Mơ thấy chồng rời xa: Rạn nứt trong đời sống tâm lý vợ chồng –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
– Tháng hai âm lịch, tháng 2/2016 của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
như vậy sẽ sinh hung tướng. Khuyết góc là chỉ một phần của ngôi nhà thụt vào bên trong 2/3 và tạo nên phần lõm. Phần lõm vào càng lớn thì vận mệnh càng kém.

Việc nhà khuyết góc đa số là do chú trọng đến ngoại hình, tạo dáng mà thành. Loại này có thể căn cứ vào hướng của góc khuyết mà chọn cách sửa phù hợp.
Góc khuyết nằm về hướng Đông Bắc hoặc Tây Nam thì nên dỡ bỏ tưòng rồi xây thêm để tạo thành góc vuông, phần xây thêm có thể làm thành một phòng hoặc phòng chứa đồ để sử dụng.
Góc khuyết nằm ở hướng Đông thì tốt nhất là nên xây thêm nóc nhà, tăng thêm phòng, nhưng phòng phía Đông thường là phòng hứng ánh sáng, để làm được như vậy là rất khó. Nói cách khác, phòng phía Đông, Đông Nam và Nam thường để đặt phòng ăn và phòng của các thành viên trong nhà, do đó không được để tối, thiếu ánh sáng. Khi đó có thể xây thêm một phòng dùng làm phòng hửng ánh sáng hoặc xây một phòng cách nhà khoảng 1m. Quan trọng nhất là phòng xây mới phải có kích cỡ bằng với góc khuyết, thậm chí lớn hơn một chút mới được.
Góc khuyết nằm về hướng Đông Nam thì cách giải quyết giống với hướng Đông.
Góc khuyết nằm về hướng Tây thì cách giải quyết tốt nhất là xây thêm phần bổ sung vào góc khuyết đó.
Góc khuyết nằm về hướng Tây Bắc từ xưa đã được gọi là hướng Càn, hướng Thiên, hướng Phụ, xây mới một ngôi nhà khác hoặc làm cho phần nhô ra của ngôi nhà cũ đều hiện rõ được cát tướng to lớn. Hướng này tốt nhất là nhô ra, nếu thụt vào thì không còn linh nghiệm nữa
![]() |
| Xuất hành hướng Đông nếu muốn cầu tài, cầu lộc cho năm mới |
"Đường đời lắm nỗi truân chuyên, tìm ai chia sẻ nỗi buồn cùng đây". Nốt ruồi Lệ Đường từ trước đến giờ được cho là điềm không lành về cuộc đời bất hạnh, tình duyên trắc trở, đôi lứa chia lìa, không tìm được bến đỗ dài lâu. Lệ Đường là vùng ngay dưới mắt, hay còn gọi là bọng mắt, được xem là vị trí của cung Tử Tức. Dân gian truyền rằng người có nốt ruồi Lệ Đường thường chịu nhiều buồn đau trong chuyện tình cảm, có số mệnh long đong, lận đận. Đặc biệt, có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc phụ nữ có nốt ruồi Lệ Đường ngay dưới mắt trái. Có người cho rằng người phụ nữ như vậy tâm kế trùng trùng, gian ngoan xảo quyệt, có người ngược lại thấy nốt ruồi ở nơi đó khiến cho phụ nữ có vẻ đẹp yếu đuối mong manh, khiến người ta có cảm giác muốn chở che.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Tết nguyên Đán hay còn gọi là Tết ta, tết Âm lịch, tết cổ truyền hoặc chỉ đơn giản gọi là Tết. Đây là dịp lễ quan trọng nhất năm, thời gian được nghỉ dài nhất. Do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc và nền văn hóa Á Đông nên từ xa xưa, ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam không thể thiếu những phong tục như cúng Táo quân, Tất niên, mừng tuổi, xông đất, ....
Tết nguyên đán được tính theo chu kỳ vận hành của mặt trăng, nên thường muộn hơn tết Dương lịch khoảng 1 tháng (hay còn gọi là tết Tây). Nguyên nhân là do quy luật cứ 3 năm lại có một năm nhuận. Tết nguyên đán ở Việt Nam thường rơi vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2 dương lịch, và thường kéo dài trong khoảng nửa tháng từ ngày 23 tháng Chạp tới ngày 7 tháng Giêng năm sau.

Theo tiếng Hán thì chứ Tết do việc đọc lệch từ chữ Tiết mà thành, hai chữ Nguyên đán có nguồn gốc từ chữ Hán. “Nguyên” có nghĩa rằng một sử khởi đầu hay sơ khai, hoặc có thể là buổi sáng sớm. Nên thực ra phải đọc đúng là “Tiết Nguyên Đán” hay “Xuân Tiết”. Tuy nhiên, do cách tính lịch của người Trung Quốc và Việt Nam khác nhau nên có những năm, người Việt Nam đón Tết Nguyên Đán trước Trung Quốc và các nước khác 1 đến 2 ngày.
Từ thời văn minh lúa nước, do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian trong 1 năm thành 24 tiết khí khác nhau. Trong đó , thời khắc quan trọng nhất khi bắt đầu 1 chu kỳ canh tác là thời gian sau Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc thì Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Những đến từ nhà Hán thì đặt tháng tết vào tháng Dần tức tháng giêng. Từ sau đó, các triều đại đều lấy tháng Giêng là tháng tết.
Ở thời Đông Phương Sóc, ông chi rằng ngày tạo thiên lập địa có giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ 3 thêm lơn, ngày thứ 4 thêm dê, ngày thứ 5 thêm trâu, ngày thứ 6 sinh ngựa, ngày thứ 7 sinh loài người, đến ngày thứ 8 mới sinh ngũ cốc. Vì thế Tết được chọn từ ngày mồng 1 đến hết ngày mồng Bảy.
Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ chung là GMT+7 làm múi giờ chuẩn cho âm lịch.

Tết nguyên đán ở Việt Nam có ý nghĩa sâu xa và linh thiêng, vừa là tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới. Mọi người chúc tụng nhau sức khỏe, tiền bạc hạnh phúc. Đây cũng là dịp người Việt thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. Hướng về giá trị cốt lõi là cội nguồn, tình cảm gia đình, annh em hàng xóm trở thành một truyền thống tốt đẹp.
Về ý nghĩa tâm linh của ngày Tết là hoạt động thắp nén hướng, bày mâm cỗ dâng lên tổ tiên, với mong muốn tổ tiên sẽ luôn phù hộ cho những người trong gia đình sức khỏe, công việc trong năm mới luôn tốt và may mắn. Trong ngày Tết cũng không thể thiếu những phong tục ngày tết mà ông cha ta đã lưu giữ từ hàng nghìn năm nay.
Đó chính là giá trị đạo đức và nhân văn của ngày tết cổ truyền của Việt Nam. Ngoài ra, văn hóa ngày Tết Việt Nam không thể thiếu những lời chúc, chúc nhau sức khỏe, tiền tài, tuổi tác, chú làm ăn bằng năm, bằng mười năm trước.
Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Phong thủy số
: Những bài thơ chúc tết hay Những câu thơ chúc tết hay nhất Tết 2017
| ► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trong nhân tướng học, lưỡng quyền chính là gò má, bộ phận nổi cao hơn các phần thịt xung quanh. Vị trí này bao gồm cả cung Mệnh, Phúc và Điền trạch. Lưỡng quyền cho biết mức độ ham muốn về quyền lực, đồng thời thể hiện mức độ nặng nhẹ của họa, nạn và bệnh. 1. Lưỡng quyền vuông vức Đặc điểm dễ nhận thấy của tướng lưỡng quyền vuông là gò má hợp với hàm thành một khối vuông. Chủ nhân của kiểu lưỡng quyền này thuộc tuýp chủ động trong cuộc sống. Họ làm việc hăng say, dù là việc lớn hay nhỏ đều có quyền thực sự. Nếu quyền vuông, lại nở, trông có vẻ hơi nhô cao chứng tỏ thực quyền của người này càng lớn, công việc lúc nào cũng tất bật, chẳng bao giờ ngồi không một chỗ hay dựa dẫm vào người khác.
![]() |
![]() |
![]() |
| PHÒNG NGỦ |
![]() |
![]() |
| Các màu nên dùng:Các tông màu như trắng, be hay nâu đất đều là những lựa chọn không tồi để trang trí phòng ngủ của bạn. Phòng ngủ là để nghỉ ngơi, thư giãn, nếu không tuân thủ các quy tắc trong phong thủy, có thể hấp thụ các nguồn năng lượng tiêu cực mang âm khí vào giường ngủ, gây ra các tác hại về sức khỏe của bạn. Nếu màu sắc quá tối, có thể dẫn đến trầm cảm hoặc khiến tâm trạng của gia chủ suy sụp, lên xuống thất thường. Các màu không nên dùng: Với các cặp vợ chồng đã kết hôn, tránh dùng màu hồng trong phòng ngủ bởi gam màu này theo phong thủy có ảnh hưởng xấu đến tình cảm đôi lứa, dẫn đến ly hôn hoặc quan hệ ngoài luồng với người thứ ba. |
Alexandra V (theo F.B)
Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu là gì? Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Nhóm máu A, B .. Thì sao? Củ thể như thế nào các bạn cùng đọc bài viết sau để có câu trả lời một cách chính xác nhất nhé!
Nội dung
Những chàng trai nhóm máu A luôn giúp đỡ người khác, thích cho đi, biết hy sinh và có tinh thần trách nhiệm. Họ không giỏi trong việc biểu đạt những nhu cầu của bản thân. Mặc dù nhìn họ rất kiên cường, cởi mở và điềm tĩnh nhưng thực ra họ vô cùng mong muốn người khác hiểu và quan tâm tới mình.
Nếu có một cô gái thiện lương, thật lòng yêu họ xuất hiện, dùng sự vui tươi và ấm áp chiếu rọi cuộc sống của họ, khích lệ họ nói ra những nhu cầu chôn giấu ở trong lòng, khiến họ biết cách đáp ứng các nhu cầu đó thì cuộc sống của họ sẽ vui vẻ hơn rất nhiều.
Tư duy của các chàng trai thuộc nhóm máu B rất lung tung. Chẳng hạn như họ sẽ có cảm hứng bất tận với những thứ rộng lớn, không có giới hạn, nhưng cũng thường lãng phí sức lực của mình cho những thứ đó. Mặc dù họ cũng ý thức được điều này nhưng lại không thể khống chế được bản thân.
Vì thế, các chàng trai nhóm B cần một người bạn đồng hành sáng suốt có thể dẫn họ thoát khỏi màn sương mù dày đặc, có thể chỉ hướng cho họ trên đại dương mênh mông, hoặc đưa họ trở về đúng hướng khi bị chệch khỏi đường ray.

Trong tình yêu, mặc dù không nhất thiết sẽ thể hiện ra, nhưng những chàng trai thuộc nhóm máu AB có tính ỷ lại rất lớn. Bất kể ở độ tuổi nào, bên trong họ vẫn ẩn giấu một bộ mặt trẻ con và chưa hoàn toàn trưởng thành. Tư duy của họ khá nhanh nhạy, nhưng lại không được chắc chắn, thậm chí nhiều lúc còn mâu thuẫn với nhau.
Nếu có một người bạn gái chín chắn, biết quan tâm, hiểu được rằng họ cảm thấy không an toàn với cuộc sống, bảo vệ, che chở, yêu thương họ thì họ sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Mặc dù ăn ý với nhau nhưng hai bên vẫn phải cho đối phương những không gian riêng tư. Các chàng trai nhóm máu O ghét nhất là nói chuyện vòng vo, phiền phức. Với họ, nói chuyện hợp nhau là điều kiện quan trọng để bắt đầu mối quan hệ.
Nếu thấy những người khác giới nói chuyện không suy nghĩ, dù các mặt khác có hấp dẫn thế nào đi chăng nữa thì họ cũng sẽ tìm cách tháo chạy. Các chàng trai thuộc nhóm máu này khiến người khác yêu thích bởi khả năng kiểm soát và làm chủ của họ, nhưng họ lại muốn mình và người yêu giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau vun đắp tình yêu.
Xem thêm: 12 cung hoàng đạo
Vận thế của mỗi người và gia vận luôn có mối quan hệ với phong thủy trong nhà, dựa vào các dấu hiệu xảy ra mà đoán trước việc lành dữ để có cách phòng tránh thích hợp.
Cây cối hoặc cá cảnh liên tục chết Cây cối hoặc thực vật trong nhà liên tục chết, nếu chuyển sang vị trí khác thì mọi thứ đều bình thường có nghĩa là nơi đó cần phải điều chỉnh phong thủy. Tuy nhiên, nếu đem cây cối hoặc cá cảnh đến bất kỳ nơi nào trong nhà đều xuất hiện hiện tượng như vậy có nghĩa là môi trường phong thủy trong nhà không tốt, chắc chắn ảnh hưởng đến gia vận.
