Mơ thấy sói: Lo sợ thú tính, bị tấn công hay phá hoại –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nay bàn về trong Tứ trụ có ngang vai, kiếp tài, lộc, kình dương.
Tỉ kiếp gặp nhiều là anh chị em đông đúc.
Tỉ kiếp nhiều mà sinh vượng là anh chị em nhiều, gặp suy là anh chị em ít. Tỉ kiếp đóng ở lộc hoặc gặp quý nhân là anh chị em giàu có đầy đủ ; tỉ kiếp gặp tướng tinh là anh chị em phú quý. Tỉ kiếp gặp thiên đức, nguyệt đức là anh chị em lương thiện, thật thà.
Tỉ kiếp đóng ở trạch mã là anh chị em đi xa.
Tỉ kiếp là dụng thần thì được sự giúp đỡ của anh em.
Ngang vai gặp lộc là anh em có địa vị cao, gia đình hưng vượng.
Tỉ kiếp đóng ở trường sinh là anh chị em khỏe mạnh, tuổi thọ cao.
Thân vượng và có ấn là anh chị em nhiều.
Trụ ngày yếu trụ, trụ tháng ấn vượng lan anh chị em nhiều
Trụ ngày yếu, mà không có tỉ kiếp thì lấy ấn để tính số lượng anh em.
Thân vượng tài yếu là anh chị em nhiều.
Sát vượng ấn phục, ngang vai không có khí là em kính trọng anh , nhưng anh là người bất lực.
Quan vương ấn nhược, tài tinh có khí là anh yêu em nhưng em bất lực.
Trụ tháng gặp quan tinh là anh em quý trọng nhau.
Tháng và ngày tương sinh cho nhau là anh em hoà thuận.
Trụ tháng gặp trường sinh đế vượng là anh chị em rất đông.
Ðối với sinh đôi, sinh vào ngày dương, giờ dương thì anh mạnh hơn em. Sinh ngày âm, giờ âm thì em mạnh hơn anh.
Ðẻ sinh đôi, người mệnh dương sinh sau thì khó nuôi hoặc trước, người mệnh âm sinh trước thì khó nuôi hoặc chết trước.
Thất sát mà vượng, tỉ kiếp nhiều thì anh em đông mà lại đồng tâm.
Ví dụ 1. Càn tạo
Tháng 7 năm 1987 khi giám đốc họ Mạnh của nhà máy mời tôi đoán vận, tôi thấy trong Tứ trụ ba mộc rõ, một mộc ám thì đoán : " Ông ta có 4 anh chị em. Nên là hai nam hai nữ". Ông ta nói : đúng ! Rất chuẩn.
Ví dụ 2. Khôn tạo
Trong thực tiễn do nhu cầu nghiên cứu dự đoán, tôi có ý tiếp cận với người xuất gia tu hành, đặc biệt là người theo đạo Phật, họ không tin vào đoán mệnh. Tôi nói với họ những người tu hành, những võ sư khí công và những người có công năng đặc biệt do theo học võ thuật lâu đời nên phần nhiều đoán giai đoạn trước khi họ đi tu dễ đúng, còn sau khi đã đi tu thì khó đoán đúng. Sở dĩ như vậy là vì mệnh vận của người tốt xâu chủ yếu do khí âm dương ngũ hành gây tác dụng. Những người tu hành trên, công năng đều tốt cho nên có thể tự điều chỉnh hành vi, làm thông các trở ngại của khí, làm cho trường khí trong thân thể luôn ở trạng thai cân bằng, nên sau khi họ đã đi tu thì rất khó đoán đúng.
Có mấy Hoà thượng nghe tôi giảng giải về sự đoán học và vì sao đối với những người có công năng đặc biệt lại khó đoán đúng thì rất tán thành. Và còn đưa ra mấy người nhờ tôi đoán. Khi đó tôi cố ý chọn người tuổi cao, tuổi trẻ, có nam, có nữ để đoán những sự việc trước khi họ xuất gia tu hành.
Người đoán trong ví dụ 2 trên, sinh năm 1970, năm 1982 thì xuất gia. Tôi thấy trong Tứ trụ mậu kỉ thổ và mờ có 8 chữ, lại được hỏa trường sinh sinh ra cho nên đoán : có 8 đến 9 người anh em. Quả nhiên là 9 người. Những nhà tu hành có mặt ở đó đều rất kinh ngạc. Tôi nói với họ : con người có mệnh, Tứ trụ là một môn khoa học chân chính, chỉ cần kỹ thuật đoán cao siêu là có thể đóan đúng.
Ví dụ 3. Càn tạo
Ông Trần Mưu là người lính già, hiện là cán bộ cao cấp. Vì từ bé ông đã được cha mẹ lấy số, cho nên rất tự tin vào dự đoán mệnh vận. Mùa xuân năm 1998, ông biết tôi nghiên cứu về dự đoán học, muốn thử xem trình độ ra sao, nên đã báo cho tôi ngày giờ sinh nhờ đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ, trụ năm ngôi cha mẹ gặp đất trường sinh, giáp ất mộc tuy minh, ám chỉ có bốn số nhưng được ngày, giờ hợi tí thủy tương sinh nên anh chị em nhất định nhiều. Do đó đoán : Ông có 6 chị em. Ông ta nói : Ðoán rất đúng, giống tôi đã được đoán hồi nhỏ, có 6 anh em.
Ví dụ 4. Càn tạo
Trong Tứ trụ này canh kim hiện 2 lần lại gặp vượng địa nhưng vì can năm giáp mộc, thiên tài ở tử địa lại bị canh kim khắc, chi năm là ngôi mẹ, giáp hoả gặp 3 lần quá vượng nên nhất đinh là cha mất mẹ đi lấy chồng, do đó đoán : chỉ có hai anh em. Quả đúng thế.
Theo câu nói : " Tỉ kiếp đóng ở trường sinh và vượng địa thì anh chị em nhiều" thì ở Tứ trụ này đáng lẽ anh em nhiều. Nhưng còn phải nhiều, phụ mẫu không thuận hoặc sớm suy htif anh em nhất định ít. Do đó khi dự đoán còn phải kết hợp với các nguyên nhân khác.
Ví dụ 5. Khôn tạo
Trên kia đã nói trong ứng dụng thực tế, số anh em ở các nước Ðông nam Á nên gặp đôi số có trong Tứ trụ. Kinh nghiệm này tôi đã rút ra được không những đối với Hoa kiều mà đối với người nước ngoài ở các nước đó đều đúng. Ví dụ này là một trong những Ví dụ thực tôi đã đoán ở nước ngoài.
Trong Tứ trụ mậu kỉ là anh chị em đã lộ ra và còn ám tàng tất cả 6 người. Nhưng vì trong Tứ trụ thiên tài chính ấn của cha mẹ đều vượng địa. Do đó tôi đoán : một bà mẹ sinh 12 người con. Cô ta nói : Quả đúng thế.
Ví dụ 6. Khôn tạo
Ví dụ này anh chị em có 5 người, 4 người khác trước sau đều đi Canada. Tức chính ứng với câu: "Huynh đệ gặp trạch mã là chủ về tượng anh em đi xa".
Ví dụ 7. Càn tạo
Ðây là Ví dụ đẻ sinh đôi đều là mệnh nam. Người anh trình độ văn hoá cao hơn người em, thông minh hiếu học, thích suy nghĩ nghiên cứu sâu, trong học thuật có ấp ủ hoài bão. Ðã từng viết sách và nổi tiếng sớm. Còn người em thì bình thường. Tuy sinh đôi nhưng người sinh giờ dương, ngày dương là anh mạnh hơn em, nếu sinh ngày âm, giờ âm thì em mới mạnh hơn anh được.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 78 được xây dựng trên điển cố: Lâm Đồng cứu giá hay cứu giá ở Lâm Đồng.
Quẻ thượng cát thuộc cung Ngọ. Mọi việc đang gặp khó khăn ắt tìm được hướng giải quyết. Muốn có tiền bạc hay cơ đồ thì cần có sự chỉ dẫn của quý nhân.
Thử quái binh thiện dụng sự chi tượng. Phàm sự binh ổn đại cát dã.
Đời vua Tùy Văn Đế, Đường Vương là Lý Uyên vào triều yết kiến. Thái tử lúc này là Dương Quảng, nhìn thấy vợ của Lý Uyên là Đậu Thái Chân rất xinh đẹp, liền giở trò trêu ghẹo. Lý Uyên biết được, tức giận nhưng không dám nói, lại sợ Dương Quảng sẽ mưu hại mình, bèn mượn cớ từ quan, chuẩn bị trở về quê hương ở Thái Nguyên. Dương Quảng không cam lòng, sai quân lính đi truy sát, mấy lần đều không ra tay được, vì thế Dương Quảng đích thân dẫn quân sĩ, lấy than bôi lên mặt, cải trang thành bọn cướp đường, định giết Lý Uyên ở Lâm Đồng.
Hôm đó, Lý Uyên cùng gia quyến đến sườn Thực Thụ trên núi Lâm Đồng, thì vừa giữa trưa. Hai người con trai của Lý Uyên là Lý Đạo Tông và Lý Kiến Thành đi vào trong rừng, bỗng thấy trong rừng có tiếng hô lớn, chỉ thấy vô số tên cướp mặt mũi đen nhẻm, tay cầm thương cầm búa chặn đường, quát lớn: “Con đường này là do ta mở, cây cối này là do ta chặt, muốn đi qua đường này phải trả tiền mãi lộ!” Lý Kiến Thành kinh hãi, quay ngựa chạy về. Còn Lý Đạo Tông quát rằng: “Bọn chó đáng chết, nhà ta là Lý phủ ở Lũng Tây, dám đến cản đường sao!” Nói rồi rút đao ra chém liền. Lý Kiến Thành chạy về nói với cha là Lý Uyên rằng: “Cha, không xong rồi! Phía trước có bọn cướp rất mạnh.” Lý Uyên gọi gia tướng lấy cây Phương thiên họa kích, lại lệnh cho Lý Kiến Thành bảo vệ gia quyến, định đi lên phía trước xem xét. Nào ngờ phía sau cũng có bọn cướp tiến đến.
Thực do ý trời, lúc đó Tần Quỳnh (? – 638) cũng vừa đi tới, do đi đường mệt mỏi, định đến nghỉ chân trong miếu Ngũ Viên. Bỗng nghe tiếng sát khí vang trời, lấy làm lạ, bèn thúc ngựa chạy đến giữa núi, thì thấy dưới chân núi khói bụi mù mịt, tiếng hô giết vang dậy. Tần Quỳnh ghìm ngựa quan sát kỹ, thì thấy vô số kẻ cướp đang vây một tốp quan binh, đang đánh nhau chí mạng. Tần Quỳnh vội thúc ngựa lao theo thế núi phi xuống, quát lớn: “Bọn giặc chó chớ cậy sức mạnh, hãy xem cái giản của ta đây!” Nghe tiếng quát sấm sét, bọn cướp hết sức kinh hãi, nhưng nhìn lại thấy chỉ có một người, thì không thèm để tâm, dăm ba tên cướp chạy đến đối địch với Tần Quỳnh. Tần Quỳnh vung cây giản lên, mấy tên cướp chết ngay lập tức.
Bọn cướp thấy vậy toan bỏ chạy, Tần Quỳnh thấy tên cướp che mặt bằng tấm lụa xanh có vẻ như tên cầm đầu, liền nhằm vào mặt đâm một nhát. May là Dương Quảng nhanh tay nhanh mắt né được, cây giản chỉ đâm trúng vai. Dương Quảng đau quá thét lên một tiếng lớn, thúc ngựa bỏ chạy.
Tần Quỳnh bắt được một tên tra hỏi: “Các ngươi là giặc cướp phương nào, sao dám cướp người nhà quan?” Người đó biết Tần Quỳnh uy mãnh, vội nói: “Xin ông tha mạng! Chỉ vì thái tử Lý Quảng và Đường Công Lý Uyên bất hòa, muốn sát hại ông ấy. Người mà ông vừa làm bị thương, chính là Đông cung thái tử. Xin ông tha mạng!” Tần Thúc Bảo kinh hãi toát mồ hôi, liền nghĩ: Đây là chỗ thị phi, lúc này mà không đi, thì còn đợi lúc nào. Bèn nhảy lên ngựa, chạy về phía trước.
Lý Uyên thấy vị hảo hán ra tay giúp đỡ, giúp người nhà mình thoát khỏi miệng hùm, liền thúc ngựa chạy lên để tạ ơn, không dè người này lại thúc ngựa chạy mất. Chạy được hơn mười dặm, Tần Quỳnh thấy Lý Uyên cứ đuổi theo không chịu dừng, chỉ có cách quay đầu lại nói: “Đường Công đừng đuối nữa, tiểu nhân họ Tần tên Lượng!” Rồi thúc ngựa chạy như bay.
Bàn tay con người có thể tiết lộ rất nhiều điều, sức khỏe, vận mệnh, tiền tài, sự nghiệp... Đường Sinh mệnh là 1 trong những đường chỉ tay cơ bản ai ai cũng có. Người ta cho rằng đường Sinh mệnh càng dài càng sống thọ. Vậy có phải đường Sinh mệnh ngắn thì chết sớm không? Bàn tay mỗi người đều có 3 đường rất rõ ràng, đường Tình cảm, đường Sự nghiệp và đường Sinh mệnh. Theo quan niệm dân gian, đường Sinh mệnh càng dài thì càng tốt, bởi nó tượng trưng cho sức khỏe dồi dào, sống lâu trăm tuổi.
Tuy nhiên, đường chỉ tay của mỗi người lại không giống nhau, không phải đường Sinh mệnh của ai cũng vừa rõ nét lại vừa dài. Vậy trong nhân tướng học, đường Sinh mệnh ngắn có nghĩa là gì? Có phải đường Sinh mệnh ngắn thì chết sớm hay không? Hy vọng nội dung dưới đây sẽ giải đáp được những thắc mắc này cho các bạn.
![]() |
![]() |
Trong tình yêu, mỗi người yêu thương một cách khác nhau. Không ai giống ai. Có rất nhiều bạn thắc mắc chòm sao nào mù quàng khi yêu? Nhân Mã có thể vì bạn gái của mình mà không ngại hiểm nguy, xông vào nơi nước sôi lửa bỏng. Những chòm sao khác thì sao? củ thể như thế nào? hãy cùng đọc bài viết sau để hiểu rõ thêm.
Nội dung
Khi Bạch Dương đem lòng yêu ai đó, cho dù cô gái ấy đưa ra bất cứ yêu cầu gì, cậu ấy sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành. Cậu ấy không cần biết yêu cầu đó có hợp lý hay không, có vượt quá khả năng của mình hay không. Về điểm này thì quả là Bạch Dương quá điên cuồng trong tình yêu.
Nhân Mã có thể vì bạn gái của mình mà không ngại hiểm nguy, xông vào nơi nước sôi lửa bỏng. Lá gan của Nhân Mã cũng rất lớn. Một khi đã yêu, cậu ấy sẽ không bao giờ chùn bước, bất chấp hoàn cảnh gia đình, thân phận có phù hợp hay không.
Đầu óc khách quan của Song Tử chỉ dùng để phân tích các sự việc, chứ không dùng trong vấn đề tình cảm. Họ sử dụng sự thông minh nhanh trí của mình để nghĩ cách dâng tặng mọi thứ của bản thân cho bạn gái. Ngoài ra, Song Tử còn có một đặc điểm, đó là đối phương càng khó gần, càng bướng bỉnh thì họ lại càng cảm thấy thích thú.
Khi Bạch Dương đã yêu ai đó, cô ấy không cần biết đối phương đã kết hôn hay chưa, không cần biết cuộc sống của họ phức tạp như thế nào. Cô ấy có tâm lý cứ yêu đã rồi tính sau. Chính vì thế, môn đăng hộ đối cũng không phải vấn đề mà cô ấy quan tâm. Có nhiều lúc, sự phản đối của người khác lại là sự khích lệ đối với cô ấy.
