Ngày sinh có những bí mật vô cùng đặc biệt mà bạn chưa khám phá hết. Trong tử vi phương đông, để lập 1 lá số tử vi phân tích cuộc đời của bạn qua 12 cung cũng dựa trên ngày tháng năm sinh âm lịch và giờ sinh. Đối với tử vi phương tây cũng tương tự như thế. Bài viết dưới đây chỉ là một mô tả ngắn dựa trên ngày sinh để nói về đường tình duyên của bạn. Nên sử dụng ngày sinh dương lịch trước khi xem. Nếu thấy đúng thì like Fanpage của ## nhé
1. Những người sinh ngày 1, 10, 19 và 28
Bạn là con người yêu thích sự lãng mạn, từng bị trúng tiếng sét ái tình và bạn tin vào tiếng sét đó. Tuy nhiên, tính cách cả thèm chóng chán của bạn cũng khiến người ta buồn đấy nhé, hôm nay thấy rung động bởi ánh mắt này, nhưng ngày mai bạn lại bị nụ cười khác hút hồn. Ánh mắt ngày hôm qua làm bạn rung động thì hôm nay lại khiến bạn trống rỗng. Bạn thẳng thắn trong tình yêu nên lúc nào yêu ra yêu và ghét cũng rất rõ ràng đó.
Yêu thật sự: 2 người
Trái tim tan vỡ: 2 lần
2. Những người sinh ngày 2, 11, 20 và 29
Bạn thích chủ động đi tìm tình yêu của mình chứ không thích ngồi đó chờ tình yêu đến. Chẳng may cho ai cứ lao vào bạn thì chỉ có vô ích mà thôi. Bạn thường nhắm đối tượng từ xa mới quyết định có nên “bắn tên” hay không. Để được một ai đó thực sự rung rinh mình thì bạn sẽ phải mất nhiều công sức cưa cẩm, gây thương nhớ cho họ đấy.
Yêu thật sự: 3 người
Trái tim tan vỡ: 4 lần
3. Những người sinh ngày 3, 12, 21 và 30
Bạn chắc chắn và tự tin trong việc chọn nửa kia cho mình trong tình yêu. Bạn bè bạn không bao giờ hiểu bạn bằng người ấy.
Thậm chí sự lựa chọn của bạn là vô điều kiện. Bạn luôn âm thầm ở bên và theo dõi người mình yêu, ở sau họ khiến bạn thấy hạnh phúc.
Yêu thật sự: 3 người
Trái tim tan vỡ: 5 lần
Xem bói tình yêu của bạn qua ngày sinh
4. Những người sinh ngày 4, 13, 22 và 31
Với bạn tình yêu là một phạm trù luôn phải nghiêm túc. Bạn ghét những cuộc tình qua đường, không chung thủy và hoa lá cành. Tuy nhiên, bạn có thể hợp với nhiều tuýp người. Bạn tìm thấy những ưu điểm ở hầu hết mọi người. Tình yêu hay mang lại cho bạn những bất ngờ mà bạn không biết trước được nó sẽ xuất hiện khi nào và ở đâu. Tình yêu của bạn cũng khá là bí ẩn.
Yêu thật sự: 2 người
Trái tim tan vỡ: 2 lần
5. Những người sinh ngày 5, 14 và 23
Mọi người nói bạn không có đam mê, thật là một sai lầm. Thực tế, bạn rất sâu sắc và đa cảm. Cũng vì thế mà bạn có thể yêu chết mê chết mệt người ta ngay sau vài buổi hò hẹn. Tinh yêu của bạn đầy hứng khởi chứ không hề nhạt nhòa nhé.
Yêu thật sự: 5 người
Trái tim tan vỡ: 5 lần
6. Những người sinh ngày 6, 15 và 24
Với bạn, yêu là một hệ quả tất yếu của tình bạn. Trong tình yêu bạn rất trung thành, chín chắn và chân thật đối với nửa kia. Bạn không phải là kẻ lừa dối cũng không phải tán tỉnh cho vui. Bạn thường giữ được tình bạn tốt đẹp với người cũ, đồng thời sẵn sàng nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu trong tương lai.
Yêu thật sự: 4 người
Trái tim tan vỡ: 5 lần
7. Những người sinh ngày sinh: 8, 17 và 26
Bạn thích cảm giác đang yêu, thích đến nỗi ban không muốn để mình ở trong tình trạng single chút nào. Nói cách khác là bạn sợ nhất sự cô đơn. Thật không may, tình yêu không dễ dàng chiều theo ý muốn bạn được. Có những người được bạn coi là tình yêu thì lại đang lừa dối và lợi dụng bạn, đem lại đau khổ cho bạn mà thôi. Hãy chờ tình yêu thực sự bạn nhé, đó sẽ là lúc bạn hạnh phúc và thấy ngọt ngào nhất.
Tình yêu thực sự: 2 người
Trái tim tan vỡ: 3 lần
8. Những người sinh ngày 9, 18 và 27
Với bạn, yêu là thứ tình cảm vương vấn day dứt mãi, dù đã chia tay nhau khá lâu rồi. Nói cách khác là bạn thích sống với quá khứ hơn hiện tại. Thực tế, mối tình đầu luôn để lại cảm xúc thiêng liêng và mãnh liệt trong bạn. Bạn thường không dứt khoát trong tình cảm. Bạn thường bị động trong chuyện tình cảm của mình. Nhất là khi kết thúc cuộc tình, người bị chia tay luôn là bạn. Hãy cố gắng mạnh mẽ và có những quyết định đúng đắn trong tình yêu bạn nhé.
Tình yêu thật sự: 5 người
Trái tim tan vỡ: 4 lần
9. Những người sinh ngày 7, 16 và 25
Bình tĩnh và tự chủ, bạn tìm cách bày tỏ tình yêu bằng lời nóim, hành động. Có những khi người ấy của bạn còn phải đọc ra hành động để biết tình cảm của bạn. Bạn có tài ghìm cương người ta mà không bị phát hiện ra đấy.
Kị nhau về hướng trong phong thủy gây ra hậu quả khôn lường
Trong phong thủy nhà ở, hướng nhà, hướng bếp và hướng cửa ra vào vô cùng quan trọng. Nếu những hướng này có sự xung kị, các mối quan hệ trong gia đình cũng khó mà tốt đẹp, vui vẻ.
1. Hướng kị: Nhà hướng Đông hoặc Tây – bếp Tây BắcXét về hướng trong phong thủy nhà ở, những gia đình nào có hướng nhà là Đông hoặc Tây, còn phòng bếp ở góc Tây Bắc thường hay xảy ra cãi vã, mâu thuẫn, người lớn tuổi sẽ tranh cãi quyết liệt hơn.Xét về góc độ phong thủy nhà ở, hướng Tây Bắc thuộc về của cải, tiền bạc và đại diện cho bậc tiền bối, người lớn trong nhà. Phòng bếp thuộc yếu tố lửa (Hỏa), lửa thúc đẩy, kích động kim loại (Kim) khiến tâm tính người trong nhà mất bình tĩnh, dễ nảy sinh cãi vã.
2. Hướng kị: Nhà hướng Đông hoặc Tây – bếp Tây NamCó nhà hướng Đông hoặc Tây, bếp ở góc Tây Nam, các thành viên trong gia đình lúc nào cũng tranh cãi việc ai đúng ai sai. Nhất là người phụ nữ lớn tuổi thường liên quan trực tiếp đến mọi chuyện. Vấn đề mẹ chồng nàng dâu không được như ý, mâu thuẫn liên miên.Tuy nhiên, mâu thuẫn này sẽ không quá nghiêm trọng và có thể được giải quyết thấu đáo nếu có sự nỗ lực của người chồng. Người này cần giữ thái độ điềm tĩnh, công bằng và sáng suốt, tranh cãi ắt được hóa giải. 3. Hướng kị: Cửa ra vào Đông Nam – bếp Tây NamTheo quan điểm phong thủy, nhà có hướng cửa ở Đông Nam, bếp lại đặt ở góc Tây Nam, gia đình sẽ phát sinh tranh cãi, bất đồng liên quan đến người phụ nữ, hoặc là giữa mẹ chồng, con dâu, hoặc là giữa mẹ và con gái.
4. Hướng kị: Cửa ra vào Tây Nam – bếp Đông NamĐây cũng được coi là hướng kị trong phong thủy. Cửa ra vào hướng Tây Nam xung với hướng bếp Đông Nam, quan hệ gia đình bất hòa, tranh luận gay gắt về nhiều vấn đề khác nhau. Thông thường là người phụ nữ trong nhà sẽ chịu ảnh hưởng lớn hơn.5. Hướng kị: Cửa ra vào Tây Bắc – bếp Tây Nếu cửa ra vào hướng thẳng về phía Tây Bắc, còn phòng bếp hướng Tây, mối quan hệ vợ chồng sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thậm chí xảy ra tranh cãi về mọi vấn đề, mọi lĩnh vực, kể cả những điều vụn vặt trong đời sống thường nhật.Ngọc Điệp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thùy Dung (##)
Hải Trung Kim nghĩa là vật báu dưới biển (Tuổi Giáp Tý và Ất Sửu) thành khí vật không cần dựa vào Hỏa lực để nấu luyện. Lan tài diệu tuyển có cách ngọc trai tiềm ẩn dưới biển sâu. Lấy Gíap Tý gặp kỷ hợi là Kim trong Thủy, là không dùng hỏa để hỗ trợ giúp tạo thành. Phùng không có cách "Bang châu chiến nguyệt" tức là ngọc trai soi sáng ánh trăng, vì Giáp Tý kim gặp kỷ mùi (hỏa), kim hỏa hóa thành quý thể ví như trong mệnh giáp tý gặp mậu dần, canh ngọ là thổ sinh kim, ất sửu gặp bính dần, đinh mão là hỏa khắc chế kim, tức là thổ sinh kim, hỏa khắc kim, hỏa sinh thổ. Ngoài ra thiên can còn có tình huống tam kỳ. Gặp loại mệnh cục này, mệnh chủ đều không ai được giàu sang và phát đạt.
Vòng bát quái chi tiết Hướng tốt: Đông (Sinh khí: Phúc lộc vẹn toàn), Đông Nam (Thiên y: Gặp thiên thời, được che chở), Bắc (Diên niên: Mọi sự ổn định), Nam (Phục vị: Được sự giúp đỡ) Hướng xấu: Đông Bắc (Họa hại: Nhà có hung khí), Tây Nam (Lục sát:
Hướng tốt: Đông (Sinh khí: Phúc lộc vẹn toàn), Đông Nam (Thiên y: Gặp thiên thời, được che chở), Bắc (Diên niên: Mọi sự ổn định), Nam (Phục vị: Được sự giúp đỡ) Hướng xấu: Đông Bắc (Họa hại: Nhà có hung khí), Tây Nam (Lục sát: Nhà có sát khí), Tây (Ngũ quỉ: Gặp tai họa), Tây Bắc (Tuyệt mệnh: Chết chóc)Như vậy hướng của nhà gia chủ đã phạm vào hướng xấu, không tốt, anh nên đặt bếp theo những cách sau đây để có thể hóa giải.VỊ TRÍ ĐẶT BẾP.
Theo Phong Thủy Bát Trạch chánh tông, bếp nên đặt Tọa Hung Hướng Cát, tức là tọa ở phương vị Hung để trấn yểm Hung khí, cửa bếp quay về hướng Tốt để kích thích, mở rộng, phát triển những điều tốt lành. Có thể đặt theo các cách sau:
1.Bếp tọa Đông Bắc
– Bếp đặt tại phương Đông Bắc của nhà (Tọa Hoạ Hại), nhìn về hướng Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị); đạt Tọa Hung Hướng Cát. – Phương Đông Bắc ở vào vận 8 được an bởi sao Nhị Hắc. Đây là một Hung tinh, đặt bếp tại đây sẽ giúp khắc chế hóa giải được hung tinh này, rất tốt. – Hướng nhà là hướng Đông Bắc (Hoạ Hại), đây là một hướng xấu. Bếp quay về hướng Nam (Phục Vị) là một phương án tốt để khắc chế, hóa giải hướng nhà này. – Đánh giá: + Bếp tọa Đông Bắc hướng Đông Nam: 9/10 điểm + Bếp tọa Đông Bắc hướng Nam: 10/10 điểm
2: Bếp tọa Tây Nam
– Bếp đặt tại phương Tây Nam của nhà (Tọa Lục Sát), nhìn về hướng Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); đạt Tọa Hung Hướng Cát. – Phương Tây Nam ở vào vận 8 được an bởi sao Ngũ Hoàng. Đây là một Hung tinh, đặt bếp tại đây sẽ giúp khắc chế hóa giải được hung tinh này, rất tốt.
Theo phong thủy, tiền xu là một trong những pháp khí quan trọng. cho quẻ Thái tức sự thịnh vượng.
Tùy theo niên hiệu các đời vua mà trên tiền xu có khắc chữ khác nhau. Những đồng tiền xu là biểu tượng của nguồn tài lộc và của cải. Cát khí của nó không những làm gia tăng tài lộc mà con đem lại nhiều may mắn về công danh, sự nghiệp và giải trừ tai họa.
Tiền xu Mai Hoa
Trong số các loại tiền xu dùng trong phong thủy, tiền Mai Hoa có 5 cánh tượng trưng cho ngũ hành, là vật chuyên dùng để trấn yểm hung khí, đem lại sự thịnh vượng về tài lộc.
Bạn có thể bày tiền Mai Hoa trên bàn, trong phòng khách, văn phòng, cửa hàng. Cũng có thể bày tiền Mai Hoa trên bàn thờ, trên két bạc, treo ở cửa ra vào... nơi các cát tinh Lục Bạch, Diên Niên, Sinh Khí phối chiếu để gia tăng tiền bạc.
Chú ý, tránh đặt tiền Mai Hoa trong nhà vệ sinh, nơi ẩm thấp, trong phòng ngủ... nơi các hung tinh Thất Xích, Lục Sát, Tuyệt Mệnh phối chiếu.
Theo bà, thế giới ấy vô cùng từ bi, độ lượng, thật thà, không xảo trá. Bà chia sẻ: "Không biết những vong linh ấy khi còn sống, họ là người thế nào nhưng khi về thế giới bên kia, họ đều khuyên con cháu trên trần phải từ bi, hỉ xả, năng làm việc thiện, tránh điều ác.
Thế giới ấy có sự liên kết về huyết thống, dòng máu khăng khít lắm. Chỉ cần có một chút họ hàng thôi, sự gắn kết ấy đã chặt chẽ rồi. Tôi đặc biệt cảm kích cái nghĩa sâu nặng giằng níu, ràng buộc giữa các liệt sĩ với nhau. Vì tình cảm cứ giăng mắc, đan cài, khiến cho tôi nhiều khi đi tìm người này chưa được nhưng lại tìm thấy người khác. Người này được tìm thấy thì họ lập tức nhờ vả, nhắn nhủ tìm thêm những đồng đội khác.
Như lần đi tìm mộ liệt sĩ Phùng Văn Bành ở Mỹ Đức (Hà Nội), tôi gặp một liệt sĩ khác tên Long nhờ nhắn tìm gia đình ở Đa Sĩ. Cho tới khi tìm ra hài cốt liệt sĩ, gia đình mới được nghe kể câu chuyện ông đã lấy vợ trên đường đi kháng chiến như thế nào. Hồi đó, vì thương mến một cô y tá cùng đơn vị, lại chung lý tưởng trên đường ra mặt trận, hai người đã nên duyên.
Trên đường về quê báo cho gia đình thì ông Long hy sinh còn bà Liễu bị thương nặng nhưng qua khỏi. Sau này, bà sống ở tỉnh Hòa Bình. Gia đình liệt sĩ Long hoàn toàn bất ngờ, họ chưa bao giờ biết ông từng có vợ. Sau này họ cất công đi xác minh lại từ đơn vị và lên tỉnh Hòa Bình tìm lại bà Liễu thì sự thật sáng tỏ đúng là như thế.
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trong một chuyến đi tìm mộ liệt sĩ.
Hay vụ gần đây nhất, tháng 12/2012, sau khi tìm thấy hài cốt của anh hùng lực lượng vũ trang Đinh Châu, nguyên Tỉnh đội trưởng của tỉnh Quảng Đà. Liệt sĩ Châu đã nhắn nhủ con trai là Đinh Văn Ba hãy cố gắng tìm nốt hài cốt của 4 đồng đội của ông hy sinh năm 1968 nằm gần đó. Nhờ sự chỉ dẫn của vong linh liệt sĩ Đinh Châu, ngày 29/12/2012, chúng tôi đã khai quật hố sâu gần 2m ở khu đô thị Hòa Xuân (Đà Nẵng), cất bốc 4 hài cốt và đưa về nghĩa trang liệt sĩ.
Tháng 8/2012, nhờ tình cảm giăng mắc giữa các vong linh, tôi tìm thấy 4 hài cốt người dân bị bọn Pôn-pốt giết hại năm 1979 ở Kiên Giang. Ban đầu, tôi tìm thấy hài cốt của chị Phan Thị Thảo ở gần nhà máy xi măng Hà Tiên. Sau đó chị Thảo nhờ tôi tìm nốt 3 người hàng xóm bị giết cùng ngày và bị vùi xác gần đó.
Có một điểm khác biệt căn bản giữa thế giới người âm và người dương là ở thế giới âm, họ không có những mối nhân duyên mới. Con trai chết chưa vợ, con gái chết chưa chồng không vì thế mà họ lấy nhau. Tôi chưa bao giờ thấy họ kết hôn cả. Về mặt thể xác hữu hình, khi một đứa trẻ chết ở lúc 3 tuổi thì một 100 năm sau họ vẫn là đứa trẻ 3 tuổi. Nhưng đứa trẻ ấy vẫn lớn lên ở tầm trí tuệ.
Khi nghiên cứu thế giới người âm, tôi đặc biệt bị ám ảnh bởi tiếng vọng của những linh hồn hài nhi, vì muôn vàn lý do mà chúng phải rời xa sự sống ngay từ trong lòng mẹ, chưa thực sự hiện diện trên cõi đời. Chúng cũng có thể thét gào, oán thán, nỉ non, đớn đau, hay từ bi, hỉ xả, tràn ngập yêu thương...
Tôi vẫn nhớ như in những năm 1991-1992, trong quá trình thi công một bệnh viện phụ sản, đội thi công bắt buộc phải chặt một cây đa. Vì ở đúng vị trí cây đa đó, họ phải xây dựng một tòa nhà nhiều tầng do bệnh nhân ngày càng nhiều.
Khi tôi đến làm lễ, sau khi thắp hương và khấn, tôi thấy cành lá chuyển động dập dờn, cứ như cái cây đang rùng mình, run rẩy và bỗng nhiên xuất hiện những hình người, những đôi mắt bé lấp ló trong đám lá mà chưa bao giờ tôi nhìn thấy.
Thấy lạ quá, tôi bèn cất tiếng hỏi xem ở đây có chuyện gì, có ai cho biết được không. Nghe tôi hỏi, một vong linh của bác sĩ từng làm ở bệnh viện này xuất hiện. Bác nói với tôi rằng, đó là linh hồn của những hài nhi. Đứa thì bị cha mẹ bỏ lại bệnh viện, đứa thì chết ngay sau khi sinh. Có mấy đứa bị cắt nát ra vì lúc đó mới chỉ là bào thai vài tháng tuổi.
Tất cả chúng đều là những vong hồn không ai ngó tới, thậm chí cha mẹ chúng còn hận thù việc chúng bỗng dưng hình thành và có mặt trên đời. Người bác sĩ nói rằng, bản thân bác ở lại cây đa này chính là để chăm sóc những linh hồn bơ vơ đó. Tôi cảm thấy tim mình đau nhói, xót xa. Tôi muốn trò chuyện, vỗ về ôm ấp mấy đứa trẻ nhưng chúng bé quá, chưa biết nói. Nhìn đám trẻ, tôi thấy lòng đau đớn, quặn thắt, vì sự bơ vơ không nơi nương náu của chúng. Cuối cùng, tôi quyết định lập đàn cầu siêu cho các em bé vô tội".
Chia sẻ về mối liên kết giữa thế giới người âm và đời sống dương thế, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nói: "Thực sự là có sự tồn tại của thế giới tâm linh. Thế giới ấy nhiều khi có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của chúng ta mà người thường (không có khả năng ngoại cảm) không nhìn thấy, nghe thấy. Nếu không có sự chỉ dẫn của vong linh, tôi không thể tìm thấy hàng chục nghìn hài cốt liệt sĩ vùi xác thân khắp nơi rừng sâu, núi thẳm, ao hồ, sông suối và không thể có chuyện người chết đi tìm người sống mà Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã làm thành cả một đề tài nghiên cứu.
Có điều, trong hành trình 23 năm tiếp xúc với "vong" đẻ đi tìm hài cốt, tôi ngộ ra một điều, tôn giáo quyết định ý thức tâm linh. Những người theo đạo Phật cực kỳ thanh thoát, nhẹ nhõm. Tôi nói chuyện với vong của các hòa thượng hay các phật tử, chẳng thấy họ kêu ca hay đòi hỏi gì sất. Nhưng những người theo đạo Lão, đạo Tứ phủ thì cực kỳ nặng nề, sân hận, coi trọng chuyện cúng kiếng đủ mọi thứ.
Về mồ mả, tôi tạm chia làm hai giới: một bên theo đạo Lão, một bên theo đạo Phật. Những người theo đạo phật thì nhẹ tênh. Với họ, được hóa thân đi là một sự giải thoát, chuyển đổi cảnh giới. Khi thác, họ nhanh chóng rời bỏ thân xác, họ về luôn với gió núi mây trời. Còn những người theo đạo Lão cứ khư khư giữ lấy cái mộ của mình và rất khó siêu thoát. Hôm nay có con trâu húc mộ, ngày mai có người cuốc vào mộ, động mộ, thế là lập tức về "báo" ngay con cháu, làm cho con cháu sôi sùng sục lên, vội vàng sắm sánh lễ vật, mời thầy tạ mộ, hàn long mạch... mới yên.
Cho nên tôi có một lời khuyên là khi người thân mất, chúng ta nên hướng họ vào một tôn giáo nhất định mà theo tôi, thiện nhất, lành nhất là đạo Phật, để được giải thoát. Ở Philippines, nhiều gia đình sống nhiều năm trên những nấm mộ ngoài nghĩa trang. Trẻ em cầm đầu lâu ném chơi như ném bóng, cầm xương ống chân chơi khăng mà họ vẫn khỏe mạnh, sống lâu. Ở Hàn Quốc, hầu hết người dân chết đều hỏa táng, rải tro cốt ra biển mà dân họ vẫn giàu, nước vẫn mạnh. Vì trước khi chết, tâm thức người ta đã ngộ rằng, thân xác này chỉ là cõi tạm. Chết là linh hồn đi lên, rời bỏ thân xác thối rữa, không nuối tiếc.
Ở Việt Nam, những năm gần đây, vào dịp Tết Nguyên Đán hay giỗ chạp, chứng kiến nhiều gia đình đốt linh đình cả sân vàng mã, tôi thấy sợ. Làm như thế khiến cho người âm hoài tưởng đến cuộc sống trần gian, càng khó siêu thoát. Sau khi chết, linh hồn tồn tại dưới dạng khí, sóng nên họ đâu có dùng những thứ vàng mã ấy. Họ chỉ dùng bằng ý niệm.
Nhìn thấy vàng mã, họ reo mừng: "A, hôm nay có quần áo đẹp rồi". Nhưng đóng tro bụi ấy làm sao họ mặc được. Nên tôi thấy rất phí phạm khi nhiều người đốt ngập trời "nhà lầu, xe hơi"... Tôi từng chứng kiến ở đền Kiếp Bạc, người ta bày la liệt cả một sân voi ngựa, đông hơn cả voi ngựa nhà Trần đánh quân Nguyên Mông. Người âm là khí, linh khí là âm. Họ chết mấy trăm năm rồi, rất là mong manh. Lửa là dương. Đốt lửa ngút trời như thế là đẩy hết khí ra, tán sạch khí".
Người răng to có trực giác nhạy bén, có lý tính, suy nghĩ tốt, mạnh dạn hành động. Họ là người trung thực, năng nổ và nhiệt tình với công việc, có kinh tế vững mạnh. Người có hàm răng quá cỡ, dục vọng bản thân mạnh và thường nghĩ đến lợi ích của cá n
Sao Vũ Khúc - thuộc chòm sao Bắc Đẩu Tinh tên thường gọi là Khúc
Sao Vũ Khúc là một tài tinh chỉ về tài lộc
Sao Vũ Khúc thuộc chòm sao Bắc Đẩu Tinh tên thường gọi là Khúc (thuộc tính Âm kim).
Sao Vũ Khúc miếu địa tại: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Vượng địa tại: Dần, Thân, Tý, Ngọ.
Đắc địa tại: Mão, Dậu.
Hãm địa tại: Tỵ, Hợi
Sao Vũ khúc tại mệnh là người có thân hình nở nang, cao vừa tầm, mặt dài có vẻ uy nghi, thưởng phải sống cách biệt những người thân, nếu không khắc cha mẹ hay anh em thì tất phải khắc vợ, chồng, con cái.
Vũ Khúc đắc địa, miếu địa, vượng địa hay đắc địa là người thông minh và có chí lớn, có tài tổ chức và óc kinh doanh, quả quyết, cương nghị, hiếu thắng. Nhưng thẳng thắn suốt đời được hưởng giàu sang và sống lâu. Nếu gặp nhiều sao sáng sủa họi họp như Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Tham, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc tất được hưởng phú quý tới tột bậc. Người sinh ở phương Tây Bắc mà cung mệnh có cách này thì thật là hoàn mỹ.
Vũ Khúc miếu địa tại cung Sửu và Mùi lúc thiếu thời được nhiều cơm no áo ấm, nhưng chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, vì công danh trắc trở, tiền tài hao tán thất thường, sự nghiệp như lâu đài trên cát, phải từ 30 tuổi trở đi mới được phú quý song toàn, mới giữ được của cải bền vững và càng về già lại càng khá giả.
Sao Vũ Khúc đắc địa tại cung Mão tuy vẫn được hưởng giàu sang nhưng trong mình thường có tật, lại hay mắc bệnh về thần kinh, bệnh khí huyết.
Vũ Khúc đắc địa tại cung Dậu tuy vẫn được hưởng giàu sang nhưng thường có bệnh nội thương khó chữa và hay mắc tai nạn về xe cộ. Người sinh ra ở phương Tây Bắc cung mệnh an tại Dậu có sao Vũ Khúc đắc địa tọa thủ là người có uy quyền hiển hách khuất phục được quân côn đồ gian ác, và được nhiều người kính trọng.
Sao Vũ Khúc bị hãm địa là người kém thông minh lại có tính tham lận và không được lương thiện. Công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, hay phải đi phương xa lập nghiệp. Nếu có tiền bạc của tổ tiên để lại thì cũng phá tán bằng hết. Nếu gặp sao sáng sủa tốt đẹp như Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc tất chuyên về thủ công và kỹ nghệ hoặc kinh doanh buôn bán, Vũ Khúc gặp những sao tốt này thì cũng được hưởng giàu sang và hưởng thọ lâu dài.
Sao Vũ Khúc có đặc tính như sao Qủa Tú. vậy cho nên người mà có sao Vũ Khúc tọa thủ tất phải hay cách biệt những người thân. Nếu không khác với cha mẹ thì cũng khắc với vợ con.
Cung mệnh có sao Vũ Khúc hãm địa tọa thủ thì nên theo làm những nghề chuyên về thủ công.
Cung mệnh an tại cung Tỵ và Hợi có Vũ Khúc và Phá Quân tọa thủ đồng cung là người tham lang và bất lương.
Cung mệnh an tại Tỵ, Hợi có Vũ, Phá tọa thủ đồng cung là người không gìn giữ được của cải hay sản nghiệp của tiền nhân để lại.
Cung mệnh có Vũ, Phá tọa thủ đồng cung tất phải bỏ nhà đi kiến ăn ở phương xa và suốt đời vất vả, lao khổ.
Cung mệnh có Vũ, Phá tọa thủ đồng cung gặp Xương, Khúc đồng cung là một người thông minh, khéo tay chuyên về kỹ nghệ, máy móc.
Cung mệnh an tại Hợi có Vũ tọa thủ và gặp Phá đồng cung gặp nguyệt nhị hợp (Nguyệt tọa thủ tại Dần), gặp Tham hợp chiếu nên rất mờ ám và xấu xa, đương số có cách này tất cuộc đời phải vất vả. Nhưng cũng nên chú ý tới tuổi giáp, Kỷ, Nhâm mà cung mệnh an tại hợi, có Vũ tọa thủ, gặp Hỏa đồng cung lại được hưởng giàu sang và sống lâu.
Cung mệnh và cung Thân an tại Sửu và Mùi có Vũ, Tham tọa thủ đồng cung nên trước nghèo mà sau giàu. Lúc thiếu thời công danh trắc trở, tài lộc tụ tán thất thường nhưng từ 30 tuổi trở đi chắc chắn được hưởng phú quý song toàn và càng về già lại càng giàu có.
Nếu cung mệnh và cung thân an tại sửu, mùi có Vũ, Tham tọa thủ và đồng cung, lại gặp kiếp cũng đồng cung và nhiều sát tinh hội họp, tất trước giàu sau nghèo, lúc thiếu thời được hưởng giàu sang và từ ngoài 30 tuổi trở đi bắt đầu sa sút càng về già lại càng nghèo túng.
Cung mệnh an tại Mão, có Vũ, Sát tọa thủ đồng cung hay có Phá, Liêm tọa thủ đồng cung thì suốt đời phải đề phòng tai nạn về điện, lửa, sấm sét. Và bệnh thần kinh.
Cung mệnh có Vũ hãm địa tọa thủ gặp Kình, Đà, Qủa hội họp thì tất vì tiền mà nguy hiểm đến thân.
Cho hoặc nhận những đồ vật như: dao, kéo, lưỡi lam... có nguy cơ mang lại điềm gở về mối quan hệ giữa bạn và người đó, báo hiệu việc hai bạn có thể sẽ cắt đứt hoặc bị chia ly. Nếu không muốn đặt dấu chấm hết cho quan hệ giữa mình và ai đó, đừng bao giờ đưa cho họ hay lấy bất cứ thứ gì sắc nhọn từ họ vào dịp Tết nhé.
2. Những thứ có liên quan đến số 4 - Biểu tượng của Tử thần
Trong tiếng Trung, số 4 có phát âm gần giống với chữ "tử" (chết). Vì thế, số 4 gắn liền với ý nghĩa xui xẻo và chết chóc, thường bị kiêng kỵ khi sử dụng vào dịp Tết cổ truyền.
Để tránh nguy cơ rủi ro, không nên biếu ai đó hoặc nhận cái gì gồm 4 thứ hoặc 4 bộ như: 4 chiếc bánh, 4 bao lì xì, 4 con gà...
3. Giày - Ma quỷ
Tuyệt đối không tặng hay nhận giày vào năm mới vì trong tiếng Trung, "giày" có phát âm tương tự như chữ "ác quỷ". Hơn nữa, giày còn là đồ dùng quan trọng cho bàn chân, mang ý nghĩa quan trọng trong việc đi lại, bước tiến trong đời của bạn, có thể ảnh hưởng đến tương lai sau này. Do đó, chớ nên sử dụng giày làm quà Tết nhé!
4. Khăn tay - Lời vĩnh biệt
Khăn tay có thể sử dụng để trao cho nhau mọi lúc, mọi nơi nhưng nhất định không cho và nhận trong đầu năm mới. Nó là biểu tượng của sự chia xa, từ biệt.
5. Đồng hồ - Vận đen
Theo phong thủy và tín ngưỡng Trung Quốc, tặng hoặc nhận đồng hồ vào ngày Tết sẽ đem lại đen đủi cho cả năm, bất kể là đồng hồ treo tường hay đồng hồ đeo tay. Bởi vì đồng hồ là biểu tượng của dòng chảy thời gian, thể hiện cho việc thời gian trôi nhanh, cho năm cùng tháng kiệt.
6. Lê - Chia ly
Trái cây là quà tặng lý tưởng vào dịp Tết đến, ngoại trừ quả lê. Theo tín ngưỡng phương Đông, lê là biểu tượng của sự ra đi, chia cách.
7. Hoa cắt cành - Tang tóc
Hoa đã cắt cành chỉ nên cho và nhận trong các dịp tang lễ, đám giỗ, không nên tặng vào đầu năm mới. Đặc biệt là hoa cúc vàng và những loài hoa có màu trắng vì màu trắng là màu tang tóc.
8. Ô - Tình cảm tan vỡ
Đối với những cặp tình nhân đang yêu nhau nồng thắm, việc tặng ô là điều cấm kỵ vào dịp Tết. Nó có thể mang đến vận xui cho chuyện tình cảm của hai người, khiến tình yêu trắc trở, dẫn đến chia tay.
9. Đồ màu trắng hoặc đen - Màu của đám tang
Trắng và đen là hai màu cơ bản và thường được dùng trong các dịp ma chay, do vậy tránh tặng hay nhận những món đồ có hai màu này vào ngày Tết, kể cả việc sử dụng hai màu trên vào trang trí nhà cửa, phát bao lì xì cũng nên kiêng kị. Thay vào đó, bạn nên chọn màu đỏ.
10. Gương - Thu hút âm khí
Trong tín ngưỡng dân gian, gương có thể thu hút nguồn năng lượng âm khí, dẫn đường cho ma quỷ đến quấy nhiễu con người. Mặt khác, việc để gương bị vỡ cũng báo hiệu điềm gở, có thể dẫn đến nhiều tai ương ập đến bất ngờ. Cho nên tốt nhất là không tặng hay nhận gương vào đầu năm để an toàn.
Là một phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Vị Trí Ở Các Cung của sao Hóa Quyền:
Đắc địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Tại đây, Hóa Quyền sáng lạng, biểu dương cho thực quyền, đa quyền hay có uy tín thật sự, được nhiều người nể trọng, biết tiếng, phục tùng.
Hãm địa ở các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi. Tại đây, Hóa Quyền bị che lấp, ví như người ít quyền, hư quyền hoặc có quyền nhưng ở trong bóng tối, hoặc có thể có quyền tước hàm hay quyền tước sau khi chết (truy tặng).
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Cung Mệnh có sao Hóa Quyền thì có oai phong, có tướng lạ.
Tính Tình: Cung Mệnh có sao Hóa Quyền thì thông minh, có tài chỉ huy, được nhiều người kính nễ, tùng phục, cương quyết, tháo vát, có quyền hành hoặc có thế lực. Người nữ thì nhờ vào thế lực của chồng mà có danh quyền.
Công Danh Tài Lộc:
Sao Hóa Quyền đặc biệt là sao quyền, sao uy, có nghĩa là có oai phong, được nhiều người kính nể, sợ sệt, tùng phục; có quan chức lớn, có uy quyền hiển hách, được thượng cấp tin nhiệm, trọng vọng. Tóm lại, đây là người có quyền hành hoặc có thế lực.
Đây không hẳn chỉ là võ quyền mà còn có ý nghĩa văn quyền (quyền của quan văn), giáo quyền (quyền lực của thầy tu, giáo sĩ). Tùy theo cách làm quan, Hóa Quyền sẽ có ý nghĩa võ, văn hay giáo quyền.
Cho dù không đi vào đường quan chức, người có Hóa Quyền thủ Mệnh cũng có thế lực thực tế, được kiêng nể vì uy tín, vì nhân đức, vì khoa bảng, vì tiền bạc, vì tài năng...
Phúc Thọ Tai Họa:
Sao Hóa Quyền là sao trung lập về mặt cứu giải, cho nên:
Nếu gặp nhiều sao giải thì qua khỏi tai họa, bệnh tật một cách bất ngờ.
Nếu gặp nhiều sao hung thì tác họa rất nguy kịch.
Hóa Quyền gặp các sát tinh hội hợp, thì hay liều lĩnh, trước khi làm bất cứ một việc gì cũng không suy tính cẩn thận. Nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng, lại hay mắc tai họa kiện cáo, và phải buồn phiền vì con cái.
Những Bộ Sao Tốt khi đi với sao Hóa Quyền:
Sao Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc: Người vừa có danh quyền, có văn hóa, vừa có tài lộc. Đây là bộ sao Tam Hóa rất quý cho bất luận nam nữ, bất luận số nào, bất luận hạn nào, bất luận ý nghĩa hay phương diện nào.
Sao Hóa Quyền, Tử Vi, Thiên Phủ: Có uy quyền quan chức lớn, có uy tín, hậu thuẫn lớn.
Hóa Quyền, Cự Môn, Vũ Khúc: Có nhiều quyền hành, công danh hiển đạt.
Hóa Quyền, Thiên Khốc: Có uy danh lừng lẫy. Nếu Mệnh ở Tý, Ngọ thì càng tốt đẹp, phú quý lâu dài, danh lưu hậu thế.
Những Bộ Sao xấu khi đi với sao Hóa Quyền:
Nói chung, Hóa Quyền rất kỵ sát tinh hãm địa.
Sao Hóa Quyền gặp Không, Kiếp: Có uy quyền nhưng không bền, bị lụy, bị hại vì quyền hành, dùng quyền hành làm việc ác, hay sử dụng bạo quyền.
Hóa Quyền gặp Tuần, Triệt: Công danh trắc trở, thành ít bại nhiều, chỉ có hư danh, hư quyền, bị cách chức, giáng chức.
Sao Hóa Quyền gặp Hỏa Tinh, Thất Sát, Thiên Khốc, Thiên Hư : Hay bắt nạt người khác, bị người dưới khinh ghét.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ có danh chức hoặc nổi tiếng, thường là người trưởng tộc hoặc hay được họ hàng hỏi ý kiến, thường bảo bọc, bảo trợ cho người thân.
Hóa Quyền, Thiên Khôi, cha mẹ có quyền hành lớn.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Phúc Đức:
Được hưởng phúc, giòng họ danh giá, có tiếng.
Hóa Quyền, Tham Lang, có tuổi thọ.
Hóa Quyền, Hóa Khoa, Văn Xương, Văn Khúc, phát về văn tài, giòng dõi văn gia.
Hóa Quyền, Ân Quang, Thiên Quý, công danh đại phát.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Điền Trạch:
Gia tăng sự tốt đẹp về việc mưu cầu nhà cửa. Thường được ở dinh thự. Nếu không thì cũng là nhà cao cửa rộng.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Quan Lộc:
Dễ có chức vụ, công danh, thi cử, có thực quyền.
Sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, Thiên Phủ, Vũ Khúc, số đại quý.
Sao Hóa Quyền, Thất Sát, có uy quyền, nhiều người nể sợ.
Gặp các sao Đại Hao, Thất Sát, Thiên Khốc, Thiên Hư, người dưới khinh ghét.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Nô Bộc:
Bạn bè có quyền hành, nhờ bạn bè là nên.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Thiên Di:
Sao Hóa Quyền hợp vị nhất ở cung Mệnh, Quan, Thân. Tại đó, Hóa Quyền có nghĩa như mình có quyền bính, chính thức, tự mình tạo được thế lực, hậu thuẫn.
Hay lui tới chỗ quyền quý.
Có thế lực lớn trong xã hội, được trọng đãi, tín dụng.
Sinh phùng thời.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Tật Ách:
Giải trừ được tai nạn, nhưng nếu bị sao TUẦN, TRIỆT, và các sao xấu, thì hay gặp tai nạn về quyền lực, bị bãi truất, có án tù, công danh trắc trở, tự đắc, kiêu căng, ngạo mạn khiến ai cũng ghét, có hại, hư danh.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Tài Bạch:
Gia tăng sự tốt đẹp về việc mưu cầu tiền bạc.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Tử Tức
Con cái làm nên sự nghiệp, công danh thành đạt.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Phu Thê
Chồng hay vợ là người có quyền chức lớn, vợ nể chồng, chồng nể vợ.
Ý Nghĩa sao Hóa Quyền Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em làm nên sự nghiệp, có uy quyền.
Hóa Quyền Khi Vào Các Hạn:
Được trọng dụng, được giao phó trách nhiệm quan trọng.
Được thăng chức hay thăng cấp.
Nếu đi với hung sát tinh hãm địa, Hóa Quyền phối hợp tác họa mạnh mẽ.
Thiết kế kiến trúc hiện đại phần lớn tập trung nhà vệ sinh và phòng tắm vào làm một gian, bởi vậy xin được đem 2 vế hợp nhất để đàm luận về phong thuỷ. Theo lý luận phong thuỷ truyền thống, đối với cát hung nghi kị của nhà vệ sinh, ngoài chỉ ra phươn
Thiết kế kiến trúc hiện đại phần lớn tập trung nhà vệ sinh và phòng tắm vào làm một gian, bởi vậy xin được đem 2 vế hợp nhất để đàm luận về phong thuỷ.
Theo lý luận phong thuỷ truyền thống, đối với cát hung nghi kị của nhà vệ sinh, ngoài chỉ ra phương pháp tránh hung, thì những điều khác rất ít được nhắc đến, bởi vậy mà sinh ra rất nhiều cách nói. Rốt cuộc nhà vệ sinh nhà tắm có những điểm nào cần được chú ý?
– Nhà vệ sinh không nên nằm ở hướng Tây Nam, Đông Bắc hoặc Nam. – Không nên đặt ở trung tâm căn nhà. – Không nên sửa thành phòng ngủ. – Không nên đặt ở hướng hung, nên đặt ở hướng cát. – Địa điểm nhà vệ sinh nên ở chỗ khuất. – Nên duy trì sạch sẽ vệ sinh. – Nên duy trì không khí lưu thông.
Phương vị nhà vệ sinh không tốt cần cải tạo như thế nào? Theo phong thuỷ nhà ở mà nói, hung tướng mà nhà vệ sinh dẫn đến là vô cùng nguy hại. Đặc biệt là ở hướng Bắc của nhà ở, hoặc ở hướng Đông Bắc (còn gọi là hậu quỷ môn) mà đặt nhà vệ sinh, thì sẽ dẫn đến kết quả không hay. Để cho nhà vệ sinh át được hung tướng, thì tốt nhất bạn nên đặt nó ở hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc phương vị Đông (xét từ trung tâm của căn nhà). Đồng thời, cũng cần phải tránh phương vị xung khắc với tuổi của nam nữ chủ nhà.Nếu như nhà vệ sinh ở hướng Bắc hoặc phương vị Đông Bắc, nhất thiết phải chuyển sang vị trí khác. Chỉ cần tránh trung tâm Bắc 15 độ (phạm vi của Tử). Hướng Đông Bắc, thì chỉ cần tránh Bắc Đông 15 độ (phạm vi của Sửu) và trung tâm Đông Bắc 15 độ (phạm vi của Cấn). Nếu như cả nhà vệ sinh đều nằm ở phương vị Bắc hay Đông Bắc, chỉ cần di dời vị trí của bồn cầu đến phương vị cách đó 15 độ là được. Nếu như bồn cầu thuộc phạm vi này, thì chỉ cần di dời bồn cầu chứ không cần xây lại nhà vệ sinh. Ngoài phương vị Bắc, Đông Bắc, phương vị Tây Nam cho nhà vệ sinh cũng thuộc hung tướng. Nếu cần di dời, chỉ có thể dời từ hướng Tây Nam sang Tây Bắc.Nhà vệ sinh thuộc hướng Tây cũng không tốt lắm, có điều chỉ cần không phải là người tuổi Dậu, hoặc không có phụ nữ đang chuẩn bị kết hôn thì không cần phải lo lắng. Người cầu toàn thì có thể di dời bồn cầu đến Tây Bắc (phạm vi Nhâm hoặc Quý). Không nên có nhà vệ sinh phía Nam, ảnh hưởng đến vận khí. Nếu như có, tốt nhất dời đến phương vị Đông, Đông Nam, Tây Bắc. Không được thiết kế nhà vệ sinh gần khu thờ cúng, không thì sẽ biến thành hung tướng.Nhà vệ sinh không được đặt ở trung tâm căn nhà Có 3 nguyên nhân. 1 là, theo “lạc thư” có viết thì phương vị trung tâm thuộc Thổ, còn nhà vệ sinh thuộc Thuỷ, nếu đặt ở vị trí trung tâm sẽ phát sinh Thổ khắc Thuỷ. 2 là, không khí và nước ô nhiễm từ nhà vệ sinh từ trung tâm lan ra các phòng. 3 là, trung tâm của căn nhà cũng như trái tim con người, tim mà bị ô nhiễm, thì còn có thể gọi là “cát trạch” không? Phòng ngủ cải tạo từ nhà vệ sinh cũ: Bởi vì người đông đất chật, nhiều gia đình sửa nhà vệ sinh thành phòng ngủ. Mặc dù tiết kiệm được không gian nhưng lại phạm phải sai lầm phong thuỷ, nghiêm khắc mà nói thì không hợp vệ sinh. Nhà vệ sinh là không sạch sẽ, cần phải tránh nằm gần kề phòng ngủ, càng không thể sửa thành phòng ngủ. Như vậy căn bản không phù hợp yêu cầu vệ sinh, thuỷ hoả bất dung.Nhà vệ sinh không nên nằm ở hướng Nam Điều này có liên quan đến phương vị bát quái, phương Nam là Li quái, ngũ hành thuộc Hoả, còn nhà vệ sinh lại thuộc Thuỷ. Nhà vệ sinh hướng Nam, khắc chế Hoả địa, cũng như là Bát tự của người xung khắc Lưu niên Thái Tuế, bởi vậy không may mắn.
Hướng nhà không nên cùng hướng bồn cầu Ví dụ cửa chính căn nhà hướng Nam, thế thì hướng của bồn cầu không được hướng Nam, không thì dễ sinh bệnh cho chủ nhà. Trước mắt chưa có cuộc điều tra rõ ràng về vấn đề này, nhưng tránh được thì nên tránh.
Nhà vệ sinh không nên nằm ở cuối hành lang Nếu như nhà bạn có hành lang tương đối dài, cần chú ý sao cho nhà vệ sinh nằm ở bên cạnh hành lang chứ không được để ở cuối hành lang, nếu không phạm phải tướng đại hung, có hại cho sức khoẻ con người.
Nhà vệ sinh phải có cửa sổ, tốt nhất là đủ ánh sáng, không khí lưu thông. Nguyên nhân rất đơn giản, nhà vệ sinh là nơi thường xuyên ẩm thấp dễ gây nên ẩm mốc, đồng thời cũng là nơi chúng ta thường dùng để tẩy rửa tạp chất và xú uế. Do vậy nhà vệ sinh nhất thiết phải có cửa sổ hoặc cửa thông gió, đủ ánh sáng và không khí lưu không để cho mùi hôi bay đi, duy trì không khí trong sạch.
Nhà vệ sinh của biệt thự: Thường thì khi thiết kế người ta thường nhớ đến sự phối hợp giữa các gian phòng trong cùng một tầng mà lại quên mất mối quan hệ giữa các tầng. Nếu như nhà vệ sinh nằm trên phòng ngủ thì trạch tướng vô cùng nguy hại, sức khoẻ người ở sẽ giảm sút. Theo nguyên lí “gia tướng học” Hồng Kông cổ truyền, thì nền nhà vệ sinh không được cao hơn phòng ngủ. Ngũ hành gia cho rằng, nước chảy xuống dưới, làm ẩm kết cấu bên dưới, về lâu dài phòng ngủ bị ẩm thấp, dễ phát sinh các bệnh hệ thống nội tiết. Nếu như nhất quyết phải đặt trên lầu, thì bạn nên thiết kế kéo rộng khoảng cách với phòng ngủ.
Tử vi người tuổi Dậu trong tháng 7 âm lịch này vô cùng may mắn, quan hệ tam hội cục sẽ đem lại cho bạn một tháng rực rỡ so với các con giáp khác, nhưng người này cũng không nên lơ là vận thế “Tử” vận, Dậu Kim lâm Tử tại Bính Hỏa trong quan hệ trường sinh.
Vậy nên, dù sự nghiệp được hỗ trợ, tài lộc dồi dào thì bản mệnh vẫn cần nhắc nhở bản thân, kiêu ngạo quá chỉ dẫn tới họa tiểu nhân mà thôi. Mặt tình cảm thì quá vượng lại lâm vận xấu, phong lưu đa tình chỉ khiến người có gia đình khốn đốn, người độc thân lại khó xác định được nửa còn lại. Sức khỏe chủ nhiều về hành Kim, người này cần lưu ý các bộ phận như Phổi, đường hô hấp…
Sự nghiệp
Ảnh minh họa
Chu Dịch có viết: Đại tai kiền nguyên, vạn vật chi thử, ngãi thống thiên. Tức Thân Dậu Tuất hợp Kim cục, hành Kim thì tâm tư rộng rãi, phúc quý cao xa, bản thân mạnh mẽ, sức liên kết vững vàng, có tố chất của người lãnh đạo. Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Dậusự nghiệp sẽ phất như diều gặp gió, người làm lãnh đạo thì nên mở rộng tấm lòng mình hơn, khoản đãi ưu ái thu phục lòng người. Người này có tố chất văn hóa nhất định nên chuyện đề bạt không còn bao xa. Ngoài ra, với đại cát tinh Thiên Ất thì đường công việc càng thêm thuận lợi, gặp hung hóa cát dễ dàng được đối phương giúp đỡ nhường nhịn. Tuy nhiên, vì người hành Kim luôn có suy nghĩ cao xa, coi trọng đạo đức hành vi nên có đôi khi tâm lý ham hư vinh, có phần ảo tưởng về thực tế. Bạn phải nhớ một mình kiên quyết theo đuổi vấn đề sẽ không được đám đông nhìn nhận, hãy học cách để ý tới cảm xúc, ý kiến của những người xung quanh mình.
Tài lộc
Ảnh minh họa
Vận tài lộc của người tuổi Dậu được Thiên Ất quý nhân trợ mệnh. Nếu là người nghèo bần hàn mà có quý nhân thì vận trình sẽ trở nên dễ thở hơn, có chút sung túc hơn. Khi vận trình đi vào Tử vận, người tuổi Dậu sẽ phải chăm chỉ cần cù thì tiền bạc mới về tay. Trong lúc lâm vào tình trạng cạnh tranh thì nên hành sự quyết đoán, chớ có ngoan cố mà mất đi cơ hội lợi lộc nhé! Người lâm Tử vận, có suy nghĩ rộng rãi, hay ra tay nghĩa hiệp giúp bạn bè. Vậy nên trong tháng này bạn cần lưu ý chuyện tiền nong liên quan tới những người thân thiết. Người có chức quyền cần tránh xa việc “áo gấm đi đêm”, kẻo mất cả sự nghiệp.
Tình cảm
Ảnh minh họa
Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Dậu lâm vào cách cục “Tử” vận, dù không có ý nghĩa chết chóc, nhưng sẽ có đặc điểm đơn độc, không có sự thay đổi. Như vậy, chuyện tình cảm nam nữ sẽ có đặc điểm “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại”. Người bên ngoài không biết tưởng gia đình êm ấm, tình yêu hạnh phúc; nhưng thực ra bên trong đó hai bạn đã muốn bứt ra từ lâu. Người có gia đình đề phòng chuyện chia phòng, chia nhà; người độc thân lưu ý chuyện tình cảm tan vỡ. Nữ mệnh thì dễ có biểu hiện yếu đuối, tính cách hướng nội gặp chuyện khúc mắc dễ dàng suy nghĩ tiêu cực; có điềm xấu, người nhà cần lưu ý. Nam nhân phong lưu đa tình, người trẻ tuổi thay người yêu như thay áo, người đứng tuổi thì thê thiếp đa đoan. Nếu được, bạn nên thỉnh Thiên Ất quý nhân giúp mình nâng đỡ vận trình, phù hộ nhân duyên.
Sức khỏe
Ảnh minh họa
Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Dậu, ngoài việc đề phòng vận khí đi xuống gây họa huyết quang tiềm tàng thì cần lưu ý các bệnh chủ về hành Kim. Theo Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận, Phương Tây sinh khí Khô, Khô sinh Kim, Kim sinh Cay, Cay sinh Phổi, Phổi sinh Lông, Da Lông sinh Thận, Phổi chủ Mũi. Như vậy người hành Kim thì cần đề phòng các bệnh về Phổi, về Da và về Mũi. Nhìn chung tháng “cô hồn” sẽ là một tháng tương đối vất vả dành cho người tuổi Dậu. Quan hệ Nguyệt Lệnh bất Hòa, Thái Tuế vướng năm tuổi, bạn nên hạn chế đi lại quá nhiều hoặc đi đường xa. Tránh đến gần hoặc sử dụng nhiều các vật dụng bằng kim loại. Công việc thì “né” xa xô xát, tranh cãi, làm việc cẩn thận chớ để lại sai sót khiến kẻ thù dễ dàng bắt được điểm yếu mà bản thân đi tới chỗ long đong lận đận. Người này tính cách đơn thuần vô lo vô nghĩ, dễ dàng tin lời đường mật mà tự mình rơi vào khốn đốn. Nên dành nhiều thời gian nghiên cứu và bổ sung kiến thức mới. Vận trình tài lộc thì đề phòng chuyện mất mát, thất lạc đồ đạc tiền bạc vật chất. Hành Kim chủ Phổi, bạn cần cảnh giác các bệnh về hô hấp, về da dẻ hay Thận yếu.
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh
Lichngaytot.com Xem tử vi tháng 7 âm lịch của người tuổi ThânXem tử vi tháng 7 âm lịch của người tuổi MùiXem tử vi tháng 7 âm lịch của người tuổi Ngọ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Hướng dẫn cách bố trí phong thủy cho văn phòng của Người Trung Hoa –
Người Trung Quốc xưa cho rằng, cách bố trí, sắp xếp các vật dụng, trang thiết bị ở nơi làm việc luôn tạo ra một trường năng lượng và trường năng lượng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như hiểu rõ công việc của bạn. Vì vậy, hiểu rõ những ả
Người Trung Quốc xưa cho rằng, cách bố trí, sắp xếp các vật dụng, trang thiết bị ở nơi làm việc luôn tạo ra một trường năng lượng và trường năng lượng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như hiểu rõ công việc của bạn.
Vì vậy, hiểu rõ những ảnh hưởng của việc bài trí sẽ giúp bạn bố trí căn phòng làm việc của mình một cách hợp lý và cân đối, từ đó tạo ra trường năng lượng tích cực giúp công việc và cuộc sống của bạn được tốt hơn.
Bàn làm việc phù hợp
Đầu tiên, việc chọn lựa một chiếc bàn làm việc phù hợp sẽ giúp bạn khơi dậy khả năng sáng tạo của mình một cách hữu hiệu. Bạn nên sử dụng không gian riêng này để cân bằng với môi trường làm việc tổng thể xung quanh.
Chẳng hạn nếu sếp bạn là người khó tính, thì bạn có thể làm dịu bớt tính khó chịu của người đó bằng cách sử dụng bàn làm việc bằng gỗ có màu kem nhạt hay nâu.
Theo các chuyên gia phong thủy, khi chọn bàn làm việc, bạn nên cân nhắc đến các yếu tố như lọai bàn đó có tạo sự thỏai mái cho bạn , gúp bạn tạo ấn tượng tốt với đối tác sẽ làm việc hay không? .
Về chất liệu bàn làm việc, thông thường người ta thích chọn lọai gỗ tốt( gỗ thích, gỗ sồi, gỗ tếch, gỗ thông..)., lý do là bề mặt sáng lóang, bóng mượt của gỗ tạo hiểu quả dương về mặt tinh thần, giúp duy trì năng lượng và giảm stress.
Ngày nay, một số văn phòng hiện đại, người ta lại thích dùng bàn bằng kim lọai. Tuy nhiên, bạn không nên dùng ghế cũng làm bằng kim lọai( kim lọai mang năng lượng sắc bén và xuyên thấu) vì cơ thể bạn sẽ cảm thấy không được thỏai mái . Bạn nên ngồi trên một chiếc ghế gỗ hay ghế bọc da.
Các chuyên gia phong thủy cho rằng, trên bàn làm việc, không nên bài trí đồ nội thất bằng kim lọai kết hợp với thủy tinh, điều này sẽ tạo ra những mâu thuẫn gay gắt và tình trạng không ổn định.Tốt nhất là nên kết hợp kim lọai, thủy tinh với gỗ hay ván ép.
Kích thước của bàn làm việc cũng rất quan trọng. Một chiếc bàn làm việc lớn tượng trưng cho quyền lực của bạn trong công việc. Tuy nhiên, ngồi ở một chiếc bàn quá lớn sẽ khiến cho bạn không thể với tới các vật phẩm đặt ở xa, khi đó quyền lực của bạn sẽ bị sút giảm.
Một số yếu tố để xác định bàn làm việc có phù hợp với vóc dáng của bạn hay không gồm: Khi đứng bạn có thể chống hai tay lên mặt bàn, khi ngồi trên ghế bạn vẫn có thể vươn tới phía trước bàn, mặt bàn đủ rộng để có thể đặt 1 tờ báo…
Thường kích thước của một bàn làm việc chuẩn khỏang 1,52 m x 0,76 m.Nếu có sử dụng máy vi tính thì kích thường là 1,82 m x0,91 m. Hình dạng của bàn làm việc cần phải phù hợp với công việc đặc thù của bạn.
Thường thì người ta chọn bàn hình chữ nhật vì hình chữ nhật tạo ra năng lượng thổ, hỗ trợ rất nhiều trong công việc trí óc.Tuy nhiên, hai bàn hình chữ nhật ghép lại với nhau sẽ tạo một năng lượng thổ rất mạnh.Bàn hình chữ L giúp người ta cảm thấy an tòan hơn so với bàn hình chữ nhật.
Ngòai ra, khi chọn ghế ngồi bạn cũng nên chú ý lọai ghế có lưng ghế thích hợp. Người Trung Quốc rất quan trọng đến những yếu tố hỗ trợ từ phía sau, vì thế lưng ghế phải là điểm tưa vững chắc cho bạn.Lưng ghế cao vừa đủ để hỗ trợ phần lưng trên cũng như phần lưng dưới của bạn
Không gian làm việc tốt
Khi chọn chỗ ngồi trong văn phòng, bạn nên chọn cho mình một vị trí ngồi tốt nhất. Vị trí đó phải hội đủ 4 yếu tố sau đây: Từ vị trí của bạn ngồi có thể quan sát cửa ra vào của văn phòng. Điều này giúp bạn cảm thấy an tâm hơn bởi nhìn thấy mọi người ra vào văn phòng, giúp bạn khả năng phản ứng kịp thời.
Bàn làm việc không nên kê gần sát cửa ra vào vì năng lượng ở cửa ra vào không ổn định và rất dễ thay đổi. Nên chọn vị trí ngồi có bức tường kiên cố phía sau. Những trung tâm năng lượng ở lưng di chuyển trường năng lượng xuyên suốt cơ thể bạn.
Bức tường kiên cố phía sau giúp bảo vệ những trung tâm này và làm cho năng lượng lưu thông một cách nhẹ nhàng khắp cơ thể bạn.Cuối cùng nếu có thể được, nên chọn phòng làm việc có bức tường bên phải hay bên trái bạn. Với một bức tường bên cạnh, bạn chỉ cần quan sát mọi họat động xung quanh trong phạm vi 90 độ thay vì 180 độ!.
Hướng ngồi tốt cũng rất quan trọng trong thuật phong thủy.Bạn nên kê bàn làm việc sao cho bạn sẽ ngồi đối diện với đồng nghiệp/đối tác khi họ bước vào phòng làm việc của bạn. Điều này sẽ giúp làm tăng thêm uy thế cũng như sự tự tin của bạn.
Nếu không gian văn phòng không cho phép, bạn hãy ngồi hướng ra cửa hay gắn gương lồi vào màn hình máy tính để có thể quan sát mọi việc phía sau lưng. Ngòai ra, khung cảnh xung quanh cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất làm việc cũng như cảm hứng của bạn.
Về điểm này, bạn cần tránh các yếu tố sau: Thứ nhất, sự hiện diện của một bức tường trống trước mặt.Bức tường trống tượng trưng cho một tầm nhìn hạn hẹp, thiếu hiểu biết và cơ hội bị hạn chế.Bạn có thể trang trí bức tường đó bằng một bức tranh hay các chậu cây cảnh.
Thứ hai là tránh những “mũi tên độc”, đây là thuật ngữ dùng để chỉ những góc cạnh bén nhọn (góc tường, góc tủ) có thể tạo ra một luồng năng lượng đối nghịch gây ảnh hưởng xấu đến bạn.
Nếu vị trí của bạn đặt ngay trước nguồn phát năng lượng đối nghịch này sức khỏe của bạn sẽ bị ảnh hưởng không tốt.Bạn có thể hóa giải mũi tên độc đó bằng cách sơn hai bên của góc cạnh bén nhọn đó cùng một màu hay đặt một chậu cây, một vật dụng có tác dụng hoà tan năng lượng đối nghịch đó.
Những tu viện cô độc, nằm cheo leo ở những vị trí hiểm trở mang trong mình vẻ đẹp bí ẩn và đầy tính tâm linh.
► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
1. Tu viện Meteora - Hy Lạp
Metéora là tu viện cô độc lớn nhất thế giới với hệ thống 6 tu viện phức hợp. Đây được coi là một trong những ví dụ mạnh mẽ nhất về thiết kế kiến trúc dành riêng cho sự ẩn dật ở một nơi chỉ để thiền định và cầu nguyện. Hệ thống tu viện này được xây dựng cao hơn 400m so với thung lũng Peneas, gần thị trấn Kalambaka. Thật không dễ dàng gì để tiếp cận với thánh đường tôn giáo này.Ban đầu, để tới được tu viện, lối đi duy nhất chỉ là 2 thang dây dài quấn vào nhau và 1 tấm lưới lớn để leo. Vì vậy, ghé thăm tu viện gần như là điều bất khả thi. Tuy nhiên, ngày nay, mọi chuyện đã được cải thiện đáng kể khi các bậc thang cắt vào vách đá đã tạo ra hẳn một con đường dẫn tới tu viện.2. Đền thờ Taung Kalat, Myanmar
Đền thờ Taung Kalat nằm gần núi lửa đã ngừng hoạt động Popa, tọa lạc trên đỉnh một núi lửa cao hơn 737m so với xung quanh khu trung tâm Miến Điện (Myanmar), khoảng 50km về phía Đông Nam Bagan. Bạn sẽ cần đi 777 bậc thang để lên đến đỉnh và thưởng ngoạn khung cảnh vô cùng hùng vĩ của tu viện cô đơn này. 3. Tu viện Taktsang Palphug, Bhutan
Tu viện Taktsang, còn được biết đến với cái tên “Nơi ẩn náu của hổ”, nằm trên một vách đá dốc cao 900m so với thung lũng Paro. Sườn núi rất dốc gần như là thẳng đứng và các tòa nhà của tu viện được xây dựng áp sát lưng vào các vách đá. Các đám mây thường bao phủ tu viện cô độc khiến nơi đây có vẻ kì lạ xa xôi. 4. Tu viện Sumela
Tu viện Sumela được xây dựng chìm vào trong những vách đá ở thung lũng Altmdere ở Thổ Nhĩ Kỳ ở độ cao khoảng 1.200m. Tu viện cô độc không chỉ bởi vị trí hết sức hiểm trở mà còn do tính chất khép kín, không đón tiếp người lạ. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Xem ngày tốt xấu tháng Giêng theo Đổng công tuyển trạch nhật
Để công việc diễn ra trôi chảy, thuận lợi, đạt kết quả tốt, việc xem ngày tốt xấu là rất quan trọng. Nếu phạm phải những ngày xấu thì làm việc gì cũng đại bại,
nên khi làm việc gì cũng nên chọn ngày tốt để tiến hành.
Nguyệt kiến Dần:Lập xuân - Vũ thủy. (Từ ngày 4-5 tháng 2 DL) Trước Lập xuân một ngày là Tứ tuyệtSau Lập xuân, Tam sát ở phương Bắc, phương Hợi, Tý, Sửu, kị tu tạo, động thổ. Trực Kiến - Ngày Dần: Ngày Vãng vong, không tốt cho việc khởi tạo, kết hôn, nạp thái (ăn hỏi), người già dễ bị bệnh, bị dính líu tới việc kiện tụng, trong vòng 60 ngày và 120 ngày tổn hại tới trẻ nhỏ, trong vòng một năm có trùng tang, trăm việc đều không tốt. Trực Trừ - Ngày Mão:
Không nên khởi tạo, tổ chức hôn lễ, phạm ngày này thì trong vòng 60 ngày tổn hại tới người già trong gia đình, bị kiện cáo, trong vòng 3-6 năm vợ chồng mâu thuẫn, anh em bất hòa, sự nghiệp không tốt, gặp phải người ác, sinh ly tử biệt. Trực Mãn - Ngày Thìn: Là Thiên phú, Thiên tặc, là Thiên la, lại nói: Giáp Thìn tuy có khí chất nhưng cùng với ngày Mậu Thìn đồng là bị sát nhập trung cung (sát khí xâm nhập vào cung Thìn) nên trăm việc đều kị, phạm phải ngày này thì gặp việc giết người, hao tài tốn của, đại hung.Các ngày Thìn khác cũng không tốt. Trực Bình - Ngày Tị: Là Tiểu hồng sa, có Chu tước, Câu giảo đáo châu tinh, phạm ngày này sẽ bị kiện tụng, tổn hại đến người già, con dâu, con gái trong vòng 3-5 năm gặp chuyện không tốt, tiêu hao của cải, rất xấu, ruộng nương bị mất mùa, chết vì tự thắt cổ, hay bị người ác lấn át, hiếp đáp. Trực Định - Ngày Ngọ: Là Hoàng sa, có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, Khố lâu, Điền đường, Nguyệt tài, Khố trữ tinh chiếu, tốt cho các việc khởi tạo, an táng, dời chỗ ở, khai trương, xuất hành, trong vòng 60 ngày - 120 ngày, có hoạnh tài, hoặc nhân phụ ký thành gia (ở nhờ mà thành nghiệp), làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ, bội thu ruộng tằm, vàng bạc đầy kho. Trực Chấp - Ngày Mùi: Là Thiên tặc, có Chu tước, Câu giảo, nếu phạm vào những ngày này thì trong vòng 60 ngày - 100 ngày vật nuôi, lừa ngựa đều bị tổn hại. Ất Mùi sát nập trung cung nên kị việc khởi tạo, nhập trạch (về nhận nhà mới), hôn nhân, khai trương, tu sửa. Trực Phá - Ngày Thân: Có Chu tước, Câu giảo, dính líu đến kiện tụng, thị phi, tiêu hao của cải, gia súc bị bệnh, trong vòng 3-5 năm, gia đình có tang, là nữ giới, việc xấu. Ngày Canh Thân là chính tứ phế, càng xấu. Trực Nguy - Ngày Dậu: Tân Dậu ở tháng giêng chính là Tứ Phế sức khỏe suy yếu, hành sự bất thành có đầu không có cuối. Duy có ngày Đinh Dậu có Thiên đức, Phúc tinh chiếu, tốt cho việc an táng, hoàn phúc nguyện, xuất hành, khai trương, gặp quý nhân, tốt, nhưng không nên khởi tạo, tiến hành hôn nhân, giá thú… Ngoài ra, các ngày Dậu khác cũng không nên làm việc gì. Trực Thành - Ngày Tuất: Hai sao Thiên Hỉ và Địa Võng cùng hội tụ, mọi việc không nên làm trong ngày đó, gia chủ bị bệnh, người trong nhà bất nghĩa bất nhân, lạnh nhạt với nhau. Lại nói Bính Tuất, Mậu Tuất, Canh Tuất, Nhâm Tuất là sát nhập trung cung, phạm ngày này thì gia chủ phạm tội giết người, anh em bất nghĩa, tử biệt sinh ly, kị nhất là khởi tạo, hôn giá, nhập trạch, tu tác. Trực Thu - Ngày Hợi: Có Câu giảo, không nên dùng vào việc gì, phạm ngày này thì tổn gia trưởng, hại con cháu .Trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chủ phương Nam có kẻ Bạch y hình hại nam nữ ,nhiều tai vạ, rất xấu. Duy có ngày Tân Hợi địa chi cùng Nguyệt kiến được cái đức Âm dương hòa hợp nên là tốt vừa phải (thứ cát). Trực Khai - Ngày Tý: Ngày Giáp Tý là kim tự chết, ngày ngũ hành âm kị. Nhâm Tý là Mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), là phương Bắc, nơi tắm gội (mộc dục), không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Chỉ có riêng ba ngày Mậu Tý, Bính Tý, Canh Tý duy thủy thổ sinh người, dùng cái đó rất tốt, trong có Hoàng la, Tử đàn, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, tàng tài trữ, liên châu cùng chiếu. Trong vòng 60 ngày - 120 ngày được rất nhiều của, quý nhân tiếp dẫn, giữ chức lộc, mưu việc thì nhiều may mắn, vượng lục súc, thêm tài sản, cũng nên làm việc an táng. Ngày Giáp Tý thuộc hành Kim nhưng là kim tự chết, ngày ngũ hành âm kị. Nhâm Tý là Mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), Nhâm Tý là Mộc nhưng không làm nên việc gì, lại nhè bảo bình mà đập, không lợi mà còn có hại), trọn là chỗ tắm rửa (Mộc dục) ở phương Bắc, không nên khởi tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương. Chỉ có riêng ba ngày Mậu Tý, Bính Tý, Canh Tý thì người nào mạng Thủy Thổ dùng được, rất tốt, vì trong có Hoàng la, Tử đằng, Thiên hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, Bảo tàng, Tài khố, trữ liên, châu chúng cát tinh cùng chiếu. Trong vòng 60 ngày - 120 ngày được rất nhiều của, quý nhân tiếp dẫn, giữ chức lộc, mưu việc thì nhiều may mắn, vượng lục súc, thêm tài sản. An táng cũng tốt.
Trực Bế - ngày Sửu: Không lợi cho hôn nhân, khởi tạo, phải đề phòng hổ và rắn làm hại, lừa ngựa đá phải thành ác tật, rất xấu. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Những chòm sao nào nhìn thấy anh chàng đẹp trai, thì không kiềm chế nổi cảm xúc? Chúng ta hay cùng đọc bài viết top chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp để có câu trả lời cho câu hỏi trên nhé. Những chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp Ngôi vươ
Những chòm sao nào nhìn thấy anh chàng đẹp trai, thì không kiềm chế nổi cảm xúc? Chúng ta hay cùng đọc bài viết top chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp để có câu trả lời cho câu hỏi trên nhé.
Nội dung
1 Những chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp
1.1 Ngôi vương: Bò Cạp
1.2 Á quân: Bảo Bình
1.3 Thứ 3: Song Tử
1.4 Thứ 4: Song Ngư
Những chòm sao nữ khó kiềm chế trước trai đẹp
Ngôi vương: Bò Cạp
Bình thường Bò Cạp có vẻ khá lạnh lùng và ít để ý đến người xung quanh. Nhưng khi tiếp xúc với người khác giới, đặc biệt là những anh chàng bảnh bao và nam tính, bạn lại rất cởi mở, sẵn sàng dốc bầu tâm sự mọi chuyện trên trời dưới biển, thậm chí là tâng bốc đối phương để có được cuộc trò chuyện vui vẻ, thú vị và đầy kịch tính.
Á quân: Bảo Bình
Một khi gặp được “mỹ nam”, Bảo Bình sẽ chớp ngay lấy cơ hội để được trò chuyện. Để thu hút anh chàng đẹp trai, bạn có kế sách thầm lặng chứ không thể hiện ra bên ngoài cho chàng ta biết. Đó có thể là sự vô tình đánh rơi đồ, va chạm vào người hay giả vờ ngã…
Thứ 3: Song Tử
Tính cách năng động, giỏi xã giao, có sự hiểu biết và quan sát rộng nên Song Tử không gặp khó khăn trong việc tạo ấn tượng tốt trong mắt của các chàng trai, đặc biệt là những anh chàng nam tính và điển trai. Khi được chàng nào đó nhờ giúp đỡ, Song Tử có thể quên ngay việc mình đang cần làm mà sẵn sàng ra tay giúp đỡ nhằm gây dựng hình tượng tốt đẹp trong mắt chàng.
Thứ 4: Song Ngư
Khả năng “miễn dịch” với sự hào nhoáng của những anh chàng bảnh bao của Song Ngư khá “yếu”. Dù tính cách rụt rè nhưng một khi đã để ý đến anh chàng nào đó, bạn sẽ lấy hết can đảm để có thể chủ động tiếp xúc và làm quen. Hễ nhìn thấy mỹ nam là bạn không thể kiềm chế được cảm xúc, miệng bạn như muốn thốt lên “Ôi! Hoàng tử của tôi” hay “Đẹp trai hết chỗ chê”…
Có rất nhiều giấc mơ kỳ lạ, làm bạn lo lắng không biết liệu giấc mơ ấy có điềm báo gì không? Nằm mơ thấy nhẫn vàng có ý nghĩa gì? Đây cũng là một câu hỏi với bao lo lắng của nhiều người và chưa biết làm cách nào để giải mã giấc mơ ấy. Tuy nhiên không
Khi ăn mặc và trang điểm, bạn nên tập trung vào một màu chính. Màu này thể hiện hành của hướng tốt nhất (dựa trên Quái số của bạn) hoặc dựa theo hành trong
Đối với ngày tốt, bạn nên tăng cường màu thuộc hành của ngày. Ngược lại, với ngày xấu bạn hãy hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng màu sắc theo hành của ngày đó. Nên nhớ rằng màu đỏ thuộc Hỏa, vàng thuộc Thổ, xanh lá cây thuộc Mộc, đen và xanh dương thuộc Thủy, trắng và màu kim loại thuộc Kim. Ví dụ nếu ngày đó tốt đối với bạn và thuộc hành Hỏa, hãy mặc màu đỏ để được may mắn. Ngược lại, nếu ngày thuộc hành Hỏa không tốt đối với bạn, hãy mặc màu xanh dương hoặc màu đen (thuộc Thủy) để hóa giải điều xấu.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Phối màu
Bạn có thể tham khảo 1 số cách phối màu may mắn.
- Xanh dương hoặc đen với xanh lá cây - Nâu và đỏ - Đỏ và vàng - Vàng và trắng - Trắng và đen Những gam màu này tạo nên sự hài hòa âm - dương, thu hút vận may đến với bạn. Ngoài ra, bạn cũng có thể thay đổi sắc độ của màu nếu muốn. Việc phối màu sẽ tăng cường khí dương, tạo cơ hội cho sự thành công trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trong nhân tướng học, nốt ruồi “Điền trạch đa tiến” chỉ nốt ruồi mọc ở vị trí xương bả vai. Dù là nam hay nữ, có tướng nốt ruồi này đều được nhờ vào hồng phúc tổ tiên, thừa hưởng khối tài sản lớn.
Sau này, khi trưởng thành biết duy trì và phát huy tài sản đó, có được địa vị nhất định trong xã hội, suốt đời không phải lo lắng về vật chất, cuộc sống an nhiên, tự tại. Đây là một trong những nốt ruồi may mắn trên cơ thể, bạn không nên tẩy xóa.
2. Nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”
Ba nốt ruồi nối tiếp nhau ở vị trí giữa cổ và bả vai được gọi là nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”. Chủ nhân của tướng nốt ruồi này thông minh, lanh lợi, học hành giỏi giang, hiếu học, tài năng xuất chúng.
Bên cạnh đó, người này dũng cảm, hành hiệp trượng nghĩa, đi tới đâu cũng được mọi người yêu mến, tôn trọng.
3. Nốt ruồi “Đức cao phúc dày”
Vị trí nốt ruồi này khá khó tìm. Nó nằm ở phía dưới cùng của xương bả vai phải, nơi tiếp giáp với cột sống.
Như tên gọi của nốt ruồi “Đức cao phúc dày”, người có kiểu nốt ruồi này, dù là nam giới hay nữ giới, đều được phúc đức bao bọc, công thành danh toại, tài lộc hanh thông.
4. Nốt ruồi “Phúc như Đông hải”
Đây là nốt ruồi ở vị trí chính giữa cột sống (không lệch sang trái hay sang phải). Người có tướng nốt ruồi này thường được sinh ra trong gia đình giàu có, bố mẹ khỏe mạnh, có tiềm lực kinh tế lớn mạnh.
Cuộc sống hôn nhân bền vững, con cháu hiếu thảo, công thành danh toại, có địa vị khá cao trong xã hội, được nhiều người ngưỡng mộ.
5. Nốt ruồi “Thọ diên cổ hi”
“Thọ diên cổ hi” ý chỉ sống thọ, tuổi thọ cao, xưa nay hiếm thấy. Nốt ruồi này nằm thẳng dưới rốn.
Sở hữu nốt ruồi này, tuổi thọ của chủ nhân rất cao, càng sống lâu càng được hưởng nhiều phúc lộc. Người này hay hành thiện giúp đời, kiến thức uyên thâm, cuộc đời an nhiên, tự tại. Sau này con cái hiếu thảo, hòa thuận nên phúc đức càng nhiều.
6. Nốt ruồi “Quy vĩ”
Nốt ruồi “Quy vĩ” (đuôi rùa), ý chỉ vị trí của nó nằm ở phần cuối cùng của xương sống. Người có nốt ruồi như vậy đa tài, học hành xuất chúng, tiền đồ xán lạn.
Hơn thế, sức khỏe của người này cường tráng, văn võ song toàn, đồng thời có con mắt nhìn đời tinh tế, dễ gặt hái được thành công. Đa phần những người này thích hợp làm nhà văn, nhà thơ hay nhà tâm lý học, tư tưởng học.
Hoàng Lam Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Đây là điển cố thứ Bốn ba trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Hành Giả Đắc Đạo (còn gọi là Hành Giả Thành Đạo). Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo có bắt nguồntừ tác phẩm “Tây du ký”. “Hành Giả” tức là Tôn Ngộ Không.
Một hôm, sư tổ lên ngồi trên đàn cao, triệu tập các tiên, giảng giải đạo lớn. Tôn Ngộ Không đứng nghe bên cạnh, thích thú đến nỗi vò đầu bứt tai, mặt mày hớn hở, hoa chân múa tay. Sư tổ bước xuống đài cao, tay cầm cái thước, gõ vào đầu Ngộ Không ba cái, rồi chắp tay sau lưng, đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, bỏ lại mọi người mà đi.
Buổi tối hôm đó, khoảng chừng giờ Tý, Hầu Vương nhẹ nhàng trở dậy, mặc quần áo, lén mở cửa trước, trốn mọi người đi ra ngoài, ngẩng đầu quan sát, đúng vào lúc canh ba. Hắn theo con đường cũ đi đến bên ngoài cửa sau, thấy cánh cửa đó chỉ khép hờ. Ngộ Không vui mừng nói: “Lão sư phụ quả nhiên có ý truyền đạo cho ta, vì vậy mới mở cửa!” Bèn lập tức lách người đi vào trong cửa, đến dưới giường của sư tố. Thấy sư tố nằm co người, quay vào phía trong mà ngủ. Ngộ Không không dám làm kinh động, liền quỳ ở trước giường. Một lát sau, sư tổ Bồ Đề tỉnh dậy, tự mình lấm bấm rằng: “Khó thay! Khó thay! Khó thay! Đạo thật huyền diệu, chớ coi kim đan là tầm thường. Không gặp chí nhân truyền diệu quyết, miệng khô lưỡi đắng chỉ bàn suông!” Ngộ Không lớn tiếng đáp: “Sư phụ, đệ tử quỳ ở đây đã lâu!”
Sư tổ nghe thấy giọng nói của Ngộ Không, lập tức khoác áo, ngồi xuống nói: “Con khỉ này! Ngươi không ở bên đó ngủ lại đến chỗ ta làm gì?” Ngộ Không nói: “Hôm qua trước đàn, sư phụ đã đồng ý với mọi người, dặn đệ tử vào lúc canh ba, đi vào theo cửa sau để truyền đạo cho đệ tử, vì vậy mới to gan đến lạy dưới giường sư phụ!”
Sư tổ nghe vậy, rất vui, thầm nghĩ rằng: “Tên này quả nhiên là do trời đất sinh ra! Nếu không như vậy, làm sao mà giải được câu đố của ta?” Ngộ Không nói: “Lúc này không có Lục Nhĩ, chỉ có một mình đệ tử, xin sư phụ đại xá từ bi, truyền dạy cho đệ tử đạo trường sinh, đệ tử mãi mãi không quên ơn!” Sư tố nói: “Nay ngươi có duyên, ta cũng thấy vui. Nếu đã hiểu được ấn ý của ta, ngươi hãy lại gần đây, chú ý lắng nghe cho kỹ, ta sẽ truyền cho ngươi đạo trường sinh kỳ diệu!” Ngộ Không khấu đầu tạ ơn, cung kính lắng nghe, quỳ ở dưới giường. Lúc này căn nguyên đã tỏ, Ngộ Không tâm tư nhanh nhạy, ghi nhớ kỹ lời dạy của thầy, quỳ lạy tạ ơn sư tổ, rồi lập tức đi ra cửa sau.
Đã qua ba năm, sư tố lại lên bảo tọa, thuyết pháp cho mọi người, nói đến những ẩn dụ trong công án, bàn về ngoại tượng bề ngoài. Ngộ Không khấu đầu lạy mà nói: “Xin hãy truyền cho đệ tử thuật tránh được tam tai, sẽ không dám quên ơn!” Sư tổ nói: “Điều này không khó, nhưng vì nhà ngươi và những người khác không giống nhau, cho nên không thể truyền được!” Ngộ Không nói: “Con cũng đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất, cũng có cửu khiếu tứ chi, lục phủ ngũ tạng, sao lại cho rằng con không giống người?”
Sư tổ đáp: “Ngươi tuy giống người, nhưng so với con người lại thiếu phần má!” Thì ra con khỉ đó mặt gãy, má hóp và môi nhọn. Ngộ Không đưa tay sờ lên mặt, cười nói rằng: “Sư phụ chớ băn khoăn! Con tuy thiếu cái má, nhưng lại nhiều hơn con người cái túi má, cũng có thể sánh với nhau được!” Sư tố nói: “Thôi được, ngươi muốn học loại nào? Có một loại là Thiên canh số, gồm ba sáu phép biến hóa, có một loại là Địa sát số, gòm bảy mươi hai phép biến hóa!” Ngộ Không nói: “Đệ tử muốn biết nhiều hơn, xin cho học phép biến hóa Địa sát!” Sư tố nói: “Nếu đã như vậy, hãy lại đây, ta truyền cho ngươi khẩu quyết!” Bèn ghé tai truyền lời, truyền cho các diệu pháp. Hầu Vương một khiếu đã thông thì trăm khiếu thông, lập tức học thuộc khẩu quyết, tự mình tu luyện, cả bảy mươi hai phép biến hóa đều học thành công.
Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo là quẻ thẻ Thượng Cát trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 43 !
Quẻ này là tượng trời đất giao hòa. Những việc mong càu hết sức tốt đẹp, không có nguy hiểm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?
1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên
Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.
Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:
"ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ tới nguồn", hoặc:
"Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con".
Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:
"Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu, cứu người là nhân".
hay ở đoạn khác:
"Lấy tình thâm, trả tình thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời".
Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).
"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".
Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.
Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).
Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".
Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.
Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.
2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.
Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.
Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.
Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?
Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.
Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.
Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:
- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.
- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".
3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"
Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.
Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.
Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?
Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.
Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.
4. Kết luận
Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.
Ở việt Nam, rất ít người tổ chức đại hỉ vào tháng 7 âm lịch vì có mưa dầm suốt tháng và có nhiều gió bão, đồng thời kiêng kỵ cho cuộc sống hôn nhân của vợ chồng trẻ sau này có thể bị chia cắt
Theo phong tục truyền thống dân gian thì tháng 7 Âm lịch (trừ tháng 7 thứ 2 của năm Nhuận) là thời gian “Quỷ môn khai” (mở cửa cho quỷ ra), vì thế hầu hết những công việc lớn, có tính chất quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống, cuộc đời như mua nhà, dời về nhà mới, mua xe hơi, đi du lịch xa…đều tránh thực hiện trong tháng 7 Âm lịch. Kết hôn là chuyện trọng đại, do đó càng không nên tổ chức trong tháng ấy. Tuy nhiên trong cách “chọn ngày tốt xấu” truyền thống thì không cấm kỵ “Tháng quỷ”. Người ta cho rằng mỗi cá nhân đều có những ngày thích hợp hoặc không thích hợp riêng, do đó không thể có chung một ngày nào đó không thích hợp đối với tất cả mọi người.
Bên cạnh đó, theo truyền thuyết thì đây là tháng Ngưu Lang – Chức Nữ (vợ chồng Ngâu) gặp nhau, đó là câu chuyện tình duyên trắc trở phải chịu cảnh chia ly thấm đẫm nước mắt. Ở việt Nam, rất ít người tổ chức đại hỉ vào tháng 7 âm lịch vì có mưa dầm suốt tháng và có nhiều gió bão, đồng thời kiêng kỵ cho cuộc sống hôn nhân của vợ chồng trẻ sau này có thể bị chia cắt, buồn khổ như vợ chồng Ngâu. Mặc dù xuất phát từ quan điểm duy tâm và kinh nghiệm dân gian truyền miệng chưa được kiểm chứng, tuy nhiên, nếu muốn tổ chức đám cưới vào tháng 7 âm lịch thì cô dâu chú rể cũng nên cân nhắc và xin ý kiến cha mẹ hai bên gia đình. Người lớn thường quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, vì vậy khi được sự ủng hộ và đồng ý từ cha mẹ thì ngay từ đầu chuyện cưới xin cũng được thuận lợi hơn nhiều. Hôn nhân là việc quan trọng cả đời, biết rằng hạnh phúc gia đình dựa trên sự nỗ lực vun đắp của hai vợ chồng nhưng nếu chẳng may cuộc sống sau này không thuận lợi và suôn sẻ, hai người sẽ đổ lỗi cho việc cưới vào tháng Ngâu, lúc ấy lại có thêm lý do để tranh cãi, trách móc nhau, hoặc thay vì nỗ lực giải quyết vấn đề người ta lại thường nghĩ đến lý do mình đã cưới trong tháng Ngâu mà “chấp nhận số phận”. Bên cạnh đó, theo truyền thuyết thì đây là tháng Ngưu Lang – Chức Nữ (vợ chồng Ngâu) gặp nhau, đó là câu chuyện tình duyên trắc trở phải chịu cảnh chia ly thấm đẫm nước mắt. Ở việt Nam, rất ít người tổ chức đại hỉ vào tháng 7 âm lịch vì có mưa dầm suốt tháng và có nhiều gió bão, đồng thời kiêng kỵ cho cuộc sống hôn nhân của vợ chồng trẻ sau này có thể bị chia cắt, buồn khổ như vợ chồng Ngâu.
Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi
Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?, tu vi Thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu?, tu vi Bói tình yêu
Trong tình yêu thất tình khiến bạn ‘sốc’ đến đâu? Khi bị người yêu nói lời chia tay, bạn sẽ bình thản đón nhận hay cảm thấy bị tổn thương sâu sắc? Trả lời câu hỏi dưới đây bạn sẽ biết bạn là người như thế nào.
Câu hỏi: Bạn cảm thấy nơi nào dưới đây có thể giúp tình yêu của bạn tiến triển thuận lợi?
A. Trung tâm thương mại
B. Vườn bách thú
C. Rạp chiếu phim
D. Quán cà phê
Xem bói kết quả lựa chọn của bạn:
A. Chia tay không có gì đáng sợ
Bạn biết chuyện tình yêu không thể miễn cưỡng, nếu duyên phận hai người đã hết, bạn cũng có thể thoải mái “bye bye” người ta và chúc họ hạnh phúc. Với bạn, mỗi lần yêu là một lần trải nghiệm để hiểu và học cách yêu. Bạn có suy nghĩ tích cực và sáng suốt về tình yêu mà không phải ai cũng có.
B. Bị tổn thương nặng nề
Bạn rất dễ bị tình yêu làm tổn thương sâu sắc, bởi bạn là người rất trọng tình cảm, luôn dành toàn bộ tâm tư tình cảm cho đối phương. Nếu thất tình, bạn sẽ lập tức lạc mất phương hướng, không biết phải làm sao. Bạn không chỉ đau khổ vì tình mà còn tự nhốt mình trong phòng, cần thời gian rất dài để hàn gắn vết thương lòng.
C. Chia tay là chuyện nhỏ
Bạn không coi thất tình là chuyện gì quá nghiêm trọng. Với bạn, tình yêu như một trò chơi, mất cái này thì còn cái kia, người cũ đi sẽ có người mới tới. Bạn có thể nhanh chóng điều chỉnh tâm tình, chuyển hướng đến đối tượng khác một cách dứt khoát.
D. Nhớ mãi không quên tình cũ
Bạn rất tôn trọng ý kiến của đối phương, nếu tình yêu đi đến hồi kết, bạn sẽ chấp nhận chia tay trong hòa bình. Tuy nhiên, trong lòng bạn lại tràn đầy tiếc nuối, không lúc nào nguôi nhớ đến những hồi ức về người cũ. Dù đã qua một quãng thời gian, cuộc sống dần trở lại bình thường, nhưng trong sâu thẳm trái tim bạn vẫn hy vọng có cơ hội nối lại tình xưa.
Hiện tượng: Bàn sách đặt ngay phía dưới dầm ngang sẽ làm cho con người không có tư tưởng rõ ràng, khả năng phán đoán giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới học tập và công việc. Phương pháp hóa giải: Phương pháp hóa giải hữu hiệu nhất là chuyển sang vị trí
Hiện tượng: Bàn sách đặt ngay phía dưới dầm ngang sẽ làm cho con người không có tư tưởng rõ ràng, khả năng phán đoán giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới học tập và công việc.
Phương pháp hóa giải:
Phương pháp hóa giải hữu hiệu nhất là chuyển sang vị trí khác hoặc trần nhà nên làm lại cho bằng phẳng hoặc trên hai đầu dầm treo quả hồ lô đồng để hóa giải sát khí.
Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần.
Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm.
Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết.
Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau.
Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần.
Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.
Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.
Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy.
* (Trích bài "Tết Nguyên Đán" của Nguyễn Đình Khang)
Sao Thiên Không chủ sự thất bại trong quan trường, sự chậm thăng trong chức vụ, sự tiêu tán tài lộc. Riêng phái nữ có Thiên Không ở Mệnh thì xui xẻo, bị lụy vì tình.
Đặc Tính: Trở ngại, lận đận, thất bại, hung nguy, phá tán, gian giảo
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Mệnh:
Tính Tình: Sao Thiên Không ở Mệnh là người cẩn thận, hậu trọng, khôn ngoan, thủ đoạn, đa mưu, quyền biến.
Phúc Thọ Tai Họa:
Thiên Không chủ sự thất bại trong quan trường, sự chậm thăng trong chức vụ, sự tiêu tán tài lộc. Riêng phái nữ có Thiên Không ở Mệnh thì xui xẻo, bị lụy vì tình.
Tuy nhiên, vì là sao phá tán nên Thiên Không ở cung Tật cứu giải được bệnh tật khá mạnh như nhị Hao, Phá Toái...
Ý Nghĩa sao Thiên Không Với Các Sao khác:
Thiên Không, Đào Hoa: Xảo trá, đa mưu về ái tình, có tài lừa phỉnh phụ nữ hay lôi cuốn nam giới bằng xảo thuật. Có sách cho đó là sự tài hoa, nhưng phải hiểu theo nghĩa xấu.
Cha mẹ thông minh, khôn ngoan, có tay nghề khéo, làm ăn dễ dàng, nhưng nếu có thêm các sao xấu như Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, thì cha mẹ vất vả, hay sinh tai họa.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Phúc Đức:
Đi với sao tốt thì được hưởng phúc đức, đi với sao xấu thì bỏ xứ, lận đận.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Điền Trạch:
Nhà cửa lúc đầu trắc trở, sau mới ổn định, rất hợp với nghề cho thuê nhà, ở mướn, chung cư, cao ốc, mua bán địa ốc, mua bán vật liệu xây dựng, trang trí nội ngoại thất.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Quan Lộc:
Công danh chậm chạp, khó khăn.
Nếu có chức vụ thì chậm lên.
Có chức vụ cao thì không bền.
Gặp nhiều bất công trong quan trường.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Nô Bộc:
Bè bạn, người giúp việc đông đảo, quyền biến, khôn ngoan.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Thiên Di:
Ra ngoài hay gặp được người mến chuộng, nhưng nếu có thêm các sao Địa Không, Địa Kiếp, thì ra ngoài hay bị người ghét do nói nhiều.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Tật Ách:
Thiên Không ở cung Tật Ách thì ít bệnh, có bệnh mau hết bệnh.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Tài Bạch:
Khó kiếm tiền, tiền bạc hay bị tiêu hao, tụ tán thất thường, hay kiếm tiền bằng phương pháp táo bạo, ám muội, nhưng cũng không cầm giữ được.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Tử Tức:
Chậm có con hoặc hiếm muộn con.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Phu Thê:
Người hôn phối thông minh, đẹp, sắc sảo, khôn ngoan.
Ý Nghĩa sao Thiên Không Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em không ở gần nhau.
Thiên Không Khi Vào Các Hạn
Hạn gặp sao Thiên Không là hạn cùng đường, phá tán, thất bại. Tuổi già thì không thọ, bệnh tật thì chóng khỏi, nhưng nếu có sao TUẦN, TRIỆT thì bệnh khó khỏi.