Thành viên gia đình liên tục làm vỡ đồ
![]() |
| Ảnh minh họa. |
![]() |
| Ảnh minh họa. |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
| Những cô gái trinh trắng chết oan trở thành thần canh giữ kho báu |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Mỗi người có một phong cách lái xe riêng và thông qua cách cầm vô lăng có thể biết bạn là người như thế nào.
|
| (Ảnh minh họa) |
Trong công việc, người tuổi Mùi mệnh Thổ dám nghĩ dám làm. Tuy nhiên, họ cần dựa trên thực lực của bản thân để có nền tảng vững chắc cho thành công, tránh những tham vọng quá sức. Một số người thường hành động theo cảm tính, thiếu sự cân nhắc thận trọng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả công việc của họ.
Người tuổi Mùi mệnh Thổ nếu được quý nhân phù trợ thì tương lai rất hiển đạt. Tuy nhiên, chỉ khi bước sang tuổi trung niên, sự nghiệp của họ mới thực sự phát triển. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Thổ thường giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của chồng.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
![]() |
![]() |
vận của chủ nhân. Tuy nhiên, để có được phòng khách có màu sắc hợp về phong thủy, đẹp về thẩm mỹ là cả một bài toán khó mà không phải gia đình nào cũng làm được.
Màu sắc phòng khách hợp với trạch mệnh
Màu sắc trong phòng khách thường được gia chủ chọn là màu tươi sáng. Khi thiết kế ngôi nhà chúng ta dựa vào hai yếu tố niên mệnh và bản mệnh. Niên mệnh là dựa vào sơ đồ Bát quái để thiết kế không gian, phương hướng, và vị trí. Tuy nhiên, để chọn màu sắc thì chúng ta lại căn cứ theo bản mệnh của từng người. Bạn nên chọn màu sắc theo bản mệnh của người giữ vai trò trụ cột trong gia đình.

Hỏa: màu đỏ. Thổ: màu vàng. Kim: màu trắng. Thủy: màu đen. Mộc: màu xanh. Theo nguyên lý Ngũ hành, trong mối quan hệ tương sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Trong mối quan hệ tương khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Dựa vào đó mà gia chủ có thể chọn những màu tương sinh cho ngôi nhà nói chung và phòng khách nói riêng.
Ví dụ, chủ nhà sinh năm 1939 là mệnh Thổ, màu chủ đạo là màu vàng đất. Và theo quy luật Ngũ hành, Hỏa sinh Thổ nên ta có thể chọn màu của Hỏa là màu đỏ. Người mệnh Kim có màu chủ đạo là màu trắng, đồng thời có thể chọn màu dưỡng cho nó là màu của Thổ là màu vàng tươi của cánh đồng lúa chín. Tương tự như vậy, gia chủ có thể chọn được màu sinh và màu dưỡng cho từng người với từng bản mệnh khác nhau. Tuy nhiên, gia chủ cần lưu ý tránh những màu khắc.
Trong quá trình thiết kế ngôi nhà, không phải ai cũng có điều kiện tham khảo ý kiến của các kiến trúc sư. Nếu lỡ chọn màu phòng khách chưa đúng theo quy luật Ngũ hành và bản mệnh thì gia chủ có thể dùng một số cách để dung hòa nó nhằm tạo ra sự hài hòa để đón vận may vào nhà. Để thay đổi tất cả màu sơn tường, nền nhà, đồ nội thất rất khó và tốn kém. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn có lựa chọn khác, bằng cách thay đổi những họa tiết trang trí nho nhỏ cho ngôi nhà. Có thể thêm những tấm thảm tại vị trí vào nhà, hay những đồ vật có màu sắc, chất liệu tương sinh cho bạn.
Ví dụ, bạn là mệnh Hỏa, màu chủ đạo là màu đỏ, màu dưỡng là màu xanh của Mộc. Nhưng nếu bạn đã lỡ không sơn màu đúng thì có thể dùng những tấm rèm hay những tấm thảm đỏ hoặc xanh. Nắm chắc nguyên lý của tự nhiên, phong thủy, Ngũ hành tương sinh và tương khắc ta sẽ đưa ra được sự phối hợp tốt nhất cho không gian, cũng để có sự áp dụng “trạch mệnh tương phối” hoàn chỉnh.
Màu sắc phòng khách hợp với hướng
Cách sử dụng và phối màu trong phòng khách mỗi nhà là khác nhau, tùy theo sở thích của chủ nhà. Khi phối màu trong phòng khách, ngoài việc phải chú ý đến mỹ quan, bạn cần lưu tâm tới bố cục căn nhà, xét về phương diện phong thủy.
Nhà nằm ở phía Tây Bắc, phòng khách có cửa hướng về phía Đông Nam. Không gian này cần sáng sủa, nghĩa là sử dụng càng nhiều màu sáng thì càng tốt. Có vậy mới đem lại lọi ích về mặt phong thủy. Nếu khoảng không gian màu tối vượt quá một nửa diện tích của gian phòng thì sẽ không có lợi cho gia chủ.
Nhà nằm ở hướng Tây, cửa phòng khách hướng về phía Đông. Độ sáng cho căn phòng chỉ nên vừa phải. Tức là khoảng không gian màu sáng không nên chiếm toàn bộ diện tích căn phòng, hoặc khi bố trí cửa sổ thì chỉ nên bố trí ở 3 mặt tường.
Nhà nằm ở hướng Đông Bắc, cửa phòng khách hướng về phía Tây Nam.
Không nên để không gian quá rộng, nghĩa là nên sử dụng nhiều màu trắng, màu nâu đất hoặc màu cà phê.
Nhà nằm ở hướng Nam, cửa phòng khách hướng về phía Bắc. Tránh để gian phòng quá trống trải; nên dùng nhiều đồ đạc để lấp các khoảng trống.
Nhà nằm ở hướng Bắc, cửa phòng khách hướng về phía Nam. Hạn chế sử dụng nhiều màu; nên thiên về gam màu lạnh.
Nhà nằm ở hướng Tây Nam, cửa phòng khách hướng về phía Đông Bắc. Trong phòng nên bài trí nhiều đồ đạc; đồ dùng trong nhà nên sử dụng chất liệu nặng; nên dùng nhiều màu vàng hay màu nâu gỗ nhưng phải tránh cho căn phòng có cảm giác chật chội.
Nhà nằm ở hướng Đông Nam, cửa phòng khách hướng về phía Tây Bắc. Thích hợp vói gam màu nhạt, tạo cảm giác không gian rộng rãi. Nên dùng nhiều màu xanh nhạt, nhiều đồ trang trí bằng hoa lá.
Nhà nằm ở hướng Đông, cửa phòng khách hướng về phía Tây. Có thể bài trí đồ đạc một cách tự do nhưng phải dùng màu vàng làm màu Sắc chủ đạo cho cả gian phòng.
![]() |
Thời trước, cô dâu quấn khăn nhiễu trên đầu, có đính mấy chiếc kim trên khăn là đủ hiểu rồi. Vì không có tài liệu thành văn, vì có những trường hợp mẹ mất sớm hoặc đám cưới xa quê vắng mẹ, nên nhiều bà mẹ thời nay (vốn là cô dâu ngày trước) không biết để truyền tiếp cho con gái.
Xuất sứ của tục này là đề phòng tai biến "Phạm phòng". "Phạm phòng"là gì? Nói thô tục là chết ngay trên bụng vợ ngay khi quan hệ vợ chồng. Ca dao tục ngữ có câu "nhất phạm phòng, nhì lòng lợn" có nghĩa là: Được ăn lòng lợn ngon miệng, dẫu chết cũng sướng.
Chàng rể qua mấy ngày đêm lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, bận rộn, vất vả, đêm tân hôn là đêm xao xuyến, rạo rực nhất, lại thêm mấy chén rượu ngà ngà say, đến một thời điểm cảm xúc quá đà, nếu người có thể chất và tâm thần suy tổn nhiều thì lúc xuất tinh, thần kinh từ trạng thái hưng phấn quá độ chuyển thành ức chế quá độ, dễ bị phạm phòng, nếu người vợ không biết xử lý kịp thời có thể người chồng chết trên bụng vợ. Hầu như không có trường hợp người phụ nữ bị phạm phòng.
Trong lúc giao hợp, cửa buồng đóng kín, thân thể loã lồ, lại thêm tâm lý e thẹn xấu hổ, sợ hãi, nếu người vợ thả người chồng ra, để dương vật thoát ra ngoài, mất sự điều hoà khí âm khí dương thì khó lòng cứu chữa. Lúc đó, sẵn có cái trâm cài trên đầu hoặc mấy chiếc kim đính ở vành khăn, người đàn bà một tay vẫn ôm riết lấy phía dưới lưng chồng một tay lấy chiếc trâm hoặc kim chích vào phía dưới hố xương chậu, phía trên hậu môn, kích thích đến lúc nào người chồng tỉnh lại. Người con trai nào có lông ở đít thì giật lông. Nếu chưa tỉnh thì tiếp tục châm kim, lấy mùi xoa trắng hoặc lấy giấy bản chấm thử, hễ thấy có máu chảy là chữa được.
Trong phòng đôi tân hôn nên để ngọn đèn con nhằm tạo thêm khoái cảm, mặt khác cũng vì mục đích đó nữa, nhưng vẫn chú ý phải ôm riết chồng trên bụng. Chúng tôi không đi sâu vào lĩnh vực y dược, song có phương thuốc được lưu truyền trong dân gian: Cứt chuột và lá hẹ giã nhỏ, người đàn bà ngậm rồi trúm vào miệng chồng, vì lúc đó người chồng đang nằm sấp rất khó đổ thuốc.
Trường hợp nhẹ, người đàn ông vẫn còn tỉnh nhưng cơ thể liệt nhược sau khi giao hợp, gọi là phòng thất, phải uống thuốc bổ dương một thời gian sau mới hồi phục sức khoẻ.Còn tại sao lại 7 chiếc kim: Theo quan niệm cổ truyền " Nam thất nữ cửu" (đàn ông 7 vía, đàn bà 9 vía). Vì để phòng xa, dùng cho con rể nên bà mẹ vợ chỉ đưa 7 chiếc kim - chứ không phải dùng cho con gái vì con gái không bị phạm phòng. Trong hàng vạn trường hợp mới có một trường hợp là phạm phòng, nhưng các bạn trẻ cũng nên biết trước để khi ngộ sự biết chủ động xử lý. Điều cần thiết là phải cùng nhau hiểu biết, thông cảm mà phòng ngừa, nhất là trong tuần trăng mật hoặc vợ chồng cách xa nhau lâu ngày về gặp nhau. Các bạn gái vì e thẹn xấu hổ nhất thời mà mang lại mối ân hận suốt đời.
Giới thiệu thêm phương thuật chữa tai biến phạm phòng: Khi nam nữ giao hợp với nhau, khoái cảm lên đến cực độ, tinh khí xuất quá nhiều, có thể chết (chết trên bụng vợ). Khi xảy ra như thế, nhất thiết không được đẩy rời nhau ra (dù là xấu hổ cũng phải để nguyên như tư thế đang giao hợp). Nếu đàn ông xuất tinh quá nhiều bị thoát, thì người đàn bà phải chúm miệng thổi hơi nóng của mình vào miệng chồng, nếu đàn bà bị thoát hết khí, thì đàn ông cũng làm như vậy, để tống hơi nóng của mình vào miệng vợ.
Tống hơi nóng như vậy mấy chục lần, dương khí sẽ dần trở lại. Trong khoảnh khắc cấp bách giành giật giữa cái sống và cái chết như vậy, để bảo vệ điều hoà hai khí âm dương, chẳng những không được hoảng hốt rời khỏi giường, mà không để cho dương vật thoát ra khỏi âm hộ, nên phải ôm chặt lấy phần nửa mình phía dưới, Người đã ngất lịm rồi không biết gì nữa, hoàn toàn phải do người sống chủ động ôm riết lấy, để cho khí không tuyệt hẳn, phải tống khí liên tục cho đến khi sinh khí của người kia tỉnh lại mới thôi. Cách tống khí: Phải chúm miệng lại, đưa được khí từ hạ đan điền(1) lên, truyền qua miệng tống khí vào đến yết hầu người kia theo nhịp thở.
Cách này cả trai và gái đều nên biết. Sau khi dương khí đã hồi phục phải dùng bài "Nhân sâm phụ tử thang"(2). Nếu nhà nghèo không có nhân sâm, thì cấp tốc dùng 4 lạng hoàng kỳ, 2 lạng đương quy, 5 đồng cân phụ tử, sắc uống cũng có thể cứu sống được. Trường hợp người đàn ông xuất tinh quá nhiều khí hết, mà đã nhỡ đẩy ra rồi, thì phải cấp tốc vực ngồi dậy ôm choàng lấy mà tống khí vào miệng, nếu khí qua miệng khó vào thì dùng ống thông hơi hai đầu đút vào miệng mà thổi, miễn sao hơi vào được qua cuống họng. Có thể mượn người đàn bà, con gái mạnh khoẻ khác hà hơi, không nhất thiết phải là người vợ hoặc người đàn bà vừa giao hợp.
Đó là cách lấy người để chữa người, khả năng sắp chết vẫn cứu sống được.
(1) Hạ đan điền: vùng bụng dưới rốn.
(2) Nhân sâm phụ tử nhang: Phụ tử: 1 đồng cân. Phục linh: 7,5 phân. Nhân sâm: 1 đồng cân. Bạch truật: 1 đồng cân. Bạch thược: 1,5 đồng cân.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Tuy nhiên, trong 9 sao đó có cả sao tốt và sao xấu. Năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật… người ta gọi là vận hạn. Để có thể phòng tránh hay giảm nhẹ vận hạn, người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào ngày đầu năm (rằm tháng Giêng) là tốt nhất.
Các sao chiếu mệnh gồm: sao Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu, La Hầu và Kế Đô. Tuy nhiên, cùng độ tuổi nam và nữ lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Ví dụ ở tuổi 37 nam là sao La Hầu, nữ là sao Kế Đô. Tuổi 47 nam là sao Thổ Tú, nữ là sao Vân Hán… và như vậy cứ sau 9 năm, sao đó lại chiếu vào mệnh của mình.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó dân gian cũng hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày (Âm lịch) như sau:
Sao La Hầu: ngày mùng 8 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Kế Đô: ngày 18 hàng tháng
Sao Thổ Tú: ngày 19 hàng tháng
Sao Thủy Diệu: ngày 21 hàng tháng
Sao Mộc Đức: ngày 25 hàng tháng
Sao Thái Âm: ngày 26 hàng tháng
Sao Thái Dương: ngày 27 hàng tháng
Sao Vân Hán: ngày 29 hàng tháng
Dân gian cũng tin rằng, làm lễ dâng sao giải hạn vào đầu năm và vào ngày rằm tháng Giêng là tốt nhất vì mọi tai ách, mọi sự xui xẻo ta phải giải trừ nó ngay từ đầu năm thì suốt cả năm con người đều có thể yên tâm, an lành.
Các sao xấu xuất hiện trong tháng vào các ngày khác nhau lại có hình khác nhau nên việc làm lễ phải chọn ngày, dùng số lượng nến, lập bài vị và màu sắc phù hợp, lại phải thiết kế ban thờ cho đúng hướng.
(Theo Nghi lễ thờ cúng của người Việt)
Người khuôn mặt dài là người có khuôn mặt dài như kiểu hình chữ nhật. Hình dáng khuôn mặt này gần giống với khuôn mặt vuông ngoại trừ việc có xương gò má cao, trán cao, đường quai hàm hẹp.
Những người có tướng mặt như mặt dài thường có tài ngoại giao khéo léo, giao thiệp rộng, chuẩn mực và đối nhân xử thế rất tốt. Họ có thể tính toán được lòng người và biết khi nào hành động thế nào, khi nào với ai, và nên làm thế nào trong trường hợp giao tiếp nào?
Nói chung, họ rất nhạy về mặt giao tiếp và đạt được

Không giống như người mặt vuông, những người có khuôn mặt dài theo tướng học thường không dựa vào sức mạnh của mình mà dựa vào sự khôn khéo và tài thuyết phục để chiến thắng trong công việc và trong đời sống. Họ tuyệt đối không phải kiểu người “thùng rỗng kêu to” mà thực sự là những nhà ngoại giao giỏi.
Mẫu người mặt dài thường thích hợp cho các công việc liên quan đến giao tiếp, bán hàng hoặc làm trung gian hòa giải,…
Những người nổi tiếng có khuôn mặt dài như Liv Tyler, Mila Jovovich hay Gisele Bundchen,….
| ► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
![]() |
Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên trên các diễn đàn lý số
Sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn thường viết "tại đẩu chủ về... tại số chủ về..."
Ví dụ như sao Vũ khúc, sách viết: "Vũ khúc thuộc Kim, tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài"
Như vậy, Gloria nên tìm hiểu hàm nghĩa của:
- Tên sách có chữ Phi tinh được hiểu như thế nào? Thứ tự phối Phi tinh và Chính tinh là có khác nhau?
- Tại Đẩu có nghĩa là gì? Tại Số có nghĩa là gì?
Phải chăng câu "tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài" có thể được hiểu là "tại Thiên chủ về Thọ, tại Địa chủ về Tài"
Khi xét tới Thiên bàn và Địa bàn của một lá số, thì có thể vẫn xảy ra trường hợp, Vũ khúc tại Địa bàn cư cung Dần, ngộ Liêm Trinh tại Thiên bàn cư cung Dần ==> Vũ Khúc và Liêm Trinh đều gặp nhau tại cung Dần
===================
Xác định Địa bàn đối với lá số có giờ sinh là Tý - Ngọ thì như thế nào? (Thân Mệnh đồng cung)
Theo tìm hiểu của Tôi, hiện có hai trường phái dùng cách thức khác nhau:
- Trường phái thứ nhất lấy cung Phu thê để lập Cục
- Trường phái thứ hai thì lấy cung Phúc đức để lập Cục
Thực tế kiểm nghiệm của cá nhân Tôi, theo cách thức như sau:
- Dương nam Âm nữ thì lấy cung Phúc đức để lập Cục,
- Âm nam Dương nữ thì lấy cung Phu thê để lập Cục
Gloria sinh giờ Tý, số có Thân Mệnh đồng cung, nên kiểm thêm độ tin cậy của thông tin như thế nào, khi lập Địa bàn cho lá số của bản thân. (trường hợp năm tháng ngày giờ sinh của Gloria có thể gọi là đặc biệt)
....
Sách Phi tinh viết:
Tử vi thuộc thổ, là tôn quân ở trên trời, chủ về nắm giữ những điều quan trọng của tạo hóa. Cai quản ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Mệnh con người lấy Tử vi để định số, an các vòng sao.
Tử vi thủ Mệnh là trung đài, trước một vị là thượng đài, sau một vị là hạ đài, cần phải xem cả tam đài có miếu vượng hay không?
Sách viết như vậy, ta nên hiểu "Tam đài" như thế nào?
==============
Thứ tự Phi tinh phối Chính diệu: (theo sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn)
NAM ĐẨU
- Thiên phủ là sao thứ nhất
- Thiên lương là sao thứ hai
- Thiên cơ là sao thứ ba
- Thiên đồng là sao thứ tư
- Thiên tướng là sao thứ năm
- Thất sát là sao thứ sáu
BẮC ĐẨU
- Tham lang là sao thứ nhất
- Cự môn là sao thứ hai
- Lộc tồn là sao thứ ba
- Vũ khúc là sao thứ tư
- Liêm trinh là sao thứ năm
- Vũ khúc là sao thứ sáu
- Phá quân là sao thứ bảy
Không thấy nói gì đến thứ tự của sao Tử vi khi phối với Phi tinh, vì sao lại như vậy? con số 13 chính diệu phối Phi tinh được hiểu như thế nào?
....
Gloria, on 16/10/2012 - 14:05, said:
Thưa cụ, có phải cháu hiểu, đó là xem vị trí xuất thân, biến động của gia đình anh em đương sự, có đúng không ạ?
Nên xét tới đối cung và xung cung, hàm nghĩa của Sao có khác nhau,
Ví như Mệnh cư Hợi, thì "đối cung" là Tham lang đối cung với Thiên tướng + Liêm trinh, còn "xung cung" là Cự môn xung cung với Thái dương (Cục định sinh Nhật nghịch bố tử, đối cung Thiên phủ thuận lưu hành. Vi hữu Dần Thân đồng nhất vị, kỳ dư Sửu Mão hỗ an tinh)
....
Gloria, on 16/10/2012 - 19:09, said:
Cháu cần có thêm chút thời gian để suy nghĩ về cội nguồn của Đẩu và Số
Điều này là cần thiết, Tôi nghĩ nên như vậy!
Tiêu chí topic nói "phi tinh" và "tứ hóa" (Mạn đàm về TV ĐS phi tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm), mối quan hệ giữa Cửu cung phi tinh và Tử vi, ta nên khảo cứu sau.
Cổ nhân nói "Vô vận bất năng tự tạo", con người ta sinh ra có vận, vận có thuận nghịch, khởi điểm tính thuận nghịch được xét bắt đầu từ cung Mệnh, nên từ cung Mệnh để xét tới đối cung hay để xét tới xung cung. Giả như Mệnh lập tại Hợi, là cung Tứ sinh, cung Phụ mẫu đối cung Huynh đệ, ví dụ ở đây có thể xét tới tình trạng dưỡng dục (tuổi Tân thì Hợi lập Mộc cục, dưỡng cư Tuất, Mộc dục cư Tý = dưỡng dục - dục của Mộc sẽ khác với Thổ dục, Kim dục, Thủy dục, Hỏa dục)
Tỵ Hợi được cho là Thiên môn và Địa môn, khi Cự môn nhập Thiên môn (cung Hợi) được cho là chỗ cung vượng (theo Thiệu Khang Tiết), tuổi Tân nên Thanh long động tại cung Hợi, được cho là Mệnh hợp cách thăng quan phát tài. Năm Quý thì Cự môn ngộ Đà la, là năm mà Cự môn hóa thành "ám" được gọi là "cửa đóng" (kiểm thêm ngày Quý?), lại thêm năm Quý xét tới xung cung Nô và Huynh chứa Phục bình + Tướng quân, được gọi là "phá đối hạ cục"... khi ta trọng năm Quý cưỡng không hóa "ám" cho Cự, vì Cự hóa Quyền năm Quý, tới năm Giáp lại gặp ngay phải cách "Mão đầu đới tiễn", thì sẽ xảy ra tình trạng được cho là phá cục, ... đại khái như vậy, ta nên tập trung vào mệnh bàn 12 cung trước, đối với Cửu cung phi tinh phối Tử vi nên khảo cứu sau (vì đó là mối quan hệ giữa Tử vi liên quan tới Kỳ môn và Phong thủy)
Giloria là cách Thân Mệnh đồng cung, còn Ngô Bảo Châu thì Thân cư Phúc đức, tuổi Nhâm có Lộc tồn ngộ Cự môn, thường biến cách nhân sư, nhưng Gloria được cách Trường sinh ngộ Thanh long còn Ngô Bảo Châu thì không được như vậy. (Theo "Tử vi Đẩu số - Thiệu Khang Tiết" thì Trường sinh ngộ Thanh long gọi là cách đặc biệt)
....
Gloria, on 20/10/2012 - 19:05, said:
Câu hỏi cho mọi người: Lý thuyết trục trong Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh và trục trong Đông A có trùng nhau hay không?
Có liên hệ gì giữa các trục này và ba trục thiên địa nhân sát trong tử vi nam phái?
Gloria có tự đặt ra câu hỏi: "Tại sao Quân tử luôn luôn được ở trong, Tiểu nhân luôn phải ở ngoài không? Phải có thời của Tiểu nhân đoạt ngôi, mà Quân tử bị thất thế phải đi ra ngoài!"
Nguyên tắc "Thiên chính Địa thường" định lệ = ghi năm bắt đầu từ Tý, ghi tháng bắt đầu từ Dần
Để trả lời câu hỏi mà Gloria, thì có thể thiết lập lá số Tử vi theo nguyên tắc ngược lại, có nghĩa là ghi năm bắt đầu từ Ngọ, ghi tháng bắt đầu từ Thân.
Định lệ Kê - Mã - Trư - Long - Ngưu - Hổ, nay đổi lại thành Thố - Thử - Xà - Cẩu - Dương - Hầu (Mão - Tý - Tị - Tuất - Mùi - Thân)
Định cục theo chiều ngược kim đồng hồ, tất cả vẫn giữ nguyên, ví dụ tuổi Tân mệnh cư Hợi, thì Ngọ Mùi là Thổ cục, Tị Thìn là Tam cục, Dần Mão là Nhị cục, Tý Sửu là Kim cục, Tuất Hợi là Hỏa cục... sau đó an sao Tử vi, Mệnh cư Hợi thuộc Hỏa cục, ngày 23 thì Tử vi cư Thìn, có Thiên đồng nhập cung Mệnh,...
Giả như ta nói, Bắc bán cầu là Cự môn, Nam bán cầu là Thiên đồng có được không? Trục Tị Hợi có phải là trục phân âm dương không? Nếu không phải thì gọi trục Tị Hợi là trục gì?...
Tiêu chí của topic là Mạn đàm... nên tôi đề xuất thêm một hướng, để truy tìm câu trả lời
Gloria có thể làm thử xem sao, rồi chúng ta đưa ra câu trả lời mà Gloria đã hỏi
....
Gloria, on 22/10/2012 - 04:17, said:
Cháu đang sợ rằng cách cháu tính Cục là sai, vì nếu mệnh an tại Dần và Mão thì sẽ không ra kết quả khớp với cụ. Có thể là có gõ nhầm.
Đúng là Tôi gõ sai, (khởi từ Mùi 5, Ngọ 5, Tị 3, Thìn 3, Mão 2, Dần 2, Sửu 4 Tý 4, Hợi 6, Tuất 6, Dậu 3 Thân 3).
Người ở Bắc bán cầu và người ở Nam bán cầu, cùng năm tháng ngày giờ, cùng giới tính, chắc là phải khác nhau từ lập số cho đến luận giải số, nhận định này Tôi cũng sai,.... thôi, cho qua và không bàn tới nội dung này nữa.
Nhưng, Tôi vẫn nghĩ nhiều tới nguyên tắc: Trời có âm dương - Đất có cương nhu - Người có nhân nghĩa. Ví dụ như nói về Mệnh thuộc Kim
- Trời = Giáp Tý Ất Sửu >< Giáp Ngọ Ất Mùi = Một âm một dương, một thủy một thổ, thủy thổ tương khắc
- Đất = Nhâm Dần Quý Mão >< Nhâm Thân Quý Dậu = Một cương một nhu, dần mão thuộc mộc, thân dậu thuộc kim, Kim Mộc tương khắc
- Người = Canh Thìn Tân Tị >< Canh Tuất Tân Hợi = thìn tị trong bát quái ứng với Tốn, tuất hợi ứng với Càn, hình thể và mầu sắc của cả 2 có sự khác nhau.
Lại thêm dụ ý:
Thiên địa khai minh
Thủy Thân Mộc Hợi
Sơn Trạch thông khí
Mộc Dần Kim Dậu
....
Gloria, on 22/10/2012 - 14:38, said:
Kính thưa cụ.
Cho cháu hỏi, cụ có quan tâm tới lý thuyết Phiêu Phiêu, còn gọi là Kỵ Truy Kỵ, Lộc Truy Kỵ, chuyển Kỵ không ạ?
Cháu đang cùng một số cộng sự work một chút về Phiêu Phiêu, nhưng vẫn thực sự chưa nắm được tinh túy của nó. Cụ có đánh giá gì về lý thuyết này không ạ?
Tôi muốn biết trước thông tin về Lộc
- Thiên lộc năm Nhâm 2012 nhập Mệnh
- Địa lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Đinh Thái âm hóa Lộc, ứng cung Thê cư Dậu, Địa lộc can Đinh tại Ách
- Nhân lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Bính Thiên đồng hóa Lộc, ứng cung Quan cư Mão, Nhân lộc can Bính tại Di
Trong tam Lộc của thiên - địa - nhân cho tới thời điểm này đã ứng chưa? Nếu chưa ứng, thì là Thiên lộc Nhâm chưa ứng? hay Địa lộc Đinh chưa ứng? hay Nhân lộc Bính chưa ứng?
Tôi hỏi như vậy là muốn kiểm lại công thức này, trước khi chúng ta bước sang lĩnh vực thuyết Phiêu Phiêu,
Nếu Gloria thấy phiền về thông tin này thì thôi
....
Nam Đẩu hội tụ với Đế thiên tại phương Khôn, được gọi là "Đới Thiên phúc Địa", người sinh ra vào đêm, cần xác định rõ phương vị của mặt Trăng mọc, nay mặt Trăng ở nơi hữu triền, được gọi là "hướng minh". Gọi là "hướng minh", có nghĩa là ở nơi sáng vẫn hướng tới nơi chỗ sáng hơn, cũng như ở nơi tối mà hướng tới nơi sáng vậy, chẳng thể ở nơi sáng mà nhìn vào nơi u tối,...
Mệnh được định cách "Đới Thiên Phúc Địa", cho nên khi điều kiện cho phép, nên quan tâm tới Địa mệnh!
Lại nói:
Người Sinh sau Hạ chí tới trước Đông chí, mặt Trời được tính bắt đầu ở 1 độ chòm sao Tỉnh, còn đối với người sinh sau Đông chi cho tới trước Hạ chí, mặt Trời được tính ở 6 độ chòm sao Cơ,...
Vậy, hỏi rằng, Tại sao "Xuất Dần nhập Thân" thì được gọi là Quân tử thời đang thịnh trị? Xuất Thái nhập Bĩ sao?
Nay,
Gặp người ở thời "Thủ vỹ hoành thiên" (trục Thìn Tuất), Mệnh cư Hợi được định cách "Đới thiên Phúc địa",... và như vậy cung Thân (mệnh) được xác định theo phương vị của Địa hộ,... Mệnh cư Hợi, nơi giao giới âm dương, có thể nên bắt đầu từ "Xuất Khôn nhập Càn" vậy!
==========
Bài tập: nên tìm tư liệu đọc trước, tìm hiểu về chữ "Bích" khi nói tới "Nguyệt bích", đó là mối quan hệ giữa 12 tháng với sao Bích, được gọi là Nguyệt Bích, cung Hợi nằm ở trên Thiên môn, định lệ hàm chứa hai tú: Thất và Bích
....
Mr.Anh, on 23/10/2012 - 09:51, said:
Thưa cụ, tính Địa Và Nhân có phải tính theo ngũ hổ độn: Bính - Tân (tuổi Tân), Đinh Nhâm (Nhâm), Bính lộc tại Di, Đinh Lộc tại Ách?
Mong cụ chỉ dạy.
Cảm ơn cụ
- Cách đọc sách Thứ nhất nhận thấy: Trong sách "Tử vi Đẩu số", tập 1-2-3, 03 tập đầu này do Bắc phái trấn thủ, tập 4-5-6-7 do Nam phái trấn thủ, tại 03 tập đầu quyển 2 có nói tới phép "tam tam", có nghĩa là căn cứ vào ngày sinh, phối hợp với Cục số, kết hợp với Hóa Lộc "gốc" của Thiên mệnh, để tính Địa lộc.
- Cách đọc sách thứ hai nhận thấy: Trong sách Quả Lão tinh tông - Quyển thượng, có trình bày về nguyên tắc tính Thiên nguyên lộc, Địa nguyên lộc, Nhân nguyên lộc
Cả hai cách thức này, khi trải qua thực nghiệm với một số người sống gần 12 ~ 15 năm, lao động ở môi trường nghề nghiệp khác nhau,... đúc kết thống kê lại, để làm rõ mối quan hệ của Thiên mệnh Hóa Lộc "gốc" với cung Thân (mệnh), xác định Địa lộc một cách chính xác.
Khi Tôi hỏi Gloria, là để kiểm lại cả hai cách thức mà sách đã viết, là đúc kết cá nhân, không có giá trị phổ biến.
Mr.Anh nên theo những gì sách Tử vi đã được phổ cập sử dụng trong nhiều năm qua, khi nào sách biên dịch in ra phổ biến về Địa lộc và Nhân lộc, thì chiêm nghiêm sau, nên như vậy.
....
@ Gloria:
Nguyên tắc tính thiên can cho Tiểu hạn Gloria đã biết cách tính chưa?
- Đại Hạn khởi đầu là Kỷ Hợi
- Tiểu hạn khởi đầu là Quý Sửu
- Thái tuế là Tân Dậu
....
Năm 1981 - Tân Dậu (xác định Địa thường chính nguyệt - cách thứ nhất)
- Tháng Tám - Dậu = hào Thượng quẻ Ly + hào Sơ quẻ Đoài
- Tháng Chín - Tuất = hào Nhị quẻ Đoài + hào Tam quẻ Đoài
- Tháng Mười - Hợi = hào Tứ quẻ Đoài + hào Ngũ quẻ Đoài
===============
- Ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch năm Tân Dậu (28/10/1981) => hào Thượng quẻ Khôn
...,...,...,
- Ngày 23 tháng 10 âm lịch (19/11 DL) => hào Tứ quẻ Phệ hạp - hào Tứ nạp can Kỷ
- Năm Tân, can Kỷ nhập cung Mệnh - Địa mệnh đắc chính.
....
Một người có Mệnh cư Ngọ, thiên can nhập cung Mệnh là can Canh, đương số tuổi Sửu nên thiên can Tiểu hạn là can Ất. Khi thiên can của Đại hạn và Tiểu hạn Ất Canh tương hợp, sách viết: "Đại vô bất chu, Tiểu vô bất cụ, Ngũ tinh tòng Nhật lãnh tụ chi thần cách"
Khi thiên can của Đại hạn và thiên can của Tiểu hạn tương hợp, Cổ nhân cho rằng cũng là một trong những căn cứ để xếp vào loại Mệnh tốt (đại quý)
Đây là một ví dụ, năm 1995 đương số đã được gọi bằng "Ông" mà không phải gọi là "thằng" (cấp Tá), đó là "ông Tướng" (Thiếu tướng), 17/11/1949 DL, 8h00
....
saobienden:
Em thấy anh Gloria quan tâm nhiều đến Thất chính Tứ dư, em xin tài liệu này từ chú Công là Phó khoa Hồi sức cấp cứu - BvTW - 108 (học trò Cụ), anh đọc xem có giúp được gì không anh nhé
- Giáp Kỷ tác Hỏa
- Tứ sinh = Bính Dần - Ất Tị - Bính Thân - Ất Hợi => Bính + Ất
- Tứ vượng = Mậu Tý - Đinh Mão - Mậu Ngọ - Đinh Dậu => Mậu + Đinh
- Tứ mộ = Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Kỷ Mùi - Giáp Tuất => Giáp + Kỷ
- Ất Canh tác Kim
- Tứ sinh = Nhâm Dần - Tân Tị - Nhâm Thân - Tân Hợi => Nhâm + Tân
- Tứ vượng = Giáp Tý - Giáp Ngọ - Quý Mão - Quý Dậu => Giáp + Quý
- Tứ mộ = Ất Sửu - Canh Thìn - Ất Mùi - Canh Tuất => Ất + Canh
- Bính Tân tác Thổ
- Tứ sinh = Mậu Dần - Đinh Tị - Mậu Thân - Đinh Hợi => Mậu + Đinh
- Tứ vượng = Canh Tý - Kỷ Mão - Canh Ngọ - Kỷ Dậu => Canh + Kỷ
- Tứ mộ = Tân Sửu - Bính Thìn - Tân Mùi - Bính Tuất = Tân + Bính
- Đinh Nhâm tác Thủy
- Tứ sinh = Giáp Dần - Quý Tị - Giáp Thân - Quý Hợi => Giáp + Quý
- Tứ vượng = Bính Tý - Ất Mão - Bính Ngọ - Ất Dậu => Bính + Ất
- Tứ mộ = Đinh Sửu - Nhâm Thìn - Đinh Mùi - Nhâm Tuất =. Đinh + Nhâm
- Mậu Quý tác Mộc
- Tứ sinh = Canh Dần - Kỷ Tị - Canh Thân - Kỷ Hợi => Canh + Kỷ
- Tứ vượng = Nhâm Tý - Tân Mão - Nhâm Ngọ - Tân Dậu => Nhâm + Tân
- Tứ mộ = Quý Sửu - Mậu Thìn - Quý Sửu - Mậu Tuất => Quý + Mậu
....
Khi phán đoán mệnh người,
Trước hết xem phát truyền.
Khí vượng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu Quan
Khí tướng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu tài
Khí hưu khi phát dụng,
Thường bệnh tật liên miên.
Khí tù khi phát dụng
Bệnh tật chẳng bỏ qua.
Vương tướng khi phát dụng,
Sự việc thường ứng nghiệm
Một truyền hưu tử tới
Việc mờ mịt chẳng thông
Cục ý nghĩa tiến lùi
Khí đặc thù vượng tuyệt
Suy mộ coi như thoái
Thai sinh tiến chẳng lo
Thoái khí việc càng hung
Tiến khí an càng an
Nguồn: Cụ giảng về Ngân Thăng thuật
(Nguồn: sưu tầm)
lethanhnhi, on 07/09/2012 - 06:37, said:
SAO ĐỂ BIẾT ĐẦU BẠN MỌC SỪNG:
- Mệnh Cự môn thìn tuất, nam mệnh, chỉ cần vợ kiếm tiền, bất kể là tiền gì, mọc sừng cũng........không sao
- vũ khúc thất sát lộc tồn tả hữu cư phu thê
- Phu thê cung hóa kị nhập tử tức cung
- Phu thê hóa kị nhập quan cung
- phu thê tử phá sửu mùi, cả vợ chồng đều thích đi ăn vụng
- điền kị nhập bệnh
Ví dụ câu:
+ Phu thê hóa kị nhập quan cung
- Lá số lưu theo can Năm, thấy cung Phu thê gặp can Đinh, mà can Đinh có Cự Môn ngộ hóa Kị,
- Sau đó nhìn tới cung Quan thấy có sao Cự Môn cư Quan
- Phái Nhất Diệp Tri Thu cho rằng: can cung Phu thê hóa Kị nhập cung Quan, và đưa ra nhận định cho rằng: tình cảm vợ chồng sao nhãng, cả vợ và chồng đều thích đi ăn vụng
Trường phái này công bố nguyên tắc xem về Cung rất đáng quan tâm
...
@ Lethanhnhi: Khi tìm hiểu về trường phái Nhất Diệp Tri Thu, thì LethanhNhi lưu ý:
- Nam đẩu được cho là: chủ về hướng nội, chủ nhu - Ngoại nhu Nội cương.
- Bắc đẩu được cho là: chủ về hướng ngoại, chủ cương - Ngoại cương Nội nhu
Hàm nghĩa tinh yếu này, quyết định chi phối nguyên tắc lập tượng ==> lấy cơ sở của nguyên tắc này làm phương pháp luận xem xét sự vượng nhược của Cung, và xác định những Cung nào bị Sát tinh xung phá để đưa ra lời đoán định.
Có thể xem đây là Nguyên tắc thứ nhất của trường phái Nhất Diệp Tri Thu vậy!
...
lethanhnhi, on 08/09/2012 - 10:29, said:
em nhận ra người quen rồi, em đang dùng quẻ ![]()
@ LeThanhNhi:
Về quẻ này, thì Trung Châu phái và Tri Thu phái có điểm giống nhau và có điểm khác nhau khi lập thuyết cho Môn phái
- Giống nhau là hai Môn phái đều phối Tử vi với can Kỷ và Thiên phủ với can Mậu
- Khác nhau đó là, Trung Châu phái thì phối can Nhâm với Thiên Đồng, Tri Thu phái thì phối can Nhâm với Thiên tướng
Khi nào LeThanhNhi hứng thú đi sâu nghiên cứu thêm, để làm chủ bản thân và tự giải hạn cho mình, thì nên lưu ý!
...
Trích Lời tựa sách Tử Vi Đẩu số - Thuật Đăng Hạ, tập 2 <đã xuất bản ở Việt Nam - nxb Hồng Đức>
".... Vì vậy, khi bậc tiên sư truyền lại cho tác giả có nhắc nhở; " Nhà ngươi về sau thay người đoán mệnh, một là tiền công không được lấy cao (tác giả đoán mệnh cho người đã 5 năm nay mà chỉ lấy có 500 đồng, từ ngày 1 tháng 4 năm Dân Quốc 74 mới thu lên 600 đồng, mà những người đoán mệnh khác đều thu tới 1000 đến 2000 đồng). Hai là dặn dò người xem hàng năm nên đến xem lại lưu niên, để kiểm chứng sự việc dự đoán lần trước có chính xác hay không". Nỗi khổ tâm của tiên sư khiến tác giả vô cùng cảm phục!
Thuật Đăng hạ trình bày nhiều luận điểm mà các thư tịch khác không dễ gì tìm thấy, chẳng hạn như:
1. Người có sao Thái Dương và Thái Âm ở cung Thiên Di thì nên phát triển ở các phương hướng Đông, Bắc, Nam, bất lợi ở hướng Tây..
2. Người có sao Văn Xương ở cung Ngọ thì kỵ đi về hướng Nam.
3. Ngoài ra còn có màu sắc y phục (nhưng điều này quá phức tạp, lại không chuẩn xác)
4. Đi sâu vào phân tích tính cách, chẳng hạn như:
- Người có sao Thiên Hỷ tọa mệnh rất đáng yêu, được mọi người yêu thương.
- Say mê một số sở thích như câu cá, đánh cờ, uống rượu, âm nhạc, thích mua sắm quần áo...
Thuật đăng hạ nhấn mạnh âm đức. Nếu chúng ta đoán mệnh không chuẩn là vì các nguyên nhân sau:
1. Bát tự giờ sinh không đúng.
2. Ông bà cha mẹ, bản thân người đó có làm những việc tổn tới âm đức hay không? Cho nên khuyên chúng ta nên làm nên làm nhiều việc thiện, để phúc ấm lại cho con cháu.
3. Cũng nhấn mạnh các vấn đề như quỷ, luân hồi, báo ứng,...., cho nên nếu bạn không tin có quỷ thần thì không nên tìm hiểu thuật số.
4. Việc tiên cơ khó đoán.
Thuật Tử vi Đẩu số trong cổ thư không những khó đọc mà ý nghĩa khó hiểu, phải dựa vào sự kiểm chứng của chúng ta để đạt được sự tham ngộ.
Tham ngộ là tự mình nghiên cứu tham khảo từ nhiều nơi rồi ngộ được những điều uyên áo, huyền diệu trong đó.
Cuộc đời tác giả cảm thấy hổ thẹn vì không có cống hiến gì cho quốc gia xã tắc, nay giữa đêm khuya, khơi bấc đèn, mài mực chấp bút, tỏ bày tất cả để mọi người cùng nghiên cứu tham khảo, hy vọng giúp mọi người " phao chuyên dẫn ngọc", cùng mọi người tranh luận, đạt được những tri kiến, phần là mong mỏi các bậc cao nhân thạc đức điểm chỉ những hạn chế của bản thân.
CUỐI XUÂN, NĂM ẤT SỬU
PHAN TỬ NGƯ KÍNH BÚT!
Chủ đề An Khoa muốn bàn đến "ưu - nhược" của chính diệu, đây là vấn đề phải chăng, luôn được điều chỉnh theo "thời" đối với xã hội học
Tôi vẫn chưa bước ra khỏi tầm ảnh hưởng tư tưởng của Đạo giáo trong học thuyết của Tử vi, cho nên dụ ý mà Tôi muốn nói tới, đó là mối quan hệ giữa Thiên bàn và Địa bàn, khi chúng ta xem xét được cả Thiên (bàn) và Địa (bàn), thì có thể Ta không dùng khái niệm "ưu - nhược" để miêu tả, ví dụ như Ta nói:
- Khi Thiên bàn sinh trợ cho Địa bàn, thì được gọi là "Đạo khí", có nghĩa là đương số thường hành động mang Phúc của mình đem cho người khác, ám chỉ sự giúp đỡ là bổn phận.
- Khi Địa bàn sinh trợ cho Thiên bàn, thì gọi là "trợ khí", có nghĩa là đương số tự hưởng lấy Phúc phận của mình
- Khi Thiên bàn khắc Địa bàn thì gọi là "thuận", trên khắc dưới, thì đương số bẩm khí có thiên uy, có thể tự biết phải làm như thế nào để lãnh đạo người khác
- Khi mà Địa bàn khắc Thiên bàn thì gọi là "nghịch", dưới khắc trên, thì phần nhiều cuộc đời đương số thường trì trệ, khó để trở nên hiển quý, khi ở vào nơi Tử Tuyệt thì càng tồi tệ, ở vào nơi Sinh Vương mà có đủ tài lực để phát, thì cũng không thể nhanh
An Khoa tham khảo thêm một hướng nhìn cho vui
...
Khi đêm đến, bằng mắt thường, nhìn lên bầu trời, có tới ngàn vạn ngôi Sao, cái mà hướng Ta tập trung nhìn tới, đó là những ngôi Sao sáng nhất, nổi bật sáng tỏ đối với những sao ở xung quanh. Đây cũng có thể là một cách suy nghiệm.
...
AnKhoa, on 22/10/2012 - 17:05, said:
Thưa cụ, đây có thể là nỗ lực của ngành tâm lý học tích cực mà nhiều học giả phương Tây đang gắng sức tìm hiểu. Nhưng trải qua một thời gian nghiên cứu, rồi đi vào nghiên cứu Tử Vi, AnKhoa lại thấy rằng:
Để nhìn được bằng mắt thường, để có thể hướng cái Ta tập trung nhìn tới thật khó lắm. Đôi mắt của mỗi người có thể không khác nhau nhiều về tính chất sinh học, nhưng nó lại được "che phủ" bởi một lăng kính, mà lăng kính đó lại được định hình bởi một số sao tại Mệnh, Thân hay Vận trong hiện tại?
Chúng ta hướng vào nội dung chủ đề topic, đó là Ưu - Nhược của cái "chính", An Khoa có thể nói sơ qua về Thất sát được không?
Nếu có thể phân loại, chúng ta tìm hiểu thêm
- Những loại Mệnh nào, có ngũ hành của Mệnh không "dụng" được Thất sát, mặc dù là Thất sát thủ mệnh?
- Những loại tuổi nào theo can chi Năm phối ngũ hành Cục vô hiệu hóa Thất sát không phát huy được tác dụng, mặc dù Thất sát thủ Mệnh?
- Mối quan hệ của cái "chính" khi nhập cung? Ví dụ như Cự môn nhập cung Nô thì... Cự môn nhập cung Di thì... Cự môn nhập cung Tử tức thì... hay Thất sát cư Phu thê thì... Thất sát cư Tật ách thì...
...
Durobi có tìm hiểu tại sao ngày Thượng huyền và ngày Hạ huyền (ngày 8 và 23) sao Tử vi không an tại Sửu Mùi?
Bất kể là tuổi gì? bất kể là sinh vào tháng nào? cũng như Mệnh cục là Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục, thì người sinh ngày 8 và ngày 23 không bao giờ sao Tử vi an tại Sửu Mùi. Chắc phải có nguyên nhân và lý do của nó!
Và tại sao Thất chính Tứ dư lại căn cứ vào Ngày sinh để xác định cung Thân? khác với Tử vi "Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi,... nghịch hồi an Mệnh thuận an Thân"
...
QuachNgocBoi, on 23/10/2012 - 18:50, said:
Thưa cụ Hà Uyên,
Cháu tính lại thấy với ngày 23 (Hạ Huyền) thì đúng như vậy.
Nhưng với Hỏa Cục thì ngày mồng 8 (Thượng Huyền) thì Tử Vi đến tại cung Mùi.
Với môn Thất Chính Tứ Dư thì Thân an theo Nguyệt (có ẩn Nhật), một tuần trăng 30 ngày thì trung bình sẽ mất 2,5 ngày trên 1 cung (18 canh giờ / 1cung) để đi hết được 1 vòng 12 cung.
Hà Uyên, on 20/10/2012 - 19:56, said:
... lại nói đối với 5 cục thì không bao giờ ngày 23 có Tử vi đóng tại Mùi,
Cảm ơn anh QuachNgocBoi
Viết bài trả lời anh Vuivui ngày 20/10, thì Tôi chỉ nói tới ngày 23, nhưng ba ngày sau, tức ngày 23/10, Tôi lại viết thêm ngày mồng 8 tương thích với năm Mậu Quý, nói thêm vào như vậy là vì "chính nguyệt" đối với năm Mậu Quý (Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi...) có thể phải xem xét kỹ hơn khi gặp "nhuận", Tôi đưa thêm ngày mồng 8 vẫn còn mang thêm một số hàm ý khác
Nhưng thôi, Ta bàn lại sau, trở lại với tính Ưu - Nhược của cái "chính" trong topic này.
...
AnKhoa, on 23/10/2012 - 17:19, said:
Thưa cụ, Thất Sát vốn là một Tướng tinh,
Tôi muốn hiểu thêm, trên nguyên tắc nào và nguyên nhân nào, sao Thất sát được cho là "Thất sát vốn là một Tướng tinh"!
Đối với Phi tinh thì ngài Trần Đoàn xếp theo thứ tự đứng thứ 6 của Nam đẩu (1 Phủ, 2 Lương, 3 Cơ, 4 Đồng, 5 Tướng, 6 Sát). Đối với Đẩu số, khi phối thiên can, sao Thất sát phối với can Canh theo thứ tự của thiên can là số 7,... ví như những nguyên tắc này, có thể đủ để kết luận sao Thất sát là Tướng tinh!!! hay vẫn có nguyên nhân nào khác, mà chúng ta chưa đề cập đến
...
banghuynh, on 24/10/2012 - 10:48, said:
@Cụ Hà Uyên: cháu xin được nêu suy nghĩ về các mệnh có thể "dụng" được Thất Sát là: Kim, Thủy
Kính Cụ!
Có thể sau này, banghuynh sẽ tự mình định hình cho mình một "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của cái "chính". Tôi nói vậy là vì, trong mỗi người như chúng ta, cùng đọc một quyển sách về Tử vi, nhưng chọn "ngữ" để chuyển hóa thành "thần ngôn" là có khác nhau
Ví dụ với tiêu chí của Topic, khi Tôi đọc sách, thì tự định hình "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của Thất sát như sau:
- Tính "hữu trợ" và "vô trợ" của sao Thất sát (thông qua cung Huynh để xác định)
- Tính "nhanh" hay "chậm", "sớm" hay "muộn" của sao Thất sát (xác định "tính" này thông qua cung Phu thê)
- Tính "mạnh" hay "yếu" của sao Thất sát (thông qua cung Tật ách)
- Tính thích nghi với hoàn cảnh "đột biến" hay không có khả năng thích nghi (cung Di)
- Tính trật tự và bất trật tự, tính có kế hoạch theo thứ tự hay không theo thứ tự của sao Thất sát (thông qua cung Nô)
- Tính xu hướng phát triển theo trường phái cánh tả hay trường phái cánh hữu của sao Thất sát (Hư - Thực của cung Quan)
- Tính sở trưởng và sở đoản của sao Thất sát (cung Phúc đức)
- Là "tính" hay là "tình", là "tình" hay là "lý" của sao Thất sát (cung Phụ mẫu)
Đại khái như vậy, khi nói về cái Ưu hay cái Nhược của cái "chính", banghuynh đọc thêm cho vui
...
AlexPhong:
Trong dòng lịch sử phát triển của tử vi, nền tảng đã bị thất truyền không biết do cố ý hay vô tình. Tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, sự thất truyền cũng vậy, mặt tốt là người nghiên cứu người sử dụng không ngừng tìm tòi kiểm nghiệm với mục đích tìm lại nền tảng cũng như hiện đại hóa cho tử vi bắt kịp với nhịp sống hiện đại. Từ đó tử vi phát triển không ngừng, hoa nở rồi sàng sẩy rồi gieo trồng rồi hoa lại nở.
Thì, trong số các tác giả Việt Nam có một tội đồ đã được vinh danh, đó là tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm Thần Khê Định Số. Nôm na là cách dùng tướng pháp bổ khuyết cho tử vi. Tác phẩm này gián tiếp thừa nhận sự bất lực của ông trong nghiên cứu tử vi. Ông đã đầu hàng, giương cờ trắng trước khi tìm hiểu cặn kẽ quân thù. Và ông tìm một cứu cánh đó là tướng pháp. Theo phương pháp này thì tử vi thui chột từ đây, thôi chấm dứt, thôi thế là hết, thôi không còn gì nghiên cứu, tử vi không chính xác khi không kết hợp với tướng pháp vì chính xác thì Thần Khê Định Số đã không ra đời.
Nói về tướng pháp, đã là cao thủ xem tướng thì khỏi cần lá số tử vi. Mang tướng pháp kết hợp vào tử vi để cải tiến tử vi khác gì lắp động cơ đốt trong cho xe bò, còn con bò dùng để làm gì. Mà tử vi cũng chẳng phải xe bò, thậm chí còn là hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hành trình. Lê Quý Đôn đã từng nỗ lực giết chết tử vi, nhưng may mắn sao cuốn sách không phổ biến. Có người than: eo ôi tiếc thế, sách yêu thế mà lại không phổ biến. Nhưng theo tôi đó là điểm may cho giới học thuật nước nhà. Và nếu ai có cuốn sách trong tay, làm ơn đốt đi giùm, xin cảm ơn sau.
Đôi khi và nhiều khi chúng ta đao to búa lớn, Đạo nọ Đức kia. Nhưng những điểm đơn giản như sự phân bố lệch của sao Tử Vi lên địa bàn, điểm Thìn và điểm Tý, vì sao Thổ cục khởi thân thì chúng ta không nhìn ra. Cái gì điều chỉnh lại sự lệch lạc này? Chúng ta học học học và học những đống kiến thức hào nhoáng vô dụng vào người mà bỏ mất các suy luận cơ bản. Tích trữ bom nguyên tử trong khi khẩu súng lục cũng không biết dùng. Tử vi nó phải thế này cơ, sao đơn giản thế được, nó phải xoắn quẩy cơ, sao thẳng đơ thế được. Uke, do what you want.
Về đâu, về đâu hỡi các Thần Khê? Về đâu đạo đức cho Không Kiếp, bomb cho Ưu Nhược?
Tôi làm việc trong một thời gian tương đối dài, chức năng chủ yếu là vô hiệu hóa đối tượng, ngăn chặn sự phá hoại mang tính hủy diệt,... không hề biết mặt đối tượng, thân thế, thân nhân,... dữ liệu ban đầu chỉ có khoảng khoảng sinh năm... sau đó biết đến tháng,... sau đó biết được ngày sinh nhật thông qua ĐT (đặc tình) là "bạn gái",... những dữ liệu này đã mang lại nhiều hiệu quả ngoài mong muốn,... đỡ mất tiêu phí lực lượng, thời gian,... cho nên, anh AlexPhong đưa ra nhận định, nhằm hướng tới sự nghiên cứu chuyên nghiệp và chuyên sâu về Tử vi. Một nhận định mang tính chiến lược.
Hai chữ tri thu cũng ví như lưỡng nghi Cha Mẹ, cùng một mục đích sinh Con, mà kết quả khác nhau, hoặc là con trai, hoặc là con gái. NhuThăngThái dần quy tụ lại trong ngoài (chủ khách) = Nội cục - Ngoại cục - Nội cách - Ngoại cách, thì nhìn nhận ngày càng rõ hơn.
Khi cục đã không chính, thì nghĩa cũng biến hóa theo (紫 微 正 義 = Tử vi chính nghĩa), ngài Trần Đoàn nói với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn như vậy.
Chính cục được hiểu như thế nào? Đó là căn cứ vào ngày sinh để biết ngôi vị của Đế tinh, theo đó kỳ số cục là một nguyên tắc chính yếu
...
Khi ta khảo cứu, sách nói rằng: "60 giờ tương ứng nhất cục" (5 ngày), theo đó
- Từ ngày mồng 1 hàng tháng tới ngày mồng 10 là 1 tuần ứng với Nhị cục, kỳ số Nhị cục từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 10
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 15 đủ số, ứng với Tam cục, kỳ số Tam cục từ ngày 11 tới ngày 15
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 20 đủ số, ứng với Tứ cục, kỳ số Tứ cục từ ngày 16 đến ngày 20
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 25 đủ số, ứng với Ngũ cục, kỳ số Ngũ cục từ ngày 21 tới ngày 25
- Từ ngày mồng 1 tới ngày cuối tháng ( 29 - 30) đủ số, ứng với Lục cục, kỳ số Lục cục từ ngày 26 tới ngày 29 tháng thiếu, hoặc ngày 30 tháng đủ. (riêng tháng Hai là 28 ngày)
...
@An Khoa:
- Chính cục được căn cứ vào Can năm + cung mệnh + ngày sinh
Ví dụ:
- Người tuổi can Mậu Quý, sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh lập tại Dậu, ứng tam Cục, nhưng sinh ngày 21 thì kỳ số Cục là Ngũ cục, nên chưa được gọi là chính Cục, theo đó thì Tử vi cư Thân
- Khi ta gặp người tuổi can Đinh Nhâm, vẫn sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh cư Dậu, ứng ngũ Cục, trường hợp này được gọi là chính Cục, vì căn cứ vào ngày sinh, sinh ngày 21 thỏa được điều kiện kỳ số ngũ Cục, theo đó thì Tử vi cư Tuất.
Không chính cục luôn hướng tới chính cục, mệnh cư Dậu không chính cục có Thái âm, luôn hướng tới mệnh chính cục có Cự Cơ tọa thủ.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 20:16, said:
Thưa cụ Hà Uyên, Nội cục và Ngoại cục ở đây chắc là ngũ hành nạp âm của tháng mà cung mệnh và cung Thiên Di rơi vào để thể hiện chủ khách, còn Kỳ Cục Số là khái niệm khác?
Nội cục là chính cục của Mệnh
Ngoại cục căn cứ vào giờ sinh xác định Thân, người Thân cư Phu Thê + Thân cư Phúc thì không có Ngoại cục, chỉ có những người Thân cư Tài Di Quan thì mới tồn tại Ngoại cục. Đây là nguyên lý tham lưỡng (3 và 2) của Dịch.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 23:18, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Vậy thì có nghĩa rằng có điều kiện tương thích thì sẽ được gọi là kỳ số cục. Nhưng có cái cháu chưa hiểu, đó là điều kiện kỳ số cục này dựa vào so sánh độ lớn của cục hay dựa vào tương quan của hai cái ngũ hành cục? Bởi vì tương quan của ngũ hành cục và kỳ số cục đưa đến khá nhièu điều thú vị, và địa vị cháu là tác giả thì sẽ phát triển lý thuyết dựa trên điều này, nhưng có vẻ như cái này khác với ý của cụ.
Tiếp theo, cháu muốn hiểu, dựa vào Kỳ Số Cục để an thêm 1 sao Tử Vi nữa, vậy thì từ đó ta có thể nói về vị trí của sao Tử Vi mới này?
Còn cái ngoại cục, chắc cũng gần giống như với trường phái sử dụng tứ hóa của cung Thân, nhưng ở đây là áp dụng với ngũ hành nạp âm để đưa tới các vòng trường sinh. Có một điều cần để ý, theo quan điểm của cháu, phải sử dụng cung Thiên Di để nghiên cứu tương tác, chứ không thể sử dụng cung Thân chỉ trong trường hợp cung thân đóng ở phía bên kia của cung mệnh bởi ranh giới Điền-Tử, vì khó có thể nói ngoại cục mà sử dụng cung Thân mà bỏ qua cái quan trọng nhất là cung Thiên Di.
Kính cụ.
NhuThangThai cần một số thời gian để trả lời câu hỏi: tại sao năm Ất Canh thì trị số Cục tuân thủ theo thứ tự và trật tự 6 - 5 - 4 - 3 - 2
Ngài Trần Đoàn đã khải mở mối quan hệ của Ngày từ Nhất cục
...
Thái úy Lý Thường Kiệt tâu Vua: “Thần xin đề cử 2 quan A và B, sau khi hạ thần xem xét về Mệnh số, quan A giữ chức Cục trưởng cục đối ngoại, quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần”
Vua nói: “Để trẫm cho người chuyển Mệnh số của hai người này đến mật viện, cho các quan Tuyên úy trong mật viện cho ý kiến, sau đó Trẫm sẽ phê chuẩn”
Sáu cha Tuyên úy trong mật viện, thì 4 cha Tuyên úy phê đồng ý, 2 cha Tuyên úy phê không đồng ý.
Nhận xét của sáu cha Tuyên úy được chuyển đến Vua, đọc xong Vua đồng ý phê chuẩn theo đề nghị của Thái úy Lý Thường Kiệt.
Một trong hai cha Tuyên úy phê không đồng ý hỏi Vua: “Quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần, xét cục số không có khả năng đối ngoại đã đành, vì Thân cư Thê, nhưng thế Chủ Khách bị phạm Cô Hư, xin Bệ hạ xem xét”.
Vua nói: “Chiến trường cũng như thị trường, Trẫm cần chính cục chuyên nhất, đạt mục đích có đầu thì có cuối, quân lương được chu đáo, hai người này vận số không có hóa Quyền, nhưng quan trọng hơn cả là đắc chính cục”
Cha Tuyên úy đã hiểu được ý Vua.
...
AnKhoa, on 26/02/2012 - 11:27, said:
Gửi cụ HaUyen,
"Thế Chủ Khách phạm Cô Hư" nghĩa là sao ạ?
Trả lời An Khoa một vài bài viết cũng không đủ, Tôi nhớ trước đây, chỉ riêng nhóm 4 sao căn cứ vào địa chi Cô Quả Khốc Hư này, đã phải học 90 tiết, sau đó thực tập 60 tiết, phối nghĩa với cục, sau đó phối nghĩa với cách, tiếp theo là tổ hợp Nội cục + Ngoại cách hay Ngoại cục với Nội cách, sau đó viết tiểu luật về 4 sao này theo hàm nghĩa THƯ HÙNG, khi mình ở cương vị chủ hoặc khi mình ở cương vị Khách,.v.v... để được gọi là đào tạo chuyên nghiệp, rồi tới tào tạo chuyên sâu, cũng tốn nhiều tiền của vậy.
Thanh thản thấy vui, thì viết bài tham gia mà An Khoa!
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 08:45, said:
Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.
Nói về kỳ số cục, thì dựa vào sách viết: số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch, câu này được hiểu như thế nào?
Đó là nói về mối quan hệ của Ngày trong Tháng - Ngày quyết định vị trí sao Tử vi. Ví như nói ngày 15 giờ Mão, xét tới ngày 14 thì số đủ, giờ Mão là nói số chưa đủ của ngày 15, hiểu đơn giản như thông lệ Tháng thuận Giờ nghịch.
Theo sách viết: "Số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch", thuyết này đã thừa nhận nguyên lý tự nhiên, đó là Giờ chuyển tiết khí trong ngày theo Lịch pháp.
Kỳ số cục, ngoài vấn đề cho ta biết trị số tương ứng với cục, để biết Mệnh số có đắc chính cục hay không, thì còn cho ta biết 5 can tương ứng với 5 ngày kỳ số cục, điều này làm căn cứ để xét Tứ hóa trong 10 can, xác định mức độ ứng cho mỗi vận nhân.
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 19:53, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Thấy bác lên trên này, cháu mừng quá. Nhân tiện, cháu có một số câu hỏi mong bác giải đáp.
1-có người nào sử dụng phương pháp luận mệnh dựa trên bát tự trụ năm hay không? Bác VDTT nói rằng có cuốn Trung Hoa Dự Trắc Học, tại sao bây giờ nó không còn phát triển nữa? Bởi vì môn này tồn tại từ thời Lạc Lộc Tử, tại sao đến thời Từ Tử Bình lại bị thất truyền? PHải chăng là vì lúc đó truyền nhân môn phái đó gặp trục trặc gì đó?
2-Cháu suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu tuổi Ất-Canh thì cục số giảm từ 6-5-4-3-2. Mong bác có thêm gợi ý. Cháu nghĩ suốt 2 tiếng đồng hồ, giờ đã chịu hẳn.
3-Trong các nghiên cứu của bác về nguồn gốc tinh đẩu thì bao nhiêu thực sự đến từ Thiên Văn, và bao nhiêu đến từ các quẻ dịch?
4-Có lần bác từng nói rằng Cự Môn thực ra là hành thổ ẩn tàng Kim. Theo NDTTP thì nó là hành thủy, Vượng tại Hợi (khác với tử vi Việt). Tương tự, họ cho rằng Thiên Lương thuộc Thổ, cũng khác với tử vi Việt.
Vậy theo bác, cái gì đúng, cái gì sai
Trong 4 vấn đề mà Nhuthangthai nêu ra, đều là những vấn đề có nội dung rộng, trả lời súc tích cô đọng, hay trả lời cho xong, cũng không thể ngày một ngày hai để rõ được hàm nghĩa.
Lịch sử đã cho ta biết, người đứng đầu một "Ấp" với 300 hộ dân (theo Dịch), tối thiểu cũng phải biết đọc từ 2700 => 3000 chữ, thì mới biết mà hiểu được "chiếu chỉ" từ quan huyện, quan tỉnh, hay cao hơn nữa là Vua, lại thêm theo thời gian chữ viết cũng được thay đổi (7 lần), kèm theo đó là Lịch pháp được vua phê chuẩn theo từng "thời". Nhưng, cái nôi văn minh vẫn là Đại lục, theo đó ta có thể nhận thấy, sự phát triển xã hội của Đài Loan so với Trung tâm văn minh Đại lục, tùy theo mỗi người mà đưa ra nhận xét của mình. Cá nhân tôi cho rằng, khả năng phát triển của phái Nhất Diệp Tri Thu, khó mà đi trước học thuyết của ngài Trần Đoàn viết sớ tâu Vua. Đây không phải là việc mà chúng ta phải đi xác minh độ tin cậy này làm gì, điều quan trọng mà Ta có thể nhận thấy, mối quan hệ giữa Thiên can và Địa chi đối với 30 ngày trong 1 tháng, để tìm hiểu về Mệnh lý thông qua Mệnh số, nền móng xây dựng học thuyết này, là từ ngài Trần Đoàn.
Sách viết, cũng như những trang mạng có nội dung về Huyền Học, vẫn chỉ đưa ra cách mà không nói cục đi kèm theo, những tinh túy được đúc kết từ thực tiễn, thông qua những câu Phú, cũng không chỉ rõ cục này thì phối với cách nào,... mà thường nói hai chữ chung chung là cách cục vậy. Hay khái niệm Tứ chính thì được hiểu như thế nào? Biện lý đến khi nào thì phải dùng đến số để khẳng định độ chính xác, sau đó lại dùng Lý suy Mệnh, rồi lại phải dùng đến khả năng của Số để dẫn giải..., nên vấn đề cục và số hình như chúng ta đang trong tình trạng còn nhiều hạn chế.
Nói ví như, Cục đường bộ và Cục đường biển thì những Cách nào đáp ứng đạt tới mục đích cuối cùng có hiệu quả và kết quả, hay Cục văn hóa dân gian và Cục trinh sát, hoặc như Cục y tế dự phòng và Cục tình báo,.v.v... vậy nên, khi nói cách cục thông qua thực tiễn cụ thể đối với từng con người trong mối quan hệ xã hội, đó là một phần giá trị Nhân học của Tử vi, mà không thể coi Tử vi như đi mua một cái gương soi, phương pháp sử dụng là soi mệt nghỉ xem Ta là ai,... mà quên mất rằng Ta đang tồn tại trong mối quan hệ tổng hòa đó. Hoặc như khi ta coi Lộc tồn tượng là "cầu", còn Hóa Lộc tượng là "kích", kích cầu cũng không thể xa rời quy luật 1/3, mở rộng kích cầu là điểm tựa chiến lược cho sự phát triển vận mệnh của mỗi người, cũng như của một TP hay một đất nước. Tiềm năng lớn nhất của mở rộng kích cầu là ở thành thị mà không phải ở nơi chưa được đô thị hóa, đây cũng chỉ là một quan niệm về lộc khi chúng ta đang tồn tại theo cơ chế thị trường vậy
...
NgoaLong, on 28/02/2012 - 10:18, said:
Có vẽ như bác HaUyen mắc sai lầm cơ bản từ đầu khi nhận định như trên chăng, để rồi phát kiến thêm cái gọi là Cục nữa để cho phù hợp???
Cảm ơn Ngoalong về kết kuận của bạn
Tôi đang cùng Nhuthangthai nói về Thủy cục và Thổ cục gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, sự chia sẻ này của Tôi đã sai.
Mong Nhuthangthai thông cảm vì Tôi đã sai cơ bản, cục đường bộ và cục đường biển tuy cùng thuộc một Bộ (cung Thân -trường sinh), nhưng đã quan niệm rằng chức năng và nhiệm vụ của đường biển và đường bộ là giống nhau.
...
Durobi chia sẻ bài dịch:
Phan Tử Ngư - Làm Sao Biết Lấy Được Chồng Tốt?
Hạnh phúc cả một đời của người phụ nữ quan hệ ở ở ông chồng, vì ông chồng hiền lành tốt tính thì gia đình tất mỹ mãn hạnh phúc.
Những sao dười đây biểu thị nữ mệnh sẽ lấy chồng tốt. (Phan Tử Ngư: Qua khảo chứng của tôi, điểm quan trọng nhất là vào năm mà tiểu hạn có Hồng Loan mà quen người yêu và sau đó cưới thì khá hạnh phúc, Hồng Loan củng chiếu cũng vậy. Nhưng Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tuất, Hợi thì cát, lạc hãm thì hung.)
Nữ mệnh :
1. Thái Dương đóng nơi miếu vượng, như Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
2. Cung Phúc đức có Thái Dương tọa thủ + Xương, Khúc.
3. Cung Phu thê có Tử Vi tọa thủ + Xương, Khúc.
4. Cung Phu thê Tử Vi hoặc Tử Vi Thiên Phủ.
5. Cung Phu thê Thiên Đồng + Xương, Khúc.
6. Cung Phu thê Thiên Phủ tọa thủ.
7. Cung Phu thê Thái Âm miếu vượng.
8. Cung Phu thê Thiên Tướng.
9. Cung Phu thê Thiên Lương hoặc Thiên Cơ + Thiên Lương.
10. Cung Phu thê Văn Xương hoặc Văn Khúc (Chỉ cần 1, nếu Xương Khúc đồng cung thì có Đào Hoa).
11. Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tuất, Hợi hoặc tọa thủ tại Mệnh.
12. Thiên Cơ miếu vượng tọa Mệnh.
13. Thiên Phủ thủ Mệnh, Thân.
14. Thái Âm miếu vượng thủ Mệnh.
15. Thiên Tướng miếu vượng thủ Mệnh.
16. Thiên Lương miếu vượng thủ Mệnh.
17. Tả Phụ hoặc Hữu Bật đóng ở Mệnh.
18. Phá Quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ.
19. Khôi, Việt đóng ở mệnh hoặc Thân.
20. Lộc Tồn đóng ở Mệnh + tam phương có sao tốt chiếu.
21. Hóa Khoa, Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền đóng ở Mệnh.
22. Thiên Đồng + Thiên Lương đóng ở cung Phu thê.
Phan Tử Ngư - Làm Sao Phối Hợp Suy Đoán Đại Tiểu Hạn
Cổ thư nói: "Tham lang Văn Xương đồng cung, chính sự điên đảo", lại nói: " Tham Lang Văn Xương tại Sửu Mùi, tai nạn sông nước". Thế thì chúng ta sẽ gặp trường hợp trên mấy lần ở tiểu hạn, thế thì sẽ xảy ra năm nào? Chủ yếu phải phối hợp đại hạn thì mới ứng! Tóm lại, đại hạn và tiểu hạn kết hợp lại để suy đoán là điểm độc đáo của Tử Vi.
- Đại hạn có Địa Kiếp hoặc Địa Không, tiểu hạn lại gặp Địa Không hoặc Địa Kiếp, năm ấy phải chú ý những việc sau:
(1) Không được đầu tư lớn, sẽ lỗ vốn.
(2) Không được di chuyển bằng đường hàng không.
(3) Không đến những nơi lầu cao hoặc núi cao.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn cũng có một trong tứ sát, năm ấy sẽ bất lợi nhiều chuyện.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn có Tham Lang + Văn Xương, phải chú ý những chuyện sau:
(1) Sẽ có tai nạn xe cộ hoặc gãy xương.
(2) Người đang đi làm (kể cả nhà nước và tư nhân), phải đề phòng những sai sót về hành chính, dễ bị phạm lỗi, giáng chức, thậm chí mất việc.
(3) Không nên đi bơi đi chơi ở biển, thuyền viên thì không nên khởi hành ra biển.
- Trước cung đại hạn 3 cung, tức cung Phu thê lâm thời (hoạt bàn), có Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Quân, Cự Môn, Linh Tinh, Không Kiếp v.v..., vợ chồng sẽ xảy ra chuyện sinh ly tử biệt.
- Đại hạn vào cung Phu thê, tiểu hạn có Hồng Loan, Thiên Riêu, có chuyện Đào hoa sẽ xảy ra.
- Tiểu hạn vào cung có Tả Phụ Hữu Bật giáp, rất cát lợi, có thể mua bất động sản, hoặc phát tài.
- Tiểu hạn đi đến cung có Lộc Tồn, tam phương tứ chính có Thiên Khốc Thiên Hư, sẽ nổi danh.
- Tiểu hạn gặp Thái Duơng hóa Lộc, sẽ nổi tiếng.
- Đại hạn hoặc tiểu hạn có Liêm Trinh Thất Sát + sát tinh, lại gặp năm Bính Liêm trinh hóa Kỵ, có tai nạn giao thông.
- Tham Lang đồng cung Hỏa hoặc Linh, gặp năm Mậu Tham Lang hóa Lộc, bột phát ào ạt, hoặc phát tài lớn.
- Cung Tài bạch có Thiên Riêu, vào năm Quí, nếu đánh bạc tất thua, hoặc vì mất tiền vì gái.
- Năm sinh là năm Canh, đại hạn hoặc tiểu hạn lại gặp năm Canh tứ hóa sẽ gặp trục trặc mọi chuyện.
- Lưu Xuơng nhập cung Mệnh, Thân, hoặc đại tiểu hạn, thi cử sẽ đậu, quan chức thì có tin thăng chức. Phụ nữ thì sẽ có con.
- Lưu Mã đồng cung với Lộc Tồn tại tiểu hạn hoặc Mệnh thì sẽ xuất ngoại, di chuyển, du lịch, quan chức thì lên chức, người làm ăn thì trúng quả.
- Thiên Cơ cung Thiên Di của năm sinh hoặc cung Thiên Di hoạt bàn, gặp năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ bị chuyện đi lạc, nếu có hung tinh đồng cung thì bị tai nạn giao thông.
- Lưu niên gặp Văn Xuơng hóa Kỵ, đi thi là rớt.
- Tài bạch cung có Thiên Cơ, đại tiểu hạn và lưu nguyệt lưu nhật gặp Thiên Luơng hóa Lộc, đánh bạc tất thắng lớn.
- Lưu niên Đại hao nhập cung Điền, sẽ bị ăn trộm đến viếng, gặp thêm sát tinh thì mất sạch sành sanh.
- Đại tiểu hạn có Hồng Loan gặp Đại Hao, hoặc tại cung Tài bạch, sẽ bị chuyện mất tiền.
- Đại tiểu hạn Liêm Trinh gặp Tả Phụ hoặc Hữu Bật, coi chừng điềm đi tù.
- Tham Lang đóng cung Quan lộc tại hãm địa + sát tinh, đại tiểu hạn gặp phải thì do tham ô nên bị bắt.
- Cung Phúc đức hoặc cung Tài bạch của năm sinh hoặc hoạt bàn có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ, sẽ bị mất tiền do đầu cơ hay đánh bạc.
- Năm sinh hoặc lưu niên Văn Xương hoặc Văn Khúc hóa Kỵ nhớ đừng làm (giúp) gì cho ai.
- Tham Lang tại Mệnh, Thân hoặc Tật ách, gặp Bệnh Phù đồng cung, lại gặp thêm Tham Lang hóa Kỵ, do chơi bời mà bị mắc bệnh hoa liễu.
- Tham Lang đóng cung Tài bạch hãm địa, gặp năm Quí Tham Lang hóa Kỵ, công việc làm ăn gặp sóng gió, hoặc cơ duyên không may mắn.
- Hoa Cái đồng cung với Cô Thần hoặc Quả Tú, đại tiểu hạn lại gặp, điềm bất lợi hoặc tử vong cho người phối ngẫu.
(Trích Tử Vi Tinh Áo - Phan Tử Ngư, trang 167 - 169)
Xin chào anh chị em trên diễn đàn. Thuật Tử vi được cấu tạo làm 12 cung, mỗi một cung là 30 độ (360/12 = 30), được thể hiện trên hình tròn, mà ngày nay được thiết lập lá số là hình chữ nhật hay hình vuông. Thuật Tử bình được căn cứ theo 4 chi của năm - tháng - ngày - giờ, mỗi một chi trong thuật Tử bình tương đương với 369 / 4 = 90 độ Khi chúng ta giả thiết rằng, 4 chi của Tử bình có mối quan hệ với 12 cung trong Tử vi, thì điều này dẫn tới khả năng, 4 cung trong 12 cung của Tử vi tiến tới giới hạn 30 độ => 45 độ. (90/2 âm dương) Chúng ta lại đặt một giả thiết nữa: một lá số có Mệnh lập tại cung Tuất gặp Tử Tướng, nhưng số Tử bình lại không có chi Tuất, nên cung Mệnh không còn giá trị góc 30 độ nữa, mà có thể giảm tới chỉ còn 15 độ chẳng hạn. Còn khi lá số có cung Mệnh lập tại Tuất gặp Tử Tướng, mà số Tử bình trong 4 chi có chi Tuất, thì cung Mệnh có giá trị góc 30 độ => 45 độ. Hà Uyên qua trải nghiệm thấy thú vị, nhưng còn rất nhiều lúng túng. Mong muốn cùng Anh/chi/em trên diễn đàn bình giải. Hà Uyên.
...
Chủ đề này, Hà Uyên căn cứ vào vị trí Địa lý của đất nước VN, nằm tại khu vực được gọi là Nhiệt đới gió mùa. Quá trình lao đông sản xuất của người Việt cổ là lúa nước, còn bên Đại lục là lúa mỳ.
Căn cứ theo chữ Nhiệt, mỗi cá thể đều có giới hạn trừ 2 và cộng 5. Có nghĩa là nhiệt độ cơ thể mỗi người trung bình là 37 độ, khi trừ đi 2 chỉ còn 35 độ thì trụy tim mạch, hoặc khi cộng với 5 thì 37 + 5 = 42 độ, thì dẫn tới hôn mê. Trừ 2 cộng 5 đều có kết quả như nhau.
Điều này, cho chúng ta hiểu ý nghĩa về giới hạn. Như vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra một câu hỏi: 12 cung trong Tử vi của mỗi một người, nhất thiết bắt buộc phải chia đều hay không? Mỗi cung 30 độ?
Khi áp dụng vào thực tiễn thấy nảy sinh nhiều điều kỳ lạ. Có thể là một ngõ cụt, cũng có thể là một hướng tư duy, khi truy tìm mối quan hệ của các môn học thuật đối với một cá nhân cụ thể.
...
thieukim, on Sep 9 2009, 01:35 PM, said:
cái ngày nghe ngộ ngộ hì hì, khoa TB đâu có phải chỉ căn cứ theo 4 chi? còn thiên can thì sao? can tàng như thế nào? người đặt vấn đề có thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua chưa?
Chào thieukim
Hay qúa, Hà Uyên cũng chưa thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua.
Cũng chỉ từ cái mà được gọi là định danh thôi, ví dụ như Tử bình có 4 chi là Tuất-Thân- Hợi-Tý, cũng vẫn con người đó, Tử vi mệnh lập tại Dần ngộ Tử Phủ, Hà Uyên đã để mắt tới gần 50 năm mà danh phận cũng chưa đi tới đâu.
Lại một trường hợp cùng năm tháng ngày, chỉ khác giờ sinh, đó là sinh vào giờ Hợi mà Tử bình có chi Hợi, thấy cuộc đời khác hẳn. Kể cũng lạ
Thắc mắc này có thể không đi đường dài được, Hà Uyên nghe theo bạn, thieukim bàn về vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua vậy.
Xin chào anh chị em.
Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau:
- Hoả Lục cục
- Thổ ngũ cục.
- Kim tứ cục
- Mộc tam cục.
- Thủy nhị cục.
Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy?
Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy?
...
Gửi Minh An.
Phàm hai quẻ Càn Khôn sinh ra sáu con, Bố Mẹ thân thoái mà 6 con thì tiến (2 lùi 6 tiến), cũng như là Âm Dương sinh ra Ngũ hành vậy. Chúng phối hợp với nhau mà thành 64 quẻ. Cũng giống như Can Chi phối hợp với nhau, mà thành Giáp Tý vậy. Nhân quẻ mà suy ra Cơ - Ngẫu, Biến - Hóa, thì cũng như Can Chi phối hợp, mà cũng suy ra Xung - Hợp - Chế - Hóa vậy.
Thì có khác nào khi nói về Ngũ hành, Thuỷ chỉ sinh ở Canh Tân, mà không Hóa ở Bính - Tân. Hỏa chỉ sinh ở Giáp Ất, mà không Hóa ở Mậu - Quý. Thuyết Biến quái, thì cho đây, là cái gốc của Dịch. Tất cả 64 quẻ đều lấy từ đây mà ra. Như vậy, là vẫn lấy Hóa khí làm Bản khí, thì cũng trái với ý nghĩa tương sinh của Ngũ hành vậy.
- Bỏ một dùng ba: 360 thì dùng 270
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
...
"Thân giảm" có câu:
Dương cực tắc kháng,
Âm cực tắc ngưng,
Kháng tắc hữu hối,
Ngưng tắc hữu hung.
Dương cực thì kháng,
Âm cực thì ngưng,
Kháng thì hối hận,
Ngưng thì hung hiểm.
Địa thế Khôn, Thổ dĩ hậu súc tải vật. Vô Thổ bất Thủy.
Địa trung hữu Thủy, Sư: Thổ dĩ dung súc Thủy.
Âm lấy Dương làm gốc, Dương lấy Âm làm gốc.
Thủy sinh ở 1 lấy Hoả thành ở 6.
...
Vâng, anh Thiên Sứ.
Hà Uyên đã đọc được hơn ba lần về tác phẩm: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Cảm ơn Anh.
Dưới đây, là một trong những cách tường giải về độ số Cục trong môn Tử vi:
Từ Nguyên lý:
- Bỏ một dùng ba: 360 thì chỉ dùng 270 => 1 giáng 3 thăng.
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
Hành kim: Có 2 quẻ là Càn và Đoài. Càn 1, Đoài 2. Tuy nhiên, số 9 chính là 1 số chứa trong nó cả Càn lẫn Đoài nên số của hành kim là: 9+1+2 = 12/4 = 4 => Kim tứ cục. Từ Sinh, Vượng, Mộ có 3 khoảng, từ Sinh đến Vượng, từ Vượng đến Mộ và từ Mộ đến Sinh. Số của mỗi hành sẽ được chia cho 3 khoảng đó. Như vậy, tại mỗi khoảng, giá trị của hành kim là 12: 3 = 4 ( Kim tứ cục)
Tương tự hành Thổ có Cấn và Khôn, trị số là 8+7 = 15 / 3 = 5 => là Thổ ngũ cục
Hành Thủy quẻ Khảm có trị số là 6 / 3 = 2 => Thủy nhị cục.
Hành Mộc là quẻ Chấn và Tốn. Trị số là 4+5 = 9 / 3 => Mộc tam cục.
Duy chỉ có hành hỏa là Ly, 3: 3 = 1. Chẳng lẽ lại là Hỏa nhất cục.
Bạn Minh An đã gửi thư, đặt v/đ về việc tường giải của mình.
Cũng mong anh Thiên Sứ cùng anh chị em trên diễn đàn cho ý kiến bình giải.
...
Chào Minh An.
Khi tìm hiểu về Ngũ hành, mối quan hệ "sinh- khắc" cũng phải đủ một điều kiện, dựa vào quy luật Tứ thời của Tự nhiên. Ví như khi nói Hỏa khắc Kim, khi chúng ta xét Hoả phải ở trong trạng thái "thành" thì mới có thể khắc được Kim. Thông qua "số" mà bàn thì, Hỏa thành ở 7, thì 7 + 4 + 9 = 20 = 6 + 5 + 4 + 3 + 2 = 20. Tương tự như vậy, khi Kim khắc Mộc, thì số "thành" của Kim là 9 ta có: 9 + 3 + 8 = 20, cũng bằng 20 => điều này, cho chúng ta nhận thức được những gì?
Người xưa lấy Mộc tinh để làm thước đo cho mỗi một cung, cũng gọi là Tuế tinh, 12 năm. Khi căn cứ vào lấy "Vượng" để dụng sự, thì lấy Mộc làm thước đo như sau:
- Mộc có trị số Vượng là 3 của Chấn => Mộc Tam cục
- Kim có trị số Vượng là 7 của Đoài => 7 - 3 = 4 => Kim Tứ cục
- Hỏa có trị số Vượng là 9 của Ly => 9 - 3 = 6 => Hỏa Lục cục
- Thủy có trị số Vượng là 1 của Khảm => 3 - 1 = 2 => Thủy Nhị cục.
- Thổ có trị số Vượng là 8 của Cấn => 8 - 3 = 5 => Thổ Ngũ cục
Anh chị em cùng Minh An bình giải.
...
Tam hợp của Địa chi được căn cứ vào đâu để quy Ngũ hành cho Tam hợp?
Có thể, Người xưa cũng thông qua nguyên lý: "Bỏ một dùng ba, bỏ hai dùng sáu, bỏ ba dùng chín" chăng?
- Hợi - Mão - Mùi => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Mộc.
- Thân - Tý - Thìn => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Thủy.
- Tị - Dậu - Sửu => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Kim.
- Dần - Ngọ - Tuất => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Hỏa.
Vậy còn Thổ thì sao? Tại sao Thiên can Mậu thì lại được khởi Trường sinh từ cung Dần? Tại sao Địa chi tam hợp cục của Thổ lại được khởi Trường sinh từ cung Thân?
(Nguồn: Sưu tầm)
1. Đuôi mắt
Đuôi mắt có một vị trí được gọi là Gian môn, nếu con gái có nốt ruồi ở vị trí này thì tình cảm hôn nhân sẽ không thuận lợi, hơn nữa tỷ lệ điều này trở thành hiện thực là tương đối cao.
2. Trên xương đòn
Người có nốt ruồi trên xương đòn phần lớn trong sự nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, vất vả, phải trả giá nhiều nhưng thu lại ít.
![]() |
3. Trên mũi, cánh mũi
Người sở hữu đặc điểm này phần lớn vận khí không tốt lắm, nên xóa đi, nếu dưới cằm cũng có nốt rồi thì là cát tướng, nên lưu ý hai vị trí này. Đầu mũi có nốt ruồi là người dễ gặp kẻ xấu.
4. Trên ngực
Trên ngực có nốt ruồi thì đào hoa, bất kể là nam hay nữ đều dễ dàng thu hút người khác giới, nhưng đồng thời cũng dễ suy sụp vì tình yêu, họ còn dễ gặp phải thị phi vì chuyện tình cảm.
5. Thắt lưng
Phần thắt lưng không nên có nốt ruồi, nếu có thì nên xóa bỏ bởi nó đại biểu cho đời sống tình cảm không như ý. Họ thường gặp hoặc bị theo đuổi bởi người mình không thích hoặc ghét.
6. Mặt trái đầu gối của chân trái
Nốt ruồi này là nốt ruồi hung. Người có nốt ruồi này cả đời lắm tai nhiều nạn, dễ gặp phải thử thách, trở ngại.
7. Ở hai bên trán, gần chân tóc, ngang với vị trí lông mày
Những người này phải đặc biệt chú ý an toàn khi đi ra ngoài, có nguy cơ gặp phải nguy hiểm, dễ gặp phải tai họa bất ngờ, và cần chú ý hơn khi tham gia giao thông.
8. Cổ họng
Yết hầu có nốt ruồi, trong tướng số thì đây là một đặc điểm không tốt, thường dễ gặp chuyện bất lợi, cần chú ý nhiều đến an toàn của bản thân.
![]() |
9. Nốt ruồi mọc nhiều thành từng đám (ban chí)
Đối với con gái nếu trên người có ban chí khi mang thai cần chú ý an toàn.
10. Khu vực quanh đuôi mắt có nốt ruồi đen
Trên mặt tình cảm sẽ không thuận lợi, nếu là con trai thì dễ bắt cá hai tay, dù có bạn gái rồi cũng có thể đi tán tỉnh những người khác, không thẳng thắn trong tình cảm, khó có thể thành người chồng tốt.
Kunie (theo Astro)