Xem tướng con trai –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
![]() |
Bạn lựa chọn một mục. Bình chọn của bạn sẽ được công khai.
Phòng thờ của người Việt vừa là một góc tâm linh quan trọng, vừa thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống của dân tộc.
Đối với người Á Đông thì hầu hết trong mỗi một gia đình đều có một bàn thờ thần linh và tổ tiên. Bàn thờ này có thể ở dạng treo trên tường hoặc có thể ỏ dạng một kệ thờ, một tủ thờ. Bàn thờ cũng có thể được bố trí lồng vào trong không gian của một phòng nào đó như phòng sinh hoạt chung, phòng khách, phòng riêng, cá biệt có thể trong phòng ngủ với những nhà có diện tích sử dụng quá nhỏ hẹp.
Tuy nhiên, với những nhà có diện tích sử dụng đủ lớn thì đa phần bàn thờ được bố trí trong một không gian riêng gọi là phòng thờ. Vì vậy khi thiết kế kiến trúc cần phải tính đến một không gian hợp lý cho bàn thờ. Cũng như việc bố trí các Tiết Minh khác, bàn thờ cũng được bố trí theo nguyên tắc “Nhất vi, nhị hướng”. Tức là trước tiên phải xem xét vị trí đặt bàn thờ.
Vị trí đặt bàn thờ tốt nhất là cung Âm quý nhân, vị trí đó đặt bàn thờ là đại cát khánh, luôn được âm linh phù trợ.
Thứ đến Dương quý nhân chủ gia đạo bình an, hòa thuận, hỷ khí đầy nhà, luôn gặp may mắn.
Theo quan điểm của người xưa thì Thiên Ất Quý Nhân là vị thần đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được những phi phù. Vì vậy bàn thờ nên đặt ở Quý nhân là tốt nhất, sau đó mói đến Lộc vị, thứ nữa mới đến 16 cung Huyền không trạch vận. Nếu xét trong 16 cung Huyền không thì bàn thờ nên đặt tại các cung Diên thọ, Tài lộc, Tử tức đó là những cung tốt, có thể gia tăng phúc lộc, áp chế hung tinh giải trừ tai họa.
Cũng như hướng nhà và hướng giường ngủ, hướng của bàn thờ là hướng của đường thẳng đi qua tâm bàn thờ và vuông góc với mặt bàn thờ. Như vậy hướng của bàn thờ ngược lại với hướng người đứng thắp hương.
Hướng của bàn thờ cũng cần bố trí tại tứ cát: Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị. Tránh bố trí tại hướng hung.
Ngoài việc bố trí hợp lý vị và hướng của bàn thờ, để có một môi trường phong thủy thật sự tốt thì việc bố trí bàn thờ còn cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau:
Bàn thờ nghi tĩnh bất nghi động: bàn thờ cần yên tĩnh, không cần động. Vì vậy bàn thờ nên bố trí tốt nhất là có một phòng riêng (gọi là phòng thờ) nếu không thì có thể bố trí trong phòng sinh hoạt chung hay phòng khách, không nên bố trí phòng thờ ở phòng ngủ hay phòng bếp, phòng ăn.
Trường hợp không có phòng thờ riêng thì khi bố trí bàn thờ không được đặt gần các nút giao thông trong nhà, không được đặt dưới gầm cầu thang hay áp sát vào gầm cầu thang.
Bàn thờ cũng không được tọa ở cửa sổ hay phía trên cửa sổ (tức là sau lưng bàn thờ không được bố trí cửa sổ hoặc dưới gầm bàn thờ không được bố trí cửa sổ, cửa ra vào). Bàn thờ không được đặt thẳng với cửa chính hay cửa sổ khiến gió có thể thổi xộc thẳng vào bàn thờ và ai đi qua cũng nhìn thấy. Nếu có thì phải thường xuyên đóng cửa sổ hay đặt một bức bình phong chắn gió phía trước mặt bàn thờ.
Tuy nhiên nói bàn thờ cần yên tĩnh không cần động không có nghĩa là phải chọn một chỗ khuất nấp, nhỏ bé, tôi tăm, ẩm thấp, thậm chí có nhà đặt bàn thờ trên tận tầng mái để thờ. Bỏi vì bàn thờ là thể hiện phần tâm linh của con người Việt Nam, không thể không thường xuyên quan tâm, hương khói, đó cùng còn là đạo lý uống nước nhớ nguồn mà trong mỗi con người chúng ta cần hướng tới. Vì vậy ngoài những vấn đề nêu trên, bàn thờ cũng nên thưòng xuyên quét dọn, lau chùi và chăm sóc.
Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, tiếng nói vang dội, tam đình bình ổn, ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt.
Thực ra, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả.
Hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt.
Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc (trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).
Ngược lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già.
Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt.
Tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng (vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục) kể trên phải đồng thời kiêm bị.
Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là :
– Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu )
– Tai phản ( Luân quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn )
– Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm )
– Môi cong lên ( tướng của người chết thảm )
– Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong )
Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt.
Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm.
Ví dụ như ngũ lộ mà :
– Mắt lộ nhưng không có thần quang
– Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ
– Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng
– Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh
– Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ
Thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt .
Tướng pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên.
Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt.
Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên (tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt.
Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán.
Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau.
Đại để những dự triệu biết trước các việc cát hung đã nẩy mầm ngay ở nơi tâm khi dấy khởi động niệm và phát xuất ra ngoài tứ chi, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc chỉ tham đồ cho riêng mình thường gặp họa. Người trần con mắt phàm nhãn quang bị che lấp nên không thấy được mà cho rằng họa phúc chưa nhất định hình thành thì không thể suy đoán trước được.
Một người có lòng chí cực thành thật là tương hợp với lòng trời, nên chỉ cần quan sát xem họ làm những điều thiện hay bất thiện thì đủ biết trước được là họ sẽ gặp phúc hay họa tới.
II– Nền tảng của việc sửa lỗi
1. Lòng xấu hổ
Ngày nay, muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều thứ nhất cần phải biết tri sỉ, biết tự hổ thẹn. Nên biết rằng các bậc thánh hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta sao lại chịu thân tàn hủ bại. Đó là tự mình đắm say ngũ dục lục trần, nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa mà cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một ngày càng sa đọa vào vòng cầm thú mà chẳng tự biết.
Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự sỉ, biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi.
2.Lòng úy kính
Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Thiên địa quỷ thần khó mà có thể khi dễ, lỗi của chúng ta tuy ẩn nhẹm, kín đáo người đời không biết mà thiên địa quỷ thần đều có thể soi xét thấu rõ, nặng ắt sẽ giáng trăm điều tai ương, nhẹ ắt sẽ giảm phúc được hưởng. Chúng ta há chẳng đáng nên sợ hay sao!
Không những chỉ có vậy, ở những nơi thanh nhàn vắng vẻ chỉ riêng có độc một thân một mình cũng đều là bị quỷ thần giám sát, che đậy thật khéo mà thần minh cũng đã sớm thấu rõ đến tận gan phổi của mình, vậy nên khó mà có thể tự lừa dối lấy mình mãi mãi được; một khi bị người đời phát hiện sự dối trá che đậy giấu nhẹm của mình thì lúc đó thân phận mình chẳng đáng giá lấy một đồng xu. Vậy há không nên e dè úy kính hay sao!
