Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tác động của Hóa Kỵ với các chủ tinh

Thái Dương – Hóa Kị Thái Dương Hóa Kị làm những nghề dính líu đến thị phi quan tụng hoặc gây dư luận ồn ào thì chính mình mới đỡ trở thành nạn nhân của thị phi quan tụng và đàm tiếu phê bình. Tỉ dụ: Thầy kiện, quan tòa, cảnh sát mật vụ, thông tin báo chí, quảng cáo viên. Làm những nghề thông thường dễ bị chiêu oán đả kích.
Tác động của Hóa Kỵ với các chủ tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thái Dương  Hóa Kị dở, hay cũng còn tùy thuộc những sát tinh đi kèm. Thái Dương Hóa Kị không gặp sát tinh lại được Tả Hữu thì gian lao phấn đấu mà nên đại nghiệp như làm chính trị hoặc phấn phát mạnh rồi nhiều kẻ ganh ghét. Còn như gặp nhiều sát tinh kèm vào thì phiền lắm. Chẳng những thị phi chiêu oán mà còn bị họa nạn.

Cách Cự Nhật có Hóa Kị không phải là dở nếu được Lộc Tồn đứng cùng, vào ngành ngoại giao pháp luật, làm quảng cáo, bán hàng càng cạnh tranh càng thành công.

Trường hợp Thái Dương Ngọ cung dù có Lộc Tồn mà thấy Hóa Kị thì cao danh vọng lắm đầy gian nan nhiều, bị vận xấu xuống đến đất đen.

Thái Dương đứng với Hóa Kị nếu có Không Kiếp Tuần Triệt đi rao giảng tôn giáo sẽ gây thanh vọng. Thái Dương Hóa Kị mà bị Kình Dương Thiên Hình hay bị kiện tụng hoặc bị chạm chán với luật pháp.

Thái Dương Hóa Kị vào cung lục thân đều không hay, nhất là đối với người sinh vào ban đêm, nếu có cả sát tinh nữa thì sinh ly tử biệt. Mệnh nữ mà có Thái Dương Hóa Kị ở Phu phải mấy bận dỡ dang, bị cướp chồng hay đi cướp chồng người, thêm Đào Hoa điều trên nặng nữa.

Cung Phụ mẫu xuất hiện Thái Dương Hóa Kị không thuận với cha mẹ, hoặc hay bị kẻ trên nghi ngờ và chèn ép. Thái Dương Hóa Kị vào Tật ách bệnh về thận, về đường tiểu hoặc bệnh mắt. Thái Dương Hóa Kị đóng mệnh cũng thấy Riêu Hình nếu Thái Dương hãm có thể bị mù. Thái Dương Hóa Kị hãm cung vào Tật ách của số nữ hoặc đóng cung Tử tức có trở ngại trong vấn đề sinh sản.

Liêm Trinh – Hóa Kị

Liêm Trinh là máu huyết, là tinh thần hưởng thụ. Liêm Trinh là sao của những biến đổi đột ngột. Liêm Trinh Hóa Kị dễ đưa đến một tai nạn có đổ máu thường thấy như giải phẫu, tai nạn xe cộ, tên bay đạn lạc, nhất là đứng cùng sao Thất Sát ở Sửu Mùi.

Liêm Trinh Hóa Kị gặp Đào Hoa nhiều phiền lụy trên luyến ái. Nữ mạng Liêm Trinh Hóa Kị có cả Xương hay Khúc ắt phải rỏ lệ thương tâm

Liêm Trinh Hóa Kị đứng cung Tài bạch là triệu chứng tiêu hao tiền bạc do một quan hệ tình duyên. Tỉ dụ vợ ly dị phải chia của. Tỉ dụ: Vì lấy vợ mà bị rút một phần của cải gia tài. Như vậy, ngay ở cả Tài bạch, Liêm Trinh vẫn dính líu đến vấn đề huyết duyên. Bởi thế, thấy Liêm Trinh Hóa Kị thì hãy cứ đặt căn bản trên huyết duyên mà luận đoán.

Liêm Kị đóng vào cung lục thân thì luôn luôn bất hòa, với bố mẹ, với anh em, với bạn bè, với vợ con. Liêm Trinh không Hóa Kị mà có Xương Khúc vào vận hạn có thể đoán là một tin vui như đẻ con, phục hồi sức khỏe, việc lấy vợ lấy chồng của những người thân. Liêm Trinh Hóa Kị đóng Tật ách khi bệnh hoạn dễ đưa đến giải phẩu.

Thái Âm – Hóa Kị

Thái Âm không ngại Hóa Kị như Thái Dương. Vì lẽ Thái Âm chủ ẩn tàng cùng chất với Hóa Kị. Thái Âm gặp Hóa Kị không bị tình cảnh oán ghét như Thái Dương. Có thể mang một tâm trạng đau buồn nào đó, không do áp lực từ bên ngoài. Khi chỉ là chuyện nội tâm thì cũng dễ khắc phục.

Thái Âm đắc địa ở Dậu có Hóa Kị lại biến thành đám mây ngũ sắc. Nhưng Thái Âm ở Mão hãm không tốt. Nhất là bị Kình Đà hiệp Kị nguy hiểm. Thái Âm Hóa Kị ở hãm cung đóng Tài bạch đầu tư thường thua thiệt do thiếu sáng suốt, tính toán không kỹ.

Riêng Thái Âm Hợi mà có Hóa Kị thì ban đầu dù khó khăn nhưng cuối cùng lại hết sức thuận lợi bởi những đột biến không ngờ. Thái Âm chủ ẩn tàng có khuynh hướng tinh thần hơn Thái Dương chỉ chú ý đến bộc lộ thực tế.

Thái Âm Hóa Kị nếu thêm sát tinh thành ra một khuyết hãm trên tinh thần. Cho nên Thái Âm Hóa Kị không nên đóng cung Phúc Đức nhất là đối với nữ mạng. Thái Âm Hóa Kị tại Phúc đức, người con gái ý chí yếu đuối dễ bị đường mật dụ dỗ lường gạt mà một lần sa chân thành thiên cổ hận.

Thái Âm Hóa Kị ở cung Phúc lại thấy cả Xương Khúc Đào Hoa có thể đoán là số hồng nhan bạc mệnh. Thái Âm tại Tị vào đất hãm gặp Cự Đồng cung Sửu, tình tự càng bối rối có thể vì xung động nhất thời mà ảnh hưởng đến cả một đời.

Thái Âm Hóa Kị nếu có họa thì thường do mình khởi lên, khác với Thái Dương Hóa Kị là bị ngoại cảnh người đời ganh ghét. Thái Âm Hóa Kị ở thế hãm đóng lục thân cung mà lại là người sinh ban ngày thì hoàn toàn vô duyên với lục thân.

Các nhà Tử vi Trung Quốc bảo: Thái Âm Hóa Kị đóng cung Thân (Mệnh thân) là mẹ hay cha mất sớm từ lúc còn nằm nôi, nếu có cả Linh Hỏa càng mau. Thái Âm Hóa Kị đóng cung Nô bộc bị hại ngầm bởi bạn bè, người trên, người đồng liêu, thủ hạ. Thái Âm Hóa Kị đóng tật ách hay mệnh ở hãm địa phải đề phòng đôi mắt.

Cự Môn – Hóa Kị

Cự Môn chủ khẩu thiệt gặp Hóa Kị càng tăng thêm cái phiền cái họa về khẩu thiệt còn đưa đến kiện tụng cò bót. Cự Môn Hóa Kị mệnh cung thành cặp hung thần làm cho bị thương, bị giải phẫu.

Cự Kị đóng mệnh thêm sát tinh ngay từ lúc nhỏ đã thấy, đã gặp những điều đắng cay như mồ côi, bố mẹ phân ly… Cự Kị Hồng Đào, vợ chồng chia lìa. Cự Kị đóng Tài bạch làm ông giáo, làm người bán hàng mà có thêm Hóa Lộc thì nhờ nói mà ra tiền.

Mệnh cung Cự Kỵ không thêm sát tinh, có Quyền Lộc không nên xuất đầu lộ diện đừng thích hư danh sẽ yên ổn mà ngấm ngầm tiến tới thành công. Cự Môn tuy là cái miệng nhưng hễ thấy Hóa Kị thì đừng nên làm kịch sỹ hay ca sỹ để hứng chịu la ó của khán thính giả.

Cự Kị đắc địa được Hình Quyền làm thầy kiện đắc lực, hoặc điều khiển cơ quan mật vụ cũng hay. Tất cả chỉ vì Cự Môn là ám diệu mà Hóa Kị lại chủ ẩn mật tiềm tàng.

Cự Kị đóng Phụ mẫu gặp Hình hay Đà không thể gần gũi hòa hợp với cha mẹ. Cung Phu thê rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị thế nào cũng tan vỡ. Có cả Đào Hoa nữa thì thành tình tay ba.

Cung Bào huynh Cự Kị khó lòng hợp tác với ai mà yên lành. Cự Kị vào cung Tật ách bị bệnh thần kinh hay xương tủy. Cự Môn cũng là ống thực quản từ miệng trôi vào dạ dày cũng đưa đến bệnh về yết hầu.

Thiên Đồng – Hóa Kị

Nói đến Thiên Đồng với Hóa Kị lại phải nhắc đến hai chủ trương khác nhau trên tuổi Canh. Một phe chủ trương Đồng là phúc tinh thì không Hóa Kị, một phe chủ trương Đồng Kị là tình trạng có phúc mà không được hưởng.

Một phe đứng giữa bảo: Tuổi Ất Tứ Hóa đã an theo Cơ Lương Vi Âm nghĩa là Hóa Kị đã một lần đứng với Thái Âm rồi, sao qua tuổi Canh lại an theo Nhật Vũ Đồng Âm để Thái Âm đứng với Hóa Kị thêm một lần nữa ?

Lập luận trên có phần nào ngã theo lập luận Hóa Kị phải đứng với Thiên Đồng ở tuổi Canh, nhưng đặt căn bản trên sự hợp lý của an sao. Không hẳn vì đã vững vì tứ Hóa không một Hóa nào được an với Thất Sát, trong khi an bốn lần với Vũ Khúc, một lần với Thiên Phủ, hai lần với Tử vi…, Xương Khúc đi với Tứ Hóa hai lần, mà Tả Hữu một bận sánh vai với Hóa Khoa trong khi Thái Âm có mặt bốn lần bên Tứ Hóa, nếu kể thêm cả tuổi Canh là năm. Vậy rõ ràng Tứ Hóa không an theo lối chia đều. Thật ra ta không tìm thấy được lý do tại sao cổ nhân căn cứ vào đâu mà an Tứ Hóa cho thập can như vậy ?

Khi Thiên Đồng phải đi với Hóa Kị thì không bao giờ Thiên Đồng còn đi với Hóa Khoa nữa. Ở đây tôi vẫn biên chép những luận cứ về Đồng Kị kèm với Đồng Khoa để độc giả tự phán xét lấy. Ngoài ra nếu đưa Thiên Đồng đến bên Hóa Kị thì Thái Âm sẽ có hai bận đứng chung với Hóa Khoa thì sao ?

Đồng Kị đóng mệnh luôn luôn tâm ý thống khổ. Đồng Kị vào Phúc đức cung cũng vậy, tâm ý phiền muộn. Nhưng Thiên Đồng Hóa Kị cung Phúc đức mà có Không Kiếp lại biến ra cách khác hẳn, có những sáng kiến độc đáo, mưu chước khôn lường. Nếu lại có cả Âm Sát Thiên riêu sẽ thành một tay đại gian hùng.

Đồng Kị đóng lục thân không cung nào được xem là tốt đẹp. Đồng Kị vào tật ách bệnh kéo dài khó khỏi, ảnh hưởng đến sự hưởng thụ cho cuộc sống.

Thiên Cơ – Hóa Kị

Thiên cơ là sao của mưu tinh kế hoạch, Hóa Kị chủ ẩn tàng và âm thầm. Thiên Cơ Hóa Kị kể là thái quá thành ra mưu thâm họa diệc thâm. Trong sách Hồng Lâu Mộng có câu:

“Cơ quan toán tận thái thông minh

Toán khứ liễu khanh đích mệnh.”

Nghĩa là tính toán âm thầm bằng trí tuệ cao siêu, rút cuộc đưa đến cái chết cho chính mình. Bởi thế Cơ Kị đóng mệnh hay phúc đức nếu vào doanh thương có ngày nhầm chỉ một lần mà mất hết cơ nghiệp.

Người Cơ Kị hay sống thanh thản bình thường, mọi sự phó thác cho số mệnh ung dung mà thành công. Nói tóm lại là đừng dùng mưu kế nhiều. Cái ưu điểm của Thiên Cơ là quyền biến, nhưng khuyết điểm cũng nằm trong quyền biến ấy. Vì quá thông minh quyền biến nên đôi lúc thành ra kẻ hoạt đầu khiến người nghi kị. Như Nguyễn Hữu Chỉnh trong bụng đầy mưu cơ cuối cùng bị Tây Sơn bỏ rơi mà chết giữa biển.

Kị ứng với Cơ khiến Cơ càng bị nghi kị hơn. Cơ Kị thường bị người đời tranh cạnh nói xấu nói vu, bất cứ vào lãnh vực nào cũng luôn luôn phải chống đỡ, cuộc sống mệt mỏi.

Nữ mạng Thiên Cơ Hóa Kị mà gặp Hỏa Linh các Tử vi gia Trung Quốc cho là số có khuynh hướng tự sát. Cổ xưa, về làm dâu mà số như thế sẽ bị cả nhà chồng lẫn chồng ghét bỏ không lối thoát mà tự sát.

Thiên Cơ Hóa Kị đóng lục thân nói lên điều sơ ly khó thân ái lâu bền, nhưng trước khi sơ ly lại rất đằm thắm bởi vậy sự sơ ly của Cơ Kị thường đem tới tâm lý tuyệt vọng. Cơ Kị làm cho chuyện bé xé thành chuyện to, chuyện chẳng ra sao mà nên thù hận.

Thiên Cơ Hóa Kị đóng Tật ách hay bị mất ngủ, thần kinh suy nhược, mất trí nhớ. Thiên Cơ Hóa Kị cũng dễ bị bệnh gan, ưu tư suy nghĩ nhiều ắt gan hư.

Vũ Khúc – Hóa Kị

Vũ Khúc là tài tinh. Vũ Khúc Hóa Kị đi với nhau là làm ăn dung dị phấn phát, nhưng kèm theo sự phấn phát là những phiền lụy. Tỉ dụ sa thải người mà bị người oán; phải cạnh tranh mà mất lòng người; làm việc mà đồng liêu ganh ghét; vùi đầu vào công tác quên cả vợ con khiến vợ con xa cách.

Vũ Kị đóng Mệnh hay Tài bạch chỉ có làm chuyên viên giỏi nghề nghiệp là yên ổn. Vũ Kị sợ thấy Không Kiếp làm cho hao tổn tiền tài qua lừa gạt.

Vũ Khúc Hóa Kị mà gặp Linh Tinh Văn Xương Đà La thành ra cách Linh Xương Đà Vũ thêm Kị xấu gấp bội. Cách này sẽ vì tự cao tự đại mà thất bại nặng, sụp đổ cả một cơ, sự nghiệp.

Cách Vũ Kị Linh Xương Đà đóng Phúc đức cung đưa đến tư tưởng cực đoan làm hỏng đời mình kiểu Robespierre của Cách mạng Pháp.

Vũ Kị vào cung Lục thân mà có cả hình sát tinh nữa thì những người thân có ai bị phá sản. Riêng đóng Thê cung, vợ phá của. Vũ Kị đóng Tật ách thường bị bướu mà phải giải phẫu.

