Mơ thấy mẹ: Muốn được dựa dẫm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Hành: HỏaLoại: Bại TinhĐặc Tính: Phá tánTên gọi tắt thường gặp: Hao
Phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Tiểu Hao và Đại Hao. Gọi tắt là Song Hao. Cũng là Sao thứ 10 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Phân loại theo tính chất là Hao Tinh, Bại Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Vị Trí Ở Các Cung
Để giải đáp vấn đề này, trước hết chúng ta phải biết cơ chế cấu thành vận mệnh. “Mệnh” tức là Bát tự (tứ trụ), do Thiên can, Địa chi tạo thành, “Vận” tức là đại tiểu vận, lưu niên,..cũng do các Thiên can, Địa chi tạo thành, bởi vậy “Vận mệnh” đều do can chi tổ hợp mà thành, mà can chi là những ký hiệu đại diện của ngũ hành, vì thế vận mệnh thực chất là sự tổ hợp của ngũ hành. Vì vậy sự cát hung của vận mệnh suy cho cùng là ngũ hành của một người có cân bằng hay không hoặc có thuận nghịch hay không trong trạng thái thời gian và không gian nhất định. Do đó, muốn thay đổi vận mệnh, chỉ cần điều chỉnh được sức mạnh ngũ hành là có thể đạt được mục đích. Ví dụ ngũ hành của 10 Thiên can Giáp dương Mộc, Ất âm Mộc, Bính dương Hỏa, Đinh âm Hỏa, Mậu dương Thổ, Kỷ âm Thổ, Canh dương Kim, Tân âm Kim, Nhâm dương Thủy, Quý âm Thủy; Ngũ hành 12 Địa chị gồm Tý thủy - Ngọ hỏa - Mão mộc - Dậu kim; Thìn - Tuất - Sửu - Mùi thuộc thổ;...v.v..
Biểu đồ Bát Tự mẫu: Tỷ phú B: Giờ Thìn ngày 13/06/1928
| Giờ | Ngày | Tháng | Năm |
| Mậu Thìn | Giáp Thân | Mậu Ngọ | Mậu Thìn |
| Mậu Ất Quý | Canh Nhâm Mậu | Đinh Kỷ | Mậu Ất Quý |
| 1 | 08 – 17 tuổi | Kỷ Mùi | 5 | 48 – 57 tuổi | Quý Hợi |
| 2 | 18 – 27 tuổi | Canh Thân | 6 | 58 – 67 tuổi | Giáp Tý |
| 3 | 28 – 37 tuổi | Tân Dậu | 7 | 68 – 77 tuổi | Ất Sửu |
| 4 | 38 – 47 tuổi | Nhâm Tuất | 8 | 78 – 87 tuổi | Bính Dần |
Thời gian: tổ chức từ ngày 20 tới ngày 23 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Bà triệu (Triệu Trinh - người đã lãnh đạo nhân dân đứng lên trống lại ách đô hộ của nhà Ngô vào năm 248).
Nội dung: Mở đầu lễ hội là hoạt động tế lễ, nhắc lại công ơn lớn lao của Bà Triệu, tiếp đó là lễ rước Bóng - rước bát hương vua Bà từ đền chính đến lăng mộ rồi rước về đình làng. Người ta đặt bát hương bà Triệu lên kiệu cùng với hộp tư trang, đĩa trầu cau để 8 chàng trai mặc áo đỏ cộc tay, thắt lưng màu đỏ, đầu chít khăn đỏ, quần trắng, đi chân đất khiêng. Đặc biệt ở đình làng còn diễn ra trò "Ngô Triệu Giao Quân" rất sôi nổi. Sau lễ buổi trưa cả làng ăn đồ nguội (vì đánh trận phải ăn lương khô). Buổi chiều đám cưới cỗ bàn linh đình để khao quân.
Ngày 23 tháng 2 thuộc vào ngày chính kỵ không tế mà chỉ làm lễ, có một số lễ vật như 100 trứng sống, 100 quả dưa chuột, 3 bát cơm gạo trắng, 3 quả trứng luộc, bánh giầy, bánh gai, bánh trưng, bánh mật...
Trong dịp lễ hội, dân làng còn tổ chức cuộc thi đấu vật, leo dây, thổi cơm, thi đánh cờ tướng... làm cho lễ hội càng thêm sôi nổi náo nhiệt cả một vùng.
Thường thì hình thể không thể vượt quá dung mạo, tâm không bị che mờ thì thần khí mới hiển lộ. Những người mông muội suốt thời gian dài là vì tâm không sáng, bị vật bên ngoài chi phối thì mệt tâm, làm cho bản tính của mình xấu đi. Bị sự việc làm cho vội vàng sẽ khó tỉnh táo để giải quyết, cho đến khi tai họa đến mới hối hận, sau đó sinh lòng oán trách người khác.

Khi giải quyết sự việc mà tâm thuật chính có thể dùng gồm có 7 loại, tâm thuật bất chính không thể dùng cũng có 7 loại.
Tâm thuật chính có thể áp dụng: Một là trung hiếu, hai là bình đẳng, ba là khoan dung, bốn là thuần túy, năm là ban ơn, sáu là hữu thường, bảy là cương trực.
Tâm thuật bất chính không thể dùng: Một là nham hiểm hung ác, hai là nhơ bẩn, ba là hà khắc, bốn là kiêu ngạo, năm là ganh tị, sáu là nịnh bợ, bảy là cẩu thả. Hành động đều là do tâm thuật khác nhau mà phản ánh ra khác nhau. Do đó người xưa có dạy về “chọn thuật luận tâm”.
Có người hỏi: “Tâm thuật chính và tâm thuật bất chính làm thế nào để phân biệt trên tướng mạo hình thể?”.
Trả lời: Tướng mạo đoan chính và tâm khí bình hòa là tướng trung hiếu. Xương cốt đoan chính mà khí sắc ôn hòa là tướng bình đẳng. Lông mày rộng, mắt to là tướng khoan dung. Nhàn hạ mà khí bình hòa là tướng thuần túy. Mặt to và chóp mũi màu vàng chủ dễ ban ơn cho người. Mũi thẳng và thần ổn định, làm việc nhịp nhàng có quy luật, hình mạo nghiêm túc là tướng cương trực.
Nếu mắt lộ ra hung ác là điềm báo tâm tính nhiều hung ác, nham hiểm. Dưới mắt có màu tươi mới là nhơ bẩn. Mắt sâu mà có lằn thịt ngang là hà khắc. Trong mắt có khí phẫn nộ là người kiêu ngạo tự đại. Ánh mắt liếc nhanh, thần mắt rối loạn là người thích ganh đua. Ánh mắt hay thay đổi và mặt tươi cười là tướng nịnh bợ. Khí thô mà thích lả lướt là tướng cẩu thả. Nếu dưới mắt có thịt mà bộ vị Long cung, Phúc đường có khí vàng xung quanh là người có nhiều âm đức.
Con người nếu khi gặp chuyện có thể quên đi sự tồn tại của sự vật, dựa theo yêu cầu về đạo đức để quy phạm bản thân, mọi vật trên thế giới đều không làm cho tâm của người đó rối loạn thì là tâm thuật gì? Trên thực tế, tâm thuật chính là khuyến khích mọi người thay đổi những khuyết điểm. Con người vì làm theo mà cuối cùng có thể hướng theo cái thiện.
Nghĩa của đức rất rộng. Trời có đức, có sự biến hoá của bốn mùa mà lên cao. Đất cũng có đức, vạn vật sinh trưởng và dày rộng. Con người có đức cũng là như vậy.
Trời bảo vệ con người, tâm người hướng về trời thì có thể hưởng vinh hoa mãi mãi. Có thể hiếu thuận với cha mẹ, trung thành với vua, có thể thân thiện với người khác, có thể giúp đỡ vạn vật, có thể thành chuẩn mực đạo đức, thành tấm gương noi theo. Tuy không thể được khen ngợi bề ngoài cũng sẽ được báo đáp âm thầm, hoặc tự mình không được báo đáp thì con cháu sẽ được nhận.
Do đó, người có tướng thiện, trước hết nên quan sát đạo đức của họ, sau đó mới xem hình mạo. Nhưng nếu đạo đức cao thượng mà hình mạo không tốt sẽ ngăn trở họ thành quân tử. Mà hình thể tướng mạo tuy tốt nhưng phẩm hạnh kém cuối cùng sẽ thành tiểu nhân. Tuân Tử nói: “Quan sát tướng mạo không bằng quan sát nội tâm, quan sát nội tâm không bằng quan sát đạo đức, phẩm hạnh”.
Đây là lời khuyên người hành thiện, cũng chính là phải đặt đạo đức lên hàng đầu. Người xem tướng người giống như người thợ mộc, nếu gỗ tốt mà người thợ mộc kém sẽ vì không biết phân biệt tốt xấu mà đem gỗ tốt biến thành vật bỏ đi. Hình mạo của con người rất đẹp nhưng thiếu đức hạnh thì hình mạo chỉ là giả, sẽ gặp tai họa, thương hại. Do đó, đức đặt trước hình, hình ở sau đức. Con người có thể có đức mà hình kém nhưng không thể có hình mạo đẹp mà không có đức.
Các thánh nhân cổ đại có tư tưởng coi cuộc sống là lao dịch, cái chết là nghỉ ngơi.
Chuyện sinh tử của con người là do mình quyết định. Do đó thần tình hỗn đục, tinh thần hoảng loạn, nông nổi, phức tạp thì thường vận mệnh chẳng thể dài lâu.
Nếu người bệnh nặng có lời nói, cử chỉ thất thường là điềm báo sắp từ giã cõi đời. Đương nhiên còn cần xem độ nặng nhẹ để dự đoán.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 74 được xây dựng trên điển cố: Tần bại cầm tam tướng hay quân Tần thất bại, ba vị tướng bị bắt.
Quẻ hạ thuộc cung Tỵ. Hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, muốn tiến cũng không được, muốn lui cũng khó. Bốn phương tám hướng đều thấy bế tắc. Mọi sự cứ thận trọng và an bài cho số mệnh của mình.
Thử quái tự hộc đều long chi tượng. Phàm sự đa hư thiểu thực dã.
Mùa đông năm Tần Mục Công thứ 32 (tức năm 628 tr. CN), Tấn Văn Công băng hà. Lúc này, Khởi Tử từ nước Trịnh sai người gửi thư về nước Tần, nói rằng: “Người nước Trịnh đã trao chìa khóa cửa phía bắc cho tôi, nếu như lặng lẽ cử quân đội đến, sẽ có thể có được nước Trịnh.” Tần Mục Công hỏi ý kiến Kiến Thúc và Bách Lý Hề, hai người đáp rằng: “Vượt chặng đường mấy nghìn dặm đi qua mấy nước để tập kích người khác, rất ít khi thành công. Hành động của quân ta, nước Trịnh chắc chắn sẽ biết, không thể đi được!” Tần Mục Công nói: “Ta đã quyết định rồi, hai ngươi không cần nói nữa.” Bèn sai con trai của Bách Lý Hề là Mạnh Minh Thị, con trai của Kiến Thúc là Tây Khất Thuật và Bạch Ất Bính, ba người đem quân xuất phát.
Mùa xuân năm sau, quân Tần tiến về phía đông, Bách Lý Hề và Kiến Thúc khóc tiễn đội quân, Tần Mục Công rất tức giận: “Ta xuất quân, các ngươi lại khóc lóc với bộ mặt đưa đám làm ảnh hưởng đến sĩ khí của quân ta, thế là thế nào?” Hai người đáp: “Chúng thần thực không muốn làm mất sĩ khí. Chỉ là chúng thần tuổi đã già rồi, con trai phải xuất chinh, sợ rằng sau này không gặp lại được nữa!” Hai người nói với con trai của mình rằng: “Quân đội chắc chắn sẽ thất bại, người nước Tấn sẽ chặn đánh ở núi Hào Sơn!”
Đại quân nước Tần muốn lặng lẽ đánh úp nước Trịnh, nhưng nước Tấn sớm đã nhận được tin báo. Đại tướng nước Tấn là Tiên Chẩn cho rằng, đây là cơ hội tốt để đánh nước Tần, khuyên Tấn Tương Công mới lên ngôi cho chặn đánh ờ núi Hào Sơn. Tấn Tương công đích thân chỉ huy quân đội đến núi Hào Sơn.
Quân của Mạnh Minh Thị vừa đến núi Hào Sơn, đã rơi vào trận mai phục, bị đông đảo quân Tấn vây bủa, quân Tấn phục hai bên ném thuốc súng mồi lửa vào quân Tần, còn phía sau lưng nghe tiếng quân Tấn hô hào dậy đất. Quân Tần lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, dẫm đạp lên nhau, sĩ tốt người thì chết, người thì đầu hàng, chết và bị thương vô số, cuối cùng ba đại tướng là Mạnh Minh Thị, Tây Khất Thuật và Bạch Ất Bính đều bị bắt sống.
Tấn Tương Công đắc thắng trở về triều, Văn Doanh (phu nhân của Tấn Văn Công) cầu xin Tấn Tương Công thả ba vị tướng soái của nước Tần trở về, nói rằng: “Họ đúng là đã làm li gián mối quan hệ giữa hai quốc quân của hai nước Tần Tấn. Nếu như Tần Mục Công có được ba người này, có ăn thịt của họ cũng chưa hả giận, sao phải mất công trị tội họ? Hãy để họ trờ về nước Tần, cho vua nước Tần tự trừng phạt họ, được chăng?” Tấn Tương Công nghe mẹ nói có lý, liền cho thả ba người ra.
Ba người về tới nước Tần, Tần Mục Công biết tin toàn quân bị tiêu diệt, đã mặc tang phục, đích thân ra ngoài thành đón họ.
Ba người quỳ dưới đất chịu tội, Tần Mục Công nói: “Đây là sai lầm của ta, đã không nghe theo lời khuyên của cha các ngươi, hại các ngươi phải chịu bại trận, sao có thể trách các ngươi được? Ta cũng không thể vì phạm lỗi lầm nhỏ, mà xóa bỏ công lao to lớn của một người!” Ba người cảm động đến rơi nước mắt, từ đó về sau, họ chăm chỉ luyện tập binh mã, một lòng một dạ muốn báo thù cho nước Tần.
Xem tướng người hay thất bại trong cuộc sống. Trong tướng số có nhiều dấu hiệu để nhận biết được số mệnh của người thường gặp long đong vất vả, không bao giờ có thể thành công, làm gì cũng hỏng, có tiền cũng mất, sức khỏe yếu kém, kết cuộc thảm thương.
Đứng về mặt hình tướng, tướng người hay thất bại trong cuộc sống được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây :
– Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa.
– Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn…
– Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt heo thì sẽ chết không toàn thây.
– Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chết non, lộ và có hung quang chủ về chết thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thần thái chủ về khắc thê và hay bị hình phạm.
– Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp, hoặc có gân có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuống thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại, quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ.
– Miệng nhỏ, môi mỏng thường chủ về nghèo hèn.
– Miệng rộng mà lệch, miệng lớn không khép được kín đều chủ về cô đơn, nghèo hèn.
– Môi mím lại, khóe miệng trễ uống chủ về nghèo hèn.
– Khóe miệng có nhiều đường cong chạy vào phía trong miệng, số chết đường chết chợ.
– Tai không có đường vòng tai rõ ràng, tai mỏng, nhọn thì khốn cùng, đen đủi, chết non.
– Đầu lớn nhưng cổ nhỏ: bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số goá bụa, làm vợ bé.
– Mặt lớn, đầu nhỏ: nghèo và tính nết độc ác.
– Thân thể phì nộn cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng: vãn niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng.
– Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm: hậu vận không ra gì.
– Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của cơ thể: nghèo hèn không con cái.
– Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt: hay bị hình phạm.
– Ngay giữa sống mũi có một lằn sâu chạy xuyên qua phần giao thoa giữa hai lông mày lên tới giữa trán, sống mũi cao gầy trơ xương: khổ sở, tai nạn.
– Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ: hình khắc.
– Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên: trung niên phá tán, long đong vất vả.
– Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng: bực dọc lo lắng uất ức suốt đời.
– Xương lộ, thịt xệ: thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn.
– Đầu quá nhỏ: bần tiện, ngu độn.
– Mắt dê: chết thảm hoặc đoản mệnh.
– Môi túm cong lên, răng lởm chởm: nghèo túng.
– Yết hầu lộ: khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ.
– Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi: long đong khốn quẫn.
– Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc.
– Lòng trắng mắt pha hồng từ khi còn bé.
– Lỗ mũi hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt.
– Không có bệnh tật nhưng lại hay khạc nhổ, dường như trong miệng lúc nào cũng có đờm.
– Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria.
– Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi.
– Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại.
– Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru.
– Bị bệnh hôi nách (ở đây phải hiểu là riêng nách có mùi hôi vì bệnh tật, còn các bộ phận khác không có mới tính. Nếu như vì không năng tắm gội mà toàn thân có mùi hôi hám thì không kể).
Ngoài ra, nhân tâm cũng ảnh hưởng mạnh tới số phận và những người có cách cư xử như sau chắc chắn sẽ là người luôn thất bại:
– Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý.
– Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại).
– Thích châm chích những khuyết điểm của người khác.
– Không có gì đáng cười mà lại cười điên cuồng.
– Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc.
– Hay đưa chuyện đặt điều.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Xem bói đơn giản chỉ bằng ngày sinh âm lịch (6 – 10 âm lịch) Ngày sinh có ý nghĩa vô cùng đặc biệt đối với mỗi người. Đó không chỉ là thời điểm mà chúng ta sinh ra, là ngày mà ta nhớ về công ơn mẹ cha sinh thành dưỡng dục mà đặc biệt hơn, ngày sinh còn quyết định tính cách và vận mệnh cuộc đời. Thông thường, chúng ta hay chú ý đến ngày sinh dương lịch chứ không mấy khi để tâm ngày sinh âm lịch của mình là gì. Nhưng theo tử vi, ngày sinh âm lịch lại có tính chính xác cao hơn rất nhiều để đoán định về vận mệnh cuộc đời. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ giúp các bạn xem bói ngày sinh âm lịch để biết rõ hơn về tương lai, vận thế của mình nhé. Trước tiên, nếu bạn chưa biết ngày sinh âm lịch của mình là gì, bạn có thể sử dụng công cụ Đổi ngày âm dương trên trang Lịch ngày tốt để chuyển đổi nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
1. Mặt kim cương
![]() |
Khả năng giao tiếp tốt, làm việc hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều khi họ thích kiểm soát và muốn làm mọi việc theo ý mình, nên mọi người khó chịu, dễ hiểu lầm.
2. Mặt tam giác
![]() |
Nỗ lực, kiên trì và thích kiểm soát, khả năng gặt hái được thành công trong cuộc sống là rất cao.
3. Mặt chữ nhật
![]() |
Tư duy tốt, xử lý vấn đề nhanh gọn, tuy nhiên ít bộc lộ cảm xúc cá nhân.
4. Mặt vuông
![]() |
Năng động, nhiệt tình, khả năng chịu áp lực tốt, được mọi người tin tưởng và giao cho những nhiệm vụ quan trọng.
5. Mặt trái xoan
![]() |
Thông minh, không khéo và biết cách chiều lòng người khác.
6. Mặt tròn
![]() |
Khuôn mặt tượng trưng cho sự phúc hậu, luôn quan tâm đến mọi người. Tuy nhiên, họ dễ thiệt thòi, hay bị lợi dụng.
7. Mặt trái tim
![]() |
Mạnh mẽ, bướng bỉnh, không thích nghe theo lời khuyên của người khác. Đôi khi tự cao thái quá về bản thân.
Dương Anh (theo cachitosdeplata)

* Chọn mua cửa sắt chống trộm
– Xem chất liệu: Một cánh cửa chống trộm đạt tiêu chuẩn chất lượng nhất định phải được làm từ tấm sắt tây (tôn) dầy; trong khi đó, loại cửa giả kém chất lượng thường được làm từ tấm sắt mỏng. Để phân biệt, hãy thử ném một vật cứng vào cửa, nếu phát ra âm thanh leng keng giòn giã thì đó là cửa đạt tiêu chuẩn, còn nếu khô cứng thì đó là cửa giả. Ngoài ra, lớp dưới cùng của loại cửa đạt tiêu chuẩn được quét một lớp sơn chổng gỉ; trong khi đó, loại cửa giả chỉ được phủ một lớp sơn thường trên bề mặt. Khi kiểm tra, chỉ cần rạch một đường nhỏ trên bề mặt phần dưới chân cửa sẽ nhìn rõ phía dưới đó có lớp sơn chống gỉ hay không.
– Xem cách lắp đặt: Khi lắp cửa, bốn góc khung cửa và bốn góc cánh cửa sắt phải chênh nhau 45 độ, như vậy mới có thể làm cho cửa sắt thêm phần kiên cố. Còn đối với loại cửa giả, do gia công đơn giản nên khi lắp đặt, điểm nối giữa khung cửa và cánh cửa luôn là một góc vuông.
– Xem khóa cửa: Nếu tấm cửa sắt đủ rộng và khít với mép cửa, không nhìn thấy chìa khóa bên trong, đồng thời nếu đứng bên ngoài không cách nào tiếp cận được thì chứng tỏ khóa cửa an toàn. Nếu xảy ra trường hợp ngược lại thì tức là khóa cửa lắp không đạt yêu cầu.
– Xem mối hàn điện: Mối hàn phải khít chặt, đặc biệt là mốỉ hàn mũ ốc vít nối giữa khung cửa với bản lề.
– Xem khoảng cách giữa các thanh sắt: Khoảng cách thích hợp nhất là chừng 10 cm. Nếu khoảng cách quá lớn thì cửa sẽ không phát huy được hết tác dụng chống trộm.
* Cách chọn mua cửa
– Cửa nhà phải bền đẹp, độ lớn phù hợp với ngôi nhà; có khả năng chống thấm, chống ẩm, giữ ấm và cách âm.
– Nếu mua cửa gỗ thì nên chọn loại có kích thước tiêu chuẩn để đạt được độ mĩ quan thống nhất. Đồng thòi cần kiểm tra thật kĩ xem kích thước của cửa có đạt tiêu chuẩn không, tỉ lệ ngậm nước có phù hợp với điều kiện khí hậu trong vùng hay không và bề mặt cửa có trơn nhẵn, bằng phẳng không.
– Kiểu dáng của cửa phải thống nhất vói phong cách chung của các đồ dùng trong nhà. Nếu gia đình sử dụng các đồ dùng kiểu phương Tây thì thích hợp đi với những chiếc cửa gỗ có các đường nét trang trí kiểu phương Tây.
| ► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
![]() |
Con giáp nào dễ kết hôn trong năm 2016?
![]() |
![]() |
| ► Đổi ngày dương sang âm nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lịch ngày tốt |
Một gò Thái âm đầy đà, cao, rộng, người có óc phiêu lưu, thích bềnh bồng trên sóng nước, giàu mơ mộng nhưng có khả năng sáng tác, có óc sáng chế.
Một gò Thái âm nổi cao thái quá và mềm mại, người bất nhất, không chủ định, giàu tham vọng.
Một đặc điểm cần để ý khi nghiên cứu gò Thái âm là phải quan sát đồng thời vớiđường Trí Đạo, vì đường Trí Đạo chảy về gò Thái Âm hoặc tràn vào gò Thái Âmđều xác định ảnh hưởng của sức tưởng tượng của người. Hơn nữa, tất cả những sự xáo trộn về tâm thần tập trung trong đường Trí đạo đều được xác định một cách rõ ràng trong gò Thái Âm. Và, khi mà gò Thái âm nảy nở quá mức người sẽ chắc chắn bị xáo trộn về tâm thần hoặc xúc động thái quá, hoặc cả hai, tâm thần và xúc động cũng bị xáo trộn
Nếu một gò Thái âm nổi cao, gặp một gò Thuỷ tinh đầy đặn và một ngón út trội, người sẽ hứa hẹn một khả năng sáng tác dồi dào, có thể là một văn nhân hay thi sĩ.
Khi một gò Thái âm thật nổi, cần phải quan sát các đầu ngón tay và ngón cái, vì một hình thức như thế trong một bàn tay yếu, mỏng mảnh, người sẽ mất tất cả vì quá mơ mộng. Nếu bàn tay gân guốt, các ngón đều đặn trong hình thức gò Thái Âm này, người sẽ có tầm hoạt động sâu và mãi mãi.
Một gò Thái Âm tràn đầy ra ngoài bìa bàn tay chứng tỏ người mộng mơ đến trở thành mê tín.
Trích KHÁM PHÁ NHỮNG BÍ MẬT CỦA BÀN TAY
_ Bác sĩ Joef Ranald_
![]() |
![]() |
Ca Quyết:
Cơ Lương nhập miếu tối kham ngôn
Đắc địa giao quân phúc thọ toàn
Diệu toán thần sách ưng cái thế
Uy phong lẫm lẫm chưởng binh quyền
Nghĩa là:
Cơ Lương nhập miếu chẳng phải bàn
Đắc địa được phúc thọ song toàn
Dự đoán, tiên tri tài nức tiếng
Uy phong lẫm liệt nắm binh quyền
Trong kinh văn có viết: "Thiên Cơ lại gặp Thiên Lương ắt có tài nghệ cao cường". "Thiên Lương đi cùng Thiên Đồng làm đến hàn lâm, có tài binh lược". "Thiên cơ, Thiên Lương gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc theo nghiệp văn thì thanh cao hiển đạt, theo nghiệp võ là trung thần lương tướng".
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nếu có thể thay đổi và cải thiện phong thủy bàn học, biết đâu con bạn sẽ có hứng thú hơn khi học tập, đồng thời sẽ đạt được những kết quả khả quan hơn.
1. Chỗ ngồi không được quay lưng vào cửa
Nếu như một người ngồi quay lưng vào cửa, mà đằng sau lại không có chỗ dựa, không chỉ hại cho xương sống mà còn khiến người ta thiếu cảm giác an toàn.
2. Bàn học không nên đặt bàn học quay trực tiếp ra cửa sổ

Bàn học cạnh cửa sổ vừa có thể có đủ ánh sáng tự nhiên, vừa không khiến con trẻ bị mất tập trung.
Bàn học không nên đặt quay ra cửa sổ, bởi vì như vậy sẽ ảnh hưởng tới việc tập trung của trẻ. Lúc trẻ nhỏ đang học, bên ngoài cửa sổ người đi qua đi lại sẽ khiến chúng không thể tập trung học, ảnh hưởng tới kết quả học tập. Noài ra, nếu như bên ngoài cửa sổ có sát khí chiếu thẳng vào, sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe và học hành của trẻ. Sát khí có thể là đèn đường, tháp nước hoặc góc tường…
3. Bàn học không được đối diện cửa
Bàn học tuyệt đối không được đối diện cửa. Thử nghĩ xem, vị trí học của trẻ nhỏ ở đây, từ góc độ khí trường, người đi qua đi lại, trẻ sẽ không tập trung được, ảnh hưởng rất nhiều tới hiệu quả học tập.
4. Không mua bàn học có hình dạng kì quặc
Nên chọn bàn có hình vuông, như vậy đại diện cho sự ổn định, có lợi cho việc học của trẻ. Bàn có hình dạng lạ không tiện, hơn nữa còn có thể gây nguy hiểm do nhiều cạnh sắc nhọn.
Theo Leo St (12ky) (Khám phá)
chắn mất, có bốn cách cải thiện như sau:
– Cố gắng dẹp bỏ vật cản trước cửa hàng để mặt tiền hiện ra.

– Đối với mặt tiền chật hẹp không thể sửa chữa được thì nâng cao mặt tiền lên để cho khách hàng từ xa cũng có thể nhìn thấy cửa hàng.
– Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, vô tuyến, biển quảng cáo để tuyên truyền, quảng cáo cố gắng làm cho khách hàng biết được địa chỉ cửa hàng, hàng hóa kinh doanh và đặc điểm dịch vụ của cửa hàng.
– Tích cực tham gia những hoạt động từ thiện để quảng bá danh tiếng của cửa hàng.
Năm 2004 quẻ Cấn bát vận bắt đầu chuyển động, quẻ Cấn tượng trưng cho núi cao. Bát vận chuyển động, núi cao cũng chuyển động, các cao nhân sống trong núi cũng thay đổi tâm lý, cùng xuống núi mưu cầu công danh. Điều này có nghĩa là ngũ thuật: sơn, y, mệnh, bặc, tướng của các sơn nhân nêu lên chắc chắn sẽ tung hoành thiên hạ trong năm bát vận (2004 – 2023).
Ngũ hành và con giáp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Hãy cùng xem vận mệnh của người tuổi Mão theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có sự khác biệt như thế nào nhé!
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
Người tuổi Mão tính tình hiền dịu, chu đáo, luôn quan tâm chăm sóc cho mọi người. Họ rất giỏi giao tiếp xã hội, có nhân duyên tốt đẹp, biết hưởng thụ và thưởng thức cái đẹp, biết lắng nghe và giữ bí mật cho người khác.
Vậy ngũ hành có ảnh hưởng gì tới con giáp này không? Theo tử vi thì vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ như thế nào? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu bí mật này nhé.
Ngũ hành theo năm sinh tương ứng của người tuổi Mão được chia ra như sau:
Người sinh năm Quý Mão ngũ hành thuộc Kim: 1963, 2023
Người sinh năm Tân Mão ngũ hành thuộc Mộc: 1951, 2011
Người sinh năm Ất Mão ngũ hành thuộc Thủy: 1915, 1975
Người sinh năm Đinh Mão ngũ hành thuộc Hỏa: 1927, 1987
Người sinh năm Kỷ Mão ngũ hành thuộc Thổ: 1939, 1999
Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên ## cũng sẽ giúp bạn tra cứu mệnh ngũ hành của mình một cách nhanh chóng.
Để tìm nội dung cần xem nhanh hơn, mời bạn click vào Mục lục dưới đây.
MỤC LỤC
Tuổi Mão mệnh Kim
Tuổi Mão mệnh Mộc
Tuổi Mão mệnh Thủy
Tuổi Mão mệnh Hỏa
Tuổi Mão mệnh Thổ
![]() |
Người sinh năm Mão ngũ hành thuộc Kim tính cách hoạt bát, sôi nổi, vì thế mà cuộc sống của họ thường rất bận rộn và phong phú đủ sắc màu. Họ có nhiều niềm đam mê và sẵn sàng theo đuổi nó tới cùng, người này thường mải mê làm việc tới quên ăn quên ngủ.
Nhân duyên của người này rất tốt, họ có khiếu ăn nói, khiến cho người đối diện cảm thấy thoải mái như được uống một ngụm nước mát lành giữa trưa hè nóng bức. Nếu ngăn cách họ với xã hội, người tuổi Mão mệnh Kim sẽ cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, đó cũng chính là lý do thôi thúc họ tạo dựng mối quan hệ xã giao thật tốt.
Tính cách người này lương thiện và có phần bảo thủ, không thích cạnh tranh không lành mạnh. Họ thích thử thách, cạnh trang công bằng, thường hay kết bạn với những người có tham vọng và dã tâm lớn, dễ thành tri kỉ với người có chí tiến thủ, ham học hỏi.
Trong công việc, người tuổi Mão mệnh Kim khá lặng lẽ, họ toàn tâm toàn ý làm công việc của mình, không đòi hỏi mà rất có trách nhiệm với những việc được giao. Tuy nhiên, họ không thích hợp triển khai những kế hoạch lớn, có thời gian lâu dài.
Nếu bạn có ý định thôi việc hoặc nhảy việc, hãy kiên nhẫn, cho bản thân thêm thời gian suy nghĩ kĩ càng và lên kế hoạch thực tế cho mình. Trong khoảng thời gian này, áp lực và mệt mỏi khiến bạn muốn buông xuôi, vậy thì hãy dùng một phần số tiền tích lũy được cho bản thân, đi chơi một chuyến cho thư thái tinh thần, trở về bắt tay gây dựng cuộc sống mới.
Có trí tưởng tượng phong phú, người tuổi Mão mệnh Kim luôn khao khát trở thành người tài giỏi xuất chúng. Họ ghét sự tầm thường, nhàn chán của cuộc sống. Trong tình yêu, họ cũng tỏ rõ cá tính của mình.
Đây là người hết lòng vì tình yêu. Không yêu thì thôi, đã yêu thì họ nguyện chết đi sống lại với tình cảm của mình. Nhiệt tình như lửa, không cần biết đến cảm xúc của đối phương nên đôi khi họ trở nên mù quáng trong tình yêu.
Tuy nhiên, cũng chính nhờ sự nhiệt tình và chủ động mà đã nhắm tới ai thì đa phần họ đều theo đuổi được. Nam hay nữ đều như vậy, đây cũng được coi là điểm cuốn hút, hấp dẫn của họ đối với người khác giới.
Bạn có biết Tuổi Mão hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân không?
Vận mệnh người tuổi Mão theo ngũ hành Kim khá có duyên với tài lộc, thường hay có được vận may tài lộc đầy nhà. Song người này nên cực kì cẩn trọng, bởi tiền bạc có nhiều trong tay nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể có chuyện bất trắc xảy ra khiến phá tài hao của.
Nên hạn chế tiếp xúc với lĩnh vực đầu tư, tuyệt đối tránh xa cờ bạc, vay nặng lãi. Nên thắt chặt chi tiêu, tránh những cuộc vui chơi sa đọa không cần thiết.
![]() |
Người tuổi Mão mệnh Mộc thông minh lanh lợi, có nhiều ý tưởng độc đáo. Người khác thường có ấn tượng vì sự vui vẻ lạc quan của họ, song kì thực đây lại là người có nội tâm thâm trầm, thậm chí có phần thâm hiểm khi họ nhớ kĩ và ghi thù từng chuyện nhỏ.
Về đường tình duyên, tình cảm của người tuổi Mão mệnh này không mấy ổn định, trải qua khá nhiều sóng gió thăng trầm. Họ là người kiên định trong tình yêu, nếu lỡ duyên không thành thì phải mất một khoảng thời gian rất lâu mới vượt qua được bóng đen tâm lý.
Người này có khuynh hướng dễ trở nên ích kỉ, chỉ nghĩ cái lợi cho mình. Chính vì thế, trong mọi chuyện nên chú ý giữ công bằng. Nếu có thể chân thành đối xử, chu đáo lo nghĩ cho người khác thì chắc chắc gia đình và sự nghiệp sẽ càng thêm viên mãn.
Mão Mộc là người không thích nói thẳng ra suy nghĩ của mình, vì thế mà mọi người khó có thể biết được điều thực sự mà họ nghĩ là gì. Những người xung quanh chỉ có thể nhìn thấy bề ngoài hiền hòa của họ, hiếm có ai có thể thực sự lại gần và biết rõ con người Mão Mộc.
Vận mệnh của người tuổi Mão mệnh Mộc khá tốt. Họ có chuẩn bị cho tuổi già từ rất sớm. Họ luôn muốn làm rất nhiều việc, cũng may mắn khi hễ gặp khó khăn lại có quý nhân nâng đỡ, giúp họ giải quyết vấn đề hoặc chỉ cho con đường phát tài phát lộc, bù đắp lại những tổn thất trước đó.
Trong quan hệ xã hội, nên chú ý giữ gìn hòa khí với đồng nghiệp và cấp dưới, tốt nhất không nên gây tranh cãi, mâu thuẫn với người khác.
Với những bạn còn đang ngồi trên ghế nhà trường, trong khoảng thời gian này hãy tập trung vào chuyện học hành, đừng để những suy nghĩ về tiền bạc trong xã hội làm ảnh hưởng. Người tuổi Mão mệnh Mộc thích náo nhiệt nên có phần ham chơi, nên kiểm soát bản thân.
Người này cũng chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi cảm xúc. Họ dễ cảm thấy cô đơn, cảm xúc lên xuống thất thường, buồn vui bất chợt. Những lúc đó, hãy nói chuyện, tâm sự cùng bạn bè, người thân, người yêu để giải tỏa tâm trạng.
Bình thường Mão Mộc là người chi tiêu khá phóng tay, thường xuyên xuất hiện những khoản mua sắm giá trị lớn, mà thường thì là cho chuyện ăn uống là chủ yếu. Nên tiết kiệm hơn về tiền bạc. Bạn có thể thử bắt đầu từ những khoản đầu tư nho nhỏ hay mua cổ phiếu của công ty, cơ hội thành công khá cao.
![]() |
Người tuổi Mão mệnh Thủy tính cách ôn hòa, song cũng rất nhạy bén, linh hoạt, có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh khác nhau, có khả năng phát huy bản thân ở mức cao nhất. Khuyết điểm của người này là thiếu nguyên tắc, dễ chịu ảnh hưởng bởi người khác.
Người này tâm niệm mọi chuyện “tùy duyên”, cũng chính vì lý do này mà họ thường có cái nhìn khá bi quan và thụ động, thích ổn định an nhàn, theo đuổi sự sung sướng hạnh phúc. Họ làm việc không cố gắng hết mình, hiếm khi tạo áp lực cho bản thân, hết trách nhiệm là không để ý đến nữa.
Tuy nhiên, nếu có người bên cạnh quan sát, đốc thúc, không ngừng cổ vũ, tạo niềm tin thì người này sẽ có thêm động lực và thu được thành quả khá tốt đẹp. Mão Thủy là người dễ dựa dẫm vào người mà họ tin tưởng, nhưng hễ mất đi chỗ dựa này thì tinh thần họ sẽ rất dễ bị suy sụp. Đây là khuyết điểm cần khắc phục, bởi con người luôn phải học cách độc lập, không ai nắm tay nhau được cả ngày.
Tính cách có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp của người tuổi Mão. Khi tinh thần sa sút thì họ khó tập trung vào công việc, đặc biệt là những công việc đòi hỏi sự chuyên nghiệp và chính xác thì càng có khả năng mắc sai lầm. Nên điều chỉnh cảm xúc của bản thân, khống chế mình, không để cảm xúc ảnh hưởng đến công việc quá nhiều.
Khả năng giải quyết việc riêng tư của Mão Thủy không được tốt lắm. Họ dễ để cảm xúc dẫn dắt, vì những chuyện không đâu mà trút giận lên người khác, cũng rất dễ nảy sinh tranh cãi với cấp trên, cản trở tiền đồ phía trước. Nếu muốn sự nghiệp hanh thông, vạn sự như ý thì trước tiên phải học cách kiểm soát bản thân.
Vận thế tình cảm của người tuổi Mão mệnh Thủy không có nhiều sóng gió, mọi chuyện diễn ra bình bình, đôi lúc xuất hiện niềm vui bất ngờ nhưng thường rực rỡ quá mức chịu đựng. Họ khó tìm được người tâm đầu ý hợp, cũng khắt khe trong việc lựa chọn bạn đời. Nên thay đổi thái độ và tích cực hơn trong chuyện tình duyên.
Những người đã có đôi hay đã kết hôn gặp khá nhiều vấn đề rắc rối trong cuộc sống, chi phối tình cảm người này, do đó dễ nảy sinh tranh cãi với nửa kia. Nên học cách nhẫn nhịn, yêu thương người bên cạnh mình.
Sự dịu dàng cũng có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của người tuổi Mão mệnh Thủy. Họ dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dễ bị lừa gạt, nên rèn luyện cho mình khả năng quan sát và phán đoán sự việc, nhất là trong chuyện tình cảm. Nếu gặp vấn đề về sức khỏe, nên lập tức đến bệnh viện kiểm tra, đừng sợ tốn tiền mà ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân.
Người này khá may mắn, cho dù gặp khó khăn về tiền bạc nhưng cũng nhờ sự trợ giúp của người khác mà vượt ải. Họ cũng khá khéo léo khi sử dụng nguồn vốn của người khác để đầu tư sinh lời cho bản thân.
Mão Thủy có bản lĩnh, có đủ tự tin để đối phó với trở ngại, đặc biệt là những chuyện xui rủi xảy tới bất ngờ. Họ nhanh chóng trấn tĩnh bản thân và tập trung vào hóa giải nguy cơ. Bạn bè, đồng nghiệp, người cùng hợp tác là những trợ thủ đắc lực cho người này. Nên cố gắng giữ mối quan hệ tốt đẹp, đừng vì chuyện vặt mà gây mất tình đoàn kết.
![]() |
Người tuổi Mão mệnh Hỏa sống phóng khoáng, độ lượng, khoan dung hiền hậu với người. Họ thông minh linh hoạt, làm việc nghiêm túc, có tố chất lãnh đạo. Người này có tư duy sáng tạo, cái nhìn độc đáo, biết dùng người tài, còn biết bồi dưỡng lớp người kế cận, là những người giáo viên bẩm sinh.
Tuy nhiên, do mang trong mình lý tưởng cao xa, tham vọng to lớn, lại luôn thích làm người chỉ huy nên Mão Hỏa khiến người khác có ấn tượng khá kiêu căng, tự đại. Ngoài ra, họ còn thích sử dụng sức ảnh hưởng của mình đối với số đông, dùng cách khơi gợi sự cổ vũ để giúp bản thân đạt được mục tiêu nên có thể khiến cho những người xung quanh cảm thấy áp lực nặng nề.
Mời bạn đọc thêm: Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Mão.
Khi làm việc, họ tỏ rõ mình là một người lý trí và bình tĩnh, tự rèn luyện cho mình khả năng học hỏi và ghi nhớ từ kinh nghiệm của người đi trước, rất nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, không có suy nghĩ lười biếng hay đi đường tắt.
Tính xấu đổ lỗi, trút giận lên người khác mỗi khi không rất có thể khiến cho các mối quan hệ xã giao của người này mất đi sự hài hòa. Nên giữ lời ăn tiếng nói, suy nghĩ kĩ trước khi hành động để tránh hối hận về sau.
Trong chuyện tình cảm, khi gặp chuyện không vui, họ thường xả ngay với người yêu, thậm chí có khi không khống chế được bản thân mà có những lời nói gây tổn thương, đau khổ cho đối phương. Vì thế, khi thấy buồn bã, Mão Hỏa hãy cố gắng suy nghĩ lý trí, đừng để người yêu trở thành “sọt rác” chứa mọi nỗi niềm của mình, nhất là những khi đi xa, đi du lịch cùng nhau.
Người này có thể gặp phải những vấn đề xấu về tiền bạc bất ngờ xảy đến. Nhất định phải nhớ kĩ, không được hoảng loạn, tốt nhất nên đầu tư vào bất động sản hoặc các vật dụng có giá trị cao.
![]() |
| mão ngũ hành |
Người tuổi Mão mệnh Thổ có khát vọng khá lớn, chí tại bốn phương. Họ mơ ước tự tay gây dựng cho mình một đế chế, tay trắng làm nên sự nghiệp. Cũng chính vì chí hướng như vậy nên người này thường xa gia đình từ rất sớm, tự mình lập nghiệp, phát triển ở bên ngoài, sau này thành đạt mới trở về vinh quy bái tổ.
Tính cách họ có phần cao ngạo, lại có tham vọng lớn, thấy cái lợi không biết điểm dừng, thậm chí có phần hơi tham lam. Nếu biết nghe lời khuyên bảo, góp ý của người khác, biết tìm cho mình điểm dừng thì số tài sản tích lũy được thời trẻ có thể bảo toàn.
Tính cách thẳng thắn, thoải mái vô tư, song lời nói và hành động của họ đôi khi hơi thái quá, đem lại cảm giác lỗ mãng, không hiểu lãng mạn là gì. Họ luôn yêu cầu rất cao trong công việc, cũng có khả năng biến hóa linh hoạt, năng lực xuất chúng hơn người.
Họ chú ý đến tiểu tiết, rất hợp làm những nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ kĩ càng. Tuy nhiên, họ rất nhanh chán nản, cần luôn tự tạo động lực làm việc cho bản thân thì mới có thể theo đuổi mục tiêu hết mình.
Sức khỏe của Mão Thổ không được tốt lắm. Với nam giới, ra ngoài họ là người hoạt bát, nhưng về tới nhà thường trở nên trầm lặng, suy tư. Nữ giới là người có sức hút rất lớn với người khác phái. Họ dịu dàng hiền thục, thân thiện dễ gần, không chê trách ai bao giờ, được rất nhiều người yêu mến, song cũng có không ít kẻ ganh đua ghen tị.
Vận mệnh người tuổi Mão mệnh Thổ về cơ bản khá tốt, nhưng người này không có tài quản lý tài chính, tiền vào nhiều mà không cẩn thận thì ra cũng nhiều. Đừng nên tùy tiện cho người khác vay tiền, cũng hạn chế vay tiền người khác, càng không được lại gần chốn cờ bạc kẻo dễ sa chân lỡ bước.
An An
-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.
-Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.
Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng
Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.
Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.
Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.
Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.
VDTT phỏng dịch và chú thích
Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.
Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.
Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.
Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.
Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.
Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.
Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?
1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.
2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.
Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?
“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.
Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.
Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.
Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.
Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.
Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.
Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.
Giải thích các đại vận
Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.
Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).
Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?
Định nghĩa vài thuật ngữ:
Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…
Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.
Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.
Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.
Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!
Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.
Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.
Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.
Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.
Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.
Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.
Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.
Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.
Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.
Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.
Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!
Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.
Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.
Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.
Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).
Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?
Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.
Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.
Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)
Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).
Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.
Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.
Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.
Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.
Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.
Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.
Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.
Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.
Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.
Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.
Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?
Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?
Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.
Các hạn về sau:
Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.
Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).
Lời kết:
Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:
Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.
Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.
Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.
Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.
Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.
Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.
Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.
Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.
Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.
Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình. Người ta có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, bởi vậy mà mỗi con người, mỗi bản thân chúng ta trong cuộc sống không ai giống ai. Mỗi người có một ngoại hình riêng, mỗi tính cách khác nhau sẽ tạo nên sự đa dạng trong cuộc sống của chúng ta. Về chính bản thân mình, bạn có thể hiểu rõ mình muốn gì, làm gì và làm như thế nào nhưng đôi lúc, có những sự quyết định cần sự góp ý của người khác.
Và chúng tôi đã sưu tầm được những câu nói hay về bản thân mà bạn nên đọc và suy ngẫm dưới đây.
1. Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?
2. Không một ai có thể làm cho bạn cảm thấy mình thấp kém nếu không có sự đồng ý của bạn.
3. Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.
4. Tương lai của bạn phụ thuộc vào rất nhiều điều, nhưng chủ yếu là vào bạn.
5. Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn.
6. Hãy yêu bản thân vô điều kiện, như là bạn yêu những người thân thiết với mình bất chấp khuyết điểm của họ.
7. Hãy có trách nhiệm với cuộc đời mình. Hãy biết rằng chính bạn là người sẽ đưa bạn tới nơi bạn muốn đến chứ không phải ai khác.
8. Sống như chính mình trong một thế giới luôn cố biến mình thành người khác là thành tựu lớn nhất.
9. Bệnh nhân nào cũng đem theo bên trong người thầy thuốc của chính bản thân mình.
10. Ngay bây giờ bạn đã có trong mình mọi thứ bạn cần để đối phó với bất kỳ điều gì mà thế giới ném vào bạn.
11. Hạnh phúc lớn nhất ở đời là có thể tin chắc rằng ta được yêu thương – yêu vì chính bản thân ta, hay đúng hơn, yêu bất kể bản thân ta.
12. Con người chỉ là sản phẩm của cách mình suy nghĩ. Anh nghĩ gì, anh sẽ trở thành cái đó.
13. Tôi là chính bản thân tôi. Tôi thích điều tôi thích. Tôi yêu điều tôi yêu. Tôi làm điều mình muốn làm. Tránh ra và chấp nhận đi. Đây là cuộc sống của tôi, không phải của ai khác.
14. Đừng bao giờ nói về mình những điều mình không muốn trở thành hiện thực.
15. Người biết yêu bản thân mình không có đối thủ.
16. Người sáng tác chính bản thân mình thông thái hơn người sáng tác một cuốn sách.
17. Những đam mê của chúng ta nói lên chính bản thân ta.
18. Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình.
19. Không có giá trị nào trong cuộc sống trừ những gì bạn chọn đặt lên nó, và không có hạnh phúc ở bất cứ đâu trừ điều bạn mang đến cho bản thân mình.
20. Học… học để là chính mình, và học để từ bỏ với vẻ thanh cao những gì không phải là mình.
21. Điều tôi đi tìm không ở ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi.
22. Khi ba mươi tuổi, người ta nên biết rõ mình như trong lòng bàn tay, biết rõ con số cụ thể của những khiếm khuyết và phẩm chất của mình, biết mình có thể đi xa bao nhiêu, đoán trước những thất bại – là chính bản thân mình. Và trên hết, chấp nhận những điều đó.
23. Bạn không cần ai nói với bạn rằng bạn là ai hay bạn là điều gì. Bạn là chính con người bạn!
24. Không dễ để tìm hạnh phúc trong bản thân mình, và không thể tìm thấy nó ở đâu khác.
25. Luôn luôn mơ và nhắm cao hơn khả năng của bản thân. Đừng bận tâm tới việc làm tốt hơn những người đương thời hay những người đi trước. Hãy cố để tốt hơn chính mình.
26. Chúa giúp người biết tự giúp mình.
27. Có một điều mà chúng ta có thể làm được tốt hơn bất cứ ai khác: chúng ta có thể là chính mình.
28. Hãy là bạn với chính mình, rồi người khác sẽ đến.
29. Hãy nghĩ về … thế giới bạn mang trong bản thân mình.
30. Có ba thứ cực kỳ cứng: thép, kim cương, và tự thấu hiểu bản thân.
Ngoài ra, bạn còn có thể tham khảo thêm những câu nói hay về cuộc sống, tình bạn, tình yêu qua blog của chúng tôi để có những cái nhìn mới hơn về cuộc đời mình nhé.
Văn Khấn Thượng Thọ được dùng trong lễ Thượng Thọ cho ông, bà, cha, mẹ thọ từ 70 tuổi trở lên. Đây là tập tục thể hiện đạo lý làm người, uống nước nhớ nguồn, kính trọng biết ơn người đã sinh thành nuôi dưỡng mình, rất đáng được trân trọng.
Trong ngày lễ mừng thọ, gia chủ phải có mâm lễ: Hương hoa, quả, vàng mã cùng lễ mặn gà xôi hoặc lễ tam sinh (lợn, bò, dê), đem ra đình lễ Thần, gọi là bái tạ Thần Hưu (tạ ơn Thánh Thần đã phù hộ cho cha mẹ được sống lâu).
Dâng lễ:
Lúc lễ, cha mẹ ăn mặc đẹp, ngồi trên ghế đặt chính giữa, con cháu tế tự lễ bái. Con cái dâng lễ, mỗi người dâng một chén rượu, mừng thọ, hoặc nâng một làn quả đào gọi là bàn đào chúc thọ.
Con cháu lễ bái xong rồi tổ chức cỗ bàn ăn mừng, mời hàng xóm, khách khứa đến dự. Khách đem lễ vật đến mừng và chứng kiến sự hạnh phúc của cụ, sự hiếu thảo của con cháu. Họ hàng cũng có lời chúc mừng. Hai bên nhà có treo những câu đối, đại tự để mừng cụ. Có nhà còn mời ca nhi tới để ngâm thơ, ca hát.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương Trời, mười phương phật, Chư Phật mười phương
Hôm nay ngày…….tháng…….năm……
Tại (địa chỉ)…………………………….
Hậu duệ tôn là:………… quỳ trước linh vị….. (đọc linh vị của Thủy Tổ, Tiên Tổ được liệt thờ trong nhà thờ họ)
Kín cẩn lạy tâu rằng:
Cúi nghĩ: tuổi tác tự Trời Phật ban cho
Hình hài nhờ Tổ Tiên mới có
Nay:
Toàn dân hớn hở đón xuân sangTín chủ mừng vui làm lễ thọ
Yết cáo chư vị Thần Linh
Kính lạy miếu đường Tiên Tổ
Xin rộng lòng nhân
Nguyện vun trồng đức độ
Mong Sao Ngày tháng mãi bền lâu
Ước gốc cành thê củng cố
Tưởng niệm công đức ngày xưa
Gọi chút hương khói lễ nhỏ
Ngửng trông chứng giám tấc thành
Cúi xin phù trì bảo hộ
Mong Tiên linh khơi rộng mạch Trường sinh
Cho hậu duệ leo lên thềm Thượng thọ
Trên Thiên tào tăng niên kỷ lâu dài, như rùa hạc vô cương
Dưới Hải ốc tươi phúc lộc dồi dào, như suối nguồn bất hủ
Khấn đầu cúi lạy Thần linh, tiên tổ thượng hưởng!
Đôi khi, cung cấp thông tin không đầy đủ có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn so với không việc không có thông tin. Cũng chính vì lý do này nên nhiều người đã không thể áp dụng được chính xác những giải pháp, bí quyết tốt đẹp để cải thiện cuộc sống của bản thân bằng phong thủy.

Nhiều người kiêng kỵ hoa khô vì chưa hiểu rõ quan niệm phong thủy về chúng.
Quay trở lại với câu hỏi của bạn, bạn có nhắc đến những bông hoa khô đang trang trí trong nhà là do một người bạn đặc biệt tặng và bạn muốn giữ lại. Bây giờ, chúng ta hãy cùng làm rõ hoa khô được đánh là phong thủy xấu như thế nào? Các bậc thầy phong thủy cổ xưa đã đúc kết một câu nói rất hay và ý nghĩa rằng: "Hãy tin vào những gì trái tim bạn mách bảo"!
Hãy hỏi trái tim bạn xem nó nghĩ gì về những bông hoa khô trong nhà. Nếu bạn cảm nhận được nguồn năng lượng đẹp đẽ, hài hòa khi tiếp xúc với chúng, bạn đương nhiên có thể giữ chúng lại nhưng cần "đối xử" với chúng theo một cách đặc biệt.
Khi bạn trưng hoa khô trên bàn thờ hoặc làm khô những bông hoa tươi theo cách đặc biệt thì lúc này chúng thực sự trở thành biểu thượng phong thủy dành cho riêng bạn, đại diện cho một thứ gì đó gần gũi, thân thiết với bạn. Hoa khô vẫn sẽ mang đến năng lượng tốt nếu như bạn chăm sóc tốt cho chúng.
Thêm vào đó, từ xa xưa, con người đã biết làm khô cây cối và hoa lá để phục vụ nhiều mục đích khác nhau như làm đẹp, chữa bệnh... có phải là phong thủy xấu hay không? Hoa oải hương (hoa lavender) là một loài hoa phong thủy tuyệt vời mà chúng ta thường sử dụng dưới dạng khô và chúng không hề bị coi là xấu.

Khó khăn duy nhất bạn phải đối mặt khi bày hoa khô trong nhà là duy trì được nguồn năng lượng tươi mới để bạn luôn cảm thấy vui vẻ mỗi khi nhìn thấy chúng.
Thách thức phong thủy với hoa khô ở đây chỉ là làm sao để duy trì được dòng chảy năng lượng tươi mới và giữ cho chúng thật đặc biệt, nhất là khi nó gắn liền với những kỷ niệm đáng nhớ của con người.
Dù vậy, có điều rất quan trọng bạn cần nhớ đó là hãy vứt chúng đi khi bạn không còn cảm thấy cần chúng thêm nữa. Không bao giờ có những chỉ dẫn thời gian cụ thể để bạn thay thế hoa khô, tất cả phụ thuộc vào cảm xúc của mỗi cá nhân.
Nếu bạn quyết định trang trí hoa khô trong nhà, hãy chọn một vị trí đặc biệt cho chúng và đừng quên vệ sinh thường xuyên để tránh bụi bẩn và tạo ra sự lộn xộn trong nhà.
I – Thiên địa nhân
Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất.
Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người.
Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên.
Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên.
Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu.
II – Thiên nguyên
Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý.
1 – Ngũ hợp của thiên can
Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục.
Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận.
2 – Tính chất của ngũ hợp
Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính.
Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa.
Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự.
Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn.
Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình.
5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp.
3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục
Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ.
Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim.
Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy.
Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc.
Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa.
Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân.
4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ
Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa.
a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục.
b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học).
Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can.
5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận
a – Ngũ hợp chỉ có 2 can
1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này).
2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác).
3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác).
4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác.
5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn.
b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên
Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật.
1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ.
2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau.
Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới).
Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau).
III - Địa nguyên
Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân.
Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)).
Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148).
1 - Lục hợp của địa chi
Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục.
Ngọ...........Mùi..................Thổ cục.
Dần...........Hợi..................Mộc cục.
Mão...........Tuất.................Hỏa cục.
Thìn..........Dậu..................Kim cục.
Tị............Thân.................Thủy cục.
Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ.
2 – Tam hợp của địa chi
Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục.
Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục.
Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục.
Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục.
Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị....
3 - Các bán hợp của địa chi
Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục.
Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục.
Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục.
Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục.
Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị.
Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục).
4 – Tam hội của địa chi
Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục.
Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục.
Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục.
Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục.
Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo.
Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ).
5 - Lục xung của địa chi
Tý....với..Ngọ...là tương xung
Mão........Dậu................
Dần........Thân...............
Tị...........Hợi................
Thìn.......Tuất...............
Sửu.........Mùi................
Trong đó:
Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa.
Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc.
Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc.
Trong đó:
Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi.
6 – Tương hại của địa chi
a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý
b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu
c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần
d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão
e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân
f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu
Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp :
Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ).
Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ).....
Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần.
7 – Tương hình của địa chi
Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến.
Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến.
Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên .
Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau.
8 - Tự hình của địa chi
Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “.
9 - Tứ hình của địa chi
Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả.
10 - Tứ trự hình của địa chi
Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi.
(Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.)
11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ
Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh.
a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn.
Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận).
Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn).
b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá).
c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục.
12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận
a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn.
b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận.
c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ.
f – Địa chi tranh hợp thật :
1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục.
2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục.
Giải thích :
Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông.
Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục).
3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155).
4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165).
Giải thích :
Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?)
13 - Thiên Khắc Địa Xung
A - Thiên khắc địa xung
Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX):
1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ.
2 – TKĐX có chi là Thổ.
3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau.
TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung.
B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc
1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như :
Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ
Bính...............Canh.............Đinh............Tân
Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý
Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất
Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh.
2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như:
Tý.....khắc....Ngọ
Dậu..............Mão
Hợi...............Tị
Thân..............Dần
Thìn..............Tý
3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như :
Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất
Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn
Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi
Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu
Tý...................Thìn.
Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều.
Ví dụ :
1 - Trụ Giáp Tý TKĐK với trụ Mậu Ngọ bởi vì trụ Giáp Tý có Giáp khắc Mậu và Tý khắc Ngọ.
2 - Trụ Giáp Ngọ TKĐX với trụ Mậu Tý bởi vì trụ Giáp Ngọ chỉ có Giáp khắc Mậu còn Ngọ chỉ xung Tý.
3 - Trụ Giáp Thìn TKĐX với Mậu Tuất bởi vì trụ Giáp Thìn chỉ có Giáp khắc Mậu còn Thìn chỉ xung Tuất.
14 – Thời gian của các trụ trong tứ trụ mang vận hạn
Trụ năm mang vận hạn từ khi mới sinh đến tròn 15 tuổi.
Trụ tháng mang vận hạn từ 15 tuổi đến tròn 30 tuổi.
Trụ ngày mang vận hạn từ 30 tuổi đến tròn 45 tuổi.
Trụ giờ mang vận hạn từ 45 tuổi tới tròn 65 tuổi.
Từ 65 tuổi trở đi trụ năm mang vận hạn (hay là ở cả 4 trụ ?).
Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì điểm hạn của tất cả các lực xung hay khắc vào trụ này đều phải tăng gấp đôi, trừ can chủ khắc của nó ở lưu niên nhược ở tuế vận.
Xem các giả thiết từ số 166/ tới 168/ ở chương 14.
IV - Nhân nguyên
Địa chi tàng chứa từ 1 đến 3 can, các can tàng này được gọi là Nhân nguyên (các nguyên nhân của người). Các can tàng này chính là 10 thần, là các thần nắm sự việc,.... chúng đại diện cho các yếu tố chủ quan của người có tứ trụ. Do vậy chúng ta rất khó dự đoán được các yếu tố này khi nào sẽ phát sinh và biểu hiện ra bên ngoài. Thiên can đã lộ ra trong tứ trụ (can năm, can tháng và can giờ) cũng có các đặc tính như vậy nhưng vì nó đã lộ ra ngoài nên dễ nhận biết được để dự đoán.
1 – Các can tàng trong địa chi
Quý....................tàng trong Tý...........Kỷ, Tân và Quý.....tàng trong Sửu
Giáp, Bính và Mậu ..............Dần..........Ất....................................Mão
Mậu, Quý và Ất..................Thìn.........Bính, Canh và Mậu................Tị
Đinh và Kỷ.........................Ngọ..........Kỷ, Ất và Đinh.....................Mùi
Canh, Nhâm và Mậu...........Thân.........Tân...................................Dậu
Mậu, Đinh và Tân................Tuất.........Nhâm và Giáp........................Hợi
Chú ý : Can tàng có cùng hành với hành của địa chi mà nó tàng được gọi là can tàng bản khí hay chính khí (bởi vì nó có lực mạnh hơn các lực của các can tàng khác trong địa chi đó) còn các can tàng khác trong địa chi này (nếu có) được gọi là can tàng phụ.
Ví dụ 1 : Tị tàng chứa các can Bính, Mậu và Canh trong đó Bính là can tàng mang bản khí hay khí chính (tức là hành Hỏa là hành chính của Tị), vì vậy Bính có lực mạnh hơn lực của Mậu và Canh chỉ mang hành là tạp khí hay khí phụ là Thổ và Kim. Mậu và Canh được gọi là can tàng phụ.
Ví dụ 2 : Dậu chỉ có chứa 1 can tàng Tân là bản khí, không có tạp khí.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Như chúng ta cũng biết, đã từ rất lâu con người rất coi trọng phong thủy. Họ xem đó là một yếu tố mang lại may mắn và thành công. Ngoài linh vật phong thủy thì đá quý phong thủy cũng được sử dụng trong phong thủy. Họ tin tưởng vào sự may mắn mà nó mang lại. Đồng thời người ta thiết kế đá quý thành những sản phẩm vô cùng tinh sảo, cực kì đẹp. Đá quý trở thành vật mang tới may mắn và đồ trang trang sức không thể thiếu mang lại sự cao quý của con người. Như bài trước chúng ta đã được tìm hiểu về đá thạch anh cũng như là 4 loại đá quý phong thủy nhất thế giới. Hôm nay hãy cùng chúng tôi khám phá những loại đá quý đắt tiền nhất thế giới hiện nay nhé!
Mặc cho nền kinh tế toàn cầu điêu đứng vì khủng hoảng, những người tiêu dùng cấp tiến vẫn không ngần ngại vung tay trước những khoản đầu tư mà giá trị của nó có thể bảo đảm cho cả tương lai. Bên cạnh đó, việc những chương trình truyền hình nổi tiếng như Gossip Girl và Made in Chelsea dựng lên những hình ảnh về một cuộc sống phong lưu, xa xỉ của những cô gái ở độ tuổi đôi mươi đã tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ. Ngày nay, đối với nhiều phụ nữ trẻ, trang sức đá quý luôn có một mãnh lực ghê gớm. Tuy nhiên, để chọn ra một chiếc vòng cổ kim cương thật đẹp hay một chiếc nhẫn ngọc mắt mèo thật tinh tế không phải chuyện đơn giản. Là người am hiểu và thông tuệ, bạn nên trang bị cho mình vốn hiểu biết về đá quý, không chỉ đơn giản là giá trị về mặt vật chất mà còn cả giá trị về văn hóa, lịch sử.
Dưới đây là 10 loại đá quý đắt giá nhất trên thế giới, đắt hơn cả kim cương – xét về cả hai góc độ: Giá cả và độ quý hiếm
Nội dung
Đứng ở vị trí số 1 là Jadeite – ngọc bích đổi màu hay còn gọi là Phỉ Thúy – một khoáng chất pyroxen thường có màu như màu táo xanh, xanh ngọc lục bảo, xanh tỏi tây hoặc xanh nhạt. Tương truyền đây là loại đá quý mà lúc sinh thời Từ Hy Thái Hậu vô cùng si mê. Khác với cẩm thạch (jade), ngọc bích đổi màu (jadeite) vẫn được xem là loại bảo thạch kỳ bí, hiếm có và đắt tiền nhất còn tồn tại cho tới ngày nay, viên đá nào có màu sắc càng sống động, khả năng đổi màu thì càng đắt. Những viên jadeite có chất lượng tốt nhất được tìm thấy ở Myanmar, các viên có chất lượng thấp hơn rải rác ở Guatemala, Nga, Nhật Bản và California. Viên ngọc jadeite đắt tiền nhất đã được đem bán đấu giá tại nhà đấu giá Christies vào năm 1997 có giá tới € 6,866,000. Đó là chuỗi vòng cổ “Doubly Fortunate” được kết từ 27 viên ngọc jadeite đường kính khoảng 5mm.

Kim cương đỏ là loại kim cương nổi tiếng nhất và quý hiếm nhất trong gia đình kim cương với chỉ chưa đến 20 viên được biết đến cho đến ngày nay. Ngoài một số viên có màu đỏ tía hoặc đỏ pha trộn với các màu sắc khác, một viên kim cương màu đỏ tinh khiết là cực kì hiếm. Theo ước tính, cứ 1 triệu carat kim cương tự nhiên mới có có 1 carat màu hồng hay màu đỏ. Tại mỏ Argyle (Australia), mỗi năm người ta chỉ tìm thấy một lượng kim cương đỏ rất nhỏ, sau vài năm những viên cương này sẽ được bán đấu giá và dù ở kích thước và khối lượng nào thì kim cương đỏ vẫn thuộc nhóm những viên kim cương triệu đô. Viên kim cương với các mặt cắt tự nhiên lớn nhất hiện nay (nặng 5,11 carat) hiện thuộc sở hữu của thương hiệu trang sức Moussaieff Jewellers .

Được tìm thấy ở Sri Lanka và khu vực Mogok của Myanmar, Serendibite là một loại đá màu xanh chàm với thành phần khoáng chất như Magiê, Bo, Silicone và Oxy. Hầu hết các viên đá serendibite được tìm thấy cho đến nay có màu lam xanh lá cây, xanh lam xám hoặc vàng nhạt . Trước năm 2005, chỉ có ba viên senendibites được cho là tồn tại (ở Sri Lanka). Tuy nhiên, gần đây một số viên serendibites nhiều mặt, chất lượng cao đã được tìm thấy ở Mogok (Myanmar).

Thời kì đồ đồng, người ta đã sử dụng Garnet – ngọc hồng lựu như một loại đá quý có khả năng như bùa hộ mệnh. Ngọc hồng lựu là một nhóm khoáng chất silicat với nhiều màu sắc khác nhau: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương, tím, nâu, đen, hồng và không màu, trong số đó màu xanh lam là màu đẹp nhất và cũng hiếm nhất. Vào những năm 1990, Ngọc hồng lựu lam được tìm thấy ở Madagascar, gần đây là Nga, Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ. Khi đặt ở vị trí ngược sáng, do chứa một lượng lớn vanadi – một kim loại hiếm có màu xanh, bạc, xám, hồng lựu lam có thể đổi màu từ lục thành lam dưới ánh sáng ban ngày, và sang màu tím tía nếu được soi dưới ánh sáng đèn dây tóc.

Painite được nhà khoáng vật học người Anh đồng thời là một người buôn bán đá quý Arthur C.D.Pani phát hiện lần đầu tiên tại Myanmar vào những năm 1950. Nó được cho là loại đá quý hiếm nhất thế giới với chỉ có hai tinh thể nhiều mặt tồn tại. Tuy nhiên, vào năm 2001, người ta đã tìm thấy một số tinh thể painite khác trong khu vực Mogok của Myanmar. Màu sắc của viên đá quý hiếm dường như tỏa ra từ bên trong mỗi tinh thể, nó có thể chuyển màu từ đỏ sang nâu rồi lại sang cam – đỏ pha nâu rất huyền diệu.

Được phát hiện đầu tiên vào năm 1902, Grandidierite là một loại ngọc cực kỳ hiếm gần như chỉ có ở vùng nam Madagascar. Nó được đặt theo tên nhà thám hiểm người Pháp Alfred Grandidier (1836-1912) chuyên nghiên cứu về cứu lịch sử tự nhiên của Madagascar. Grandidierite có màu lục ngả lam và thể đổi từ màu xanh lam sang xanh lục và sáng trắng. Người ta cũng đã tìm thấy một lượng nhỏ loại đá này ở Sri Lanka, Na Uy và Mỹ. Một viên grandidierite tinh khiết nhất nặng chỉ nửa carat cũng đáng giá tới 50.000€.

Một thành viên cực kỳ hiếm hoi của gia đình taaffeite – một loại đá quý hiếm có khả năng khúc xạ gấp đôi các loại đá khác được phát hiện vào năm 1967 ở dãy Musgrave thuộc Nam Australia. Musgravite (loại đá quý mới nhất trong danh sách này) là khoáng silicat có thành phần chính là beryllium (Be), magiê (Mg) và nhôm (Al). Hai viên Musgravite nhiều mặt được tìm thấy đầu tiên ở Sri Lanka vào năm 1993, từ năm 2005 đến nay, các địa danh được báo cáo là đã tìm thấy Musgravite gồm Greenland, Madagascar, Nam Cực, Sri Lanka và Tanzania. Viên đá Musgravite lớn nhất được biết đến hiện nay thuộc sở hữu của Mulitcolor.com và nặng 5,74 carat.

Ngọc lục bảo đỏ là một loại ngọc bích có màu đỏ được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1904. Nó là loại đá hiếm nhất trong các loại đá quý nói chung, chỉ có thể tìm thấy tại một vài địa điểm như dãy Thomas vùng núi Wah Wah, hạt Beaver, tiểu bang Utah, hẻm núi Paramount Canyon, hạt Sierra và New Mexico. Người ta ước tính cứ 150,000 viên kim cương mới tìm thấy một viên ngọc lục bảo đỏ. Lý do cho sự hiếm hoi này được cho là do Red Beryl Emerald được kết tinh trong điều kiện độc nhất vô nhị, ở nơi có mức áp suất vô cùng thấp và nhiệt độ cực kỳ cao, dọc các khe nứt và lỗ hổng chứa magma của núi lửa. Tại những nơi này, người ta tìm thấy Beryl đỏ trong khoáng Rhyolite. Có thể nói, trên thế giới rất khó có thể tìm thấy mẫu khoáng vật quý hiếm được cắt mài tự nhiên như ngọc lục bảo đỏ này.

Ngọc mắt mèo đen là loại có giá trị nhất trong tất cả các loại ngọc mắt mèo, hơn hẳn Opal lửa và Opal trắng. Điều làm nên sức hấp dẫn của loại đá này là mỗi viên đá lại sở hữu một vẻ đẹp hoàn toàn riêng biệt và hội tụ đầy đủ màu sắc của những loại đá quý khác cộng lại. Và mặc dù khoáng chất tạo nên loại đá này có ở khắp nơi trên trái đất nhưng để tìm được một viên đá Opal đạt chất lượng đá quý cũng khó như tìm kim đáy bể. Hiện 97% lượng đá mắt mèo trên thế giới đến từ các mỏ khai thác tại Australia. 3% còn lại đến từ Mexico. Cấu trúc bên trong của ngọc mắt mèo có khả năng tán xạ ánh sáng tạo nên vầng quang phổ màu sắc rất đẹp. Mỗi viên đá có hiệu ứng tán xạ khác nhau và khi quan sát từ các góc khác nhau, chùm màu sắc này lại thay đổi. Đá mắt mèo đen chứa ít nước hơn và ít bị rạn nứt hơn loại sáng màu. Do màu đen đặc trưng nên đá mắt mèo đen có thể dễ dàng phân biệt với các loại đá khác, tuy nhiên chỉ có các phương pháp kiểm định khoa học mới xác định được viên đá nào là tự nhiên, chưa qua xử lý và viên đá nào là nhân tạo và đã qua xử lý.

Jeremejevite vốn là một khoáng chất borat nhôm, là một loại đá quý hiếm và ít người biết đến, không màu hoặc có màu xanh da trời hoặc vàng nhạt, chủ yếu xuất hiện ở Siberia, Đức, Namibia, núi Parmir ở Tajikistan, 2 địa điểm mới nhất phát hiện có khoáng vật này là Myanmar và Srilanka. Jeremejevite được phát hiện bởi nhà nghiên cứu khoáng vật học người Pháp Augustin Alexism Damour và được đặt theo tên nhà khoáng vật học người Nga Pavel Vladimirovich Ereemeev khi ông này tìm ra nó tại Namibia vào năm 1883. Jeremejevite có thể được cắt và đánh bóng mà không gặp bất kỳ vấn đề gì, không chịu tác động của nhiệt độ cao. Hiện nay, một viên đá Jeremejevite 2,93 carat có giá từ €147.000 trở lên.

Trên đây là 10 loại đá quý hiếm nhất và có giá đắt nhất hiện nay. Hãy tham khảo và chọn cho mình 1 loại đá quý phù hợp nhé!
![]() |
| tang gia |
| ► Mời các bạn khám phá thế giới tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
Phong Nguyên
Chúng ta không mấy người không biết mãnh lực của đồng tiền, hoặc tình yêu, nhưng ít ai quan tâm hay biết đến mãnh lực của Tử vi. Do đó tô xin kể lại câu chuyện có thật sau đây mà tôi không bao giờ quên được trên con đường học hỏi Tử vi, để nói lên phần nào ảnh hưởng của mạnh mẽ của khoa Lý số.
Hồi còn là học sinh trung học ở ngoài Bắc, tôi rất mê khoa Tử vi tuy chưa qua được giai đoạn ABC, cho nên ngày nào cũng vậy, dù có bận học đến đâu tôi cũng giành chút thời gian đến nhà một thầy tử vi đã có nhã ý nhận chỉ dạy cho tôi về khoa này. Ngoài tôi ra, cũng có vài ba người cũng bằng trạc tuổi tôi được nhận làm học trò và còn một người tôi còn nhớ rõ tới bây giờ (tôi tạm gọi là anh N. dưới đây) do mẩu chuyện như sau:
Đi học Tử vi
Anh N. tuy còn trẻ tuổi và còn là học sinh, nhưng khả năng tử vi của anh có thể nói là rất già giặn, khiến cho sư phụ của tôi cũng phải ngạc nhiên và riêng tôi rất phục. Vì anh giỏi Tử vi sớm như vậy nên bất cứ trường hợp nào anh cũng đặt Tử vi lên hàng đầu. Một hôm, trong giờ học Tử vi, tôi thấy anh có vẻ suy tư và bồn chồn mong cho chóng hết giờ. Vì tôi và anh sau một thời gian cùng học đã trở nên thân thiết, nên tôi chẳng ngại hỏi anh lý do, khi thầy tôi bận tiếp khách lạ.
Anh ngập ngừng một chút rồi nói: “Tôi định nhờ bác (chúng tôi quen gọi sư phụ của chúng tôi là bác) xem giúp lá số của một người bạn thân của tao nhưng ngại ngùng quá.”
Trước việc tầm thường như vậy, tôi rất ngạc nhiên và chỉnh anh liền: “mày thật lẩm cẩm, chỉ có thế mà mặt mũi lo âu. Thường ngày mình vẫn thường nhờ bác coi bao nhiêu lá số có bị phiền trách gì đâu, vả lại có như thế mới học hỏi Tử vi được chứ.”
Trường hợp khác thường
Chắc biết là mình vô lý nên anh vội tâm sự với tôi: “Nếu chỉ nhờ bác xem Tử vi như các trường hợp khác thì nói làm gì, nhưng hôm nay là trường hợp khác thường. Thằng bạn của tao suốt ngày chẳng học hành gì, cứ tối ngày cặp kè hết cô này tới cô khác vì nó đào hoa kinh khủng, có thể nói chưa bao giờ thất bại trước cô nào cả. Mỗi lần tao khuyên nó bớt đi chơi thì nó vênh mặt lên và nói rằng, nó chỉ ngưng khi nào bị khổ nhục vì tình. Vì thế tao có ý định dùng Tử vi để “stop” bớt sự ăn chơi của nó, và lại chính bố và thấy có vẻ đúng vì nó có Thiên Tướng cư Mão ngộ Đào mẹ nó nhiều lần nhờ tao khuyên can nó mà! Tao đã lập sẵn lá số Tử vi của nó Đào Hoa, Hỉ, Long, Phượng, Quang, Quý thành ra vừa đẹp trai vừa kiêu kì, lại ăn nói duyên dáng, hay gặp may trong vấn đề ái tình. Tao tính nhờ bác coi xem làm sao gây ảnh hưởng với nó bằng Tử vi vì bác đã hứa, sẽ chỉ cho mình các yếu tố chi phối người khác bằng khoa này đó!
Lúc đó tôi mới hiểu lý do và hoàn toàn tán đồng ý kiến của anh, vì thực ra tôi cũng tò mò muốn biết sớm cách chi phối người khác bằng Tử vi. Hai đứa chúng tôi dặn nhau chờ học xong, và sau khi mấy người bạn kia về hết sẽ nêu vấn đề đó với thầy.
Chiều hôm đó may mắn là thầy tiếp khách rất mau và khiến chúng tôi đỡ sốt ruột và hên hơn nữa mấy người bạn kia lại xin phép về sớm vì có việc nhà. Thế là chúng tôi có hoàn cảnh thuận lợi để hỏi thầy.
Sau một phút suy nghĩ thầy chỉ gật gù mà không nói gì khiến chúng tôi rất lo ngại, vì sợ thầy khiển trách hoặc từ chối. Chúng tôi chỉ dám nhìn trộm thầy chứ đâu dám hỏi vì thầy chúng tôi rất khó tính, quy tắc tuy rất đạo đức…Chúng tôi biết thầy đang nghĩ lung lắm, có thể vấn đề này phức tạp và quan trọng là nó chạm đến quyền tự do của người khác, nếu không muốn nói là làm hại người ta.
Thầy giúp
Bỗng nhiên thầy chúng tôi đằng hắng một tiếng và nghiêm mặt nói: “Mọi khi các cậu (thầy quen gọi chúng tôi như vậy) nhờ tôi coi các lá số khác không khi nào tôi dè dặt hoặc thắc mắc, nhưng hôm nay vấn đề của cậu N. nêu ra khiến cho tôi phải ngần ngại vì nếu cậu thực tình muốn dùng Tử vi để đưa bạn vào con đường tốt thì tôi sốt sắc giúp ngay, nhưng nếu vì ghen tức với bạn mà nhờ tôi thì không bao giờ tôi chấp thuận. Tuy nhiên tôi biết cậu N. là người nhân hậu và đứng đắn, sau một năm trời học tôi, cho nên tôi khỏi cần cậu xác định. Đâu, lá số của anh bạn đó đưa tôi coi xem sao.”
Thật là niềm vui sướng bất ngờ cho chúng tôi nói chung chứ không phải cho riêng bạn tôi vì chính tôi chờ mong giờ phút được nghe giảng về khía cạnh đó hơn ai hết.
Anh N. vội vàng đưa lá số đó một cách trịnh trọng, hai tay run run vì vừa mừng vựa sợ.
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng lá số, thầy chúng tôi nói với giọng chỉ dạy như mọi khi: “Vì chưa chỉ cho các cậu những phương thức tổng quát để chi phối người khác bằng Tử vi, nên giờ tôi giới hạn phần áp dụng trong khuôn khổ lá số này. Trước hết cần xem những sao quan trọng ở Mệnh của anh này kị những sao gì. Đây nhé, Thiên Tướng sợ nhất Triệt và Kình Dương, còn Đào Hoa dễ bị Thiên Không vô hiệu hoá. Long, Phượng, Quang, Quý không cần chứ trọng vì không đóng vai trò chính. Thân cũng chưa cần xét đến vì anh bạn của cậu vẫn còn trẻ tuổi, chưa đến 30. Sau đó, phải xem tới tiểu hạn có thuận lợi cho việc gây ảnh hưởng hay không vì nếu chưa thích hợp thì cũng đành chịu, đâu thể nào thay đổi hẳn số mạng. Nhưng anh này môi trường khá thuận lợi vì cung nhập hạn có Thái Tuế, Cô Quả, Khốc, Hư, Kình, Đà chứng tỏ anh ta bắt đầu bước vào giai đoạn chí thú. Ngoài ra đây là trường hợp giúp anh ta chứ không phải hại cuộc đời anh ta. Cho nên thủ mạng rồi đem đến đây cho tôi định liệu.”
Việc kiếm mấy lá số như việc gây ảnh hưởng phải thận trọng và tế nhị hơn nhiều, vì nếu quá tay có thể bất lợi cho anh ta…Bây giờ, cậu N, cố kiếm vài ba lá số của các bạn gái hoặc mấy cô trong họ hàng có Kình Dương, và có Thiên Không càng tốt, vậy đối với anh bạn tôi không khó khăn gì bởi lẽ anh đã lập hầu hết lá số các bạn gái, bạn trai và người trong họ. Chúng tôi chỉ thắc mắc không biết thầy chúng tôi “định liệu” như thế nào.
Tìm người giúp bạn
Không đầy 24 tiếng đồng hồ sau anh N. đã kiếm được tới 5 lá số có yếu tố do thầy kia. Quá thắc mắc và tò mò, chúng tôi liền năn nỉ thầy giải thích và may thay thầy chúng tôi lại vui vẻ chỉ dẫn.
Chúng tôi ấn định và ngay chiều hôm sau anh liền đưa cho thầy. Sau khi nghiền ngẫm rất lâu 5 lá số đó, thầy tôi lựa ra được 1 lá số và dặn anh N. làm cách nào giới thiệu với cô liên hệ với anh bạn của anh. Chúng tôi hơi thất vọng vì chẳng hiểu dụng ý của thầy tôi ra sao và chúng tôi chẳng biết lý do gì thầy tôi bỏ 4 lá số
“Trước hết tôi cho các cậu biết muốn chi phối người khác, theo chiều hướng tốt cũng như xấu phải dựa vào các yếu tố Tử vi của một người này có khả năng chế hoá hoặc thay đổi được các yếu tố Tử vi của một người khác, chứ không phải chỉ dùng lá số của người mình muốn chi phối là đủ đâu. Ngoài ra, khi thực hành khía cạnh này phải mất công phu tìm kiếm lá số thích hợp, vì nếu không tìm được lá số thì đành chịu. Và khi có lá số đáp ứng đúng phương diện gây ảnh hưởng rồi, lại phải “gia giảm” cẩn thận như cân thuốc thì mới hiệu quả…Đại để là như vậy, tôi sẽ chỉ dẫn tỉ mỉ hơn sau này, bây giờ tôi đề cập đến những lá số của cậu N. đã đưa và cho các cậu biết tại sao tôi đã lựa lá số của cô này tạm gọi lá cô Th. cho phân biệt, và bỏ 4 lá số kia.”
Được người áp đảo
Đầu tiên là lá số của cô M. có đủ cả Kình Dương và Triệt tại Mệnh mà không có Thiên không cho nên hơi tai hại cho “đối phương” vì nguyên Triệt đã áp đảo được Thiên Tướng nay lại thêm cả Kình Dương nữa thì e rằng anh ta có thể bị nguy khốn về nhiều phương diện, đó là điều trái chủ trương của tôi. Ngoài ra, mệnh của cô M lại ko có Thiên Không, như thế sao Đào Hoa của anh bạn vẫn hiệu lực, tức là vẫn được nhiều con gái thương yêu khiến cho anh còn có mặc cảm tự tôn. Vả lại, nói chung Thiên Tướng thấy Triệt là muốn tránh né rồi, làm sao khiến anh ta tìm cách gần gũi cô ta được nói chi tới vấn đề yêu đương để chi phối…Vì thế tôi phải bỏ lá số của cô M.
Lá số của cô V đây cũng không dùng được mặc dù có Kình Dương, vì có thêm Địa Kiếp, Hoả Linh, Thất Sất là những sao chủ về thiếu nhan sắc và lại vô duyên nữa thì khó lòng hấp dẫn được một chàng trai đầy chiến thắng về tình yêu.
Còn lá số của cô H này có đủ Kình Dương, Thiên Không và Triệt mà vẫn không thể sử dụng được mà vẫn không dùng được vì bị dính Cô, Quả tại Mệnh là các sao không cho phép cô luyên ái với ai được. Nhât là có Thiên Không đi kèm nữa. Như thế giới thiệu cô này với anh ta cũng bằng thừa.
Riêng lá số của cô L. này mới coi tưởng dùng được vì Mệnh có Kình Dương, Thiên Không cư Tý, lại hội cả Đào Hồng chủ sắc đẹp, tức là đủ sức khiến anh ta chú ý và khi trở thành người bạn rồi thì Kình Dương và Thiên Không mới “ra tay” để gây ảnh hưởng thua sút phía anh ta, cho đến nỗi phải chịu luỵ và nhục với người mình yêu. Nhưng cuối cùng tôi lại thay đổi ý kiến vì còn lá số kia thuận lợi hơn. Vả lại tiểu hạn lá số của cô L. lại đủ hết Riêu, Y, Mộc, Hỷ, Thai nên tôi e rằng có thể vì thương nhau quá trớn mà “mang bầu tâm sự”
….
(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)