Không những chỉ như vậy, khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều có thể sám hối cải sửa. Người xưa một đời làm ác, lúc gần lìa đất xa trời, phát một niệm thiện, thành tâm hối lỗi, bèn được an lành từ giã cõi đời, nên nói là chỉ một niệm dũng mãnh thật chí thành đủ để tẩy sạch được trăm năm tội ác, cũng tỷ như một hang cốc tối tăm hàng ngàn năm bỗng có một ngọn đèn chiếu rọi tới thì ngàn năm tăm tối đó đều bị tiêu trừ, cho nên không cần biết là tội đã phạm từ lâu nay, hay mới phạm gần đây, chỉ có phát tâm cải sửa mới là điều quý.
Bất quá cõi trần là vô thường không nhất định, thân huyết nhục dễ bị hủy hoại , nếu cứ cho là làm lỗi có thể sửa được mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó mới muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng e dè sợ sệt hay sao!
3. Lòng dũng mãnh
Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi, đa số là vì phóng túng biết lỗi đấy mà bỏ đấy nên bị thoái hậu, thụt đầu lùi lại không đường tiến. Chúng ta cần phải phấn khởi, dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình không chờ đợi, không trù trừ hoài nghi nữa.
Lỗi nhỏ ví như cái gai đâm vào thịt phải mau chóng rút bỏ ra. Lỗi lớn tựa như rắn độc cắn vào ngón tay, cần phải quyết tâm chặt bỏ ngay không chút ngần ngừ do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ phong lôi trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy.
Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan.
III – Phương pháp sửa lỗi
1.Theo sự tướng
Tuy nhiên tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự việc như thế gọi là theo sự thực xảy ra mà cải sửa vậy.
Ngày nay phạm lỗi, ngày mai cố sửa, cứ theo sự việc xảy ra ở bên ngoài mà miễn cưỡng kiềm chế lấy mình để khỏi phạm nữa, thực là trăm phần khó vì chung cục bệnh căn vẫn tồn tại, bởi nay ở bên đông hết tội, mai tội lại nẩy sinh ra ở bên tây, cứu cánh không phải là đường lối hợp đạo lý, không trừ sạch được hết tội lỗi.
2.Theo lý cải sửa
Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết hãy nên biết rành rẽ đạo lý đã; như tội lỗi ở chỗ sát sinh thì nên tự nghĩ rằng thượng đế hiếu sinh, chúng vật đều luyến ái mạng sống, giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao ta có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nhiêu nỗi thống khổ đau đớn thấu nhập cốt tủy. Chúng ta sát hại chúng để nuôi dưỡng mình, để có la liệt những thứ cao lương mỹ vị miếng ngon vật quý, nhưng khi nuốt trôi khỏi cổ rồi thì giống như không, chẳng có gì nữa. Mà dùng rau đậu, canh dưa cũng đủ no đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình nữa.
Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống y như chúng ta; vả lại chúng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao làm cho chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạnh chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi.
Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm nỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân.
Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận.
Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa.
Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ.
3.Theo tâm địa
Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao!
Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không.
Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy.
4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi
Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có bạn tốt thường nhắc nhở để tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm.
Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ cừu thù mà hồi tâm chuyển ý vui vẻ không còn oán hận nữa, hoặc mộng thấy thở ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển.
Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó.
Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa.
Người mà tội ác quá sâu nặng sẽ thấy chứng nghiệm ngay; hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chỉ trong chớp mắt liền quên không nhớ nữa, hoặc chẳng có sự gì cả mà phiền não lo lắng; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường ngượng ngùng e thẹn mất tinh thần; hoặc nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý mà chẳng hoan hỷ vui vẻ ưu nghe; hoặc làm ơn lại bị oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc phấn khởi tinh thần dứt bỏ lỗi lầm cũ để mưu việc tự tu sửa canh tân, mong rằng đừng nên tự mình lại lừa dối mình.
Nhắc đến những nhân vật có tầm ảnh hưởng của lịch sử đầu thế kỉ 20 Trung Quốc thì không thể bỏ qua Tống gia cùng với 3 cô con gái lẫy lừng với danh xưng “Đại tỷ ái tài, nhị tỷ ái quốc, tam muội ái quyền” (nghĩa là cô chị cả thì yêu tiền, cô chị hai thì yêu nước còn cô em thứ ba thì yêu quyền). Thực tế, đó là một câu nói được đúc kết từ thực tiễn, cũng như từ các đặc điểm nhân tướng học trên gương mặt của 3 người này mà ra.
(Ảnh: Internet)
Ba chị em nhà họ Tống đã là đề tài sôi nổi nhất cho các nhà tướng số Trung Quốc, mặc dầu cả ba chị em nhà họ Tống đều không tin bói toán, và chưa bao giờ đi xem bói toán, vì họ là những tín đồ Thiên Chúa Giáo. Các nhà tướng số Trung Hoa đã căn cứ vào các tấm hình của ba chị em nhà họ Tống trên báo chí để đưa ra những nhận xét về tương lai và sự nghiệp của ba bà như sau
Tống Ái Linh – Đại tỷ ái tài
Đây là trường hợp khó nhằn nhất đối với thầy tướng số, vì Tống Ái Linh là người không thích xuất đầu lộ diện cũng như hiếm hoi lắm mới có được 1 tấm hình thấy cận mặt. Và qua một vài hình ảnh khan hiếm của bà bị lọt ra ngoài, các nhà nhân tướng học đã có nhận định như sau
Tống Ái Linh là một con người thông minh, kín đáo, nhưng cũng đầy mưu mô, xảo quyệt để đạt được mục đích của bản thân mình. Điều này được thể hiện qua khuôn mặt “hạt dưa” của bà. Cũng như được đúc kết từ các tấm ảnh chụp từ sau lưng, phần xương hàm của Ái Linh khá kín và không nhìn thấy được từ phía sau.
(Ảnh: Internet)
Nhận định này tương ứng với cuộc đời bà, lấy chồng là Khổng Tường Hy – bộ trưởng bộ tài chính, đồng thời là người giàu nhất Trung Quốc thời bấy giờ. Tham gia vào nhiều cuộc làm ăn cùng chồng nhưng luôn ở phía sau chỉ thị và hiếm khi lộ mặt, cũng như bà chính là người tìm mọi cách để mẹ mình đồng ý gả em gái Tống Mỹ Linh cho Tưởng Giới Thạch, khi đánh hơi thấy tiềm lực kinh tế của người này.
Chính vì thế mà danh xưng “đại tỷ ái tài” tức người chị cả tham tiền dành cho bà là hoàn toàn chính xác.
Tống Khánh Linh – Nhị tỷ ái quốc
Phu nhân của Tổng thống đầu tiên Cộng hòa Trung hoa dân quốc Tôn Trung Sơn có khuôn mặt tròn và hơi nhỏ, với các đường nét hài hòa, mang thần thái của một vị công chúa. Khuôn mặt này được đánh giá là vượng phu cùng cặp mắt hơi buồn với phía đuôi hướng xuống báo hiệu niềm hạnh phúc không trọn vẹn.
(Ảnh: Internet)
Đúng thật là như thế, khi Tôn Trung Sơn qua đời, Tống Khánh Linh mới 30 tuổi, nhưng bà đã sống cuộc sống độc thân cho đến cuối đời. Người Trung Quốc gọi bà là “Trinh đức thánh nữ”. Bề ngoài bà có vẻ yếu đuối, nhưng tinh thần bà rất mạnh mẽ, lúc nào cũng sáng chói không lay chuyển hoặc nhượng bộ, ngay cả trong những nghịch cảnh.
Khác với chị cả ham tiền và em út ham quyền, Khánh Linh một lòng một dạ trung thành với tổ quốc, đi theo những niềm tin bất diệt mà chồng bà đã để lại.
Tống Mỹ Linh – Tam muội ái quyền
Tống Mỹ Linh thường được coi là người đẹp nhất trong ba chị em, nhưng Tống Mỹ Linh chụp hình không ăn ảnh lắm. Gò má Tống Mỹ Linh hơi cao, và đó là tướng của một người có uy quyền. Các nhà tướng số thường chỉ vào lưỡng quyền cao của Tống Mỹ Linh và đoán bà sẽ có được quyền lực chính trị.
(Ảnh: Internet)
Thật vậy, khi kết hôn cùng Tưởng Giới Thạch, bà một bước lên tận mây xanh, không những thế sau này bằng tài năng của mình, Tống Mỹ Linh còn dấn thân vào con đường chính trị và giữ nhiều chức trách quan trọng ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc.
Cả ba chị em nhà họ Tống đều có một đặc điểm chung về nhân tướng đó chính là “vượng phu”, điều này không thể phủ nhận khi những người đàn ông sau khi kết hôn cùng họ đều có sự nghiệp lẫy lừng. Qua đó mới thấy được cái hay, cái kì bí của nhân tướng học, chỉ một tấm ảnh mà có thể đoán được chính xác đến 80% phần trăm vận mệnh một con người.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Thiên riêu (Thủy)
***
1. Ý nghĩa cơ thể:
2. Ý nghĩa tính tình:
3. Ý nghĩa bệnh lý:
4. Ý nghĩa của và một số sao khác:
- Riêu Đồng: hay thay cũ đổi mới về mặt sinh lý, đổi đào thay kép. Có gia đình thì ngoại tình.
- Riêu Xương Khúc Cơ: bị dàyvò vì nhu cầu sinh lý, bị ám ảnh sinh lý rất nặng, có khuynh hướng sáng tác văn thơ dâm tình; hết sức dâm đãng.
- Riêu, Thai: rất dâm dục, có con riêng.
5. Ý nghĩa của thiên riêu ở các cung:
a. ở Phu Thê, Nô:
b. ở Tử, Bào:
c. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Cửa sổ mở về hướng Đông là một điềm lành vì dương khí ở hướng Đông rất dồi dào. Trong phong thủy gọi là “tử khí đến từ hướng Đông” (“tử” ở đây tức là màu tím trong tia cực tím).
Cửa sổ mở về hướng Bắc không có lợi cho sức khỏe của mọi người trong nhà, vì phương Bắc trong ngũ hành phong thủy thuộc “âm thủy”, cửa mở về hướng Bắc dễ dẫn “âm sát” vào nhà. Trong khi đó, cửa sổ mở về hướng Nam, nếu nhìn thấy các vật như góc nhà, cây khô, đá nhọn hoặc đường chân trời thì không có lợi cho sức khoẻ, dễ bị các bệnh về mắt.
Cửa sổ phòng khách và phòng ngủ nếu đối diện với những vật không may mắn sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và của cải của chủ nhà và gây ra nhiều vấn đề bất cập.
Ngoài cửa chính, cửa sổ là con đường duy nhất để những người trong nhà kết nối với thế giới bên ngoài, vì thế cửa sổ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thông thường, các nhà có cửa sổ hướng Đông Nam tương đối dễ chịu, mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ, nhưng theo quan điểm phong thủy thì trước hết phải nhìn rõ cảnh vật xa gần bên ngoài cửa sổ. Nếu cảnh vật là “xung sát” kém may mắn thì cho dù ‘cửa sổ ở hướng Đông Nam cũng là điều không tốt.
Nếu cửa sổ bị che khuất tầm nhìn bởi một nhà bên cạnh, ngưòi trong nhà vì thế không cách nào mở rộng tầm mắt vượt qua bên ngoài cửa sổ thì đó cũng là một điều bất cập. Phong thủy gọi đó là: “quái khí bất đáo”, nói cách khác tức là “sinh khí” và “tài khí” không thể vào được trong nhà. Đốỉ với chủ nhân của ngôi nhà thì điều này quả thật không có lợi.
Ngoài ra, nếu cửa sổ đối diện ngay với một con đường cái dài và thẳng thì cũng không tốt, vì trên đường cái chắc chắn sẽ có xe cộ thường xuyên qua lại. Nếu những chiếc xe đó đi thẳng qua cửa sổ nhà bạn thì đó là “xung tâm thủy”. Đây là một trong những “hung sát” có ảnh hưởng không tốt với sức khỏe con người. Ngược lại, nếu xe đi qua về hướng con đường đối diện với cửa sổ đó thì sẽ tạo thành thế “chỉ thủy”. Những nhà thường xuyên bị “chỉ thủy” đương nhiên khó mà tích luỹ được của cải. Vì thế, cửa sổ đối diện với đường cái nhỏ và hẹp, dù là theo hướng nào cũng đều là không tốt.
Cửa sổ lí tưởng nhất là đối diện với một con đường hơi ngoằn nghèo uốn lượn, đó chính là thế hiếm gặp – “cửu khúc thủy”. Nhờ có “cửu khúc thủy” mà con cháu đời sau trong nhà mới có thể giữ được địa vị và sự giàu sang phú quý.
Thân trúc cao và thanh mảnh, đốt cứng, ruột rỗng. Cây trúc vốn mang cốt cách của người quân tử tượng trưng cho sự rắn rỏi, kiên cường, bất khuất.
Cổ nhân thường ca ngợi phẩm chất cao khiết của loài trúc và xem đó là tượng trưng cho sự rắn rỏi, kiêm cường, bất khuất.
Cổ nhân thường ca ngợi phẩm chất cao khiết của loài trúc và xem đó là tượng trưng cho sự cát tường.
Trong ruột của cât trúc rỗng, tượng trưng cho đức tính thẳng thắn, liêm khiết. Suốt bốn mùa trúc luôn xanh tươi, không đổi màu, tượng trưng cho sự tráng kiện của con người.
Trúc, mai và tùng là 3 loại cây chịu lạnh tốt, kết tình bằng hữu, gọi là ‘Tuế hàn tam bạn” (Ba người bạn tốt trong rét).
Mai, lan, trúc, cúc được gọi là “Tứ quân tử” là những loài cây tượng trưng cho lý tưởng của các bậc văn nhân.
Bức họa trúc và hoa mai bên cạnh nhau được gọi là Trúc mai song hỷ, thường dùng làm quà tặng trong lễ thành hôn.
Bức họa cành trúc cắm trong bình hoa mang ngụ ý “trúc báo bình an”.
Bức tranh cây trúc bên hai loại cây cát tường khác hoặc bên hai chú chim nhỏ được gọi là Hoa phong tam chúc vinh hoa.
Trong các loài trúc, vẫn có một loài có tên là thiên trúc. Bức họa thiên trúc, bí đỏ và hoa trường xuân mang ý nghĩa “trời đất mãi xuân”.
Chữ “trúc” (cây trúc) và chữ “chúc” (chúc mừng) đồng âm. Do vậy, cây trúc còn mang hàm ý chúc phúc.
Cách sử dụng:
Bức tranh trang trí họa cây trúc nên treo ở những vị trí cát lợi trong phòng khách hoặc trong thư phòng.
Cây trúc có Ngũ hành thuộc Mộc, do vậy nên treo bức tranh trúc ở vị trí tương sinh thuộc hướng Nam, Hướng Đông và Đông Nam. Không nên treo ở hướng Bắc, hướng Tây Nam, Đông Bắc đó là những phương vị tương khắc, hao tổn vượng khí. Treo ở hướng Tây Bắc, Tây thì bình thường.
Theo ghi chép trong “trạch kinh” trong “tứ khố toàn thư – thuật số” viết: “tất cả những ngôi nhà có dương khí thì trong dương khí đều có âm khí… thiên đức, nguyệt đức đều có vị trí của nó, nhà mà sạch sẽ rộng rãi thì gia đình sẽ yên bình, sung túc và hạnh phúc”.
Muốn có ngôi nhà mà trong khí dương có chứa khí âm thì tất nhiên vị trí lí tưởng nhất là xây nhà hướng Nam. Thời xưa khi các bậc Hoàng đế lên ngôi đều thích hướng Nam. Người dân cũng tự nhiên mà thích xây nhà ở hướng Nam. Bôi thế xây nhà theo hướng Nam chính là một trong những nguyên tắc xây dựng cơ bản trong phong thuỷ học truyền thống. Bắc được coi là âm, Nam được coi là dương, một nơi có phong thuỷ tốt nên là nơi trong khí âm có khí dương.
– Lấy ánh sáng tốt: Kinh nghiệm cho chúng ta thấy bất kì một chiếc cửa sổ nào quay về hướng Nam, hướng Đông Nam hay hướng Tây Nam thì lượng ánh sáng mà ngôi nhà hấp thụ được tương đôi nhiều. Nhà mà xây ở hướng Nam sẽ tận dụng hết sức ánh sáng mặt trời, bảo đảm mùa đông thì ấm áp và chiếu ánh nắng mùa hè thì mát mẻ.
– Thông gió tốt: Ngôi nhà ngoảnh mặt hướng Nam, quay lưng phía Bắc sẽ làm cho không khí trong nhà luôn lưu thông.
– Tránh gió bấc: Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ẩm do vậy chỉ xây nhà dựa lưng phía Bắc ngoảnh mặt hướng Nam mới có thể vừa lấy đủ ánh sáng, thông gió, vừa tránh được gió bấc. Trong “địa học chỉ chính” có viết: “ khí dương vốn đã sợ gió, trong giới tự nhiên có âm có dương, vật hướng về phía Đông, phía Nam sẽ bị ảnh hưởng của luồng gió ấm, gọi là gió dương. Những vật hướng về hướng Tây, phía Bắc sẽ chịu ảnh hưởng của gió lạnh, gió mát, gọi là gió âm, nên đề phòng nếu không sẽ bị gió thổi cuốn mất”. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tránh sự tác động của gió Bắc trong mùa đông.
Theo quy hoạch ngày nay, không dễ tìm được một căn nhà ngoảnh mặt hướng Nam, quay lưng phía Bắc vì vậy, bạn chọn những căn nhà lấy phương vị chính Nam làm nguyên tắc, hơi nhích về hướng Đông hoặc Tây là được. Không nên chọn nhà quay lưng về hướng Đông Nam, ngoảnh mặt về phía Đông Bắc vì nhà ở hướng này có ánh sáng tự nhiên kém, không khí ẩm ướt, rất có hại cho sức khỏe.
Nếu không thể chọn được ngôi nhà ưng ý thì nên trổ nhiều cửa sổ nhìn về hướng Nam, hoặc tăng thiết bị chiếu sáng, sưởi ấm và trồng nhiều cây, tường vây chắn gió ở phía Bắc để bù đắp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hiện tượng: Nếu đầu giường áp sát tường phía cửa sổ làm giảm chất lượng giấc ngủ.
Phương pháp hóa giải: Phương pháp hóa giải tốt nhất, hữu hiệu nhất Là điếu chỉnh vị trí giường, có thể đặt bức bình phong hoặc đặt đôi Kỳ lân bằng đồng trên phía đầu giường để hóa giải.
► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của 12 cung hoàng đạo được cập nhật mới nhất |
![]() |
quan phù (Hỏa) quan phủ (Hỏa)
***
1. Ý nghĩa tính tình:
a. Ý nghĩa tốt:
b. Ý nghĩa xấu:
2. Ý nghĩa của quan phù và một số sao khác:
3. Ý nghĩa của quan phù ở các cung:
b. ở Nô:
c. ở Quan:
d. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Không gian cửa hàng bị khuyết góc sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cửa hãng.
Khuyết ở góc Tây Bắc, người lãnh đạo hoặc chủ quản không được người khác tôn trọng, các chính sách đưa ra rất khó được thực thi, tự nhiên sự nghiệp khó phát triển.
Khuyết ở góc Tây Nam, nhân viên nữ có cảm giác bị chèn ép, tính ổn định kém, dễ bị tiểu nhân hại. Ví dụ như dễ dàng cho khách hàng không tốt nợ tiền gây tổn thất cho công ty…
Nếu khuyết góc phía Tây, tài vận bị ảnh hưởng tương đối ít, nhưng giữa nhân viên hay xảy ra tranh chấp, thường có thị phi. Khuyết góc phía trong, tinh thần nhân viên không ổn định, hay cáu gắt, dễ mắc lỗi với khách hàng, thường phát sinh vấn đề khi ký kết hợp đồng, lập phiếu thu chi…
Khuyết góc Đông Bắc, không ảnh hưởng đến tài vận, nhưng sức khỏe của nhân viên không tốt, đặc biệt hay bị thương phần tay chân.
Khuyết góc Đông Nam, sức hoạt động kinh doanh không đầy đủ, có khuynh hướng tiêu cực, sự nghiệp thu hẹp dần.
Khuyết góc phía Nam, nhân viên làm việc không nhanh nhẹn, sức phán đoán không tốt làm tổn thất tiền tài, thời cơ, tính tình hay cáu gắt.