Tham Lang – Hóa Kị

Khi Tham Lang đứng với Hóa Kị thì đương nhiên Phá Quân đứng cùng Hóa Lộc (cho người tuổi Quý). Nhờ vậy Hóa Kị không tác hại nhiều vì lẽ Phá Quân rất ăn ý với Hóa Lộc.

Tham Lang Hóa Kị đắc địa lại hội thêm được cát tinh, đôi khi chỉ nói bâng quơ mà ra cơ hội, chỉ làm chơi mà ăn thiệt, chỉ ném hạt cam xuống đất không có ý trồng mà nên cây.

Tham Lang Hóa Kị đứng với Linh Tinh hay gặp Linh Hỏa dễ hoạnh phát bạo phát. Không sát tinh mọi chuyện hanh thông như trò giỡn. Có sát tinh bạo phát bạo tàn. Sát như Kình Đà Không Kiếp, Thiên Hình.

Tham Lang Hóa Kị ở cung Tí hay Tỵ mà số nữ rất không nên, gái bạc tình. Tham Lang Hóa Kị đóng Phu thê hôn nhân thất bại. Tham Lang Hóa Kị trên căn bản là tranh đoạt. Tranh đoạt mang hai hình thế: Bị động hoặc chủ động. Gặp Hình Sát thì ở thế bị động, gặp nhiều cát tinh thành thế chủ động.

Tham Kị đi với Đào Hoa Văn Xương tạo thành tranh đoạt trên tình trường. Nữ mạng mà bị đặt vào sự tranh đoạt ở tình trường thì chẳng có thể nào mà tốt lành được.

Trường hợp Hóa Kị đứng với Tham Lang mà bị giáp Kình Đà hoặc tam hợp Kình Đà thành ra cách Dương Đà Kiếp Kị ra đời luôn luôn ở vào bị động, có danh có chức chăng nữa cũng chỉ là hư danh rồi một ngày nào đó rơi vào cảnh quyền rơm vạ đá.

Tham Lang Hóa Kị đóng Phúc đức hay Phu thê cung trong lòng ẩn dấu nổi đau thương mà không nói ra được. Tham Lang Hóa Kị cùng Linh Hỏa vào lục thân chủ về phân ly trong một thời gian nào đó.

Tham Lang Hóa Kị đứng với Đà La đóng Tử tức hay Bào huynh khó hòa hợp, tư tưởng nếp sống hoàn toàn bất đồng. Tham Lang Hóa Kị đóng Nô bộc hay bị tay chân thủ hạ phản bội hoặc cạnh tranh. Tham Lang Hóa Kị đóng Tật ách số nữ bệnh về bộ phận sanh đẻ.

Văn Xương – Hóa Kị

Với người tuổi Tân, khi Văn Xương gặp Hóa Kị thì Văn Khúc lại đứng với Hóa Khoa (an theo Cự Nhật Khúc Xương). Cả hai hội tụ mà vào mệnh tất gặp Cự Môn, Cự Kị gây cản trở nên dù có Xương Khúc Hóa Khoa học vấn cũng không thể thành công đến tuyệt đỉnh mà chuyển thành cách dị lộ công danh. Dị lộ đường đi quanh co vất vả hơn, cuộc đời lận đận hơn.

Văn Xương Hóa Kị cũng đưa đến tình trạng không tựu được vào khoa danh để dành quyền chức. Hoặc thành tựu một nấc khoa danh nào đó mà chẳng được dùng đến. Đỗ Luật, đỗ Văn chương rồi động viên làm cai đội. Chẳng đỗ gì đăng lính rồi lên tướng.

Xương Kị đứng với Không Kiếp hay gặp Không Kiếp rất không tốt khi vào Tài bạch cung, chổ dung thân thường bị phá sản, hoặc do nhầm lẫn của chính mình mà gây thành sự phiền hà trên tiền bạc.

Người Xương Kị cũng thường bị thất ước, cho người vay mượn mà người không trả mình, vay mượn của ai mà mình nhỡ nhàng không trả nổi hay không trả được đúng định kỳ.

Xương Kị là sự thất ước, đứng với Đào Hồng, nam hay nữ hay bị lừa gạt trên tình ái. Xương Kị vào vận hạn, mong ngóng một tin tức, một lời hứa đều bị cuội.

Xương Kị đóng lục thân chủ sơ ly, nếu lưu niên vận hạn vào cung Phụ mẫu mà gặp Xương Kị lại thấy các sát tinh khác nữa thì có tang tóc.

Xương Kị đóng Phu thê cung nên vợ nên chồng tự nhiên, không hôn lễ hoặc không được đồng ý của hai bên cha mẹ. Cung Nô có Xương Kị đứng cùng các sát tinh thường bị liên lụy vì kẻ dưới. Vào cung Bào anh em bất hòa.

Xương Kị đóng tật ách hay bị loang, thẹo, đứng với Nhật Nguyệt có cườm mắt hay mắt kéo màng.

Văn Khúc – Hóa Kị

Văn Khúc Hóa Kị cũng như Văn Xương Hóa Kị dễ bị thất hứa, nhưng Văn Khúc vốn chủ về lời không như Vũ Khúc vốn chủ về tờ chữ.

Khúc Kị ưa ngôn quá kỳ thực, vận hạn vào Khúc Kị bị gạt gẫm bởi những lời hứa hảo, những kế hoạch ba hoa. Khúc Kị đóng cung Phúc đức thường vì thị tài mà thất bại. Cự Môn gặp Khúc Kị thì đôi khi lại vì tai tiếng mà nổi danh, mà danh tốt chứ không phải danh xấu.

Khúc Kị vào các cung lục thân cũng như Văn Xương Hóa Kị kể là không tốt. Khúc Kị vào Phối cung hay xa chồng xa vợ, hoặc lúc cưới, chồng hoặc vợ vắng mặt. Khúc Kị cùng đóng cung Tật ách với Phá Quân số bị thủy ách. Thủy ách gồm có đi mưa mà sưng phổi, đắm thuyền, bơi lội đuối sức.


Những lời luận đoán về Tứ Hóa trên đây là căn cứ vào bố trí đồng cung không phải tính qua tam hợp. Tỉ dụ Cự Môn đóng Tý mà đứng bên Hóa Kị ở Mệnh cũng Tí (hay Phúc đức, Quan lộc) thì Kị không thành hung thần, nhưng nếu Cự Môn Tí mà gặp Hóa Kị theo thế tam hợp hoặc xung chiếu thì lại phiền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác động của Hóa Kỵ với các chủ tinh

Ngũ hành chế hóa

Một bài viết về ngũ hành chế hóa với nhiều giai thoại thú vị của tác giả Anh Độ. Mời quý bạn đọc tham khảo!
Ngũ hành chế hóa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Anh Độ

Theo các vị đã đi sâu vào khoa Tử Vi đẩu số, thì sự Sinh, Khắc, Chế, Hoá trong Ngũ hành rất cần thiết trong khoa Tử Vi và bói toán.

Cụ Nguyễn Văn Uy (Số nhà 72/4 Ngô Tùng Châu), một vị nho học từng nghiên cứu về khoa Tử Vi, trong một buổi nói chuyện với chúng tôi về sự Chế Hoá của Ngũ hành, có nói rằng: Theo sự nghiên cứu của cụ, có khi hai hành khắc nhau, ví dụ như Thuỷ khắc Hoả mà lại tốt như Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hoả (lửa trên trời) với Quý Hợi là Đại Hải Thuỷ (Nước biển lớn). Lửa trên trời tức là mặt trời chiếu xuống biển cả, thì phát ra muôn ngàn hào quang rực rỡ.

1.Kim

Trong cát, giáo gươm hai thứ Kim. Nếu nằm trên Chấn ắt tương xâm Kim còn bốn thứ đều sợ Hoả.
Gươm cát bắng Hoả chẳng thành hình.
Ất Mùi là Sa Trung Kim (Kim khí trong cát)
Quý Dậu là Kiếm Phong Kim (kim khí của gương giáo).
Cả hai đều không nên gặp Mộc vì cây không sống được nếu trồng trên dất có chất kim khí và cây mà gặp gươm giáo sẽ bị chặt gẫy. Nhưng hai thứ Kim đó mà gặp Hoả lại tốt, vì có lửa mới rèn thành gươmg giáo, có lửa thì chất Kim vùi trong cát (vàng cốm) mới trở thành nén vàng quý giá. Còn các thứ Kim khác đều sợ Hoả (khắc).

2. Thuỷ

Thuỷ ở sông Ngân cùng biển cả.
Cả hai chẳng sợ Thổ địch cừu.
Ngoài còn mấy thứ đều kỵ Thổ.
Một đời cơm áo thật khó cầu…
Đinh Mùi là Thiên Hà Thuỷ (nước sông Ngân Hà) và Quý Hợi là Đại Hải Thuỷ (nước biển cả) không sợ Thổ vì nước sông Ngân hà trên trời cách xa với mặt đất và đất thì không hút nổi hết nước biển cả.
Còn Thổ khác tất cả các thứ Thuỷ khắc.

3. Mộc

Mộc Tằm dâu, liễu dương, tùng bách
Thạch lựu, rừng sâu đều kị Kim
Duy chỉ cây trồng đồng bằng Mộc
Thiếu Kim sao được mọc lên cao?
Các thứ Mộc như Quý Sửu là Tang Đỗ Mộc (gỗ cây tằm dâu), Quý Mùi là Dương Liễu Mộc (gỗ cây dương liễu), Tân Mão là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng bách) Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây lụa), Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc (gỗ câu ở rừng lớn) đều sợ Kim. Đất mà có chất Kim khí thì cây sẽ chết, nếu gặp rìu bua, cây sẽ bị đốn gãy.
Duy chỉ các cây trồng ở đồng bằng như ngũ cốc, cây có trái, cây canhr thì lại cần phải có đồ Kim khí như cày, cuốc, liềm, kéo để cầy, vun xới, tỉa xén, thì mới mọc tố và cây cảnh mới đẹp được.

4. Hoả

Đèn lồng, lò lửa, cùng đỉnh núi
Thấy Thuỷ, cả ba đều chẳng hay
Lại còn ba thứ chẳng kiêng Thuỷ
No ấm một đời, giàu lại sang.
Ất Tỵ là Phú Đăng Hoả (Lửa đèn lồng), Đinh Mão là Lô Trung Hoả (lửa trong lò) Ất Hợi là Sơn Đầu Hoả (lửa đỉnh núi) ba thứ đó kỵ Thuỷ, gặp Thuỷ là tắt liền.
Nhưng ba thứ khác: Đinh Dậu là Sơn Hạ Hoả (lửa chân núi), Kỷ Sử là Tích Lịch Hoả (Lửa sấm sét), Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hoả (lửa trên trời) gặp Thuỷ, không bị ảnh hưởng gì hại mà còn tốt vì hợp với tình thế.

5. Thổ

Thành luỹ, mái nhà, cùng trên vách
Ba Thổ đều sợ Mộc đâm xoi
Ngoài còn ba thứ chẳng sợ Mộc
Một đời thanh quý, bước lên mây.
Kỷ Mão là Thành Đầu Thổ (dất trên thành luỹ) Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ (đất trên mái nhà), Tân Sửu là Bích Thượng Thổ (đất trên vách nhà). Ba thứ đất này đều sợ Mộc (Mộc khắc Thổ) vì nếu cây mà mọc trên các thứ đất đó, rễ sẽ đâm xuyên làm cho dất lở và nứt ra.

Còn ba thứ Thổ khác mà gặp Mộc lại tốt như:

Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ (bất cạnh đương) cần có cây cối mọc bên đường cho rợp mát.

Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ (đất ở các cung, trạm bay cầu quán) cũng cần có cây mọc để cho trạm hay cầu quán được đẹp mắt.

Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ (đất trong cát) đất trong bãi cát rất tốt cho các việc trồng ngô, hoặc trên bãi sa mạc có cây mọc thì còn gì bằng?

Giai thoại về Sinh Khắc, Chế Hoá của Ngũ Hành.

A. Một trường hợp Kim sinh thuỷ

Để cho ta thấy rõ về Sinh Khắc, Chế Hoá của Ngũ hành, người xưa đã kể lại những giai thoại đã có để chứng minh lẽ huyền bí của Tạo hoá.

Trong thời Chiến Quốc, Thái Trạch người nước Yên, học rộng, tài cao đi du thuyết các nước chư hầu, nhưng không có nước nào dùng. Khi đến các nước Lương, nghe tiếng có Đường Cử là người giỏi về khoa Tướng số liền tìm đến xin vào gặp mặt để hỏi vì sao mà mình cứ lận đận và đến bao giờ mới đát được công danh, phú quý.

Đường Cử ngắm nhìn Thái Trạch rồi nói:

- Tiên Sinh mũi như con rết, vai cao hơn đầu, trán nhăn, mày cau, hai chân khuỳnh khuỳnh. Tôi nghe bậc Thánh nhân mà như vậy cũng không cần xem tướng, huống hồ là Tiên Sinh.

Thái Trạch nghe Đường Cử nói như vậy biết là nhà tướng số nước Lương có ý chê mình diện mạo xấu xa không làm nổi bậc Công, Khanh nhưng Thái Trạch vốn tin mình học rộng, tài cao thế nào cũng có ngày áo bào tung tăng bay trước gió, vinh quy bái tổ về làng. Ông ta nói với Đường Cử:

- Phú quý thì tôi đã có sẵn, học thức thì Trạch này chưa phải thua những bậc lương đồng của các nước. Chỉ xin Tiên sinh cho biết Trạch này còn sống đến bao giờ nữa.

Đường Cử tính một lúc rồi nói:

- Tuổi thọ của Tiên sinh còn dài. Kể từ nay còn 43 năm nữa.

Thái Trạch cười lớn:

- Trạch này vốn ăn ngon, mặc đẹp, đi thì lên xe, xuống nựa, ngọc dắt, vàng đeo, vái nhường trước vị nhân quân. Như vậy thì 43 năm cũng đủ cho Trạch này đương mây rộng bước.

Nói xong, từ biệt ra đi. Sau khi sang nước Hàn, thăm nước Triệu, Thái Trạch vẫn chưa tìm được minh chủ. Khi trở về Nguỵ, không may nửa đường bị cướp, mất sạch của, hành lý.

Đang khi bụng đói không biết xoay sở vào đâu, ngồi nghỉ ở dưới gốc cây bên vệ đường thì gặp Đường Cử đi qua trông thấy. Nhìn Thái Trạch trong tình cảnh vậy. Đường Cử hỏi đùa:

- Sao, Tiên sinh chưa gặp minh chủ à?

Thái Trạch đáp:

- Còn đang tìm kiếm đây.

Đường Cử nghiêm nét mặt nói:

- Tiên Sinh cốt tướng thuộc về Thuỷ, Tiên Sinh đã thừa biết Kim sinh Thuỷ. Tại hướng Tây, thuộc Kim, có nước Tần đang cường thịnh mà vua Tần lại chiêu hiền, đãi sĩ. Phạm Chuy, Thừa tướng nước Tần đang lo sợ chức vụ của mình bị lung lay vì Chuy đã bảo lãnh với vua Tần cho Trịnh An Bình và Vương Kê. Nay hai kẻ đó vừa phạm tội đối với triều đình. Theo luật nước Tần, kẻ bảo lãnh cũng bị tộ như chánh phạm nên Phạm Chuy đang nóng lòng muốn từ chức. Tiên sinh sao chẳng sang nước Tân mà tìm công danh chớ chịu khốn đốn ở đây sao?

Nói xong, Đưởng Cử mời Thái Trạch về nhà ăn ở rồi đưa tặng mấy nén vàng làm lộ phí sang Tần. Quả nhiên, Thái Trạch được vua Tần trọng dụng và thay Thừa tướng Phạm Chuy, phò tác Tần gom thâu thiên hạ.