Bình thường Song Ngư rất thích bắt bẻ. Nhưng khi yêu, cho dù phát hiện ra khuyết điểm của bạn trai, cô ấy vẫn sẽ khoan dung tha thứ. Bởi lẽ cô ấy cho rằng, khi yêu không cần quá tính táo, không cần quá để ý tới cái nhìn của người khác.
Khi yêu đương nồng cháy, Thiên Bình sẽ vô cùng mù quáng. Cô ấy sẽ không ngừng đưa ra các yêu cầu cho bản thân. Mặc dù cô ấy biết mình như thế nào, nhưng vẫn e sợ cái nhìn của mình không đúng. Tóm lại, cô ấy vô cùng mất tự tin vào bản thân.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Tuy nhiên trong tình yêu, đây là những người khá cầu toàn. Với họ, người bạn đời phải là hình mẫu lý tưởng và được nhiều người ngưỡng mộ. Một cô gái xinh xắn và hiền thục, một chàng trai hào hoa và thông minh... với tình yêu chân thành và tấm lòng thủy chung son sắt là mẫu người mà họ kiếm tìm.
Đối với một số người tuổi Dậu thuộc nhóm máu O, duyên số là điều mà họ tin tưởng và mong đợi nhưng không vì thế mà họ bỏ qua sự lựa chọn kỹ càng của bản thân.
Mái ấm gia đình của người tuổi Dậu sẽ tràn ngập tiếng cười nếu họ biết lựa chọn được những người hòa hợp với mình. Sự hiền dịu, thủy chung của người vợ và sự thông minh, nhanh nhẹn của người chồng sẽ là bến đỗ bình yên cho những người tuổi Dậu thuộc nhóm máu O.
Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân
![]() |
Dưới đây là những vật phẩm phong thuy mang lại sự may mắn, đón lành, tránh dữ cho nhà bạn.
1. Cá cảnh, rùa
“Núi điềm quý, nước điềm tài”, bể cá có tác dụng tăng cường tài vận. Tuy nhiên bạn cần biết cách bài trí đúng vì nếu không có thể dẫn đến việc phá tài. Điều quan trọng nhất là xác định phương hướng đặt bể cá cho thích hợp. Nuôi rùa vừa có tác dụng hóa sát vừa có tác dụng tăng tài vận. Bạn nên lưu ý đến số lượng rùa và hướng đặt chậu nuôi rùa.
2. Vận tài đồng tử
Vận tài đồng tử (tượng đứa trẻ mang lại tài lộc) được xem là tiểu thần của quan Công (tức thần Tài). Đây cũng là một vật phẩm mang lại nhiều may mắn cho gia chủ. Đặc biệt đối với những gia đình kinh doanh không được may mắn, nếu đặt Vận tài đồng tử trong nhà sẽ giúp vận chuyển sự may mắn, tài lộc, sự sung túc đến cho gia đình.
Vận tài đồng tử còn có ý nghĩa cho lời chúc vừa có con trai nối dõi vừa được hưởng lộc phát tài.
3. Tượng Phật Di Lặc
Phật Di-lặc được mô tả với cái bụng thật lớn và cái miệng cười thật tươi, thể hiện mong ước và tâm tư của đạo Phật trong việc đem nụ cười vào cuộc đời. Khi tượng phật Di Lặc được trưng bày trong nhà, đây được coi là biểu tượng cho sự an lạc, vui vẻ, may mắn và hạnh phúc, mang lại nhiều điều tốt lành cho gia chủ, gia đạo…
4. Hồ Lô
Biểu tượng của sự an lành, sức khỏe và trường thọ. Hồ lô đặc biệt thích hợp dùng cho nhà có trẻ nhỏ hay quấy khóc. Hãy treo hồ lô bên cạnh chỗ nằm của đứa trẻ, sẽ tránh được bệnh tật và khóc dạ đề cho trẻ.
Có nhiều loại hồ lô theo chất liệu khác nhau. Hồ lô đồng ngoài tác dụng trừ bệnh còn có tác dụng tăng cường tình cảm vợ chồng.
5. Lọ hoa, bình hoa
Chữ “bình” trong từ “bình hoa” có cùng ý nghĩa với chữ “bình” trong từ “bình an”. Vì vậy, bài trí bình hoa trong nhà hoặc ở công ty mang ý nghĩa tốt đẹp. Tuy nhiên, tránh bài trí bình hoa tại hướng đào hoa, trừ khi bạn muốn tăng cường vận đào hoa.
6. Đồng tiền
Đồng tiền có tác dụng hóa sát. Có 3 cách sử dụng đồng tiền theo phong thủy: để dưới ngưỡng cửa để hóa giải cửa chính đối diện với thang máy; lấy dây vàng xâu đồng các đồng tiền lại rồi treo bên phải cửa chính, có thể phòng chống việc phụ nữ trong nhà hay tranh cãi; để 2 đồng tiền dưới gối vợ chồng có thể giữ được tình cảm tốt đẹp. Riêng với tiền ngũ đế là đồng tiền do 5 vị hoàng đế đời Thanh (Trung Quốc) tạo ra, có tác dụng hóa giải, tránh tà. Để tiền ngũ đế dưới ngưỡng cửa có thể hóa giải 1 số thế sát trong phong thủy như thương sát, phản cung sát, khai khẩu sát và góc nhọn đối diện với cửa chính; treo tiền ngũ đế trong nhà hoặc mang theo người cũng có tác dụng tăng cường khí vận và tránh tà.
7. Pha lê, thạch Anh (quả cầu, trụ tháp)
Pha lê và thạch anh không chỉ là vật trang trí làm tăng vẻ đẹp sang trọng, quý phái cho ngôi nhà mà còn là vật mang đến sự thịnh vượng và tiền tài cho gia chủ.
Pha lê mang vận khí dương, hành Thổ được xem là vật trang trí không thể thiếu cho những người kinh doanh, mưu cầu danh tài, học hành thi cử.
Thạch anh không chỉ được xem như một biểu tượng tốt đẹp, mang đến tiền tài và may mắn mà nó còn mang đến sức khỏe cho gia chủ.
8. Đĩa Thất Tinh (7 quả cầu phong thủy)
Đĩa gồm 7 quả cầu với 7 màu sắc (hoặc chất liệu) khác nhau, trong đó quả ở giữa thường lớn hơn 6 quả xung quanh. Thông thường được chế tác bằng các loại đá quý như thạch anh, đá mắt mèo, hắc ngà, ngọc Đông Linh…Một trong những bí quyết cải biến Phong Thuỷ chính là kích hoạt cát khí của sao Bát Bạch trong phòng khách, văn phòng. Vượng khí của sao Bát Bạch trong vận 8 sẽ mang lại quan hệ gia đình thuận hoà, thăng tiến về công danh tài lộc và may mắn. Ở bàn trà hoặc bàn làm việc rất cần có đĩa ngọc Thất tinh gồm 7 viên đá quý thạch anh trên đĩa tròn.
Những viên đá tròn mang lại cát khí rất lớn, xua được tà khí, âm khí vốn là mầm mống phát sinh tai hoạ, bệnh tật. Đặt ở bàn khách, bàn trà giúp cho chủ nhân quan hệ rộng rãi, nhiều quý nhân giúp đỡ về công danh tài lộc, tránh kẻ tiểu nhân.
9. Các loại thú phong thủy
Kỳ lân, tỳ hưu, thiềm thừ, rùa đầu rồng, cóc ba chân, rồng, phượng… cũng là những biểu tượng cát tường có thể hóa sát và chiêu tài.
Nếu trong nhà có trang trí tượng hình rồng sẽ mang đến nguồn sinh khí mạnh mẽ đến với gia đình. Rồng là con vật linh thiêng, đại diện cho sức mạnh và quyền uy của vũ trụ. Vì thế, nếu đặt tượng rồng hướng ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ mang lại nhiều tài lộc cho gia đình, giúp công việc thuận buồm xuôi gió.
Đặt tượng sư tử đồng trong nhà có thể phù trợ sức khỏe, tài lộc cho gia chủ. Với tượng sư tử bằng đồng có thể giúp gia đình xua đuổi tà ma và những điều không hay. Đặc biệt, đối với những người mệnh Thủy, đặt sư tử đồng sẽ tăng thêm vượng tài bởi Kim sinh Thủy. Lưu ý, cần đặt tượng sư tử đồng hướng ra ngoài, không nên đặt tượng quay vào nhà.
Theo dân gian, cóc vàng luôn là sinh vật mang lại điềm tốt lành. Màu vàng là màu thuộc hành Hỏa, là màu sắc mang lại sinh khí và sự an lành cho gia đình. Vì vậy, cóc vàng được xem là vật mang lại tiền của cho gia đình. Cóc vàng hay còn gọi là cóc ba chân, và đặt tượng cóc vàng trong nhà cũng có 3 tác dụng: chiêu tài (mời gọi tiền tài ), tịch tà (tránh tà), hộ gia (bảo vệ cho gia chủ).
Voi là biểu tượng may mắn, linh vật phong thủy được tôn vinh và ngưỡng mộ – Theo phong thủy, voi gắn liền với khả năng sinh sản. Với những ai đang muốn có em bé, hãy đặt 1 đôi voi ở 2 bên cánh cửa của phòng ngủ. Hoặc đặt 1 bức tượng về chúng trong phòng khách. Nếu bạn muốn sinh con trai hãy đặt 1 con voi ở vị trí dễ thấy trong phòng ngủ. Chỉ với 1 vài liệu pháp phong thủy, bạn có thể tạo ra 1 bầu không khí yên bình, hòa hợp và thu hút khí tốt để có con.
Có thể sử dụng voi để kích hoạt các khu vực theo sơ đồ Bát quái nhằm nâng cao hiệu quả và mang đến sự hài hòa cho ngôi nhà. Ví dụ, nếu bạn đang gặp khó khăn về tài chính, nên đặt 1 chú voi ở cung Quan Lộc (hướng Bắc – khu vực sự nghiệp). Voi cũng là người bảo vệ và giữ nhà rất giỏi.
Tỳ hưu là linh vật có tác dụng chiêu tài tác lộc, may mắn về công danh sự nghiệp, trấn trạch trừ tà khí, bảo vệ sự bình yên cho ngôi nhà. Tỳ Hưu lại có tác dụng hóa giải “Ngũ hoàng đại sát” – một sát tinh trong phong thủy thường gây điều bất lợi cho các thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.
![]() |
![]() |
Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnh vực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ. Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng phụ nữ khắc chồng:
- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám .
- Mắt lớn lồi (nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn). Lông mày thưa vàng và ngắn .
- Mày thô, mắt có sát khí
- Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi
- Phần sống mũi nổi gân máu
- Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên
- Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe
- Trán vuông, mày lớn cao và đậm
- Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ
- Trán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm
- Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu
- Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết
- Mặt chè bè về chiều ngang (phần Trung đình) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống .
- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau
- Trán có tật bẩm sinh (vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu) .
- Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng
- Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn (đây nói phụ nữ ở trung niên trở lại)
- Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi
- Tác có phù quang (trơ trẽn không có sinh khí), da trắng và khô mốc
- Mặt dài quá, cộng với miệng lớn (thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu)
- Ấn đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn .
- Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại (nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn)
- Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre
- Xương che lỗ tai (mạng môn cốt) nổi cao.
Nguồn: Tổng hợp.
Nữ mệnh sinh năm 1997 tuổi con Trâu năm Đinh Sửu, thuộc cung Ly mang Giản hạ Thủy.
Tuổi Đinh Sửu tiền vận có nhiều vất vả buồn thương, qua trung vận mới được nhiều may mắn trong cuộc đời. Bổn mạng được nhiều tốt đẹp về vấn đề tình duyên lẫn tài lộc, hậu vận thì mới có kết quả và mang nhiều tốt đẹp cho cuộc đời, hy vọng sẽ có những thành công lớn về hậu vận, số sung sướng vào hậu vận, cuộc sống được bảo đảm và đầy đủ.
Tóm lại: Cuộc đời của nữ mệnh từ nhỏ vất vả, vào trung vận mới được hy vọng về tiền bạc, hậu vận mới được sung sướng an nhàn.
Về vấn đề tình duyên, bước đầu nhiều trở lực, không có một quyết định dứt khoát, nên thường hay bị lừa đảo trong chuyện tình cảm, làm cho cuộc sống đôi khi buồn khổ.
Vấn đề tình yêu của tuổi Đinh Sửu có ba trường hợp như sau:
Nếu bạn sinh vào tháng này thì cuộc đời phải có 3 lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sinh vào những tháng 4, 9 và 12 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng này thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc là khi bạn sinh vào những tháng 1, 2, 5, 8 và 10 âm lịch. Và nếu bạn sinh vào tháng 3, 6, 7, và 11 âm lịch thì bạn hoàn toàn được hưởng hạnh phúc, không có thay đổi về tình duyên.
Đó là về vấn đề tình duyên, còn với hôn nhân gia đình thì bạn nên lựa chọn những tuổi hợp với mình để kết hôn. Khi lựa chọn được những người hợp tuổi thì không những đường tình duyên của bạn được thuận lợi mà cả về tài lộc và sự nghiệp của bạn cũng phát triển hơn. Bạn nên lựa chọn những bạn nam tuổi sau đây để kết hôn: Mậu Dần (1998), Canh Thìn (2000), Giáp Thân (2004).
Nếu bạn sinh vào những tháng 1, 2, 4 và 5 âm lịch thì bạn cần phải cẩn thận trong việc lập gia đình mới có thể thành công toàn vẹn được.
Phần gia đạo có nhiều điều hay đẹp và không có gì xảy ra quan trọng trong cuộc đời. Nếu có công danh thì cũng chỉ ở mức độ bình thường, không phát triển được.
Sự nghiệp có thành công sớm hay muộn là do ở sự siêng năng và kiên nhẫn của bạn, vì cuộc đời còn phải trả qua sự tương hợp của bấn đề tình duyên. Như riêng về cá nhân thì hoàn thành sự nghiệp một cách khó khăn, phải ở tuổi 30 thì mới có sự nghiệp tốt đẹp. Tiền tài vừa đủ, không giàu sang phú quý, những cũng không thiếu hụt, tiền bạc chỉ ở mức độ trung bình không có mức dư giả.
Từ năm 20 tuổi đến năm 25 tuổi:
Năm 20 tuổi được khá về đường tài lộc và tình cảm. Năm 21 tuổi có bệnh tật, kỵ tháng 6 và tháng 7, nên cẩn thận trong hai tháng này, những tháng khác thì bình thường. năm 22 tuổi, năm này có phát triển về tài lộc và tình cảm được lên cao, toàn năm đều tốt. Năm 23 tuổi không nên đi xa, làm ăn nên cẩn thận nếu không thì tiền bạc sẽ thất thoát, năm có kỵ tuổi, nhất là những thangs1, 5, 7 và 10 âm lịch. Năm 24 tuổi, năm này rất tốt cho việc làm ăn, có lợi nhỏ và tháng 12 thì đại lợi. Năm 25 tuổi năm này cũng phát đạt về việc làm ăn, tài lộc khá dồi dào, toàn ăn thắng lợi nhiều hơn hại trên mọi lĩnh vực. Suốt thời gian này tình cảm ở mức trung bình không có gì đáng nói.
Từ năm 26 tuổi đến năm 30 tuổi:
Năm 26 tuổi, có kỵ tháng 3 tháng 4 có hao tài đôi chút, những tháng khác trung bình. Vào năm 27 tuổi khá tốt đẹp, có phát triển về đường tài lộc lẫn sự nghiệp đều tốt. Năm 28 tuổi năm này nên làm những việc gia đình, không nên giao dịch tiền bạc cũng như không nên làm ăn lớn. Năm 29, 30 tuổi hai năm này bình thường không có gì quan trọng xảy ra.
Từ năm 31 đến năm 35 tuổi:
Năm 31 tuổi, nên cẩn thận sẽ có đau nặng hay trong gia đinh có tang khó, năm này làm ăn không được khá. Năm 32 tuổi, năm này làm ăn không được tốt nhưng không có hao tài tốn của, tài lộc vẫn bình thường. Năm 33 tuổi, năm quá xấu cho bổn mạng và tuổi, năm này kị đi xa hay làm ăn về tiền bạc. Năm 34, 35 tuổi hai năm này đều tốt, có hoạnh tài vào năm 34 tuổi. Năm 35 tuổi nên cẩn thận việc gia đạo một chút, việc làm phát triển tốt.
Từ năm 26 đến năm 40 tuổi:
Tuổi 36 được tốt. Năm 37 tuổi có nhiều dịp may đưa đến, nên hùn hạp nay buôn bán thì tốt nhất. Năm 38, 39 tuổi có cơ hội thuận tiện cho sự phát triển nghề nghiệp và công danh lẫn tình cảm. Năm 38 tuổi kỵ vào tháng 9. Năm 39 tuổi kỵ tháng 2, hai tháng của năm, nên tránh đụng chạm tình cảm bất lợi. Năm 40 tuổi thì trung bình, tài lộc điều hòa, tình cảm hơi có rắc rối những rồi cũng ổn định.
Từ năm 41 đến năm 45 tuổi:
Khoảng thời gian này rất tốt đẹp về phần gia đạo, nên cần lo cho bổn mạng, nếu đi mua bán hay làm ăn có tính cách tiền bạc nên coi thường. Những năm này không nên đi xa, hãy xuất hành theo như trên thì tốt.
Từ năm 46 tuổi đến năm 50 tuổi:
Thời gian này cố tạo lấy một cuộc sống đầy đủ cho con cái thì hơn. Sẽ có nhiều dịp may đưa đến về phần tiền bạc và tình cảm. năm 47 tuổi thường đau bệnh, những năm khác bổn mạng vững.
Xem thêm sao chiếu mệnh của tuổi Đinh Sửu qua các năm
Chẳng biết từ bao giờ người Việt Nam đã coi viêc tắm vào chiều cuối năm như một thứ nghi lễ. Cùng với việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, ai cũng muốn thân thể mình sạch sẽ. Và nước lá hoa mùi không chỉ cho người ta được sạch sẽ gột rửa bụi trần, mà còn như được tắm rửa tinh thần.
Người với người gần nhau hơn, thân ái hơn, làm người ta tĩnh tâm sau bao mệt mỏi của cuộc mưu sinh. Gọi là hoa mùi, thì dĩ nhiên cái mùi đó ắt hắn phải dễ nhớ, dễ cảm nhận và lấn lướt lắm. Chẳng ai dám khắng định hoa mùi thơm quyến rũ như hoa nhài, hoa huệ, lãng mạn như hồng, như ly, khiến người đời ngất ngây. Một chút thơm thơm mà hăng hắc, rồi một chút ngai ngái mà đậm đà, lưu luyến… Thật chẳng dễ diễn tả chuẩn mực, chính xác, ngắn gọn về một thứ mùi của rau cỏ. Nhưng dám chắc, đó là thứ hương đậm đà, quyến luyến…
Đào biếc, mai thắm, quất vàng… luôn là những khúc dạo đầu ấm áp, vui tươi, báo hiệu một cái Tết sắp đến. Nhưng thiếu đi những mớ mùi, với nhiều người sẽ đón một cái Tết thiếu hẳn mùi vị, hương sắc.
Mùi là loại rau của mùa đông. Thường vào cữ cuối đông, người ta mới đem hạt mùi ra gieo vài luống, rồi như một sự vô tình lãng ý của giá rét, chỉ khoảng ngót nghét một hai tháng sau, đã thấy mùi lên tươi tốt, phất phơ hoa trắng và quả nhỏ li ti, thân lá thì xanh sẫm lại. Ấy là lúc cắt mùi sát đến tận gốc, dồn lại lấy mươi bó mà đem vào chợ bán.
Cây mùi được chọn để nấu nước tắm trước khi cả gia đình xum vầy bên mâm cơm tất niên phải là loại mùi già đã trổ hoa, kết trái, thân cây đã chuyển từ màu xanh sang nâu tía và khi đun lên, cho mùi thơm ngan ngát, cay cay, rất riêng biệt. Mùi già cho hương thơm rất sâu và đọng lại rất lâu. Tắm xong, cả nhà vẫn phảng phất hương đến vài ba ngày Tết.
Ở quê, năm nào cũng vậy, trên nóc thùng luộc bánh chưng nhà nhà đều không thể thiếu chậu nước lá mùi. Nhờ than, nhờ lửa của củi đang cháy đượm, khiến nồi bánh sôi sùng sục, chậu nước mùi đặt ké chẳng mấy chốc cũng bốc khói nghi ngút, chuyển sang sắc xanh đầm đậm rồi thơm ngan ngát. Lũ trẻ chơi quanh quẩn mấy nhà hàng xóm được mẹ gọi về để tắm cho sạch sẽ, tinh tươm chỉ từ vài chậu lá mùi đặc sánh. Sáng mồng một, cả nhà vẫn luôn giữ lệ rửa mặt bằng nước rau mùi.
Người thành phố cũng không rời xa nổi cái vị rau mùi. Mọi cái tanh tao trôi sạch đi, chỉ giữ lại một cảm giác thanh sạch, sảng khoái? Một thứ mùi vị đặc trưng của đồng đất quê hương sẽ mãi lưu luyến, vương vấn trong cả năm để nhắc nhở mỗi người về cội nguồn, về gốc rễ. Chẳng ai ngờ, những mớ mùi già cuối đông se sắt lại đem về nhiều cảm xúc đến thế.
Với nhiều người dân Việt Nam, được tắm gội bằng nồi nước lá mùi với hương thơm nồng nàn, ấm áp trong ngày cuối cùng của năm cũ là như thấy những điều chưa toại nguyện, chưa vẹn tròn hay những nỗi phiền muộn trong tâm tư được trút bỏ. Từ ngày xưa các cụ đã quan niệm, ngày 30 Tết, ngày cuối cùng của một năm cũ, bao nhiêu điều xui xẻo, không tốt đẹp, phải tẩy đi, để sạch sẽ đón một năm mới khang trang, vạn sự như ý.
Bàn thờ là nơi thờ cúng tổ tiên, thần linh, thường được đặt ở chùa chiền, đền điện, công ty và trong nhà ở. Cho dù là trong việc thờ cúng hàng ngày hay những dịp lớn, bàn thờ luôn là nơi linh thiêng, không được tùy tiện xâm phạm. Vậy thì, phong thủy bàn thờ cần phải chú ý những điều gì?
Cấm kị đặt bàn trong phòng bếp, phòng ngủ
Cách tốt nhất là bàn thờ nên được đặt tại phòng khách và hoặc đối diện với cửa chính hoặc đối diện với phần phía trước của ngôi nhà. Một trong những chức năng của các vị thần là để "bảo vệ" người cư ngụ trong nhà. Vì vậy, nó là thích hợp để đặt chúng vào "lối vào" của ngôi nhà. Nếu như hướng của bàn thờ ngược với hướng của nhà sẽ khiến cho gia đình không hòa thuận, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến việc không có con nối dõi.
Hướng của bàn thờ không được xung với hướng nhà
Vậy liệu bạn có thể đặt bàn thờ trong nhà bếp hoặc phòng ngủ? Câu trả lời là hoàn toàn không, trừ khi là bàn thờ Táo quân mới ở trong bếp. Đức Phật, Bồ Tát,...đề cao đức từ bi, không sát sanh và do đó không nên đặt trong nhà bếp, nơi gia đình giết mổ, chế biến và ăn uống thịt cá. Đặt bàn thờ trong phòng ngủ cũng không thích hợp vì thiếu tôn trọng.
Bên cạnh nhà bếp và phòng ngủ, những nơi khác không thích hợp đặt bàn thờ bao gồm những nơi mất vệ sinh, bẩn như nhà vệ sinh, phòng tắm và nhà kho.
Cách sắp xếp trên bàn thờ
Các vị Thần Phật như Đức Phật, Bồ Tát, Quan Công, Tam tinh Phúc - Lộc - Thọ là người bảo bọc và che chở tất cả mọi người. Vì vậy, trên bàn thờ, bài vị của tổ tiên luôn được đặt thấp hơn của Thần Phật. Nếu gia đình chỉ có bàn thờ đơn cấp, tượng Phật nên được nâng cao hơn bằng cách kê thêm một khối gỗ.
Trong phong thủy bàn thờ, vị trí đặt tượng Thần Phật phải sát tường mới tốt, nhưng bài vị tổ tiên lại ngược lại. Không nên đặt bài vị sát tường, nếu không nếu nhìn từ góc độ phong thủy, sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ, thậm chí và vận mệnh cả đời của con cháu. Vì vậy, giữa bài vị của tổ tiên và tường nên để một khoảng trống nhỏ.
Chú ý vị trí xung quanh bàn thờ
- Bên trái bàn thờ không được bừa bộn
Phía bên tay trái của bàn thờ luôn luôn phải giữ gìn sạch sẽ, đồ đạc gọn gàng. Nếu như bên trái có thùng rác hoặc các vật ô uế thì sẽ gây ảnh hưởng đến vận thế, sức khỏe và sự nghiệp của gia đình. Đặc biệt con trai và đàn ông trong gia đình sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất.
- Bên phải bàn thờ không được đặt đồ điện
Bên phải bàn thờ không nên đặt đồ điện, bởi vì như vậy sẽ phạm vào sát khí của Bạch Hổ, dễ xảy ra chuyện không may. Bạn có thể đặt đồ điện sang chỗ khác hoặc bày một đôi tì hưu hoặc long quy hóa giải sát khí.
- Phía dưới bàn thờ không được để đồ
Phía dưới bàn thờ nên giữ sạch sẽ, không nên chất đống đồ đạc ở dưới. Đặc biệt chú ý không đươc để đồ điện hoặc bể cá cảnh sẽ có hiện tượng tinh thần sa sút hoặc tài sản bị hao hụt. Nếu như có đặt đồ phía dưới thì chỉ nên đặt một chiếc la bàn.
![]() |
![]() |
![]() |
Bính Tý nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1936, 1996 và 2056
Cung CHẤN
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Xương CON CHUỘT. Tướng tinh CON RẮN
Bà Chúa Ngọc độ mạng
Bính Tý Cung Càn sinh ra,
Mạng Thủy là nước mà ta nhờ nguồn.
Đàn bà sanh thuận Thu Đông,
Kẻ đưa người rước người mong chuyện tình.
Tuổi này lúc nhỏ khó nuôi,
Hai lần chết hụt nổi trôi nhiều lần.
Cũng nhờ âm đức cha ông,
Nghi đâu có đó khó mong ai lường.
Bính Tý người nữ thì sang,
Nhưng mà lở dở chẳng an một đời.
Đầu tiên trắc trở lôi thôi,
Duyên sau mới họp, mới thôi lỡ làng.
Số này cách trở mẹ cha,
Ly hương tổ quán cửa nhà làm nên.
Cuộc sống có nhiều may mắn, khôn lanh, nhưng năm 31 tuổi lại gặp nạn hay trở ngại về cá nhân và thân thể. Năm này tức là năm 31 tuổi, không được hay đẹp lắm. Cuộc đời gặp nhiều may, nhưng ít rủi, có thể tạo được công danh một thời gian, đời sống có phần sung túc, việc gia đình êm ấm và thuận hòa.
Tóm lại: Cuộc đời nhiều sung sướng về cá nhân và thể xác. Bao giờ cũng có thể hưởng được những ân huệ của bạn bè. Tình thương yêu bạn bè cũng như tình thương yêu gia tộc. Số tốt gặp nhiều may mắn trong cuộc đời sắp tới.
Tuổi Bính Tý có nhiều cơ hội phát triển về sự nghiệp. Số hưởng thọ trung bình từ khoảng 54 đến 64 tuổi, nhưng ăn ở hiền lành thì gia tăng niên kỷ, gian ác thì giảm kỷ, đó là luật định của tạo hóa vậy.
Về vấn đề tình duyên, tuổi Bính Tý có qua một giai đoạn khổ lòng hồi tuổi nhỏ. Nhưng qua giai đoạn đó, tuổi Bính Tý cũng gặp nhiều trường hợp may mắn về vấn đề nầy. Tuy nhiên theo sự nghiên cứu về khoa học chiết tự và huyền bí thì tuổi Bính Tý có ba trường hợp như sau:
Nếu sanh vào những tháng nầy thì tình duyên và hạnh phúc phải có ba lần thay đổi, đó là bạn sanh vào những tháng: 4 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời sẽ phải hai lần thay đổi về tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5,8 và 10 Âm lịch. Và nếu bạn sanh vào những tháng sau đây bạn sẽ được hưởng trọn hạnh phúc, cuộc đời không có thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 7 và 11 Âm lịch.
Phần gia đạo, lại gặp nhiều trớ trêu, nhưng có thể giải quyết được tất cả, cuộc sống về phần gia đạo không đến đỗi phải đau buồn, tuy nhiên được hưởng nhiều thú vui của tình hạnh phúc, gia đạo được yên hòa phải ở vào năm mà tuổi bạn ở vào tuổi 36 trở đi. Công danh nếu có cũng chỉ ở trong mức độ bình thường, nếu không có công danh, thì việc tâm tư không có gì mới lạ.
Sự nghiệp phải do một người khác phụ giúp mới làm nên, cá nhân khó mà hoàn thành sự nghiệp. Tiền bạc vẫn trong mức bình thường của cuộc sống, có khi thâu nhiều kết quả về vấn đề này. Nhưng sau đó lại hao tài tốn của. Tuổi nhỏ khó cầm tiền. Phải ở vào 34 tuổi sắp lên mới có thể nắm chắc về vấn đề tiền bạc được.
Trong việc làm ăn hay bất cứ việc gì có liên quan đến, nhất là sự làm ăn, nên lựa được những tuổi hạp với tuổi mình thì tốt. Những tuổi nầy rất hạp với tuổi Bính Tý bất kỳ trong công việc làm ăn hay những việc liên quan đến cuộc đời, đó là những tuổi: Bính Tý đồng tuổi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ. Những tuổi này là những tuổi rất hạp với tuổi Bính Tý trong bất cứ công việc gì có liên quan đến cuộc đời mà không bao giờ sợ thất bại.
Trong cuộc hôn nhơn nếu gặp những tuổi nầy, thì sự làm ăn được phát đạt, cuộc đời có nhiều sung sướng, kết quả và thành công trong mọi công việc. Theo sự nghiện cứu về chiêm tinh học, thì tuổi Bính Tý hợp với những tuổi nầy, chẳng những hợp về lương duyên mà còn hợp về đường tài lộc, đó là các tuổi: Bính Tý đồng tuổi, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Ất Dậu, Ất Hợi, Quý Dậu. Những tuổi nầy rất hợp với tuổi Bính Tý, nếu kết hôn sẽ có nhiều dịp may trong cuộc sống, cũng như đẩy mạnh cuộc sống của hai tuổi lên đến mức độ tột cùng của danh vọng và tiền bạc.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống bạn chỉ có thể sống một đời tầm thường. Nghĩa là chỉ đủ sống mà thôi, vì tuổi này chỉ hợp về lương duyên mà không hợp về đường tài lộc, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Mậu Dần, Giáp Thân. Kết hôn với những tuổi trên bạn chỉ có thể tạo lấy được một cuộc sống trung bình mà thôi.
Nếu kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống của bạn khó tạo ra nhiều hy vọng mà chỉ sống trong sự nghèo khổ triền miên, làm ăn không bao giờ tạo được cơ hội, đó là các tuổi: Canh Thìn, Bính Tuất, Giáp Tuất.
Trên đây là các tuổi nếu bạn kết duyên sẽ xảy ra hoàn cảnh thiếu thốn và cuộc đời khó mà có thể thảnh thơi được.
Có những năm rất xung khắc tuổi, nếu tính việc hôn nhơn sẽ không thành tựu, hay thành thì về sau phải chịu cách xa, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 15, 21, 26, 27, 33, 38 và 39 tuổi. Nếu những năm này kết hôn sẽ có thể xảy ra những trường hợp trên.
Sanh vào những tháng nầy, có số đa phu hay ít ra cũng phải qua đau khổ về chồng con, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 4 và 5 Âm lịch.
Bản nhận xét tuổi Bính Tý qua những năm khó khăn, gặp nhiều trở ngại trong cuộc đời, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 21, 24, 28 và 32 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng bịnh hoạn và tai nạn.
Sau đây là các tuổi đại kỵ với tuổi bạn, nếu kết hôn hay hợp tác làm ăn sẽ gặp nhiều cay đắng, cuộc đời ở vào vì sao tuyệt mạng hay gặp cảnh biệt ly ở giữa cuộc đời, đó là các tuổi rất đỗi xung khắc trong việc kết hôn và trong mọi công việc khác có liên quan đến cuộc đời, đó là những tuổi: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Quý Mùi, Tân Mão và Tân Mùi. Nên tránh những tuổi này thì tốt hơn.
Gặp tuổi kỵ trong vấn đề tình duyên nên tránh việc làm lễ hôn nhân hay ra mắt gia đình thân tộc. Gặp tuổi kỵ trong việc làm ăn nên tránh việc giao dịch về tiền bạc. Trong gia đình nên cúng sao giải hạn thì sẽ được giải hạn ngay.
T uổi Bính Tý xuất hành vào những ngày chẵn, giờ chẵn thì tốt, làm ăn hay giao dịch đều được có nhiều kết quả, không sợ bị thất bại. Và ngày, giờ và tháng như trên được áp dụng trong suốt cuộc đời sẽ luôn luôn được toại nguyện như ý.
Từ 21 đến 25 tuổi: Năm 21 tuổi, có tài lộc đôi chút, toàn năm đều tốt cho mạng số, năm này không có thay đổi nhà cửa, việc làm. Nhưng sẽ có bịnh hoạn vào tháng tám trở đi. 22 tuổi, năm này gặp nhiều xung khắc trong những tháng 4, 7 và 10 Âm lịch, ngoài ra, những tháng khác bình thường. Ba tháng nói trên kỵ đi xa, có hao tài tốn của, 23 và 24 tuổi, năm 23 nên đề phòng cẩn thận sẽ hao tài, hay tốn hao nhiều cách khó hiểu. Không thì gặp tai nạn, hay cũng bịnh hoạn, nhứt là những tháng giêng, 4 và 7 Âm lịch. 24 tuổi mới được yên vui và mới có cơ hội phát triển nghề nghiệp. 25 tuổi, toàn năm đều tốt, trừ những trường hợp nhỏ nhen trong gia đình, không quan trọng.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có nhiều lợi to vào những tháng 8 và 11 Âm lịch. Năm 27 tuổi bình thường, việc làm ăn được điều hòa, không có gì quan trọng trong cuộc đời. Năm 28 tuổi, hy vọng thành công về sự nghiệp gia đình. Năm nầy nếu lập gia đình có sanh quý tử thì phát tài mau. Năm 29 và 30 tuổi, không lo ngại gì nữa, cuộc sống cứ như thế mà tiến lên mức độ cao của sự nghiệp, tiền tài.
Từ 21 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi xấu, có hao tài và bịnh nặng. Năm 32 tuổi được khá, năm này nên đi xa hay làm ăn thì kết quả tốt. Năm 33 và 34, không nên làm việc lớn có liên quan đến tiền bạc, hai năm này nên kỹ lưỡng để mang tai tiếng không tốt. Năm 35 tuổi, được việc, cứ tiếp tục phát triển thì làm ăn tốt.
Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 tuổi, năm này có 6 tháng đầu năm tốt, sáu tháng sau xấu, nên làm ăn những việc tầm thường mà thôi. Năm 37 và 38 tuổi, hai năm này không có những biến chuyển mạnh mẽ trong cuộc đời. Năm 39 và 40 tuổi, không được tốt về bổn mạng, nên cẩn thận thì hơn, tài lộc hơi sút kém.
Từ 41 đến 45 tuổi: Khoảng thời gian năm năm nầy có phần phát triển về tài lộc tình cảm, cần mẫn và nên đề phòng con cái trong gia đình. Cá nhân có bịnh liên miên. Coi chừng bị thiệt hại về tài lộc trong những năm nầy.
Từ 46 đến 50 tuổi: Khoảng thời gian nầy không có gì đáng nói, về phần tình cảm, gia đình thì nhiều hơn, nên nhẫn nại và nhịn nhục tránh những điều tiếng thị phi để cho gia đình thân tộc được vui vẻ hơn.
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Tý
Xem tử vi năm mới
Để tránh hiện tượng 3 cửa thẳng khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá.
Quan niệm tránh làm nhà 3 cửa thẳng hàng nhau là nhằm mục đích tránh gió lùa trong nhà. Lúc này, gió sẽ lùa từ trước hoặc sau và thống vào các căn phòng trong nhà khiến nguy cơ gặp gió lạnh, độc của người sống trong đó là rất cao, từ đó ảnh hưởng tới sức khoẻ.
Để tránh hiện tượng này khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá. Các vật này thường cao ngang tầm người để có thể cản gió. Ngoài ra, cách bố trí các vật này cũng cần đảm bảo được hai yếu tố là ngăn cản gió vào nhà nhưng không ảnh hưởng đến thẩm mỹ ngôi nhà, mà ngược lại phải tạo được cảnh quan hài hòa với kiến trúc chung giúp ngôi nhà đẹp hơn.
(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến)
Trong Tử Vi, khi luận bàn về ảnh hưởng của các sao, người luận giải thường lúng túng khi gặp 2 sao Tuần - Triệt bởi lẽ quan điểm của cổ nhân về 2 sao này bất nhất về ngũ hành và cường độ, thời gian ảnh hưởng nên còn rất nhiều tranh cãi và nghi vấn khi luận giải lá số. Chính vì sự bất nhất đó mà người coi số phải lưỡng lự rất nhiều khi đưa ra lời kết luận trong nhiều trường hợp.
Dù sao thì đây cũng là hai sao đặc biệt quan trọng trong các sao của Tử Vi vì Triệt - Tuần không chỉ chi phối các cung mà còn chi phối các sao, biến tốt thành tương đối xấu, xấu thành bớt xấu... nên Triệt - Tuần cần được cân nhắc cẩn trọng khi đưa ra lời luận giải.
Có 4 quan điểm về ngũ hành của Triệt - Tuần:
Trong 4 quan điểm trên thì phần nhiều người xem số chọn quan điểm thứ nhất cho Triệt hành Kim, Tuần hành Hỏa, sau đó là quan điểm thứ hai cho rằng Triệt - Tuần mang hành của cung án ngữ, còn quan điểm thứ ba, thứ tư rất ít người chọn (nhất là quan điểm thứ tư).
Trong phạm vi bài viết này, người viết trình bày sơ lược một số điểm về Triệt - Tuần mà người học Tử Vi cần lưu ý.
Tuần, Triệt án ngữ hai cung và có cường độ ảnh hưởng lên hai cung khác nhau theo nguyên tắc được ước lượng như sau:
Người Dương Nam, Dương Nữ thì cung Dương bị ảnh hưởng hơn cung Âm, cụ thể cung Dương chịu 70%, cung Âm chịu 30% cường độ.
Người Âm Nam, Âm Nữ thì cung Âm bị ảnh hưởng nhiều hơn cung Dương, cụ thể ước lượng cung Âm chịu 70%, cung Dương chịu 30% cường độ.
Khi bị ảnh hưởng mạnh thì ta thường nói bị đương đầu, bị ảnh hưởng yếu thì ta nói bị chận (chặn) đuôi.
Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời gian 30 năm đầu, tùy theo Cục mà có khác biệt (như Thủy nhị cục thì 32 năm đầu), sau đó thì từ từ yếu đi nhưng không thể coì là không có ảnh hưởng. Tại các cung Kim, Triệt có tác động mạnh nhất.
Tuần thì ngược lại, ảnh hưởng không đáng kể vào khoảng 30 năm đầu, nhưng sau 30 tuổi sẽ mạnh dần lên nhưng không ảnh hưởng mạnh mẽ bằng ảnh hưởng của Triệt khi Triệt ở 30 năm đầu. Tại các cung Hỏa, Tuần có tác động mạnh nhất.
Cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt tạm sắp xếp theo thời gian như sau:
- Dưới khoảng 30 tuổi:
- Trên khoảng 30 tuổi:
Trong từng trường hợp trên cũng có biến động riêng, bởi quá trình thay đổi của Tuần Triệt là quá trình biến đổi: Tuần thì từ từ mạnh lên, Triệt thì từ từ giảm xuống. Như vậy trong trường hợp nếu Tuần chặn đuôi thì nhẹ nhất vào lúc 1 tuổi và mạnh nhất vào khoảng 30 tuổi, còn Triệt đương đầu thì mạnh nhất vào lúc 1 tuổi và giảm dần ảnh hưởng theo thời gian, đến ngoài 30 tuổi thì ảnh hưởng của Triệt giảm đáng kể.
Thông thường khi đóng tại cung nào thì Tuần - Triệt sẽ gây trục trặc cho cung đó bất kể là đương đầu hay chặn đuôi, trừ khi đóng tại cung Vô chính Diệu trong trường hợp không có hung tinh đắc địa hoặc tại cung Tật Ách thì lại tốt. Chưa cần coi các sao trong cung, chỉ cần căn cứ vào sự án ngữ của Triệt - Tuần người coi số cũng có thể nêu sơ lược được vài điểm trong cuộc sống của đương số.
MỆNH: Tuần - Triệt đóng tại Mệnh thì thuở nhỏ cực khổ gian nan (nhưng nếu gặp chính tinh lạc hãm thì sẽ đỡ hơn), Tuần - Triệt đóng tại Thân (cung an Thân) thì khi lập nghiệp sẽ gặp khó khăn ban đầu, nhưng nếu chặn đuôi thì đỡ hơn. Thân Mệnh đồng cung gặp Tuần - Triệt đương đầu thì nếu trước 30 tuổi đã có sự nghiệp thì tất sự nghiệp đó bị gãy đổ rồi mới bắt đầu lại trong giai đoạn lập thân.
Nhìn chung khi Tuần - Triệt đóng tại Mệnh (Thân) thì đương số là người chật vật trong cuộc sống (hoàn cảnh sống không may mắn, công lao được hưởng không xứng đáng...), hoặc lúc sinh ra mình cha mẹ thường làm ăn vất vả, nghèo hèn (nhất là lá số có Tuần - Triệt liên cung tại Mệnh - Phụ Mẫu). Đồng thời đây cũng là mẫu người lười biếng, kém thông minh, yếm thế, thiếu tự tin, không có ý chí vươn lên trong cuộc sống... nếu không được nhiều cát tinh, văn tinh hội chiếu về Mệnh (Thân) hóa giải.
QUAN: Tuần Triệt đóng tại Quan thì gây trục trặc cho quan trường, nghề nghiệp như lận đận, hay phải thay đổi, không bền vững, thăng giáng thất thường... Tùy theo bị chặn đuôi hay đương đầu và gặp Tuần hay Triệt mà lận đận nhiều hay ít.
Vì quan trường có ý nghĩa nổi bật trong giai đoạn lập thân nên cần chú ý phân biệt giữa Tuần và Triệt vì Tuần có tác dụng mạnh hơn về hậu vận còn Triệt chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ giai đoạn trước 30 tuổi nên khi cung Quan gặp Triệt sẽ đỡ hơn gặp Tuần khá nhiều.
TÀI BẠCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Tài thì tiền bạc tụ tán, lúc có lúc không (trừ khi vào đại vận tốt) và thường bị gặp khó khăn khi kiếm tiền. Cho dù sự hội tụ của các sao thế nào (ngoại trừ trường hợp cung Tài vô chính diệu, được Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu về) thì Tuần - Triệt đóng tại cung Tài cũng khẳng định đương số không thể giàu có lớn được, nhất là khi cung tài bị Tuần án ngữ.
THIÊN DI: Tuần - Triệt đóng tại cung Thiên Di thì đương số ra ngoài thường không được lợi, tuy nhiên nếu ly hương thì lại tốt hơn nhiều.
ĐIỀN TRẠCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Điền thì không được hưởng di sản của cha mẹ để lại, phải tự lập và thường bị trục trặc trong vấn đề mua bán điền sản. Cũng như cung Tài, nếu tại cung Điền có Tuần Triệt án ngữ thì chắc chắn đương số không thể có nhiều điền sản lớn được, ngoại trừ trường hợp cung Điền vô chính diệu được Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu về.
PHÚC ĐỨC: Tuần - Triệt đóng tại cung Phúc thì khiến họ hàng ly tán, không ở gần nhau, thường phải ly hương
PHU THÊ: Tuần - Triệt đóng tại cung Phu Thê thì gây trục trặc cho tình duyên hôn nhân như tình đầu tan vỡ, lập gia đình trễ... Nếu lập gia đình sớm thì gia đạo bất hòa dễ đưa đến chia ly. Tuần - Triệt đóng tại cung Phu Thê cũng là yếu tố đưa đến số phận không chồng không vợ nếu cung Phúc vô chính diệu và hội tụ nhiều sao xấu.
Cung Phu Thê xấu xa mờ ám thì nên gặp Tuần hơn là gặp Triệt vì nếu gặp Tuần thì về sau gia đạo dễ hạnh phúc hơn gặp Triệt, còn cung Phu Thê đẹp đẽ nếu gặp Triệt thì tuy có bị trục trặc ban đầu nhưng về sau thì vợ chồng cũng sống được với nhau đến đầu bạc răng long ...
NÔ BỘC: Tuần - Triệt đóng tại cung Nô thì bạn bè, người giúp việc lúc tụ lúc tán, không bền, khó kiếm được người giúp việc trung thành, cũng khó có được những người bạn tri âm tri kỷ.
TỬ TỨC: Tuần - Triệt đóng tại cung Tử thì gây trục trặc cho đương số về vấn đề con cái như không có con, muộn có con, hoặc sinh con đầu lòng khó nuôi, hoặc con không hợp với cha mẹ…
HUYNH ĐỆ: Tuần - Triệt đóng tại cung Huynh Đệ thì anh (chị) trưởng nếu không đoản thọ thì cũng là người cùng khổ cô đơn, hoặc anh chị em không sống gần nhau, hoặc bất hòa, không giúp được nhau mà còn hại nhau...
TẬT ÁCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Tật Ách bất kể là đương đầu hay chặn đuôi thì đương số suốt đời mạnh khoẻ, ít bệnh tật, ít gặp tai họa, nếu có tai hoạ cũng tránh được họa lớn... Trừ khi có sao kỵ Tuần - Triệt như Thiên Tướng, Tướng Quân thì nếu Đại vận xấu sẽ dễ đưa đến cái chết bất ngờ nhanh chóng.
PHỤ MẪU: Tuần Triệt đóng tại cung Phụ Mẫu thì chắc chắn đương số không hợp với cha hay mẹ, hoặc dễ sớm xa cách cha mẹ do: Hoặc cha (mẹ) mất sớm, hoặc cha mẹ ly hôn, hoặc làm con nuôi nhà khác... Vì Phụ Mẫu có ảnh hưởng trong giai đoạn thiếu niên nên gặp Triệt có khác biệt khi gặp Tuần vì lúc đó Triệt đang mạnh mẽ còn Tuần thì sự ảnh hưởng hầu như không đáng kể.
HẠN: Tuần Triệt đóng tại cung hạn thì phải có khó khăn trong hạn đó, nhưng cần phải xét kỹ về thời gian và tỷ lệ ảnh hưởng, nhất là khi Tuần, Triệt đồng cung thì phải nhớ ảnh hưởng tăng gấp đôi và kéo dài hơn chứ không thể suy luận theo quan điểm là Tuần và Triệt tháo gỡ cho nhau trong trường hợp này.
Theo lý thuyết của Tử Vi thì hai sao Tuần, Triệt sẽ làm thay đổi giá trị ảnh hưởng của các sao đồng cung mà Tuần, Triệt án ngữ. Nhưng cũng cần lưu ý rằng: Tuần - Triệt không làm thay đổi tính chất các sao, mà chỉ làm tăng lên hoặc giảm đi ảnh hưởng của các sao. Thực chất Tuần - Triệt chỉ làm thay đổi cường độ hành khí của sao, sự sáng tối của sao tức là thay đổi tính đắc hãm của sao. Tuy nhiên cho dù sao hãm địa có được sáng lại do ảnh hưởng của Tuần - Triệt thì cũng không được toàn vẹn như một sao bản chất là sáng sủa và ngược lại một sao bị tối đi do ảnh hưởng của Tuần - Triệt cũng không tối tăm như một sao bản chất là tối hãm.
Sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt như thế nào tới các sao ở các cung xung chiếu, tam hợp chiếu vẫn là tranh cãi chưa có lời kết của các tác giả, các nhà nghiên cứu Tử Vi.
Có quan điểm cho rằng Tuần, Triệt chỉ làm thay đổi sự sáng, tối của các sao đồng cung chứ không đủ sức ảnh hưởng tới các sao ở các cung xung chiếu hoặc tam hợp chiếu, như thế là không tưởng, phi lý (đại diện là tác giả Nguyễn Phát Lộc). Còn quan điểm thứ 2 (đại diện là tác giả Việt Viêm Tử) thì rộng hơn, cho rằng hai sao này còn ảnh hưởng tới cả các cung trong thế hợp chiếu và mức độ ảnh hưởng của Triệt-Tuần còn phụ thuộc vào tuổi Âm hay Dương của đương số. Quan điểm này không nhận được sự ủng hộ của một số tác giả, tiêu biểu là ông Nguyễn Phát Lộc nhưng lại nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà nghiên cứu, “thầy Tử Vi”, chẳng hạn như nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm (Ông là nhà nghiên cứu, cũng là người hành nghề coi lá
số Tử Vi) nhận xét: Triệt - Tuần là 2 sao đặc biệt trong hệ thống các sao của Tử Vi, nhưng vẫn tuân thủ theo nguyên tắc: Ảnh hưởng tới các cung khác ngoài cung án ngữ và cũng chịu ảnh hưởng lại của các sao, các cung mà Triệt - Tuần trấn thủ.
Qua những tranh luận của các tác giả, và từ thực tiễn kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu về Tử Vi, đặc biệt là kinh nghiệm của những người hành nghề coi lá số Tử Vi.. thì Triệt - Tuần không những ảnh hưởng mạnh tới các sao ở 2 cung án ngữ mà còn ảnh hưởng tới các sao ở cung xung chiếu, tam hợp chiếu. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó chỉ có ảnh hưởng gián tiếp chứ không trực tiếp như ở hai cung án ngữ.
Cũng cần lưu ý thêm rằng: Sao tại cung bị Tuần - Triệt án ngữ bị thay đổi tính chất nên khi chiếu về cung khác cũng khác khi không bị Tuần - Triệt án ngữ. Vì thế khi luận giải phải gia giảm sự tốt, xấu của sao tùy theo sự án ngữ của Tuần hay Triệt và Triệt - Tuần ở thế đương đầu hay chặn đuôi.
Sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt tới các tinh đẩu cũng không giống nhau. Thường thì các chính tinh bị ảnh hưởng mạnh hơn các phụ tinh khi gặp Tuần - Triệt, trong đó Sát - Phá - Liêm - Tham bị ảnh hưởng mạnh nhất
Về tính chất thì hung sát bại tinh (như Sát, Phá, Liêm, Tham, Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa Linh, Kiếp Sát, Thiên Không, Kiếp Sát...), tài tinh (Vũ Khúc, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Hóa Lộc), quí tinh, quyền tinh (Thiên Tướng, Hóa Quyền, Quốc Ấn...), đào hoa tinh hay dâm tinh (Hồng, Đào, Riêu, Thai...) bị ảnh hưởng mạnh mẽ hơn các tinh đẩu khác như phúc thiện tinh (Quang Quí, Quan Phúc...), trợ tinh (Tả Hữu)...lục bại tinh (Song Hao, Tang Hổ, Khốc Hư)
Xét về phương diện Ngũ hành thì nhìn chung hành Kim, Hỏa và Mộc bị ảnh hưởng nặng nhất, hành Mộc bị ảnh hưởng của Triệt hơn Tuần (vì Triệt (Kim) khắc Mộc trong khi đó Mộc sinh (Tuần) Hỏa) và hành Kim chịu ảnh hưởng của Tuần hơn Triệt (vì Tuần (Hỏa )khắc Kim trong khi đó Triệt (Kim) và Kim đồng hành), hành Thủy ít bị ảnh hưởng hơn (vì Triệt (Kim) sinh Thủy và Thủy khắc (Hỏa) Tuần), hành Thổ bị ảnh hưởng ít nhất (vì Tuần (Hỏa) sinh Thổ và Thổ sinh (Kim) Triệt).
1. Chính tinh hoặc hung tinh đắc địa tối kỵ gặp Tuần - Triệt vì gặp Tuần - Triệt làm cho các tinh đẩu bị giảm hết ý nghĩa tốt đẹp hoặc đôi khi trở thành hãm địa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, rất cần có Tuần Triệt án ngữ, chẳng hạn như cung Vô chính Diệu hoặc Chính Diệu tọa thủ lạc hãm, xấu xa, ví như trường hợp Liêm - Tham hãm địa tại Tỵ, Hợi nếu gặp Tuần - Triệt án ngữ lại trở nên tốt đẹp, trường hợp này còn được gọi là Phản vi kỳ cách hay Bộ Âm Duơng lạc hãm rất cần gặp Tuần, Triệt để trở thành sáng sủa, thông minh học giỏi. (Trường hợp này nếu thêm Hóa Kỵ đắc địa đồng cung thì thật hoàn mỹ.)
Hoặc Cung gặp nhiều sát tinh hội chiếu nếu được Tuần - Triệt án ngữ sẽ trở thành yên ổn rất nhiều!
2. Chính tinh sáng sủa hợp Mệnh thì không nên gặp Tuần - Triệt vì sẽ đưa đến phá cách nặng, ví dụ như cung sinh sao, sao sinh Mệnh mà gặp Tuần, Triệt thì càng xấu vì sao sinh Mệnh khiến Mệnh tốt lên hẳn mà lại bị Tuần, Triệt phá hỏng. Trong trường hợp này nếu Mệnh không hợp với sao thì gặp Tuần, Triệt cũng đỡ xấu hơn trường hợp trên.
Chính tinh lạc hãm khắc Mệnh thì lại cần được Tuần - Triệt án ngữ, trường hợp này lại hay hơn là được chính tinh lạc hãm hợp Mệnh gặp Tuần, Triệt. Nói chung là nếu càng xấu về vị trí (bị hãm) và tương quan Ngũ hành (bị khắc) thì gặp Tuần, Triệt càng tốt, hễ càng tốt về vị trí và tương quan Ngũ hành thì gặp Tuần, Triệt càng xấu.
3. Thiên Tướng, Tướng Quân tối kỵ gặp Tuần, Triệt cho dù là đắc địa hay hãm địa.
4. Thiên Phủ kỵ gặp Tuần hơn gặp Triệt, vì gặp Tuần ví như kho trống không, trong khi gặp Triệt thì chỉ bị hao hụt. Thiên Khôi kỵ gặp Triệt hơn gặp Tuần nhưng cần phối hợp các yếu tố khác khi luận đoán sự tốt xấu của cung đó.
5. Bộ Cự Nhật ở Dần gặp Tuần, Triệt không sợ, vì bản thân Thái Dương miếu vượng ít ngại Tuần, Triệt, trong khi đó Cự Môn vượng lại rất cần gặp Tuần, Triệt để cho Cự Môn được ánh sáng của Thái Dương chiếu vào mà tỏa sáng (Tuần Triệt như sấm sét làm vỡ đá ra).
Bộ Nhật Lương gặp Tuần, Triệt cũng không đáng ngại lắm, tuy nhiên khi gặp Tuần, Triệt rất cần có Tả Hữu Xương Khúc phù trì thì mới vượt qua được sự ngăn cản phá hoại của Tuần, Triệt.
Bộ Ân Quang Thiên Quý đồng cung (Sửu, Mùi) chiếu về Mệnh hoặc thủ Mệnh thì Tuần, Triệt không còn tác dụng nữa, chỉ là sự cản trở nho nhỏ không đáng kể.
6. Tuần, Triệt đứng bất cứ đâu nếu bản Mệnh là hành kim thì không đáng ngại (hành Hoả cũng đỡ hơn, nếu Triệt lâm Hỏa địa). Ví dụ mệnh gặp Thiên Tướng + Tuần Triệt án ngữ rất xấu xa mờ ám chủ tai nạn hình thương nhưng nếu bản Mệnh thuộc Kim thì không đáng ngại những nguy hiểm do Tuần, Triệt gây ra.
7. Tuần, Triệt giải họa Không Kiếp hãm rất mạnh, họa tuy có xảy ra nhưng cũng qua được. Triệt tại bản cung thì không sợ tai họa do Không Kiếp chiếu về. Tuần cũng có tác dụng như vậy nhưng yếu hơn.
Mệnh (Thân) có Không, Kiếp thủ chiếu mà gặp Triệt - Tuần thì không sợ tai nguy.
8. Mệnh Tuần hay Triệt thì khi đến đại hạn gặp Tuần hay Triệt sẽ tháo dỡ ảnh hưởng của Tuần hay Triệt.
Tuần, Triệt đồng cung tại tiểu hạn gặp Lưu Tuần, Triệt thì ảnh hưởng của Tuần, Triệt đồng cung sẽ giảm đi.
Triệt tại tiểu hạn gặp Lưu Triệt thì ảnh hưởng của Triệt tăng lên, Tuần tại tiểu hạn gặp Lưu Tuần thì ảnh hưởng của Tuần giảm đi.
- Mệnh Triệt Thân Tuần, tu cần vô hữu chính tinh, vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.
Có nghĩa: Cung Mệnh có Triệt án ngữ, cung Thân cũng ngộ Tuần thì không nên có chính diệu mới được xứng ý toại lòng, về già mới được an nhàn, sung sướng và tăng thêm tuổi thọ.
- Mệnh Tuần Thân Triệt, hỷ đắc vân đoàn tương hội, phú quý văn tài cách phát trung niên.
Có nghĩa: Mệnh có Tuần án ngữ, Thân có Triệt trấn thủ, lại vô chính diệu, rất mừng gặp được văn tinh như Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, gặp như vậy là người có văn tài, học vấn và khi đứng tuổi tất sẽ được an nhàn, phú quý.
- Mệnh Tuần Thân Triệt, tối cần Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương miếu vượng, phú quý vinh hoa đến vãn niên.
Có nghĩa: Mệnh có Tuần, Thân có Triệt án ngữ, rất cần có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa, tốt đẹp hội họp thì cuộc đời mới được xứng ý toại lòng, nhất là khi về già mới được an nhàn, sung sướng.
- Phúc vô chính diệu, tu cần Không tý, kỵ ngộ Triệt Tinh.
Có nghĩa: Cung Phúc đức vô chính diệu rất cần có sao Tuần án ngữ nhưng lại rất kỵ sao Triệt trấn đóng.
- Phúc tại Tý cung. Đồng Âm Kiếp Tử, Triệt Tuần xâm, hữu học vô lương, tiện yểu cách.
Có nghĩa: Cung Phúc đức cư tại Tý, có các sao Đồng, Nguyệt, Kiếp, Tử gặp Tuần, Triệt thì đương số là người có học nhưng bất thành danh và là người bất chính, thường là người đa hư tiểu thực, nghèo hèn và chết non.
- Thân cư Phúc vô chính diệu, tối kỵ Kiếp Dương Triệt Sát. Cái ngộ Đà Không thi vị cứu cánh chi tinh.
Có nghĩa: Cung Thân cư Phúc vô chính diệu mà gặp các sao Kiếp, Kình, Triệt, Sát thì rất lo ngại. Nhưng nếu gặp được Đà La, Tuần lại hay, ví như hai vị cứu khổ phò nguy, giải tỏa được các tai biến.
- Tử Phủ đồng cung, Đế vô quyền sở, nan giải tai ương do như Tuần Không xâm nhập.
Có nghĩa: Tử Phủ lâm Mệnh tại Dần, Thân là 2 sao giải cứu được hung nguy khi đáo nhị hạn. Nhưng nếu bị Tuần Không án ngữ, ví như 2 ông vua bị mất hết quyền hành nên không giảm thiểu được tai kiếp khi hạn ngộ sát tinh, cũng như trường hợp Tử Vi đóng ở cung Tý vậy.
- Sát tinh hung diệu, Triệt đầu cư lai bất cập a hành, nan phùng tai ách vận lai.
Có nghĩa: Cung Mệnh dù có tứ sát, tứ hung, lục bại đi nữa, nhưng nếu được Triệt án ngữ tại bản cung cũng không e sợ lũ sát tinh hoành hành vì sao Triệt đủ ảnh hưởng khắc chế được mọi hung nguy.
- Thân cư Thê vị, Tuần Triệt lai xâm, thiếu niên ai lệ nãi thất tình. Nhược gia cát tú, lương duyên mãn kiếp dữ phụ nhân.
Có nghĩa: Thân cư Thê mà bị Tuần, Triệt xâm phạm tất là người tuổi thiếu niên bị tình phụ mà nước mắt buồn rơi khi nhớ tới người xưa. Nếu gia hội cát tinh cũng được mãn kiếp xum vầy với người góa phụ.
- Kiếp Kình Đế Cự suy Triệt lâm Mệnh, Tý hương, ác nhân đãng tử mãn kiếp nan toàn.
Có nghĩa: Cung Mệnh an tại Tý, 2 sao Tử Vi hay Cự Môn nếu hội với các sao Kiếp, Kình, Suy, Triệt là người phải chết bởi tai nạn nhưng khi chết rồi thể xác vẫn phải bị mổ xẻ.
- Thân cư Quan, kiến Triệt Tuần Kiếp Kỵ nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát diệu, vũ lộ thừa ân, khả đãi vãn niên dĩ hậu.
Có nghĩa: Nam nhân có Thân cư Quan, nếu gặp Triệt, Tuần, Kiếp, Kỵ đồng cung, tất phải lận đận, bôn ba thủa thiếu thời vì không gặp thời cơ. Nếu như được cát tinh củng chiếu, cũng phải đợi tới vãn niên mới được hưởng phúc lộc và tạo thành cơ nghiệp.
- Phản Hữu Hồng Loan sắc Không giác ngộ.
Có ngĩa: Thiên tướng nếu hội họp đầy đủ với 2 loại sao là sắc (Đào, Hồng, Hỷ) và Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) là người ví như kẻ lạc giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư trong sáng, thường có duyên với cảnh tu hành.
- Quý tinh Tướng Phủ Tuần Triệt lao đao.
Có nghĩa: Thiên Phủ, Thiên Tướng là quý tinh, cư Mệnh rất đẹp, nếu độc thủ cũng không đáng lo ngại lắm khi gặp lũ Kình, Đà, Hỏa, Linh vì tính dung hòa của 2 quý tinh này. Nhưng nếu Phủ, Tướng ở cung âm, gặp Tuần, Triệt (Thiên Không, Địa Không cũng vậy) thì cách đẹp bị phá hết, thành kẻ lao đao, lận đận giữa đời.
- Thân cư Quan Lộc hội sát diệu Triệt Tuần, nữ Mệnh nan bảo thân danh. Gia kiến Tang Bạch cô thân chi nhảnh, chi gia vãn tuế tất thành.
Có nghĩa: Nữ nhân Thân cư Quan Loock, ngộ Triệt, Tuần và sát tinh là người khó bảo toàn được danh tiết. Nếu lại gặp 2 sao Tang Môn, Bách Hổ tất bị phòng loan gối chiếc, phải đến tuổi xế chiều mới thành được gia thất.
- Nhật, Nguyệt Sửu Mùi tối cần Kỵ, Không phả vi đại cát.
Có nghĩa: Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu Mùi là thế hỗn độn, nếu gặp được Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) sẽ tạo thành một cách đẹp, nếu thêm cả Hóa Kỵ nữa thì thật là một kỳ cách.
- Thân hội Di cung, Triệt Tuần hãm nhập, vãn tuế hồi hương phương cát. Nhược hữu kiến sát tinh, sự nghiệp viên thành ư ngoại xứ.
Có nghĩa: Người có Thân cư cung Thiên Di gặp Tuần, Triệt hãm địa, tất phải tha hương lập nghiệp cho tới khi tuổi già mới được về quê và hưởng phúc lộc dồi dào. Nhưng nếu Di cung lại bị sát tinh củng chiếu thì chỉ có thể thành cơ nghiệp nơi đất khách quê người.
- Thìn Tuất Không Vong Cơ Lương tăng đạo.
Có nghĩa: Cơ Lương ở Thìn Tuất là rất đẹp nhưng nếu Mệnh ở đấy mà gặp một trong các sao Không (Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không) thì lại là người thất chí, dễ chán đời đi tu.
- Nhật Nguyệt Tật Ách Mệnh phùng Không yểu dà mục cổ.
Có nghĩa: Mệnh hoặc cung Tật Ách có Nhật, Nguyệt gặp Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không), tất phải mang tật lưng vẹo, mắt hư.
Khi coi số, người luận giải sợ nhất trường hợp các cung cường gặp Tuần, Triệt án ngữ bởi lẽ lý thuyết Tử Vi về Tuần, Triệt còn nhiều mơ hồ, chưa có sự thống nhất (thậm chí còn nhiều nghi vấn, nhiều tranh cãi gay gắt)… để làm căn cứ cho việc xem số nên lời luận giải đưa ra thường thiếu cơ sở để khẳng định. Vì thế, người học Tử Vi, người muốn tìm hiểu về Tử Vi đều bất lực trong nhiều trường hợp khi gặp Tuần, Triệt án ngữ, quy tụ lại bởi một số nghi vấn sau:
1. Tuần, Triệt ảnh hưởng tới các sao như thế nào?
Theo lý thuyết thì Tuần, Triệt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các sao đồng cung: Biến tốt thành kém tốt, biến xấu thành bớt xấu nhưng thực tế thì có những trường hợp chỉ chính tinh bị ảnh hưởng còn phụ tinh lại không bị tác động bởi Tuần, Triệt hoặc phụ tinh bị đảo nghĩa khi gặp Tuần, Triệt trong khi chính tinh lại không thay đổi về cường độ, hoặc chỉ một số tinh đẩu bị đảo nghĩa chứ không hẳn tất cả các tinh đẩu đồng cung đều chịu sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt...
Để trả lời cho câu hỏi này, chưa có sách Tử Vi nào đề cập đến nên sự luận giải đôi khi trở nên mơ hồ, võ đoán.
Đấy là nói về các sao đồng cung, còn những sao ở tam hợp chiếu, xung chiếu thì sao?
Về vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cãi, chưa có sự thống nhất hoặc quan điểm vẫn còn mơ hồ, không cụ thể.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tuần, Triệt chỉ ảnh hưởng tới các sao đồng cung chứ không đủ sức để ảnh hưởng tới các sao ở các cung xung chiếu, tam hợp chiếu.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tuần, Triệt không những ảnh hưởng trực tiếp tới các sao đồng cung mà còn ảnh hưởng gián tiếp tới các sao ở các cung khác như xung chiếu, tam hợp chiếu... nhưng lại không chỉ ra sự ảnh hưởng gián tiếp ấy cụ thể như thế nào? Và đây cũng là điểm mơ hồ cố hữu trong hệ thống lý thuyết của Tử Vi.
2. Tuần, Triệt có chịu sự khắc chế, ảnh hưởng của các sao khác không?
Lý thuyết Tử Vi không đề cập đến sự ảnh hưởng hay khắc chế của các sao khác tới cường độ của Tuần, Triệt như thế nào nên vô hình chung đã đẩy Tuần, Triệt lên vị trí tối quan trọng, cao hơn tất cả các tinh đẩu trong hệ thống các sao của Tử Vi, khiến người coi số như xuống biển mò kim mà trở nên lúng túng, bế tắc khi đưa ra lời luận giải.
Trong thực tế, không phải mọi tinh đẩu đều chịu ảnh hưởng của Tuần, Triệt như nhau: Có sao chịu ảnh hưởng nhiều, có sao chịu ảnh hưởng ít và thậm chí có sao không hề bị ảnh hưởng ... Vậy thì tại sao lại có sự khác biệt đó? Phải chăng do Tuần, Triệt cũng chịu ảnh hưởng của các tinh đẩu khác mà sức ảnh hưởng của Tuần, Triệt mới không đồng đều, không đủ mạnh? Sách Tử Vi không đưa ra lời giải đáp khiến người coi số bị hụt hững, phân vân vì thiếu cơ sở lý thuyết nên dễ đưa ra những lời luận giải rơi vào ngộ nhận, không chính xác.
Một số nhà nghiên cứu Tử Vi, hoặc những người coi số Tử Vi cho rằng Tuần, Triệt cũng chịu sự ảnh hưởng, tác động của các sao khác như những sao khác nhưng không chỉ ra được Tuần, Triệt chịu ảnh hưởng từ các sao khác như thế nào? Những sao nào sẽ vô hại khi gặp Tuần, Triệt, thậm chí còn tác động, làm thay đổi cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt? Đây chính là nghi vấn, dễ gây ra sự ngộ nhận khi luận giải lá số.
3. Tuần, Triệt có làm thay đổi được cung an Mệnh khi ở thế bại địa, tuyệt địa?
Chúng ta đều biết lý thuyết Tử Vi cho rằng Tuần, Triệt làm thay đổi cường độ ảnh hưởng của các sao chứ không làm thay đổi tính chất của các sao, có nghĩa một sao thể hiện sự gian tà, độc ác thì khi gặp Triệt, Tuần sẽ vẫn là kẻ gian tà, độc ác nhưng ở mức độ thấp hơn, nhẹ đi chứ không thể trở thành người nhân hậu, bác ái. Hay một cát tinh khi hãm địa được Tuần, Triệt án ngữ cũng chỉ làm cho cát tinh đó tốt hơn lên chứ không thể biến cát tinh hãm địa đó đẹp bằng cát tinh khi đắc địa được.
Chúng ta cũng biết lý thuyết Tử Vi chỉ rằng: Tuần, Triệt chỉ gây trục trặc, cản trở cho cung Tuần, Triệt án ngữ chứ không thể làm thay đổi tính chất ngũ hành của cung, càng không làm thay đổi bản chất của cung: Sinh - khắc hay bình hoà với hành bản Mệnh (Thân)? Phù trợ như thế nào cho Mệnh (Thân)?...
Nhưng khi coi số, nếu gặp trường hợp cung an Mệnh ở vào thế lợi địa, tuyệt địa…mà gặp Tuần, Triệt án ngữ ở đó thì luận giải sao đây? Không thể đưa ra lời khẳng định nếu cung an Mệnh ở thế lợi địa mà gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ trở thành bại địa, hoặc cung an Mệnh ở thế bại địa khi gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ trở nên vượng địa vì thực tế ngay cả các sao đồng cung Tuần, Triệt còn không đủ sức ảnh hưởng đồng đều thì làm sao ảnh hưởng, thay đổi tính chất lợi địa hay tuyệt địa của cung an Mệnh được. Hơn nữa, lý thuyết của Tử Vi về Tuần, Triệt cho rằng Tuần, Triệt chỉ gây trục trặc, cản trở một phần, một giai đoạn cho cung án ngữ nên càng khó đưa ra lời luận giải cho những trường hợp như thế này.
Đây chính là khó khăn và thách đố với những ai muốn tìm hiểu, ứng dụng kiến thức của Tử Vi vào cuộc sống.
4. Thời gian và cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt như thế nào?
Mặc dù lý thuyết Tử Vi cho rằng: Tuần ảnh hưởng nhẹ hơn Triệt và mạnh dần ảnh hưởng sau 30 tuổi, còn Triệt ảnh hưởng mạnh những năm đầu đời và giảm dần hiệu lực sau 30 tuổi. Nhưng Tử Vi không chỉ ra sự mạnh dần (Tuần) hay giảm dần (Triệt) diến ra như thế nào? Cường độ nặng nhẹ là bao? Nên người coi số rất khó đưa ra lời phán đoán. Hơn nữa, những khái niệm về cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt tưởng như rất cụ thể mà lại rất mơ hồ, trừu tượng nên người coi số thật khó luận giải. Chẳng hạn, sách Tử Vi nói: Người Dương nam, Dương nữ khi gặp Tuần, Triệt thì ở cung Dương sẽ chịu 70%, còn cung Âm chịu 30% cường độ, nhưng 100% cường độ được thể hiện như thế nào? Ảnh hưởng ra làm sao? Để qua đó hiểu được
mức nặng nhẹ của 70% hoặc 30% cường độ thì rất tiếc không thấy sách Tử Vi nào đề cập đến.
Hoặc bàn về sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt tới số phận con người cũng nhiều ý kiến trái chiều, bất nhất. Ví dụ ở người Mệnh Kim, có 3 quan điểm:
Trong 3 quan điểm trên thì phần lớn những người coi số Tử Vi đồng nhất với quan điểm thứ nhất: Mệnh Kim không sợ gặp Tuần, Triệt nhưng sự bất nhất về lý thuyết, đặc biệt khi sự bất nhất đó lại có nội dung đối lập 100% như quan điểm 3 với quan điểm 1, thì vẫn gây khó khăn, nghi vấn cho người luận giải lá số.
Đây cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi trong lý thuyết của khoa Tử Vi.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tuần, Triệt đồng cung không tháo gỡ nhau mà cộng hưởng cả mặt tốt, mặt xấu và ảnh hưởng sâu rộng hơn tới cuộc đời của đương số.
Quan điểm thứ hai lại cho Tuần, Triệt tháo gỡ nhau nếu khi đồng cung, làm giảm cái xấu và tăng cái tốt cho đương số.
Mặc dù quan điểm thứ nhất là quan điểm của số đông, được nhiều người chấp nhận vì tính thực tiễn nhưng sự không đồng nhất về quan điểm như thế trong hệ thống lý thuyết của Tử Vi sẽ gây khó khăn rất lớn cho người tiếp cận.
Tuần - Triệt là hai sao còn rất nhiều nghi vấn về giá trị, phạm vi và mức độ ảnh hưởng tới số phận con người mà người nghiên cứu Tử Vi khó tìm được câu trả lời thỏa đáng, càng đặc biệt và thách đố với những người muốn ứng dụng kiến thức Tử Vi vào cuộc sống.
Khi biên soạn về ảnh hưởng của Tuần - Triệt tới lá số (cung, sao), người viết rất băn khoăn, lo lắng vì kiến thức và kinh nghiệm về Tử Vi của người viết chỉ ở mức mày mò tự học trong khi môn học Tử Vi đòi hỏi người tiếp cận phải có kiến thức uyên bác về Dịch lý, về Âm - Dương Ngũ hành... mới có thể truyền tải được những cốt lõi mà linh hoạt và thỏa đáng về hiệu lực của Tuần, Triệt nên những kiến giải của người viết trong bài sẽ không tránh khỏi sự phiến diện, chủ quan và nông cạn, khiến những bậc cao minh sẽ cau mày vì phải đọc những kiến giải “ngây ngô” của kẻ “ếch ngồi đáy giếng”...
Dù thế nào thì người viết vẫn hy vọng bằng những cố gắng của mình sẽ giúp ích ít nhiều cho những ai lần đầu làm quen và tiếp cận với kiến thức mênh mông mà tinh tế, linh hoạt đến phức tạp... của khoa Tử Vi sẽ bớt khó khăn và thời gian tìm hiểu.
Nếu được vậy, người viết mãn nguyện lắm rồi.
* * *
Viết tại Đỗ Hạ, Quang Vinh, Ân Thi, Hưng Yên.
Tháng 07 năm 2006
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)
Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015
Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:
► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của các cung hoàng đạo được cập nhật mới nhất |
![]() |
![]() |
Ghế sofa là một trong những đồ nội thất thiết yếu nhất trong phòng khách của mỗi gia đình. Ngoài chức năng chính của mình, nó còn ảnh hưởng nhiều đến phong thủy của ngôi nhà. Đồ nội thất càng lớn thì ảnh hưởng càng lớn đến các nguồn năng lượng trong nhà. Vì vậy, khi bày sopha trong phòng khách cần chú ý đến vị trí để tránh cản trở phong thủy hoạt động.
1. Sopha phải dựa vào tường
Nếu không có tường dựa đằng sau, nhiều người sẽ có cảm giác bất an, bồn chồn khi đằng sau lưng mình trống trải. Đây là lời khuyên quan trọng nhất cần lưu ý vì bởi vị trí của ghế sofa với một bức tường vững chắc tương tự như có quý nhân hỗ trợ cho cuộc sống và sự nghiệp của bạn. Ngoài ra, đằng sau lưng không phòng bị cũng giống như "giơ lưng ra cho người ta chém", dẫn đến nhiều kẻ tiểu nhân thích chơi xấu đằng sau lưng bạn.
Nếu trong phòng khách không có vị trí nào đặt được sopha sát tường, bạn có thể đặt một tấm bình phong hoặc tủ hỗ trợ.
Chú ý không bao giờ đặt bể nước, như bể cá, ở vị trí đằng sau ghế sopha. Trạng thái này theo phong thủy gọi là "Bội thủy nhất chiến" - quay lưng vào sông mà đánh trận, cực kì nguy hiểm và ngu ngốc.
2. Tránh ngồi dưới xà ngang
Xà ngang là một trong những thiết kế khó chịu nhất trong nhà đối với phong thủy. Chúng tạo ra các luồng khí đè nén và tạo áp lực xuống phía dưới. Trong mọi trường hợp, gia đình không nên kê sopha hoặc giường ngủ dưới xà ngang. Để khắc phục vấn đề này, ngoài việc di chuyển ghế sopha ra vị trí khác, bạn có thể treo chuông gió để hóa giải sát khí.
3. Hình dạng của sopha
Hình dạng của ghế sopha không ảnh hưởng nhiều đến phong thủy. Tuy nhiên các chuyên gia khuyên nên chọn sopha hình chữ "U" bởi hình dáng "tàng phong tụ khí" tốt cho phong thủy.
4. Tránh sử dụng đồ "second-hand"
Nguyên tắc quan trọng trong phong thủy là hạn chế xài lại đồ cũ. Mọi người sẽ không muốn mang về một món đồ cũ mà không biết chủ cũ gặp vận may hay rủi khi sử dụng.
5. Thay sopha đã hỏng
Đừng keo kiệt! Hãy thay đổi một bộ mới nếu thấy chúng hư hỏng vì nó sẽ ảnh hưởng đến khí trường của ngôi nhà.
6. Không để gương phía sau sofa
Nhiều gia đình hay bày gương to trong nhà để làm cho căn phòng nhìn rộng rãi hơn. Tuy nhiên, hãy chọn vị trí khác, tránh vị trí phía sau ghế sopha. Trong phong thủy, gương thường được cho rằng sẽ nhân đôi những gì nó phản chiếu. Tuy nhiên, bạn sẽ không biết những gì nó đang nhân đôi là tốt hay xấu với mình.
7. Không để đèn chùm trên ghế sopha
Nhiều gia đình hay treo đèn chùm phía trên ghế sopha để tăng cường ánh sáng cho góc sinh hoạt. Tuy nhiên, ánh sáng trực tiếp chiếu nhiều lên mặt có thể gây chóng mặt và bồn chồn.
Tiết Đoan Ngọ là truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, ngoại trừ tục “giết sâu bọ”, còn có những biện pháp phong thủy tốt lành để trừ tà, khai vận mà không phải ai cũng biết. Một trong số đó là mang theo bảo bối phong thủy của 12 chòm sao trong tiết Đoan Ngọ bên người.
![]() |
![]() |
![]() |
Vị trí của bếp là một trong nơi quan trọng nhất trong nhà, bên cạnh cửa chính và phòng ngủ. Trong phong thủy, bếp là đại diện của nữ chủ nhân ngôi nhà. Nếu có những nguồn năng lượng tiêu cực được tạo ra do vị trí bếp, nó sẽ có tác động lớn hơn đối với nữ chủ.
Một trong những cấm kị quan trọng nhất cần nhớ trong nhà bếp là không được để bồn rửa tay cạnh bếp nấu. Các yếu tố của lửa (bếp đun) và nước (bồn rửa/tủ lạnh) xung đột với nhau vì vậy vị trí của bếp lò và bồn rửa phải ở trong một cách như vậy mà họ không được đặt bên cạnh nhau. Tuy vậy hiện nay có rất nhiều gia đình Việt đang phạm phải sai lầm nghiêm trọng này. Nó có thể gây ra bất hòa giữa hai vợ chồng, mất mát của cải, hoặc tai nạn.
- Khoảng cách giữa bếp và bồn rửa ít nhất phải được 60cm.
- Nếu không gian chật hẹp hãy đặt thêm một chiếc bàn hoặc ngăn cách bếp nấu với bồn rửa bằng một khoảng bàn để chuẩn bị thực phẩm ở giữa.
Xét cả trên phương diện phong thủy và kiến trúc, tương tác xấu còn xuất hiện khi bếp nấu và bồn đặt ở vị trí đối diện với nhau, tức là căn bếp rơi vào thế hỏa môn đối với thủy khẩu. Khi đó, phía mặt tiền của bếp nấu hoặc hướng bếp sẽ là nơi nhận được quá nhiều thủy khí khiến cho hỏa khí không được vượng. Phong thủy còn gọi kiểu bếp này là "thủy hỏa tương xung" khiến người trong nhà dễ mâu thuẫn nhau, từ đó khiến công việc làm ăn kém thuận lợi. Thực tế, phần lớn thiết kế bếp tại Việt Nam hiện nay có rất ít trường hợp bếp đối diện bồn rửa, chủ yếu là kiểu bếp thuận chiều hoặc vuông góc với bồn rửa.
Trong gian bếp, nên ưu tiên bố trí bồn rửa ở hướng Bắc, Đông hoặc Đông Nam, bố trí ở phía Tây cũng tạm được. Vị trí bếp nên bố trí ở hướng Nam, hướng Đông hoặc hướng Đông Nam là phù hợp nhất. Tất nhiên phải bố trí trên cơ sở phối hợp giữa vị trí của cả bồn rửa và bếp để đạt đến sự phối hợp lý tưởng nhất giữa hai yếu tố Thủy và Hỏa.
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Vị Trí Ở Các Cung
► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Mốt lông mày ngang, đẹp thì có đẹp nhưng không tốt |
![]() |
Chóp mũi to là dáng mũi "đựng tiền" |
► Xem nốt ruồi trên mặt đoán vận mệnh chuẩn xác |
Một người vốn là dân tộc anh hùng, minh tái sử sách, một người bình thường cán bộ. Bọn họ đích dụng thần đều là thủy, quý mão tạo tân hợi vận ất hợi năm lên chức chức. Hai người bọn họ vì sao giống như này đại đích khác biệt?
Đề kỳ: dụng "Có" cùng "Không có" đích lý luận.
Thứ mười kỳ, bát tự trung tam hình đích cái nhìn
Dần tị thân, sửu tuất mùi, tử mão tam hình, có thư trung nói gặp tam hình lấy hung đoạn, hơn nữa đem tam hình nói xong rất đáng sợ. Kỳ thật tam hình cùng loại vu lục xung, 《 Tích Thiên Tủy 》 nói hình vi hình động cùng hình khai, không nhắc tới kỳ hung. Dần hình tị, lấy mộc động hỏa, hỏa hỉ vượng thì cát, hỏa kỵ vượng thì hung; tị hình dần, dần động mà tiết, chủ dần viện đại biểu chuyện vật bị nạn, nếu dần vi kỵ phản chủ cát, nhưng dần vượng tị suy thì dần động; dần thấy thân cùng thân thấy dần lấy xung luận; mà tị thấy thân thì vi hình hợp, tị có thể đem thân hợp mang hình không có tác dụng, thân cũng có thể đem tị hợp bán mang hình, đánh mất tác dụng. Sửu tuất mùi tam hình cùng xung đích cái nhìn cực kỳ tương tự, gần thì hình phá hư mộ trung vật, xa thì có thể hình khai mộ khố mà được dụng. Tử mão hình vi bại hình, tử thủy đem mộc cây hủ bại mà không dậy nổi sinh đích tác dụng; mão hình tử thì tử thủy chết vào mão, tử bị hao tổn thương.
Lệ càn tạo:
Kỷ đinh ất bính
Sửu sửu mão tử
Đại vận:
Bính ất giáp quý nhâm
Tử hợi tuất dậu thân
Này mệnh xem tử tức, lấy thực thương bính đinh vi con gái tinh, đinh thực thần vi tử, bính thương quan vi nữ. Thực đinh thấy sửu tài nhất định tiên sinh tử. Mà đại vận hành quý dậu vận kiêu thần đoạt thực, tình hình có khi thấy thương quan sớm tử khó khăn tồn đích tin tức, cố ngoài tử vu 10 tuổi thời chết vào bỏ mạng. Gặp tử mão hình, mão cùng tử lưỡng thương, cùng lúc nói rõ cả đời vi con gái mà thương tâm * lao; về phương diện khác tỏ vẻ có tử nhất định vi qua phòng, tử mão chi hình tị không cách nào hình thành huyết thống quan hệ, mão bị hình phá hư thê tử cũng không có cách tái sinh dục.
"Mệnh Lý Chỉ Yếu" và "Tích Thiên Tủy" là có đóng hình đích ví dụ rất nhiều, đệ tử tại đọc thời nói chú ý lĩnh hội tức có thể.
Bài tập: rất nhiều đệ tử đích dụng thần chưa vượt qua kiểm tra, cố ở lâu này phương diện bài tập.
Càn tạo:
Ất quý đinh mậu
Tị mùi sửu thân
Khôn tạo:
Giáp giáp quý tân
Ngọ tuất hợi dậu
Khôn tạo:
Bính quý tân quý
Dần tị dậu tị
Tốt nhất nói ra 2, 3 lệ này hai người vốn là đang làm gì.
Thứ mười một kỳ, thập can hỉ kỵ khái luận
"đạo đọc" ngàn dặm lãng một thiên Hác tiên sinh một câu khẩu quyết: giáp sinh dậu nguyệt hỉ thủy nhuận, ất sinh dậu nguyệt dụng hỏa công, là đúng giáp ất mộc tại thu sinh đích hỉ kỵ nhất tinh ích đích khái quát. Đối với thập can hỉ kỵ đích một lần nữa nhận thức vốn là bát tự lấy dụng thần đích mấu chốt! Rất nhiều đệ tử dùng Lý hồng thành đích nhật chủ suy vượng pháp lấy dụng thần, có mấy người khuyết điểm, ⒈ có khi đối với nhật chủ suy vượng nhận thức không rõ;⒉ suy thời dụng ấn hay là dụng tỉ kiếp, hay là kiếp ấn cũng khả dụng nhận thức không rõ;⒊ nhật chủ vượng thời chỉ dùng để tiết hay là dụng khắc dụng háo không đổi nắm giữ;⒋ đối với một ít đặc thù cách cục, dụng thần cùng nhật chủ suy vượng không có vấn đề gì. Nhưng nếu như chúng ta vứt bỏ này đó, hết thảy cũng được dễ dàng hơn nhiều.
Giáp mộc sinh vu dần mão nguyệt, có thủy sinh trợ giúp có thể thành che trời chi mộc, dụng hỏa tiết vi nghi; nhưng đầu mùa xuân mộc nộn, nhất úy cường kim khắc hại, cố có "Giáp mộc che trời, thoát thai nên hỏa, xuân không tha kim" nói đến. Đặc thù tòng người mạnh, thì thấy hỏa nghi khứ ( như Nhạc Phi ); nếu xuân mộc không có thủy thì khô, phản không nên thấy hỏa.
Ất mộc sinh dần mão nguyệt, thì nghi thủy không nên hỏa, nghi kết đảng hội cục, loại tụ thành xu thế, có thủy thấy hỏa cũng cát.
Giáp ất mộc sinh mùa hè thì vi lúa giá, nhất nghi thấy thủy, có thủy thì quý, không có thủy thì bần.
Giáp ất mộc sinh trời mùa thu, như khẩu quyết trung viện nói "Giáp mộc hỉ thủy sợ thổ, ất mộc thì hỉ hỏa sợ thủy."
Giáp ất mộc sinh mùa đông vi hàn mộc, hoan hỷ nhất dụng hỏa tối cục điều hậu, không có hỏa thì bần tiện.
Bính đinh hỏa đích đặc điểm đối với bốn mùa cũng không hết sức mẫn cảm, sợ nhất ẩm ướt thổ hối hỏa, còn sợ táo thổ hối hỏa, ngộ này hai loại tình hình thì hỉ dụng mộc. Không có mộc thì bần tiện. Bính đinh hỏa thấy thổ không chủ tú khí, nguyên nhân thổ vi ngũ hành trung nhất tiện gì đó. Bính hỏa hình như mặt trời, sợ qua vượng mộc suy không có thủy thì đốt tẫn mà chết, cố bính hỏa nên ức ngoài tính chất, không thể trợ giúp ngoài uy. Đinh hỏa hình như chúc đăng, gặp tị ngọ tái sợ thấu bính thì đoạt ngoài quang; suy thời nhất nghi giáp ất sinh trợ giúp.
Mậu thổ như mặt đất, sinh vu xuân hoặc sinh vu thu ( không kể cả tuất nguyệt ) vi bạc thổ, yêu nhất bính hỏa mặt trời chiếu khắp. Sinh vu hạ người rất ít có thể có quý cách. Thấy tuất thổ thông căn thì ngoan cố, lại sợ thấy hỏa, nghi tiết chi háo chi vi nghi. Sinh vu đông càng hỉ thấy bính hỏa.
Kỷ thổ đối với bốn mùa cũng không hết sức mẫn cảm. Một bực như nhau vượng thì hỉ tân kim, suy thì hỉ lộc. Đinh vi kỷ thổ lộc, đa số kỷ thổ cũng hỉ đinh hỏa.
Canh kim vốn là một loại khó nhất nắm lấy gì đó. Nó ngoan cố mà thô tháo, sẽ thuận theo tính chất, sẽ nghịch ngoài tính chất, không thể cũng thuận cũng nghịch, thì tiện không thể nói. Tức, nên khắc hay dùng vượng hỏa, nên tiết hay dùng vượng thủy, nên sinh sẽ vượng chi ẩm ướt thổ; canh kim chế hóa thích hợp, tức có thể thành tài.
Tân kim vốn là một loại rất tú khí gì đó, nghi cẩn thận trân trọng. Hạ tân kim gặp khắc, hoan hỷ nhất thấy quý thủy; đông tân kim ngộ hàn, nhất nghi thấy đinh hỏa. Tân kim không nên nhiều, nhiều thì không tú, lại sợ thổ trọng, mai một mà không ánh sáng. Tân kim ái thực thần cùng lộc thần, rất ít ái ấn thụ đích tình huống.
Nhâm thủy yêu nhất dần mộc, suy thủy thấy dần mộc có thể dựa vào, vượng thủy thấy dần mộc có thể tiết tú. Nhưng không thích mão mộc. Đồng lý nó yêu thích giáp mộc, nhưng lại chưa chắc ái ất mộc.
Quý thủy âm trung chi âm, nếu như có thể tòng mộc hỏa hoặc hóa khí vốn là tốt nhất bất quá đích. Một bực như nhau thấy canh tân thân dậu chi kim trợ giúp, bất quá bình thường mệnh mà kỷ.
Lấy thượng viện thuật, chỉ là thập can hỉ kỵ đích một bực như nhau cái nhìn, thiết không thể dùng làm tử che. Hác tiên sinh nói, mỗi một can đều có nó hỉ đích cùng kỵ gì đó, nhân tiện tượng người của chúng ta đích tính cách giống nhau, thập can là có người tính chất gì đó, thiết không thể dụng một loại suy vượng đích khuôn mẫu đến che, như vậy ngươi vĩnh viễn không cách nào hiểu rõ nó. Có thể thấy được mệnh học đích khó khăn điểm cùng yếu điểm tại "Nghiền ngẫm" nhân tính thượng.
Mệnh học lớn nhất đích lầm lẫn vốn là không biết chúng ta nhất trụ cột tựa hồ nhất hiểu biết gì đó.
Bài tập: càn tạo:
Giáp bính bính giáp
Tử dần dần ngọ
Nói ra hắn đích quý tiện và dụng thần, này nói đề tài dường như khó khăn, ta khảo qua người khác, rất ít có trả lời đích.
Thứ mười nhị kỳ mệnh đàn sai luận
A, có sai nhất định củ
Ta đề xướng mệnh học nghiên cứu trung đích thảo luận cùng biện bác, có đệ tử phát hiện ta tác phẩm trung đích một ít sai lầm, phi thường tốt. Hiện đem sai đích địa phương đưa ra tu chỉnh.
1, tại thứ hai giữa kỳ có một gã nói: "Đại vận xung bát tự cực vượng chi thần không vi xung vượng, cát hung ứng xem tình huống. Bát tự trung vốn có hung thần không có chế hóa, tại đại vận trung đắc căn chủ đại hung; bát tự trung vốn có hung thần bị chế hóa, tại đại vận trung đắc căn chủ khứ hung thần chi ứng kỳ, chủ cát." Có đệ tử yêu cầu giơ lệ.
Lệ: 《 Mệnh Lý Chỉ Yếu 》 như nhau (161 trang ):
Càn tạo:
Đinh nhâm nhâm tân
Sửu tử thân hợi
Đây là mỗ thị trưởng. Hành bính ngọ vận đại vận xung bát tự trung cực vượng chi tử thủy, nguyên cục trung kỵ thần đinh hỏa bị nhâm thủy hợp khứ, nay gặp kỵ thần đắc căn to lớn vận chủ kỵ thần chế hóa đích ứng kỳ ( thực tế này tạo đích đinh hỏa không vi kỵ thần, ứng gọi là "Kẻ trộm thần ", phía sau có tế nói ). Này vận lên chức cho dù giáo ủy chủ nhiệm, sau khi lên chức thị trưởng.
2, đáng đệ tử thêm phát hiện 《 Mệnh Lý Chỉ Yếu 》 trung 《 người giám 》 bộ phận, có mệnh đích giải thích tồn tại vấn đề. Quả thật, ta làm này thư thời tại ba năm trước đây, khi đó ta đối với một ít vấn đề chưa chuẩn bị rõ ràng, không thể quá khứ đích giải thích vi "Pháp" . Đệ tử khả dụng bây giờ đích quan điểm phê phán tính chất mà đi xem 《 người giám tân giải 》. 《 cách cục thông biện 》 bộ phận sai lầm ít.
Triệu bỉnh quân lệ:
Mậu ất nhâm ất
Ngọ sửu thân tị
Đại vận canh ngọ, lưu niên ất tị. Tị thân hợp bán, tị sửu không có khả năng tái củng. Tuế vận ất canh kết hợp hợp khứ ấn tinh, sẽ không hợp vượng. Này tạo có thể thời thìn có lầm, có khả năng vốn là giáp giờ Thìn, dụng thần vi mộc, hàn mộc không dài, điều hậu dụng thần. Canh vận xung giáp, ất canh kết hợp khứ canh, chủ đại cát.
Trịnh hiếu tư lệ:
Canh canh bính mậu
Thân thìn ngọ tuất
Ất dậu đại vận, quý mão lưu niên. Mão dậu xung, nguyên văn trung nói xung động thái tuế mão trợ giúp nhật nguyên, đây là không đúng đích. Mão mộc không có gốc chủ bị xung phá, phản đem dậu kim kỵ thần xung động. Có thể này tạo thời thìn có lầm, kỷ giờ Hợi tượng. Nguyên cục bát tự không có ấn tinh vô luận như thế nào cũng không phải một làm quan đích, kỷ giờ Hợi ấn rơi quan trung, có thể làm quan. Như vậy ất dậu vận kỵ thần dậu kim hợp bán kỵ thần thìn thổ, chủ cát; quý mão hợi mão củng mộc, dẫn ra quan trung ấn tinh, mão có gốc sẽ không bị phá, phản có thể xung động dậu kim, thìn dậu kỵ thần hợp, xung năm vi ứng kỳ, chủ cát ( hợp trung hỉ xung chi ứng ).
B, mệnh đàn không phải là
Đương kim mệnh đàn "Đại sư" cao thủ rất nhiều, ta từng nhắc nhở đệ tử muốn học hội biện thức mệnh lý thật giả. Ta tại công khai trường hợp một bực như nhau không đi đánh giá người khác không phải là. Nhưng tại chúng ta đệ tử bên trong, có chút nói hay là muốn nói đích.
A mỗ đích thích mệnh hệ thống có nghiêm trọng sai lầm, không cần ta tế nói đệ tử cũng có thể phân biệt rõ, hắn đích đồ tử đồ tôn các rất nhiều, so với hắn mạnh hơn một ít. B mỗ học triết học sinh ra, hội bày ra, thiện biên ngụy biện, không có nghiêm cẩn đích quy luật gì đó. Hắn đích đệ tử đại khái gần vạn, không có nghe nói người theo hắn có thể học thành đích, một vị ở nơi nào ngây người nửa năm đích đồng hành theo ta nói, hắn bản thân căn bản sẽ không đoạn mệnh. C mỗ có thể thêm tỉ B mỗ cường một điểm, hắn cũng thiện biên ngụy biện, hắn thích đem đơn giản gì đó phức tạp hóa, đem phức tạp gì đó đơn giản hóa, ta xem không hiểu hắn làm đích thư. D mỗ so với bọn hắn hoàn lại cường một điểm, học thức độ sâu cùng ngộ tính cũng không cao, hoàn lại dường như thành thật, thích mệnh sơ hở tuy nhiều, còn có có thể lấy đích địa phương.
E mỗ vốn là đương kim đối với mệnh lý đích nhận thức cùng ngộ tính cao nhất đích một vị, hắn đích thư cũng hết sức có giá trị.
Đầu tiên, hắn lần đầu tiên đưa ra "Khứ kỵ thần thời được kỵ thần hỉ" đích trọng yếu mệnh lý tư tưởng, này một cái mặc dù Hác tiên sinh đoạn mệnh trung cũng thường sử dụng, nhưng hắn không có hình thành phổ biến áp dụng đích lý luận quy tắc.
Tiếp theo, hắn hữu ích rồi bát tự ứng kỳ đích cách, bát tự thực tế vốn là một người cát hung cùng ứng kỳ đích quy luật hệ thống, tại hắn trước tất cả đại lục đích mệnh sư cũng không có nhận thức đến điểm này. Ta là hai năm tiền ngộ đến đích, cùng theo Vương Hổ Ứng sư phụ học tập sáu hào có liên quan.
Lần nữa, đối với mệnh lý can chi hư thật và sắp đặt đích hữu ích, E mỗ nhận thức đến này một cái.
Nhưng E mỗ đích luận mệnh hệ thống cũng tồn tại nghiêm trọng không đủ.
Đầu tiên, hắn không nói bát tự đích tân chủ, mà thống thống nói hợp bán, như vậy dễ dàng xuất hiện khác biệt.
Thứ hai, chối bỏ điều hậu dụng thần, thực tế điều hậu vốn là hết sức ứng hiểm đích. Ta đến nay không biết dụng hắn đích lý luận, ta đích bát tự đáng thấy thế nào.
Thứ ba, đem tam hội cục nói thành hợp bán, đó là một nghiêm trọng sai lầm, cùng Tống Anh Thành đích "Gặp mộ kỵ yêu" rất tương tự.
Thứ tư, đem dụng thần kỵ thần cuối cùng thân hóa cùng tuyệt đối hóa. Hắn chối bỏ bát tự có đến gần thăng bằng đích kết cấu, chối bỏ nhàn thần đích tồn tại, hơn nữa xem lục thân cũng dụng hỉ kỵ thần, này cùng ta đích phương pháp bất đồng.
Thứ năm, hắn đem chính mình đích hệ thống dâng tặng tuyệt đối chính xác, không tha nạp đồ vật khác , đây là làm học vấn đích tối kỵ. Mệnh lý là có rất nhiều đặc thù gì đó, hội du cách vu quy luật chung ở ngoài, có rất nhiều đích lý cùng cách. Theo hắn đích đệ tử F nói, E mỗ đích chuẩn xác suất 70%. Mà thêm theo khác đồng hành nói, hắn cấp một vị mộ danh cầu trắc người chích đoạn được rồi 30%, cơ hồ nguyên nhân ngôn ngữ không đúng mà đánh lớn một trận. Có thể thấy được hắn thích mệnh hệ thống đích vấn đề rất nhiều.
Ta tùy theo giơ như nhau, quê quán của ta năm bàn xuất đích một vị nhân vật diêm tích sơn:
Càn tạo:
Quý tân ất đinh
Mùi dậu dậu sửu
Theo Hác tiên sinh nói, hắn đích manh người sư gia lưu khai thành tại diêm mười tám, chín tuổi đích lúc cho hắn tính qua mệnh, lúc ấy diêm cùng phụ thân việc buôn bán thất bại nghèo túng thời tính đích. Lúc ấy khuyên hắn nên xuất dương lưu học, tương lai có thể ngồi nửa bích thiên hạ, thêm khuyên hắn mọi việc không nên bốc lên đầu, như vậy hội gặp tới tai họa. Tiên sinh theo diêm nói: "Ấn mạng của ngươi ngươi nên phó ta 300 đại dương đích quẻ tiền, ta biết ngươi bây giờ không có tiền, đánh một nợ điều đi" . Diêm lúc ấy cũng không tin, tưởng rằng tiên sinh theo hắn hay nói giỡn, liền tiện tay đánh một 300 đại dương đích nợ điều. Vài chục năm sau khi, diêm làm đô đốc, lưu khai thành cầm nợ điều tìm được diêm, diêm vui vẻ xuất ra.
Này đoạn chuyện xưa ứng đáng có thể tín tính chất, bởi vì Hác tiên sinh có thể báo xuất diêm đích ngày sinh tháng đẻ. Cái này bát tự cùng thư trung lưu hành đích giờ Hợi thời thìn bất đồng, thực tế thư trung có lầm. Theo dân bản xứ nói, diêm mẫu mộng thấy một viên sao rơi vào nhà nàng đích củi phòng sau khi tỉnh lại sinh đích diêm, phụ hợp giờ sửu. Diêm mẫu tuyệt không hội ban ngày làm mộng.
Ấn E mỗ đích lý luận, diêm mệnh sát vượng thân cực nhược, ứng đáng tòng sát, lấy sát vi dụng tài vi hỉ. Ứng hỉ quan tinh vừa người. Thực tế diêm canh thân vận mọi sự không được, việc buôn bán thất bại. Phản tại mậu ngọ vận khắc sát chi vận làm đô đốc. Nếu như quý thủy vi kỵ mậu hợp khứ quý vi khứ kỵ, như vậy vì sao hắn ất tị vận vẫn như cũ có thể cầm quyền? Tại quân phiệt hỗn chiến rung chuyển đích năm tháng, diêm có thể chưởng quản Sơn Tây 36 nhiều năm, như thế nào giải thích hợp lý đây?
Vốn kỳ đích bài tập chính là: như thế nào hợp lý giải thích diêm tích sơn đích mệnh tạo.
Thứ mười ba kỳ, điều hậu chính giải
Điều hậu lấy dụng thần vốn là bát tự lấy dụng thần đích trọng yếu nội dung, nhưng rất nhiều thư trung nó đích giải thích cũng không thấu triệt, ta ở đây làm tân đích chính giải. Đầu tiên điều hậu nên trọng định nghĩa mới, tiếp theo điều hậu có nghiêm khắc đích sử dụng điều kiện.
Một, điều hậu lấy chi vu thời kỳ đích hàn ấm, táo ẩm ướt, lấy lễ làm là việc chính, xứng xem nó chi. Tức chỉ có đông sinh, hạ sinh dụng chi hàn ấm điều hậu; mùi, tuất nguyệt sinh gặp lại hỏa, sửu thìn nguyệt sinh gặp lại thủy dụng chi táo ẩm ướt điều hậu, khác xuân thu chi sinh không cần điều hậu.
Nhị, điều hậu giới hạn vu bộ phận thiên can mà không thích hợp vu tất cả thiên can. Giáp ất mộc đối với hàn ấm thời kỳ nhất mẫn cảm, cố phàm giáp ất mộc làm nhật chủ hoặc tác dụng thần, kỵ thần thêm đông sinh hoặc hạ sinh người đầu tiên lo lắng điều hậu. Tiếp theo canh tân kim đối với hàn ấm, táo ẩm ướt cũng rất mẫn cảm. Mậu kỷ thổ chuyển đổi hậu không mẫn cảm. Về phần bính đinh nhâm quý chúng nó thân mình đối với hàn ấm cũng không mẫn cảm, nhưng có ỷ lại mộc sinh, có ỷ lại mộc tiết, cố có mộc thời dụng điều hậu, không có mộc thời không xem điều hậu.
Tam, điều hậu đích cách dùng nên đồng dụng hỏa, dụng thủy khu tách ra đến, không thể hỗn làm một đàm. Tỷ như ba tháng vi thìn, dụng hỏa nói thìn thổ hối hỏa vừa là thủy khố, không cát, nhưng dụng điều hậu ba tháng xuân ấm hoa thiên, dương khí ban đầu tiến, thì cát. Cũng có đích bát tự vốn là vừa dụng hỏa, cũng dụng ấm điều hậu, hoặc vừa dụng thủy, cũng dụng hàn điều hậu, có thì đơn độc dụng một loại, đệ tử phải chú ý khu phân chúng nó đều tự đích cách dùng. Hiện trạch lệ mà nói: ( Lý hàm thìn 《 chân tung 》221 trang lệ )
Khôn tạo:
Kỷ đinh đinh nhâm
Hợi sửu mùi dần
Đại vận:
Mậu kỷ canh tân nhâm
Dần mão thìn tị ngọ
Đây là hàm Trữ một vị thị trưởng. Lý hồng thành nói thân nhược dụng hỏa, Lý hàm thìn nói tòng quan. Lý hàm thìn khẳng định nói đích không đúng, tòng quan, quan vi dụng thần, quan tinh nhâm thủy nhược vi hỉ thần nhược, quyết chủ không có quan; hơn nữa dần mộc trường sinh hỏa, thêm không gặp phá, đinh hỏa có khí có sinh, không thể tòng. Thực tế này tạo cũng không tòng quan, cũng không phải thân nhược dụng hỏa, xác nhận điều hậu dụng ấm. Đinh hỏa thân mình đối với thời kỳ không mẫn cảm, nhưng nó viện ỷ lại đích dần mộc nhưng lại rất hàn không dài, cố hỉ hành ấm mà, đại vận đoạn đường tẩu ấm, cố cát. Canh thìn vận mặc dù thìn thổ hối hỏa, nhưng chuyển đổi hậu đến nói nhưng lại cát, cố quyết không sẽ ở này vận xui xẻo, phản lấy cát đoạn. Có người sẽ nói ất hợi năm tị hợi xung hội xung khứ tị hỏa không cát, thực tế điều hậu dụng thần còn có một đặc tính, nhưng lại không sợ hình xung phá hại và hợp hóa biến chất, có hình đích ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ cũng sợ hãi bị phá hư điệu, duy có điều hậu vốn là một loại thời kỳ, một loại thời gian, vốn là vô hình đích, cho nên không sợ bị phá phá hư.
Thêm lệ giáp tạo:
Đinh nhâm đinh tân
Mùi tử tị hợi
Ất tạo:
Đinh tân ất đinh
Mùi hợi tị sửu
Đại vận:
Canh kỷ mậu
Tuất dậu thân
Giáp tạo dụng thần ứng nên mộc hỏa, ất tạo đích dụng thần vốn là điều hậu. Cũng nên có khác biệt. Canh tuất vận vốn là giáp tạo hỏa đắc căn, học tập nổi danh nhóm tiền vài tên; ất tạo ở đây vận vẫn trung bình. Kỷ dậu vận chi giáp tuất năm, giáp tạo dụng hỏa vô cùng tốt, này một năm khai trương rồi hán tử; ất tạo dụng giáp không cần tuất, tiền nửa năm xui xẻo, giáp tuất nguyệt sau lúc buôn bán lời mấy ngàn nguyên, khác biệt rất lớn. Đến ất hợi năm, giáp tạo dụng hỏa ất mộc có thể nhóm lửa, dậu bán tị, hợi xung tị, cát hung hỗ có, viện cát người hợi xung tị, dậu không thể bán tị, dụng thần xung xuất chủ cát, viện hung người hợi qua vượng thêm cuối cùng đem tị cũng xung điệu, kết quả tiền nửa năm buôn bán lời mười mấy vạn, sau khi nửa năm hán tử đóng cửa, nhận được quán tử. Mà ất tạo nhưng lại ở này một năm nhất xui xẻo, thu vào đặc biệt ít còn phải rồi một năm bệnh, ất tạo tòng 98 năm sau lúc dần dần ấm, trục năm chuyển biến tốt đẹp, giáp tạo cũng không thấy khởi sắc, tới canh thìn năm giáp tạo càng ngày càng tốt, hắn bình thản, phụ thân hoàn lại bị bệnh. Mậu thân vận vi thổ kim, đối với giáp tạo dụng điều hậu đến nói vốn là rơi vào ấm mà, mà ất nhưng lại chưa chắc có thể sống khá giả giáp tạo.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hiện tượng hắt xì hơi hay nhảy mũi, ngoài những lí do như bạn bị di ứng với một loại hương vị nào đó thì việc ngẫu nhiên hắt xì hơi cũng là một điềm báo sớm cho bạn. Cũng giống như hiện tượng nháy mắt hay giật mắt, thì nhảy mũi cũng mang những điềm báo khác nhau vào những giờ khác nhau.
Như nói ở trên thì hắt hơi có thể là do một phản xạ thông thường ở con người khi mũi bị kích thích quá mức nhằm tống khứ các chất bẩn và vi khuẩn vi trùng muốn xâm nhập cơ thể, hoặc cũng có thể do là việc dị ứng với các mùi hương như nước hoa, phấn hoa,… Thông thường thì mỗi người không chỉ bị hắt xì hơi một lần mà thường bị hắt xì hơi liên tục. Ngoài những nguyên nhân trên thì hiện tượng hắt xì hơi hhay nhảy mũi cũng mang một điềm báo cho tương lai. Dưới đây là những thống kê về việc bói hắt xì hơi qua từng giờ, với mỗi giờ thì mang một điềm báo khác nhau như sau:
Những giải mã về điềm báo khi bị hắt xì hơi:
Từ 23h - 01h: Có người mời dự tiệc hoặc dự lễ linh đình.
Từ 01h - 03h: Có người khác phái rủ mình làm một việc tuy có lợi cho bản thân, nhưng rất hại cho người khác.
Từ 03h - 05 h: Có cuộc hẹn hò về tình cảm.
Từ 05h - 07h: Có người mang quà đến tặng.
Từ 07h - 09h: Có lộc ăn.
Từ 09h - 11h: Có quới nhân sẳn sàng giúp đỡ, đáp ứng sự mong muốn trong lòng mình từ lâu.
Từ 11h -12h: Có thân nhân từ xa về, đem tài lợi đến cho mình.
Từ 13h - 15h: Có lộc ăn và có lợi vào.
Từ 15h - 17h: Có tin làm mình lo sợ, nhưng rốt cuộc đâu vào đó, mọi việc đều êm đẹp.
Từ 17h - 19h: Có người khác phái nhờ giúp một việc gì, có lợi về tiền cűng như tình cảm.
Từ 19h - 21h: Có người khác phái tưởng nhớ đến mình, sẽ viết thơ cho mình.
Từ 21h - 23h: Có sự lo nghĩ về tiền bạc, nhưng vẫn giải quyết dễ dàng.
Cũng như hiện tượng hắt xì hơi, hiện tượng giật mắt trái, nháy mắt phải thì mang điềm báo gì? Đều có câu trả lời tại đây!
![]() |
Phòng bếp không nên gần nhà vệ sinh |