Khuyết góc phía Bắc, nhân viên tuy nhanh nhẹn nhưng không thật thà, nhiệt tình, hay chống đối lãnh đạo. tính lưu động tương đối cao.
Khi sắp xếp vị trí phòng làm việc cho người phụ trách nên tránh sắp xếp tại vị trí khuyết góc, bởi vì khi ở những nơi này rất yếu, không có lợi cho lãnh đạo, chỉ có tác dụng làm kho tạm thời.
Bạn cần biết
Bàn tính vàng như ý đặt ờ bàn quầy để giúp tính toán tinh thông, tài vận vào nhà. Nó còn có thể làm văn trấn giúp ổn định tinh thần, đặt ở bàn sách tăng cường động lực học hành, khai thông tri lực, thành tích tiến bộ, suy nghĩ thuận lợi. Những người làm ăn buôn bán có thể mang vật này theo người hoặc đặt ở bàn làm việc có tác dụng bổ trợ tư duy, tụ tài khí, lích lũy nhận mạch tài phú.
Ý nghĩa chung
Hạc là vật tượng trưng cho sự cát tường, trường thọ, lòng trung thành, sự cao nhã và vẻ đẹp toàn mỹ. Hạc vốn có tiên phong đạo cốt, được xem là “đứng đầu trong các loài chim”. Vị trí tôn quý chỉ xếp sau phượng hoàng. Hạc có tuổi thọ rất cao, cùng với rùa được xem là linh vật tượng trưng cho sự trường thọ. Do vậy, dân gian thường dùng những từ ngữ như “hạc thọ”, “hạc linh”, “hạc toán” để chúc thọ.
Hình ảnh hạc và cây tùng dùng hình ảnh “thiên niên hạc, vạn niên tùng” là tên gọi Tùng hạc trường xuân, Hạc thọ tùng linh. Hình ảnh hạc và rùa tạo gọi là Quy hạc tề linh, Quy hạc diên niên. Hình ảnh hạc, hươu và cây ngô đồng biểu thị ý nghĩa “lục hợp đồng xuân” lục hợp tức là thiên, địa, đông, tây, nam, bắc. Trong đó chữ “lục” – số 6 và chữ “lộc” đồng âm, chữ “hạc” và chữ “hợp” đồng âm, chữ “đồng” – cùng nhau và chữ “đồng” – ngô đồng, đồng âm.
Chim hạc với xăm hình
Hình xăm hạc biểu thị ý nghĩa mong muốn được trường thọ.
Hạc vốn mang đầy đủ thuộc tính của loài chim. Những người cầm tinh con Rồng, Rắn, Trâu (Thìn, Tỵ, Sửu) thích hợp với hình xăm chim Hạc. Những người cầm tinh Chó, Mèo, Gà (Tuất, Mão, Dậu) không hợp với hình xăm chim Hạc.
Các lễ này thường được tiến hành vào 12 giờ đêm ngày 30 tháng chạp, tức 0 giờ sáng ngày Mồng 1 tháng Giêng.
- Cúng giao thừa ngoài trời: Người xưa có quan niệm mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, nên có tục cúng giao thừa ngoài trời. Tuy vậy, việc cúng ngoài trời chỉ nên tiến hành ở đình, đền, chùa hay những nơi công cộng. Với gia đình, chỉ nên cúng giao thừa trong nhà.
- Cúng giao thừa trong nhà: Lễ thường được tiến hành vào giờ Chính Tý, tức đúng 12 giờ đêm hôm 30 tháng chạp. Lễ Trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ này còn mang tên là lễ Giao thừa. Ở nhà riêng, ngoài mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên (hay thờ Phật), người ta thường lập thêm mâm cúng để ở cái bàn con bên dưới. Khi thắp hương vẫn cắm trên bàn thờ, chứ không cắm vào mâm cúng.
- Bày trí bàn thờ ngày Tết: Chúng ta hay dùng từ “trang trí bàn thờ”, nên thành ra nghĩ rằng càng đẹp càng tốt, càng đầy đủ càng tốt, nhưng thực ra “mâm cao cỗ đầy” lại không có lợi. Thực ra bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi phô trương hay trưng bày. Do vậy những thứ không liên quan đến thờ cúng không bày lên bàn thờ, nhất là giấy công đức ở đình chùa.
Nếu trong gia đình đang đặt bàn thờ gia tiên cùng phật hay thờ mẫu thì cần tách riêng các bàn thờ, trong bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt. Đồ lễ trên bàn thờ, quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi và nước sạch.
Tuyệt đối cần tránh các loại đồ giả như hoa quả nhựa. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để từ tháng này qua tháng khác. Riêng ngày Tết thì có thể để đồ cúng đến mùng 5. Không nên để lễ mặn lên bàn thờ. Mâm cơm cúng ngày Tết cũng không để trên bàn thờ, mà nên để ở cái bàn con bên dưới.
- Mâm ngũ quả: Là đĩa đựng năm loại hoa quả khác nhau, thường đặt lên ban thờ hoặc trang trí ở bàn tiếp khách. Nên chọn các loại hoa quả thông dụng, ăn được và đẹp mắt. Nếu bày trên bàn thờ gia tiên, cũng có thể chọn loại hoa quả mà gia tiên thích ăn khi còn sống (nếu có).
Gần đây nhiều người hay gán ghép phong thủy cho mọi lĩnh vực, từ hoa thờ đến mâm ngũ quả theo phong thủy, rồi suy luận không căn cứ. Chẳng hạn lựu, nhiều hạt, tượng trưng cho sự đầy đủ, phát triển; bưởi, dưa hấu, căng tròn, tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn. Cam, nghĩa gốc là đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi lại bị suy diễn thành cam chịu, chuối bị suy diễn thành "củ chuối". Thậm chí còn sa đà vào tâm linh không cần thiết như đếm nải chuối có quả lẻ mới mua, đếm phật thủ có lẻ nhánh mới được hay tổng số quả trên mâm phải hợp mệnh chủ nhà... Chính sự suy luận quá đà làm nhiều người mất thời gian chọn hoa quả để bày trí.
Điều lưu ý là mâm ngũ quả ngày Tết thường để lâu hơn bình thường, do đó không chọn loại chín quá vì sẽ nhanh hỏng, tuy vậy cũng không được chọn quả quá xanh chỉ cốt để cho lâu. Nên nhớ rằng mâm ngũ quả cúng gia tiên thì phải là hoa quả vừa đủ chín có thể ăn được. Nhiều người hay lấy câu "miễn thành tâm là được" để ngụy biện, khi thực hiện lại chạy theo hình thức, khoe mẽ với người ngoài, mà không chú trọng đến chất lượng của hoa quả để thờ cúng. Vì thế, hoa quả tươi mua về, chưa để bày biện thành mâm ngũ quả cũng cần để cẩn thận, trang trọng, chứ không nên "tống" vào tủ lạnh, hay vứt lăn lóc ở góc bếp, rồi đến tối 30 mang ra bày.
- Tục hái lộc: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, thành đạt hơn. Lộc là một cành non ở gần đình chùa, được hái ngay phút giao thừa để mang về nhà. Tuy vậy, không nên khuyến khích tục này, bởi lẽ mỗi gia đình đều đã có hoa đẹp cắm Tết như hoa đào, hoa mai… Bẻ các cành non làm cho nhiều cây cối trơ trụi, nhất lại là cây ở đình chùa là không nên. Gần đây, nhiều người cũng đã thay việc bẻ cành lộc, bằng cách mua cây hoa, cây mía…
- Tục xông nhà: Người xông nhà là người bước chân đầu tiên vào nhà mình sau phút giao thừa. Do muốn được may mắn, mọi người hay tìm người hợp tuổi đến xông nhà. Nhưng thuyết về hợp tuổi cũng lắm, nên nhiều người vẫn cứ phân vân không biết mời ai, và rồi nhiều khi đành tự mình xông nhà cho xong. Thực ra bình thường chủ nhà tự xông nhà cho mình cũng được, còn khi vào năm xấu, như năm tuổi, hoặc phạm sao xấu thì cũng nên nhờ người hợp tuổi với mình, hoặc tìm con cháu trong nhà hợp tuổi với mình để xông nhà, sẽ giúp cho mọi chuyện trong năm đó được thuận lợi hơn. Cũng do nhiều người kiêng, chỉ muốn người hợp tuổi xông nhà cho nên sáng mùng 1 cũng ít người đi chúc Tết, vì sợ không hợp tuổi gia chủ, mang lại điềm xấu.
- Tục khai bút: Ai cũng muốn năm mới vận hội mới, làm ăn suôn sẻ, nên trước giao thừa hay lấy bút, sổ tay mới, mong muốn làm gì trong năm mới thì ghi vào sổ. Qua giao thừa, giờ Tý - Sửu hạ bút và sổ xuống. Khai bút khác với khai nghề, thuần túy là ghi mong muốn của cá nhân, hoặc gia đình vào quyển sổ, vừa để may mắn, vừa tăng quyết tâm thực hiện mục tiêu đề ra.
Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng Phòng Phong thủy Kiến trúc - ĐHXD
Chỉ cần áp dụng một vài mẹo phong thủy tài lộc dễ như trở bàn tay là bạn có thể “dọn đường” rộng mở để đón tài lộc vào nhà một cách thuận lợi.
![]() |
![]() |
Màu tím
Đây là màu của sự bí ẩn, sang trọng, cao quý và thể hiện sức mạnh tinh thần. Những người hoạt động trong lĩnh vực liên quan tới việc truyền cảm hứng thường lựa chọn màu này cho nơi nghỉ ngơi của mình. Phòng ngủ có sắc tím sẽ giúp tăng cường tinh thần của bạn tốt hơn.
![]() |
Màu sắc của không gian ở được chứng minh có tác động mạnh tới tinh thần của bạn. Ảnh: Eligible. |
Màu chàm
Sự hiểu biết, kín đáo và bản năng được thể hiện qua màu chàm. Những người duy tâm và dũng cảm thường ưa thích tông màu này. Sự kết hợp chừng mực của màu chàm với các màu khác sẽ tăng cường sự chính trực, trung thành của chủ nhà. Tuy nhiên, nếu bạn sử dụng quá đà màu chàm sẽ gây ra những tác động tiêu cực.
Màu lam
Màu lam gắn liền với hòa bình, sự thật và lòng trung thành. Đây cũng là màu biểu trưng cho năng lượng âm và yếu tố nước. Mặc dù màu xanh đem lại sự bình tĩnh nhưng nếu có quá nhiều màu lạnh trong phòng sẽ khiến bạn lười biếng. Những người có tính cách truyền thống thường lựa chọn sắc lam cho nơi nghỉ ngơi của mình.
Màu lục
Khởi đầu mới, sự cân bằng, hạnh phúc gắn liền với màu lục. Nếu bạn cần cảm giác ổn định, an toàn, hãy lựa chọn màu này cho phòng ngủ của mình. Trong phong thủy, màu lục cũng gắn liền với Mộc - cây xanh, đem lại không gian bình yên cho ngôi nhà.
Màu vàng
Hạnh phúc, niềm vui, trí tuệ và logic được thể hiện qua màu vàng. Ai yêu thích màu này cũng là người vui vẻ và đem lại sự phấn khởi cho mọi người. Sắc vàng đậm thúc đẩy sự phát triển còn vàng nhạt giúp tâm trí bạn được minh mẫn hơn.
Màu cam
Nếu bạn thích màu cam, bạn là người thích tìm tòi, khám phá. Hầu hết những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo đều là fan của màu này. Đây cũng là màu sắc thể hiện quyền lực, sự tự chủ. Tuy nhiên, bạn cần hết sức cẩn trọng khi sử dụng màu cam vì nếu có quá nhiều màu nóng trong phòng, bạn sẽ khó có giấc ngủ ngon.
Màu đỏ
Đây là màu thể hiện cho sức sống, đam mê, tính táo bạo. Những người có tính cách thân thiện, cởi mở thường yêu thích màu đỏ. Khi bạn chọn màu nóng, phòng ngủ của bạn sẽ có thêm năng lượng, phấn khích và nhiệt tình. Tuy nhiên, nếu phòng có quá nhiều đồ màu đỏ sẽ tạo cảm giác bức xúc, nóng giận.
Lam Huyền (Theo Eligible)
► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất |
![]() |
![]() |
Số 1 | Số 2 |
Mộc Trà (theo Buzz)
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Mệnh Kim hợp màu gì, mệnh Thổ hợp màu gì, mệnh Mộc hợp màu gì |
Thế nhưng, việc chuẩn bị có khi bắt đầu từ những ngày đầu tháng Chạp và phải hoàn tất trước buổi trưa ngày 30. Đây cũng là cách con cháu thể hiện sự tưởng nhớ, lòng biết ơn đối với ông bà, tổ tiên của mình.
Tùy vào điều kiện mỗi gia đình mà sắp xếp chuẩn bị mâm cỗ lớn cúng đón rước ông bà vào buổi trưa hoặc buổi chiều 30, và mâm cỗ vào ngày mồng 3 hoặc mồng 4 Tết để tiễn ông bà đi gọi là cúng đưa.
Do điều kiện địa lý, thói quen trong ăn uống, phong tục của từng miền. Nên mỗi miền có mâm cỗ Tết khác nhau. Ở miền Bắc gọi là mâm cỗ, miền Trung gọi là mâm cộ, miền Nam gọi là mâm cơm cúng ông bà.
1. Mâm cỗ miền Bắc:
Mâm cỗ Tết miền Bắc theo đúng bài bản, thường thì 4 bát, 4 dĩa. Cỗ lớn thì 6 bát, 6 dĩa hoặc 8 bát, 8 dĩa…có khi mâm cỗ lớn phải xếp cao đến 2, 3 tầng. Trước khi dâng cúng tổ tiên thì dùng giấy trang kim đậy các bát, đĩa thức ăn lại cho vệ sinh, tinh khiết và đẹp mắt.Bốn bát, bốn dĩa gồm: bát giò heo hầm măng lưỡi lợn, bát bóng thả, bát miến, bát mọc. Bốn dĩa gồm: dĩa thịt gà, dĩa thịt heo, dĩa giò lụa, dĩa chả quế.
Rồi có thể thêm những dĩa như: dĩa thịt đông, dĩa giò thủ, dĩa xào hạnh nhân, dĩa lạp xưởng khô, dĩa trứng muối, dĩa cá kho riềng, dĩa nộm sứa hoặc nộm rau quả….
Bánh Tết ở miền Bắc phổ biến nhất là bánh chưng ăn kèm dưa hành.
Món tráng miệng đặc trưng thì có mứt sen, mứt quất, mứt gừng, hồng khô, ô mai mơ gừng….Đặc biệt món chè kho có tính giải độc và giả rượu.
Mâm cơm cúng ông bà ngày 30 Tết ở miền Nam, luôn luôn có thịt heo kho nước dừa với trứng hoặc cá lóc kèm dưa giá, canh khổ qua nhồi thịt (khổ qua là mướp đắng, nhưng người Nam bộ muốn chơi chữ đồng âm theo nghĩa Tiếng Việt).
Theo dân gian thì khổ qua là món ăn mong muốn sự khổ cực trong năm cũ qua đi, để tiếp đón điều tốt đẹp trong năm mới.
Các món nguội như gỏi ngó sen, tai heo ngâm dấm, tôm khô-củ kiệu, giò heo nhồi, lạp xưởng tươi,phá lấu,nem, chả.
Món tráng miệng: có các loại mứt trái cây như: mứt dừa, mứt me, mứt khoai, mứt ổi, mứt mảng cầu, mứt củ năng,bánh ít ngọt, kẹo thèo lèo và kẹo chuối,…
Ngoài ra còn có món tráng miệng rất đặc sắc là cơm rượu.
Mâm cộ Tết miền Trung thì có các món nước như: gà tiềm hạt sen, canh hoa Kim Châm với tôm thịt, giò heo hầm. Các món mặn như: tôm rim, thịt kho tàu, cuốn ram, thịt heo, gà rán, thịt phay, nem, chả, tré,thịt ngâm nước mắm…Rồi có thêm các món đồ mộc như: măng khô xào thịt, mít trộn, giá xào nham…
Món tráng miệng rất phong phú, có mứt cam quật, mứt sen, mứt gừng như miền Bắc,có mứt me, mứt dừa…như miền Nam. Ngoài ra có thêm mứt củ bình tinh, mứt củ khoai mài, mứt củ sen, mứt chanh, mứt khế. Bánh thì có bánh sen tán, bánh măng, bánh mận, bánh bó mứt, bánh thuẩn, bánh phục linh, bánh nổ, bánh tổ….
3. Mâm cỗ miền Trung:
Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và bánh tét. Nhưng mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không dùng làm vật phẩm để dâng cúng tổ tiên.Khác với mâm sinh soạn để cúng tế trời đất, thần thánh, vua chúa...Như vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu…Vật phẩm là bộ tam sinh (trâu, heo,dê) để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ thái lao. Hoặc ngoài dân gian khi cúng Đất thì bộ tam sinh là miếng thịt heo, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.
Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến, gồm đủ các thành phần : Thượng cầm: các loại gia cầm biết bay như chim, gà, vịt,…Hạ thú: các gia súc trên mặt đất như: heo, bò, gà..Rồi các loài thủy tộc dưới nước như: tôm, cua, cá… trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn
Trong cung đình mâm cỗ để tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.
Các món ăn như là: chim sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi cá nấu rối, món nấu bong bóng cá đường, món nấu cửu khổng, gân nai, nem công, chả phượng,…
Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay.Mứt cam sành còn nguyên trái, mứt các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng,…gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, qui, phụng…rim khô.
Bánh ngọt thường là loại bánh khô, làm từ bột ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình hoa mai, hoa đào, hoặc chữ phước, lộc , thọ…gói trong giấy ngũ sắc-như mang lời chúc tốt lành đầu năm.
Ngoài ra có loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa mai, hoa đào, các loại trái cây như trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm…đem sấy khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men lam để dâng cúng tổ tiên.
Bên cạnh những mâm hào soạn ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào những ngày đầu năm những gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mồng một gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.
Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và bánh tét. Nhưng mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không dùng làm vật phẩm để dâng cúng tổ tiên.
Khác với mâm sinh soạn để cúng tế trời đất, thần thánh, vua chúa...Như vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu…Vật phẩm là bộ tam sinh (trâu, heo,dê) để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ thái lao. Hoặc ngoài dân gian khi cúng Đất thì bộ tam sinh là miếng thịt heo, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.
Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến, gồm đủ các thành phần : Thượng cầm: các loại gia cầm biết bay như chim, gà, vịt,…Hạ thú: các gia súc trên mặt đất như: heo, bò, gà..Rồi các loài thủy tộc dưới nước như: tôm, cua, cá… trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn
Trong cung đình mâm cỗ để tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.
Các món ăn như là: chim sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi cá nấu rối, món nấu bong bóng cá đường, món nấu cửu khổng, gân nai, nem công, chả phượng,…
Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay.Mứt cam sành còn nguyên trái, mứt các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng,…gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, qui, phụng…rim khô.
Bánh ngọt thường là loại bánh khô, làm từ bột ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình hoa mai, hoa đào, hoặc chữ phước, lộc , thọ…gói trong giấy ngũ sắc-như mang lời chúc tốt lành đầu năm.
Ngoài ra có loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa mai, hoa đào, các loại trái cây như trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm…đem sấy khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men lam để dâng cúng tổ tiên.
Bên cạnh những mâm hào soạn ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào những ngày đầu năm những gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mồng một gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.
Nhắc đến mỹ nhân thời Tam Quốc, đa phần mọi người chỉ biết đến Điêu Thuyền. Nhưng trên thực tế, ngoài Điêu Thuyền còn có Nhị Kiều và một mỹ nhân khác vô cùng nổi tiếng, tài năng vẹn toàn tên là Chân Thị. Đây mới chính là mỹ nhân có nhan sắc quyến rũ, mê hoặc nhất thời Tam Quốc.
Tuy nhiên, trong ba người này, chỉ có Điêu Thuyền được xếp vào tứ đại mỹ nhân cổ đại của Trung Quốc, điều này cho thấy nhan sắc của Điêu Thuyền trội hơn hai người còn lại. Nhưng chỉ căn cứ vào nhan sắc bề ngoài mà nói Điêu Thuyền chính là Tam Quốc đệ nhất mỹ nhân thì hơi quá lời.
Thứ nhất, trong tứ đại mỹ nhân, Dương Quý phi, Tây Thi và Vương Chiêu Quân đều có danh phận rõ ràng và đều là người được các quân vương sủng ái nhất mực. Chỉ có duy nhất Điêu Thuyền thì ở với Đổng Trác hay Lã Bố cũng chỉ là mối quan hệ sống chung, chứ không hề có danh phận. Hai người đàn ông của đời nàng cũng không làm nên đế nghiệp, mà chỉ là những phàm phu tục tử đầy dã tâm. Nếu nói rằng, đàn ông chính là thước đo giá trị của phụ nữ, thì ngoài nhan sắc và tài năng của bản thân người phụ nữ đó, người đàn ông bên cạnh họ cũng vô cùng quan trọng. Điều này đối với Điêu Thuyền đã là một điểm trừ.
Thứ hai, vẻ đẹp của Điêu Thuyền chỉ là nhan sắc bề ngoài cộng thêm chút tài ca kỹ, nhưng vì Đổng Trác và Lã Bố đều là những người thô tục nên cũng chỉ cần có thế là đủ tạo ra cuộc tranh cướp khiến mất mạng. Hơn nữa, nếu nói Điêu Thuyền đẹp cũng chỉ là hư cấu chứ không có được bằng chứng xác thực của lịch sử để có thể đối chứng khảo sát.
Chính vì thế, nếu xét về mọi mặt thì thời Tam Quốc mỹ nhân tên Chân Thị mới chính là đệ nhất mỹ nhân. Nhan sắc và tài năng của nàng đã làm điêu đứng nhiều trái tim đa tình những anh hùng hào kiệt và văn nhân nổi tiếng trên văn đàn thời đấy giờ, trong đó có Viên Hy con trai thứ của Viên Thiệu, Tào Tháo và hai con trai là Tào Phi và Tào Thực.
Chân Thị sinh năm 182 sau công nguyên, tức năm thứ 5 Linh Đế Quang Hòa (nay thuộc Chính Định, Hà Bắc). Cha nàng tên Chân Dật, từng làm thượng thái huyện lệnh, vì thế nàng cũng xuất thân dòng dõi con nhà quan. Đáng tiếc năm nàng lên ba, cha nàng bệnh chết. Tuy còn bé nhưng nàng đã hiểu được nỗi đau mất cha, khiến cả nhà vô cùng kinh ngạc. Đến năm 9 tuổi, nàng tự học đọc sách và viết chữ, thông thường chỉ cần xem qua đã nhớ. Tuổi nhỏ nhưng đã lập trí làm hiền nữ, đồng thời rất hiểu đạo lý. Chính vì thế, sau này nàng có thể trở thành hoàng hậu cũng hoàn toàn không phải là việc ngẫu nhiên.
Khi đến tuổi cập kê, nhan sắc và tài năng của nàng đã vang xa khắp thiên hạ. Viên Thiệu đã cưới nàng cho con trai thứ hai là Viên Hy. Viên Thiệu và Tào Tháo cũng như là Chu Du và Gia Cát Lượng, nếu không có kẻ này kẻ kia tất sẽ là thiên hạ vô địch. Nhưng đáng tiếc, cha con nhà Viên Thiệu bại dưới tay Tào Tháo. Từ đó cuộc đời Chân Thị sang một ngã rẽ khác.
Tào Tháo vốn nổi tiếng háo sắc, từ lâu đã nghe và biết đến người con dâu tài năng và xinh đẹp của Viên Thiệu. Vì thế, trước khi tiêu diệt Thiệu gia ông ta đã tính toán tìm cách làm thế nào để có thể giành được Chân Thị. Đáng tiếc con trai Tào Phi của ông ta còn háo sắc hơn, nên khi quân Tào tấn công vào Nghiệp thành, Tào Phi đã dẫn một đám binh mã xông vào phủ Thiệu gia.
Lúc này Viên Hy không ở nhà, Chân Thị và mẹ chồng Lưu Thị trở thành bia đỡ đạn. Hai người đàn bà không còn chỗ nào trốn đành ở nhà đợi chết. Nhưng khi Tào Phi dẫn binh mã xông vào, thấy nhan sắc của nàng đã ngây dại. Cuối cùng Tào Phi đã nhanh chân hơn cha một bước, cướp được nàng Chân Thị làm vợ. Sau này Tào Tháo biết chuyện chỉ biết than trời, nhưng không có cách nào khác đành thuận theo ý trời.
Sau khi ở với Tào Phi, Chân Thị chỉ được hưởng hạnh phúc trong vài năm ngắn ngủi. Nàng sinh cho Tào Phi một trai một gái. Người con trai sau này chính là Ngụy Minh Đế Tào Duệ. Tục ngữ có câu: Đàn ông đi nhầm đường, đàn bà gả nhầm chỗ. Chân Thị lấy nhầm người nên đã bất hạnh. Tào Phi háo sắc đa dâm, đã có được Chân Thị mỹ nhân lại tham lam muốn có thêm Quách mỹ nhân. Có được Quách mỹ nhân, lại mơ tưởng muốn có công chúa của Hán Hiến Đế. Đến đám tiểu thiếp của cha để lại ông ta cũng không buông tha.
Chân thị vốn hơn Tào Phi 5 tuổi, do đã từng sinh nở, cộng với thời gian trôi đi, nhan sắc cũng sẽ phải tàn phai. Tào Thực là kẻ thích mới nới cũ nên dần dần hết mực sủng ái Quách phi trẻ đẹp. Quách phi là người lươn lẹo nham hiểm, gió chiều nào xoay chiều đó chứ không thẳng thắn như Chân Thị. Vì bị lạnh nhạt do thất sủng, tâm trạng Chân Thị càng chất chứa đầy ấm ức, oán tránh. Nỗi lòng này nàng đã chọn cách bày tỏ qua thơ.
Sau khi đọc được bài thơ của Chân Thị, Tào Phi tức giận lôi đình, cộng thêm những lời xúc xiểm của Quách phi, ông ta đã kiên quyết ban cho nàng Chân Thị một cốc rượu độc. Sau khi nàng chết, còn bị lấy tóc phủ mặt, miệng nhét đầy đường, dụng ý để nàng không còn mặt mũi nào mà nhìn mặt ai chốn âm gian, có nổi khổ cũng không thể nói được với ai.
Hai năm sau Tào Thực đến Lạc Dương bái kiến Tào Phi ca ca, trong lúc uống rượu Tào Phi đã đưa cho Tào Thực di vật của Chân Thị. Vốn là người bao nhiêu năm vẫn âm thầm yêu người chị dâu tài năng, xinh đẹp của mình nên khi nhận lấy di vật của Chân Thị, Tào Thực nước mắt lưng tròng. Trên đường quay về qua Lạc Thủy, cảm xúc dâng trào ông đã viết bài thơ nổi tiếng “Lạc Thần Phú”. Mãi đến sau khi Tào Phi chết, con trai nàng là Tào Duệ nối ngôi mới truy phong cho nàng là Văn Chiêu hoàng hậu, nhưng đáng tiếc rằng danh tiếng hoàng hậu được khôi phục nhưng sinh mạng đã mãi mãi tan trong cát bụi. Ảnh minh họa chân dung hai anh em Tào Phi và Tào Thực.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)