B. Trường hợp Hoả chế hoá Kim

Cuối thời chiến quốc, sau khi diệt được Tần, Tây Sở Bá Vương Hạng Võ cậy mình sức mạnh, tự cho mình như một vị Hoàng đế, cắt đất, phong hầu cho các bạn đồng minh đã diệt Tần. Các đồng minh của Hạng Võ vì thế yếu phải tự coi như chư hầu của Sở Bá Vương.

Trong các Đồng minh này có Lưu Bang (sau này khai sáng ra nhà Hà) là có thực lựa có thể đối chọi với Hạng Võ, Hạng Võ tìm cách chèn ép, đàn áp Lưu Ba, vì sợ sau này Lưu Bang sẽ cường thịnh trở thành một đối thủ lợi hạn. Nay nhân dịp cắt phong hầu, Hạng Võ cũng biết Lưu Bang là người có công lao nhất trong việc diệt Tần, nhưng nếu cắt mọt nơi ruộng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc mà cho Lưu Bang, thì sau này Lưu Bang sẽ cường thịnh, phong phú, có thể nhân đà ấy quật lại mình thì sao? Do đó, sau khi suy tính kỹ lưỡng, Hạng Võ phong cho Lưu Bac cai trị dất Tây thục là đất xa xôi núi non hiểm trở. Hạng võ yên trí là Lưu Bang sẽ bó tay không làm gì được. Nếu mình sai một tướng tài giỏi trấn thủ nơi hiểm yếu Lưu Bang sẽ bị cô lập, quân đội sẽ tan rã vì bọn lính sẽ bỏ Lưu Bang mà đi vì không ai thích từ bỏ quên hương để đi sốn nơi viễn xứ.

Nhưng Phạm Tăng, một người trí lược, mưu cơ, quân sư của Hạng Võ cho ý định của Hạng Võ là thất sách và nghĩ rằng:

- Lưu Bang dùng toàn mầu đỏ, cờ đỏ, áo đỏ. Như vậy thuộc hành Hoả. Nay được cai trị đất Tây Thục thuộc về hành Kim, Kim gặp Hoả sẽ thành khí nghĩa là các chất Kim khi được gặp lửa thì sẽ chảy ra, rèn đúc được các đồ hữu dụng như cũ khí..v..v..

“Nếu vậy là thả hổ về rừng, trái hẳn với ý nghĩ của Sở Vương, Lưu Bang sẽ trở nên dũng mãnh có thể diệt được Sở”

Quả nhiên đúng như sự phỏng đoán của Phạm Tăng, chỉ vài năm sau, Lưu Bang tiến quân phá tan Tần, bình Tề, Diệt Sở, nhất thống thiên hạ rồi khai sáng ra nhà Hán lưu truyền cơ nghiệp được 400 năm.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành chế hóa

Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Kỷ Mùi 1979 –

Năm sinh : Kỷ Mùi Mệnh : Thiện Thượng Hỏa Cung : Chấn Năm xem : Bính Thân Mệnh : Sơn Hạ Hỏa Niên Mệnh Năm Sinh: Mộc Cung : Nam: Chấn – Nữ: Tốn Luận giải Theo kinh nghiệm dân gian, khi chọn người xông nhà (xông đất) thì nên chọn người có Thiên can, Đị
Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Kỷ Mùi 1979 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm sinh : Kỷ Mùi
Mệnh : Thiện Thượng Hỏa
Cung : Chấn Năm xem : Bính Thân
Mệnh : Sơn Hạ Hỏa
Niên Mệnh Năm Sinh: Mộc
Cung : Nam: Chấn – Nữ: Tốn
Luận giải

a-3945-1387936226

Theo kinh nghiệm dân gian, khi chọn người xông nhà (xông đất) thì nên chọn người có Thiên can, Địa chi, Ngũ hành tương sinh với Gia chủ. Đồng thời Thiên can, Địa chi, Ngũ hành của năm xem cũng cần tương sinh với người đó.

Các tuổi sau phù hợp với tuổi Kỷ Mùi để xông đất đầu năm Bính Thân
Năm 1991 (Tân Mùi – Lộ Bàng Thổ) – 10/12 điểm có 4 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1951 (Tân Mão – Tùng Bách Mộc) – 10/12 điểm có 4 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1976 (Bính Thìn – Sa Trung Thổ) – 9/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1988 (Mậu Thìn – Đại Lâm Mộc) – 9/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1999 (Kỷ Mão – Thành Đầu Thổ) – 9/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1968 (Mậu Thân – Đại Dịch Thổ) – 9/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1981 (Tân Dậu – Thạch Lựu Mộc) – 9/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 2003 (Quý Mùi – Dương Liễu Mộc) – 8/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 2002 (Nhâm Ngọ – Dương Liễu Mộc) – 8/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1990 (Canh Ngọ – Lộ Bàng Thổ) – 8/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1980 (Canh Thân – Thạch Lựu Mộc) – 8/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1947 (Đinh Hợi – Ốc Thượng Thổ) – 8/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1969 (Kỷ Dậu – Đại Dịch Thổ) – 8/12 điểm có 2 yếu tố hợp, 4 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1964 (Giáp Thìn – Phú Đăng Hỏa) – 8/12 điểm có 2 yếu tố hợp, 4 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1959 (Kỷ Hợi – Bình Địa Mộc) – 8/12 điểm có 3 yếu tố hợp, 2 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1998 (Mậu Dần – Thành Đầu Thổ) – 7/12 điểm có 2 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1978 (Mậu Ngọ – Thiện Thượng Hỏa) – 7/12 điểm có 1 yếu tố hợp, 5 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1987 (Đinh Mão – Lộ Trung Hỏa) – 7/12 điểm có 1 yếu tố hợp, 5 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1979 (Kỷ Mùi – Thiện Thượng Hỏa) – 7/12 điểm có 1 yếu tố hợp, 5 yếu tố bình thường và 0 yếu tố khắc.
Năm 1989 (Kỷ Tỵ – Đại Lâm Mộc) – 7/12 điểm có 2 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Năm 1977 (Đinh Tỵ – Sa Trung Thổ) – 7/12 điểm có 2 yếu tố hợp, 3 yếu tố bình thường và 1 yếu tố khắc.
Chi tiết

Xông nhà đầu năm là phong tục lâu đời của người Việt, với quan niệm rằng trong ngày mồng Một tết nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn, hanh thông thì cả năm theo đó cũng được tốt lành, thuận lợi.

Người khách đến thăm nhà đầu tiên vào ngày mồng Một tết vì thế rất quan trọng. Cho nên cứ cuối mỗi năm, mọi gia đình đều tìm trước những người vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành đạt trong Gia đình, họ hàng, làng xóm hay người quen để nhờ sang thăm vào mồng Một tết.

Người xông đất thường phải có Thiên can, Địa chi, Ngũ hành tương sinh với Gia chủ, theo triết học Đông phương thì sẽ giúp tăng tài khí, may mắn cho Gia chủ. Người xông đất nếu hợp với năm nay thì càng tốt. Đã vượng thịnh thì càng giúp Gia chủ thêm vượng thịnh hơn.

Xem Tướng Chấm Net xin trình bày chi tiết như sau:

Tuổi xông nhà 1991 (Tân Mùi – Lộ Bàng Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Lộ Bàng Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Lộ Bàng Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Tân của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Tân với Bính của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Mùi của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Mùi không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 10/12 Rất tốt

Tuổi xông nhà 1951 (Tân Mão – Tùng Bách Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Tùng Bách Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Tùng Bách Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Tân của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Tân với Bính của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Mão của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Mão không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 10/12 Rất tốt

Tuổi xông nhà 1976 (Bính Thìn – Sa Trung Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Sa Trung Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Sa Trung Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Bính không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Thìn của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Thìn Tam hợp với Thân của người xông nhà, rất tốt

-> Tổng điểm : 9/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1988 (Mậu Thìn – Đại Lâm Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Đại Lâm Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Đại Lâm Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Mậu của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Mậu không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Thìn của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Thìn Tam hợp với Thân của người xông nhà, rất tốt

-> Tổng điểm : 9/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1999 (Kỷ Mão – Thành Đầu Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Thành Đầu Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Thành Đầu Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Kỷ của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Kỷ không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Mão của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Mão không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 9/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1968 (Mậu Thân – Đại Dịch Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Đại Dịch Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Đại Dịch Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Mậu của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Mậu không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Thân Tam hợp với Thân của người xông nhà, rất tốt

-> Tổng điểm : 9/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1981 (Tân Dậu – Thạch Lựu Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Thạch Lựu Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Thạch Lựu Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Tân của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Tân với Bính của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Dậu của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Dậu không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 9/12 Tốt

Tuổi xông nhà 2003 (Quý Mùi – Dương Liễu Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Dương Liễu Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Dương Liễu Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ với Quý của người xông nhà, không tốt

– Thiên can người xông nhà Quý không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Mùi của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Mùi không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 2002 (Nhâm Ngọ – Dương Liễu Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Dương Liễu Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Dương Liễu Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Nhâm của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Nhâm với Bính của người xông nhà, không tốt

– Địa chi của bạn Mùi Lục hợp với Ngọ của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Ngọ không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1990 (Canh Ngọ – Lộ Bàng Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Lộ Bàng Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Lộ Bàng Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Canh của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Canh với Bính của người xông nhà, không tốt

– Địa chi của bạn Mùi Lục hợp với Ngọ của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Ngọ không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1980 (Canh Thân – Thạch Lựu Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Thạch Lựu Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Thạch Lựu Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Canh của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Canh với Bính của người xông nhà, không tốt

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Thân Tam hợp với Thân của người xông nhà, rất tốt

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1947 (Đinh Hợi – Ốc Thượng Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Ốc Thượng Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Ốc Thượng Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Đinh của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Đinh không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Hợi của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Hợi Lục hại với Thân của người xông nhà, không tốt

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1969 (Kỷ Dậu – Đại Dịch Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Đại Dịch Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Đại Dịch Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Kỷ của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Kỷ không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Dậu của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Dậu không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1964 (Giáp Thìn – Phú Đăng Hỏa)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa không sinh, không khắc với Phú Đăng Hỏa của người xông nhà, chấp nhận được
– Ngũ hành người xông nhà Phú Đăng Hỏa không sinh, không khắc với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, chấp nhận được

– Thiên can của bạn Kỷ với Giáp của người xông nhà, rất tốt

– Thiên can người xông nhà Giáp không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Thìn của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Thìn Tam hợp với Thân của người xông nhà, rất tốt

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1959 (Kỷ Hợi – Bình Địa Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Bình Địa Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Bình Địa Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Kỷ của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Kỷ không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Hợi của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Hợi Lục hại với Thân của người xông nhà, không tốt

-> Tổng điểm : 8/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1998 (Mậu Dần – Thành Đầu Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Thành Đầu Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Thành Đầu Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Mậu của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Mậu không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Dần của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Dần Tam hình với Thân của người xông nhà, không tốt

-> Tổng điểm : 7/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1978 (Mậu Ngọ – Thiện Thượng Hỏa)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa không sinh, không khắc với Thiện Thượng Hỏa của người xông nhà, chấp nhận được
– Ngũ hành người xông nhà Thiện Thượng Hỏa không sinh, không khắc với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, chấp nhận được

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Mậu của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Mậu không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Lục hợp với Ngọ của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Ngọ không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 7/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1987 (Đinh Mão – Lộ Trung Hỏa)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa không sinh, không khắc với Lộ Trung Hỏa của người xông nhà, chấp nhận được
– Ngũ hành người xông nhà Lộ Trung Hỏa không sinh, không khắc với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, chấp nhận được

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Đinh của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Đinh không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Mão của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Mão không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 7/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1979 (Kỷ Mùi – Thiện Thượng Hỏa)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa không sinh, không khắc với Thiện Thượng Hỏa của người xông nhà, chấp nhận được
– Ngũ hành người xông nhà Thiện Thượng Hỏa không sinh, không khắc với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, chấp nhận được

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Kỷ của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Kỷ không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi Tam hợp với Mùi của người xông nhà, rất tốt

– Địa chi người xông nhà Mùi không sinh, không khắc với Thân của người xông nhà, chấp nhận được

-> Tổng điểm : 7/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1989 (Kỷ Tỵ – Đại Lâm Mộc)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Đại Lâm Mộc của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Đại Lâm Mộc Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Kỷ của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Kỷ không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của bạn Mùi không sinh, không khắc với Tỵ của người xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi người xông nhà Tỵ Tam hình với Thân của người xông nhà, không tốt

-> Tổng điểm : 7/12 Tốt

Tuổi xông nhà 1977 (Đinh Tỵ – Sa Trung Thổ)

– Ngũ hành bạn Thiện Thượng Hỏa Tương sinh với Sa Trung Thổ của người xông nhà, rất tốt
– Ngũ hành người xông nhà Sa Trung Thổ Tương sinh với Sơn Hạ Hỏa của năm nay Bính Thân, rất tốt

– Thiên can của bạn Kỷ không sinh, không khắc với Đinh của người xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can người xông nhà Đinh không sinh, không khắc với Bính của người xông nhà, chấp nhận được


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Kỷ Mùi 1979 –

Mơ thấy chó –

Chó là một loài thú cưng được nuôi trong các gia đình. Ẩn số của giấc mơ về loài chó đáng yêu này được giải mã như thế nào? Hãy thử khám phá nhé! Mơ thấy chó thường là điềm tốt, biểu thị rằng ta có những người bạn tri kỉ và sẽ gặp may mắn. - Nếu chú
Mơ thấy chó –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chó –

Những câu răn dạy của phật về triết lý cuộc sống

Những câu răn dạy của phật về triết lý cuộc sống. Cùng tham khảo và rút ra những suy ngẫm cho mình từ những câu răn dạy của Phật về triết lý cuộc sống
Những câu răn dạy của phật về triết lý cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu răn dạy của phật về triết lý cuộc sống. Cùng tham khảo và rút ra những suy ngẫm cho mình từ những câu răn dạy của Phật về triết lý cuộc sống mà chúng tôi tổng hợp được sau đây nhé. Những câu nói răn dạy của Phật về triết lý cuộc sống là những câu nói hay chứa đầy triết lý.

Bạn đã bao giờ được nghe những bài giảng Phật giáo được các sư thầy giảng tại nhà chùa chưa? Những bài giảng chứa đựng những triết lý sống, đạo làm người, đạo sống ở đời như thế nào…Hãy rút ra cho mình những chân lý cuộc sống tù những câu răn dạy của Phật nhé bạn.

Những câu răn dạy của phật về triết lý cuộc sống

1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.

———

2. Nếu anh không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho bạn. Vì chính tâm bạn không buông xuống nổi.

——–

3. Bạn hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.

——-

4. Bạn phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn, bạn phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.

5. Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.

7. Bạn có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.

8. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định bạn sẽ ân hận.

9. Khi nào bạn thật sự buông xuống thì lúc ấy bạn sẽ hết phiền não.

10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.

11. Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác.

12. Bạn đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, bạn phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính bạn.

13. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản.

14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.

15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin bạn “Đa khẩu hạ lưu tình”.

16. Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa bạn là ai? Giả sử bạn bị chó điên cắn bạn một phát, chẳng lẽ bạn cũng phải chạy đến cắn lại một phát?

17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người bạn không hề yêu thích.

18. Mong bạn đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.

19. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao bạn lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao bạn phải chứa đầy những não phiền như vậy?

20. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì bạn hiểu nó quá ít, bạn không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi bạn hiểu sâu sắc, bạn sẽ phát hiện nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của bạn.

21. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân.

22. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình, bạn hiểu chứ?

23. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với mình.

24. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt.

25. Tình chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp bạn mới được tự tại.

26. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.

27. Khi bạn thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối bạn.

28. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.

29. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình.

30. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu bạn không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình.

31. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không.

32. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.

33. Người không tắm rửa thì càng xức nước hoa càng thấy thối. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm.

34. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của bạn đi.

35. Bạn cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế bạn sẽ rất đau khổ.

36. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa.

37. Nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy?

38. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.

39. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào.

40. Im lặng là một câu trả lời hay nhất cho sự phỉ báng.

41. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.

42. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.

43. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên bạn cần phải “Tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”.

44. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính bạn.

45. Chỉ cần đối diện với hiện thực, bạn mới vượt qua hiện thực.

46. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, bạn dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình.

47. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.

48. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?

49. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của bạn, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác.

50. Cảm ơn đời với những gì tôi đã có, cảm ơn đời những gì tôi không có.

51. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.

52. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn.

53. Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.

54. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.

55. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.

56. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng nó lại gạt bạn suốt đời.

57. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình.

58. Khi trong tay bạn nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì bạn chỉ có mỗi thứ này, nếu bạn chịu buông xuống, thì bạn mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.

59. Nếu bạn có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan.

60. Bạn có nhân sinh quan của bạn, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới bạn. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được bạn. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu.

61. Bạn hy vọng nắm được sự vĩnh hằng thì bạn cần phải khống chế hiện tại.

62. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Bạn càng nguyền rủa họ, tâm bạn càng bị nhiễm ô, bạn hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của bạn.

63. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh.

64. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.

65. Thế giới vốn không thuộc về bạn, vì thế bạn không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.

66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu răn dạy của phật về triết lý cuộc sống

Khám phá tính cách Xử Nữ với ưu, khuyết điểm đặc trưng

Chia sẻ ưu điểm và khuyết điểm của chòm sao Xử Nữ một cách đầy đủ nhất đây!
Khám phá tính cách Xử Nữ với ưu, khuyết điểm đặc trưng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


5 uu, 5 khuyet chuan khong can chinh cua Xu Nu hinh anh
 
Ưu điểm của Xử Nữ

1. Thực tế, chính xác, tỉ mỉ, chòm sao Xử Nữ không bao giờ có mơ ước viển vông, không bao giờ hành động thiếu kiểm soát.
 
2. Thận trọng, có trách nhiệm, trình tự, hiệu quả cao, là chỗ dựa đáng tin cậy.
 
3. Khiêm tốn, có năng lực thực tiễn, nói ít làm nhiều, hăng hái cần cù, người cung Xử Nữ đã nhận làm gì thì làm cho kì được, đến nơi đến chốn, nhất định không bỏ dở.
 
4. Có tinh thần cống hiến với công việc chung, khả năng tổ chức tốt.
 
5. Ôn hòa, nhã nhặn, thiện lương, nhạy cảm, biết cảm thông, là chòm sao tốt bụng bậc nhất vòng tròn hoàng đạo. Xử Nữ thường xuyên làm việc thiện, giúp đỡ người khác mà không mong hòng báo đáp.
 
Nhược điểm của Xử Nữ

1. Đam mê hoàn hảo, lo lắng thái quá, yêu cầu cao bất bình thường, hay xét nét.
 
2. Tầm nhìn hạn hẹp, tâm địa hẹp hòi, không có ý chí cao rộng, hay nhận xét phiến diện và thích thu lợi về mình.
 
3. Cổ hủ, máy móc, giáo điều, khó chấp nhận cái mới, cái tiến bộ khiến chòm sao Xử Nữ thường bị chỉ trích.
 
4. Nói nhiều, lải nhải không ngớt, chuyện bé xé ra to, hay rao giảng cho người khác.
 
5. Quan trọng hóa vấn đề, câu nệ tiểu tiết, kém hòa đồng, hoài nghi, quỵ lụy cũng là tính xấu khó bỏ của Xử Nữ.

► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất

Ngọc Bích (Theo Horoscopecompatibility)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá tính cách Xử Nữ với ưu, khuyết điểm đặc trưng

Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung

Vua Quang Trung rất coi trọng việc chọn đất cát tường để lập kinh đô mới nên đã nhiều lần tha thiết nhờ đến cụ La Sơn phu tử Nguyễn Thiế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vua Quang Trung rất coi trọng việc chọn đất cát tường để lập kinh đô mới nên đã nhiều lần tha thiết nhờ đến cụ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ giỏi về dịch lý phong thủy đương thời tìm kiếm thế đất tốt tại Nghệ An.

Lần đầu vào tháng 4 năm Mậu Thân 1788, khi Nguyễn Huệ kéo kỵ binh thần tốc ra Bắc để trừng phạt Vũ Văn Nhậm, đã dừng quân để nhờ La Sơn phu tử “giúp coi địa lý để định lập đô ở đất quê quán mình là xứ Nghệ An”.
Nhưng một tháng sau, khi xong việc, Nguyễn Huệ từ Thăng Long quay về vẫn chưa thấy La Sơn phu tử xem đất cho, nên Nguyễn Huệ đã tự tay viết một bức thư bằng mực son tàu, trách: “Trước đây đã nhờ Phu tử về Nghệ An để coi đất đóng đô, sao tới nay ta quay về thấy việc đó chưa làm?

phongthuy-quang-trung

Vì thế ta phải thẳng về Phú Xuân để binh sĩ dưỡng sức và viết chiếu này ban xuống để Phu tử hãy cùng với quan trấn thủ Thận bàn bạc, xem xét đất đai để đóng đô tại Phù Thạch (trên bờ sông Lam, dưới chân núi Nghĩa Liệt). Hành cung hãy dựng dựa lưng vào sát núi. Cuộc đất được chọn tùy nơi Phu tử dùng con mắt tinh tường mà sớm định. Hãy mau mau chọn gấp, giao cho trấn thủ Thận xây dựng cung điện thật nhanh sao cho trong vòng 3 tháng phải xong”. Nhận thư, La Sơn phu tử viện dẫn địa thế ở Phù Thạch vừa hẹp, vừa không hợp phong thủy.

Nguyễn Huệ lại có chiếu gởi trả lời đại ý tiếp nhận những ý kiến của La Sơn phu tử, không lấy Phù Thạch làm đất đóng đô nữa, nhưng vẫn giữ ý định dứt khoát chọn đặt kinh đô tại Nghệ An và nhờ La Sơn phu tử chọn đất khác:
“Nay kinh thành Phú Xuân địa thế cách trở, lại ở xa Bắc Hà nên rất khó xử lý công việc. Chính vì thế, các đình thần có quyết nghị rằng đóng đô ở Nghệ An thì sẽ khống chế được thế lực trong Nam ngoài Bắc, vả lại người trong bốn phương có việc gì cần kíp kêu kiện cũng tiện việc đi lại (…) nhiều lần ta đã nhờ tiên sinh xem đất tìm những chỗ núi non kết phát ở đất Nghệ An mà tiên sinh đã từng chú tâm xem xét địa thế. Nhưng lâu nay vẫn chưa thấy trả lời (…) ta đã từng mở xem địa đồ hình thế vùng Nghệ An thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, đất đai rộng rãi, thông thoáng, khí sắc tươi nhuần, xem ra có thể chọn làm nơi xây kinh đô mới(…) tiên sinh gắng suy nghĩ giúp cho việc ấy”.
Đó là chiếu ngày 3.9 năm Mậu Thân 1788, tỏ rõ mong muốn được La Sơn phu tử coi đất lập đô, nhưng La Sơn phu tử vẫn tìm cách trì hoãn. Đó là lần thứ hai La Sơn phu tử ngầm ý từ chối cuộc đất mà Nguyễn Huệ đề nghị xây kinh đô.

Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung

Nhưng đến lần thứ ba, thì La Sơn phu tử đồng ý với địa điểm mới là Phượng Hoàng: “Ngày nay, khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo, còn thấy dấu tích một thành cũ hình gần tam giác. Dấu thành và hào đương còn rõ, nhất là trong bức ảnh chụp từ cao. Cửa tiền ở phía Nam. Núi Mèo (núi Kỳ Lân) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt Đông Bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành.
Ở giữa thành, còn dấu thành trong và nền nhà. Nhấtlà có nền cao ba bậc ở phần Bắc, mà ngày sau đời Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung, ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An. Tuy gọi là Trung Đô, nhưng thành Phượng Hoàng nhỏ, thành Nam chỉ dài chừng 300 mét, bức thành Tây dài 450 mét, và cái nền cao thì ngang dọc cũng chỉ có chừng 20 mét mà thôi. Ấy vì Quang Trung mất sớm, chưa kịp đổi hành cung ra cung điện. Về sau kinh đô của Quang Toản vẫn ở Phú Xuân”.

Những trích dẫn trên đây nằm trong cuốn sách giá trị: La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp của GS. Hoàng Xuân Hãn với lời tóm lược về ba lần chọn chỗ đóng đô: Lần đầu ở núi Lam Thành Sơn, lần thứ hai ở Yên Trường (cách Lam Thành Sơn chừng mười cây số ở phía Bắc), lần thứ ba ở Dũng Quyết (cách Yên Trường chừng hai cây số ở phía Đông Nam và cách Lam Thành Sơn chừng tám cây số).

Cuối năm 2011 hội thảo về Phượng Hoàng trung đô mở tại thành phố Vinh (Nghệ An), nhà khảo cổ học và nghiên cứu phong thủy lão thành Đỗ Đình Truật được mời từ TP. HCM ra Vinh để tham dự và ông đã viết một tham luận đề cập đến phong thủy của Phượng Hoàng trung đô trích dưới đây:

“Thị trấn Thanh Nghệ xưa kia chỉ là một cuộc đất từ sông Mã chạy xuống Nam đến hết sông Lam, là cuộc đất rất thịnh dễ sinh ra những vị anh hùng cho đất nước. Căn cứ vào tấu thư của Cao Biền đời Đường và “Hoàng Phúc cố chuyện” của thời Minh thì hai nhân vật này tuy sống ở thời đại khác nhau nhưng cùng chung một ý đồ đi yểm trời đất sông núi Việt Nam. May thay Lê Lợi đã bắt được tướng Hoàng Phúc, thấy trong hành trang của Hoàng Phúc có cả bản đồ của đất Nghệ Tĩnh và tài liệu về việc Hoàng Phúc đã dựng 5 ngọn cờ ở đất Hà Tĩnh cách núi Quyết độ 10km để yểm trừ vùng đất thiêng này – gọi là “cờ 5 yểm”.

Và Hoàng Phúc dự kiến đến khoảng thiên niên kỷ III thì vùng này sẽ là trung tâm chống Bắc Triều. Nguyễn Thiếp giỏi về dịch học và khoa phong thủy đã dày công đọc hết những tài liệu đó và đi thăm dò thực hư. Quả nhiên là Tổ Sơn của vùng này xuất phát từ (khe Bò Đái) nằm trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh sơn và được mạch khí chạy lòng vòng xuống núi Quyết rồi quay lại về Tổ Sơn; làm cho núi Quyết trở thành âm phù dương trợ, quần phong tụ khí, nên vô cùng đắc địa. Do đó mới có tên là núi Phượng Hoàng, vì ta đứng bên dòng sông Lam quay mặt ra bể thì ta thấy bên tả Thanh Long: là con Rồng Xanh (sông Lam), bên hữu là Bạch Hổ (có dãy núi của Hà Tĩnh) cũng đưa khí về núi Quyết. Còn ở mặt trước phía Đông núi Quyết là Chu Tước – vật báo hiệu Minh Đường rất phát triển và phía sau là Huyền Vũ (sao của người giữ nhà, giữ cửa, giữ nước) làm hậu phương.

tuong-dai-quang-trung

Sau khi có chiếu chỉ của vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp đã đi rà soát lại thì thấy Phượng Hoàng trung đô là nơi đắc địa hiếm có trong trời đất. Điểm này ông hoàn toàn nhất trí với tướng Hoàng Phúc (nhà Minh bạo tàn). Vì vậy ông và Trần Quang Diệu quyết tâm để lăng mộ của chủ tướng mình ở đây là hợp lý và việc xây cất trở thành việc làm vô cùng bí mật. Đứng bên ngoài mà nhìn là việc xây thành đắp lũy, bên trong thì ngấm ngầm làm việc trọng đại ấy. Tôi cũng đi rà soát lại lần nữa với hai đồng nghiệp là nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện Đức và nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tâm thì thấy Nguyễn Thiếp miêu tả cảnh quan phong thủy của cuộc đất Phượng Hoàng như thế là rất đúng, nên đều nhất trí là di mộ của vua Quang Trung có khả năng để ở đây”.

Qua phân tích và nhận định của GS. Hoàng Xuân Hãn, cụ Đỗ Đình Truật và các tài liệu lịch sử khác như: Đại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí cho chúng ta biết Phượng Hoàng trung đô đã được bắt tay xây dựng ở khoảng giữa núi Mèo và núi Quyết với lầu gác ba tầng có bố trí đồn binh bảo vệ vòng quanh đó. Xa xa về phía núi có kho lúa dự trữ. Dấu tích của thành và các đường hào đến thế kỷ 20 vẫn còn khá rõ.
Các nhà nghiên cứu kết luận địa thế của thành rất dễ giữ, vì phía trước có con Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết, vốn là hào và thành thiên nhiên kề cận để che chắn bảo bọc. Tiếc rằng vua Quang Trung mất sớm nên việc xây dựng cung điện nguy nga để định đô ở Nghệ An chưa kịp hoàn thành. Vậy là, cuộc đất tuy đại lợi về mặt phong thủy nhưng giống như con phượng hoàng đang bất ngờ lâm bệnh nên không đủ sức khỏe để cất cánh bay cao khỏi số mệnh nghiệt ngã của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung

Giải mã giấc mơ về giới tính thai nhi

Giấc mơ của người phụ nữ khi đang mang bầu có thể là điềm báo cho biết về giới tính của thai nhi. Dưới đây là một số lời giải mã về một số giấc mơ của bà bầu để sinh con theo ý muốn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những giấc mơ mang điềm báo sinh con trai

Nếu bà bầu mơ thấy những quả tròn, căng mọng nước như ớt chín, mơ thấy cả một cách đồng ớt hay hoa cúc, củ khoai lang đỏ và số lượng các quả là số lẻ thì đây là điềm báo bạn sẽ sinh ra một quý tử.

Những giấc mơ mang điểm báo về sinh con trai

Nếu mơ thấy đầu rồng, hẳn bạn sẽ sinh được một cậu con trai khôi ngô tuấn tú.

Nếu mơ thấy mình ngôi trên lưng con hổ hay bị một con hổ cắn đến mức chảy máu, hay con hổ ngã vào lòng bạn, hẳn là bạn sẽ sinh ra một bé trai mạnh khỏe.

Nếu mơ thấy được cầm châu báu hay một chiếc nhẫn lớn trong tay, với số châu báu là số lẻ thì điềm báo bé trai trong bụng bạn tương lai sẽ là một người nổi tiếng.

Nếu bạn mơ thấy một con trăn lớn hay bị nó quấn quanh người là điềm báo bạn sắp sinh con trai.

Nếu mơ thấy lợn, những chú hươu đã có sừng hay những chú bò khỏe mạnh có sừng thì chúc mừng bạn, đây là bà mụ báo tin bạn đang mang một cậu bé trong mình.

Nếu bạn mơ thấy bị một con lợn rừng đuổi theo thì tương lai của bé trai này sẽ là một nhân vật nổi tiếng.

Nếu bạn mơ thấy mình đang cướĩ trên lưng một chú ngựa đen trên thảo nguyên rộng lớn hoặc thấy một chú ngựa hoang đang chạy thì tương lại bé trai bạn đang mang sẽ trở thành một quý nhân.

Nếu mơ thấy mặt trời hoặc mặt biển đang cuồn cuộn sóng tức là điềm báo bé trai sắp chào đời.

Những giấc mơ mang điềm báo sinh con gái

Bạn mơ thấy những quả căng mọng, là số chẵn hoặc ớt xanh, hay hoa mai, hoa đào, củ khoai lang trắng là điềm báo bạn sẽ mang con trai. Nếu những quả này căng mọng, mướt mắt và không vị sâu bọ thì cuộc sống của bạn và con sau này sẽ luôn tốt đẹp, may mắn.

Nếu bạn ngủ mơ thấy đuôi rồng thì sẽ sinh ra một bé gái dễ thương.

Những giấc mơ mang điểm báo về sinh con gái

Nếu mơ thấy hổ đến nhà hoặc bạn đang bế con hổ thì có thể bạn đang mang thai một bé gái.

Trong giấc mơ, nếu bạn thấy cầm nhiều vàng bạc, châu báu trên tay, hoặc rất nhiều chiếc nhẫn mà chúng là số chẵn thì chắc chắn bạn sẽ sinh con gái.

Nếu mơ thấy con rắn hoặc con trăn lớn bò ra khỏi nhà thì có thể bạn đang mang một bé gái đáng yêu.

Nếu mơ thấy lợn trắng, ngựa trắng, chú nai, hay những chú bò không có sừng hoặc hai chú bò đỏ thì  ngụ ý rằng thai nhi của bạn là con gái.

Nếu mơ thấy mặt trăng, hoặc cảnh mặt trời hóa mặt trăng, hay mặt biển êm dịu không gợn sóng thì điềm báo bạn đang mang một bé gái xinh xắn.

Vậy ngày nào là ngày tốt, ngày hoàng đạo để sinh con, hay bạn muốn gieo quẻ để cầu xin một điền gì đó thì phải làm như thế nào, tất cả bạn đều có thể tham khảo tại phongthuyso.vn

Ngoài ra, cũng có một số giấc mơ mang điềm báo mà cả vợ và chồng có thể gặp phải như:

Mơ thấy ăn hạt bí, các loại hạt, đậu,.. nếu có thai thì sắp sinh con quý tử, nếu không có thai thì sẽ gặp may mắn về đường con cái.

Chiêm bao mơ thấy trồng bầu lag điềm cấn thai, nếu chồng mơ thấy thì sắp có chuyện ghen tuộng trong gia đình. Thấy bầu trên giàn là có người ngoại tình trong nhà. Thấy ăn bầu luộc hay nấu canh là gia đình sắp có hung tin. Thấy người mang bầu là điềm hạnh phúc.

Nếu chồng mơ thấy có người dắt tay lên cầu là điềm báo vợ sắp có thai, nếu cầu mới hoàn thành là tiền bạc vô như nước.

Nếu mơ thấy vợ chồng chải đầu cho nhau hoặc chim én bay vào nhà, hoặc thấy lá đâm chồi nảy lộc là vợ sắp cấn thai

Mơ thấy nôn mửa là điềm báo có thai nhưng là con riêng, chồng mơ thấy bị mất quần thì vợ có thai là tiểu sản hoặc chồng có bệnh.

Tuy hiện nay, y học phát triển có thể chuẩn đoán giới tính thai nhi là con trai hay con gái. Nhưng những điềm báo, những giấc mơ của bà bầu cũng là một điều đáng quan tâm. Bởi nó không chỉ là một giấc mơ, đó là một điềm báo về tương lai của thai nhi trong bụng mẹ.

Xem thêm, xem bói tên để biết được tên của con bạn dự định chọn là tốt nhất hay chưa?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ về giới tính thai nhi

10 điều nên nhớ khi yêu Song Tử

Điều nên nhớ khi yêu Song Tử đó là họ chỉ yêu chân thành người phù hợp với mình. Vì thế người chậm chạp, nhàm chán không phù hợp với Song Tử.
10 điều nên nhớ khi yêu Song Tử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điều nên nhớ khi yêu Song Tử đó là họ chỉ yêu chân thành người phù hợp với mình. Vì thế nếu bạn là người chậm chạp, nhàm chán, không thích thử thách sẽ hoàn toàn không phải là đối tượng mà họ sẽ chung sống suốt đời.

Bạn đã bao giờ có cảm giác hẹn họ với một ai đó mà trong họ tồn tại hai con người khác biệt nhau? Điều đó không điên rồ một chút nào. Bạn sẽ có thể có những cảm nhận đặc biệt này khi yêu một người thú vị thuộc cung Song Tử. 
  Song Tử khó yêu nhưng một khi yêu thật lòng sẽ hết mình. Cá tính của họ là tò mò, dỉ dỏm và sáng tạo nên bạn có cảm giác không ngừng bị con người này cuốn hút.   1. Song Tử là những người đam mê nhất trong các cung hoàng đạo. Điều nên nhớ khi yêu Song Tử là hãy chuẩn bị cho cuộc sống như một vở nhạc kịch có lúc thăng, lúc trầm. Những điều thú vị liên tục diễn ra giữa cuộc sống của hai người nên bạn luôn sẵn sàng trong tư thế đón nhận.

Khi yêu họ chân thành nhưng không tránh được việc họ tán tỉnh thêm những người khác vì sở thích của họ là muốn người khác chú ý, mình là người nổi bật trong các sự kiện. Nếu bạn là người hay ghen tuông thì chắc chắn sẽ hoàn toàn không phù hợp với Song Tử.
  2. Họ có thể đặt rất nhiều câu hỏi trong ngày đầu tiên hẹn hò khiến bạn có cảm giác như là một cuộc phỏng vấn chỉ vì họ là người rất trí tuệ, thích tranh luận và làm chủ trong các cuộc đàm thoại. Một nửa của Song Tử phải hiểu rằng tranh luận chỉ là tranh luận chứ không phải cãi cọ. Họ muốn được chia sẻ và hiểu nhau hơn.
 
 

10 dieu nen nho khi yeu Song Tu hinh anh
 
3. Điều nên nhớ khi yêu Song Tử là hãy luôn khuyến khích họ được thể hiện khả năng nghệ thuật của mình trong việc viết lách, vẽ, hoặc nấu ăn. Họ rất thích khi biết rằng bạn ủng hộ sự sáng tạo nội tại của mình, và sẽ hạnh phúc hơn khi có nơi để được thể hiện sự đặc biệt của bản thân.   4. Song Tử rất thích bày tỏ tình cảm nên bạn sẽ không cần mất công nghĩ ngợi xem đối phương đang nghĩ gì về mình. Nếu yêu bạn, họ sẽ cho bạn biết. Nếu họ muốn một cái gì đó, họ sẽ sẽ nói ra. Đừng lãng phí thời gian chỉ để tự hỏi liệu họ có đang giữ bí mật gì không. Câu trả lời là không vì họ là người rõ ràng và thẳng thắn.   5. Song Tử là những người rất tò mò. Họ sẽ muốn biết mọi thứ đang diễn ra trong đầu bạn khi nói chuyện với họ. Đừng cho rằng việc này là biểu hiện của người độc đoán hay ghen tuông, họ chỉ đang cố hiểu tất cả mọi thứ, đặc biệt là những người gần gũi nhất với Song Tử.  
10 dieu nen nho khi yeu Song Tu hinh anh 2
 
6. Ngày tốt nhất để hẹn hò với Song Tử là ngày đẹp trời, hai người cùng tham gia lễ hội ngoài trời, công viên giải trí, hoặc đi nghe một chương trình hài kịch. Hãy thoải mái thể hiện bản thân kể cả sự ngớ ngẩn của bạn vì Song Tử không thích người quá giữ kẽ.   7. Cuộc sống của Song Tử hoàn toàn vì người khác. Song Tử có những mối quan hệ xã giao và bạn bè của họ ở khắp mọi nơi. Những bữa tiệc, chuyến đi chơi xa với bạn bè là cách lý tưởng của họ tận hưởng cuộc sống. Nếu bạn hay hoài nghi và ghen tuông thì không nên kết đôi với họ.

Bạn có thể tham khảo thêm: 5 thế mạnh khiến Song Tử tự hào về bản thân
  8. Điều giết chết Song Tử đó là sự nhàm chán. Nếu bạn có một trong những tính cách sau thì tốt nhất đừng nên cưa cẩm Song Tử: chậm chạp, không có chí tiến thủ, dễ bị lay động bởi ý kiến của người khác.   9. Điều nên nhớ khi yêu Song Tử đó là họ sẽ lên kế hoạch cho mọi việc nhưng không ai có thể tránh được sự sai sót và Song Tử cũng vậy. Đừng vì họ không làm được như kế hoạch mà trách mắng hay hờn giận. Hãy học cách chấp nhận họ nếu không bạn sẽ phải đi tìm người khác.   10. Song Tử luôn nỗ lực để có được thành tích cao. Vì thế, họ thường tự tạo động lực cho mình nhiều hơn so với người bình thường. Họ muốn đạt được điều gì sẽ nỗ lực hết mình để đạt được điều đó. Vì vậy, họ sẽ muốn hẹn hò với một ai đó cũng có tham vọng tương tự và luôn tạo cho họ cảm giác hối thúc luôn muốn phấn đấu.
 
  Bạn có thể xem thêm: Đi tìm một nửa ăn ý cho cô nàng Song Tử.
 
  HaTra Cung Song Tử hợp màu gì để tiền đầy túi tình đầy tim? Cung Song Tử hợp với cung nào trong 12 cung hoàng đạo?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 điều nên nhớ khi yêu Song Tử

Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

3 chòm sao sống ảo thích yêu qua mạng thường xuyên tìm kiếm nhân duyên cho mình giữa biển người mênh mông mà không cần mất công đi lại, gặp gỡ nhiều.
Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời đại công nghệ thông tin, mọi người đều sử dụng internet như một công cụ giao tiếp hữu dụng. Đặc biệt, 3 chòm sao sống ảo thích yêu qua mạng dưới đây thường xuyên tìm kiếm nhân duyên cho mình giữa biển người mênh mông mà không cần mất công đi lại, gặp gỡ nhiều.


► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

Diem danh 3 chom sao song ao, thich yeu qua mang hinh anh
 

Cự Giải: thích vòng vo

  Cự Giải khuyết thiếu cảm giác an toàn, ngại ngần khi phải đối diện với người lạ. Vì thế, họ là chòm sao sống ảo, thông qua những cuộc nói chuyện gián tiếp mà có thể thấu hiểu nhau, có tình cảm với nhau. Cự Giải cảm thấy yên tâm hơn, cũng tự tin hơn vì đối phương chưa biết mình là ai, nếu có vấn đề gì cũng không tổn thương quá lớn.   Cự Giải nguyện dùng cách hiện đại nhất nhưng cũng ngốc nghếch nhất để rút ngắn khoảng cách với đối phương. Trước hết, giao tiếp qua mạng, dần dần quen thuộc rồi có thể tiến xa hơn, gặp gỡ ngoài đời thật. Tuy hơi vòng vo một chút nhưng đó là cách Cự Giải bảo vệ bản thân.  

Kim Ngưu: thích ve vãn

  Chòm sao Kim Ngưu cực kì kiên trì, biết rằng chuyện gì cũng phải từ từ mới đạt kết quả tốt, không thể nóng vội được. Nồng nhiệt và nhanh gọn không phải phong cách yêu đương của Kim Ngưu, nên cho nhau khoảng thời gian tìm hiểu, tán tỉnh thật lâu để chắc chắn đã.   Vì thế, chòm sao sống ảo này thường không ngay lập tức muốn gặp gỡ đối phương mà chủ động kéo dài cuộc tán gẫu qua mạng, ve vãn đối phương, phô bày điểm tốt của mình cho người kia thấy, coi như là bước đệm cho sự tiến triển sau này.
Diem danh 3 chom sao song ao, thich yeu qua mang hinh anh
 

Xử Nữ: thích mơ hồ

  Xử Nữ là chòm sao thích sự mơ hồ, ám muội, mà khoảng cách chính là điều kiện tốt nhất để sinh ra sự mờ ám. Xử Nữ xoi mói như thế, đến soi gương nhận xét chính mình còn không thấy hài lòng thì có thể vừa mắt ai cơ chứ. Vì thế, tốt nhất là quen biết và tìm hiểu nhau qua mạng, tránh để lộ nhiều thông tin cá nhân, gây phiền phức sau này.   Đây là một cách để Xử Nữ bảo vệ an toàn cho chính mình trước người không quen biết. Cứ tìm hiểu nhau qua các câu chuyện trước, nếu tạo dựng được lòng tin thì mới có thể tiến tới gặp gỡ và phát triển. Nên chòm sao sống ảo này không ngần ngại làm quen, kết bạn, trò chuyện với nhiều người qua internet nhưng ít khi để lộ thân phận lắm.
Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Học 3 chòm sao mạnh mẽ cách trút bỏ áp lực công việc Xác định đối thủ của 12 chòm sao ở nơi công sở
Trần Hồng  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

Giải mã giấc mơ thấy người lạ –

Chắc hẳn ai cũng từng trải qua những giấc mơ khi ngủ, có bao giờ bạn nằm mơ thấy người lạ chưa? Bạn đưa ra thắc mắc tại sao mình lại nằm mơ thấy một người mà chưa bao giờ quên biết chưa? Vậy mơ thấy người lạ là điềm gì? Nhiều đêm nằm mơ thấy liên tiế
Giải mã giấc mơ thấy người lạ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy người lạ –

Xem tử vi tháng Hai người tuổi Sửu

Xem tử vi tháng Hai cho thấy, người tuổi Sửu có vận trình không được lý tưởng ở tháng Tân Mão.
Xem tử vi tháng Hai người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Xem tử vi tháng Hai cho thấy, người tuổi Sửu có vận trình không được lý tưởng ở tháng Tân Mão. Mặc dù bản mệnh sẽ không gặp sóng gió vất vả nhưng lại bị Hao Tài cục uy hiếp.


Xem tu vi thang Hai nguoi tuoi Suu hinh anh goc
 
Tiết xuân phơi phới, Nguyệt Lệnh phát triển mạnh mẽ, trong đó Sửu Mão đều thuộc âm tính căn khí phát triển. Đồng thời được tiết xuân mát mẻ hỗ trợ, bản mệnh Sửu nên nắm chắc thời cơ của mình. Trong công việc cần mạnh dạn thể hiện bản thân, đừng ngại khó ngại khổ, cơ hội chỉ có một lần trong tháng này mà thôi.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Vận trình tình cảm được quý nhân ứng hợp nên có nhiều khởi sắc. Tuổi trẻ đang trong thời kì phát triển, nên bổ sung nhiều chất dinh dưỡng cho xương cốt sẽ có lợi cho sức khỏe, đảm bảo sự nghiệp, chuyện học hành hanh thông.

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Sửu có vận trình không được lý tưởng trong tháng Tân Mão. Mặc dù bản mệnh sẽ không gặp sóng gió vất vả nhưng lại bị Hao Tài cục uy hiếp. Công việc, quan hệ xã giao gặp tiểu nhân chắn đường, thêm họa lừa gạt, nên đề cao cảnh giác. Vong Thần ảnh hưởng nên mặt sức khỏe cũng dễ bị ngũ hành Kim gây tổn thương hoặc đi xe cộ phải chú ý an toàn. Tránh uống rượu rồi lái xe, vượt đèn đỏ, đi ngược chiều…

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai nguoi tuoi Suu hinh anh goc 2
 
SỰ NGHIỆP


Quan Lộc tinh xuất hiện nên mặt sự nghiệp có nhiều trợ lực. Trong công việc, bạn dễ có được sự đồng ý từ đồng nghiệp hoặc lãnh đạo. Nếu chăm chỉ, nỗ lực hơn thì thành tính đạt được sẽ vô cùng lớn.

Nhìn chung, căn gốc công việc của bản mệnh vững vàng nên cuối tháng thu nhập sẽ vô cùng phong phú. Chỉ cần bạn chủ động, kiểm soát tốt tình trạng công việc của mình, tránh việc bỏ sót tiểu tiết mà hỏng việc lớn. Đồng thời, hãy chú ý động thái mới trong môi trường làm việc, chăm sóc các mối quan hệ xã giao phức tạp trong công ty.

TÀI LỘC

Vận tài lộc đi xuống nên cần tránh dùng tiền vô độ hay cho người khác vay mượn. Người làm ăn phải xem xét kỹ hợp đồng, nội dung điều khoản. Trong tháng sẽ xuất hiện nạn cướp bóc hoặc rơi tiền khiến cả tháng lao động thành con số không. Tháng này bạn sẽ phải lao động vất vả thì mới đạt được kết quả mong muốn. Người làm ăn có bước tiến mới trong công việc như đơn hàng mới, quan hệ khách hàng mới... đem lại nguồn thu nhập khả quan. Tuy vậy, bạn nên chú ý tới việc tổn thất bất ngờ như tiền dùng cho các mối quan hệ xã giao, dùng cho giáo dục con cái…

Xem tu vi thang Hai nguoi tuoi Suu hinh anh
 
TÌNH CẢM


Tử vi tháng Hai cho thấy, chuyện tình cảm khởi sắc, người độc thân có tỉ lệ gặp tình yêu sét đánh rất cao. Nếu bạn gặp được đối tượng vừa ý, hãy mạnh dạn “bật đèn xanh” cho họ, khi đôi bên chế ngự được lý trí mạnh mẽ thì cơ duyên kỳ ngộ xe xuất hiện. Người đã kết hôn nên tranh thủ thời gian cuối tuần để quan tâm tới những người thân yêu, gắn kết gia đình. Nên kiềm chế những cảm xúc lạ lùng hoặc sự lay động trong trái tim bạn, khả năng bắt cá hai tay sẽ xảy ra nếu bạn không biết trân trọng hiện thực.

SỨC KHỎE

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Sửu thấy mặt sức khỏe, do ngũ hành địa chi tương khắc nên sức khỏe người gia trong nhà không được lạc quan. Nếu trong nhà có người mắc bệnh đã lâu, sẽ rất khó hồi phục, cần chuẩn bị tinh thần đón nhận mọi khả năng có thể xảy ra. Công việc bận rộn dễ khiến bạn bị đau đầu, mệt mỏi, cần nghỉ ngơi điều độ. Nên tránh việc đi xa hoặc đi ra ngoài buổi tối một mình. Đặc biệt những người thường xuyên làm việc trí óc, áp lực công việc căng thẳng sẽ khiến bạn mệt mỏi triền miên. Hãy chủ động điều tiết bữa ăn của bản thân, đề phòng các bệnh về đường ruột hoặc tiêu hóa kém, nữ thì chú ý bệnh phụ khoa.

Nhìn chung, vận trình của người tuổi Sửu trong tháng Tân Mão có bước phát triển ổn định. Sự nghiệp đón chào Quan Lộc cát tinh nên tiềm lực phát triển khả quan, chỉ cần chăm chỉ “mài sắt” tất có ngày “nên kim”. Chuyện tình cảm xuất hiện nhiều cơ duyên kỳ lạ, người độc thân thì phấn khởi, người đã kết hôn lại phải đề phòng. Mặt sức khỏe cần lưu ý nghỉ ngơi làm việc điều độ, tránh độc hành là ổn.

Xem tu vi thang Hai nguoi tuoi Suu hinh anh goc 3
 

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai người tuổi Sửu

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tướng lòng bàn tay nói gì về bạn? –

Lòng bàn tay màu hồng, bạn sẽ gặt hái được nhiều thành công. Còn nếu màu trắng sáng là tướng người giàu sang. Củ thể như thế nào hãy đọc bài viết sau để biết tướng lòng bàn tay của bạn đang nói lên điều gì về số mệnh của bạn nhé! Lòng bàn tay nói lên
Tướng lòng bàn tay nói gì về bạn? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng lòng bàn tay nói gì về bạn? –

Lễ hội diễn ra trong ngày mùng 2 tháng 9 - Hội Chùa Am

Hội Chùa Am được tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 9 âm lịch tại xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội diễn ra trong ngày mùng 2 tháng 9 - Hội Chùa Am

Lễ hội diễn ra trong ngày mùng 2 tháng 9 - Hội Chùa Am

Hội Chùa Am

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 9 âm lịch

Địa điểm: xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Quốc sư Nguyễn Minh Không - người có công chữa khỏi bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông.

Nội dung: hội chùa có nghi thức tế lễ và dâng hương, rước bài vị, tụng kinh. Đặc biệt trong hội còn tổ chức hội đua thuyền diễn lại sự tích Nguyễn Minh Thông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội diễn ra trong ngày mùng 2 tháng 9 - Hội Chùa Am

Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người sinh năm Kỷ Dậu tình cảm vợ chồng tốt đẹp, nhân duyên bền lâu, trong lòng lúc nào cũng có nhau.
Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh năm Kỷ Dậu tình cảm vợ chồng tốt đẹp, nhân duyên bền lâu, trong lòng lúc nào cũng có nhau.


Giai ma van menh nguoi tuoi Ky Dau theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Luận âm dương ngũ hành thì Kỷ Dậu có thiên can Kỷ âm Thổ, địa chi Dậu âm Kim, Thổ Kim tương sinh nên hòa hợp, mang tới may mắn, cát tường trọng vận mệnh.    Người tuổi Kỷ Dậu là nữ thì có chút hẹp hòi, thường hay đố kị với người khác, ít khoan dung, thiếu độ lượng, tính toán chi li tỉ mỉ theo thói nữ nhi thường tình. Nhưng may mà không có tai ách nên vợ chồng duyên phận tốt, cũng là người phụ nữ có trí tuệ, biết điểm dừng.    Tử vi của người sinh năm Kỷ Dậu cho biết, người này thái độ làm người cơ trí, khéo léo, nhưng lại hay có tà ý, nảy sinh mưu đồ xấu. Cả đời phúc lộc song toàn, gần quan gần quý, nhưng không thể dựa vào người thân, nếu có thể thúc đẩy chí hướng thì nhất định đạt danh lợi.   Người sinh mùa xuân, hạ sẽ làm rạng rỡ tổ tông, người sinh mùa thu, đông tài vận hanh thông nhưng hay lo sợ không đâu, tuổi già sung túc, yên tâm hưởng lạc.    Lục Thập Hoa Giáp của Kỷ Dậu là Đại Trạch Thổ, cuộc đời bình an, hậu vận phát đạt. Người này nếu có chí hướng thì sẽ tốt hơn vì mưu lược, biết tính toán lại có số mệnh tương sinh hòa hợp, làm ăn thịnh đạt. Nếu không có chí hướng thì chỉ bình bình qua ngày, no cơm ấm áo, không phải dư dả.
Giai ma van menh nguoi tuoi Ky Dau theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Tuổi Kỷ Dậu có hậu vận tốt, về già an nhàn, sung túc nhưng tuổi trẻ cũng bôn ba vì không có chỗ dựa. Người thân không giúp ích được nhiều, chủ yếu dựa vào bạn bè. Người tuổi này khá trượng nghĩa, thường tương trợ người khác nên tạo được nhiều mối quan hệ thân thiết. Kỷ Dậu là con gà nghiêm cẩn, không thích kẻ mồm mép táo tợn nên đặc biệt kị với người tuổi Tỵ. 
  Tuổi Kỷ Dậu có thể có kết tri kỷ với những người tuổi Sửu như Tân Sửu, Kỷ Sửu, Quý Sửu. Muốn liên kết làm ăn, thì người tuổi Kỷ Dậu chỉ hợp với người tuổi Hợi như Đinh Hợi, Tân Hợi, Ất Hợi .
► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Dậu theo Lục Thập Hoa Giáp

Quý Dậu mệnh gì –

Người sinh 1993, Quý Dậu, có Ngũ hành năm sinh là Kiếm Phong Kim, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung ĐOÀI, hành KIM, hướng Tây, quái số 7, sao Thất Xích, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Tây Bắc, Đông bắc, Tây Nam, Tây). Đeo đá màu Vàng,
Quý Dậu mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý Dậu mệnh gì –

Phân tích sao Tử vi trong lá số

Sao Tử vi còn gọi là Đế tòa đứng đầu 12 vì sao trong lá số tử vi, thuộc tính Ngũ hành là âm Thổ, là trung tâm của các vì sao. Tử vi chuyên quản về tước lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tử vi còn gọi là Đế tòa đứng đầu 12 vì sao trong lá số tử vi, thuộc tính Ngũ hành là âm Thổ, là trung tâm của các vì sao. Tử vi chuyên quản về tước lộc, có tác dụng hóa giải tai ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa (chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh).

Sao Tử vi ưa gặp Tả phù, Hữu bật đồng cung phò tá; Thiên tướng và Văn xương làm tùy tùng; Thiên khôi, Thiên việt truyền lệnh, Thái dương, Thái âm phân chức. Nếu đồng cung với những cát tinh trên hoặc tọa tại cung Tam phương Tứ chính hội chiếu lẫn nhau sẽ tạo thành cách cục tốt. Tử vi tọa thủ cung Thân hoặc cung Mệnh, chủ về có phong độ, có khí chất, cá tính đôn hậu, cương trực cung kính.

Tuy nhiên thưòng tâm địa khá hẹp hòi, dễ tin ngưòi khác mà làm điều trái đạo lý, bảo thủ cô chấp, dễ bị kích động. Không có Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung chủ về mệnh cô độc, phải tự mình làm mọi việc, do đó thường vất vả, ít có thời gian nghỉ ngơi. Cao ngạo, trọng hư vinh, thích quyền quý, học nhiều không tinh thâm, dễ phạm đào hoa. Tử vi tọa Mệnh, nếu không có Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung, đại hạn, tiểu hạn đến Thiên hình hoặc Địa kiếp dễ xuất gia, học đạo.

- Người có sao Tử vi đóng tại Ngọ nên kinh doanh bất động sản,tránh kinh doanh ngành chăn nuôi trồng trọt

- Người có sao Tử vi đóng tại Dậu có sao Tham lang Thiên hình đồng cung nên theo ngành công an hay quân đội

- Người có sao Tử vi đóng tại Thìn Tuất lại có sao Thiên tướng đồng cung thường có chí khó thành, gặp chuyện tình cảm lận đận,phạm đào hoa thì cả tình duyên sự nghiệp đều trắc trở, muôn sự khó thành

- Người có sao Tử vi đóng tại Tỵ Hợi có Thất sát đồng cung là người thích phiêu bạt giang hồ ,lãng tử

- Người có sao Tử vi đóng tại Sửu Mùi có Phá quân đồng cung là người dễ tin người hay bị lừa gạt..

- Người nữ có sao Tử vi đóng tại Hợi có Thất sát đồng cung nên làm  thư ký cho chồng hoặc trợ lý cho chồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích sao Tử vi trong lá số

Xem tuổi giàu nghèo –

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, tiếng nói vang dội, tam đình bình ổn, ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt. Thực ra

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, tiếng nói vang dội, tam đình bình ổn, ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt.

tuongphatdat

Thực ra, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả.

Hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt.

Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc (trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).

Ngược lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già.

Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt.

Tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng (vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục) kể trên phải đồng thời kiêm bị.

Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là :

– Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu )
– Tai phản ( Luân quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn )
– Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm )
– Môi cong lên ( tướng của người chết thảm )
– Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong )

Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt.

Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm.

Ví dụ như ngũ lộ mà :

– Mắt lộ nhưng không có thần quang
– Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ
– Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng
– Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh
– Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ

Thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt .

Tướng pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên.

Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt.

Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên (tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt.

Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán.

Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi giàu nghèo –

Nghệ thuật xem tướng VỀ ĐI ĐỨNG

Người đi cũng phát xuất bộ tướng sang hèn thọ yểu. Vì đi là toàn thân cử động, tất cả cơ năng đều phát lộ ra ngoài. Do đó có ảnh hưởng rất nhiều đến tướng pháp.Dáng đi của người sang trọng thì thần khí uy vệ cùng tụ ở bước đi. Người sang quí bước đi mình không động lắc nghiêm túc, bộ hành thị vi phú quí.
Nghệ thuật xem tướng VỀ ĐI ĐỨNG

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ đi của người hạ tiện có vẻ yếu đuối hay là bước đi khinh phù. Khinh phù là thiếu thần khí là mạng yểu, đi bước không dính ngón chơn là người tranh danh đoạt lợi bôn tẩu đó đây.

Tánh muốn gấp rút, mà bước không rõ ràng vững chải. Người bước đầu đi trước là gian xảo mưu mô, hay nghĩ ngợi suy tư nên đầu cúi tới trước, chân bước theo sau.

Khí cương thần mãnh là người bước đi mạnh bạo, cương nghị, đỉnh đạc, không kinh sợ hiểm nguy gì, nên bước tới mạnh mẽ.

Tướng người buôn bán suy tư lời lổ nặng chiếm trong lòng nên bước đi rất mau, mà làm như nặng nề lôi cái mình chẳng chịu đi theo. Người lưng dài mông tròn là tướng làm quan võ, nên bước đi nặng chắc.

Người đi khoan thai là người quí hiền. Sách nói “lập như tòng, tọa như thái sơn, hành bộ đoan chính” là đứng thì ngay thẳng như cội tòng, ngồi thì bệ vệ như núi thái sơn, bước đi đoan chính không nghiêng lắc, đó là hiền nhân quân tử và phú quí trường thọ đó.

Ngôn ngữ thinh âm

Lời và tiếng nói cũng ảnh hưởng với đời người. Thinh âm là hơi tiếng như chuông. nếu bể nứt thì rè, bẹp, đâu có phát xuất được âm thanh tốt đẹp.

Con người cũng vậy. Mau miệng nhạy lời thì hay nói lầm, chắc lời nói thì ít sai. Răng lộ hô hay đùa giỡn. Răng bằng thẳng nói ngay, môi mỏng miệng mỏng là hay nói mau, và nói ít thật.

Người răng thưa răng nhỏ cũng nói dối. Răng cửa lớn mà đều đặn thì lời nói không xảo trá độc ác. Lưỡi lớn miệng nhỏ nói chẳng xong câu. Môi không che kín miệng ưa nói nhiều chuyện đời lắm. Người miệng rộng lưỡi nhỏ mà dài nói lời mau như bẻ cây, như rang bắp.

Nói chuyện có gốc có ngọn là lưỡi phải dài. Nói chuyện không đầu không đuôi là người lưỡi ngắn. Lưỡi đỏ lời nói có đạo đức, lưỡi xanh người không nghĩa, lời nói không có nghĩa.

Tiếng trong thanh là giàu sang, tiếng u trệ là giàu mà keo kiệt.

Tiếng rổn rang tánh nóng lòng ngay. Tiếng bén nhọn như mũi dùi là khôn ngoan mà bạc ác. Tiếng như dùi đục là ngu đần hèn cộc. Tiếng như chuột rúc là hạ tiện. Tiếng như chuông ngân là uy nghiêm.

Tiếng như kêu thét là ngu và ác, tiếng như rên rỉ là bần yểu. Tiếng như thanh la bể phát âm khàn khàn là nóng nảy hung bạo, hay ghen. Tiếng như lửa reo là gian khổ bần yểu, bắt đắc kỳ tử, gái nói giọng trai, giọng khàn vịt đực là sát phu khắc tử, đa dâm.


(St).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng VỀ ĐI ĐỨNG

Chùa Hoằng Ân - Hà Nội

Chùa Hoằng Ân còn có tên thường gọi là chùa Quảng An, Chùa tọa lạc tại xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Đây là một trong số ít những ngôi chùa cổ ở Hà Nội
Chùa Hoằng Ân - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hoằng Ân còn có tên thường gọi là chùa Quảng An, Chùa tọa lạc tại xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội.

Đây là một trong số ít những ngôi chùa cổ ở Hà Nội đã nghìn năm tuổi, được xây dựng từ thời nhà Lê. Trải qua thời gian biến cố lịch sử, đến nay chùa vẫn giữ được những nét cổ kính. Mỗi ngày nơi đây đều có đông phật tử đến tham quan cúng bái.

Lịch Sử: Chùa Hoằng Ân (Quảng Bá) được Thiền sư Ngộ Ấn tạo dựng, ban đầu chỉ là một am thờ Phật, sau dựng thành chùa và có tên là Báo Ân tự (chùa Báo Ân). Trải qua thời gian dài Báo Ân Tự vừa là nơi thờ Phật cũng là nơi sinh hoạt văn hóa, tâm linh của cộng đồng dân cư.

Vào năm Vĩnh Tộ thứ 10 đời Lê Thần Tông (1628) chùa được xây dựng lớn bởi công chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú, con gái Hoàng đế Nguyễn Hoàng, vợ chúa Trịnh Tráng (1623 – 1657), sau đó chùa được đổi tên thành chùa Long Ân. Năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhân chuyến tuần du ra Bắc, Vua đã đến thăm chùa, lúc này chùa được đổi tên thành Sùng Ân tự. Năm Tân Sửu (1841) Vua Thiệu Trị đến thăm chùa Sùng Ân cho tu sửa lại chùa và đổi thành chùa Hoằng Ân.

Ngay từ khi ra đời chùa đã là một danh lam của kinh thành Thăng Long, chùa cũng từng là nơi ngự giá, thăm viếng của các bậc đế vương. Dưới thời Trần Anh Tông, Tam Tổ Huyền Quang từ núi Yên Tử cũng chọn nơi đây để giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Triều Nguyễn vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị đều chọn chùa là nơi dừng chân vãn cảnh.

Kiến Trúc: Chính chùa gồm Tiền Đường và hậu cung: có 5 gian lợp ngói, bờ nóc và bờ dài chạy thẳng, chính giữa đắp hổ phù đội mặt trời. Phía trước hiên là hai cột trụ trên nóc đắp hình búp sen. Kiến trúc chùa chủ yếu làm theo lối bào trơn đóng bên với hình thức chồng giường, con nhị kèo ngồi xa nách. Gian giữa có hệ thống cửa bức bàn. Các mảng chạm kỹ lưỡng với những mảnh chạm điển hình nơi xứ Huế. Nền chùa và Hậu cung được lát gạch Bát Tràng. Hậu cung 3 gian xây liền với Tiền Đường tạo cho chùa chính có dạng chuôi vồ.

Ngôi chính điện này trước đây được xây trên gò tam cấp, đến nay vẫn còn nguyên vẹn, chưa có sửa chữa gì, gần đây vào năm 2002 được sự quan tâm của các cấp chính quyền chùa đã nâng cấp xung quanh như: xây tường bao khuôn viên, đường vào và xây kè hồ. Chùa trước đây nuôi dấu cán bộ, có hầm nằm trong khuôn viên nhà Tổ, mỗi khi có địch đến, nhà sư liền gõ mõ, đập gậy làm tín hiệu báo cho chiến sĩ ta.

Chùa Hoằng Ân hiện nay còn lưu giữ được rất nhiều hiện vật quý: gồm có 2 quả chuông đồng (Quả lớn được đúc thời vua Lê Hiển Tông (1743), cao 1,5m, đường kính 0,8m; vai chuông khắc nổi bốn chữ Hán “Long Ân Tự chung”, Quả chuông nhỏ được đúc vào thời Nguyễn); 33 tấm bia từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20; 30 Pho tượng có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Hệ thống tượng tròn của chùa còn khá đầy đủ với những pho tượng có giá trị nghệ thuật cao như tượng Quan âm Nam Hải, các Pho tượng Tam Thế, A Di Đà tạc vào thế kỷ 17- 18.

Tam bảo chùa
Tam bảo chùa

Với giá trị lịch sử – văn hóa và thế đắc địa mà thiên nhiên ban tặng, nhìn ra Hồ Tây mênh mông, chung quanh là những vườn quất trĩu quả, chùa Hoằng Ân là một trong những điểm văn hóa – du lịch của thành phố thu hút khách muôn nơi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hoằng Ân - Hà Nội

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Dậu

Tử vi trọn đời người sinh ngày Kỷ Dậu thấy thông minh, tài năng; nam mệnh không lo cơm áo gạo tiền, nữa mệnh có năng lực làm việc tốt. Bản mệnh có đường tình
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Kỷ Dậu thấy thông minh, tài năng; nam mệnh không lo cơm áo gạo tiền, nữa mệnh có năng lực làm việc tốt. Bản mệnh có đường tình duyên tốt, có con khi còn trẻ.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Ky Dau hinh anh
 
Trụ ngày Kỷ Dậu tọa Trường Sinh, Văn Xương, Thổ Kim tương sinh. Bản mệnh trụ ngày Kỷ Thổ có quý tọa Dậu, quý xuân sinh, quý kiến Ấn.

Mệnh chủ sinh ngày Kỷ Dậu trưởng thành sớm, biết giữ chữ tín nên được nhiều người coi trọng. Ngoài ra, họ do làm nhiều điều thiện và biết cách đối nhân xử thế nên tích đức trường thọ.

Bói hắt xì hơi giải tỏa áp lực mỗi ngày
Hắt xì hơi là hành động cơ thể, tuy nhiên thông qua các bói đơn giản, chúng cũng đem lại ý nghĩa nhất định. Hãy cùng ## dựa theo giờ thần bói hắt

Người sinh ngày Kỷ Dậu thông minh, tài năng. Nam mệnh cả đời không lo cơm áo gạo tiền, không có quan vận, cuộc sống lúc trung vận khó khăn hơn tiền vận. Nữ mệnh có năng lực làm việc tốt, cẩn thận tai ương liên quan đến tài sản.
  Xem tử vi người sinh ngày Kỷ Dậu thấy đường tình duyên tốt. Nam mệnh lấy được vợ đẹp, tài giỏi, nhận được nhiều sự trợ giúp của vợ, tuy nhiên tình cảm đối với con cái không sâu đậm. Nữ mệnh nên kết hôn với người được mai mối, hôn nhân viên mãn.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Ky Dau hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Kỷ Dậu thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Giáp Thân, Ất Sửu, Ất Mão, Ất Tỵ, Ất Mùi, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân, Bính Tuất, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Tỵ, Đinh Sửu, Mậu Thân, Mậu Dần, Mậu Ngọ, Mậu Thìn, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Canh Tý, Canh Dần, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Dậu, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn
Dựa theo phong thủy chọn chuẩn thùng rác cho gia đình Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Kỷ Dậu

Mơ thấy sóng: Biểu thị niềm vui –

Hình ảnh sóng trong giấc mơ thường gắn liền vởi niềm vui. Mơ thấy sóng gợn nhấp nhô là một giấc mơ lành, cho thấy trong thời gian này người nằm mơ có tâm trạng vui vẻ, tiền đồ rộng mở, tâm tình thông thoáng, vạn sự như ý. Mơ thấy sóng dữ cuồn cuộn là
Mơ thấy sóng: Biểu thị niềm vui –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sóng: Biểu thị niềm vui –

Bí ẩn phong thủy về cái chết của Gia Cát Lượng

Lâu nay, Gia Cát Lượng vẫn được truyền tụng như một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc đồng thời cũng là một thầy phong thủy, tướng số có khả năng hô phong hoán
Bí ẩn phong thủy về cái chết của Gia Cát Lượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vũ, nhìn sao đoán mệnh, dự báo tương lai. Có lẽ chính vì vậy mà ngay cả với cái chết của vị quân sư họ Gia Cát này người ta cũng truyền tai nhau đủ chuyện phong thủy thần bí.


Bi an phong thuy ve cai chet cua Gia Cat Luong hinh anh
 
“Xác giả” đánh lui quân Tư Mã Ý

Năm Kiến Hưng thứ 12 nhà Thục Hán (tức năm 234), Gia Cát Lương dẫn quân Bắc phạt, đóng quân ở Ngũ Trượng Nguyên. Đó là vào giữa mùa hạ, trời nóng bức, chiến cuộc lại không có nhiều tiến triển khiến Gia Cát Lượng rất lo lắng, ưu phiền, cứ mở miệng nói là cáu gắt, một ngày chỉ ăn được chút cơm. Vì vậy mà không lâu sau, cơ thể suy kiệt nhanh chóng, nằm liệt giường trong doanh trại, đến tháng 8 nôn ra máu mà chết. Năm đó, Gia Cát Lượng mới 54 tuổi.
 
Gia Cát Lượng xuống núi theo Lưu Bị năm 27 tuổi, 14 năm sau thì làm tới chức Thừa tướng nước Thục, 27 năm sau thì chết vì lo lắng phiền muộn. Người ta nói rằng, tất cả những sự kiện trọng đại xảy ra trong đời Gia Cát Lượng đều liên quan tới con số 7. Đây hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên.  7 là con số định mệnh của Gia Cát Lượng.
 
Con trai Lưu Bị là Lưu Thiện nghe tin dữ từ tiền tuyến báo về kinh hoảng vô cùng. Vì lẽ, xưa nay, mọi việc trong triều đình nhà Thục đều trông vào một tay Gia Cát Lượng, nay Lượng vì chuyện Bắc phạt mà chết, ai sẽ là người thay Lưu Thiện lo lắng chuyện quốc gia đại sự. Bởi thế, người ta nói rằng, Lưu Thiện sau khi nghe tin là khóc lóc chạy tới nơi chôn cất của Gia Cát Lượng, tự mình chủ trì nghi lễ chôn cất còn phong cho ông là “Trung Vũ hầu”. Người đời sau vẫn gọi Gia Cát Lượng là “Gia Cát Vũ hầu”  là từ tước hàm này.
 
Sách chép, trước khi chết, Gia Cát Lượng biết rằng sau khi mình nằm xuống, quân Thục không thể là đối thủ của quân đội Ngụy dưới sự chỉ huy của Tư Mã Ý. Vì vậy, mặc dù trong tình trạng bệnh tình nguy kịch vẫn cố gắng họp mặt các tướng lĩnh dưới quyền để bố trí thật chu đáo cho việc rút quân. Các tướng trung thành của Gia Cát Lượng là Dương Nghĩa, Khương Duy theo sắp xếp, sau khi ông chết không phát tang ngay mà chỉnh đốn binh mã, rút quân về Hán Trung thật thần tốc nhưng phải trật tự, không để quân Tư Mã Ý phát hiện.
 
Tư Mã Ý biết chuyện quân Thục đang rút chạy, lập tức xua quân đuổi theo, quyết một phen tiêu diệt quân của Gia Cát Lượng. Dương Nghĩa ra lệnh cho binh lính rải đinh sắt trên đường rút quân để cản trở quân địch. Tư Mã Ý không phải tay vừa, ra lệnh cho hơn 2000 binh sỹ đi những đôi giày có đế làm bằng gỗ mềm chạy trước đoàn quân khiến đinh sắt do quân Thục rải trên đường găm hết vào đế giày. Quân đội Ngụy cứ theo đoàn quân giày gỗ này thuận lợi truy đuổi quân Thục. Tuy nhiên, khi quân Ngụy đuổi tới gần, quân Thục đột nhiên dựng cờ, gõ trống giống như chuẩn bị phản kích quân Ngụy. Quân Tư Mã Ý thấy vậy không dám truy đuổi nữa. Quân Thục nhờ vậy mà an toàn rút về Hán Trung.
 
Vì sao một người thông minh như Tư Mã Ý lại không dám truy đuổi quân Thục? Nguyên nhân là vì, trước khi chết, dự liệu rằng khi quân Thục rút lui, Tư Mã Ý tất sẽ đuổi theo vì vậy Gia Cát Lượng đã cho người đẽo một bức tượng của mình rồi đặt lên xe. Đến khi quân của Tư Mã Ý đuổi theo đến gần thì đẩy xe có bức tượng của mình lên phía trước. Tư Mã Ý vốn nghe phong thanh Gia Cát Lượng bị bệnh mà chết, vì thế quân Thục mới rút quân. Nay khi đuổi sát tới nơi lại thấy Gia Cát Lượng vẫn điềm nhiên ngồi trước xe ra trước ba quân thì sợ rằng cả cái chết lẫn việc rút quân chỉ là kế sách của Gia Cát Lượng nên không dám manh động. Tư Mã Ý quá thông minh, do vậy cũng quá sức thận trọng vì thế đánh mất cơ hội tiêu diệt quân Thục. Người đời sau gọi sự kiện này là “Xác giả” Gia Cát Lượng đánh lui Tư Mã Ý.
 
Quái chiêu “điểm huyệt” định phong thủy

Là một người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, Gia Cát Lượng đương nhiên rất chỉn chu trong việc chọn nơi chôn cất cho chính mình. Theo di nguyện của Gia Cát Lượng, sau khi chết nơi đặt mộ của mình sẽ là núi Định Quân.
 
Núi Định Quân nay nằm ở phía Nam huyện Miễn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nó là một nhánh đâm theo hướng Tây Bắc của dãy Hệ Mỹ Thương. Vì trên đỉnh núi rất bằng phẳng, có thể đóng được cả vạn quân nên mới có tên là núi Định Quân. Một truyền thuyết khác nói rằng, khi Gia Cát Lượng dẫn quân Bắc phạt đã dùng ngọn núi này làm nơi tập Bát trận độ, luyện tập binh lính nên mới có tên là núi Định Quân.
 
Vì sao Gia Cát Lượng lại chọn núi Định Quân mà không chọn chôn cất ngay tại quê nhà hoặc mang hẳn về kinh đô nước Thục? Người ta đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Có người nói Gia Cát Lượng là vì quan niệm khi sống thì quản lý nước Thục, khi chết thì bảo vệ nước Thục. Một thuyết khác lại cho rằng, do việc Bắc phạt thất bại nên Gia Cát Lượng không muốn đưa xác mình về chôn tại kinh đô, sợ bị Lưu Thiện trả thù. Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân thuyết phục nhất vẫn là Gia Cát Lượng đã tính toán rất kỹ về phong thủy khi lựa chọn ngọn núi Định Quân này.
 
Địa hình núi Định Quân rất phức tạp, các sườn núi uốn lượn, nhấp nhô được coi là một nơi cực tốt về phong thủy. Tuy nhiên, ngọn núi thì quá lớn, vậy nếu như chỉ nói rằng chôn cất ở núi Định Quân thì các tướng lĩnh biết chôn cất Gia Cát Lượng ở đâu? Người ta truyền rằng, chuyện này cũng đã được Gia Cát Lượng tính toán rất kỹ.
 
Theo ghi chép, trước khi chết, nói về việc lo hậu sự của mình, Gia Cát Lượng nói với các tướng sỹ rằng, sau khi mình chết thì đem bỏ xác vào quan tài, lấy dây thừng buộc lại rồi cho quân sỹ khiêng theo đoàn quân rút về Hán Trung. Dây thừng đứt ở đâu thì lấy nơi đó làm mộ. Quân sỹ theo lời dặn của Gia Cát Lượng, buộc dây thừng vào quan tài rồi khiêng theo đoàn quân rút lui về phía Hán Trung. Cứ khiêng đi như vậy một thời gian rất lâu nhưng dây vẫn không đứt. Tuy nhiên, khi tới núi Định Quân thì đột nhiên sợi dây thừng rất chắc chắn bỗng dưng đứt bật ra, quan tài rơi xuống đất. Quân sỹ vội đặt quan tài xuống rồi tìm xẻng để đào huyệt hạ quan tài xuống. Nhưng khi binh lính vừa tản ra đất tại nơi đặt quan tại bỗng sụp xuống, vừa khít lấp trọn quan tài của Gia Cát Lượng.
 
Tam Quốc là thời kỳ “mộ tặc” cực kỳ lộng hành. Vì vậy, ngoài việc chọn phong thủy cho ngôi mộ, việc đầu tiên cần nghiên cứu đối với các nhà phong thủy chính là làm cách nào để chống lại bọn mộ tặc này. Tào Tháo vốn là một chuyên gia trộm mộ, vì vậy cũng trở thành một người cực kỳ tài năng trong việc chống lại mộ tặc. Nghi án về 72 ngôi mộ của Tào Tháo cho tới tận ngày nay vẫn chưa có lời giải và người ta vẫn chưa thể nào tìm thấy ngôi mộ thật của nhà chính trị lừng danh thời Tam Quốc này.
 
Về mặt phong thủy, Gia Cát Lượng có lẽ không thua gì Tào Tháo vì vậy, việc chống mộ tặc của Gia Cát Lượng cũng đặc sắc không kém. Gia Cát Lượng khi chọn mộ cũng đã nghĩ đến việc sẽ bị Tư Mã Ý hoặc những người đời sau đào và cướp mộ nên đã yêu cầu tướng lĩnh dưới quyền không chôn theo các vật tùy táng, mộ huyệt cũng không cần đào lớn, chỉ vừa đủ để đặt quan tài là được. Khu vực đặt mộ cũng không cần xây kín, cũng không trồng cây đánh dấu hay làm bất cứ thứ gì có thể bị phát hiện.
 
Tuy nhiên, những người đời sau để tưởng nhớ công đức của Gia Cát Vũ Hầu đã quyết định xây dựng khu mộ cho ông, lại còn trồng cây để ghi nhớ vị trí đặt mộ. Tuy nhiên, khi quyết định làm điều này, họ cũng tính đến việc giúp ngôi mộ chống lại bọn mộ tắc. Họ đã xây dựng rất nhiều ngôi mộ giả xung quanh ngôi mộ thật.
 
 Ngôi mộ mà ngay nay người ta vẫn gọi là “Mộ thật của Gia Cát Vũ Hầu” thực tế không phải là mộ thật. Nhiều người cho rằng, ngôi mộ chỉ vẻn vẹn dòng chữ “Mộ Vũ Hầu” mới là mộ thật. Vì vậy mà người Trung Quốc đến nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ: “Mộ thật thì không thật mà mộ giả lại không giả”. 
 
Ngôi mộ có tên là “Mộ Vũ Hầu” được đặt ở góc Tây Bắc của núi Định Quân, diện tích lên tới hơn 300 mẫu. Trên thực tế, nhiều chuyên gia lại cho rằng, ngay cả ngôi mộ có tên “Mộ Vũ Hầu” này cũng không phải là thực. Ngôi mộ này được coi là ngôi thật của Gia Cát Lượng chỉ mới bắt đầu từ năm 1799, do Đô đốc tỉnh Thiểm Tây là Tùng Quân khẳng định dựa trên những truyền thuyết lưu truyền trong dân địa phương thời đó. Vì vậy, cũng giống như Tào Tháo, cho tới nay người ta vẫn chưa thể xác định được mộ thật của Gia Cát Lượng nằm ở đâu.      
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn phong thủy về cái chết của Gia Cát Lượng

Bố cục căn nhà tọa Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất –

Bố cục căn nhà toạ Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất: Căn nhà này toạ Tây hướng Đông, tài vị ở hướng Đông Bắc. Xét về mặt đại thái cực, tài vị ở vị trí bệ cửa sổ của phòng khách còn theo tiểu thái cực, tài vị ở chính diện với cửa chính cũng gầ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n với bệ cửa sổ.

 

 

 

p47

 

Tài  vận: Đại tiểu thái cực đều nằm ở Đông Bắc, là sinh khí thần tài, lại gặp Diên Niên nên đại cát đại lợi. Đặt đồng tiền ngũ đế hoặc tỳ hưu ở đó thì vượng càng vượng thêm.

Sức khoẻ nhân đinh: hướng Tây và Tây Bắc đều là đinh thần vượng vị, cho nên đặt bếp lò tại hướng Tây của nhà bếp là tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục căn nhà tọa Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất –

SAO ĐÀO HOA - HỒNG LOAN TRONG TỬ VI

đào hoa (Mộc) hồng loan (Thủy) *** 1. những ý nghĩa tương đồng của đào, hồng: a. Ý nghĩa tướng mạo: ...
SAO ĐÀO HOA - HỒNG LOAN TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo




đào hoa (Mộc) hồng loan (Thủy)










***





1. những ý nghĩa tương đồng của đào, hồng:



a. Ý nghĩa tướng mạo:

Tùy theo đắc hay hãm địa, Đào Hồng có nghĩa:

- hình tướng, tức là nhan sắc bề ngoài của mỗi phái (hình dáng, diện mạo, thể xác và sự hấp dẫn của hình tướng).

- tâm tướng, tức là cái duyên của mỗi phái (nết hạnh, sắc đẹp bên trong)

Nếu đắc địa thì có nhan sắc và có duyên. Nếu hãm địa thì kém hơn.



b. Ý nghĩa tính tình:

- thái độ, tác phong đối với người khác phái, biểu lộ qua sự vui vẻ, sự mau mắn, sự ham thích giao thiệp và phục vụ người khác phái. Tác phong này có thể kín đáo hay công khai tùy theo tính nhút nhát hay tính mạnh bạo của mỗi người.

- tính ưa trang điểm, chưng diện để có sự quyến rũ, thu hút, làm cho người khác phái để ý. Từ đó, có nghĩa là có nhan sắc, có duyên dáng vì thích làm đẹp, thích làm duyên.

- tất cả hình thái của ái tình, từ sự ve vãn, yêu trộm hay công khai, ái tình lý tưởng cho đến ái tình nhục dục.

- tất cả cường độ của ái tình, từ sự chọc ghẹo bay bướm suông cho đến sự đam mê, si lụy.

- mức độ lẳng lơ, hoa nguyệt, bất chính trong tình ái.

Những ý nghĩa trên càng rõ rệt nếu Đào, Hồng đóng ở cung Mệnh, cung Thân hay cung Phúc, cung Nô, cung Quan, cung Di, cung Tài. Tại các vị trí này, đương sự là người ham thích ái tình, đa tình tức là có nhiều mối tình (yêu nhiều người và được nhiều người yêu lại).



c. Ý nghĩa công danh, tài lộc:

Nếu Đào, Hồng đóng ở 4 cung Di, Quan, Tài và Nô thì có sự may mắn về công danh, tài lộc do người khác phái mang đến (khi đi với cát tinh) cũng như có thể bất lợi về công danh tài lộc vì đặc tính đào hoa của mình (đi với hung hay sát tinh).





2. vị trí của đào, hồng:



a. Vị trí của Đào Hoa: Tý, Ngọ, Mão, Dậu

Đắc địa nhất ở cung Mão: người đắc thời về ái tình, có hấp lực quyến rũ lại được nhiều người biết và tôn thờ.

Đào ở cung Tý: người có duyên ngầm, ít được bá chúng hay biết, có những mối tình kín đáo (yêu trộm, được yêu trộm, biết bảo mật trong tình yêu).

Đào ở Ngọ và Dậu: kém thi vị, bớt nhiều sức hấp dẫn. Nếu Tuần, Triệt đồng cung thì mới sáng lên và có triển vọng.



b. Vị trí của Hồng Loan: Mão, Tý và các cung ban ngày.



Tại các vị trí tốt nói trên, hai sao Đào Hồng bảo đảm nhiều thành công hơn trong ái tình. Ngược lại thì hoặc không thành công bằng hoặc gặp trở ngại khó khăn, phải đấu tranh, vận động mới được duyên.

Hai sao này có hiệu lực mạnh lúc tuổi trẻ, càng về già càng giảm hiệu lực.





3. những khác biệt khả hữu giữa đào, hồng:

- sao Đào có ý nghĩa mạnh hơn sao Hồng

- Đào nói lên sự thu hút nhờ ở nhan sắc bề ngoài trong khi sao Hồng hấp dẫn nhờ ở đức tính bên trong. Sao Hồng chủ sự khéo léo về chân tay, về ngôn ngữ, dáng điệu, tức là những cái duyên về công, dung, ngôn. Người có Hồng ở Mệnh có hoa tay, nói ngọt, có duyên, đi đứng khả ái.



Do đó, sao Hồng ít sa đọa hơn sao Đào.





4. Ý nghĩa của đào hồng và một số sao khác:



a. Những sao làm tăng ý nghĩa cho Đào, Hồng:



+ Về những chính tinh có:

- Liêm Trinh

- Tham Lang

- Thái Âm, nhất là hãm địa (sao đa tình)

- Thiên Đồng, Thiên Lương ở Tỵ, Hợi

- Cự Môn, Thiên Cơ ở Mão, Dậu

- Phá Quân



+ Về những phụ tinh có:

- Thiên Riêu - chủ sự chơi bời, sắc dục

- Thai - chủ sự giao hợp trai gái

- Hoa Cái - chủ sự khát tình, làm dáng

- Mộc Dục - chủ sự dâm dục, chưng diện

- Văn Xương, Văn Khúc - lãng mạn, đa tình

- Mộ - một phần nào chỉ sự đa dâm

- Thiên Không - chỉ sự ong bướm, gió trăng đê tiện

- Thiên Mã - chỉ sự thay cũ đổi mới

- Đế Vượng, Tràng Sinh - chỉ sự phong phú, đắc thời

- Sát tinh hãm địa (Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh, Kỵ) - chủ sự bất hạnh, oan nghiệp.



+ Những bộ sao đáng lưu ý:

- Đào, Thai: lả lơi, dâm đãng, sắc dục; tiền dâm hậu thú

- Đào, Riêu: dâm dục, có nhiều nhân tình; ngoại tình, sa đọa

- Đào, Xương, Khúc, Riêu: có đĩ tính, bị dày vò bởi nhu cầu sinh lý; sáng tác dâm thơ lãng mạn

- Đào, Liêm, Tham: hết sức dâm đãng; có thể là gái giang hồ

- Đào, Không, Kiếp (hay Kiếp Sát): bị hiếp dâm, làm điếm hay ít ra bị dang dở; bị lừa gạt dụ dỗ, mất trinh; yểu tử.

- Đào, Mã: ong bướm lả lơi; thay đổi nhân tình hay vợ/chồng luôn

Nếu sao Hồng đi với những bộ sao trên cũng có ý nghĩa tương tự.



b. Những sao chế giảm nết lả lơi của Đào, Hồng:



+ Chính tinh: có Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương sáng sủa. Cả 3 sao này chỉ sự đoan chính, ngay thẳng, nết hạnh.



+ Phụ tinh: Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Hình, Lộc Tồn, Tuần, Triệt có tác dụng chế khắc khá mạnh. Thiên Đức, Phúc Đức, Long Đức, Nguyệt Đức có tác dụng chế khắc vừa. Ngoài ra, Thái Tuế cũng có hiệu lực làm cho Đào Hồng mất nhiều sự thu hút. Gặp sao này, Đào Hồng không còn quyến rũ, hoặc trở thành vô duyên, mất duyên, thất tình, bị phụ rẫy.





5. Ý nghĩa của đào, hồng ở các cung:



a. ở Nô:

Tại đây, Đào Hồng có nhiều ý nghĩa rất quan trọng:

- hảo ngọt, có sức thu hút quyến rũ người khác phái

- lả lơi hoa nguyệt với bạn bè, tôi tớ, người dưới quyền

- có nhiều nhân tình, vợ lẽ, bất chính với vợ/chồng, ngoại tình

Đây là hạng người thương yêu rất dễ dàng, rất lang chạ, có khi không phân biệt giai cấp quý tiện, tham lam trong tình yêu và tình dục, hay đi tìm thú vui hoặc sự thỏa mãn tình cảm, tình dục khi có đối tượng và hoàn cảnh thuận tiện. Nếu cung Mệnh hay chiếu Mệnh có nhiều sao dâm đãng khác thì dục tình, dục tính người đó rất mạnh, có thể đi đến chỗ bệnh hoạn nếu thiếu sao chế khắc.



b. ở Quan:

Nhất là đối với Đào Hoa, trường hợp này có nghĩa như hoa sớm nở ở quan trường sự nghiệp, chủ việc ra đời sớm, sớm có công ăn việc làm, lập thân từ lúc trẻ tuổi. Ngoài ra, cũng không mất đi tính chất hoa nguyệt, bắt nguồn từ những mối tình do sự chung đụng nghề nghiệp mà có.



c. ở Di:

Rất đắc mèo, đắc kép khi bước ra khỏi nhà. Có nhiều người thầm yêu trộm nhớ. Có số nhờ vả được nhân tình, người khác phái về mặt ái tình, sắc dục và cả công danh tài lộc.

Nếu ở cung Tài, nhất định người khác phái sẽ mang đến cho nhiều lợi lộc, hùn hạp, buôn bán và giao du thân mật, từ việc làm ăn buôn bán mà ra.



d. ở Phu Thê:

Có thể có nhiều giai tầng ý nghĩa:

- vợ/chồng là người có nhan sắc, quyến rũ

- vợ/chồng là người hoa nguyệt, có khi chỉ về mặt tình cảm mà thôi

- vợ/chồng ngoại tình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO ĐÀO HOA - HỒNG LOAN TRONG TỬ VI

Ý nghĩa phong thủy của hoa hướng dương –

Hoa hướng dương (tiếng anh là Sun flower) còn gọi là hoa quỳ, là loài hoa biểu tượng của thành phố Kansas, Mỹ và Kitakyushu, Nhật. Hoa hướng dương có nguồn gốc từ châu Mỹ sau đó được đưa về châu Âu thế kỷ 16 sau khi Columbo tìm ra Tân thế giới. Nhờ đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ặc tính của nó mà người ta yêu thích cái đặc tính đó và gán nó với những phẩm chất đáng quý vậy nên loài hoa này cũng là một loài hoa trong phong thủy. Hướng dương là loại hoa kỷ niệm ngày cưới năm thứ ba theo văn hóa của người Mỹ.

Ý nghĩa hoa hướng dương trong phong thủy

Không mềm mại, quý phái như hoa hồng, cũng không phải sang trọng như hoa lan, hoa hướng dương mang một vẻ hoang dại hơn. Sự vận động của hoa hướng dương theo hành trình của mặt trời trong ngày từ Đông sang Tây nên trong văn hóa Trung Hoa, hướng dương là loài hoa biểu tượng của sự hướng thượng, hướng tới điều tốt đẹp hơn, đồng thời nó cũng được người Trung Quốc coi là biểu tượng của sự chung thủy, trọng nghĩa khí và trung thành.

tumblr_inline_mrpuqeb02U1qz4rgp

Hướng dương là một loài hoa mang lại năng lượng tốt trong phong thủy, vì vẻ ngoài rực rỡ, giúp tạo bầu không khí tràn đầy sức sống, gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, đặc biệt là giữa bố mẹ và con cái.

Những bức tranh về hoa hướng dương cũng tác dụng trong việc tăng cường vượng khí phong thủy, có thể treo ở phòng khách, phòng trẻ em để kích thích hoạt động sống.

Với văn phòng, loài hoa này cũng được chọn làm hoa phong thủy, vì tác dụng của nó cũng tương tự như nêu bên trên, giúp tạo tinh thần phấn chấn cho nhân viên và kích thích năng suất làm việc.

Nhờ vậy mà trên thị trường các sản phẩm từ hoa hướng dương của các dịch vụ hoa tươi khá được ưa chuộng. Với những tác dụng như vậy, bạn sẽ không ngần ngại chọn cho mình một chậu hoa hướng dương hoặc chí ít là một bức tranh hoa trong nhà hoặc công sở, sẽ mang lại ích lợi cho chính bạn và người khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của hoa hướng dương –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd