MỆNH THỔ – CHỌN MÀU SƠN PHONG THỦY 1. Về tính cách chung người – mệnh thổ Năm sinh: Người có mệnh thổ được sinh vào các năm: 1960 – 1961, 1968 – 1969, 1976 – 1977, 1990 – 1991, 1998 – 1999…
Tính cách: Nếu bạn là mệnh thổ thì bạn không được nhiều người biết đến bởi bản tính khiêm tốn, giản dị, không phô trương. Những phẩm chất đó cùng với bản lĩnh vững vàng lại khiến cho mọi người đánh giá cao về bạn. Bạn còn là người đem lại sự hòa hợp giữa các thành viên trong nhóm một cách lặng lẽ, âm thầm, nhờ sự khôn khéo trong cư xử, vốn là một đặc tính của hành Thổ.
♦ Chăm chỉ, thiên về lý trí, thực tế, đáng tin cậy, có tinh thần trách nhiệm, vững vàng, khiêm tốn và giản dị.
♦ Người thuộc mệnh Thổ là người thực tế nhất. Cuộc sống hằng ngày, đối với bạn, không chỉ đơn giản là việc gì đến sẽ đến, nhưng luôn được lên kế hoạch với những suy tính như điều gì cần phải làm và cách nào là tốt nhất.
Màu sắc: Bạn là mệnh Thổ nên sử dụng tông màu vàng đất, màu nâu, ngoài ra có thể kết hợp với màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng hỏa sinh Thổ). Màu xanh là màu sắc kiêng kỵ mà gia chủ nên tránh dùng (Thanh mộc khắc Thổ).
2. Về chọn màu sắc sơn nhà theo phong thủy – mệnh thổ
– Ngày nay việc lựa chọn màu sắc theo phong thủy trở nên phổ biến hơn bao giờ hết, điều đó cũng không ngoại lệ với trường hợp lựa chọn màu sơn nhà vì màu sắc tường nhà tác động hàng ngày đến gia chủ và các thành viên khác trong gia đình.
– Màu sắc trong phong thủy chủ yếu hướng đến việc cân bằng năng lượng âm và dương để đạt đến sự hài hòa lý tưởng. Âm là sắc tối yên tĩnh hấp thu màu và dương là sắc sáng chuyển động phản ánh màu. Do vậy, màu sắc được vận dụng để tăng cường những yếu tố thuận lợi và hạn chế những điều bất lợi từ môi trường tác động vào ngôi nhà.
– Bạn chọn màu sơn phong thủy hợp với mệnh thổ theo màu cơ bản sau đây:
– Nếu phòng riêng của bạn thì việc chọn màu chỉ cần những màu hợp với bạn, những màu bạn thích nhưng trong gia đình thì lại có nhiều thành viên có mệnh khách nhau do vậy bạn nên chọn với các lưu ý sau:
♦ Nếu là bên ngoài nhà, phòng khách, lan can, ban công… thì bạn nên chọn màu mà bạn thích nhưng về phong thủy hợp với chủ nhà ( hoặc tương sinh, vượng bởi với chủ nhà), nó sẽ làm cho chủ nhà có một không gian tốt để phát triển sự nghiệp.
♦ Nếu là phòng riêng hoặc phòng ngủ của vợ chồng thì bạn nên chọn 2 màu, 1 màu hợp với bạn, còn 1 màu thì tương sinh (hoặc vượng bởi) với người còn lại.
♦ Nếu là phòng trẻ nhỏ bạn nên chọn màu hợp với mệnh của con bạn ( hoặc tương sinh với mệnh con bạn) sẽ giúp con bạn được gia tăng sinh khí, giúp phát triển toàn diện tránh gây ức chế. – Để chọn màu cho các thành viên khác trong gia đình bạn hãy xem các màu tương sinh và vượng bởi sau đây:
3. Bộ sưu tập màu sắc phong thủy
– Bạn có thể tham khảo bộ sưu tập màu sơn phong thủy cho 5 mệnh khác nhau.
4. Một số lựa chọn màu sắc sơn nhà theo phong thủy – mệnh thổ
Theo quan niệm của người Hồng Kông cổ xưa, trăng tròn tượng trưng cho phước lành, và họ tin rằng Nguyệt lão, tức Thần Hôn nhân ngự trên mặt trăng cũng được năng lượng mặt trăng hỗ trợ. Từ đó dẫn đến một tập tục khá thú vị của các thiếu nữ Hồng Kông diễn ra vào ngày rằm tháng Giêng Âm lịch. Vào ngày đó, khi mặt trăng tròn chiếu sáng rực rỡ, cũng là lúc âm khí mạnh nhất, các cô gái muốn tìm cho mình một người chồng và ước mong được hưởng phước lành trong quan hệ hôn nhân, thường ném những quả cam chín mọng xuống nước.
Họ tin rằng gió và nước sẽ mang ước nguyện của họ ra đại dương, giúp họ tìm được những chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Quả cam tượng trưng cho vàng, một biểu tượng của sự thịnh vượng. Điều này là do quả cam phát âm giống chữ “Kim” có nghĩa là vàng. Khi ném cam xuống nước, người ta thường chọn những quả cam chín ngọt và thơm ngon, bởi chúng tượng trưng cho địa vị xã hội và tài sản của người chồng tương lai. Ngày nay, tập tục này vẫn còn được lưu truyền. Theo phong thủy, năng lượng của mặt trăng có thể mang đến cho gia đình bạn một chàng rể xứng đáng. Vì thế muốn nhận được may mắn về đường hôn nhân, bạn có thể kích hoạt năng lượng của mặt trăng trong phòng ngủ bằng cách treo một bức tranh có hình trăng sáng. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bố cục căn nhà toạ Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất: Căn nhà này toạ Tây hướng Đông, tài vị ở hướng Đông Bắc. Xét về mặt đại thái cực, tài vị ở vị trí bệ cửa sổ của phòng khách còn theo tiểu thái cực, tài vị ở chính diện với cửa chính cũng gầ
Tài vận: Đại tiểu thái cực đều nằm ở Đông Bắc, là sinh khí thần tài, lại gặp Diên Niên nên đại cát đại lợi. Đặt đồng tiền ngũ đế hoặc tỳ hưu ở đó thì vượng càng vượng thêm.
Sức khoẻ nhân đinh: hướng Tây và Tây Bắc đều là đinh thần vượng vị, cho nên đặt bếp lò tại hướng Tây của nhà bếp là tốt nhất.
Những cảm bẫy tiêu tiền thường gặp khi mua đồ gia dụng –
Mua nhà mới, mua đồ gia dụng, vốn dĩ là một trong những hoạt động tạo nhiều cảm hứng cho con người, đặc biệt là phụ nữ, nhưng khi đi mua đồ gia dụng thực sự thì có biết bao cảm bẫy tiêu tiền mà bạn không thể lường trước được. -Đổi đẳng cấp nhãn mác đ
Mua nhà mới, mua đồ gia dụng, vốn dĩ là một trong những hoạt động tạo nhiều cảm hứng cho con người, đặc biệt là phụ nữ, nhưng khi đi mua đồ gia dụng thực sự thì có biết bao cảm bẫy tiêu tiền mà bạn không thể lường trước được.
-Đổi đẳng cấp nhãn mác để che mắt khách hàng
Hiện tượng trong các cửa hàng đồ gia dụng bày bán đủ loại sản phẩm như hãng cao cấp, hàng đạt tiêu chuấn, hàng đạt tiêu chuẩn bán chạy, hàng loại II… là rất thường gặp, việc cần làm của người tiêu dùng là phải đề cao cảnh giác, khi cửa hàng chuyển đồ về đến nhà bạn cần kịp thời mở đóng gói ra để kiểm tra xem đồ được chuyển đến có đúng là cái mà bạn đã chọn tại cừa hàng không; Khi trả tiền nhất định phải yêu cầu cửa hàng viết hóa đơn, trên hóa đơn phải ghi rõ loại hàng hóa, đẳng cấp hàng hóa, mẫu mã hàng hóa… để tiện giai quyết khi xẩy ra vấn đề, không nên nhẹ dạ tin vào những cửa hàng giám giá, khuyên mãi vì họ có thể đặi giá thật lên rất cao rồi giảm giá đi cho bạn.
-Cẩn thận trong khi mua đồ gia dụng dị hinh
Đồng thời với việc các cửa hàng bán đồ gia dụng đồng bộ ra, họ còn mong muốn khách hàng sẽ mua giường đệm đi kèm có bán trong cửa hàng, họ lấy lý do là “đang thịnh hành trên Thế giới” dẫn dắt khách hàng đết những bộ giường dị hình để kiếm chút lợi nhuận. Hiện nay, phần lớn giường đệm trên thị trường có kích thước quy cách là dài 2m, nếu mua giường dị hình thì có thể sẽ bị nhỏ đi rất nhiều, hơn nữa đồ dùng trên giường kèm theo có khi bị “lệch lạc”, không có cảm giác đồng bộ, rất khó mua.
-Những loai gỗ quý đắt có thể có đồ giả
Trên thị trường sàn gỗ, sàn gỗ thực (gỗ thiên nhiên) đã thu hút được sự chú ý của phần đông người tiêu dùng, tuy nhiên do “lòng tham lợi nhuận” của các cửa hàng nên thường xảy ra hiện tượng “hàng loại II thay hàng loại I để kiếm lợi nhuận cao. Theo điếu tra, giá sàn gỗ thực cao hay thấp tùy thuộc vào chất lượng gỗ. Nhưng, vì để kiếm lợi nhuận cao, hiện nay không ít nhà kinh doanh đã sử dụng các loại gỗ khác để giả là sàm gỗ chất lượng cao.
Đối với vấn đề này, các chuyên gia nhắc nhở rằng, khi mua sản phẩm sàn gỗ thực chất lượng cao nhất định phải lưu ý, tránh nhầm đồ mạo danh, có thế chọn một số nhà cung cấp tên tuổi, có uy tín, chất lượng tương đối được đảm bảo.
Chị em săn lùng đá hồ ly tránh kẻ thứ ba cướp chồng
Theo truyền thuyết, hồ ly sau khi thành tinh sẽ biến thành một người phụ nữ quyến rũ có thể câu dẫn trái tim của bất cứ người đàn ông nào mà mình nhắm trúng.
Hồ ly là tên gọi của loài cáo thành tinh. Theo truyền thuyết, loài cáo có thể tu luyện để đắc đạo. Tu trăm năm thì được gọi là Yêu Hồ (3 đuôi), tu nghìn năm thành Lục vĩ ma hồ (6 đuôi) và cao nhất là Cửu vĩ thiên hồ (9 đuôi). Hồ ly cái khi hóa thành hình người thì rất xinh đẹp, thông minh, giảo hoạt và có sức quyến rũ kì lạ. Mọi người thường đồn nhau khi hồ ly tỏa ra yêu mị thì mọi đàn ông đều 'đổ gục'.
Ở Trung Quốc, tương truyền rằng Đắc Kỷ, mỹ nữ thời Trụ vương, là một hồ ly tinh có sức mê hoặc lòng người. Còn ở Việt Nam, cáo chín đuôi cũng là con vật hay gây hại cho dân lành. Đức Lạc Long Quân thuở xưa đã giết chết một con Cửu vĩ thiên hồ để trừ hại cho dân rồi vứt xác tạo thành vũng sâu gọi là đầm Xác cáo, tức Hồ Tây ngày nay.
Đá hồ ly trong phong thủy
Trong phong thủy, nếu người phụ nữ đeo trang sức đá hồ ly thì sẽ gặp được nhiều may mắn về đường tình duyên, hôn nhân, hạnh phúc đôi lứa. Những ngày gần đây, nhiều chị em đang rỉ tai nhau đeo dây chuyền mặt đá hồ ly để giữ chân bạn đời, tránh rơi vào tình trạng bị 'hồ ly tinh cướp chồng'. Ngoài mặt tình duyên, hồ ly tinh rất thích số 8, do 'Bát' đọc gần giống với 'Phát' nên đeo đá hồ ly cũng tăng vận may về tài lộc.
Hầu hết các loại đá phong thủy đều có thể được sử dụng để tạo thành đá hồ ly. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì nên sử dụng đá phong thủy có màu hồng hoặc đen theo màu lông của con Cửu vĩ hồ ly gian xảo nhất.
Mặt hồ ly được tạc từ nhiều loại đá phong thủy có màu sắc khác nhau để hợp mệnh.
Đá có màu đen và màu hồng có tác dụng mạnh nhất vì mang màu sắc của loài hồ ly tối cao - Cửu vĩ hồ
Bên cạnh thạch anh hồng, thạch anh đen thì một trong những loại đá được sử dụng nhiều nhất để làm mặt hồ ly là đá obsidian (đá thủy tinh núi lửa). Từ thời xa xưa, đá thủy tinh núi lửa đã được sử dụng để làm các loại bùa chú, bùa hộ mệnh,...để xua đuổi điềm dữ. Nhà thạch học trị liệu Catrin Rafaell còn cho biết khi đặt loại đá đen bóng này ở vùng rốn có thể tiêu tán những nút thắt năng lượng trong cơ thể làm khí lưu thông trong các đường kinh mạch.
Các lễ hội trong ngáy 15 tháng 7 âm lịch - Lễ Trung Nguyên (Lễ Vu Lan)
Lễ Trung Nguyên (Lễ Vu Lan) được diễn ra vào rằm 15 tháng 7 âm lịch trên phạm vi cả nước, ngoài ra trong ngày này còn diễn ra Hội Đổ Giàn tại Bình Định.
Các lễ hội trong ngáy 15 tháng 7 âm lịch - Lễ Trung Nguyên (Lễ Vu Lan)
1.Lễ Trung Nguyên (Lễ Vu Lan):
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 7 âm lịch.
Địa điểm: diễn ra trong cả nước.
Nội dung:
*Cúng Phật: Trước tiên, đó là ngày lễ Vu Lan, xuất phát từ tích kể đức Mục Kiền Liên xả thân cứu mẹ. Ta sắp một mâm cơm chay hoặc đơn giản hơn là mâm ngũ quả để cúng Phật rồi thụ lộc tại nhà.
Khi cúng, tốt nhất là đọc một khoá kinh – Kinh Vu Lan – để hiểu rõ về ngày này, hồi hướng công đức cho những người thân trong quá khứ được siêu sinh. Kinh Vu Lan khá dài, nhưng không đến mức quá dài, lại thuộc thể thơ song thất lục bát nên đọc cũng nhanh thôi.
*Cúng thần linh và gia tiên: Ngày Rằm tháng Bảy, theo tín ngưỡng dân gian, còn là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa.
Một số người Việt Nam tin rằng Lễ Xá tội vong nhân bắt nguồn từ công việc đồng áng của người nông dân trước kia. Hằng năm, cứ đến tháng 6-7 âm lịch là vào vụ thu hoạch mùa màng. Để công việc được may mắn, không gặp trắc trở, người dân thường cầu xin thần linh, thổ địa… bắt giam những yêu ma, oan hồn lại cho khỏi quấy nhiễu.
Đến đúng ngày 15/7, mọi việc phải được hoàn tất, đó cũng là lúc “ông thần tha ma, chủ nhà tha thợ cấy”, “mở cửa ngục xá tội vong nhân”. Và cũng vào ngày này, người ta thường làm một lễ cúng tạ ơn các thần linh, và một mâm tưởng nhớ ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát và cầu bình an cho gia đình. Vì vậy nên đa phần các gia đình thường cúng cơm mặn, nhưng cúng chay tốt hơn.
Về phần đồ cúng – chia ra làm 2 phần:
Đồ cúng bàn thờ gia tiên: Hoa tươi (hoa sen, hoa hồng, hoa ly, hoa tulip.. đừng xài hoa cúc), bánh trái (trái nhiều loại – mỗi loại 1 ít, bánh quy, bánh gạo bánh chocopie..), cafe (G7), 1 cây thuốc lá, vàng mã, tiền thật tùy tâm, nến, hương đầy đủ.
Đồ cúng vong ngoài trời: Hoa tươi (hoa đẹp không phải cúc), bánh trái, cafe, thuốc lá, đĩa xôi, con gà mái luộc (có muối, chanh ớt), bia, rượu, tiền vàng mã, quần áo, giầy dép bằng giấy, gạo, muối. (Nếu gia chủ khó khăn hoặc không có kinh phí hoặc không muốn tốn kém thì có thể giảm số lượng tùy thích), nến, hương (có thêm một bát hương trầm thì càng tốt)
Địa điểm: làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Nữ Thần Biển.
Nội dung: Hằng năm vào ngày rằm tháng 7, nhân dân huyện An Nhơn thường đổ về làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định để dự lễ Vu Lan - báo hiếu của nhà Phật – xem hát bội và những cuộc thi tài. Cũng như nhiều chùa khác ở Việt Nam, vào dịp này nhà chùa trong lễ cúng cô hồn, xá tội vong nhân, thường dựng rạp làm chay (tức lập đàn cầu nguyện cho mọi oan hồn được siêu thoát), tổ chức hát bội cả ngày và đêm. Ngày rằm tháng 7 cũng là tết Trung nguyên của đạo Lão. Cảnh nhà chùa mở hội đón khách thập phương vào dịp này đã được phản ánh trong câu ca dao xưa:
Đồn rằng An Thái, chùa Bà
Làm chay, hát bội đông đà quá đông
Đàn bà cho chí đàn ông,
Xem xong ba Ngọ, lại trông Đổ giàn.
Nhưng sức hấp dẫn của hội chùa Bà không chỉ ở chỗ có "làm chay, hát bội" mà còn vì một lý do khác là hội được tổ chức ngay nơi mảnh đất giàu truyền thống thượng võ: Làng An Thái. An Thái thuộc huyện An Nhơn, là làng võ từng sản sinh ra những võ sư và võ sĩ xuất sắc của đất Bình Định. Dĩ nhiên vào những dịp hội hè, việc tổ chức thi đấu côn, quyền là tiết mục không thể thiếu được. về dự hội, cũng là dịp để các môn đệ thăm viếng, gặp lại bạn bè đồng khoá, đồng môn và cũng là dịp để các võ sĩ thử tài cao thấp trên võ đài. Tuy nhiên không cuộc vui nào hấp dẫn và cuốn hút nhiều người như hội xô cỗ (người Việt gọi là xô giàn, về sau gọi thành đổ giàn – Theo Quách Tấn – Quách Giao, Võ nhân Bình Định).
Người ta thiết lập một cái đàn cúng cao (hình dung như một dàn giáo hẹp, cao khoảng mười mét, bằng tre, gỗ. Trên đó người ta đặt đàn cúng thần gồm hương, hoa, trà, quả và một heo quay để nguyên con, khoảng độ mười lăm, vài chục ký. Khi nghi lễ chuẩn bị kết thúc, đám đông bên dưới trở nên xôn xao, rộn rịp. Những người yếu, người già, phụ nữ và trẻ con thì dãn ra vòng ngoài để cho những võ sĩ và những người khoẻ tiến vào. Những người tiên phong lên giàn hườm sẵn trong tư thế chuẩn bị lao lên, mắt hướng về phía giàn cao, chờ đợi....
Sau những nghi thức cúng lễ cổ truyền như thường thấy ở các lễ hội làng quê, vị chủ tế tuyên bố xô giàn, cho phép cuộc tranh tài bắt đầu. Các võ sĩ tài nghệ cao, phi thân lên giàn tìm cách cướp lấy con heo quay.Sau đó phải luồn lách, lao ra khỏi đám đông, mang con heo quay chạy về địa điển an toàn đã định. Tất nhiên, mỗi nhóm tranh tài đã có phân công người bảo vệ, cản ngăn những đối thủ lợi hại khác có thể giật lại ngay trên tay. Trong cuộc tranh tài này, các võ sỹ dùng tất cả ngón võ, chiến thuật khôn ngoan để giành chiến thắng về mình. Rất nhiều lần hội đổ giàn đã để lại "nợ nần" giữa các phái võ trong vùng, thậm chí cả những lò võ ở tỉnh lân cận như Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà. Hội đổ giàn không phải chỉ một mình Bình Định có nhưng hội đổ giàn của An Thái bao giờ cũng thu hút người tham dự đông nhất và "con heo quay" của An Thái cũng được xem trọng nhất.
Theo tục lệ con heo quay chiến lợi phẩm này được đem xẻ ra để khao chung cho tất cả những võ sĩ cùng có mặt trong cuộc tranh tài này. Những võ sĩ, hay làng võ có người giành được phần thắng được mọi người hoan nghênh và nể trọng và họ tin rằng năm ấy họ sẽ gặp hên vì được "lộc của thần". Thường thì những lò võ ở An Thái và huyện Bình Khê hay giành được vị trí đó. Vì vậy mới có câu: "Tiếng đồn An Thái, Bình Khê, nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo". Heo đây là heo quay, vật cúng thần trong ngày hội. Ý nghĩa của cuộc thi tài này không nằm trong giá trị vật chất của món quà giành được mà ở giá trị tinh thần, được thể hiện qua tài nghệ của những người dự cuộc với chỗ đứng danh dự trong làng võ.
1. Thóp, có người đầy đặn nổi cao: Tướng giầu, trí tuệ. Khí lực dồi dào, năng lực lớn, đa tài. 2. Thóp thấp bằng: Năng lực bình thường. 3. Thóp lõm: Hèn yếu, trí tuệ kém, nghèo. 4. Điều mới lạ từ quan điểm thóp. Những năm giữa thế kỷ 20, nhiều người
Màu sắc bên ngoài cửa hàng cần chú ý những vấn đề nào? –
Sự dung hòa giữa cửa hàng trang nhã và cảnh trí đẹp đẽ chính là thiên thời địa lợi mà thương gia rất coi trọng. Người làm ăn tinh nhanh có thể dùng thiên thời địa lợi để đạt được mục đích của mình. Kiến trúc, trên phương diện nào đó mà nói thì chính
là kiến trúc của sắc màu, nếu bỏ đi kiến trúc của sắc màu thì đó cũng chỉ là một đống trơ trụi.
Theo ngũ hành của phong thủy học mà nói: Vạn vật thiên địa là do năm loại nguyên tố cấu thành: Thủy, Hỏa, Thố, Kim, Mộc, Vạn vật thiên địa đều có thể do Ngũ hành phân phối, màu sắc phôi thành Ngũ hành là năm màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen.
Màu xanh, tương đương với sự ôn hoà của mùa xuân, là màu sắc tươi đẹp của lá cây (Mộc): màu đỏ, tương đương với sự nóng nực của mùa hè, là màu của ngọn lửa rực cháy (Hoà); màu vàng, tương đương với đất, là màu của đất (Thổ); màu trắng, tương đương với sự trong lành của mùa thu, là màu sắc của ánh sáng kim loại (Kim); màu đen là màu của mùa đông giá rét, là nước, là màu sắc của vực sâu (Thủy). Nói một cách ngắn gọn: Mộc là màu xanh, Hỏa là màu đỏ, Thồ là màu vàng. Kim là màu trắng, Thủy là màu đen.
Năm màu xanh, đỏ, vàng, trắng, đen trong thời cổ đại của Trung Quốc còn có ý nghĩa đặc thù:
– Màu xanh – Mãi mãi hoà bình
– Màu đỏ – Hạnh phúc, vui vẻ
– Màu vàng – Lực, phú, hoàng đế
– Màu trắng – Bi ai, hoà bình, tinh khiết
– Màu đen – Phá hoại, vững vàng
Do đó, kiến trúc cổ đại của Trung Quốc đối với việc lựa chọn màu sắc vô cùng cẩn thận. Nếu như mong muốn hy vọng giàu sang phú quý thì kiến trúc thiết kế sẽ dùng màu đỏ; muốn chúc nguyện và hoà bình mãi mãi thì kiến trúc của thiết kế dùng màu xanh: màu vàng là màu của hoàng đế chuyên dùng, kiến trúc dần gian không thể lạm dụng, chỉ có thể dùng trong kiến trúc một bộ phận nhỏ; màu trắng thường ít dùng; màu đen, ngoài việc dùng để mô tả các đường viền kiến trúc nào đó ra thì cũng không được dùng nhiều.
Vì vậy, trong kiến trúc cổ đại của Trung Quốc thì màu đỏ được dùng nhiều nhất, màu sắc chiếm vị trí quan trọng trong phòng thường dùng các màu xanh, màu lục. màu lam là nhiều, các màu sắc khác rất ít dùng.
Sức khỏe người tuổi Tý Nhìn chung tình hình sức khỏe của người tuổi Tý trong tháng 6 khá ổn định. Tuy nhiên về cuối tháng có chuyện muộn phiền nên tâm trạng không vui, ảnh hưởng đến thể trạng. Sức khỏe người tuổi Sửu Với tâm trạng khá thoải mái và tinh thần sung sức, sức khỏe của người tuổi Sửu trong tháng 6 khá tốt và bình ổn. Nên tranh thủ thời gian nghỉ ngơi để đọc sách, vừa có những trải nghiệm thú vị lại thư thái đầu óc, tăng cường sức khỏe. Sức khỏe người tuổi Dần Chuyện tình cảm vẫn bất ổn, chưa có bến đỗ rõ ràng nên ảnh hưởng trực tiếp tới tâm trạng, tinh thần và sức khỏe của người tuổi Dần. Nên tham gia các hoạt động thể thao hoặc dưỡng sinh để tăng cường thể chất. Sức khỏe người tuổi Mão Tâm trạng của người tuổi Mão hầu như vui vẻ và thoải mái suốt tháng 6 nên sức khỏe cũng ổn định và khá tốt. Tuy nhiên, không nên chủ quan, cần kết hợp làm việc và nghỉ ngơi hợp lí, nên đi xa để hít thở không khí trong lành để nâng cao sức đề kháng cho cơ thể, từ đó phòng chống tốt bệnh tật.
Ảnh minh họa
Sức khỏe người tuổi Thìn Khác với người tuổi Mão, người tuổi Thìn thường xuyên rơi vào tình trạng căng thẳng vì áp lực công việc nên tinh thần mệt mỏi kéo dài. Nếu biết cách điều hòa tâm trạng, tiết chế cảm xúc thì sức khỏe mới được cải thiện. Sức khỏe người tuổi Tỵ Dù bên ngoài không thấy bất cứ dấu hiệu mệt mỏi nào ở người tuổi Tỵ nhưng thực chất bạn thường xuyên cảm thấy mệt mỏi. Nguyên nhân là do tháng 6 gặp thương cung vượng nên dễ phát hỏa, sinh bực bội, kiệt sức. Sức khỏe người tuổi Ngọ Tình hình sức khỏe của người tuổi Ngọ tương đối ổn định do duy trì tâm trạng tốt, suy nghĩ tích cực và có chế độ ăn uống hợp lí. Sức khỏe người tuổi Mùi Mặc dù chỉ số về tinh thần giảm nhưng sức khỏe của người tuổi Mùi vẫn khá bình ổn, không có biến động lớn. Nếu biết cách điều chỉnh tâm trạng hợp lí, tránh nóng giận bốc hỏa thì mọi muộn phiền sẽ qua, thay vào đó là những ngày tháng vui tươi, khỏe mạnh. Sức khỏe người tuổi Thân Sức khỏe trong tháng 6 của người tuổi Thân rất tốt, tinh thần làm việc và tham gia các hoạt động tập thể luôn hăng say. Tuy nhiên, nên tăng cường sức khỏe hơn nữa bằng những môn thể thao nhẹ nhàng như đi bộ, dã ngoại, tập yoga…nhằm phòng tránh nguy cơ bệnh tật. Sức khỏe người tuổi Dậu Do tâm trạng của người tuổi Dậu thoải mái và vui vẻ nên sức khỏe cũng được cải thiện hơn so với tháng trước. Nên tận dụng thời gian rảnh vào những ngày nghỉ cuối tuần để đi đâu đó gần gũi với thiên nhiên, hít thở không khí trong lành vừa thư giãn tinh thần lại tăng cường sức khỏe. Sức khỏe người tuổi Tuất Thời tiết nóng nực cộng thêm với tinh thần sa sút nên sức khỏe của người tuổi Tuất có phần giảm sút. Cần đề phòng mắc các chứng bệnh như nóng trong, bốc hỏa, các bệnh về tiêu hóa…Các món ăn thanh đạm, ít dầu mỡ rất tốt cho sức khỏe của bạn, nên thay đổi khẩu phần ăn hợp lí. Sức khỏe người tuổi Hợi Áp lực tinh thần lớn, thời gian luyện tập thể thao ít đi khiến sức khỏe của người tuổi Hợi bị ảnh hưởng rõ rệt. Khi cảm thấy áp lực hay mệt mỏi trong công việc, bạn nên chủ động tìm gặp bạn bè hoặc người thân để chia sẻ, như vậy sẽ trút được gánh nặng tinh thần, từ đó lấy lại niềm vui và sức khỏe ổn định. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Mơ thấy mình phạm pháp và bị cảnh sát bắt giữ là điềm báo tốt lành cho việc học tập như đạt các thành tích cao, nhiều giải thưởng lớn… Củ thể ra sao các bạn cùng chúng tôi giải mã giấc mơ này để biết mơ thấy cảnh sát có ý nghĩa gì nhé! Giãi mã giấc m
Mơ thấy mình phạm pháp và bị cảnh sát bắt giữ là điềm báo tốt lành cho việc học tập như đạt các thành tích cao, nhiều giải thưởng lớn… Củ thể ra sao các bạn cùng chúng tôi giải mã giấc mơ này để biết mơ thấy cảnh sát có ý nghĩa gì nhé!
Nội dung
1 Giãi mã giấc mơ thấy cảnh sát
1.1 Mơ thấy cảnh sát thi hành nhiệm vụ
1.2 Mơ thấy bị cảnh sát bắt giữ
1.3 Mâu thuẫn giữa bạn với cảnh sát
1.4 Mơ thấy cảnh sát đang thi hành công vụ đến hỏi thăm mình
1.5 Mơ thấy mình trở thành cảnh sát
1.6 Mơ thấy mình là cảnh sát
1.7 Mơ thấy mình mặc đồng phục cảnh sát
1.8 Mơ thấy bản thân và cảnh sát nói chuyện với nhau
1.9 Con trai mơ thấy mình đang cần sự giúp đỡ của cảnh sát
1.10 Mơ thấy mình phạm pháp và bị cảnh sát bắt giữ
1.11 Mơ thấy bản thân gia nhập vào đội ngũ công an
Giãi mã giấc mơ thấy cảnh sát
Mơ thấy cảnh sát thi hành nhiệm vụ
Trong giấc mơ bạn nhìn thấy cảnh sát hoặc công an đang đứng thi hành nhiệm vụ, đây là tín hiệu không may mắn cho bạn đâu nhé. Rất có thể bạn sẽ bị tổn hao tài sản hoặc sức khỏe.
Mơ thấy bị cảnh sát bắt giữ
Mơ thấy bản thân bị cảnh sát bắt giữ, xin chúc mừng bạn, tương lai rộng mở trong cơ quan chính phủ đang chờ đợi bạn. Nhiều khả năng bạn sẽ trở thành một nhân vật ưu tú và được mọi người tôn trọng.
Mâu thuẫn giữa bạn với cảnh sát
Nếu giấc mơ xuất hiện mâu thuẫn giữa bạn và cảnh sát, bạn cần nhắc nhở mình phải thận trọng kẻo bị kẻ xấu lợi dụng làm chuyện tham ô quỹ công, gây thất thoát tiền bạc của cơ quan nhà nước.
Mơ thấy cảnh sát đang thi hành công vụ đến hỏi thăm mình
Mơ thấy cảnh sát đang thi hành công vụ đến hỏi thăm mình, dấu hiệu cơ thể bạn bị suy nhược, cần được bồi bổ và luyện tập thường xuyên, tránh xa áp lực học tập hay công việc.
Mơ thấy mình trở thành cảnh sát
Nếu mơ thấy mình trở thành cảnh sát, uy tín của bạn sẽ được nâng lên, nhiều người thực sự ngưỡng mộ bạn.
Mơ thấy mình là cảnh sát
Mơ thấy mình là cảnh sát hình sự và đang tiến hành thẩm tra tội phạm, có nghĩa các mối quan hệ của bạn đang gặp trục trặc. Nguyên nhân là do bạn chưa thực sự hiểu đối phương, vẫn còn điều hoài nghi chưa chắc chắn.
Mơ thấy mình mặc đồng phục cảnh sát
Trong giấc mơ thấy mình mặc quần áo đồng phục của cảnh sát hoặc công an, bạn cần đề phòng những việc liên quan đến kiện cáo.
Mơ thấy bản thân và cảnh sát nói chuyện với nhau
Mơ thấy bản thân và cảnh sát nói chuyện với nhau, đây là điềm báo thăng quan tiến chức dành cho bạn.
Nếu người kinh doanh mơ thấy điều này, cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận những đợt công kích từ đối thủ.
Con trai mơ thấy mình đang cần sự giúp đỡ của cảnh sát
Con trai mơ thấy bản thân đang xin sự giúp đỡ của cảnh sát, điềm báo một cuộc sống an lành và hạnh phúc trong tương lai gần.
Con gái có giấc mơ này, rất có thể sẽ tìm được người ưng ý và trải qua mối tình tốt đẹp.
Mơ thấy mình phạm pháp và bị cảnh sát bắt giữ
Mơ thấy mình phạm pháp và bị cảnh sát bắt giữ. Bạn có vẻ lo lắng vì điều này, nhưng đó lại là điềm báo tốt lành cho việc học tập của bạn. Các thành tích cao và nhiều giải thưởng sẽ bất ngờ đến với bạn.
Mơ thấy bản thân gia nhập vào đội ngũ công an
Nếu mơ thấy bản thân gia nhập đội ngũ công an hay cảnh sát, tín hiệu cho thấy tài sản, tính mạng của bạn luôn được bảo vệ và che chở.
Thiết kế trong phong thủy khách sạn và tính quan trọng trong thiết kế nội quan? –
Thiết kế phong thủy của nhà hàng, khách sạn quan hệ mật thiết đối với môi trường khu vực nền tảng. Môi trường khu vực nền tảng bao gồm: Yêu cầu và ước sách của thiết kế thành thị. lịch sử văn hoá của kiến trúc xung quanh, địa hình địa mạo của khu vực
nền tảng, chủ yếu là canh quan, đường phố, thủy lưu và các bố cục bộ phận của tiệm rượu dẫn đến vấn đề của hình thể thích ứng.
Nên xem xét chủ yếu phạm vi cảnh quan giữa thị giác tốt nhất và cao độ của thị tuyến. Từ góc độ phong thủy học mà nói: Cảnh quan bên ngoài của khách sạn nên lấy cách diệu dương tính làm chính, không nên dùng những màu sắc mang đậm âm tính, như vậy âm khí sẽ nặng, khiến cho khách hàng có cảm giác như bị kìm nén.
Thiết kế cảnh quan bên trong cũng rất quan trọng trong thiết kế phong thủy tiệm rượu, nội dung chủ yếu là thiết kế phòng khách là chính. Các nhà hàng hay khách sạn cao cấp, trung cấp và thấp của cốc nước trên thế giới đều rất nhiều, có cái khách hàng nhiều vô cùng nhưng có cái thì cả ngày chẳng có khách. Ngoài phương pháp và vận khí của người kinh doanh ra, thì thiết kế phong thủy nhà hàng, khách sạn vô cùng quan trọng. Phong thủy học là một môn khoa học tự nhiên, nó thể hiện các năng lương vật lý của giái tự nhiên trong cốc sự vật chứ không phải là mê tín. Hiện nay, có rất nhiều cơ quan nghiên cứu tự nhiên của các quốc gia đều coi phong thủy học làm đề tài quan trọng để nghiên cứu, hơn nửa đã được xã hội hưởng ứng và đạt hiệu quả kinh tế rất tốt.
Vật cát tường: bát què bàn
Giải thích: Bát quẻ bàn có tác dụng điều tiết khí trường, có thể khiến cho gia đình hoà thuận, con cái thăng tiến, chủ nhân bình an, tài vận thuận lợi.
Nhện Phong Thủy, biểu tượng may mắn về tài lộc và tình duyên –
Nhện vốn được xếp vào nhóm con vật có khả năng tu luyện, hoá phép theo các truyền thuyết có từ xa xưa. Biểu tượng Nhện dùng trong phong thuỷ có tác dụng vượt trội mà không phải ai cũng hiểu rõ. Và những chú giải dưới đây giúp bạn khám phá một con lin
Nhện vốn được xếp vào nhóm con vật có khả năng tu luyện, hoá phép theo các truyền thuyết có từ xa xưa. Biểu tượng Nhện dùng trong phong thuỷ có tác dụng vượt trội mà không phải ai cũng hiểu rõ. Và những chú giải dưới đây giúp bạn khám phá một con linh vật vô cùng thú vị và ấn tượng đó chính là nhện phong thủy một biểu tượng cho sự may mắn.
Nội dung
1 Đặc điểm của loài nhện
2 Đặc tính của loài nhện
3 Ý nghĩa của nhện phong thủy
3.1 Mang lại sự may mắn về tài lộc
3.2 Làm trang sức
3.3 Ghi chú
Đặc điểm của loài nhện
Các loại côn trùng cơ thể chia làm ba phần: đầu, ngực và bụng, riêng Nhện chỉ có 2 phần, do đầu và ngực nhập chung thành một, còn phần bụng thì to tròn tách rời. Nhện không nhai mà chỉ tiêu hoá thức ăn bằng cách hút các dịch lỏng của con mồi. Những đặc điểm này được xem là biểu tượng của sự no đủ nhanh chóng trong cuộc sống.
Đặc tính của loài nhện
Đặc tính nổi bậc nhất của Nhện mà khi nhắc đến ai cũng biết đó là cơ thể Nhện tự nhả tơ để phục vụ việc di chuyển, giăng lưới từ tơ để xây tổ dùng làm nơi cư trú, nơi quyến rũ bạn tình, sinh sản và cả săn mồi.. Nên đây được ví là biểu tượng của sự tinh khôn, của trí tuệ, của người biết phát huy nội lực bản thân để tạo nên một cuộc sống hoàn chỉnh cho chính mình.
Ý nghĩa của nhện phong thủy
Mang lại sự may mắn về tài lộc
Nhện luôn có 8 chân, một số ít có 6 chân và có đến 8 mắt, trong đó có 2 mắt chính và 6 mắt phụ rất nhỏ bao quanh, mà theo quan niệm của người Hoa, số 8 là Phát, số 6 là Lộc là sự suôn sẻ, đó là đặc điểm rất tự nhiên tượng trưng cho sự may mắn về tài lộc hàng đầu.
Vì những lý do trên, giới kinh doanh thường mang Nhện phong thuỷ theo bên người xem như là một lá bùa may những lúc giao dịch làm ăn quan trọng. Và những ai có mưu cầu một cuộc sống trọn vẹn về kinh tế và tình cảm cũng xem biểu tượng Nhện phong thuỷ là một vật không thể thiếu bên mình.
Vật phẩm Nhện phong thuỷ đã được sử dụng từ xa xưa, nhưng bộ phận người sở hữu Nhện phong thuỷ luôn kín tiếng, họ thường là các vị có chức tước, các đấng phu nhân quyền quý, giới thương gia.. Họ biết được sự khác biệt của loài Nhện cũng như công dụng, giá trị vượt trội của biểu tượng Nhện phong thuỷ, nên luôn muốn giữ riêng điều đó cho chính mình. Đó cũng giải thích vì sao mức độ phổ biến của Nhện phong thuỷ rất thấp cho đến tận ngày nay.
Làm trang sức
Biểu tượng Nhện phong thuỷ thường được chế tác thành trang sức nhỏ gọn để mang theo người (dùng đeo cổ, bỏ túi, giắt thắt lưng..). Dựa vào đặc tính riêng của nhện, người xưa không bao giờ sử dụng Nhện tạc thành tượng lớn để chưng bày vì sợ khắc chế với con người thay vì may mắn, do quan niệm Nhện to là con Nhện đã thành tinh. Cũng như không muốn nhiều người trông thấy và biết về giá trị phong thuỷ của biểu tượng Nhện mà họ đang sở hữu và trân trọng.
Biểu tượng Nhện phong thuỷ dùng làm trang sức cần được chế tác từ đá quý tự nhiên để phát huy hết tác dụng và công năng, cần tẩy uế đúng cách và chọn ngày giờ tốt theo tuổi với sự hướng dẫn của chuyên gia phong thuỷ khi sử dụng chính thức.
Ghi chú
Nhện phong thuỷ, hồ ly phong thuỷ, tỳ hưu phong thuỷ.. và tất cả các con linh vật phong thuỷ khác khi chế tác thành trang sức mang theo bên người chỉ cần tẩy uế và chọn ngày giờ tốt trước khi sử dụng. Không cần thiết phải khai quang điểm nhãn do các con linh vật khi tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên sẽ nhận được nhân điện từ con người truyền sang, sẽ tự nhận người mang nó bên mình là chủ nhân, và chỉ giúp mang lại những điều tốt lành, may mắn cho chính chủ nhân nó mà thôi.
Và sử dụng vật phẩm phong thuỷ nói chung không cần phải nhờ thầy cúng hay pháp sư niệm chú, làm phép gì khác (trừ việc đặt trong chùa để hấp thụ tịnh khí), do các biểu tượng, các linh vật phong thuỷ được người xưa tạo ra là dựa theo khoa học phong thuỷ, theo truyền thuyết lưu truyền trong cuộc sống thực, chứ không phải dựa theo sự huyền hoặc, phép thuật nào khác (đó chính là ranh giới mong manh nhưng cần được làm rõ giữa phong thuỷ và dị đoan)
Di tiên sinh viết: 1- Đẩu số chi liệt chúng tinh, do đại dịch chi phân bát quái, bát quái phi thoán hệ bất minh, ngũ tinh phi giảng minh hà thố, thị dĩ quan đấu sổ giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
2- Đệ nhất biện tân chủ chi phân, động tĩnh tuần hoàn bất dĩ, chủ tân canh điệp vô câu, chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu, tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
3- Quý bỉ dương đà, duy thị lộc tồn chi hảo ác, tiếu ngô nhật nguyệt dã. 4- Tư không kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu; hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
5- Hỏa tinh vượng cung vi phú luận, dương đà đắc lệnh khởi hung thần? 6- Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì, đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
7- Cân hỏa phần thiên mã, trọng dương trục lộc tồn. 8- Kiếp không thân thích vô thường, quyền lộc hành tàng mỹ định. 9- Quân tử tai khôi việt, tiểu nhân dã dương linh.
14- Thân mệnh tối hiềm dương đà thất sát, ngộ chi vị miễn vi hung. 15- Nhị hạn thậm kỵ tham phá cự trinh, phùng chi định nhiên tác họa. 16- Mệnh ngộ khôi xương đương đắc quý, hạn phùng tử phủ định tài đa.
17- Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung, nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc, hoặc phùng dương đà, tu đề khốc nhi lệ bất càn.
18- Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ phúc tài vi chủ, tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.
19- Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài; mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
20- Liêm lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức; đồng lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
21- Quân tử mệnh trung diệc hữu dương đà tứ sát, tiểu nhân mệnh trung khởi vô khoa lộc quyền tinh, yếu khán đắc viên thất viên, chuyên luận nhập miếu thất hãm.
23- Văn xương văn khúc thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân. 24- Đa học thiểu thành, chỉ vi kình dương phùng kiếp sát. 25- Vi nhân hảo tụng, cái nhân thái tuế ngộ quan phù.
26- Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa; số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy. 27- Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng; mệnh ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
30- Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành; mão dậu nhị không, thông minh phát phúc. 31- Mệnh thân ngộ tử phủ, điệp tích kim ngân; nhị chủ phùng kiếp không, y thực bất túc, mưu nhi bất toại.
32- Mệnh hạn ngộ nhập kình dương, đông tác tây thành. 33- Hạn thân tao phùng phủ tướng khoa quyền lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân. 34- Không kiếp dương linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
1- Đẩu Số bày ra chúng tinh, Do đại Dịch phân chia thành Bát Quái, Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa, Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được, Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.
2- Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét, Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt, Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định, Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được, Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!
3- Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy. 4- Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa; Hình thì có Hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc.
5- Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú, Kình Đà (ở chỗ) đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao? 6- Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại, chứ người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị.
7- Cân đo sức nóng (hỏa phần), nghị lực của Thiên Mã, coi trọng trục (của) Kình Dương Lộc Tồn. 8- Kiếp Không thì (coi) thân thích (là) vô thường, Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp. 9- Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt, tiểu nhân thì (xét ở) Dương Linh (Kình Đà, Linh Hỏa, viết tắt???).
10- Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát. 11- Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại. 12- Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm. 13- (Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau, vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.
14- Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm. 15- Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa. 16- Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời).
17- Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu & Tử, nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên, hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt.
18- Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc & Tài làm chủ, sau đó xét Thiên Di xem thế nào, nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào.
19- Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa; Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại.
20- Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết; Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực.
21- Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát, Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào, (Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào, chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm.
22- Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con, Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết, Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong.
23- (Có các sao) Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài. 24- Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát. 25- Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù.
26- Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao; Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục. 27- Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo; Mệnh (kém) mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ.
28- Như Vũ Phá Liêm Tham, có mưu sâu mà quý hiển, Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn. 29- Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải, Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm.
30- Đại tiểu (hạn) khó khăn, gian khổ, khó đi,... là bởi vì "đoạn kiều tiệt lộ" (đây là 1 thành ngữ "đoạn kiều tiệt lộ" có nghĩa đen là "cầu bị chặt gãy, đường bị chặn", nhưng có thể nghĩa bóng muốn ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,...); Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc. 31- Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân); Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử & Phủ) phùng Kiếp Không thì mưu sự bất toại ý, thiếu ăn thiếu mặc (y thực bất túc).
32- Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây ("đông tác tây thành" đây cũng là 1 thành ngữ. Bạn đọc lưu ý chỗ này nên hiểu liền mạch với Mệnh Thân Tử Phủ ở trên thì mới đúng). 33- Hạn Thân mà phùng Phủ Tướng có Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,... được vin cành nguyệt quế. 34- (Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ.
35- Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân; Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa. 36- Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương cùng hội, thì lúc nhỏ thời hình khắc (với người thân) về già thời cô độc. 37- Như gặp Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, lúc nhỏ thời nghèo khó nhưng về già được hưởng phúc.
Ngọc Thiềm phát vi luận
Bạch ngọc thiềm tiên sinh nhật:
Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng, án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.
Tứ chính cát tinh định vi quý, tam phương sát củng thiểu vi kỳ; đối chiếu hề tường hung tường cát, hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
Cát tinh nhập viên tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung.
Gian mưu tần thiết, tử vi quý ngộ phá quân; dâm bôn đại hành, hồng loan sai phùng tham tú.
Mệnh thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn; huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu.
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa; cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
Hình sát thủ tử cung, tử nan phụng lão; chư hung chiếu tài bạch, tụ tán vô thường.
Dương đà thủ tật ách, nhãn mục hôn manh; hỏa linh đáo thiên di, trường đồ tịch mạc.
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao; ác tinh ứng mệnh cung, nô bộc hữu trợ.
Quan lộc ngộ tử phủ, phú nhi thả quý; điền trạch ngộ phá quân, tiên phá hậu thành.
Phúc đức ngộ không vong kiếp, bôn tẩu vô phương; tương mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.
Dịch nghĩa:
Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh.
Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau, từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác.
Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý, Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp; Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát, cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.
Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi, hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.
Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa; Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện.
Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm, Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận.
Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa, lập mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ngu dốt.
Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương, Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng vật chất trong nhà bị phá tán.
Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai, Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái.
Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya, Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi.
Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian, Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật.
Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn, Tam cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu.
Sát tinh lâm vào tam vị, chắc chắc bất hòa với vợ con, Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa.
Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già; Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường.
Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ, Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường (đời) phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ.
Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ, ác tinh ứng vào Mệnh cung thì nô bộc có sự tương trợ.
Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý, Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được.
Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định, Tướng Mạo mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được.
Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai. Đẩu số tổng quyết
Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh Tác vi đẩu số thôi nhân mệnh Bất y ngũ tinh yếu quá tiết Chỉ luận niên nguyệt nhật thời sinh.
Tiên an thân mệnh thứ định cục Tử Vi, Thiên Phủ bố chư tinh Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi Việt Thiên Mã, Thiên Lộc đái sát thần.
Tiền Dương hậu Đà tính tứ hóa Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hỏa, Linh, Hình Nhị chủ đại hạn tính tiểu hạn Lưu niên hậu phương an Đẩu Quân
Thập nhị cung phần tường miếu hãm Lưu niên họa phúc thử trung phần Lộc, Quyền, Khoa, Kị vi tứ hóa Duy hữu Kị tinh tối khả tăng.
Đại tiểu nhị hạn nhược phùng Kị Vị miễn kỳ nhân hữu tai truân Khoa danh khoa giáp khán Khôi Việt Văn Xương, Văn Khúc chủ công danh.
Tử Phủ Nhật Nguyệt chư tinh tụ Phú quý giai tòng thiên thượng sanh Dương Đà Hỏa Linh vi tứ sát Xung mệnh xung hạn bất vi vinh.
Sát Phá Tham Lang câu tác ố Miếu nhi bất hãm chưởng tam quân Khôi Việt Xương gia vô cát ứng Nhược hoàn mệnh hạn hãm vưu sân.
Thượng hữu lưu Dương Đà đẳng túc Thử dữ Thái Tuế tòng lưu hành Cánh gia Tang Điếu Bạch Hổ thấu Thương Sứ khả dĩ đoán sinh tử.
Nhược hữu đồng niên đồng Nhật Nguyệt Họa phúc hà hữu bất chuẩn hồ? Bất chuẩn câu dụng tam thời đoán Thời hữu sai trì bất khả bằng.
Thử thị Hi Di chân khẩu quyết Học giả như đương tử tế tinh Hậu cụ tinh đồ tính luận đoán Kỳ trung bộ quyết tối phân minh.
Nhược năng y thử thôi nhân mệnh Hà dụng cầm đường giảng ngũ tinh?
Dịch nghĩa:
Đẩu số tổng quyết
Ngài Hi Di ngẩng đầu ngắm sao trên trời, Tạo ra môn Đẩu Số để suy đoán mệnh người, Không giống với (môn) Ngũ Tinh, quá chú trọng đến Tiết khí, (Mà) Chỉ luận về năm, tháng, ngày, giờ sinh.
Trước tiên an Thân Mệnh, thứ đến là xác định Cục (số), Bài bố (vị trí của)Tử Vi, Thiên Phủ cùng các sao, Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Mã, Thiên Lộc, (cùng với) dải các thần sát.
Trước an Kình dương, sau an Đà La, cùng với cả Tứ Hóa, Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Nhị chủ (có lẽ là "mệnh chủ" và "thân chủ"), đại hạn cùng tiểu hạn, Lưu niên, sau đó thì an Đẩu Quân (có lẽ nhấn mạnh L. Thái Tuế).
Ở mười hai cung phận, phải tỏ tường miếu hãm (của sao), Lưu niên họa phúc ở trong cung phận nào, Lộc Quyền Khoa Kị là Tứ Hóa, Chỉ có Hóa Kị là rất đáng ghét.
Đại hạn, tiểu hạn nếu gặp Hóa Kị, Người ta khó mà tránh việc phải gặp tai ách, gian truân, Khoa danh, khoa bảng (chuyện học hành) thì xem ở Khôi Việt, Văn Xương, Văn Khúc (vì chúng) chủ về công danh,
Tử Phủ Nhật Nguyệt cùng các (cát) tinh tụ hội, (Được) phú lẫn quý thì cũng là theo sự sắp đặt của trời, Kình, Đà, Linh, Hỏa là tứ sát, Xung vào mệnh, xung hạn, thì không được vinh hoa.
Sát Phá Tham chuyên làm chuyện (ác) đáng ghét, Khi miếu thì (làm tướng) đứng đầu chấp chưởng ba quân, Thêm Khôi Việt, Văn Xương mà không có cát tinh ứng trợ, Nếu gặp tại Mệnh, tại hạn hãm thì mắc sai lầm, giận dữ, không xứng ý toại lòng.
Còn Lưu Kình Đà mà có hoặc đón chờ (tại hạn ấy), Cùng với Thái Tuế lưu hành (L. Thái Tuế), Thêm Tang, Điếu, Bạch Hổ, tụ tập lại, (Có) Thương, Sứ, thì có thể đoán được chuyện sống chết.
Nếu như cùng cùng năm cùng tháng ngày (sinh), (Thì) Họa phúc không có chuẩn (đúng) hay sao? Không chuẩn đều dùng ba giờ (mà) đoán Giờ (mà) có sai, chậm thì không thể (coi là) bằng chứng được. (QNB chú: có lẽ muốn rằng lấy thêm 2 giờ xung quanh giờ sinh mà xem cho kỹ)
Đó chính là khẩu quyết của Hi Di, Người học cần phải nhận biết, kỹ lưỡng, thật tinh. Sau bày đủ tinh đồ (bản đồ các sao) mà luận đoán, Trong đó (có) yếu quyết từng bộ phận rất rõ ràng hiển nhiên.
Nếu như sử dụng môn này mà đoán nhân mệnh, Thì còn cần dùng phòng nhạc ("cầm đường") để giảng về môn Ngũ Tinh nữa chăng?
Tử Vi Đẩu Sổ đoán quyết
Tử Phủ nhị chủ tuy phú quí Bất phùng Lộc tinh chung nan hiển Cơ Âm văn tinh vong ân nhân Bác sĩ phùng văn chủ thông minh Lộc Tồn nhập quan phòng bài tễ Song Lộc giáp mệnh tài bất khuyết Nhân từ chi tinh kị phùng sát Đương phòng biến tiết tịnh hữu trá Đế lạc Nô vị chủ bôn ba Cự phùng Dương Đà chủ tà dâm Việt Phá Toái kiêm Đà La Quí nhân vô lực sự bất thành Thiên Phủ gia sát phi quân tử Đế phùng Dương Đà chủ tà Phủ Tuất phùng Lộc lũy thiên kim Tọa Lộc hướng Mã danh lợi thu Thiên Cơ Tị Hợi nhược gia sát Nhân tửu ngộ sự mạc tham bôi Phá Quân văn diệu mạc cận thủy Thiên Đồng Kình Dương dị tao thương
Dịch:
Tử vi đẩu số quyết đoán
Tuy phú quý Tử Vi Thiên Phủ Chưa hiển linh nếu thiếu Lộc tinh. Cơ Âm, văn diệu, bạc tình. Bác Sĩ, văn diệu thông minh tuyệt vời.
Quan Lộc Tồn phải phòng bãi miễn. Song Lộc giáp Mệnh thị phú ông. Nhân từ tinh sợ Sát phùng Chuyển thành dối trá, hành tung gian tà.
Cự Nhận Đà tà dâm mê muội. Đế lạc Nô tất chủ bôn ba. Việt phùng Phá Toái, Đà La Quý nhân vô lực, khó mà thành công.
Phủ hội sát khó thành quân tử. Đế Nhận Đà tất đúng tà nhân. Phủ Lộc Tuất vị phú ông. Tọa Lộc hướng Mã thành công danh, tài.
Cơ tị hợi, sát tinh, ham rượu. Phá, văn tinh, rất dễ thủy tai. Thiên Đồng, Dương Nhận bi ai Vì hay thương tích, nạn tai trong đời. (Sưu tầm) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Bài viết "10 kinh nghiệm của sát thủ tử vi" của GS Lê Trung Hưng trình bày rất hay về các kinh nghiệm của phái Thiên Lương trong việc giải đoán lá số Tử Vi.
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi "Mười Kinh nghiệm" được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm:
1 - Sinh bất phùng thời:
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ: Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây:
Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá, Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai!)
2 - Đồng bệnh tương lân:
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ: tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết... ). Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau:
Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách)
Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)
Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của "Đồng Mệnh tương lân": Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3- Đời là bể khổ: Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung, là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói: "Thiện căn ở tại lòng ta".
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ: Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ: hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách:
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn...
4 - Công ơn Tổ-Phụ:
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là: nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú: "Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp". Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống, chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa: giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên "may mắn" còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời "Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí"
Ví dụ: Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi "Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa" là một đời có nghĩa "Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số". Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương: Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng "mày râu" (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều!) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao? Xin thưa ngay rằng: Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú:
– Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nói dễ hiểu hơn: Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa "ký sinh nhân"?
6 - Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là: Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào:
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả oán:
Còn bạc còn tiền còn để tử Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ: Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau: Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ, đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ: Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7 - Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao: Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng:
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8 - Sớm đầu tối đánh
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện:
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế!). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau: Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu "họa vô đơn chí", nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời, bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9 - Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10 - Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
- Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
- Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
“Mê tín” hay “ khoa học” đều là mộtsự bình phẩm. Trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lậpnhất với “mê tín là “ khoa học”. Cả hai từ trên một khía cạnh nào đó đều chỉchung một “sự thật”, còn trong đa số trường hợp đều cùng chỉ chung một “sựthật” , còn trong đa số trường hợp đều cùng thể hiện sự bình phẩm. Mà đã làbình phẩm thì luôn gắn với những hình thái quyền lực khác nhau.
Khi đánh giá vấn đề người ta thường sử dụng từ khoa học. Hiện nay người ta thường gắn văn hóa vật chất phương tây với khoa học và kỹ thuật (hình thái được vật chất phương tây với khoa học kỹ thuật, hình thái được vật chất hóa của khoa học) vào làm một. Do đó khoa học bèn trở thành bình phẩm có giá trị cao nhất. Khi người ta muốn đưa một sự việc hay sự vật lên giá trị cao, đáng được tôn trọng nhất thì người ta gắn cho nó cái “ mũ” khoa học, hoặc là đã được “khoa học chứng minh”.
Một số học giả gần đây, tuy ít thì muốn nêu cao tư tưởng tinh hoa của nho gia, nhưng ngược lại cho học thuyết âm dương, ngũ hành là cặn bã. Họ gọi âm dương, ngũ hành – một học thuyết đã từng thống trị trong các lĩnh vực thuật số như thiên văn, ngũ hành, hình pháp (phong thuỷ, tướng thuật), đoán mệnh, y thuật, vọng khí, v.v.. là “mê tín”. Đó rõ ràng là đứng trên quan điểm thể nghiệm thế giới theo văn hóa phương Tây để bình phẩm những hiện tượng của văn hoá Trung Quốc cổ.
Xem qua lịch sử Trung Quốc cận đại, đó là một bộ lịch sử hoặc là với thái độ dùng phương thức truyền thống của Trung Quốc để chống lại, bài xích văn hóa phương Tây, hoặc với thái độ lợi dụng văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc, hoặc với thái độ cam tâm tình nguyện tiếp thu toàn bộ văn hóa phương Tây làm cho lịch sử triệt tiêu lẫn nhau. Từ sau khi văn hóa phương Tây dùng nước thánh, thuốc phiện, pháo hạm mở rộng cánh cửa vào Trung Quốc, người ta bắt đầu so sánh hai nền văn hóa dưới những góc độ khác nhau và cuối cùng rút ra kết luận phổ biến là: phương Tây “tiên tiến” còn Trung Quốc “lạc hậu”. Văn hóa của Trung Quốc chỉ có thể so sánh với một giai đoạn nào đó trong quá khứ của phương Tây. Sự biến đổi các hình thái và thứ lớp của văn hóa phương Tây bèn trở thành mô hình duy nhất, con đường duy nhất để phát triển văn hóa của nhân loại. Họ có những cái mà ta không có như chế đọ “dân chủ”, thể chế chính trị – kinh tế, phương pháp quản lý khoa học kỹ thuật, nền công nghiệp hiện đại, giáo dục, v..v.. đều là những cái mà chúng ta đang lạc hậu và là những điều kiện đủ để trở thành tiên tiến. Còn cái mà ta có, họ không có thì lại trở thành nguyên nhân lạc hậu của ta, thành nhân tố hạn chế, làm trở ngại có sự tiến lên, thành gánh nặng lịch sử. Từ đó mà vứt bỏ hết “ truyền thống”, dấy lên phong trào tìm kiếm “chân lý” trong văn hóa phương Tây. Người ta hy vọng từ trong “ công nghiệp cứu quốc”, “ khoa học kỹ thuật cứu quốc”, “giáo dục cứu quốc” để tìm được “thuận với trào lưu thế giới”, cho đó là “cứu quốc bảo trọng”. Trong quá trình phá bỏ trật tự cũ, âm dương, ngũ hành bèn trở thành đối tượng bị đả phá đầu tiên, cho dù trên một ý nghĩa nào đó, đấy chỉ là sự phá bỏ hình thái bề ngoài.
Một ví dụ đầy kịch tính nhất là sự thay đổi trong đánh giá về Trung y – một trong những thuật y học cổ đại của Trung Quốc. Trong phong trào văn hoá mới, trung y cũng giống như các phương thuật khác đã từng bị xem là mê tín. Âm dương, ngũ hành là đại bản doanh của mê tính. Kết luận là : “cái chết có liên quan đến sự sống chết của ông cha ta đều là sản phẩm của quan niệm âm dương ngũ hành này”. Với chi phối của cách đánh giá đó, trung y đã từng bị coi là một tai ách. Nhưng về sau, đặc biệt là mấy chục năm gần đây, tình hình này đã có sự thay đổi căn bản. “Mê tín” nhảy vọt thành “khoa học”. Trung y với tư cách là một sự thật, bản thân nó không hề thay đổi, mà thay đổi là sự đánh giá. Ở đây rõ ràng mê tính hay khoa học chẳng qua chỉ là sự đánh giá. Thuật số làm một trong những hình thái quan trọng của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Sau nhà Đường và Ngũ đại, thuập số đoán mệnh được lưu hành hơn 1000 năm, cao nhất là vua cho chí thường dân đều thành tâm tin tưởng. Mấy chục năm lại đây ngược lại bị xem là mê tín. Sở dĩ nói đó chỉ là một sự bình phẩm vì Trung y và thuật đoán mệnh đều cùng một hệ thống, cùng có sắc thái như nhau, thế mà y học thì lại được xem là khoa học. Cho nên “mê tín” là một sự bình phẩm mang thiên kiến.
“Mê tín” và “khoa học” đều chỉ là một tín ngưỡng. Đối với mê tín thường được định nghĩa là: “sự tín ngưỡng thiếu bản chất lý tính, chỉ thuần tín ngưỡng hoặc tập tục”. Vì trước hết nó là một tính ngưỡng, sau nữa là “thiếu bản chất lý tính”. Song trong ngôn ngữ hiện đại, từ đối lập với mê tín là khoa học thì lại chính là được xây dựng trên cơ sở của sự tín ngưỡng. Đó là sự tín ngưỡng đối với “công lý” ( theo Bách khoa toàn thư).
Sistot cho rằng, công lý là nguyên lý thứ nhất không thể chứng minh được. Tất cả mọi khoa học có tính chứng minh đều bắt đầu từ nguyên lý thứ nhất này. Mỗi môn khoa học đều có nguyên lý thứ nhất của nó. Như hình học giải tích – môn biểu hiện rõ nhất “tinh thần lý tính” của Hy lạp là được xây dựng trên một số tiên đề – cái phải tự thừa nhận chứ không chứng minh được.
Cái phải tự thừa nhận mà không thể chứng minh được chính là dựa trên tín ngưỡng. Chỉ có thừa nhận những nguyên lý thứ nhất đó thì loài người mới có thể thu được tri thức. Do đó “ Kinh thánh” tuyên bố “ mầm mống và tinh hoa của tín ngưỡng đều là mở đầu của tri thức”. Bất luận là công lý hay mầm mống tinh hoa của tín ngưỡng đều là sự thể nghiệm, đều là chân lý tự hiểu, không chứng minh. Loại sự thực mà không thể dùng lý tính hoặc logic suy đoán để chứng minh thì đó là sự biểu hiện của tín ngưỡng. Loại tín ngưỡng này không có “bản chất lý tính”.
Khoa học ngày nay được xem là vạn năng, do đó nó cũng là một loại tín ngưỡng. Mọi người , boa gồm cả hàng vạn nhà khoa học đều sùng bái khoa học, thực chất đó là một hành vi tín ngưỡng. Khoa học hiện đại là biểu tượng của vũ trụ cơ học. Trong thế giới thể nghiệm về sự vận động cơ học thì giữa tôi và vật tách rời nhau. Ta là người đứng riêng ra để nghiên cứu, chỉ quan sát, mô phỏng ( ví dụ như thí nghiệm, lập mô hình toán học, v.v.) . Sự vận động của vật chất là một tồn tại khách quan. Dưới sự so sánh, tham chiếu các hiện tượng của vũ trụ cơ học thì thế giới “vạn vật có trong tôi”, khi đó “vạn vật với tôi làm một” tự nhiên bị xem là chủ nghĩa thần bí. Đó chính là hai sự tín ngưỡng khác biệt nhau, do một bên “ khoa học” xem vật tách khỏi tôi và một bên “ mê tín” cho tôi và vạn vật hòa làm một, do cái biểu tượng của hai thế giới thể nghiệm khác nhau tạo nên.
Khoa học hiện đại ngày nay chỉ là sự mô phỏng vũ trụ cơ học. Các môn khoa học hiện đại được các nhà khoa học tín ngưỡng thực chất là sự mô phỏng theo vật lý học, là sự mô phỏng theo các hiện tượng của vũ trụ cơ học. Theo lời sử gia khoa học người Anh - Tapi mà nói: “ Khoa học có thể gọi là những tri thức có đầu có đuôi về các hiện tượng tự nhiên, cũng có thể gọi là sự nghiên cứu lý tính giữa các loại quan niệm diễn đạt các hiện tượng tự nhiên”. Những nghiên cứu này , những kiến thức này đều tiến hành và thu được theo sự chi phối của quan niệm vũ trụ cơ học. Đặc trưng cơ bản nhất của vũ trụ cơ học là sự vận động cơ học về số lượng và khối lượng. Vật lý học bèn trở thành mô hình kinh điển của biểu tượng vũ trụ này, sử gia khoa học người Anh nói: “Những người tự xưng là “nhà khoa học” trong những lĩnh vực này luôn luôn thừa nhận rằng mình đã tuân theo phương pháp kinh nghiệm của vật lý, giam mình trong phòng thí nghiệm vật lý hiện đại, phân tích thế giới qua các con số . Họ không biết rằng phương pháp mà họ cố tuân theo không những không có hiệu quả mà cũng là phương pháp không làm cho vật lý học thành công.” (A.F. Charmosse: “Khoa học thực chất là gì”).
Vật chất và máy móc là các hình thái văn hóa bề mặt, là hình tượng của ý thức, là vật dụng. Bản thân khoa học kỹ thuật và đối tượng của nó đều là vật chất. Khi con người gọi chung chính trị, hệ thống quản lý là khoa học và dùng kỹ thuật để xử lý nó thì nền văn hóa phương Tây với danh nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo, đề cao cái tôi lên hàng đầu, cũng đã đồng thời đem con người đặt ngang với vật chất. Đáng tiếc là loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái , trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này lại trở thành đối tượng cho con người sùng bái, trở thành mục tiêu tìm kiếm. Sự dốc tâm lực vào việc chế tác ra loại vật chất này chứng tỏ xu hướng tìm đến kỹ thuật của nên văn hóa phương Tây. Khoa học ngày nay chẳng qua là một hệ thống trừu tượng của thế giới vật lý. Cho nên nếu cứ khăng khăng tìm kiếm kỹ thuật tức là chỉ lo tìm hình tượng mà không chú ý đến bản chất, như thế tất nhiên sẽ dẫn đến hậu quả bi kịch là chỉ nắm kỹ thuật, bỏ qua đạo lý. Những nhà sáng tạo thuộc thế hệ mới ở phương Tây đã nhạy cảm hơn chúng ta nhiều khi cảm thấy nền văn hóa của họ đang đứng trước những nguy cơ bao gồm cả những hiện tượng bề mặt như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ khủng hỏang năng lượng, vấn đề dân số, v..v. kể cả nguy cơ tín ngưỡng.
Trong khi chúng ta, những người ở khu vực phi văn hóa phương Tây đang cố tìm kiếm kỹ thuật phương Tây thì một số nhà triết học phương Tây đã sớm bắt đầu tìm phương cứu thế từ bên ngoài văn hoá phương Tây. Điều đó chứng tỏ văn hóa phương Tây đang mất dần vị thế thống trị hơn 100 năm nay. Hình thái văn hóa phương Tây là lấy kỹ thuật làm biểu tượng dẫn đầu. Còn các nhân sĩ văn hóa phương Đông của chúng ta khi sử dụng kỹ thuật của phương Tây lại không hiểu được đạo lý của biểu tượng đó, tức là dùng kỹ thuật mà bỏ quên đạo lý. Như thì làm sao mà thoát khỏi được những bế tắc của đám bụi trần do lịch sử tích tụ lại.
Ý rõ, đạo sáng để thể hiện thế giới. Sự khác nhau giữa khoa học hiện đại với “ mê tín dạng Trung Quốc” chỉ là ở chỗ: cái trước thể nghiệm thế giới theo các: con người tách khỏi xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh, còn cái sau thể nghiệm thế giới theo cách: con người và xung quanh hòa làm một. Am dương ngũ hành, cái bị gọi là đại bản doanh của mê tín chính là thế giới quan tự nhiên hay triết học tự nhiên của người Trung Quốc cổ đại chứ không phải người ngày nay khiên cưỡng , phụ họa ra. Vì trong sự thể nghiệm của người Trung Quốc cổ đại không có thiên nhiên đối lập với con người, trời đất đối lập với bản thân ta. Am dương, ngũ hành thống triệt trong tất cả mọi thứ nghiệm. Nó là biểu tượng toàn bộ thông tin giữa vũ trụ với cuộc sống con người. Thuật toán mà ngày nay bị xem là “mê tín” , ngày xưa vốn chiếm một vị trí rất cao. Giá trị vị trí của nó còn cao hơn cả khoa học ngày nay, vì không những nó là biểu tượng mà con là mô phongr thế giới thể nghiệm; là mô hình bầu trời ( hay đạo). Ý nghĩa của nó vô cùng to lớn. Am dương ngũ hành là biểu tượng, trong biểu tượng nó bao gồm cả ý nghĩa; thuật số là kỹ thuật , nhưng trong kỹ thuật đó đã có đạo. Rõ được điều đó tức là ý rõ , đạo sáng. Nền văn hóa chân chính là sự hòa quyện không chỉ giữa biểu tượng với vật thể mà còn là ở ý và đạo. Sự dung hợp nền văn hóa mới không chỉ lấy kỹ thuật làm trọng mà phải là một quá trình “đồng hóa” rộng rãi hơn, to lớn hơn, tinh hoa hơn, sâu sắc hơn trong đó lấy sự thể nghiệm thế giới làm cốt lõi. Hiểu rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa tận cùng của văn hóa Trung Quốc chính là ở chỗ này.
Xin chớ lầm vì một số những câu phú, dù là những câu phú đã “nổi tiếng” như:
• Đẩu quân ở Tử Tức cung Đến già không thấy tay bồng con thơ. • Mấy người bất hiển công danh Bởi vì Nhật, Nguyệt đồng minh Sửu, Mùi • Chỉ hiềm Khôi, Việt phùng Không.
Ông Phong Nguyên kể mấy câu chuyện lý thú về những cách đó để tặng quý bạn.
1) Đẩu Quân ở cung Tử Tức
Tất cả những ai đã biết về Tử Vi, dù chưa giỏi, cũng đều biết câu phú
Đẩu Quân kỵ Tử Tức cung Đến già chẳng thấy tay bồng con thơ.
Cũng chỉ vì câu phú này mà tôi đã bị một người bạn chê trách và giận tôi khá lâu. Tôi còn nhớ rõ hồi anh bạn tôi mới lấy vợ có nhờ tôi coi số Tử Vi cho cả hai vợ chồng để xem tương lai có tốt đẹp không, nhất là về phương diện con cái vì anh bạn tôi rất chú trọng đến vấn đề nối dõi. Trong phần này tôi chỉ nói đến cung Tử Tức. Qua lá số của anh, tôi thấy cung Tử Tức có Cô Quả, Riêu Hình Kỵ, Kình Đà Linh, còn lá số của vợ anh có Đẩu Quân, Cự, Kỵ…. ở cung Tử Tức. Sau một phút đắn đo, tôi đi tới kết luận là số anh rất hiếm con, nếu không muốn nói là tuyệt tự. Anh ta thất sắc và hỏi gặng lại xem có đúng thế không. Hồi đó tôi mới biết sơ về Tử Vi nên chỉ biết căn cứ vào mấy cuốn sách thông thường (như cuốn Tử Vi Lập thành của Nguyễn Phúc Ấm chẳng hạn), và do đó tôi liền mở một cuốn ra cho anh ta coi về đoạn nói về câu phú kể trên để xác định lời quyết đoán của mình. Vì thấy sách nói rõ như vậy nên anh ta đành phải tin và vẻ mặt trông thẫn thờ, thật tội nghiệp…
Cách độ mười năm sau, tình cờ tôi gặp lại anh bạn tôi và xem ý anh ta không niềm nở mấy trong khi tôi tay bắt mặt mừng. Nhưng chỉ một phút sau là tôi hiểu lý do, vì anh ta có “mạt sát” tôi liền về lời giải đoán của tôi hồi trước và cho biết rằng anh đã có hai con trai khôi ngô đĩnh ngộ. Anh còn nói thêm là nếu không kiêng cữ thì có lẽ lúc anh gặp tôi ít ra anh cũng có năm sáu con rồi. Bị trách móc nặng nề như vậy tôi rất lúng túng và chỉ còn biết thú tội là tôi đâu có rành về Tử vi mà tin quá vậy, nhưng anh lại trách thêm là nếu không có khả năng thì đoán làm chi. Sau khi nói chuyện với nhau một cách bình thường tôi bèn bảo anh ta đưa lại hai lá số của anh và vợ xem tại sao lại có sự sai lầm nặng nề như vậy, không lẽ giờ sanh của hai người cùng sai. Vừa mới nhìn sơ qua lá số của vợ anh tôi giật mình là hồi trước mình chỉ biết một mà chẳng biết hai, cứ áp dụng câu phú “Đẩu Quân kỵ Tử
Tức cung…” một cách máy móc. Vì thực ra, bất cứ ai đã theo dõi, chú trọng đến các câu chú đều biết câu:
“Hiếm hoi gặp được Thiên Hình Cát tinh trước cửa lại sinh quý hòe”
Câu này cũng không phải là câu xa lạ gì lắm vì tôi có được đọc trong một hai cuốn sách Tử vi đã xuất bản nhưng những người mới học Tử Vi có lẽ không thể hiểu rõ nổi câu này.
Hai chữ “hiếm hoi” ứng vào sao Đẩu Quân (vì sao này nếu không có Thiên Hình thì hiếm thật) và khi đã có Thiên Hình đồng cung (tam hợp không ứng nghiệm) mà lại được tam phương có cát tinh củng chiếu (như Quang Quý, Long Phượng, Thai Tọa, Nhật Nguyệt thành bộ) thì nhất định là vẫn sinh nhiều con như thường, không những thế, con cái lại thành danh (quý hòa). Đây chính là trường hợp lá số của vợ bạn tôi, do đó, lời giải đoán hổi trước của tôi sai lầm một trăm phần trăm rồi. Tuy nhiên về cung Tử Tức của anh và vợ anh vẫn có điểm khác đúng vì các sao Cô Quả Kình Đà Linh Kỵ nếu nói theo một cách thực thế thì thường chủ về vấn đề kiêng cữ sinh đẻ hữu hiệu (bởi thế mình đừng nên nói là mình có thể cải được số bằng cách kiêng cữ, vì nếu không có sao tiết chế thì còn lâu mới chống lại được số), do đó anh ta mới chỉ có sanh 2 con thôi, còn lá số của người vợ có Cự Kỵ Hình nên con anh ta có đứa chết hụt về nước và còn bị té gẫy tay nay đã lành, một đứa bị té muốn nứt đầu…
Cũng về sao Đẩu Quân ở cung Tử Tức, có vị (cụ Song An Đỗ Văn Lưu) lại nói với tôi rằng câu phú đầu tiên phải đọc là
Đẩu Quân kỵ Tử Tức cung Đến già còn thấy tay bồng con thơ (Tức là chữ “còn” thay cho chữ “chẳng”)
Vì cụ cho rằng người nào cung Tử Tức có cách đó thì sanh con trễ chứ không hiếm, nếu không sẽ sinh nhiều và tới già còn sanh nữa. Tôi đã chiêm nghiệm nhiều lần thì thấy nhận định của cụ Song An không đúng chút nào. Có nhiều người cung Tử Tức có rất nhiều sao tốt, chỉ vì bị sao Đẩu Quân mà không có Thiên Hình nên không có người con nào, hoặc cùng lắm thì chỉ có một hai người con gái (thường theo Tử Vi ít ai tính tới con gái). Tuy nhiên, quý bạn cũng nên chiêm nghiệm xem ý kiến của cụ Song An có đúng trong trường hợp nào không?
Vì bị sai lầm nặng nề như trên cho nên tôi ít khi thích trưng câu phú ra để thuyết phục những người coi, chỉ sợ rằng lại có những câu khác “chế hóa” lại mà mình không được biết chăng.
2) Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi
Nếu có người cho rằng Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu hoặc Mùi thì công thành danh toại, chắc chắn quý bạn nghĩ là trái hẳn với câu phú:
Mấy người bất hiển công danh Bởi vì Nhật, Nguyệt đồng minh Sửu Mùi (có sách ghi là “đồng tranh”)
Đây không phải là ý kiến của tôi mà chính là của một người có căn bản về Tử Vi hiện đang sống tại Sài Gòn (mà tôi xin giấu tên).
Vị đó có nêu ra câu: Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi, công danh phỉ hiển (xin ấn công (người in báo) nhớ để dấu hỏi trên chữ “PHỈ” để khỏi hiểu lầm) để chứng minh và bảo rằng chữ “PHỈ” có nghĩa là được thỏa mãn, đầy đủ, nhưng vì bị lầm với chữ “phi” (không có dấu) có nghĩa là không (như trong chữ phi nghĩa, phi dân tộc…) cho nên mới có người đặt ra là “bất hiển” vì chữ “bất” cũng có nghĩa giống như chữ “phi”.
Về phần tôi, tuy nhận thấy ý kiến của vị đó rất hợp lý nhưng tôi nghiệm thấy không ứng vào trường hợp nào cả vì tình cờ trong số bạn bè và cả trong gia đình, họ hàng của tôi có rất nhiều người có cách Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi mà chẳng có ai làm nên gì hết. Tôi nghĩ rằng có lẽ câu “phỉ hiển” chỉ ứng nghiệm khi Nhật Nguyệt ở cung xung chiếu, nghĩa là khi mệnh vô chính diệu tại Sửu có Nhật Nguyệt đồng cung tại Mùi hoặc ngược lại, nhất là đối vơi tuổi Bính Tân. Tôi xin ghi nơi đây câu phú liên hệ để quý bạn tiện đối chiếu:
“Nhật Nguyệt đồng cung Sửu, Mệnh an Mùi, Bính Tân nhân cát hầu bá chi tài”
Bởi vậy, nói chung quý bạn cần lấy nhiều lá số và theo dõi, kiểm chứng thì mới mau giỏi về Tử Vi chứ nhiều khi có căn bản vững mà không có kinh nghiệm thì vẫn đoán sai trật như thường, và điều quan trọng bao giờ cũng vẫn là vấn đề giải đoán chính xác.
3) Chỉ hiềm Khôi Việt phùng Không
Tôi có thể nói rằng chỉ vì câu “Khôi Việt phùng Không” mà tôi đã đem hết tâm trí vào việc nghiên cứu khoa Tử Vi. Tôi hãy còn nhớ rõ hồi tôi còn ít tuổi tôi cùng với một người bạn thân đi coi một thầy Tử Vi già ở ngoài Bắc về phương diện học vấn. Tôi ngồi nghe thầy đó đoán cho anh bạn tôi, còn tôi không coi vì hồi đó tôi không tin về khoa tướng số, tử vi. Sau chừng một phút bấm Tử Vi trên bàn tay (vì thiếu thị giác) thầy đó chép miệng cho anh bạn tôi hay rằng anh ta khó có thể học được tới đích cao khoa và kỳ thì sắp tới bị trục trặc nhưng không rớt. Vì hồi đó tôi chưa biết gì về Tử Vi nên tôi chỉ nhớ sơ qua thầy ấy nói rằng mạng anh bạn tôi thiếu văn tinh (tức là Xương Khúc, Khôi Việt, Hóa Khoa, v.v…) mà đại hạn tuy có Khôi Việt nhưng lại ngộ Thiên Không và xung chiếu có Triệt trong khi tiểu hạn lại trùng phùng với đại hạn. Rồi cuối cùng thầy đó cứ nhắc đi nhắc lại câu “chỉ hiềm Khôi Việt phùng Không” để đi đến kết luận như trên.
Một tháng sau, anh bạn tôi đi thi trung học đệ nhất cấp (hồi đó quen gọi là “diplôme”) với tinh thần hơi xáo trộn vì bị ám ảnh bởi lời giải đoán của thầy Tử Vi đó. Nhưng rồi anh ta làm bài vở rất ngon lành và đã đậu kỳ thi viết khiến anh ra rất đỗi vui mừng và nghĩ là thầy đó đoán trật. Đến khi thi vấn đáp anh ta không còn lo âu nữa và trong thâm tâm rất lạc quan, nhưng không ngờ anh ta lại rớt chỉ vì một môn chính bị số không. Lúc đó tôi mới khâm phục thầy Tử vi đó và mới bắt đầu quan tâm đến khoa lý số.
Bây giờ, sau khi đã có chút vốn liếng về Tử vi, tôi lập lại lá số của anh bạn tôi (mà tôi còn giữ ngày giờ sanh để chiêm nghiệm) thì thấy rằng khía cạnh đó cũng không có gì khó đoán. Sở dĩ anh bạn tôi chỉ bị trục trặc về kỳ thi vấn đáp (sau anh đậu kỳ nhì) vì Thiên Không tuy cũng ứng vào câu phú, tức là hại cho Khôi Việt, nhưng không ngăn trở mạnh bằng Triệt, Tuần, hơn nữa mạng anh bạn tôi là Hỏa tương hợp với Thiên Không là hỏa nên không bị trở ngại mạnh mẽ, cho nên tuy rớt kỳ nhất nhưng đậu kỳ nhì. Anh ta bị phá ngang vì mệnh thiếu sao văn học, chứ không do đại hạn bị Thiên Không. Tôi còn cần nói thêm là trong đại hạn này còn có Song Hỉ, Cáo-Phụ, Quan Phúc, Đào Hồng là những sao chủ về may mắn, thành công, công danh nhẹ bước, như thế làm gì mà bị cản trở mạnh.
Ngoài ra, tôi cũng còn cần lưu ý quý bạn về một điểm chung là không phải trường hợp nào Khôi Việt cũng sợ Tuần, Triệt, Thiên Không. Nếu Khôi Việt ở chỗ hãm địa như Sửu chẳng hạn) thì lại rất cần gặp Không thì mới thành đạt về khoa cử được. Tôi đã chiêm nghiệm thấy rất đúng vì tôi có vài người bạn đã đậu rất cao ở ngoại quốc nhờ có Khôi Việt ngộ Triệt ngay tại Mệnh.
Thường thì khi chưa thành tựu về một điều gì chúng ta cảm thấy không vui. Nhưng khi đã toại nguyện, đã có những gì mong ước thì cũng chỉ vui được một thoáng
Cuộc sống luôn biến động, mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện, có đó rồi không đó. Không ít người đã tự chiêm nghiệm và tìm cho mình con đường sống hạnh phúc, vui sướng đích thực. Họ chợt nhận ra rằng, “không còn sầu lo” là người sung sướng nhất trên đời.
rồi qua nhanh. Thực chất thì chưa được hay đã được đều có nỗi khổ riêng, vì cái tâm mong muốn của con người dường như không có điểm dừng. Cuộc sống luôn biến động, mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện, có đó rồi không đó. Không ít người đã tự chiêm nghiệm và tìm cho mình con đường sống hạnh phúc, vui sướng đích thực. Họ chợt nhận ra rằng, “không còn sầu lo” là người sung sướng nhất trên đời. “Một thời, Tôn giả Na-già-bà-la ở trong thành Lộc Dã. Khi ấy có một Phạm chí già lụ khụ, xưa có quen biết chút ít với Tôn giả Na-già-bà-la, đến chỗ Na-già-bà-la thăm hỏi rồi ngồi một bên. Bấy giờ Phạm chí bảo Na-già-bà-la: - Trong các sự vui, nay ông thật là sung sướng nhất. Na-già-bà-la nói: - Ông xem những nghĩa gì mà nói trong các sự vui, tôi sung sướng nhất? Bà-la-môn đáp: - Trong bảy ngày vừa qua, tôi có bảy đứa con trai chết, những đứa này đều dũng mãnh, tài cao, trí tuệ ít người bì kịp, rồi trong sáu ngày gần đây, mười hai người làm cũng bị vô thường, họ rất siêng năng không có lười biếng. Kế đó năm ngày, bốn anh em của tôi chết, họ biết nhiều kỹ thuật, việc gì cũng làm được. Rồi cách bốn ngày, cha mẹ tôi mạng chung, tuổi vừa trăm tuổi bỏ tôi mà qua đời. Cách đây ba ngày, hai vợ tôi lại chết, họ dung mạo đoan chánh, thế gian ít có. Trong nhà tôi lại có tám hầm trân bảo, hôm qua đi tìm mà không biết chỗ. Ngày nay, như tôi gặp chuyện khổ não này không thể tính kể; mà Tôn giả thì hôm nay xa lìa hẳn hoạn nạn đó, không còn sầu lo, chỉ lấy đạo pháp làm vui thú. Tôi quán nghĩa này rồi mới nói: “Trong các sự vui, ông là sung sướng nhất”. Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la bảo Phạm chí kia rằng: - Tại sao ông không tìm cách khiến cho bao nhiêu người ấy đừng chết? Phạm chí đáp: - Tôi cũng làm nhiều cách để mong không chết và không mất của tiền, tôi cũng tùy thời bố thí tạo công đức, cầu khẩn chư thiên, cúng dường các trưởng lão Phạm chí, ủng hộ chư thần, tụng các chú thuật, cũng hay xem tinh tú, rồi cũng trộn cỏ thuốc, cũng đem thức ăn uống ngon ngọt cho họ lúc nguy ngập. So như thế mà chẳng thể xứng hợp, chẳng thể cứu được mạng họ. Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la liền nói kệ: Có thuốc, các chú thuật/ Đồ y phục, uống ăn/ Tuy thí mà vô ích/ Còn ôm thân khổ hạnh. Cho dù tế miếu thần/ Hương hoa và tắm rửa/ So sánh nguồn gốc này/ Không thể trị liệu được. Giả sử cho các vật/ Tinh tấn trì Phạm hạnh/ So sánh nguồn gốc này/ Không thể trị liệu được.
Phạm chí bèn hỏi: - Nên thi hành pháp gì để không bị khổ não này? Tôn giả Na-già-bà-la liền nói kệ: Gốc ân ái vô minh/Nổi các hoạn khổ não/Điều ấy diệt không sót/Mới không có khổ nữa”. (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 41, Mạc úy [trích], VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.67) Thì ra, tham ái và vô minh chính là cội nguồn của mọi lo sầu, khổ não. Khổ đau có mặt trong tất cả mọi người, không chừa một ai. Người đời, hàng Phật tử tại gia hoặc xuất gia đều không ngoại lệ. Ai thực hành Bát Thánh đạo, thắp sáng đèn tâm, diệt tận tham ái thì người ấy thoát khổ, không còn sầu lo, là người sung sướng nhất. Cuộc hội thoại giữa Tôn giả Na-già-bà-la và người bạn già Phạm chí đã soi sáng cho chúng ta rất nhiều điều. Các pháp hữu vi đều vô thường, có sinh ắt có diệt, trong niềm vui đã tiềm ẩn nỗi buồn v.v... Bản chất của cuộc đời là vậy. Nên những người con Phật chúng ta, muốn có hạnh phúc đích thực, trở thành người sung sướng nhất, hãy chuyển hóa và đoạn tận tham ái, vô minh nơi chính mình.
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác
- Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật bệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường. - Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng.
- Thân mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của mũi bị khuyết hãm - Quyền trái lộ - Tai trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược - Nhân trung lệch về bên trái - Khoé miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn môi dưới quá đáng
Có từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha. Càng nhiều hơn thì sự khắc phá càng nặng.
Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó.
Tướng trẻ em khắc mẹ
- Nguyệt giác thấp, lệch, lẹm có lông măng quá đậm - Lông mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng, trái lẽ thường trong khi phía trái bình thường - Sống mũi lệch về phải, các bộ vị phía phải của mũi có hình dạng bất thường - Quyền phải lệch, lộ, nhọn - Tai phải thấp, nhọn, khuyết - Nhân trung lệch về bên phải - Môi dưới dài hơn môi trên, hoặc khoé miệng phải lệch
Nói chung, khuôn mặt bên phải chủ về mẹ. Nếu các bộ vị bên trái bình thường mà ít nhất hai hay nhiều bộ vị bên phải có các dấu hiệu trên thì có thể tiên đoán được đứa trẻ đó khắc mẹ.
Nhẹ thì mẹ con bất hoà, tính tình xung khắc, nặng thì có thể vì sinh đứa con đó mà chết trước chồng.
Nguồn Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Câu hỏi: Gần đây, người hàng xóm đối diện nhà tôi treo một cái gương hình chữ nhật có viết những chữ tiếng Hoa màu đỏ trước cửa chính của nhà họ. Trong phong thủy, điều này có ý nghĩa gì và có ảnh hưởng đến nhà chúng tôi không? Tôi cảm thấy khó chịu
Câu hỏi: Gần đây, người hàng xóm đối diện nhà tôi treo một cái gương hình chữ nhật có viết những chữ tiếng Hoa màu đỏ trước cửa chính của nhà họ. Trong phong thủy, điều này có ý nghĩa gì và có ảnh hưởng đến nhà chúng tôi không? Tôi cảm thấy khó chịu mỗi khi bước ra khỏi nhà và có cảm giác như tấm gương đó đang chiếu vào mất mình. Tôi phải gì để cải thiện tình hình này?
Trả lời: Người hàng xóm bạn không được thân thiện, hòa nhã cho lắm! Bạn hãy kiểm tra xem, nhà bạn có tạo nên những điều bất lợi cho người hàng xóm đó không? Nếu có, bạn nên thương lượng với họ gỡ bỏ cái gương sau khi đã hóa giải hết những điều bất lợi đó. Nếu họ từ chối, bạn có thể treo gương Bát Quái phía trước cửa nhà bạn, đối diện với cái gương đó. Tuy nhiên, cách này không mang lại ý nghĩa tích cực và đoàn kết trong phong thủy. Vì như thế, bạn đã vô tình tạo nên một cuộc chiến phong thủy với nhà hàng xóm và cả hai bên đều nhận hậu quả của nó. Tốt nhất, nếu có thể bạn nên trồng một bụi cây ngăn cách nhà bạn với nhà hàng xóm.
Trong nhà có người chết vì treo cổ, thì khi lấy tử thi xuống phải lấy sợi dây đó đốt ngay. Đây là câu chuyện có thật, nếu nhà nào đó có người treo cổ chết nhưng không đốt sợi dây đó đi thì một năm sau cũng nhà đó có người chết treo cổ củng ở ngay vị trí ấ
Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, dưới đây là 35 điều kiêng kỵ tâm linh trong dân gian.
1. Đi đường nếu gặp tiền lẻ hay những vật dụng cá nhân của người khác không nên lượm lặt dù là mục đích gì. Thông thường một số người đang gặp hạn người ta giải hạn bằng cách vứt bỏ những thứ ấy xem như vứt bỏ cái xui của họ, nếu mình nhận lấy thì sẽ lãnh lại cho họ.
2. Trong nhà có người chết vì treo cổ, thì khi lấy tử thi xuống phải lấy sợi dây đó đốt ngay. Đây là câu chuyện có thật, nếu nhà nào đó có người treo cổ chết nhưng không đốt sợi dây đó đi thì một năm sau cũng nhà đó có người chết treo cổ củng ở ngay vị trí ấy, chính vì thế đó được coi là sợi dây oan nghiệt, nếu không đốt đi thì nó vẫn luẩn quẩn quanh nhà đó và cứ mỗi năm thay phiên nhau chết.
3. Nếu đi đám ma lỡ người quá cố ấy có xinh gái hay đẹp trai thì không được khen, vì nếu khen thì họ sẽ đi theo mình.
4. Người khắc tuổi với người chết trong lúc động quan hoặc hạ huyệt thì không được dòm dù là người thân. Vì như vậy sẽ làm cho người chết khó siêu thoát.
5. Ban đêm không được đánh son môi, làm mặt rồi đi ngủ, bởi hồn sẽ sợ chạy mất.
6. Rớt đồ xuống sông phải nhặt lên, nếu không là bị mắc đằng dưới.
7. Người nào có tang (khăn tang) trong người thì không nên tới nhà những người bạn hay người thân vì sẽ "lây" cái tang và đem điều không may đến cho họ.
8. Sau khi an táng, trong vòng 1 tháng ban đêm có ai gọi tên mình thì tuyệt đối không được trả lời, không được mở cửa, không được thưa gởi gì hết. Thông thường người chết vì quá thương tiếc người thân của mình nên về bắt người thân đi theo.
9. Buổi tối, không chơi năm mười, hay còn gọi là cút bắt (trốn tìm) sau 10h, bởi khi chơi, xui xẻo sẽ bị ma dấu.
10. Đi ngủ cũng vậy. Cái đầu không được hướng ra đường, hoặc ngủ quay đầu vô bàn thờ. Bởi có hai lý do ,một là đầu hướng ra đường đó là tư thế nằm của người chết.hai là khi ngủ hồn của ta xuất ra nếu hướng ra đường thì hồn của ta sẽ đi luôn ra đường.
11. Không mặc đồ trắng quá 12h, bởi dễ bị vong theo.
12. Không phơi đồ ngoài sân vào ban đêm, bởi nếu không các linh hồn lang thang sẽ bị cám dỗ "gắn bó" với quần áo và "ám" những người mặc chúng, hơn nữa dễ bị sương gió ngoài trời thấm vào và gây nên bệnh. Việc giặt và treo nên được thực hiện khi có ánh nắng mặt trời vì chúng rất có lợi.
13. Không được gõ chén khi ăn, bởi người ta quan niệm rằng khi ăn mà gõ chén sẽ gọi ma đói tới.
14. Không bao giờ được mang những quả lê làm quà khi đến thăm người bệnh trong bệnh viện vì đây là một biểu tượng liên quan đến sự chia lìa, chết chóc.
15. Không tặng quà với số lượng bốn, vì số bốn có âm thanh như "cái chết". Nếu bạn muốn mang quà khi đi thì nên chọn các loại bánh kẹo hoặc sôcôla.
16. Chưa ăn không được để đũa trên chén, vì giống cúng người khuất mặt.
17. Tránh huýt sáo vào ban đêm: Bạn có thể đi bộ và cảm thấy hạnh phúc, khi đó bạn có thể bắt đầu một cách vô thức huýt sáo một giai điệu nào đó. Theo những người lớn tuổi, làm như vậy chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của những linh hồn lang thang, sau đó bám theo bạn về nhà.
18. Không chải tóc lúc nửa đêm: Quan niệm của ông bà ta, khi chải tóc lúc nửa đêm là chải cho ma xem.
19. Trước khi cúng không được ăn vụng.
20. Không mua bán đinh vào ban đêm: Các bạn cứ thử vào 7h tối tới tiệm tạp hóa mua đinh, đảm bảo chủ quán sẽ ko bán.
21. Đi vào nơi có mồ mả không được nói bậy: Cho nên thường đi thanh minh hay tảo mộ,người ta kỵ không cho con nít theo,vì con nít còn nhỏ thường thắc mắc tò mò, đôi khi lại nói bậy, người lớn cũng vậy khi vào nơi mồ mã cũng không nên nói bậy.
22. Không ngủ chung mèo đen bởi nó sẽ không cho hồn bạn nhập vào xác bạn.
23. Không soi gương chải đầu trên xe bởi bạn sẽ mang lại sự rắc rối cho nhà xe và tất cả mọi người trên xe.
24. Không lật mình cá: Tài xế, người đi biển nếu bạn để ý thì họ ăn cá như sau: Ăn xong một bên mình con cá thì họ rút xương con cá lên ăn tiếp chứ không có lật mình con cá lại vì lật mình con cá theo những người làm tài xế thủy thủ sẽ có điềm gở, lật xuồng, lật xe, lật tàu.
25. Đừng bao giờ thề thốt hay hứa hẹn với người đã chết rồi không làm.
26. Khi đi dự đám tang về nên hơ người bằng lửa ấm, thay quần áo và hạn chế tiếp xúc với trẻ nhỏ.
27. Với các bạn nữ vào những ngày “ấy” không nên đi đến những nơi linh thiêng, xem bói và không nên qua lại trước bàn thờ.
28. Những ngôi nhà bằng gỗ khi có máu (cả người hay động vật) bám trên thân gỗ thì nên thay đổi, hoặc không nên ngủ gần đó.
29. Ai đã lầm lỡ phá bỏ thai nhi con mình thì hãy đặt cho bé cái tên và đem lên chùa gửi.
30. Nếu trước nay chưa cúng cô hồn bao giờ do không có điều kiện thì không cúng luôn, chớ nên cúng rồi lại bỏ.
31. Đặc biệt với con gái, phụ nữ nên hạn chế để quần áo ngoài trời vào ban đêm, đặc biệt là đồ “nhỏ” => Dễ mắc duyên âm.
32. Vào ban đêm tránh soi mình dưới mặt nước.
33. Thực hiện làm ăn hay làm những việc mang tính chất đại sự nên xem ngày để tránh nhằm vào ngày Tam Nương => Tan nát, bất thành.
34. Có câu: Chim sa cá luỵ, thế nên gặp những con vật trong hoàn cảnh đó không nên chiếm hữu nó và đem về nhà.
35. Cây đa là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó.
Thực vật có tác dụng quang hợp, cung cấp dưỡng khí trong lành cho con người, giảm các loại bức xạ từ máy móc, điều tiết môi trường không khí, khiến môi trường
Thực vật có tác dụng quang hợp, cung cấp dưỡng khí trong lành cho con người, giảm các loại bức xạ từ máy móc, điều tiết môi trường không khí, khiến môi trường công việc và cuộc sống tràn đầy sinh lực, từ đó có tác dụng đối với sức khỏe của con người.
Nhưng rất nhiều người không biết thực vật cũng có phần âm dương ngũ hành, ở những phương hướng khác nhau, môi trường khác nhau, sử dụng chúng một cách hợp lý sẽ cho những hiệu quả không ngờ.
Kết quả nghiên cứu đã chứng minh: Các loài hoa, cây cảnh bản thân chúng đã có phần âm dương, ngũ hành, do vậy giữa các loài hoa, loài cây với nhau cũng tồn tại tương sinh tương khắc, chế ước lẫn nhau.
Ví dụ, những loại hoa dưới ánh sáng đủ mới nở hoa bình thường như hoa Hồng, hoa Bạch Lan, hoa Nhài, hoa Mai, Mẫu Đơn, Đỗ Quyên … , nếu để chúng ở lâu trong những nơi âm u, bóng râm thì sẽ không nở hoa, rất khó để sinh trưởng được.
Hoa Nhài nếu ở trong bóng râm thì sẽ khó nở hoa
Cũng có nghiên cứu chỉ ra: “Con người và hoa cỏ cũng tương sinh tương khắc”. Ví dụ như Hiện Kim Cách và Hỷ Thụ Tiêu (cùng họ với Chuối) buổi tối thải ra Các bô níc, tranh dưỡng khí cùng với con người, mùi hương tỏa ra vào ban đêm sẽ khiến những người bị cao huyết áp, tim mạch cảm thấy khó chịu. Những loại hoa, cây này là những loại tương khắc với con người.
Mặt khác cũng có những loài có ích như điếu lan, làm không khí trong lành, nên bài trí nhiều trong phòng. Ngoài ra còn một số loại nữa cũng rất có ích như: Tiên Nhân Chương, Long Thanh, Ngọc Kỳ Lân, Xương rồng…
Theo Sách Thuận phong thuận thủy, sổ tay tham khảo bài trí cây cảnh Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Hóa giải sát khí do phòng ngủ nằm phía sau bàn thờ –
Theo quan niệm phong thủy cũng như của dân gian, tuyệt đối không được cư trú trước mặt các vị thần linh hoặc phía sau miếu tự. Điều này có nghĩa là phòng ngủ không nên bố trí ngay phía sau bàn thờ, trang thờ Thần Phật, Tổ tiên. Theo phong thủy thì đặ
t giường ngủ ngay phía sau bàn thờ sẽ dễ gây nên những bất lợi cho quan hệ tình cảm vợ chồng.
Tương tự, dân gian không chỉ kiêng kị việc đặt giường ngủ của vợ chồng sau bàn thờ, mà còn cho rằng những người trong độ tuổi từ 12 – 60 không nên ngủ ở ngay phía sau trang thờ, bàn thờ.
Điều này nhằm tránh nảy sinh những bất lợi đối với “đào hoa nhân duyên”, ngăn chặn sát khí, vốn là khí xấu làm cho tình cảm đôi lứa trở nên nhạt nhòa, bất hòa hoặc thất vọng về nhau.
Xét dưới góc độ khoa học, đặc điểm chung của con người là hay liên tưởng đến những gì diễn ra quanh mình.
Nếu phòng ngủ đặt ngay sát phía sau bàn thờ thì người ngủ ở đó sẽ thường xuyên phải ngửi mùi nhang khói, nghe những lời tụng niệm, đọc kinh, gõ mõ… từ đó liên tưởng đến thần thánh, tổ tiên và những người đã qua đời. Cũng vì thế, trong tiềm thức, họ sẽ nảy sinh tư tưởng hướng về cõi tâm linh, nhạt dần với đời sống trần tục, với quan hệ tình cảm lứa đôi…
Với người chưa lập gia đình, thường xuyên sống ở phía sau bàn thờ Thần Phật thì cách suy nghĩ, quan niệm của họ (về mặt tình cảm cũng như quan hệ giới tính) đều sẽ khác với người bình thường. Hầu hết họ đều không mấy hứng thú trong chuyện tình cảm mà có xu hưóng thiên về cõi tâm linh, Thần Phật.
Theo đặc điểm sinh lý thì ở vào độ tuổi dưới 12, thường thì trẻ em chưa hình thành tình cảm với người khác giới cũng như chưa hề có ý niệm gì về quan hệ giới tính.
Còn những người ở độ tuổi trên 60 là những người đang đi vẻ già, họ đã trải qua mọi giai đoạn phát triển về mặt tâm sinh lý.
Đây là giai đoạn mà nhu cầu tình cảm giảm dần. Nếu họ cố ở ngay phía sau bàn thờ thì những ảnh hưởng về mặt tâm linh có nhẹ hơn một chút.
Nhưng dù thế nào đi nữa, tư tưởng và tình cảm của những người thường xuyên sống và sinh hoạt ở phía sau bàn thờ vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng về tâm linh, tín ngưỡng. Do đó, tốt nhất là không nên chọn không gian sát phía sau bàn thờ để làm phòng ngủ.
Để hóa giải sát khí do phòng ngủ nằm ngay phía sau bàn thờ gây nên, cách tốt nhất là chọn một vị trí khác thích hợp hơn để làm phòng ngủ hoặc chọn một vị trí thích hợp trong nhà để làm nơi thờ tự, cúng bái.
Nếu không, bạn có thể sử dụng những biện pháp hóa giải khác như dùng ván gỗ hoặc bê tông ngăn phòng ngủ với bàn thờ, biến không gian ấy thành một lối đi tương đối thoải mái hoặc thành một cái kho để chứa đồ đạc.
Hướng cửa của cửa hàng, cửa hiệu cần chú ý những điểm gì? –
Hướng của cửa hàng là việc các thương gia vô cùng thận trọng, thường thường coi đó như là mẫu chốt của sự thành bại trong kinh doanh buôn bán. Do đó, trong xu thế tâm lí cầu may, tránh điều xấu triệt để hiện nay thì thường có người mời thầy phong thủ
y chiếm quẻ định đoạt. Thầy phong thủy thường dùng một biểu làm kim chỉ nam:
Nhà máy, công ty, cửa hàng: cửa chính thích hợp chiều hướng.
Văn phòng luật sư, trung tâm chữa bệnh: Bắc hoặc Đông
Công ty thuyền bè, công ty tài chính, công ty bảo hiểm: Tây Bắc hoặc Đông Nam.
Ngân hàng, công ty kiến trúc, công ty xuất nhập khẩu: Bắc hoặc Đông.
Cửa hàng bán buôn, tiệm rượu: Bắc hoặc Đông Nam.
Bảng biểu này tuân thủ theo nguyên lý tương sinh tương khắc của Ngũ hành. Trên thực tế, sự thịnh suy của cửa hàng do khách hàng quyết định, khách hàng là tài nguyên sơ tại của cửa hàng. Khách hàng ra vào nhiều trước cửa thì cửa hàng sẽ hưng thịnh phát đạt, ngược lại cửa hàng sẽ phải đóng cửa. Cho nên, hướng cửa của cửa hàng nên quyết định do lượng khách hàng, khách hàng ở nơi nào thì cửa nên mở hướng theo nơi đó, như vậy sẽ nghênh đón được khách hàng.
Mỗi năm Giáng Sinh về, hình ảnh Ông Già Noel xuất hiện khắp mọi nơi. Ông Già Noel thân thương gần gũi vui vẻ trao quà cho trẻ em. Ông Già Noel thăm viếng và chia sẻ cho những người kém may mắn.Tuy nhiên, không phải ai cũng biết ông già tuyết là ai và tại sao lại có ông già tuyết?
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
1./ Nguồn gốc Lễ giáng sinh
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas (từ tiếng Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta") là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo.
Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6. Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12.
Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng". Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory (lịch dương).
Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng chịu sức dầu) là tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.
Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos,Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.
Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2, 3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.
Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.
Những người La Mã, hàng năm ăn mưng "Thần Mặt trời" đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt trời" của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu. Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt trời" và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.
Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với Đông Chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.
2./ Ý nghĩa lễ giáng sinh
Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ: chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noel…
Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em: một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.
Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình: ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ” - đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu….
3./ Giáng sinh ở Việt Nam thường diễn ra như thế nào?
Giáng sinh du nhập vào Việt Nam và được đông đảo mọi người hưởng ứng rất nhiệt tình. Dù không phải là ngày nghỉ chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12.
Trong những ngày này, cây thông Noel được trang trí ở nhiều nơi, có thể là cây nhân tạo làm bằng nhựa, hoặc cây thật thường là thông ba lá hoặc thông đuôi ngựa, trong khi ở các nước phương tây dùng đa dạng các loài thông, vân sam, lãnh sam. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây.
Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp. Trong đêm Giáng Sinh, những đôi tình nhân tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke,... và đặc biệt là những người Công Giáo thì chuẩn bị tham dự thánh lễ tại thánh đường giáo xứ hoặc giáo họ của mình.
3./ Ông Già Noel là nhân vật lịch sử hay chỉ là huyền thoại ?
Một nhân vật không thể thiếu trong ngày Lễ giáng sinh là Ông già Noel. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu xem nhé.
** Nguồn gốc của Ông già Noel
Thánh Nicôla và Ông Già Noel là cùng một người. Thánh Nicôla là một Giám Mục của Giáo Phận Myra, bên Thổ Nhĩ Kỳ.
Người Pháp gọi là: Le Père Noel (ông Cha, linh mục Noel), người Anh gọi trực tiếp là Santa Claus (Thánh Nicôla), Thánh Giám mục, lễ mừng ngày 6 tháng 12 hàng năm.
Người Pháp thân mật gọi Ngài là “Le Père Noel” (ông cha Noel) vì ngài liên hệ nhiều đến lễ Noel, nhất là với trẻ em, đến nỗi sau khi Ngài qua đời đã lâu rồi, mà hình ảnh Ngài còn được lưu truyền cho hậu thế.
Đầu tiên ở Châu Âu, rồi tới toàn thế giới qua bóng dáng một cụ già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, mặc áo choàng đỏ viền trắng, thắt lưng da đen,đội mũ chóp đỏ, lưng vác một giỏ lớn đây đồ chơi và bánh kẹo cho thiếu nhi.
Người ta còn thi vị hóa, đem niềm vui cho trẻ em, bằng cách “bắt ông cha Noel đêm 24 tháng 12 chui qua lò sưởi vào phòng ngủ của các em, bỏ đồ chơi, bánh kẹo vào những chiếc giày các em để bên lò sưởi, hay bỏ vào những chiếc vớ mà các em treo ở chân giường”. Thật ra là cha mẹ các em bỏ vào đó để khuyên các em phải ngoan thì “Cha Noel” mới cho quà! Một cách giáo dục hay!
Khi tới Việt Nam, dân chúng không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình cụ già râu tóc bạc phơ, nên gọi là Ông Già Noel.
Ông Già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị Giám mục thánh thiện, Thánh Nicôla.
Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài. Có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicôla là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư. Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á. Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô hữu dành cho ngài. Sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.
Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicôla là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicôla đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicôla trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là Ông Già Noel
** Cuộc đời Thánh Nicôla
Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicôla. Ngài là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại?
Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng Ngài là một nhân vật có thật.
Thánh nhân sinh năm 280 SCN, tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ). Cha mẹ đặt tên cho con trai bằng tiếng Hy Lạp là Nicôla. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicôla có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh tuy không giàu có lắm nhưng luôn giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ nền đạo đức bác ái từ cha mẹ : “Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình”, Nicôla đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm. Cha mẹ qua đời, lúc này Nicôla mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé vẫn tiếp tục đem tiền bạc giúp đỡ cho những người cùng khổ. Nicôla miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.
Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, có lẽ thánh Nicôla là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài biệt danh vui nhộn là “chú nhóc Giám Mục”. Ngài cười đón nhận và chẳng phiền lòng tí nào.
Năm 303, lúc Nicôla 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicôla và giáo dân địa phận Mira không chịu tuân phục. Ðối với Kitô hữu, chỉ có một Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicôla đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng Nicôla bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống.
Đến năm 313, hoàng đế Constantine lên ngôi, ra sắc chỉ Milan, đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicôla thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển Giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người về với Chúa.
Ngày 6 tháng 12 năm 343, Đức giám mục Nicôla từ trần, hưởng thọ 63 tuổi. Ngài để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Một thời gian ngắn sau khi Đức giám mục Nicôla từ trần, người dân Mira dựng lên một ngôi đền thờ tôn kính ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài.
Ðến năm 800 Giáo Hội Công Giáo Đông Phương chính thức tuyên dương ngài là thánh.
** Lý do ông già Noel trở nên nổi tiếng?
Như vậy, có thể thấy câu chuyện về ông già Noel xuất phát từ Cơ đốc giáo. Tuy nhiên ngày nay, nhân vật này xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới và nhiều người không theo tôn giáo này nhưng vào ngày lễ Giáng sinh vẫn thực hiện những phong tục giống những người theo đạo như: Tặng quà cho trẻ em hay hóa trang thành ông già Noel.
Vậy nhờ đâu mà người đàn ông bụng phệ mặc đồ đỏ này lại nổi tiếng đến vậy?
Trước hết, ông già Noel không chỉ là hóa thân của một vị thánh trong Cơ đốc giáo, mà ông còn là một hình ảnh tượng trưng cho lòng nhân từ, tình yêu thương giữa con người với con người. Câu chuyện về ông nhanh chóng lan truyền và được mọi người hưởng ứng.
Từ đó, ông già Noel cũng bắt đầu “làm việc” trong lĩnh vực quảng cáo. Hình ảnh ông già Noel trong chiến dịch quảng cáo của Cocacola. Cũng chính từ đây mà ông già Noel nổi tiếng khắp thế giới.
Tuy nhiên, hình ảnh về một nhân vật hiền hậu với chiếc bụng phệ trong bộ trang phục màu đỏ viền trắng cùng bộ râu trắng xóa chỉ trở nên nổi tiếng thế giới kể từ những năm 1930, khi hãng Cocacola sử dụng hình ảnh ông già Noel để thực hiện chiến dịch quảng cáo sản phẩm nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong quảng cáo này, ông già Noel trên chặng đường phát quà cho các bạn nhỏ đã dừng lại nghỉ chân và thưởng thức một chai Cocacola giải khát. Vì là một chiến dịch quảng cáo, nên nhờ đó mà hình ảnh ông già Noel tràn ngập khắp các phương tiện truyền thông đại chúng và dần trở nên quen thuộc.
Khi chiến dịch quảng cáo kết thúc, hình ảnh dễ thương này của ông già Noel vẫn được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác và kết quả là ngày nay, trên thế giới ai cũng biết tới ông già Noel với tạo hình là một ông lão râu trắng, bụng to, mặc đồ màu đỏ và có một điệu cười vô cùng thân thiện. Thú vị thay, trang phục của ông già Noel có màu sắc cũng tương ứng với logo của hãng nước giải khát này.
4./ Những biểu tượng trong ngày Lễ giáng sinh
** Vòng lá mùa vọng
Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng
** Thiệp Giáng sinh
Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.
** Quà Giáng sinh
Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bạn bè. Đối với một số người, những món quà Giáng sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.
** Cây thông NOEL
Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức từ thế kỷ 16. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu cả bên trong và bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu.
Đến thế kỉ 19 thì cây Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Đến những năm 1820 cây Noel được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.
** Quà tặng trong những chiếc bít tất
Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.
Câu truyện thần kỳ kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3 cô gái treo bít tất bên lò sưởi dể hy vọng nhận được quà.
Trẻ em hy vọng nhận được nhiều quà nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất bên cạnh lò sưởi dể nhận quà như ước mơ từ ông già Noel.
** Ngôi sao Giáng Sinh
Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía,có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran va Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, 3 vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm trầm hương và vàng bạc châu báu.
Ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đem Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.
** Chiếc gậy kẹo
Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Giê su. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của chúa Giê su. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập ác. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì chúa Giê su chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên chúa Giê su (Jesus). Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được lễ Giáng Sinh nói về điều gì.
** Bài hát Giáng sinh
Bài Jingle bell do nhạc sĩ J.Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.
Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh. Bài Silent Night, Holy night có xuất xứ từ Đức với tựa đề “Stille Natch, Heiligo Natch” do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến Đức – Áo - Phổ kết thúc. Sau này được phổ biến sang Áo, Mỹ... nay đã được dịch ra gần 100 thứ tiếng.
** Nến Giáng Sinh
Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.
Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.
Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.
** Chuông Thánh Đường
Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.
Cao huyết áp là huyết áp động mạch vượt quá 140/90. Bệnh cao huyết áp có 2 loại: - Bệnh do một số bệnh khác dẫn đến. - Bệnh do rối loạn chức năng não. Thường, người ta gọi cao huyết áp bẩm sinh là bệnh cao huyết áp. Bệnh này có liên quan đế
Cao huyết áp là huyết áp động mạch vượt quá 140/90. Bệnh cao huyết áp có 2 loại:
– Bệnh do một số bệnh khác dẫn đến.
– Bệnh do rối loạn chức năng não.
Thường, người ta gọi cao huyết áp bẩm sinh là bệnh cao huyết áp. Bệnh này có liên quan đến bệnh hôn mê nội khoa.
Huyết áp cao thì đầu đau, mắt hoa, nhìn vật mơ hồ, trước mắt có đốm đen, đứng đâu không được lâu.
Đây là những trang nhật ký của một người làm công tác nghiên cứu:
“Cha tôi là một người có bệnh cao huyết áp, đã phát hiện gần 10 năm, không chữa được. Loại bệnh này tương đối phổ biến, người tuổi cao hay mắc. Huyết áp của động mạch vượt quá phạm vi bình thường. Người bị bệnh nặng sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nên phải vừa phòng bệnh vừa chữa trị.
Bệnh này do nguyên nhân nghề nghiệp tạo nên hoặc do căng thẳng cao độ, nơi ở không ổn định, mức sống thấp. Nếu trong cuộc sống lại có tổn thương hoặc chịu nhiều kích thích thì càng dễ mắc bệnh. Nếu người bệnh còn trẻ tuổi lại luôn bị đe dọa, kéo dài tình trạng kích động sẽ sinh ra tính hung hãn, thù nghịch.
Cha tôi phát hiện ra bệnh ở giai đoạn nhẹ. Khi ngủ cha tôi mơ thấy đang đêm đi trên đường, có ai té đầy cát vào người, quanh chỗ ở đều nghe thấy tiếng rào rào như mưa.
Trước căn bệnh của cha, tôi chỉ biết khuyên ông chú ý sức khỏe, mua thuốc uống, về sau tôi tìm đọc các sách nói về giấc mơ và sự liên quan của mơ với bệnh tật, dựa vào y bệnh của người đi trước, tìm hiểu nghiên cứu, phát hiện những mối quan hệ trong đó, kiên trì chữa bệnh cho ông. Tôi hỏi ông tỉ mỉ về nội dung các giấc mơ trước đó. Cha tôi cũng kể lại rất rõ về những thứ đã thấy trong các giấc mơ trước đây. Trong mơ ông đều thấy những hình ảnh và những phản ứng xấu. Tôi giải thích rằng không phải cái gì cũng đều do quỷ thần”.
Việc luyện tập cơ thể để khắc phục bệnh cao huyết áp là rất quan trọng. Tập khí công, thư họa, nghe âm nhạc nhẹ, các hoạt động khác… có thể giúp huyết áp hạ dần, đi đến ổn định.
Ý nghĩa Thai có nghĩa là sao Tam Thai. Sách thiên văn nói sao ấy như ngôi Tam công, cho nên trong thư từ tôn ai cũng gọi là thai, ví dụ như gọi quan trên là hiến thai , gọi quan phủ huyện là phụ thai. Theo Việt Viêm Tử thì Tam Thai là Thượng Thai, Trung Thai và Hạ Thai, chỉ về ba cấp là Thái Úy, Trung Tư Đồ và Hạ Tư Không.
Đặc điểm về vị trí Tam Thai và Bát Tọa được an căn cứ vào Tả Hữu, sự phối hợp có đặc điểm giống như Long Phượng, Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Quí, nghĩa là xung chiếu nhau ở Thìn Tuất, đồng cung ở Sửu Mùi, tam hợp tại Mão Hợi, Tỵ Dậu, đơn thủ tại Tí Ngọ Dần Thân và chỉ có cung Sửu Mùi mới có cách giáp Thai giáp Tọa. Khi ở Âm cung thì dễ có đủ bộ hơn là khi ở Dương cung (ở Âm cung thì hoặc đồng cung hoặc tam hợp chiếu, ở Dương cung thì hoặc xung chiếu hoặc đưa đến cách giáp biên tại cung Sừu Mùi)
Ngũ hành Tam Thai hành Thủy (VVT cho rằng hành Thổ), Bát Tọa hành Mộc (VVT cho là hành Thổ)
Đắc hãm Miếu địa ở Thìn Tuất Sửu Mùi. Vị trí miếu địa của Thai Tọa cũng giống như Tả Hữu. Tại vị trí miếu địa ảnh hưởng của Thai Tọa gia tăng lên rất nhiều
Biểu tượng Tam Thai tượng là nhà cửa gia ốc. Bát Tọa tượng là cửa ngõ, môn hộ, và là xe của vị quan đứng đầu lục tào ngồi để phân phát hiệu lệnh, bây giờ có thể coi tương đương tượng là xe hơi. Ở thân thể Tam Thai tượng trán, Bát Tọa tượng cằm. Cư Mệnh thì là người có trán vuông, bích lập như bức tường dựng (nếu có Tam Thai), và cằm nở nang (nếu có Bát Tọa)
Thai Tọa kết hợp với các phụ tinh Thai Tọa ví như các phủ sở nên rất hợp với bộ Thai Cáo. Phú có câu Thai Tọa Phong Cáo hiển ấm thừa quang (Thai Tọa Phong Cáo tọa thủ đồng cung thì hưởng phúc đức của tổ phụ, ông cha) Thai Phụ, Xương, Tọa vinh phong (vinh hiển, được phong tặng) Danh lừng phiên trấn (nổi tiếng) Mộ phùng Hỏa Tham (B156)
Thai Tọa kết hợp với Hồng Loan cũng rất tốt đẹp, có lợi cho công danh, nghề nghiệp vì đem đến sự hanh thông, may mắn. Ý nghĩa này chỉ nổi bật khi đi cùng với các sao chỉ về công danh quyền hành. Phú có câu: Thân hữu Hồng Đào kiêm Thai Tọa nhi công danh khả tất (Thân có Hồng Đào gặp Thai Tọa thì có công danh, một số người cho rằng muộn màng mới có) Mấy người ít tuổi (niên thiếu) công danh, Hồng Loan, Bát Tọa ở mình chẳng sai Người tuổi trẻ công danh đầy tá, tọa Mệnh Quan Hồng, Tọa chẳng sai Những người niên thiếu danh ghi, Hồng Loan Bát Tọa ở vì Mệnh cung (Mệnh hay Quan có Hồng Loan, Bát Tọa thì tuổi trẻ đã có công danh)
Hồng Loan, Tam Thai, Long Đức đồng cung thì có khả năng chế hóa được cách đa phu tại cung Mệnh do Hồng Loan gây ra Hồng Loan, Bát Tọa, Nguyệt Đức thì có chế hóa đôi chút về cách đa phu, ví dụ như là tuy đời trước có nhưng ăn ở với nhau một thời gian ngắn chưa có con cái thì chia tay và sau đó lập gia đình lần thứ hai
Tam Thai đồng cung với Thiên Mã thì là anh hùng không có đối thủ, vô địch, hàm ý nói sẽ nổi bật xuất chúng về một mặt nào đó. Chú ý rằng Thiên Mã tại Tỵ Hợi thì mới có đủ bộ Thai Tọa thành ra mạnh mẽ hơn tại Dần Thân chỉ có một sao Tam Thai mà thôi. Trong trường hợp này thì cần phối hợp với các sao tốt đẹp khác thì ý nghĩa trên mới mạnh được. Phú có câu: Thiên Mã ngộ Tam Thai anh hùng vô đối
Thai Tọa hội với Binh Tướng thì thường thiên về võ nghiệp, có lợi cho võ nghiệp xuất phát từ hành động mưu trí
Thai Tọa gặp Tả Hữu thì gia tăng tính chất phụ trợ của Tả Hữu, kẻ ra vào uy nghi, kẻ hầu hạ giúp đỡ
Thai Tọa gặp Tuần hay Triệt thì kém tốt (có người cho rằng công danh trắc trở, trục trặc về học hành)
Bát Tọa gặp Thái Dương rất thích hợp, có lợi cho công danh. Phú có câu: Bát Tọa hướng Dương thị tụng ư cung cấm (3, B81) (Mệnh có Thái Dương gặp Bát Tọa tọa thủ đồng cung được khen ngợi nơi cung cấm)
Thai Tọa có đặc tính làm giảm bớt nguy hại,tai họa (nhưng không hết hẳn) do các hung sát tinh như Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa Linh hoặc Hình Riêu gây ra, nếu kết hợp với Quang Quí thì càng tăng thêm sức mạnh cứu giải, ảnh hưởng của Không Kiếp không đáng kể. Thai Tọa có khả năng làm giảm bớt sự xung khắc, buồn phiền, lo lắng trong cuộc sống thành ra có khả năng làm giảm tác họa do các sao Tang Hổ, Khốc Hư, Hóa Kỵ... gây ra
Chú ý rằng Thai Tọa là bộ sao trợ tinh, phù tá tinh nên ảnh hưởng tốt xấu cần xem xét thận trọng trong bối cảnh phối hợp với các sao khác, tùy theo các sao hội họp mà luận đoán là có lợi cho mặt nào. Khi đi với chính tinh và trung tinh tốt đẹp chủ về quyền lộc như Khoa Quyền Lộc thì gia tăng sự hiển đạt, phú quí . Thai Tọa là đài cát tinh, chủ cát lợi, thanh nhàn, sang trọng, khoan thai, bệ vệ. Thủ Mệnh thì đàn ông bệ vệ, đàn bà thì là mệnh phụ phu nhân, đi đứng khoan thai. Thông thường người không gầy không mập, lưng cánh phản, mông đít đầy đặn nẩy nở tròn trịa, nhất là khi đắc địa. Hai sao này đem lại sự may mắn, cát lợi, thanh nhàn, giảm bớt phiền muôn. lo âu, xung khắc trong cuộc sống, làm cho nhà đất tiền của được thêm đẹp đẽ, do đó thủ tại Mệnh Thân Tài Điền Quan Phúc rất tốt.
Thai Tọa thủ Mệnh thì: Bệ vệ, khoan thai Mưu trí, khôn ngoan Phúc hâu. thiện lương, thanh quí Khoan hòa. Thường không hay cạnh tranh, ganh đua với người, không phản ứng gay gắt trong sự tranh chấp (trừ khi có Phục Binh đồng cung) Lười biếng, thiếu năng động, không ham làm giàu Thích an nhàn, sống ung dung, an phận, hưởng thụ, không hay lo, chuyện đến đâu hay đến đấy, có quan niệm trời sinh voi sinh cỏ Giảm thiểu sự hình khắc, lo âu, phiền muộn trong cuộc sống, gia tăng sự thanh tịnh trong tâm hồn trước sự biến động của ngoại cảnh Có khả năng gia tăng sự vinh hiển, tài lộc khi phối hợp với các sao có ý nghĩa này (như Khoa Quyền Lộc)
Thai Tọa đồng cung tại Sửu Mùi hay xung chiếu nhau tại Thìn Tuất thì uy lực trở nên càng mạnh mẽ, rất tốt đẹp, thủ tại Mệnh hay Thân thì gia tăng mưu trí, là người có nhiều mưu lược, văn và võ song toàn khi đi với nhiều sao tốt. Có quan điểm cho rằng nếu đồng cung với sao Mộ thì càng tốt đẹp và có người cho rằng Thai Tọa đồng cung rất có lợi cho võ cách, ở lá số tốt thì là vị tướng tung hoành ngang dọc. Phú có câu: Số Bát Tọa, hai anh Phụ Bật, Chốn Sửu Mùi Thìn Tuất đồng viên (đồng thủ) Tể Thân (làm đến Tể Tướng) số Lộc Khoa Quyền, Hoặc tam chính chiếu (ba nơi chiếu) hoặc liền một nơi (liên châu) hoặc: Mộ chung (trung) Thai Tọa, văn mô vũ lược kim ưu (Mệnh có sao Mộ tọa thủ hoặc Mệnh tại Tứ Mộ gặp Thai Tọa đồng cung thì văn võ song toàn) Thai Mệnh đa học thiểu thành (học nhiều nhưng không thành công), Mộ gặp Thai Tọa hiển danh anh tài (Sao Mộ tại Tứ Mộ lại gặp Tam Thai Bát Tọa) Mộ Thai Tọa võ văn xuất chúng (Thai Tọa tại Tứ Mộ cung thì văn võ toàn tài) Ngọ (cung Ngọ) Khoa Quyền nhậm trọng phiên hàn
Cách giáp Thai Tọa rất tốt đẹp, không kém gì trường hợp đồng cung hay xung chiếu lẫn nhau. Phải chăng các sao đôi an xuất phát từ cung Thổ thì vị ví tốt đẹp được nhận hưởng là tại Thổ cung? Cách giáp tại vị trí Sửu Mùi này đưa đến hanh thông, giảm thiểu sự xấu xa cho chính cung. Nếu cung chính gặp nhiều sao tốt thì công danh được thuận lợi, tuổi trẻ đã đắc ý công thành danh toại, có uy quyền đài các, được thanh nhàn. Thai Tọa đứng một mình không phối hợp được với văn võ tinh sáng sủa hoặc đi với sát tinh lạc hãm thì công danh cũng không có là bao. Phú có câu: Giáp Bát Tọa giáp Tam Thai, thiếu niên sớm dự các đài (lâu đài) nghênh ngang (hiên ngang) Giáp Thai giáp Tọa danh phận tao vinh Giáp Thai Tọa tiếng người tuổi trẻ, miền các đài rạng vẻ y quan Giáp Long giáp Phượng đôi nơi, Tả Hữu Thai Tọa lâu đài thiếu niên (Mệnh giáp Tam Thai giáp Bát Tọa thì nhỏ tuổi đã có công danh, đã thi đỗ cao, đã làm quan. Tuy câu phú này nói như vậy nhưng cần phối hợp với các sao khác về công danh thì mới có ý nghĩa như đã nêu)
Chú ý Mệnh Bát Tọa thủ, Thân Tam Thai thủ hoặc ngược lại cũng có ý nghĩa như Mệnh hay Thân gặp bộ Thai Tọa
Theo VVT thì Thai Tọa lạc hãm chủ sự cô đơn, điều này cần xét lại.
Thai Tọa tại vị trí 12 cung Phụ Mẫu: Cha mẹ bệ vệ, khoan thai, hiền lương, thụ động, không thích cạnh tranh với người Không phải lo lắng về cha mẹ, cha mẹ không phải là gánh nặng cho bản thân Giảm bớt sự xung khắc
Phúc Gia tăng phúc thọ, thanh nhàn, giảm thiểu tai họa, bệnh tật, xung khắc nhất là khi đắc địa
Điền Làm cho nhà đất thêm tốt đẹp, nếu cung Điền có cát tinh miếu vượng hay Khoa Quyền Lộc thì nhà của to tát đẹp đẽ, nhiều ruộng đất Gặp may mắn về điền sản, điền sản đến dễ dàng không phải vất vả mệt nhọc (ví dụ như chồng hay vợ tạo sản) Có điền sản, tiền bạc (nếu điền tương đối sáng sủa) Không hay lo âu về vấn đề tạo sản dù ít điền sản, thường được ở nhà cửa tốt đẹp, nhất là khi Thai Tọa đồng cung Không phải lo lắng về nơi ăn chỗ ở cho dù nghèo Tam Thai Thiên Mã đồng cung: có khả năng tạo sản bất ngờ nhanh chóng Thai, Tọa, Long Phượng: làm cho nhà đất thêm tốt đẹp, có nhà cửa lớn Thai, Tọa, Đường Phù: nhà của ngày càng đẹp đẽ
Quan Lộc Gặp may mắn trong nghề nghiệp (như được người giúp đỡ kiếm việc), không phải cạnh tranh gay gắt, trong nghề nghiệp có uy tín, nhất là khi đồng cung với Đào hay Hồng thì càng gặp may mắn, hanh thông về nghề nghiệp. Một số người cho rằng tuổi trẻ đã ra làm quan, sớm làm nên nhưng thật tế cần phải kết hợp với chính tinh hoặc trung tinh sáng sủa mới được Bát Tọa Thiên Mã đồng cung thì về nghề nghiệp rất hanh thông, trong cạnh tranh nhất là thương trường thì rất có uy thế, khó ai bì được nhưng cần phải đi với chính tinh hoặc trung tinh tốt đẹp Thai Tọa đồng cung gặp Tuần hay Triệt thì tuy có hanh thông nhưng nghề nghiệp vẫn không bền Thai, Tọa, Mộ (Mộ trung Thai Tọa) tại Quan hay mệnh chủ quí hiển, làm nên nhất là tại Tứ Mộ nếu cung Quan sáng sủa Giáp Thai giáp Tọa cũng rất tốt như tọa thủ nhưng cần có chính cung sáng sủa thì hiệu lực mới mạnh Bát Tọa, Thái Tuế, Đào Hoa: sớm làm nên khi cung Quan sáng sủa
Nô Đối xử với bạn bè chân thành, không ghen ghét hơn thua với bạn bè Không phải lo lắng vì bạn bè, người dưới quyền hoặc tôi tớ làm phản. Gặp Không Kiếp đồng cung cũng đỡ lo về sự tác họa của Không Kiếp Giảm bớt sự xung khắc với bạn bè tôi tớ
Phu Thê Vợ hay chồng hiền lương, thụ động, thích an nhàn, không hay cạnh tranh với đời Lập gia đình dễ dàng, thuận lợi, có khả năng chế hóa được cách đa phu do Tả Hữu gây ra khi thủ đồng cung với Tả Hữu nhưng khó chế hóa được cách đa phu thê do Đào Hồng tại Mệnh Thân Giảm bớt sự xung khắc, đau buồn trong cuộc sống chồng vợ
Thiên Di Ra ngoài hanh thông, không phải cạnh tranh gay gắt, cho dù trong môi trường cạnh tranh gay gắt cũng được hanh thông nhàn nhã, nhất là khi đồng cung với Đào Hồng hay Long Phượng
Tật Ách Giảm thiểu ưu phiền về bệnh tật, tai họa, ví dụ như bệnh nặng trở thành nhẹ, họa lớn trở thành họa nhỏ, nhất là khi Thai Tọa đồng cung thì hiệu lực càng mạnh mẽ
Tài Gặp may mắn về tiền bạc, không phải cạnh tranh khi kiếm tiền Có tiền bạc, sung túc Không phải lo âu về tiền bạc (vì được người khác giúp đỡ như chồng vợ, cha mẹ, con cái, anh em về tiền bạc), nhất là khi Thai Tọa đồng cung
Tử Tức Nuôi con dễ dàng, không phải lo lắng về con cái, con cái không là gánh nặng cho cha mẹ Bản thân có tính ít lo lắng về con cái, hoặc không phải lo lắng cho con cái vì con rất ngoan, hiền lương, rất dễ dạy, nhất là khi đồng cung với Ân Quang hoặc Thiên Quí thì có đồng cung với Không Kiếp cũng không phải lo lắng về con hư, khó dạy. Gặp Không Kiếp đồng cung cũng không phải lo lắng về con cái, đặc biệt nếu cung Tử Tức có Thiên Tướng tọa thủ thì lại càng không phải lo Gặp nhiều cát tinh thì con thành danh. Phú có câu: Tam Thai thấy cùng triều cát diệu, thời một phen dưỡng dục thành nhân (Cung Tử Tức có Tam Thai gặp cát diệu thì nuôi con thành người, con tài giỏi, thành danh)
Phu Thê Chồng hay vợ hiền lương Vợ hay chồng không là gánh nặng cho bản thân Giảm thiểu hình khắc trong cuộc sống chồng vợ
Huynh Đệ Anh chị em hiền lương Không phải lo lắng cho anh chị em, anh chị em không là gánh nặng cho bản thân Giảm thiểu hình khắc với anh em
Hạn Giảm thiểu tai họa, hình khắc, gia tăng phúc thọ, tài lộc tùy theo sự phối hợp với các sao và vị trí đắc hãm.
Khi muốn đeo trang sức Phật giáo, người ta truyền nhau rằng Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc thì sẽ được hưởng phúc khí, tài lộc. Vậy câu nói này do đâu mà có?
Khi muốn đeo trang sức Phật giáo, người ta thường truyền nhau rằng “Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc” thì sẽ được hưởng phúc khí, hạnh phúc đủ đầy. Vậy quan niệm này từ đâu mà có, tính chính xác của nó đến đâu, hãy cùng tìm hiểu nhé.Trong giới chơi ngọc có câu “Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc”, đó là một tục truyền dân gian, tựa như một lời cầu chúc may mắn cho người tín ngưỡng. Bạn đã biết và hiểu lý do tại sao có câu nói thiên về yếu tố tâm linh này hay chưa? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ cùng các bạn độc giả đi tìm rõ ngọn nguồn nảy sinh và cách hiểu câu nói được sử dụng khi chọn trang sức Phật giáo này sao cho thật chính xác nhé.
Nguồn gốc ra đời quan niệm “Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc”
Quan niệm “Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc” chủ yếu bắt nguồn từ mối quan hệ giữa Đạo giáo, Phật giáo và Kinh Dịch, kết hợp với âm dương ngũ hành để đúc rút ra kinh nghiệm sử dụng trang sức Phật giáo. Nam giới thuộc dương mà nữ giới thuộc âm. Ngược lại, Quan Âm là nữ thuộc âm, Di Lặc là nam thuộc dương. Từ đó có thể hiểu rằng quan niệm trên sinh ra từ việc bản thân được mặt Phật đem theo mình bổ sung âm dương, đạt đến hiệu quả âm dương cân bằng. Trong quan điểm văn hóa truyền thống phương Đông, âm dương luân chuyển, là đạo lý của vạn vật trong vũ trụ này, âm dương giao hòa là bản chất nội tại của tự nhiên, là cơ chế hoạt động của sinh mệnh con người. Do đó, dù là tu sinh hay dưỡng sinh thì đều phải đạt đến độ âm dương cân bằng, tiến tới tâm và cơ thể hài hòa, chạm tới cảnh giới con người và thiên nhiên hợp vào làm một. Xưa kia, nam giới là người ra ngoài đối ngoại, lo chuyện làm ăn buôn bán, kiếm tiền chăm sóc gia đình. Họ thường phải đi xa gia đình suốt một thời gian dài, vì thế sự an toàn luôn là điều quan trọng nhất.
Nam đeo Quan Âm vì tâm tính đàn ông thường khá lạnh lùng thô bạo, mà Quan Âm là đức Phật đại diện cho thiện tâm. Mang theo mình tượng Quan Âm cũng chính là lời nhắc nhở bản thân tu thân tích đức, xóa bỏ tà tâm, bình tình giải quyết sự việc, không nóng nảy bộp chộp mà dễ hỏng việc lớn.Ngoài ra, nam đeo Quan Âm là thể hiện mong muốn nam giới ra ngoài xã hội được bình an may mắn, công danh tài lộc đủ đầy. Trong văn hóa về Ngọc, Quan Âm là hình tượng nữ thân được kết hợp từ Quan Âm trong Phật giáo và Vương Mẫu nương nương trong Đạo giáo. Quan Âm là vị Phật có thể bảo trợ bình an, ngoài ra chữ “Quan Âm” trong tiếng Hán đồng âm với “Quan Ấn”, vì thế mà người ta cũng hy vọng Quan Âm sẽ phù hộ độ trì cho cuộc sống thuận lợi, sự nghiệp hanh thông, sức khỏe dồi dào, vạn sự như ý. Bạn có biết Một năm có bao nhiêu ngày vía Quan Âm không? Nữ giới đối nội, coi gia đình làm trọng, là người mang lại sự ấm áp cho gia đình, là biểu trưng cho tổ ấm hạnh phúc. Phật Di Lặc đầu tròn bụng lớn, thân hình tròn trịa, lòng dạ khoan dung, từ bi độ lượng, luôn nở nụ cười, lạc quan vui vẻ. Nữ giới đeo Di Lặc sẽ hoàn toàn thể hiện được tình yêu bao la của người mẹ, có thể thoải mái giải quyết đủ mọi chuyện vụn vặt của gia đình, giữ cho gia đình hòa thuận yên ấm, “gia hòa vạn sự hưng”.
Nữ đeo Di Lặc còn thể hiện mong muốn cuộc đời phụ nữ được Di Lặc bảo hộ được an nhàn hạnh phúc. Di Lặc là đức Phật của tương lai, có thể đem lại phúc khí, cát khí cho con người, mang tới ngày mai tươi sáng hơn. Nữ đeo Di Lặc hay nữ đeo Phật cũng có ý nghĩa tương tự như nhau, chữ “Phật” trong tiếng Hán phát âm gần giống với chữ “Phúc”, ý cầu chúc người phụ nữ lấy được người chồng tốt, cả đời được phúc khí đi theo.Nữ đeo Di Lặc vì phụ nữ thường có phần ích kỉ nhỏ nhen, hay so đo tính toán, mà Di Lặc là đức Phật đại diện cho lòng dạ bao la, khoan dung độ lượng. Nói nữ nên đeo mặt Di Lặc là muốn học cách phóng khoáng đối diện với mọi chuyện mình gặp phải. Cuộc đời nhiều chuyện phải lo phiền nghĩ ngợi, nên học Phật để tĩnh tâm an lạc, bình tâm xem xét sự đời, mỉm cười vượt qua giông bão. Bạn biết cách thờ Phật Di Lặc hay chưa, cùng tìm hiểu nhé.Nói tóm lại, “nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc” cũng chính là lấy âm dương nam nữ tương trợ, bù đắp cho nhau những điều còn thiếu sót. Nam giới có thể lấy những ưu điểm của nữ giới để sửa đổi bản thân mình và ngược lại, nữ giới cũng vậy.Từ đó có thể thấy, “nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc” là quan điểm thể hiện sự hiểu biết và thăng hoa của văn hóa Phật giáo, Đạo giáo đối với việc sử dụng ngọc, đá quý. Dù là Quan Âm hay Di Lặc thì đều là Đức Phật phổ độ chúng sinh, có thể giúp con người trừ tà tích phúc, hóa dữ cầu an, gặp hung thành cát.
Khám phá 5 vị trí đắc đạo đặt tượng Phật Di Lặc hái tài hái lộc nhé.
Quan điểm trên có thực sự chính xác hay không?
Có người lại cho rằng cách lý giải phía trên là không hoàn toàn chính xác, vì trong Phật giáo thì Phật và Quan Âm vốn không phân biệt giới tính rõ ràng, vậy thì sao có thể nói “Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc”. Theo quan điểm này thì Phật giáo Mật tông của Trung Quốc được truyền qua thiên can địa chi, 12 mối nhân duyên, ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tương sinh nên có 8 đức Phật bảo hộ cho 12 con giáp. Vì thế, nếu muốn được Phật phù trợ thì tốt nhất nên dựa vào con giáp của mình mà lựa chọn Phật bản mệnh cho chính xác để mang theo người.
Câu nói “Nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc” qua thời gian bị thay đổi dần. Theo ghi chép trong Kinh Phật thì khi mỗi người sinh ra đều có một vị Phật hay Quan Âm Bồ Tát đi theo bảo vệ. Người sinh vào con giáp khác nhau thì tính cách khác nhau, tính cách là một trong những yếu tố quan trọng quyết định vận thế con người. Bạn đã biết Các vị Phật bản mệnh phù hộ độ trì cho 12 con giáp chưa, đọc ngay nào.Phật độ mệnh thực tế chính là dựa vào việc trong mệnh mỗi người thiếu sót gì thì đeo mặt Phật độ mệnh bên mình sẽ bổ khuyết, giữ được bình an, hóa hung thành cát, ly khổ đắc lạc. Theo đó, chúng ta có Phật độ mệnh cho từng con giáp, giúp bản mệnh được an lành, phúc lộc.
Phật bản mệnh bảo hộ cho từng con giáp là ai?
Tuổi Tý: Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tayTuổi Sửu: Hư Không Tạng Bồ TátTuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ TátTuổi Mão: Văn Thù Bồ TátTuổi Thìn: Phổ Hiền Bồ TátTuổi Tị: Phổ Hiền Bồ TátTuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ TátTuổi Mùi: Đại Nhật Như Lai Tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai Tuổi Dậu: Bất Động Minh VươngTuổi Tuất: Phật A di đàTuổi Hợi: Phật A di đàAn An
Lịch Phật hàng năm - những ngày lễ lớn kính ngưỡng Phật, Bồ TátTại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng?Trang sức hình Phật: Nên đeo hay không, suy ngẫm thế nào mới đúng? Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)