôi mới trả lời. Thực cũng đã có thể có chứng cứ: Như phép này tôi đã từng trao đổi với Longnguyenquang trong chủ đề của aoanh72 đủ để nói rằng, cả tôi và longnguyenquang đã nắm rõ nó từ – ít nhất là tư đó!

Cho nên, nêu người Đài mà tuyên ngôn là họ phát minh. Thực thì cũng chẳng sao. Có quan trọng gì đâu. Bởi Dùng Thế Nào, Hoàn Thiện cả về lý lẫn dụng mới là quan trọng. Bởi cho dù họ có phát minh, mà không có cái Gốc, thì sự phát triển của họ cũng tới cấp coi Lộc tại tị xung chiếu hợi cung là Lộc tại hợi, để mà cố ghép cung Tý có Hóa lộc tại sửu cùng với Lộc tồn tại tị thành cách Giáp song lộc!

Đấy mới là cái đáng phải bận tâm.

Nói như trong chưởng: Nghĩ ra chiêu thức kiếm thì dễ, nhưng chiêu thức mà không có kiếm quyết thì cũng như múa gậy vườn hoang, một mình độc diễn. Đến khi cần biến hóa là biết tay nhau ngay.

Hoặc như khi tôi đề cập đến Cải số. Nhiều người la ó. Đương nhiên thôi. Nhưng mà các Vị đã Học Kant chưa? Đã thấy được Kant đã đi gần đến đông phương học tới mức nào chưa? Chưa chứ gì, Vậy mà đã đòi "chặn mồm" người ta rồi. Có biết đâu, dù không cần Kant, nhưng phái Đông A đã tiến hành Cải số từ cả ngàn năm nay rồi. Nay Tôi có Kant, là có phương tiện để phổ biến cho đại công chúng. Chứ nếu không có Kant, mà cứ trông chờ người của Đông A phái rò rỉ ra, có đến "mùa quýt" cũng chẳng biết được nó là cái gì! Hơn nữa, người của Đông A phái có muốn phổ biến đâu.

Cũng như phép sao treo, vòng tràng sinh bay. Thực thì tôi học từ tiền nhân tôi. Nhưng tiền nhân không có nói đó là của đông a. Cũng chẳng nói là của ai cả. Nhưng khi thấy có người đề cập sơ sơ qua nội dung, tôi mới biết, à, hình như là của đông a thì phải. Rồi chả biết ai là người phát minh ra trước. Mà cũng chẳng cần. Chỉ cần biết vận dụng là đủ. Nhưng tôi nhớ lời dạy của tiền nhân, phải tìm cho được cái gốc của phương pháp này. Khi tôi tìm ra, thì cần gì ai phát minh ra trước. Bởi vì, nói mà không chứng minh được nó thì cũng là để nói mà thôi. Như NBC đâu có phát biểu cái bổ đê cơ bản. Anh ta chỉ chứng minh thôi. Thế là mọt cái fields đã rơi trên đầu anh ta rôi. Nói điều này là ý rằng, người đời đâu có bất công. Công đến đâu, đánh giá đến đó. Và cũng minh bạch lắm. Song đó là ở tầm vóc thế giới. Còn làng tử vi, tôi khuyên, nên thủ cho ký, kẻo tiền mất tật mang! Như bí kíp võ công vậy.

Khi tìm cái gốc của sao treo, tôi mới thấy rằng, thực thì phương pháp này đã có khả năng thống nhất được tất cả các phương pháp mà chúng ta đã biết theo ý nghĩa tương thích. Có nghĩa là có khả năng phối hợp tất cả các phương pháp, và dùng đúng lý các sao nguyên bản để luận ra các kết quả thần sầu. Phương pháp này đã có cả ngàn năm nay rồi, là của Đông A phái. Tàu và Đài; Đâu có, cũng đâu có biết gì về nó? Thế mới biết, tiền nhân ta cũng thâm thúy, và cực kỳ cẩn trọng, nhìn rất xa. Chứ không thì bây giờ, nó là của người Tàu rồi. Song phương pháp này có khiếm khuyết, những trở ngại và cần được giải quyết. Nhờ đó, phương pháp mệnh chủ ra đời, cùng với biện chứng luận mệnh thân và phép quả, chế, lý mà trở nên tổng quát, cho ra những lời giải không chỉ tổng quát, mà còn cả chi tiết nữa.

...

Bác có thể giải thích mệnh chủ và cách chủ khác nhau thế nào ạ? Và ngoài mệnh ra thì các cung khá cũng có một (bộ) sao chủ phải không ạ? Như phụ mẫu chủ?

Mệnh chủ và cách chủ khác nhau ở cách gọi thôi. Tôi thường gọi mệnh chủ là sao đơn lẻ, cách chủ là một tập sao đã thành cách. Như cách gọi thông thường mà thôi. Có khác chăng chỉ là chỗ chúng đóng vai trò “chủ” đối với đương số, là tinh đẩu của lá số tử vi.

Cung an mệnh cũng như tất cả các cung khác trên lá số, cung nào cũng có chủ, gọi là chủ cung. Gọi là chủ cung mệnh, chủ cung phụ mẫu, chủ cung tai, … Gọi là chủ cũng được, hay gọi là gì gì cũng được. Nhưng cần nhớ rằng, sao chủ mệnh hay cách chủ mệnh không phải là sao hay cách cục chủ của cung mệnh. Sao hay cách chủ của cung thì phải thuộc cung, và cũng có khi cung đó không có chủ cung. Nhưng sao chủ cung mệnh hay cách chủ cung mệnh thì bao giờ cũng có, hoặc là sao chủ hoặc là cách chủ gọi chung là mệnh chủ.

Hóa ra là phương pháp Mệnh Chủ mà vuivui tiên sinh xiển dương cũng dùng lưu tứ Hóa.

Nói như thế có nghĩa là Alađin chưa có cái nhìn thống nhất về bức tranh tử vi. Các phương pháp giải đoán tử vi đều phải “mở”, chúng cần phải tương thích với nhau, mặc dù chúng độc lập về sự tồn tại và trong ứng dụng, như về nguyên tắc, phải có một giải đoán tổng hợp sao cho chúng phối hợp được với nhau và tạo nên một bức tranh tử vi thống nhất, như ứng với một cuộc đời, mà sự tồn tại của các cuộc đời như một minh chứng, hiện thực để khẳng định lại sự đúng đắn của sự tương thích đó. Vì thế, phương pháp mệnh chủ có tính bao hàm cả phương pháp nòng cột, sao treo, di cung, tứ hoá, phép gần đúng tuần triệt, vòng tràng sinh bay, lưu tinh, thái tuế nhập quái, chồng chập lá số và cả phép cải số, … Tất nhiên cũng có những phương pháp nó “không chịu” tương thích, như phép tam hợp thái tuế và … chắc chắn, nó cũng không chịu tương thích với phép tử vi nút – cho dù tôi chưa được biết cụ thể phương pháp này, nhưng qua những nội dung mà chúng ta đã được chứng kiến thì có thể khẳng định. Thậm chí ngay cả lối “luận theo truyền thống mà ông TVN vừa nêu ra ở trên, nó cũng không chịu tương thích. Bởi vậy tôi mới trình bày cách giải số Gấu Trắng trước và xem như chúng ta đứng ở không gian 3 chiều mà quan sát không gian hai chiều vậy.

Tính hợp lý cần thiết của điều này cũng tương tự như tính cần thiết của các phương pháp vật lý khác nhau. Nhưng đều phải tương thích với nhau để có sự phối hợp mà tạo nên một bức tranh vật lý thống nhât. Chẳng hạn như, vật lý lượng tử và vật lý tương đối, tuy “trái ngược nhau” nhưng phải tương thích với nhau. Cũng vì lý do này mà các nhà vật lý mới lao tâm khổ tứ đi tìm một lý thuyết thống nhất cả hai lý thuyết đó. Do đó mới có chuyện có hay không một TOE – lý thuyết vật lý thống nhất. Mà điều này phải có như là tự nhiên phải vậy, bởi vì, bức tranh vật lý là một bức tranh thống nhất. Đơn giản chỉ có vậy. Cũng như ta phải thấy rằng: Dù có hàng trăm lý thuyết về con người, thì mọi lý thuyết về con người, đều phải tương thích với nhau. Đấy là nguyên tắc lớn của triết học. Của mọi triết học.

@LienHuong.

LienHuong nói đúng. Di cung và lưu tứ hoá xưa như trái đất. Người nào không biết, ấy chỉ là do không có hoặc chưa có duyên với nó mà thôi. Tôi thì từ xưa tới nay, luận tử vi, lúc nào mà chả dùng đến chúng!. Bây giờ thì cứ hô lên là của Đài, của Tàu. Thây kệ. Nhưng thực ra, ngay như Tử Vân cũng thế, xài phép di cung cũng đâu có chuẩn, tính vận cũng sai – nhưng cũng phải công nhận ông ta may mắn, bởi vì cái sai của ông ta rất khó thấy trong thực tiễn giải đoán. Nhưng nếu để ý chút chút thời cũng nhận ra, điển hình là do có khuyết tật, nên ông ta phải dùng phép lấy Lộc xung của cung xung chiếu làm Lộc chính cung, để mà gượng ép thành cách Giáp Lộc.

Rồi phép thái tuế nhập quái cũng thế. Có rất nhiều khuyết tật. Thực chất, muốn dùng chuẩn phép này, phải thông tỏ phép chồng số và quay số. Nếu nhìn theo quan điểm toán học, thì phép thái tuế nhập quái chỉ là phép gần đúng thô nhất có thể có của phép chồng chập lá số mà thôi. Ví như 2,6 mà làm tròn số thành 3 vậy.

Bởi vậy, tôi có dùng di cung, tứ hoá lưu, hay thái tuế nhập quái, thì cũng tự nhiên “như về nhà xưa”. Thấy người Tàu, Đài có tuyên nguyên, thì cũng … cười … trừ. Coi như không có chuyện gì xảy ra vậy. Kệ.

Thân ái.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của tác giả VuiVui

Chùa Ba Đồn - Huế

Chùa Ba Đồn gắn liền với những sự tích huyền bí, bất kể người dân nào dù là lớn hay nhỏ đã từng sống và lớn lên tại đây đều rất thành kính hướng về Ba Đồn
Chùa Ba Đồn - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Ba Đồn tọa lạc tại ấp Tứ Tây, phường An Tây trên đường từ đàn Nam Giao đi về hướng Nghĩa Trang thành phố. Chùa Ba Đồn đã từng chứng kiến qua nhiều thăng trầm của lịch sử qua các giai đoạn. Nay lại được biết đến, bởi đây là nơi an nghỉ của hàng vạn con người xấu số – một khu mộ hợp táng lớn nhất cả nước. Chùa do các phổ (phường nghề) tự lập và những người giữ chùa là những người bán thế xuất gia (có gia đình), không có tu sĩ như các chùa khác.

Từ phía ngoài nhìn vào chúng ta sẽ thấy rất rõ những bãi cỏ rộng, bằng phẳng, xung quanh có nhiều lăng mộ khác chen vào. Đó là ba bãi cỏ tuyệt chỉ mọc một loại cỏ chỉ xanh rờn bằng phẳng giống như ba cái sân bóng. Ở giữa nổi lên một ngôi chùa nhỏ, giống một ngôi miếu hơn là chùa. Trước kia nơi đây không phải là chùa, mà chỉ là một bãi đất trống được dùng làm cồn mồ chôn cất những người đã chết không nơi nương tựa trong các giai đoạn chính của lịch sử.

Năm 1803, trong giai đoạn xây dưng kinh thành Huế, vua Gia Long (1802 – 1819) đã cho tiến hành việc di dời 8 ngôi làng nhỏ nằm ở phía Bắc của sông Hương, khu vực cồn mồ của 8 làng cũng được di dời. Với những mồ mả không có thân nhân đến nhận thì triều đình cho tiến hành việc quy tập lên vùng rừng núi phía Tây Nam của thành phố (nay khu vực này là xóm Hành, thuộc thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế). Triều đình cho lập văn bia cho các ngôi mộ này vào 07/03/1803 và ghi rõ: “Ân Tứ Hiệp Táng Vô Tự Chi Mộ” (nghĩa là nơi an táng những người chết không nơi nương tựa), mà dân gian thường hay gọi là “cồn mồ 8 làng”.

Đến năm 1835, vua Minh Mạng cho lập một bàn thờ ở giữa trời (đàn) tại cồn mồ 8 làng đề hằng năm nhà nước tổ chức cúng tế những cô hồn của 8 làng. Về sau cho dựng thêm hai đàn nữa để cúng tế những cô hồn của cồn mồ thứ hai và thứ ba.

Dân chúng gọi ba cồn mồ có ba đàn hằng năm tế lễ đó là Cồn mồ Ba Đàn (Ba Đồn). Sau ngày thực dân Pháp đánh chiếm Huế, dân chúng và binh lính trong Thành đạp nhau chạy theo vua ra các cửa Nhà Đồ, cửa Hữu làm chết hàng ngàn người. Lúc đầu người chết được dập hai bên lề đường và ngay trong các vườn nhà chung quanh. Về sau người Pháp “giăng giây thép hoạ địa đồ nước Nam” bắt dân chúng phải cất bốc hết các mồ mả chôn trong và ngoài Kinh thành. Những mồ vô chủ lại được đưa lên Ba Đồn “hợp táng” hình thành thêm một số Cồn mồ nữa.

Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi miếu xưa đã bị đổ nát rất nhiều. Nhưng nhờ sự đóng góp của bà Nguyễn Thị Lựu (bà ngoại của vua Thành Thái), cùng người dân khắp nơi, đặc biệt là người dân địa phương, ngôi miếu đổ nát năm xưa đã được trùng tu, để ngày nay trở thành nơi cúng tế hàng năm cho dân làng ở Ba Đồn.

Chùa Ba Đồn xưa còn gắn liền với những sự tích huyền bí, bất kể người dân nào dù là lớn hay nhỏ đã từng sống và lớn lên tại đây đều rất thành kính hướng về Ba Đồn, vì thế mỗi dịp đi ngang đây, người dân cũng không to tiến, cũng không đùa giỡn, thậm chí không một ai dám đá banh ngay trên bãi đất trống bằng phẳng trong khuôn viên của chùa.

Và để cầu mong cho các linh hồn sớm siêu thoát, miếu Ba Đồn đã rước tượng Phật về để thờ. Dần dần ngối miếu nhỏ được xây cất thành một ngôi chùa nhỏ, mà ngày nay mọi người Huế đều quen với tên gọi – chùa Ba Đồn.

chánh điện
Chánh điện chùa

Hiện nay, một số hạng mục công trình của chùa đã bị xuống cấp, nhiều hiện vật quý của chùa ngày trước như chiếc đại hồng chum, một chiếc trống đại, hay 1 bức hoành phi sơn son thếp vàng do ông Hoàng Châu Nguyên, một thương nhân Trung Hoa gửi tặng năm xưa giờ đây đã không còn nữa. Khuôn viên của chùa cũng đã bị chiếm dụng đi nhiều.

Đất trên các cồn mồ tại Chùa Ba Đồn chỉ có cỏ mọc chứ không thấy bất cứ một loài cây lớn nào: theo giải thích của các vị sư trong chùa thì ngày trước khi chôn xác tại đây, người dân đã rải rất nhiều muối lên nơi này; có ý kiến khác cho rằng vì dưới đất là hàng ngàn xác chết nên tử khí bốc lên không ngớt, cũng vì thế mà không một loại cây lớn nào có thể mọc lên được.

Các sư thầy của chùa Ba Đồn đều là những “người bán thế xuất gia” (nghĩa là vẫn có gia đình), chứ không phải thuộc tầng lớp tu sĩ như các ngôi chùa khác. Cũng vì thế, trải qua những biến cố của lịch sử, ngôi chùa Ba Đồn vẫn chưa được Giáo hội Phật giáo công nhận.

Chùa Ba Đồn là một di tích rất lạ với mười cồn mộ hợp táng lớn nhất nước, đây còn là nơi hợp táng những chiến sĩ yêu nước đã hy sinh dũng cảm trong biến cố đánh Tây năm 1885 để bảo vệ Kinh thành Huế. Ngày nay Kinh thành Huế được công nhận là di sản thế giới, việc tôn tạo các di tích nầy để tưởng nhớ người xưa là sự thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của thế hệ con cháu hôm nay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Ba Đồn - Huế

Trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm Lý

Bài viết trích ra các phần trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm lý như: Lưu Hà, Kiếp Sát, Thiên Mã, Phá Toái, Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hỏa, Phá Toái, Cô Thần, Quả Tú, Thiên Khốc, Thiên Hư. Mời các bạn cùng đón đọc.
Trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm Lý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết trình bày về một số sao trong tử vi được trích ra từ cuốn Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương

LƯU HÀ - KIẾP SÁT

Trong Tử vi có bộ lục sát Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hỏa là một đoàn quân xông pha nhiều lúc phải tùy thuộc cấp chỉ huy mới nên kết quả đáng kể.

Bộ Lưu Hà Kiếp Sát cũng là bộ sát tinh thường xuyên đứng với Thiên Không, đứng vai Thẩm Phán giữ cán cân thăng bằng cho bộ luật thừa trừ định mệnh cho từng hạng tuổi như sau:

CAN CHI

Giáp ------------- cho người ---------------Thân Tý Thìn
Ất Kỷ ------------------------------------------- Tỵ Dậu Sửu
Bính Canh ------------------------------------- Dần Ngọ Tuất
Tân --------------------------------------------- Hợi Mão Mùi
Đinh Quý -------------------------------------- Hợi Mão Mùi + Tỵ Dậu Sửu
Mậu Nhâm ------------------------------------ Thân Tý Thìn + Dần Ngọ Tuất

Lưu Hà là sao Thủy an theo hàng Can của tuổi luôn luôn ở nghịch địa âm dương như:

  • Tuổi Giáp (dương) thì Lưu Hà đóng ở Dậu (âm cung)
  • Ất (âm) thì Lưu Hà đóng ở Tuất (dương cung)
  • Bính (dương) thì Lưu Hà đóng ở Mùi (âm cung)
  • Đinh (âm) thì Lưu Hà đóng ở Thân (dương cung)
  • Mậu (dương) thì Lưu Hà đóng ở Tỵ (âm cung)
  • Kỷ (âm) thì Lưu Hà đóng ở Ngọ (dương cung)
  • Canh (dương) thì Lưu Hà đóng ở Mão (âm cung)
  • Tân (âm) thì Lưu Hà đóng ở Thìn (dương cung)
  • Nhâm (dương) thì Lưu Hà đóng ở Hợi (âm cung)
  • Quý (âm) thì Lưu Hà đóng ở Dần (dương cung)

Kiếp Sát là sao Hỏa an theo hàng chi của tuổi luôn luôn ở nghịch địa âm dương như:

  • Tuổi Dần Ngọ Tuất (Dương) ------ thì Kiếp Sát an ở ------ Hợi (Âm)
  • Tuổi Thân Tý Thìn (Dương) ------- thì Kiếp Sát an ở ------ Tỵ (Âm)
  • Tuổi Tỵ Dậu Sửu (Âm)------- ------ thì Kiếp Sát an ở ------ Dần (Dương)
  • Tuổi Hợi Mão Mùi (Âm) ----------- thì Kiếp Sát an ở ------ Thân (Dương)

Biết rằng Lưu Hà là Thủy, Kiếp Sát là Hỏa đều đứng ở nghịch địa âm dương theo Can Chi ấn định có tính cách hung bạo hội lại như 2 lưỡi kéo tử thần thi hành án lịnh sau khi Thiên Không phán quyết cho Là can nhân có thực tội.

Như mục Lộc Tồn ở trên đã nói chỉ có bốn tuổi Giáp Ất Canh Tân đứng tam hợp tuổi có Lộc Tồn mới được hưởng Lộc Tồn trọn vẹn, còn ngoài ra chỉ là nhất thời và gánh chịu hậu quả bù trừ, còn Lộc Tồn của năm tuổi Mậu, Kỷ, Bính Đinh Nhâm Quý là ở trong trường hợp có Lưu Hà, Kiếp sát canh gác 6 kho vàng đó. Kẻ nào đụng chạm đến mà Thiên Không không ngăn cản được thì Lưu Hà Kiếp, Sát nổ súng. Cũng có một vài trường hợp giảm khinh nhẹ tay cho những tuổi Đinh Hợi Mão Mùi và Quý Tỵ Dậu Sửu.

THIÊN MÃ

Thiên mã ở trong Tử vi là một viên ngọc quý. Viên ngọc quý này chỉ thấy ở trong hoàn cảnh trái nghịch tức là phần tinh anh có sắp đặt cho hạng người bất mãn ở phần đất Tuế-Phá Tang-Môn, Điếu-Khách của vòng Thái tuế. Nếu hạng người này không có Mã thì làm sao mà sống ở đời. Phải chăng thánh nhân xưa đã có chí hướng dân chủ (dân vi quí). Phe Thái Tuế, Quan Phủ, Bạch Hổ là phe lãnh đạo, cầm quyền được Long-Phượng, Hổ Cái là cái thế uy nghi tốt đẹp thì phe đối kháng là phe Tuế-Phá, Tang-Môn, Điếu-Khách phải để cho họ có Thiên Mã là bộ máy có động lực mạnh để quật lại bên kia. Việc thành bại lại là việc của thời gian. Cái đáng quý của Thiên Mã là ở chỗ đó.

Thiên Mã chỉ ở bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi phân phối đều cho 12 địa chi thuận âm dương mà nghịch phái

Tuổi:

Dần Ngọ Tuất Thiên Mã ở cung Thân
Thân Tý Thìn ----------------- Dần
Tỵ Dậu Sửu ----------------- Hợi
Hợi Mão Mùi ----------------- Tỵ

Nhìn vào vị trí của Thiên Mã đóng ta thấy ngay sự trái cựa căn cứ theo địa chi tam hợp của tuổi số mà an Thiên Mã ở trong địa chi tam hợp đối kháng.

Tuy Thiên Mã là hành hỏa nhưng đóng ở bốn cung có bốn hành riêng biệt thì chủ nhân muốn làm chủ thực sự Mã ấy phải là đồng hành với chỗ nó ở, công việc mình làm mới có kết quả tốt đẹp.

Đã gọi là Dịch mã, Mã đóng ở bốn cung phải có đắc dụng đồng đều ở mỗi cung như đã phân chia số tuổi quy định, không lẽ gì Mã ở Hợi lại gọi là Mã cùng đường vô dụng. Nếu vậy thiệt hại cho ba tuổi Tỵ Dậu Sửu có Mã cũng hư không mà còn bị bế tắc là khác.

Vậy Mã ở bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi có nghĩa như sau:

  1. Thiên Mã ở Dần: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Mộc, bạc nhược với người tuổi Kim, vất vả với người mạng thủy, điêu linh cho người thổ, làm lợi cho người mạng hỏa.
  2. Thiên Mã ở Tỵ: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Hỏa, làm lợi cho người mạng Thổ, vất vả cho người mạng Mộc, điêu linh cho người tuổi Kim, bạc nhược cho người tuổi Thủy.
  3. Thiên Mã ở Thân: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Kim, làm lợi cho người tuổi Thủy, vất vả cho người mạng Thổ, điêu linh cho mạng Mộc, bạc nhược cho người mạng Hỏa.
  4. Thiên Mã ở Hợi: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Thổ, Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả cho người mạng Kim, điêu linh cho người mạng Hỏa.

(Còn vài chi tiết đặc biệt ở Dịch Mã tiếp theo ở mục Tuần Triệt)

LỤC SÁT TINH: KHÔNG KIẾP – KÌNH ĐÀ – LINH HỎA

Lục sát tinh là một lực lượng có đặc tính riêng biệt, nói là đưa đương số bộc phát vinh quang (trường hợp đắc địa) không phải là không có; nhưng nói chung cái lợi không có là bao, mà cái hại rất khó lường nên mới có tên là Sát tinh. Sự thật bộ này phải có bộ chỉ huy cứng rắn, quyết liệt mới đắc dụng. Một là thành công vũ bão, hai là phá tan tận diệt, là bộ 3 Sát Phá Tham. Không Kiếp – Kình Đà – Linh Hỏa là 3 quân đoàn riêng biệt, cần phải có cấp bậc chỉ huy chính cống trực tiếp riêng của nó mới hiệu nghiệm. Ngoài ra, vá víu lấy chỉ huy quân đoàn này sang điều động quân đoàn kia cần chắc là kết quả không bao nhiêu (dầu lợi hay hại). Vậy phải
như thế nào?

Không Kiếp thành đoàn quân có thành tích dữ nhất, Phá Quân mới cai trị đắc lực. Ví như mệnh có Phá Quân mà đi đến hạn Không Kiếp phải là có chuyện sống chết, hay dỡ tùy theo từ Bộ tư lệnh đến quân đoàn đắc địa hay hãm địa (ở đây mới là trường hợp họ gặp nhau ở đại vận). Kình Đà là quân đoàn có đôi phần nới tay do có bậc thượng tướng nghiêm chỉnh chỉ huy là Thất Sát. Nếu Thất Sát đứng cặp với Thiên Hình thì dũng mãnh hơn.

Linh Hỏa là tôi tới trung thành của cấp chỉ huy tài tử Tham Lang. Giữa 3 quân đoàn này với cấp chỉ huy thì Phá Quân là ngang tàng liều lĩnh nhất, nên thường thay cho Thất Sát, trường hợp vắng mặt, chỉ huy Kình Đà vẫn đắc dụng hiệu lực như thường. Trái lại, Tham Lang gặp Không Kiếp, Kình Đà chẳng ra sao. Và Thất Sát gặp Không Kiếp - Linh Hỏa cũng không hiệu nghiệm cho lắm.

PHÁ TOÁI

Phá Toái là một bàng tinh có ý nghĩa như cái tên của sao đã mang là phá tán tan nát và vị trí đóng cũng rất hạn chế là ba chổ Tỵ Dậu Sửu, ít chổ nhất trong các sao của Tử Vi mà xem ra
hành động không phải tầm thường.

Thấy Phá Toái là hành Hỏa đới Kim nên ba vị trí Tỵ Dậu Sửu đối với nó coi như là thuận lợi cho nhiệm vụ không có gì cản trở (Tỵ – Hỏa, Dậu – Kim, Sửu – Thổ).

Đó là hao tán tinh, tức là không bao giờ phò trợ, chỉ làm ngang trái tư cách chính diệu hiền hậu (Tử Phủ, Cơ Lương). Trái lại tăng thêm sức mạnh cho bộ tinh đẩu hùng dũng là Sát Phá Tham, nhất là Phá Quân là cha ruột. Xét rằng ba vị trí của Phá Quân tại Tỵ Dậu Sửu đều hãm hết (Vũ Phá ở Tỵ, Liêm Phá ở Dậu), Tử Phá ở Sửu là đắc địa nhưng có nghĩa tư cách vẫn không đẹp, là thần bất trung, tử bất hiếu, không hơn gì Vũ Phá và Liêm Phá. Như đã có ý là muốn để Phá Toái giúp Phá Quân đắc lực trong cái thế "Toái quân lưỡng Phá", phải để ý đến các trường hợp sau:

  • Mệnh có Vũ Phá thì phải là các tuổi Tí Ngọ Mão Dậu (Dậu đẹp nhất).
  • Mệnh có Liêm Phá thì phải là các tuổi Dần Thân Tỵ Hợi (Tỵ đẹp nhất).
  • Mệnh có Tử Phá thì phải là các tuổi Thì Tuất Sửu Mùi (Sửu đẹp nhất).

Một khi đã thấy có bộ Sát Phá Tham ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu thì phải để ý ngay Phá Toái, tùy tuổi tùy vị trí mà nhận định mức độ hay dỡ, ít nhất kết quả cũng ở trên các bộ Sát Phá Tham ở mọi chỗ hãm khác.

CÔ THẦN – QUẢ TÚ

Cô Quả là hai tiếng thường dùng để chỉ hạng người cô đơn, khắc nghiệt là do 2 sao Cô Thần - Quả Tú ghép lại.

Sự thật cốt cách của chúng có phải nhất định như thế không? Nhận xét kỹ vị trí của 2 sao đó, thấy Cô Thần luôn đóng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi, và Quả Tú chỉ ở Thìn Tuất Sửu Mùi luôn luôn ở thế tam hợp với nhau. 8 vị trí này có cả dương lẫn âm, và cũng không tùy thuộc tuổi dương hay tuổi âm để ấn định chổ đứng cho cả 2 sao. Biết rằng cứ 3 tuổi (địa chi) của số nối liền nhau thì Cô Thần đứng ngay cung chặn đầu và Quả Tú ngồi ngay cung chặn đuôi như 3 tuổi Dần Mão Thìn, Cô Thần ở Tỵ (đầu) – Quả Tú ở Sửu (đuôi); 3 tuổi Tỵ Ngọ Mùi, Cô Thần ở Thân (đầu), Quả Tú ở Thìn (đuôi); 6 tuổi kia, cứ 3 tuổi một cũng có Cô Thần Quả Tú chặn đầu đuôi như thế.

Nhìn vào những vị trí của 2 sao này thấy rất thua thiệt nên nó mới thành nghiệp ngã và cô đơn. Không bao giờ Cô Quả đóng trong tam hợp Thái Tuế, mà chỉ ở 3 thế: Thiên Không – Tuế Phá – Trực Phù làm cho người có số sống như trong trơ trọi và khó khăn bất mãn. Nếu có hưởng Lộc Tồn chỉ là hưởng trong nghịch cảnh, tưởng không tốt đẹp gì.

Bốn vị trí Dần Thân Tỵ Hợi của riêng của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi là được cởi mở. Ở đây Cô Thần gặp Thiếu Dương là sáng suốt nhân hậu và là vị trí của Hồng Loan đứng cặp với Thiên Không (sắc sắc không không) là thành địa của những bậc từ thiện bác ái, nhìn cuộc đời bằng mọi cách bao la, sự vật có cũng là không, không vẫn là có.

Trong 4 vị trí Dần Thân Tỵ Hợi của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi thì 2 vị trí Dần Thân có đủ bộ Cô Thần, Thiếu Dương, Hồng Loan, Thiên Không. Vị trí Hợi có ba là Cô Thần, Thiếu Dương, Thiên Không nhờ thế xung Hồng Loan ở Tỵ (Tỵ Dậu Sửu: Kim) quá bén nhạy nên người có số ở Hợi (Hợi Mão Mùi: Mộc) dễ sáng suốt để trở thành đạo đức. Còn cung Tỵ cũng vậy chỉ có Cô Thần, Thiếu Dương, Thiên Không nhờ thế xung Hồng Loan ở Hợi đưa lên nhưng hơi yếu vì Mộc không ép buộc được Kim và có sao cố định là Phá Toái (ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu) khiến nhiều khó khăn ngang trái mới thành chánh quả trọng lẽ hiếu sinh.

Vậy chỉ có 4 vị trí này của Cô Thần, Quả Tú của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi là không khắc nghiệt cô đơn, lại còn là chổ tiềm tàng sáng suốt, chí công chỉ đạo theo thứ tự như sau:

  1. Vị trí ở Dần: lòng cởi mở tuyệt thế.
  2. Vị trí ở Thân: lòng cởi mở đương nhiên
  3. Vị trí ở Tỵ: lòng cởi mở bén nhạy
  4. Vị trí ở Hợi: lòng cởi mở phải chịu sự thử thách.

THIÊN KHỐC - THIÊN HƯ

Thiên Khốc là âm kim, Thiên Hư là dương thủy.

Khốc Hư là hai bại tinh chỉ có ở bốn chỗ Tý Ngọ Mão Dậu là có tư cách đưa thân thế người có số được hãnh diện với đời. Đem Khốc Hư ra phân tách tại sao chỉ có 4 chỗ Tý Ngọ Mão Dậu được gọi là đắc địa và tại sao gọi là bại tinh.

Vì Khốc Hư bắt đầu từ cung Ngọ mà đi theo chiều thuận, nghịch của âm dương, mỗi sao đi 1 chiều hướng riêng, chỉ có cung Ngọ và Tý là 2 sao đồng cung và khẳng định là ở vị trí Tuế Phá (bất mãn cực độ) vì tuổi Tý Khốc Hư ở Ngọ và tuổi Ngọ Khốc Hư phải ở Tý và các vị trí kia của các tuổi khác cũng vậy luôn luôn đóng ở phía đối kháng nên phải khoác cái áo lấy tên là bại tinh.

Người Khốc Hư Tý Ngọ được hãnh diện, dầu là bất mãn, vì là có Thiên Mã và Điếu Khách thường trực trong thế tam hợp để đưa danh tiếng người này lên với đời. Còn thành công đến mức độ nào hay thất bại hoàn toàn là do Thiên Mã có phải là ngựa, nghị lực thực sự của người có số hay không tức là Thiên Mã ở Dần phải của người tuổi Mộc và Thiên Mã ở Thân phải là người tuổi Kim mới đắc cách.

Biết rằng Thiên Khốc là Âm Kim phải đi theo chiều nghịch thì chỉ có người tuổi âm mới là thuận cách vì Thiên Khốc được đứng trong tam hợp tuổi này (vòng Thái Tuế) nhất là hai tuổi Mão Dậu, Thiên Khốc đứng cặp sát nách với Thái Tuế. Hai vị trí này đưa thanh thế của người danh chính ngồn thuận của người có tư cách không hèn, có tài biện thuyết khuất phục được chúng nhân. Còn các Dương cung tức là các tuổi Dương Thiên Khốc đứng ở thế thường xuyên trái nghịch với Thái Tuế, phải nhờ nghị lực của Thiên Mã trợ giúp như hai cung Tý Ngọ, sở dĩ kém Tý Ngọ vì không có Hư đồng cung với Tuế Phá (Lãnh tụ đối lập).

Còn Thiên Hư không bao giờ xa cách Tuế Phá là tư cách của người ôm hận, bất mãn nên trong số bao giờ cũng sắp sếp cho có Thiên Mã để làm việc.

Vậy Khốc – Hư là tư cách của bại tinh và chỉ hãnh diện được ở bốn cung Tý Ngọ (lãnh tụ đối lập) và Mão Dậu riêng cho Thiên Khốc được danh chánh mà thôi

Trích từ cuốn Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trình bày về một số sao trong Tử Vi Nghiệm Lý

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd