Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vận trình tử vi trọn đời Mậu Tý nam mang chi tiết

Mậu Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mậu Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1948, 2008 và 2068
Cung CÀN. Trực MÃN
Mạng THÍCH LỊCH HỎA (lửa sấm chớp)
Khắc THIÊN THƯỢNG THỦY
Con nhà XÍCH ĐẾ (phú quý)
Xương CON CHUỘT
Tướng tinh CON CHÓ SÓI

Phật Bà Quan Âm độ mạng

Vốn người cốt cách cang cường,
Ấy là Mậu Tý con người đảm đang.
Thuận sanh thì đặng làm quan,
Cha mẹ vui vẻ lập đ àng ăn chay.
Số này phước lớn chẳng vừa,
Nhờ ơn Trời Phật độ trì là may.
Duyên nợ cũng phải đời đời,
Sau này gia đạo mới là bình yên.
Vận xưa lận đận lo phiền,
Đến khi vận giữa tài nguyên tới gần.
Vận sau sẽ thấy tấm thân thanh nhàn.

xem bói tử vi tuổi Tý

CUỘC SỐNG

Tuổi Mậu Tý thuộc mạng Hỏa. Số trường tồn. Cuộc đời tuy không gặp nhiều may mắn lắm. Tuy vậy về mặt xã hội vẫn giữ được một địa vị trung bình. Tuổi này có được một cuộc sống khả dĩ giúp được cho đời sống êm ấm cá nhân, thích những cái mới lạ, bản thể hay chạy theo tư tưởng. Suốt cuộc đời không có những sôi động đặc biệt về danh vọng, tuy có, nhưng vẫn ở trong sự trầm lặng và những sự hoạt động từ từ hơn là những sôi nổi để chiếm đoạt.

Tóm lại: Cuộc sống vẫn ở trong mức độ trung bình không lên cao và không ở trong tình trạng quá thấp kém về tài lộc.

Tuổi Mậu Tý có nhiều lao tâm khổ trí, suốt cuộc đời chỉ ở trong một mức sống trung bình. Hay lo nghĩ không lúc nào được thảnh thơi về tâm trí. Nếu gặp tuổi vợ trùng hợp thì có thể được giàu sang nhưng ít con. Nhưng nếu gặp tuổi không trùng hợp như trên đã chỉ thì nghèo lại đông con. Số hưởng thọ trung bình khoảng độ từ 50 đến 55 là mức tối đa. Số này có phước lộc. Nếu có tu tâm, dưỡng tánh, tạo nhiều phước đức thì hưởng thêm được 5 năm nữa.

TÌNH DUYÊN

Tuy nhiên số mạng của tuổi Mậu Tý có nhiều thay đổi, tùy theo sự quyết định của tình duyên, và sự lựa chọn cho hạp với tuổi tác và cuộc sống thì có thể lên cao và sống sang giàu, và cũng có thể trở lên nghèo khó, nếu không tìm được những tuổi không trùng hạp với mình. Vì lẽ tạo hóa đã sinh ra con người, khi lớn lên phải có lương duyên. Sự lựa chọn tuổi tác rất quan hệ và mật thiết với sự sống hiện tại. Bởi thế, không thể xem từng cá nhân mà nhận xét được cuộc đời, mà luôn luôn phải có sự trùng hợp của hai tuổi. Nghĩa là khi muốn nhận xét cuộc đời cần phải nhận xét cả hai tuổi của người có vợ hay sắp có vợ, mới biết được sự trùng hợp của nó.

Những biến chuyển của cuộc đời và sự giàu sang phú quý! Vì con người luôn luôn thay đổi cuộc sống tùy theo tình trạng và hoàn cảnh hiện tại. Sự lựa chọn tình duyên cũng rất quan hệ với cuộc sống của bạn vậy. Và sau đây là duyên số thay đổi của bạn trong cuộc đời. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì cuộc đời của bạn phải hai lần thay đổi lương duyên, đó là những tháng Giêng, Ba, Tư, Sáu, Tám và Mười Hai. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì lương duyên bạn trở lên chung thủy và hạnh phúc. Tháng Hai, tháng Chín và tháng Mười. Và nếu bạn sanh vào những tháng này, thì sự thay đổi vợ chồng như thay áo, có thể từ ba lần sắp lên, đó là những tháng Năm, tháng Bảy và tháng Mười Một.

Tuổi Mậu Tý ít khi hưởng được hạnh phúc, có thể có nhiều sự đau khổ về vấn đề tình duyên. Những buồn lo khổ não quá nhiều. Tuy nhiên sau một thời gian dài, sau khi tuổi đầu nhiều sương gió thì mới vững bền được.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Vì là cuốn vận mạng và Tử Vi suốt đời bạn. Sự liên quan mật thiết về vấn đề tình duyên và sự nghiệp, cuộc đời rất quan trọng, nên tác giả phải dành riêng hay sẽ giúp bạn trong những phần sau, lồng trong sự lựa chọn lương duyên, hay là những diễn tiến của cuộc sống. Tuy nhiên về cá nhân thì như sau:

Tuổi Mậu Tý công danh lên bổng xuống trầm, khó thoát qua được những thảm trạng buồn não về công danh. Vì lẽ công danh quyết định cho cả sự nghiệp và đời sống hằng ngày, nên cần phải có sự liên quan với tuổi tác vợ chồng, mới hiểu được một cách rành mạch hơn. Phần trên chỉ là sự sơ lược công danh của bạn và cá nhân của bạn mà thôi. Gia đạo lúc đầu hãy còn nhiều sóng gió, tuổi nhỏ hay có những mặc cảm gia đạo không hoàn toàn êm ấm và kéo dài cho đến 23 tuổi mới có được hạnh phúc hoàn toàn, về phần con cái chỉ vào mức độ trung bình, tùy theo sự lựa chọn lương duyên trùng hạp tuổi, cũng có thể có hào con và hào của một lượt, nếu có tuổi trùng hạp trong vấn đề lương duyên.

Tuổi Mậu Tý tuy không có một sự nghiệp vĩ đại khả dĩ sống trong sự giàu sang phú quý, nhưng vẫn có một cuộc sống khá xứng đáng, mọi nghi thức đưa đến một sự nghiệp, đó là trong những may mắn bất thường chớ không phải tạo bằng nhiều mồ hôi và nước mắt, những may mắn đó thường vào những tuổi 36 và 37, tuổi 37 là tuổi của bước đầu hoàn thành sự nghiệp trong đời bạn, tiền tài cũng lên cao vào những lúc 27, 28 và tiến triển cho đến khi hoàn thành sự nghiệp. Nghĩa là bạn phải kéo dài mười năm tiền tài và xây dựng tiền bạc mới hoàn thành sự nghiệp và sống trong an nhàn của tuổi bạn.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trước khi muốn làm ăn mà không sợ thất bại, phải căn cứ vào tuổi người mà mình muốn hợp tác và quan trọng hơn hết là tuổi vợ chồng. Vậy khi muốn khuếch trương những dự tính, hay muốn phát triển sự nghiệp công danh, bạn cần lưu những tuổi sau đây:

Trước khi làm ăn hay phát triển những dự tính, bạn cần lựa những tuổi trùng hạp. Nghĩa là: Tuổi Mậu Tý gặp tuổi Nhâm Tý, tuổi Kỷ Sửu hay Quý Tỵ. Những tuổi này giúp bạn thành công hơn là thất bại. Gặp tuổi hạp thường có tiền bạc dồi dào và có khi giúp bạn hoàn thành sự nghiệp mau chóng hơn. Nếu gặp những tuổi khác bạn sẽ không được hoàn toàn thành công và hay mang lấy thất bại, cuộc đời như đi trong đ êm.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong cuộc sống, việc lựa chọn lương duyên là vấn đề quan trọng nhất cho cuộc đời bạn, có khi sự lựa chọn đó không trùng hạp với tuổi, có những rối rắm thường xảy ra trong gia đình hạnh phúc, thường hay bê bối và sự làm ăn khắc kỵ không tạo được một hy vọng và triển vọng cho cuộc đời. Bạn muốn có một cuộc sống êm ấm hạnh phúc, tiền bạc dồi dào, sự nghiệp vững vàng, công danh lên cao, một cuộc sống hoàn toàn vinh hiển, không gì bằng tạo được một người vợ hiền đức và trùng hạp với tuổi mình.

Những tuổi mà bạn kết hợp lương duyên hạnh phúc có thể phát đạt, giàu sang, đó là những tuổi sau đây: Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Ất Mùi.

Bạn kết hôn với tuổi Kỷ Sửu, sẽ có những trường hợp sau đây:

Kết hôn với người tuổi Mậu Tý và Kỷ Sửu, rất trùng hợp về đuờng công danh, việc gia đạo được êm ấm, người vợ luôn luôn hiền lành và rất trật tự, tiền tài luôn luôn dư dả, cuộc sống hiển vinh, xe hơi nhà tốt, người vợ hay lo tính, hiền từ đạo đức, tuy nhiên người vợ thường có đau bịnh, trùng hạp về tiền tài, nhưng con cái trung bình.

Kết hôn với người tuổi Đinh Dậu: Số phú quý, giàu sang, nhưng lại không con, nếu có cũng rất khó nuôi, có phần nuôi con nuôi. Đời sống rất sung túc. Kết hôn với tuổi Đinh Hợi: Gặp số tốt về công danh sự nghiệp, vợ chồng hòa thuận, con cái trung bình, có đầy đủ phúc đức tạo nên cơ nghiệp. Kết hôn với người Ất Mùi: Bạn được danh phận tuy không giàu sang phú quý, nhưng gia đình êm ấm, vợ chồng thuận hòa. Số vợ giữ được tiền tài nhưng lại có đau bịnh nhỏ. Làm ăn mau phát đạt.

Những tuổi trên, đều có những sự trùng hợp của mỗi tuổi. Tuy nhiên phần chắc đều sống trong sự cao sang, quyền quý, tiền bạc dư dả, cuộc sống an nhàn, phần con cái tùy theo mỗi tuổi mà định được sự ít nhiều của nó. Nhưng kết quả đều được hay đẹp liên quan rất lớn đến cuộc đời.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi này thì có một cuộc sống trung bình, đó là những tuổi: Mậu Tý, Nhâm Thìn, Giáp Ngọ, những tuổi tuy có sự hợp nhưng không làm cho đời sống được phát triển mạnh mẽ, có thể có được một sức sống trung bình trong cuộc sống.

Nếu gặp những tuổi này thì bạn và số phận ở trong cuộc sống hẩm hiu, khó thoát được qua những, cơn lo buồn và khổ não, bởi số kiếp ở trong sự bần cùng túng quẫn liên miên, đó là những tuổi: Canh Dần, Bính Thân, Nhâm Dần.

Một việc đại kỵ cho tuổi bạn không nên lựa chon hôn nhân, đó là năm 19, 23, 25, 31 tuổi. Những tuổi nầy rất kỵ hôn nhân. Nếu có xảy ra trong những năm ở vào những tuổi này, bạn sẽ có sự xung khắc, dù gặp người trùng hợp tuổi, bạn cũng gặo cảnh chia ly, buồn bực và nhiều lo lắng, nên tránh đi những năm mà bạn gặp ở vào những tuổi này.

Tuổi Mậu Tý, Nam mạng sanh vào những tháng này sẽ có nhiều vợ. Sự thay đổi vợ thường xuyên hay gặp được cảnh buồn não, khổ tâm về đ àn bà. Ít khi lương duyên được ở suốt đời, đó là những bạn sanh vào những tháng 1, 7, 2, 6 và 9 Âm lịch. Những tháng này, người con trai sẽ có nhiều vợ và hay đau khổ về đ àn bà.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

N ếu bạn cần đến sự sống làm nên sự nghiệp, và một cuộc sống lâu bền, thì nên tránh đi những tuổi này: Tân Mão và Quý Mão. Gặp hai tuổi trên, bạn bị rất khắc kỵ, chẳng những không tạo được cuộc đời mà còn gây ra bao điều khó nhọc, chết chóc bất ngờ.

Nhắc lại tuổi Mậu Tý chỉ đại kỵ có hai tuổi Tân Mão và Quý Mão, việc lương duyên nếu gặp sẽ không được lâu bền, và sẽ có một người chết trong hai. Nếu lỡ yêu thương nhau nên làm như nầy: Người con gái tự nhiên đến ở nhà người trai. Không nên có những sự cưới hỏi, tiệc tùng ra mắt bà con. Đại kỵ nhất là mâm trầu. Nếu có sự cưới hỏi, tiệc tùng hay ra mắt gặp giờ khắc, tháng khắc, một trong hai người sẽ chết bất đắc kỳ tử, trong khoảng thời gian một năm sau đó.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Mậu Tý thuộc mạng Hỏa, tánh tình nóng nảy, hay sanh ra nhiều thất bại trong việc giao dịch, giao thương hay tất cả những công chuyện làm ăn khác. Những năm mà tuổi Mậu Tý gặp rất nhiều khó khăn cho bản thể cũng như về cuộc đời là những năm 20 tuổi, 23, 27 và 33 tuổi. Muốn vượt được qua những khó khăn đó, bạn cần nhờ những tuổi Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Ất Mùi, thì có thể nhờ sự trùng hợp mà thoát khỏi được. Nhưng nếu có trường hợp ở vào những tuổi không phải như trên, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng như về bản thân vào những năm đã kể trên.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Bất kỳ ngày nào trong cuộc đời, tuổi Mậu Tý cũng có thể xuất hành hay đi làm ăn rất hạp nhứt và ít khi mang đến thất bại, đó là sự xuất hành đúng theo ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn, ngày, giờ rất trùng hợp với tuổi của mình và sẽ mang lấy nhiều kết quả. Nếu sự ra đi, xuất hành, gặp ngày lẻ tháng chẵn, hay giờ lẻ, ngày chẵn thì ít khi được việc, và có thể gặp ngày đại kỵ trong những ngày giờ trên.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 19 đến 21 tuổi: Năm có nhiều sóng gió trong cuộc đời, suốt năm không bao giờ có thể yên lặng trong tâm trí. Con người và sự sống có thể mang lấy nhiều thương đau hơn, chưa có một đức tin hay một sự sống khá vững chắc. Tháng 7 và 8 trong năm Bính Ngọ nên đề phòng tai nạn. Nhưng đến năm Đinh Mùi, sẽ gặp nhiều may mắn hơn đôi chút. Hai năm liền trong một hoàn cảnh sống hoàn toàn sôi động và khác biệt. Sự làm ăn và sự nghiệp lẫn cả công danh bấp bênh! chưa có sự vững chắc lắm.

Từ 22 đến 25 tuổi: Ba năm này bạn sẽ có thành công đôi chút về công danh, có thể có được tiếng tăm và phát hiện một sự làm ăn rõ rệt. Tất cả mọi công việc đều có thể hoàn thành hơi sớm, sau sẽ có đổ vỡ. Nhưng gặp những năm số mạng lên cao nên sự làm ăn và việc dự tính được thực hiện một cách mỹ mãn hơn. Năm 24 tuổi có thay đổi lương duyên, hay thay đổi chuyện làm. Để tiến vượt bực lên con đường sự nghiệp, cẩn thận về việc giao dịch hay sự xã giao với phái nữ. Không nên quá thân mật với giới này, sự nghiệp sẽ bị đổ vỡ.

Từ 26 đến 30 tuổi: Tuổi 26 chưa có gì sôi động, chỉ có làm ra được nhiều tiền bạc, nhưng không vững bền, làm nhiều, tiền bạc nhiều, nhưng tiêu hao không mấy chốc. Tình trạng đó kéo dài cho đến tuổi 29. Tiền bạc, sự nghiệp và công danh mới phát triển mạnh, cho đến qua 30 tuổi, lại có những sự sụp đổ nhỏ nhặt. Tuy vậy cũng có thể phát hiện sự việc và bắt đầu một cuộc làm ăn và óc xây dựng sự nghiệp trở nên mạnh mẽ và bền vững hơn, thời gian này kéo dài cho đến 5 năm sau.

Từ 31 đến 37 tuổi: Cuộc sống có thể dễ chịu hơn vào khoảng tuổi 33 và 34, tuy vào tuổi 33 có nhiều thay đổi và bị hạn nặng, nhưng sau khi vượt qua sự khó khăn đó thì bắt đầu tiến triển lên đến mức độ tột cùng của cuộc sống, tuổi Mậu Tý cuộc sống chỉ ở mức độ trung bình, hoàn thành sự nghiệp, tạo được cuộc sống an nhàn trong những năm nầy.

Từ 38 đến 45 tuổi: Cuộc sống trở lên trầm lặng và khác biệt. Sự nghiệp cũng đến mức bình thường sau khi bôn ba và lo lắng hoàn thành và thành công mỹ mãn. Những năm nầy sự làm ăn và gia đạo chỉ trong mức sống êm ấm và thường nhựt vào khoảng năm 40 tuổi, có một lần đau nặng hay suýt bị nạn. Khó mà chữa trị và nếu mà thoát qua được thì hưởng nhiều hạnh phúc và con người trở lên trầm lặng lạ thường cho đến hết năm 45 tuổi mới có thể phát triển thêm sự nghiệp và tiền tài được.

Từ 46 đến 50 tuổi: Những việc làm ăn nên phát triển mạnh mẽ vào những năm nầy, những năm có đầy đủ về sự vượng phát, về mọi khía cạnh, tình cảm, tài lộc, con cái và cả sự phát triển nghề nghiệp. Gia đình hoàn toàn yên vui, tiền bạc dồi dào, phát triển mạnh mẽ về sự nghiệp làm ăn.

Từ 50 đến 55 tuổi: Những năm nầy lại càng sôi động hơn, cần phải đề phòng đau bịnh hay những tai nạn có thể xảy ra cho cuộc đời bạn bất thình lình, kiên nhẫn và chịu đựng cầu mong ở Trời Phật thoát khỏi tai nạn. Đừng hy vọng quá nhiều về cạnh tranh sự nghiệp, lo an phận là tốt hơn cả. Trong thời gian này cần giữ phúc đức nhiều hơn là lo tiền bạc.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Tý

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Mậu Tý nam mang chi tiết

Xem tướng người tốt – người xấu –

Tướng rồng là tướng người có khả năng giải quyết công việc nhanh, quyết đoán, hợp đạo lý. Có thể nói, đây là tướng đế vương, nắm giữ quyền cao chức trọng. 1. Tướng rồng Là tướng người tốt nhất theo quan niệm của người xưa. Đặc điểm: thân hình cao lớ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng rồng là tướng người có khả năng giải quyết công việc nhanh, quyết đoán, hợp đạo lý. Có thể nói, đây là tướng đế vương, nắm giữ quyền cao chức trọng.

1. Tướng rồng

Là tướng người tốt nhất theo quan niệm của người xưa. Đặc điểm: thân hình cao lớn, tướng đi vững chãi, thanh thoát, sắc mặt hồng hào, ánh mắt uy nghiêm mà thuần hậu, giọng nói lớn mà ôn hòa, lông mày dài và rậm. Người này có khả năng giải quyết công việc nhanh, quyết đoán và hợp đạo lý. Có thể nói, đây là tướng đế vương, nắm giữ quyền cao chức trọng.

2. Tướng phượng

image_42975_mat_phuong

Thân hình dong dỏng cao, khuôn mặt “mắt phượng mày ngài” với đôi mắt thon dài, chân mày nhỏ đẹp, thần sắc uy nghi, mạnh mẽ, giọng nói trong trẻo, rõ ràng. Đây là tướng quý, chủ nhân dễ đạt được thành công lớn trong đời.

3. Tướng chim ưng

Thân hình cao lớn, chân bước vững vàng, tiếng nói vang khỏe, lông mày rậm, ánh mắt rất sáng và sắc bén. Đây là tướng người phù hợp với binh nghiệp nhưng tính cách có phần hung dữ và tàn bạo, hậu vận không được tốt.
4. Tướng kỳ lân

Thân hình vừa phải, ngực rộng, rắn chắc và hơi ưỡn ra phía trước, trán cao mắt sáng, chân mày đen rậm. Nếu có thêm giọng nói to rõ, ôn hòa kết hợp với tướng đi vững chắc thì người này có thể làm nên sự nghiệp hiển hách.

5. Tướng cọp

Thân hình cao to, vai rộng nở ngang, lưng to, chân tay rắn chắc, mắt lớn, miệng rộng môi dày, tiếng nói ầm vang như trống, ánh mắt đầy uy lực. Người này tuy sức khỏe dồi dào nhưng thiếu lanh lợi.

6. Tướng beo

Khuôn mặt dài nhưng mũi ngắn, răng nhỏ và khít, đặc biệt là chóp mũi nhô cao. Người này tuy sức khỏe và uy lực không được như người có tướng cọp và sư tử nhưng lại có phần khéo léo và uyển chuyển hơn. Họ giỏi giao tiếp xã hội, đôi khi có phần thủ đoạn, tinh ranh và mưu mẹo. Do tính cách quá độc đoán nên đời sống gia đình người tướng heo thường không hạnh phúc.

7. Tướng sử tử

Hình dáng bề ngoài cũng có nét tương tự như người tướng cọp nhưng trán đặc biệt cao và gồ lên. Đây là người thông minh, mưu trí, văn võ song toàn.

8. Tướng voi

Thân hình to lớn nhưng nặng nề, bước đi chậm chạp, dáng ngồi nghiêm chỉnh, vững chắc, mũi thấp, môi dày. Người này tuy không thông minh, lanh lợi nhưng tính tình hiền hậu, suy nghĩ chín chắn, làm việc siêng năng nên cuộc sống no đủ, hậu vận giàu sang.

9. Tướng tê giác
Thân hình to lớn, trán cao rộng, lông mày rậm, đầu tròn, mắt nhỏ và hơi lồi, 2 tai nhỏ nhưng dày. Đây là tướng người có sức khỏe tốt, sống thọ, đời sống khá sung túc.

10. Tướng gấu
Thân hình to lớn, râu tóc rậm rạp, tay chân to, mũi to, hơi thở gấp gáp nặng nề. Người có tướng này đa phần tính tình nóng nảy, hung bạo. Họ có thể đạt được giàu sang, danh lợi nhưng không được sự yêu mến của mọi người.

image_42973_tuong_nguoi

11. Tướng khỉ
Thân hình nhỏ hoặc vừa phải, trán nhô cao về phía trước, lưỡng quyền nổi cao, 2 mắt tròn đen. Đây là tướng đặc biệt lanh lợi, mưu trí nên cuộc sống khá sung túc nhưng có phần hơi háo sắc.

12. Tướng vượn
Bề ngoài cũng giống như người có tướng khỉ nhưng tay chân dài hơn. Đây cũng là tướng người đặc biệt lanh lợi, giỏi tính toán nhưng không gian xảo hay mưu mô. Người này cũng có tâm háo sắc nhưng kín đáo vào biết kiềm chế hơn người tướng khỉ.

13. Tướng đười ươi
Biểu hiện rõ ở thân hình cao to nhưng dáng hơi đổ về phía trước, mắt tròn, lông mày rậm, miệng rộng, môi vểnh, lưỡng quyền cao nhọn, lông tóc thô cứng. Đây là tướng người nóng nảy nhưng thẳng thắn, tâm tính tốt.

14. Tướng trâu
Thân hình to lớn, đầu và cổ to, cách nói năng và đi đứng chậm chạp, sức khỏe tốt. Đa số họ có được cuộc sống đầy đủ nhờ vào đức tính chăm chỉ.

15. Tướng chó
Biểu hiện qua hình dáng chân dài tay ngắn, đầu lớn, mặt thon tai nhọn, sức khỏe tốt. Người này tính tình thẳng thắn và có phần hơi nóng nảy.

16. Tướng chó sói
Người này có trán rộng, mắt to, lưỡng quyền cao đầy, lỗ tai nhọn nhưng dày, miệng to răng khít nhưng khi cười để lộ 2 răng nanh có vẻ to hơn người bình thường, lông mày đều đặn cân xứng. Đây là tướng người thông minh, sắc sảo, có thể giành được địa vị cao trong xã hội. Tuy nhiên, do tâm tính có phần tàn nhẫn nên họ thường làm mọi người sợ nhiều hơn là kính phục.

17. Tướng lừa
Mặt và tai dài, tướng đi chậm chạp. Người này khó làm nên nghiệp lớn mà chỉ có thể nhờ vào tính cần cù để tạo dựng cuộc sống.

image_42977_tuong_nguoi2

18. Tướng chồn
Thân hình vừa phải, sắc da hồng hào, tướng đi nhanh nhẹn, có năng khiếu về nghệ thuật. Đây là người ưa kiểu cách lễ nghi nhưng tâm địa gian xảo, háo sắc, lười biếng và thiếu tinh thần trách nhiệm.
19. Tướng thỏ
Đầu nhỏ trán thấp, tai to tròn dài, mũi nhỏ hồng hào, chân ngắn hơn thân người. Đây là người khôn ngoan, lanh lợi nhưng trung hậu và khoan dung. Người này nếu không lập nên sự nghiệp cao quý thì cũng được mọi người yêu mến, kính trọng.

20. Tướng hoẵng
Khuôn mặt dài và hẹp, mũi nhỏ nhọn, mắt tuy lớn nhưng bị lông mày rậm che khuất 1 phần, tai dài và vểnh ra 2 phía. Người này rất nhút nhát, ngại giao tiếp, lòng luôn nghi kỵ và lo sợ điều bất ổn nên không làm nên nghiệp lớn.

21. Tướng ngựa
Biểu hiện rõ ở khuôn mặt rất dài và hẹp dần ở phía dưới, miệng rộng, răng to, lưng dài. Người có tướng này có tính cần cù, khoan dung, độ lượng, hậu vận tốt.

22. Tướng nai
Khuôn mặt hơi dài và hẹp dần về phía dưới; ánh mắt hiền lành và có phần lơ đãng; miệng nhỏ, tướng đi nhanh nhẹn. Người có tướng này tâm tính hiền hậu, có phần nhút nhát, không thích tranh giành bon chen nhưng lại được hưởng phúc an nhàn, no đủ.

23. Tướng dê
Đầu vuông, trán dài nhưng thấp, thân hình có vẻ hơi chúi về phía trước. Người này có tâm tính hiền lành, trung thực. Nếu là phụ nữ thì suy nghĩ thường nông cạn và có xu hướng thiên nhục dục.

image_42983_tuong_nguoi_4

24. Tướng mèo
Thân hình thon nhỏ, lưng dài, bụng nhỏ, mắt tròn, to sáng, tai nhỏ và mỏng, nhọn. Người này tâm tính hiền lành, đôi lúc lại rất thông minh và khéo léo. Họ coi trọng bề ngoài, có nếp sống gọn gàng, sạch sẽ.
25. Tướng chuột
Thân hình nhỏ nhắn, mắt nhỏ, hay liếc ngang liếc dọc, răng nhọn, miệng chu ra phía trước. Người này khá lanh lợi, giỏi ứng biến nhưng lại không có tầm nhìn xa trông rộng, chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt. Hơn nữa, không ít người vì tâm tính có phần dối trá nên không được cấp trên trọng dụng, sự nghiệp khó phát triển bền vững.

26. Tướng heo
Thân hình to lớn, cổ nhiều ngấn mỡ, chân tay ngắn. Người tướng này thường ham mê vật chất, thích ăn uống, thích nói chuyện ồn ào. Tuy có phúc lộc no đủ, nhàn nhã nhưng không có công danh sự nghiệp vì khả năng giao tiếp xã hội kém và có phần thô lỗ.

27. Tướng gà
Thân hình nhỏ, mắt miệng và khuôn mặt nhỏ. Đây là người biết giữ chữ tín, có chí cầu tiến nên hậu vận rất tốt.

28. Tướng vịt
Thân hình mập mạp, chân ngắn, bước đi chậm chạp. Người này thường kém thông minh, cuộc sống chỉ vừa đủ chứ không giàu sang, vinh hiển.

29. Tướng ngỗng
Mắt nhỏ, ánh mắt không sắc sảo, miệng nhỏ, mũi ngắn, cổ cao, bước đi chậm và có phần đủng đỉnh. Người tướng này tuy không đạt được thành tựu lớn nhưng vẫn có cuộc sống an nhàn, no đủ.

30. Tướng hạc
Thân hình thanh mảnh, khuôn mặt dài, cổ cao. Người tướng này tính trầm tĩnh, ghét sự ồn ào, bon chen. Họ thích sự thanh cao, đặc biệt yêu thích và có tài năng về văn chương nghệ thuật.

31. Tướng công
Thân hình cao, khuôn mặt nhỏ, tính tình trầm tĩnh và có phần bảo thủ, ham danh vọng và rất chú trọng bề ngoài.

32. Tướng chim yến

image_44166_tuong_nguoi

Thân hình nhỏ nhắn, mắt tròn, ánh mắt sáng. Người tướng này có nhiều tài năng nhưng vận số thăng trầm, thành đạt muộn.
33. Tướng chim sẻ
Thân hình nhỏ bé, mắt tròn, ánh mắt sắc sảo và thường liếc nhìn xung quanh. Người tướng này thường vất vả, sự nghiệp khó thành.

34. Tướng chim thước
Thân hình vừa phải, khuôn mặt và đôi mắt nhỏ, dáng đi nhanh nhẹn. Đây là người có tính tình vui vẻ, làm việc siêng năng, sức khỏe tốt. Tuy không thể đạt đến mức giàu sang vinh hiển nhưng cuộc sống an nhàn, no đủ, được nhiều người yêu mến.

35. Tướng uyên ương
Thân hình vừa phải, mắt tròn, đẹp, khuôn mặt ưa nhìn, giọng nói trong trẻo, ngọt ngào. Nếu là nữ thì thích hợp làm những công việc nghệ thuật như diễn viên hay nghệ sĩ múa. Người có tướng này đạt được chút công danh trong xã hội nhưng sự nghiệp lại không lâu bền và thiên về nhục dục.

36. Tướng cò
Thân hình cao gầy, mũi dài và nhỏ. Tuy có năng khiếu đặc biệt về nghệ thuật nhưng tính tình thích cô độc, trầm lặng, thờ ơ và lạnh nhạt trong các mối quan hệ xã hội và không có chí cầu tiến nên không đạt được công danh sự nghiệp trong cuộc sống.

37. Tướng rắn
Thân hình cao gầy, tướng đi uyển chuyển; đầu dài mặt ngắn, miệng và môi đều mỏng, mũi và lưỡi dài, hay liếm môi; lông mày, răng, mắt đều nhỏ, mắt thường mở to nhưng ánh mắt lạnh lùng.

Đây là tướng người nhỏ nhen, thù dai, mưu mô, xảo trá, khi tranh chấp quyền lợi thì có nhiều thủ đoạn tàn nhẫn nhưng trong giao tiếp làm ăn lại rất khéo léo và đạt được nhiều danh vọng.

38. Tướng rùa
Thân hình thấp nhỏ, đầu thon nhỏ, chân ngắn, cổ ngắn, mắt tròn và sáng, lưng gù lên và hơi cong. Đây là tướng người phú quý và trường thọ.

39. Tướng cá
Thân hình thon nhỏ, cặp mắt tròn nhỏ và hơi lồi, lông mày thưa, cổ ngắn, môi dày. Người này khi ngủ đôi mắt vẫn mở hé mà không khép kín được. Họ có tâm tính đa nghi, nhút nhát, đôi khi sống ảo tưởng và hậu vận không tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng người tốt – người xấu –

Đặc tính của sao Vũ Khúc

Sao Vũ Khúc đắc địa, miếu địa, vượng địa hay đắc địa là người thông minh và có chí lớn, có tài tổ chức và óc kinh doanh, quả quyết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Vũ Khúc

Đặc tính của sao Vũ Khúc

Tìm hiểu về đặc tính của sao Vũ Khúc trong tử vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Tứ hóa
Vũ khúc Bắc đẩu (thứ 6) Âm kim Tài Tài bạch Giáp: Khoa - Kỉ: Lộc - Canh: Quyền - Nhâm: Kị

Thuộc tính ngũ hành của sao Vũ khúc là âm kim, là ngôi sao thứ sáu trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là tài chủ cung Tài bạch. Sao chính tài Vũ khúc nếu nhập đất tài (tức cung Tài bạch), chủ về vượng tiền tài, có tài quản lý tiền của. Nếu nằm đồng cung với Thiên đồng chủ về sống thọ.

Sao Vũ khúc đồng thời cũng là sao Quả Tú chủ về cô quả neo đơn, nếu nhập cung lục thân, dễ vô duyên với thân thích, trở nên cô độc lẻ loi.

Sao Vũ khúc ưa thích đồng cung với sáu Cát tinh, vì có thể tăng cường sức mạnh cho sao Vũ khúc. Sao Vũ khúc cũng ưa gặp các sao tam hóa Lộc Quyền Khoa để tăng cường độ sáng. Nếu Vũ khúc đồng cung với Hỏa tinh, Hóa Kị, Cô thần, Quả tú, thì tự nó sẽ có sự biến đổi rất lớn về tính chất.

Sao Vũ khúc ưa nằm đồng cung, hoặc ở vị trí xung chiếu với một trong ba sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, cùng 4 sao Hóa. Đó là bởi vì các sao Sát Phá Tham chủ về biến hóa, nếu có thêm sao Vũ khúc, cộng thêm sự nhạy cảm của sao Vũ khúc với 4 sao Hóa, sẽ đem lại sức mạnh đặc biệt không thể xem nhẹ.

Sao Vũ khúc ngũ hành thuộc âm kim, tại trời chủ về tuổi thọ, tại số chủ về tiền tài, kị bị khắc chế, kị nhập hãm địa, ưa thích gặp sao Lộc tồn để cùng cai trị, ưa gặp sao Thái dương để cùng nắm quyền, cầu gặp Thiên phủ, Tham lang để được trợ giúp. Các cung Tài bạch, Điền trạch là vị trí thích hợp của sao Vũ khúc.  

Nếu gặp ác sát hao kiếp tại cung Chấn (Mão địa) dễ bị cây đè sét đánh. Nếu gặp Phá quân, Tham lang tại cung Khảm (Tý địa) sẽ gặp họa chết đuối nhảy sông [ Vũ khúc đồng độ Thiên phủ cư Tý nhập Thiên bàn, Địa bàn có Phá quân hoặc Tham lang trấn thủ Khảm cung - kiểm ]. Nếu gặp Lộc Mã chủ về phát tài nơi tha hương. Nếu cùng đồng cung với Tham lang chủ về tuổi trẻ bất lợi, tức Vũ khúc thủ mệnh phúc phi khinh. Tham lang bất phát thiếu niên nhân (Vũ khúc tại mệnh phúc không nhỏ. Tham lang không phất kẻ thiếu niên). Nếu đồng cung với Đào hoa miếu vượng là kẻ ích kỷ hại nhân, bủn xỉn keo kiệt. Nếu đồng cung với Thất sát lại gặp thêm Hỏa tinh thì dễ bị cướp bóc tiền của. Nếu gặp Kình dương Đà la chủ về cô độc xung khắc. Gặp Phá quân khó hiển quý (của đến tay lại sạch không). Khi gặp hai hạn, chắc chắn sẽ gặp vạ thị phi.

Sao Vũ khúc nhập miếu thủ mệnh tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mà năm sinh lại là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, sẽ hình thành cách Tướng tinh đắc địa nếu theo nghiệp võ sẽ có thành tựu xuất chúng (Vũ khúc nhập Sửu Mùi cũng là cách Tham Vũ đồng hành, người trẻ tuổi bất lợi, phát đạt muộn sẽ cát lợi). Sao Liêm trinh tọa mệnh, cung Quan lộc ắt sẽ có sao Vũ khúc, nếu lại có sao Văn xương, Văn khúc tại cung vị tam phương hội chiếu, sẽ hình thành cách Liêm trinh Văn Khúc chủ về văn võ song toàn. Cung mệnh đóng tại Tị Hợi, có sao Mệnh Mã tọa thủ, hai cung bên cạnh có Vũ khúc và Lộc tồn (Hóa Lộc) kèm mệnh, hình thành cách Tài Lộc giáp Mã, chủ về tiền của dồi dào, càng động càng sinh tài. Nếu sao Vũ khúc cung Mệnh Mã, Thiên tướng cùng trấn cung mệnh tại Dần Thân, sẽ thành cách Tài Ấn tọa Mã, chủ về danh lợi song toàn, giàu sang vẹn toàn.

Ca quyết:

Vũ khúc ti tài thọ; tối hỷ tài bạch cung

Bình hãm sân tai ách; Liêm Trinh hỏa tắc xung

Phá Quân nãi kì chế; Liêm Trinh Hỏa tắc cung

Kình Dương Đà đồng độ họa; Giáp kỉ diệc bất vinh

Thủ mệnh tam vô sát; Y túc thực phong long

Dữ cát cộng trị thê; nhân phụ thành phú ông.

Nghĩa là:

Vũ khúc quản tài lộc tuổi thọ; thích nhất ở cung tài bạch

Bình, hãm gặp tai ách; Kị gặp Sát, Kiếp, Không

Phá Quân kiềm chế nó; Liêm Trinh Hỏa hình xung

Gặp Kình, Đà có họa; Giáp kỉ cũng chẳng vinh

Thủ mệnh không gặp sát; y thực đầy đủ dư giả

Tại cung thê gặp cát; nhờ vợ thành phú ông


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Vũ Khúc

Phong thủy phòng ngủ: điều đại kỵ cấm quên

Nếu để ý đến những điều nhỏ nhặt này khi thiết kế và bố trí phòng ngủ hợp phong thủy sẽ giúp chủ nhân luôn khỏe mạnh, công việc làm ăn thuận lợi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

14 điều tối kỵ CẤM quên trong phòng ngủ

Phòng ngủ là nơi bạn dành rất nhiều thời gian để nghỉ ngơi, thư giãn. Vì thế, mọi thiết kế trong phòng ngủ nên là tự nhiên, thoái mái nhất để đảm bảo về mặt tinh thần và sức khỏe của chủ nhân căn phòng.

phong thuy phong ngu: dieu dai ky cam quen - 1

Phòng ngủ là một trong 3 vị trí trong nhà mang nhiều yếu tố phong thủy ảnh hưởng đến sức khỏe, tài lộc và vận may của gia đình.

Vì thế, để đảm bảo được những nguồn này luôn tốt, tránh tà khí xâm nhập, bạn nên lưu ý đến những yếu tố cấm kỵ trước khi thiết kế hay sắp đặt đồ đạc trong phòng ngủ.

Những cách bài trí có thể khiến vợ chồng lục đục

Hôn nhân là một trong những vấn đề lâu dài, quan trọng đối với cuộc sống của con người. Do đó, chúng ta không được phép xem nhẹ nó, đặc biệt là khi xây dựng, trang trí hay cải tạo không gian sống để chuẩn bị cho khởi đầu mới này.

Bài trí nhà cửa hợp phong thủy sẽ mang lại cho bạn một cuộc hôn nhân mỹ mãn. Vậy, bạn cần làm những gì? ## sẽ bật mí 14 lưu ý phong thủy phòng ngủ nên và không nên để vợ chồng ngày càng gắn bó, bền chặt.

phong thuy phong ngu: dieu dai ky cam quen - 2

Tại sao phòng ngủ kỵ cây xanh?

Trong chủ đề phong thủy phòng ngủ thì vấn đề đặt cây xanh trong phòng ngủ cũng được rất nhiều người quan tâm. 

Nhiều người quan niệm rằng, đặt một vài cây xanh hợp mệnh phong thủy trong phòng ngủ sẽ giúp gia chủ cầu gì được nấy, cầu tiền được tiền, cầu tài được tài, cầu may được may.

Tuy nhiên, nếu để cây xanh trong phòng ngủ, chúng ta sẽ vô tình hít phải khí CO2 không hề tốt cho sức khỏe. Đây chính là lý do vì sao cây xanh bị coi là yếu tố không tốt lành cho phòng ngủ theo phong thủy.

Mặt khác, cây xanh đại diện cho nguồn năng lượng dương mạnh mẽ của sự phát triển, sự chuyển động, cuộc sống năng động... và đây chính xác không phải là năng lượng bạn muốn có trong phòng ngủ - nơi thuộc âm, cần nhất là sự yên tĩnh và thư thái.

 phong thuy phong ngu: dieu dai ky cam quen - 3

Tuy nhiên, chúng ta cần phải thống nhất rằng cây xanh chỉ không mang lại điều tốt lành khi hiện diện trong phòng ngủ, còn ở bất kỳ không gian nào khác trong nhà, cây xanh thực sự là yếu tố phong thủy tuyệt vời. Đặc biệt, những ngôi nhà bị ô nhiễm không khí nặng càng cần quan tâm đến cây xanh nhiều hơn.

Có rất nhiều khu vực trong nhà phù hợp để trang trí thêm cây xanh tươi tốt, chẳng hạn như khu vực Đông hoặc Đông Nam.

Nếu vẫn có ý định mang cây xanh vào phòng ngủ, bạn cần chú ý một số điểm quan trọng.

Trẻ nhỏ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi thiết kế phòng ngủ

Phong thủy phòng ngủ chuẩn rất tốt trong việc nuôi và dạy trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ. Từ đó bé có những bước phát triển vượt bậc so với bạn bè đồng lứa.

Đây là những cách bạn tạo phong thủy phòng ngủ tốt cho bé:

1. Đảm bảo rằng dòng năng lượng tích cực được chảy tự do trong phòng bằng cách cửa phòng có thể được mở và đóng thoải mái mà không bị vật gì cản trở trước hoặc sau cánh cửa. Nếu cửa phòng bị kẹt bởi một vật nào đó sẽ khiến dương khí chảy ra ngoài và giữ năng lượng trì trệ ở lại trong căn phòng.

 phong thuy phong ngu: dieu dai ky cam quen - 4

2. Một phòng ngủ bừa bộn và lộn xộn không hề tốt trong phong thủy. Vì thế, nên thường xuyên dọn dẹp, lau sàn nhà thật sạch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ: điều đại kỵ cấm quên

Quẻ Quan Âm Tô Tần Bất Đệ

Quẻ Quan Âm Tô Tần Bất Đệ (337 - 284 trước CN) tự là Quý Tử, người làng Thừa Hiên, thuộc Lạc Dương nước Vệ thời Chiến Quốc
Quẻ Quan Âm Tô Tần Bất Đệ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Hai trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Tần Bất Đệ. Quẻ Quan Âm Tô Tần Bất Đệ có bắt nguồn như sau:

Tô Tần (337 – 284 trước CN), tự là Quý Tử, là người làng Thừa Hiên, thuộc Lạc Dương nước Vệ thời kỳ Chiến Quốc (nay là thôn Thái Bình, Đông Giao, Lạc Dương, Hà Nam), ià người thuộc phái Tung hoành gia nối tiếng, đưa ra kế “hợp tung” (liên kết các nước khác để đối phó với nước Tần), nối tiếng sánh ngang với Trương Nghi.

Tô Tần xuất thân trong một gia đình nông dân thuần túy. ông là em út trong năm anh em, cho nên có tự là Quý Tử (em út), các anh trai của ông là Tô Đại, Tô Lệ, Tô Tịch, Tô Cưu, đều là những người thuộc phái Tung hoành rất nối tiếng. Lúc này đang ở vào thời kỳ Chiến Quốc, các nước tranh đấu kịch liệt, người tài giỏi gặp được cơ hội tốt, rất nhiều người thuộc phái Tung hoành đi du thuyết ớ các nước chư hầu, nhờ tài ăn nói mà có được công danh phú quý, trở thành khanh tướng, quyền hành lấn át cả bậc quân chủ, thanh danh chấn động thiên hạ. Tô Tần rất ngưỡng mộ những người đó, lại thêm sự ảnh hưởng của người anh cả đối với ông, cho nên từ nhỏ đã lập chí đi theo con đường này. ông một mình đi đến nước Tề, xỉn làm học trò một bậc đại sư của phái Tung hoành là Quỷ Cốc Tử, học hỏi thuật Tung hoành.

Sau khi học thành, Tô Tần lần lượt đi du thuyết ớ các nước Chu, Tần, Triệu, nhưng đều không được trọng dụng, gặp cản trở nên phải quay về, cảm thấy rất xấu hổ. Sau khi Tô Tần trớ về nhà, vợ và chị dâu đều không nhìn mặt, chế nhạo ông không lo sự nghiệp, không chịu làm nông buôn bán, cho rằng với tài năng của ông mà muốn đạt được thành công là điều không thể. Tô Tần nghe xong, không những không nản lòng nhụt chí, mà ngược lại đóng cửa không ra ngoài, khố công đọc sách, ông ngày đêm nghiền ngẫm các thiên “Âm phù”, “Sủy tình”, “Ma ý”, nghiền ngẫm các phương pháp để tác động đến bậc quân chủ. Nửa đêm đọc sách buồn ngủ, ông lấy cái dùi tự đâm vào đùi mình, máu chảy đầy chân. Điển cố này đã được ghi trong “Tam tự kinh”, trờ thành tấm gương về ý chí quyết tâm học tập.

Trời cao không phụ người có chí, sau một năm, học vấn của Tô Tần đã có bước tiến lớn, khả năng suy đoán ý nghĩ người khác cũng được nâng cao rất nhiều, Tô Tần lại một lần nữa lên đường đi du thuyết các nước.

Tô Tần tiếp tục đi du thuyết nước Tần, nhưng vẫn không được trọng dụng. Đúng lúc Yên Chiêu Vương chiêu nạp người hiền tài trong thiên hạ, vì thế Tô Tần vào nước Yên, rất được Yên Chiêu Vương tín nhiệm. Sau đó, Tô Tần lại thuyết phục sáu nước là Triệu, Vệ, Ngụy, Tề, sở thực hiện hiệp ước liên kết hợp tung, Tô Tần là người đứng đầu “Tung ước”, làm tướng của sáu nước.

Vào cuối thời kỳ Chiến Quốc Tô Tần có tiếng tăm rất lớn, trong “Tuần Tử” thiên “Thần đạo” đã đặt ngang hàng “Tô Tần nước Tề” với “Châu Hầu nước sở” và “Trương Nghi nước Tần”. Thời Tây Hán, Tô Tần vẫn được người đời khen ngợi, như trong “Sử ký” phần “Trâu Dương truyện” đã ca ngợi ông có thể trở thành trung thần của nước Yên. Trong “Hoài Nam Tử” cũng có nhiều chỗ nhắc đến ông, đều khẳng định ông rất giỏi quyền mưu. Tư Mã Thiên cho rằng Tô Tần đã thể hiện được tài trí hơn người trong quá trình “hợp tung sáu nước”.

Trước khi tiến hành xin xăm nên tìm hiểu qua bài viết Hướng dẫn cách xin quẻ Quan Âm để biết thêm lịch sử ra đời của bộ thẻ và nghi thức xin quẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm Tô Tần Bất Đệ

Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?

Nhiều người có nốt ruồi ở tay thường nghe tới câu nói Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời. Điều này có thể làm nhiều người hoang mang khi nhìn thấy ý nghĩa không mấy tốt đẹp của nó. Nhưng có thực sự Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người có nốt ruồi ở tay thường nghe tới câu nói Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời. Điều này có thể làm nhiều người hoang mang khi nhìn thấy ý nghĩa không mấy tốt đẹp của nó. Nhưng có thực sự Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời không? Cùng giải nghĩa câu nói này nhé!

Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?

1. Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?

Có tới hơn 261,000 kết quả trả về cho từ khóa Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời chỉ trong 0,34s trên mạng tìm kiếm Google. Điều đó cho thấy rất nhiều người tìm hiểu và quan tâm đến việc giải nghĩa của câu nói này.

Theo phân tích chiết tự từ, bạn có thể nhận thấy ý nghĩa của nó rất rõ ràng. Có nghĩa rằng những người có nốt ruồi ở tay thì số nghèo khổ, bần hàn, phải đi ăn vay, ở đợ cả đời vì cuộc sống quá khó khăn. Đây hẳn là một ý nghĩa không mấy tốt đẹp dù là với nam hay với nữ. Hơn nữa, câu nói Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời lại trở nên phổ biến và trở thành ý nghĩa chính cho những người có nốt ruồi ở tay từ trước đến nay. Có lẽ vậy mà không ít người hoang mang khi có nốt ruồi ở tay.

Tuy nhiên, có thật sự Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời hay không? Ý nghĩa chiết tự từ trên có lột tả hết được ý nghĩa của việc nốt ruồi ở tay chưa?

2. Ý nghĩa thực sự của nốt ruồi ở tay:

Theo nhân tướng học, câu nói Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời với ý nghĩa như trên hoàn toàn sai lầm. Thậm chí, bạn có thể hoàn toàn yên tâm vì nốt ruồi ở tay mang lại rất nhiều tài lộc và may mắn cho chủ nhân đấy:

Nốt ruồi ở trong lòng bàn tay:

Người có nốt ruồi ở trong lòng bàn tay thường là người suy tính kỹ càng, cẩn trọng và có khả năng tiên đoán tốt. Họ có cuộc sống vật chất vừa phải, khong quá giàu sang, phú quý. Trong tình yêu, họ ít khi dành sự quan tâm và lãng mạn cho đối phương.

Nốt ruồi ở ngón cái:

Nếu là nốt ruồi đen thì có mối tình đầu đẹp nhưng lại dang dở, tổn thương sâu sắc sau này. Nếu là nốt ruồi son thì cuộc sống giàu sang, sung túc về sau.

Nốt ruồi ở ngón trỏ:

Nếu nam giới có nốt ruồi ở ngón trỏ thì là người có sự nghiệp lớn, vợ con được nhờ. Còn nếu là phụ nữ thì là người có đường tình duyên thuận lợi, đảm đang, giỏi quán xuyến.

Nốt ruồi ở ngón giữa:

Nốt ruồi này báo hiệu chủ nhân sẽ lấy người giàu sang nhưng lại dễ bị lệ thuộc. Nếu là nốt ruồi son thì công danh thuận lợi, dễ nổi tiếng.

Nốt ruồi ở ngón áp út:

Người này thường có số đào hoa trong chuyện tình cảm. Khả năng tình trường của họ khá cao.

Nốt ruồi ở ngón út:

Nếu là nốt ruồi đen thì tình duyên trắc trở. Nếu là nốt ruồi son thì tình duyên lãng mạn, kết thúc viên mãn.

Như vậy, dường như Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời không hẳn chỉ có ý nghĩa xấu như phân tích chiết tự từ đúng không nào? Câu nói ấy chỉ là câu truyền miệng của dân gian mà thôi. Bạn đừng quá lo lắng mà hãy nghĩ về những ý nghĩa tốt đẹp như đã phân tích như trên nhé!

Xem thêm:

Giải nghĩa nốt ruồi ở xương quai xanh bên phải

Nhận biết các Nốt ruồi phú quý của phụ nữ

“Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông

+ Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?

+ Đoán tài vận thông qua nốt ruồi ở nách

+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?

12 con giáp đọ may mắn đường tình duyên tháng 3

Tháng cuối của quý 1 khiến nhiều người phải bận tâm suy nghĩ nhiều hơn, do đó mà ảnh hưởng ít nhiều đến tình cảm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý:

Tình cảm tháng này bình thường, có lúc vui có lúc buồn, chủ yếu là do những chuyện vụn vặt hằng ngày mà ra. Khi tâm trạng không được tốt hãy tâm sự với đối phương về điều đó. Nửa kia sẽ cảm nhận được bạn đang cần gì thay vì cứ im lặng việc ai nấy làm.

Nam giới nên chủ động trong mọi tình huống, hãy cảm ơn người bạn đời của mình khi người ấy giúp mình bất kỳ việc gì. Nữ giới thì nên làm chỗ dựa vững chắc trong gia đình, để đối phương cảm nhận được sự yên tâm. Còn những bạn đang độc thân thì tháng này tạm thời chưa nên thổ lộ tình cảm của mình với đối phương.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★

Tuổi Sửu:

Chuyện tình cảm trong tháng 3 khá tốt, đôi bên tương đối hiểu nhau. Đối phương luôn dành cho bạn sự cổ vũ, động viên trong mọi tình huống. Có những lúc bạn có thể chọn họ là nơi tin tưởng để chia sẻ những vấn đề xảy ra trong cuộc sống thường nhật để đôi bên cảm thấy cần nhau hơn.

Nam giới cần chủ động vun đắp tình cảm. Nữ giới thì chủ động tiếp xúc với đối phương nhiều hơn để rút ngắn khoảng cách của hai bên. Những bạn còn đang độc thân hãy chọn thời cơ tốt để gián tiếp bày tỏ tình cảm của mình chứ không nên biểu lộ trực tiếp.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★★

 12 con giap do may man duong tinh duyen thang 3 - 1

Tuổi Dần:

Tình cảm tháng này lúc lên lúc xuống, đôi bên chưa thực sự hiểu nhau lắm. Bản thân người tuổi Dần do quá nhiều khía cạnh xuất hiện tình trạng lúc xấu, lúc tốt nên tình cảm cũng không được ổn định. Lúc thì họ nhiệt tình, vui vẻ, lúc lại trầm ngâm, im bặt nên khiến đối phương có cảm giác khó lòng giữ chặt. Nếu hai bên hiểu nhau thì không sao, nếu không hiểu nhau bạn rất dễ đẩy đối phương dần xa mình hơn, vậy nên cần điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm của mình cho hợp lý.

Mức độ chủ động làm quen: ★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★

Tuổi Mão:

Vận thế tình cảm tháng này khá tốt. Hai bên rất hiểu nhau, nhưng những vấn đề rối ren xảy ra xung quanh cuộc sống của tuổi Mão hay suy nghĩ của đối phương ít nhiều có ảnh hưởng đến tình cảm của cả hai. Do vậy trong tình yêu không nên chỉ dừng lại ở việc tạo nên sự lãng mạn khi gặp nhau mà có thể đi du lịch, dành những kỳ nghỉ dài ngày cùng nhau để vun đắp thêm cho tình cảm hai bên.

Nam giới thì hãy quan tâm nhiều hơn đến đối phương. Nữ giới thì thể hiện sự chăm sóc của mình trong chính cuộc sống sinh hoạt thường nhật. Những bạn còn độc thân tạm thời chưa nên thổ lộ tình cảm với đối phương tránh trường hợp đối phương từ chối.

Mức độ chủ động làm quen: ★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★

 12 con giap do may man duong tinh duyen thang 3 - 2

Tuổi Thìn:

Tình cảm tháng này theo chiều hướng tốt. Đối phương đã cảm thấy tin tưởng bạn hơn. Nếu muốn tình cảm mặn nồng hơn nữa thì bản thân cần chủ động gặp gỡ nhiều hơn. Mọi nỗ lực trong thời điểm này đều có tác dụng gia tăng tình cảm. Với những bạn còn đang độc thân mặc dù đôi bên đã khá hiểu nhau nhiều nhưng thời gian này cũng chưa nên tính chuyện lâu dài đề phòng xảy ra mâu thuẫn.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★★

Tuổi Tỵ:

Tình cảm tháng này khá tốt. Những mâu thuẫn nhỏ cũng không khiến bạn quá lo lắng, dần dần mọi việc đều sẽ được thu xếp ổn thỏa. Nên vun đắp tình cảm nhiều hơn nữa không nên để mọi thứ quá ảm đạm. Có thời gian hãy thu xếp đi du lịch cùng nhau để gia tăng tình cảm cũng như hoài niệm về khoảng thời gian đẹp đã từng có trước đây.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp đọ may mắn đường tình duyên tháng 3

Cách hóa giải giờ quan sát –

Theo phong tục và quan niệm của người xưa thì giờ kim xa thiết tỏa là giờ xấu cho giờ sinh của mỗi người, thống kê của người xưa thì những người sinh vào giờ Kim Xà Thiết Tỏa sẽ khó sống qua 12, 13 tuổi, triển vọng rất bấp bênh. Nếu có sống được cũng
Cách hóa giải giờ quan sát –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hết sức khó nuôi vì sẽ mắc phải nhiều bệnh tật. Tuy nhiên vẫn có cách để hóa giải giờ này đi, để cho trẻ được khôn lớn nên người.Tuvikhoahoc.com

CÁCH TÍNH GIỜ KIM XÀ THIẾT TỎA

Cách tính giờ kim xa thiet toa: Trước hết phải biết năm, tháng, ngày, giờ sanh nào, rồi tự cung Tuất trên bàn tay (Tay Phải) mà bắt đầu tính năm Tý , tính xuôi cho đến năm sanh thuộc về cung nào, rồi tự cung ấy mà khởi tháng 1 (giêng) tính ngược lại cho đến tháng sanh thuộc về cung nào, rồi lại từ cung ấy khởi ngày mồng một (1) tính xuôi cho đến ngày sanh thuộc về cung nào, rồi lại từ cung ấy mà khởi giờ Tý tính ngược cho đến giờ sanh, rồi mới xem giờ sanh ấy ở cung nào ?

Hể con Trai mà phạm phải cung : THÌN – TUẤT
– Hể con Gái mà phạm phải cung : SỬU – MÙI
Thì đúng là nhằm giờ Kim Xà Thiết Tỏa .

Phương pháp tính giờ kim xa thiet toa này tính theo lịch âm.

Cách 1

*Bán khoán vào chùa (hiệu quả nhẹ)

Cách 2

*Dùng phép Tam y để hoá giải giờ kim xa thiet toa:

Bước 1: Chọn tháng ra Thiên y.

Đặt cửu tinh trực nguyệt và lệ cung niên vận đồ (cung này lấy theo năm cần tính để hoá giải, xem ở phần Tam tuyệt) phi ra các hướng, xem sao nào ra cung phi bản mệnh của đứa trẻ. So sánh giữa sao này với cung phi bản mệnh của đứa trẻ nếu ra Thiên y là được (theo vòng Đại du niên bát biến).
(“Tý Ngọ Mão Dậu Bát bạch cung Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ hoàng trung Dần Thân Tị Hợi cư hà vị Nghịch tầm Nhị hắc định kỳ chân”
Tức năm Tý Ngọ Mão Dậu tháng Giêng ra sao Bát bạch, tháng 2 ra sao Thất xích, tháng ba ra sao Lục bạch…)

Bước 2: Chọn ngày ra Thiên y.

Đặt Can Chi tháng cần tìm (lệnh tháng) vừa chọn nói trên vào lệ cung niên vận đồ rồi thuận phi đến một ngày trong tháng đó xem ra sao nào mà phối với mệnh cung phi của đứa trẻ nếu ra Thiên y là được yếu tố thứ hai.

Bước 3: Chọn phương ra Thiên y.

Chọn một trong tám phương xem phương nào trong xem phong thuy phối với mệnh cung phi của đứa trẻ ra Thiên y là ta được yếu tố thứ 3.

Bước 4: Cách tiến hành hoá giải giờ kim xa thiet toa.

Chọn giờ Thìn hoặc giờ Tuất ba khắc (một giờ có 8 khắc, một khắc chiếm 15 phút đồng hồ). Nếu giờ Kim Xà Thiết Tỏa của đứa trẻ rơi vào cung Thìn thì chọn giờ Thìn 3 khắc, nếu giờ Kim Xà Thiết Tỏa rơi vào cung Tuất thì chọn giờ Tuất ba khắc. Đưa đứa trẻ vào trong phòng khép kín cửa lại (Tránh gió, tránh ánh sáng, tắt đèn điện) đốt một đống lửa nhỏ ở phương Thiên y (có để lẫn một túm ngải cứu). Sau đó bế đứa trẻ mặt hướng về phương Thiên y (Mặt người bế hướng về phương Thiên y) rồi hơ qua hơ lại trên đống lửa đó (nam 7 lần, nữ 9 lần), chú ý tránh bị bỏng, chủ yếu lấy hơi ngải cứu bốc lên. Khi hơ xong bế cháu bé đó ngồi bên đống lửa đến giờ Thìn (hay Tuất) 6 khắc sau đó thì mở cửa ra. Như thế là đã xong.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải giờ quan sát –

Hãy cho và nhận đúng lý tưởng, phương châm sống của người con Phật

Nhân quả sẽ đạt đến đỉnh cao nếu người tu tập bố thí đạt đến trình độ Ba la mật. Hãy cho tất cả để có được tất cả là phương châm sống của người con Phật.
Hãy cho và nhận đúng lý tưởng, phương châm sống của người con Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để đạt được cách cho cao cả như vậy không phải người nào cũng làm được mà phải có trí tuệ, thấu hiểu bản chất của cuộc đời là vô thường và vô ngã. Chính tuệ giác vô ngã đã soi sáng cho hành động bố thí thông thường tiến đến Bố thí Ba la mật

Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi đắp y, cầm bát đi đến trú xứ của gia chủ Ugga, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Gia chủ Ugga đi đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn: “Ai cho vật khả ý thì nhận được điều khả ý”. Vì thế, con có nấu cháo từ hoa cây sàla và rất nhiều loại món ăn thật là khả ý; con có nhiều loại vải dệt từ Kàsi thật là khả ý. Mong Thế Tôn hãy nhận lấy vì lòng từ ái đối với chúng con.

Thế Tôn nhận lời và nói với Ugga bài kệ tùy hỷ này: “Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý, đối với bậc Chánh trực, vui lòng đem bố thí, vải mặc và giường nằm, ăn uống các vật dụng, biết được bậc La hán, được ví là phước điền, nên các bậc Chân nhân, thí những vật khó thí, được từ bỏ giải thoát, không làm tâm đắm trước, người thí vật khả ý, nhận được điều khả ý”.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda, phần Cho các vật khả ý, VNCPHVN ấn hành 1996, tr. 382)

LỜI BÀN:

Cho người thực ra đó là cho mình là một nhận thức quen thuộc của những người con Phật. Vì thế, ngoài tấm lòng từ bi bao dung, độ lượng đối với tha nhân, người Phật tử thực hành bố thí với mục đích nhằm vun bồi phước báo cho chính mình.

Thi ân, sẵn sàng cho đi mà không cầu đền đáp là một phạm trù vốn rất xa lạ và khó làm đối với những người vị kỷ, keo kiệt. Càng khó khăn hơn đối với họ khi phải cho những vật khả ý, tức những vật mà mình yêu thích. Đa phần, những đồ vật đem cho thường là những vật thừa thãi, vô dụng nhưng “xả” được như vậy đối với họ cũng là quý hóa lắm rồi.

Người Phật tử thì không như vậy, cho người là một nhiệm vụ, một nghĩa cử thiêng liêng. Vì thế, họ sẵn sàng ban tặng những gì mà chúng sanh cần, kể cả những vật khả ý thậm chí dâng hiến cả thân mạng vốn là một tài sản bất khả xâm phạm. Cho những gì mình thích, mình trân quý mới thực sự là cách cho trọn vẹn và khó làm nhất.

Để đạt được cách cho cao cả như vậy không phải người nào cũng làm được mà phải có trí tuệ, thấu hiểu bản chất của cuộc đời là vô thường và vô ngã. Chính tuệ giác vô ngã đã soi sáng cho hành động bố thí thông thường tiến đến Bố thí Ba la mật, một sự ban tặng mà vô cầu, vô điều kiện và vô phân biệt.

Tuy vô cầu, vô điều kiện và vô phân biệt trong khi cho nhưng phước báo của người cho vẫn tròn đủ. Nhân quả trong bó thí rất bình đẳng và đạt đến đỉnh cao nếu người tu tập bố thí đạt đến trình độ Bố thí Ba la mật. Vì vậy, hãy cho tất cả để có được tất cả là lý tưởng, phương châm sống của người con Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hãy cho và nhận đúng lý tưởng, phương châm sống của người con Phật

Sao Thất Sát - Chủ sự can đảm và dũng mãnh, là một quyền tinh

Sao Thất Sát là một quyền tinh, dũng tinh chủ sự uy vũ và sát phạt, can đảm. Thất Sát nếu hãm địa thì hung bạo và liều lĩnh và hay gây tai họa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thất Sát - Chủ sự can đảm và dũng mãnh, là một quyền tinh

Sao Thất Sát - Chủ sự can đảm và dũng mãnh, là một quyền tinh

Sao Thất Sát là một quyền tinh, nếu hãm địa thì hung bạo và liều lĩnh và hay gây tai họa.

Sao Thất Sát thuộc chòm sao nam Đẩu Tinh, tên thường gọi là Sát (thuộc tính Dương kim).

Sao Thất Sát miếu địa tại: Dần, Thân, Tý, Ngọ.

Vượng địa tại: Tỵ, Hợi.

Đắc địa tại: Sửu và Mùi.

Hãm địa tại: Mão, Dậu, Thìn, Tuất.

Cung mệnh có sao Thất Sát tọa thủ là người có thân hình nở nang, hơi cao nhưng da hơi thô xấu, mặt thường có vết, mắt to và lồi. Tính cách ương ngạnh và nóng nảy, làm việc gì cũng chỉ muốn cho nhanh xong.

Thất Sát miếu địa, vượng địa hay đắc địa là người rất can đảm dũng mãnh và thông minh, có nhiều mưu cơ lại thêm tính cương nghị, hiếu thắng và hay nói đại ngôn. Nhưng được nhiều người tín phục, tuy được hưởng giàu sang và sống lâu nhưng trên đường đời cũng gặp không ít những thăng trầm.

Sao Thất Sát miếu địa tại cung Dần và Thân là một quý hiển, nhưng tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ mà cung mệnh có cách này thì thật là tài quan và song mỹ.

Cung mệnh có sao Thất Sát hãm địa là một người hung bạo, gian quyệt, hay nói khoác lác, thường làm đồ tể, bán thịt, thợ rèn, nếu giàu có cũng không thể sống lâu được.

Thất Sát hãm địa tại Mão, Dậu tuy mờ ám xấu xa nhưng ứng với tuổi Ất, Tân mà cung mệnh có cách này thì vẫn được hưởng phú quý, gia tăng tuổi thọ.

Thất Sát hãm địa gặp Tả Phù, Hữu Bật, Long, Phượng, Quang, Qúy hội họp là người hay chuyên về chế tác vàng bạc.

Thất Sát hãm địa gặp Thiên Hình đồng cung tọa thủ nếu không mắc tù tội, tất cũng bị giết hoặc mắc tai nạn không ngờ.

Cung mệnh an tại Tỵ có Thất Sát và Tử Vi tọa thủ đồng cung tất được hưởng nhiều phú quý và có uy quyền hiển hách. Nếu 2 sao này gặp thêm Hỏa, Tuyệt hợp lại lại là người tàn nhẫn "Khát Máu".

Nếu Thất Sát gặp Hỏa Tinh và Tuyệt hội họp cùng với Bật, Khoa, Mã, Ấn, Hồng, Sinh người này tất hiển đạt về võ nghiệp, thường lập được chiến công một cách dễ dàng, và được vinh thăng lên hàng võ quan cao cấp.

Sao Thất Sát có Liêm Trinh đồng vị an tại Sửu và Mùi tất phải chết nơi đường xá.

Âm nam tuổi Ất, Kỷ mà cung mệnh an tại Sửu, Mùi, có Thất Sát, Liêm Trinh tọa thủ đồng cung là bậc anh hùng, trí dũng hơn người. Các tuổi khác mà cung mệnh an tại Sửu, Mùi có Sát, Liêm tạo thủ đồng cung cũng là người can đảm và có tài thao lược.

Cung mệnh có sao Thất Sát tọa thủ và đồng cung (hay có Phá Quân hãm địa tọa thủ), tất phải lìa bỏ gia đình và đi làm ở phương xa. Có cách này là người hiểu biết nhiều nghề nhưng không giỏi.

Cung mệnh có Thất Sát tọa thủ gặp Kình, Đà, Hỏa, Linh hội họp tất bị gù lưng. Hay có tật ở lưng và nếu ra trận chắc chắn là vong.

Cung mệnh an tại Ngọ có Sát, Kình tọa thủ đồng cung gặp thêm nhiều sát tinh hội họp thì hay mắc những tai họa, thường là vè xe cộ. Tuổi Bính, Mậu mà cung mệnh có cách này chắc chắn là phải chết một cách thê thảm, thân thể không được toàn vẹn. Nhưng tuổi Giáp, Kỷ mà cung mệnh có cách này thì lại là một bậc anh hùng cái thế.

Cung mệnh an tại Tuyệt có Thất Sát tọa thủ gặp Kình, Đà hội họp, tất bị yểu tử như ông Nhan Hồi học trò đức thánh Khổng. (Trong số của ông Nhan Hồi có cung mệnh an tại Tuyệt có Thất Sát tọa thủ, gặp Kình, Đà hội họp, nên ông đã chết sớm).

 Sao Thất Sát ở cung mệnh hãm địa gặp Hỏa, Kình hội họp là người nghèo hèn.

Cung mệnh an tại Ngọ, Tý có Thất Sát tọa thủ, đàn ông lấy được vợ hiền. Nếu gặp Sát, Riêu, Kiếp hội họp lại là người ghét đàn bà và thích cuộc sống độc thân.

Nữ mệnh có cung mệnh an tại cung Ngọ và Tý có Thất Sát tọa thủ gặp Kiếp, Riêu hội họp tất bị mắc vào lưới tình mà lụy. Trong đời phải gặp nhiều phen khổ sở vì tình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thất Sát - Chủ sự can đảm và dũng mãnh, là một quyền tinh

Cách hóa giải bất lợi trong hôn nhân

Một đoạn trích về cách hóa giải hôn nhân xấu rất hay. Mời các bạn cùng đọc.
Cách hóa giải bất lợi trong hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người chưa kết hôn nên chọn lựa kỹ lưỡng để tìm một người phối ngẫu tốt.

2. Trong mệnh có điềm tượng hôn nhân nhiều lần, nên đăng kí kết hôn và ở chung trước, qua một thời gian hãy cử hành hôn lễ; hoặc lên xe hoa trước, sống chung một thời gian rồi hãy đăng kí kết hôn.

3. Vợ chồng đã kết hôn, lúc hôn nhân xuất hiện dấu hiệu rạn nứt, có thể chọn ngày tốt để long trọng kỷ niệm cuộc hôn nhân này, hoặc đi chụp hình kỷ niệm cuộc hôn nhân này.

4. Vợ chồng nên ít ở gần nhau, hoặc nên ở riêng, hoặc có công việc độc lập, không can thiệp vào tư tưởng và hành vi của nhau.

5. Kết hôn muộn sẽ tốt hơn.

6. Hôn lễ càng đơn giản càng tốt.

7. Chú ý tính chất của sao Hóa Kị, để tìm cách hóa giải, ví dụ là Cự Môn Hóa Kị, nên bớt cãi nhau.

8. Theo tín ngưỡng tôn giáo để kiềm chế tính khí và phản tỉnh bản thân

(Tử Vi Đẩu Số Tinh Hoa Tập Thành - Đại Đức Sơn Nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải bất lợi trong hôn nhân

Ngày “Nguyệt kỵ” dễ bị thua thiệt –

Đó là các ngày 5, 14 và ngày 23. Tuy nhiên: Ngày 5 hại nhất ở các tháng 1, 4, 7 và tháng 10 âm lịch. Ngày 23 hại nhất ở các tháng 3, 6, 9 và 12 âm lịch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

new-moon

Đó là các ngày 5, 14 và ngày 23. Tuy nhiên:

Ngày 5 hại nhất ở các tháng 1, 4, 7 và tháng 10 âm lịch.

Ngày 23 hại nhất ở các tháng 3, 6, 9 và 12 âm lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày “Nguyệt kỵ” dễ bị thua thiệt –

Để đỡ lúng túng khi nghiên cứu một lá số Tử Vi

Bài viết: để đỡ lúng túng khi nghiên cứu một lá số tử vi của tác giả Ân Quang. Đây là một bài viết phân tích rất hay!
Để đỡ lúng túng khi nghiên cứu một lá số Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của ÂN QUANG

1- Lúng túng vì quan niệm sai lầm về “cách áp dụng” Tử-vi

Mệnh cư Ngọ, Phá Quân nhập miếu thủ Mệnh, Người tuổi Tân Mùi Âm Nam, thì Mệnh lại có Song Hao, Song Hỷ, Khôi Việt.

Dở sách Tử vi ra để đoán tướng người thì thấy:

- Phá Quân nhập miếu: Thân hình đẫy đà, lưng dày, mi thưa v..v….
- Song Hao hãm: thân hình nhỏ nhắn, bộ máy tiêu hóa không được lành mạnh v.v…

Vậy thì thế nào? Đẫy đà hay nhỏ nhắn? Bộ phận nào gia tăng, cơ quan nào giảm thiểu? Lấy cái đẫy đà cộng với nhỏ nhắn, chia hai ra trung bình hay sao?

Lại còn trường hợp Mệnh cư Tý, Thiên Đồng Thái Âm thủ Mệnh. Người tuổi Nhâm Tuất, Dương Nam, thì Mệnh lại có Kình Dương hãm địa.

Dở sách Tử-Vi ra để đoán tướng người này thì lại thấy:

- “Đồng Âm cư Tý, dung nhan mỹ ái”, nào là my thanh mục tú, nào là da trắng má nhuận v..v..
- Kình Dương hãm thì hình mạo phá tướng, dáng dấp lệch lạc,… nào là thân hình cao và thô, da xám, mặt choắt v.v….

Vậy thì thế nào? Thanh tú hay là lệch lạc? Da trắng hay da xám. Lấy cái đẹp và cái xấu cộng lại, chia hai, ra cái trung bình?

Một giáo sư Trung học Đệ Nhị Cấp, ở Nha Trang, nghiên cứu Tử-Vi vài năm năy, tìm tôi để hỏi về trường hợp hai lá số có các cách như trên. Có người luận là Tuổi Tân Mùi, mạng Thổ không ăn nhiều vào sao Phá Quân (thuộc Thủy) và tuổi Nhâm Tuất thuộc Thủy ăn vào sao Đồng-Âm nhiều hơn. Nhưng vị giáo sư ấy thấy rằng cũng không đúng lắm.

Vì một vài lý so riêng không tiện ghi rõ ngày giờ sinh, tôi xin chỉ ghi nét tiêu biểu để viết bài này giúp quí bạn mới nghiên cứu đỡ lúng túng khi áp dụng sách Tử-Vi.

Nếu không quan niệm rõ về công dụng của Tử-Vi, nếu chỉ dở sách Tử-Vi ra để áp dụng các “công thức” đoán tướng người một cách máy móc thì quí bạn sẽ hoang mang quay cuồng trước những độ số gia tăng, độ số giảm thiểu,sẽ có ngày hình dung được một quái thai hay một ác quỷ Dracula!

Có Đồng Âm thì “dung nhan mỹ ái”.
Có Tuế Kình thì ‘răng vẩu răng hô”.

Có Nhật Nguyệt gặp Kình Đà thì “mắt to mắt nhỏ” (Thái Âm cư Tý gặp Kình, Thái Dương cư Dần gặp Đà chiếu).

Có Hỏa Linh thì “nhăn nhó”
Có Đồng Âm “da trắng” lại có Kiếp Không, “da đen” v.v…

Tử Vi không phải là cái máy hay là cái khuôn đúc. Tạo hóa lại không có sự kỳ thị chủng tộc.

Một người da vàng, mắt đen, mũi thấp, dòng dõi nhỏ thó…. Một người da trắng, tóc hoe, mắt xanh, mũi cao, thuộc giống dân cao lớn…. và một người da đen, tóc xoăn, môi dầy…vẫn bình đẳng trước Tạo hóa, vẫn được quyền ra đời vào cùng một ngày giờ giống nhau, gặp hoàn cảnh vẫn có thể ra đời tại cùng một quốc gia.

Đem ngày giờ sinh ấy mà bịt mắt thầy Tử Vi nhờ đoán tướng người thì quả là làm một trò khôi hài chua chát!

Nhìn vào cung Thê (trong lá số người chồng) để đoán tướng người vợ, may mà găp trường hợp có nhiều truyền tinh, đoán đúng tướng dạng người vợ thì thật là “Phúc chủ Lộc Thầy” vui vẻ cả làng. Lỡ gặp người vợ không có lá số truyền tình, thì rất dễ gặp sự sai lầm ngớ ngẩn.

Tử Vi là Lý Học Tương Quan. Đặt sang một bên những trường hợp quá sai biệt vì lý do chủng tộc thông thường thì dùng Tử Vi để đoán tướng người là đoán tương đối:

- Cơ Nguyệt Đồng Lương thì dáng dấp có phần (xin lưu ý là có phần) hiền hậu, ôn hòa v..v…
- Tử Phủ Vũ Tướng thì có phần bệ vệ v..v…

Kiếp Không thì đen tái, mà đắc địa thì đen bóng…

Các sao khác cũng chỉ là luận tương đối mà thôi. Đó chỉ mới là làm một phần công việc chủ quan, phóng cái nhìn từ lá số trở ra. Gặp nhiều trường hợp đúng thì liền vội vã tin tưởng cực đoan, cho rằng Tử Vi là cái máy, cái khuôn đúc, không xét đến công dụng, giá trị thực của Tử Vi.

Tử Vi và Lý Học Tương Quan.

Sau khi làm một phần công việc chủ quan, tương đối, phải nhận định thêm một cách khách quan.

Đó là: “Phải xét hình tướng, rồi sẽ tìm sao trong cung Mệnh, xem nó liên hệ cùng sao nào mà ấn định” ( KHHB K1, trang 26 bài của cụ Đông Nam Á)

Xưa nay có rất nhiều người trùng ngày giờ sinh. Có hằng tá người tướng dạng, cuộc đời, vận hạn khác nhau. Dù tính theo Diễn Cẩm Tam Thế, dù áp dụng Khoa Bát Tự, dù tính theo Tử Vi, tăng số sao từ 108 vị lên đến 216 vị, thì quanh quẩn vẫn chỉ dựa vào mấy yếu tố hạn chế là: Nam, Nữ, Năm Tháng Ngày Giờ sinh, và chỉ lập được đến mức tối đa là trên năm trăm ngàn lá số như tôi đã từng chứng minh.

Tử Vi quyết không phải là cái máy. Mỗi lá số Tử Vi không phải là nhãn hiệu độc quyền của một người. Phương pháp Tử Vi không phải là chỉ luận chủ quan một chiều đi thẳng một đường từ cái Chủ Để là lá số, mà luôn luôn phải luận kèm với các yếu tố tương quan, để đạt đến đáp số là Tổng hợp đề.

Nhìn vào lá số để luận tương đối về tướng dạng. Và cũng phải xét hình tướng, rồi sẽ tìm (các vị) sao trong cung Mệnh xem nó ( đương số ) liên hệ cùng sao nào mà ấn định.

Việc làm này rất cần thiết vì khi luận về vận hạn, luôn luôn phải xét xem các bộ sao ở Mệnh Viên và ở cung Đại Hạn kết hợp với nhau ra sao thành những bộ cát hung nào.

Thầy Tử Vi kén rể, gặp anh chàng có ngày giờ sinh giống như Triệu Khuông Dẫn (vua Thái Tổ nhà Tống) thế mà rồi anh chàng ấy cũng chẳng ra quái gì. Chỉ vì tướng của hắn ta “ăn” vào sao Kình Dương hãm. Câu chuyện này cụ Đông Nam Á đã kể trong tuần báo Số Mạng. Tôi tiếc là không nhớ rõ chi tiết câu chuyện và báo số mấy.

Nếu có người cho rằng Cụ viết như vậy để đề cao ngành Tướng Số của Cụ, nếu chỉ vì Cụ viết nhiều về Tướng Số, viết ít về Tử-Vi, mà rồi những tài liệu đứng đắn của Cụ về “Cách Áp Dụng” Tử-Vi, chưa lôi cuốn được nhiều sự chú ý, thì đó quả là một điều đáng tiếc lớn lao.

Tôi không viết để quảng cáo cho Cụ Đông-Nam-Á. Từ lúc viết bài trong tuần báo S.M. Cho đến khi viết bài trong Giai Phẩm KHHB, tôi luôn luôn bận rộn với công việc ở Nha Trang, chưa có dịp về Sài gòn trao đổi ý kiến với Cụ. Tôi chỉ muốn góp nhặt tài liệu để làm sáng tỏ rằng Tử-Vi không phải là cái khuôn đúc, mà là Lý-Học Tương –Quan.

Vai trò của mỗi lá số Tử Vi không phải là một cái phù hiệu độc quyền, gắn chặt vào trái tim, vào bộ sương sống, hoặc là đứng ngay trong lòng một người nào. Vai trò của lá số Tử-Vi là một phép tính xác xuất, một bài toán Tương-Quan đứng bên ngoài, đứng khoảng giữa con người và vũ trụ vạn vật xung quanh. Luận về nghề nghiệp sinh hoạt, sự nghiệp… thì cũng phải xét đến các tương quan xã hội, có khi cũng cần xét đến tương quan gia tộc (cùng là lá số về thủ công nghệ con ông thợ may, con ông thợ thêu có thể tiếp tục nghề thêu…)

Có một vị xem Tử Vi chủ trương rằng mỗi lá số Tử Vi là một cái máy, một cái khuôn đúc, đóng khung chặt chẽ từng tiểu tiết nghề nghiệp. Trớ trêu thay, chính cuộc đời vị ấy đã trải qua không biết bao nhiêu nghề, có khi cùng một lúc làm hai nghề khác nhau, nghề phụ lại có lộc nhiều hơn nghề chính thức ghi trên giấy tờ.

Tôi có trình bày chi tiết hơn trong bài “Tử Vi đúng được bao nhiêu phần trăm”. Bài ấy có hơi dài, đăng trong giai phẩm KHHB thì bất tiện, vì vậy tôi đã gửi về để đăng trong Lịch Sách Tử Vi- Văn Nghệ Tiền Phong 1974 Giáp Dần.

Ở đây tôi chỉ xin tóm lược để quý bạn mới nhập môn Tử vi lưu ý không nên coi thường việc tìm hiểu giá trị thực và những “Cách Áp Dụng” đứng đắn của Khoa Tử vi, trước khi bắt tay vào việc nghiên cứu chi tiết. Nếu không bỏ ra chút ít thì giờ suy ngẫm về giá trị thực, về công dụng cũng như những “Cách Áp Dụng” đứng đắn của khoa Tư ci, nếu cứ hiểu lầm rằng Tử vi là cái máy, là cái khuôn đúc hoặc chỉ theo ý thích riêng, theo tin tưởng cực đoan, hoặc vội vã theo trào lưu, hấp tấp đi vào chi tiết thì sẽ vấp phải nhiều mâu thuẫn, nhiều lúng túng khi nghiên cứu một lá số.

2- Vô tình tạo thêm sự rắc rối vì không chú ý đến các vòng Sao

Trước một lá số chằng chịt những trên một trăm vị Sao, người mới nhập môn không khỏi thấy hoa mắt.

Để có một cái nhìn bình tĩnh mạch lạc trước khu rừng trên một trăm vị Sao, người nghiên cứu cần ghi nhận đặc tính của ba vòng “Sao”. Vòng Lộc Tồn- Vòng Tràng Sinh – Vòng Thái Tuế.
Mỗi vòng có 12 ngôi luân lưu theo một thứ tự không thay dổi. Do đó một ngôi chính, luôn luôn có một ngôi đối xứng và hai ngôi tam hợp không thay đổi.

Nhìn vào cung chính, thấy Lộc Tồn, nếu đã nhớ quen thứ tự vòng “ Sao” thì biết ngay là có Tướng Quân và Bệnh phù hợp chiếu, có Phi Liêm đối chiếu. Đó là một trật tự tất nhiên, không bao giờ thay đổi. Nếu luận rằng: “có Lộc Tồn lại được Tướng Quân hợp chiếu…” thì đó chỉ là luận thừa, tự mình rối mắt nhìn quanh, chẳng khác nào người chóng mặt nhìn thấy hai ba cái bóng của chính mình. Nếu luận rằng đã có “Lộc Tồn lại có Phi Liêm Bệnh Phù xung và hợp chiếu” thì chẳng khác nào luận rằng “ Đã có cái đầu lại có hai cái tay…” Lộc Tồn bao giờ chẳng có Phi Liêm Bệnh Phù chiếu? Nếu luận là đã có Lộc Tồn thì có Lộc, gặp Phi Liêm chiếu thì coi chừng khẩu thiệt, gặp Bệnh Phù thì coi chừng đau ốm, mà ngẫu nhiên có đúng thì cũng chỉ là chuyện gặp may, chứ chẳng phải là một cái nhìn mạch lạc, chẳng có giá trị Lý Học, Khoa Học nào trong đó cả.

Trong những trường hợp có thêm trợ tinh khác thì mới lưu ý thêm đến cung Tam hợp. Thí dụ: cung chính có Thiên Tướng, Lộc Tồn. Lộc Tồn đương nhiên có Tướng Quân chiếu. Nhưng ở đây Tướng Quân đã gặp Thiên Tướng để thành bộ lưỡng tướng, lúc ấy mới nên xét thêm đến ngôi Tướng Quân. Chẳng khác nào “ Đã có cái đầu, lại có hai tay” nhưng trong trường hợp sau này thì cái tay được võ trang, trang bị thêm, đây mới là trường hợp đáng cứu xét.

Cũng như cung chính đã có Phi Liêm, thì đương nhiên đối cung phải là Lộc Tồn, tam hợp phải là Thanh Long, Phục binh.

Nếu luận rằng đã có Phi Liêm lại gặp Phục Binh, thì chỉ là do cái nhìn rối mắt mà ra. Bao giờ nó chẳng gặp nhau. Nếu Phục Binh có gặp Đẩu quân thành bộ Phục Đẩu thì mới đáng để ý, còn không thì thôi.

Nhìn vào cung chính thấy có Phi Liêm thì coi chừng khẩu thiệt. Lại nói “may được Lộc Tồn cứu giải” thì là luận thừa. Phi Liêm bao giờ chẳng có Lộc Tồn đối chiếu. Nếu có gặp Hóa Lộc thành bộ Song Lộc thì mới đáng kể. (Song Lộc cũng cứu giải).

Khi có nhận định, ghi nhớ, thứ tự của 12 ngôi trong mỗi vòng thì mới tránh được trường hợp vì hoa mắt mà “thả mồi, bắt bóng”.

Thấy có Bệnh phù ở cung chính thì nhớ mang máng là chủ đau ốm, bệnh hoạn, v..v.. không xét đến “Ý nghĩa” Lý Học của ngôi Bệnh Phù trong vòng Lộc Tồn, hoặc là không ưa nghe cái tên Bệnh Phù mơ hồ xấu xí, hoặc là lại dối lòng, cho rằng đó là “ Sao Nhỏ” bỏ đi, gắn cái nhìn của mình vào Thanh Long ở đối cung chiếu vì cái tên Thanh Long nghe hấp dẫn hơn, dễ hiểu hơn.
Vòng Thái Tuế cũng vậy, cũng có những thứ tự cố định của các ngôi. Người nghiên cứu cần thuộc lòng thứ tự các ngôi của ba vòng Lộc Tồn- Tràng Sinh-Thái Tuế, để đỡ hoa mắt luận thừa, mệt trí mà không đem lại cái nhìn sáng suốt hơn. Thí dụ như thấy có Thái Tuế ở cung chính, liếc mắt thấy Tuế Phá ở đối cung liền giật mình, bảo là có Lưỡng Tuế thì hại lắm. Lại hoảng hốt thêm khi thấy có Quan Phủ, Bạch Hổ hợp chiếu. Đó chỉ là do rối mắt, hoa mắt mà ra. Thái Tuế bao giờ chẳng có Tuế Phá, Quan Phù, Bạch Hổ xung hợp chiếu. Đó là trật tự tất nhiên của 12 ngôi trong vòng Thái Tuế. Trừ phi ngôi Quan Phù hoặc Bạch Hổ có gặp thêm sao khác, hợp thành bộ khác ( như Diêu Hổ chẳng hạn) lúc ấy mới cần xét thêm sau….

Vòng Tràng Sinh cũng vậy. Cứ tìm hiểu ý nghĩa của ngôi Tràng Sinh tại Mệnh viên là đủ. Nói rằng Mệnh có Sinh Vượng chỉ là một cách phát biểu thiên lệch, đề cao cái tốt theo thiện cảm của mình, làm cho ý nghĩ bị lệch lạc. Thích người ta thì nói rằng “Mệnh có Sinh Vượng” Không thích người ta, thì sẽ nói rằng Mệnh có “ Sinh Bệnh” hay sao? Đến khi ghét người ta thì sẽ nói là Mệnh có “ Sinh Mộ”, rồi đến khi trù ẻo người ta, thì sẽ nói là Mệnh có “Sinh Mộ” và bị Tuyệt nhị hợp hay sao? Vì không nhớ rõ 12 ngôi trật tự trong một vòng, cho nên dễ bị hoa mắt, đến khi có ác cảm với một lá số thì lại nói là “Mệnh đã có Mộc Dục lại còn bị sao Tử Tuyệt chiếu”!.
Ghi nhớ trật tự tất nhiên của 12 ngôi trong mỗi vòng, người nghiên cứu sẽ đỡ hoa mắt, đỡ luận thừa

3- Góp ý kiến với ông Cao Trung về vòng Tràng Sinh

Kể đến giai phẩm KHHB – EI, thì loạt bài của ông Cao Trung và quan niệm của tôi về vòng Tràng Sinh không có gì trái ngược nhau, tuy nhiên, tôi cũng xin được góp thêm một vài điều nhận xét.

Cùng một Ông Tổ là Dịch lý mà cái học về Tử Vi và Bốc Dịch là cái học về Phần Động, về phần Tương Quan, còn cái học về Địa Lý là cái học về phần Tĩnh. Các thế đất đã cố định, không di động, không thể đem khu đất ở Sài gòn để ráp với khu đất ở Huế. Trong khi đó hai người cùng ngày giờ sinh vẫn có những người hôn phối khác tuổi nhau. Luận về một Quẻ Dịch cũng phải xét đến các yếu tố Tương Quan.

Tuy cùng một Ông Tổ là Dịch lý nhưng Tử Vi và Địa Lý đã đi vào hai “chi” khác nhau và phải có một số nguyên tắc khác nhau. Cũng như từ một thân mình mọc ra, mà chân thì để đi đứng, còn tay thì để làm việc. Tuy rằng chân và tay có một số trường hợp giúp ích cho nhau, nhưng nguyên tắc hoạt động của chân và của tay phải khác nhau.

Không thể đem Vòng Tràng Sinh của Địa Lý để gán ghép cho Tử Vi.
Trong cái học về Tĩnh, lấy Mộ hướng làm chuẩn để dịch các hướng khác, thì trong cái học về Động, về Tương Quan, lại lấy Sinh làm gốc để khởi các hướng khác.

Vì vậy trong Quẻ Dịch, dù Dụng Thần là Hào Âm hay Hào Dương cũng vẫn tính Tràng Sinh ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi.

Tử Vi và Bốc Dịch đã có liên hệ khăng khít như tay phải và tay trái.

Học giả Huỳnh Kim đã để lại một bài phú bồi đắp quan trọng cho Khoa Tử Vi.

Những câu:

- Khốc Hư Tý Ngọc, tiền bần hậu phú.
- Mã ngộ Tràng Sinh, thanh vân đắc lộ.
- Lương phùng Hao Sát tại Tỵ cung đao nghiệp hình thương v..v..v

Và còn rất nhiều câu khác, đặt thành vần, thành vế đối, đều là của Huỳnh Kim. Tiếc rằng, các nhà soạn sách Tử Vi sau này đã tách rời các câu trong bài phú ấy, để đặt thành hệ thống có vẻ Khoa Học Tây Phương, hoặc là vì thành kiến, đã dẹp cái tên Huỳnh Kinh đi, để suy tôn Trần Đoàn lên ngôi độc đáo mà vô tình các nhà nghiên cứu sau này, không mấy ai nhận ra được câu nào là của Trần Đoàn, câu phú nào là của Huỳnh Kim. Có khi đọc xong một câu phú Huỳnh Kim lại rung đùi ca tụng … Trần Đoàn! Chính vì thế mà trước những tài liệu Tử Vi bằng chữ Hán (hoặc chữ Nho viết tay) dù là từ Đài Loan, từ Hồng Kông, tại Việt nam, hay dù được giới thiệu rằng đó đó là tài liệu chân truyền, bí truyền từ nhiều đời trước tôi vẫn thận trọng tra cứu, so sánh và thấy có xen lẫn lắm cái “ngớ ngẩn” như tôi đã trình bày trong KHHB E1.

Một bài phú quan trọng cho Quẻ Dịch, và một bài phú bồi đắp lớn lao cho Tử Vi, đều cùng do một học giải để lại, thì chúng ta có thể tin rằng hai khoa này phải có liên hệ mật thiết về Lý Thuyết, không có cái gì mâu thuẫn giữa hai khoa này.

Tử Vi và Bốc Dịch đều cùng có lý thuyết “ Tuyệt xứ phùng sinh” mà dù là cách áp dụng có hơi khác nhau. Tôi đã theo lời dẫn của các cụ, đem câu “ Sinh Vượng..không rõ Mộ Tuyệt- Mộ Tuyệt … (chở) Sinh Vượng phá một tắc khai v.v…

“Áp dụng” vào Tử Vi thì thấy cũng đúng. Có lẽ vì người xưa phần nhiều học truyền khẩu, đinh ninh rằng người đi sau đều hiểu được quan điểm của người đi trước, cho nên đã không đặt thành vấn đề ghi chép tỷ mỉ vào trong sách vở Tử Vi.

Vòng Tràng Sinh trong Tử Vi là vòng Cục, vòng Nhập Cuộc, vòng Nhân Sự. Vòng này không phải là các “Sao Nhỏ” mà nên chiêm nghiệm toàn vòng, mỗi ngôi là một phương diện, một hướng của cái “vòng” Nhất Thế ấy”. Vòng này quan trọng đến nỗi, trong tất cả các lá số xưa mà tôi sưu tầm được (tôi lại vừa may mắn gặp được thêm một lá số lập thành cách đây 67 năm) cổ nhân đều viết riêng bằng chữ to, chứ không viết lẫn lộn với các sao khác.

Muốn chiêm nghiệm về các Ngôi trong vòng Cuộc, thì chiêm nghiệm theo cái “ý Nghĩa” của toàn vòng, chứ không nên tách rời thành từng “Ông Sao Nhỏ” như thấy sao Thai ngộ Đào Hoa, sao Mộc Dục gặp Hoa Cái, sao Dưỡng v.v… trong một số trường hợp ngẫu nhiên … rồi hoang mang không nhận định được ý nghĩa của vòng Cuộc.

Mệnh dù là danh nhân, lá số dù đứng vào thượng cách, mà lại ở vào phương Tuyệt của vòng cuộc (không nên tách ra coi riêng một ông Sao Tuyệt) thì về phương diện Nhân Sự, khi lao mình nhập cuộc sẽ có lắm điều trái lòng, thất vọng, thêm hung tinh trợ lực nữa thì có khi là tuyệt vọng, (ở trong phạm vi của danh nhân, của thượng cách).

Tuyệt đài sinh (chờ sinh). Chờ đến đại hạn ở Sinh hướng (Tràng Sinh) thì phần nhập cuộc có triển vọng thỏai mái hơn. Tôi xin nói là có triển vọng, vì vòng cuộc mới chỉ là một trong ba nhóm sao, biểu tượng của Thiên – Nhân – Địa và cũng còn thêm ảnh hưởng trợ lực của các “Sao tổng quát khác (không có sao nào là “Sao Nhỏ’ cả). Nếu nó nhỏ và ảnh hưởng không đáng kể thì cổ nhân đã mất công tìm tòi khám phá làm gì?

Trong Địa Lý thì căn cứ vào “Thủy Tả đảo Hữu, hoặc Thủy Hữu đảo Tả” mà định Âm, Dương cho cuộc đất. Đây là phần Tĩnh, lấy Mộ hướng làm chuẩn.

Trong Tư Vi và Bốc Dịch thì vòng Cục đã có một ý nghĩa khác, để xem về Tương Quan, về phần Động, về Nhân sự, Nhập Cuộc v..v…

Tuy cùng một ông Tổ là Dịch Lý nhưng Tử Vi và Địa Lý đã đi vào hai “chi” khác nhau. Ở gốc thì là một, nhưng ở ngọn thì là hai. Không thể vì quá thích thú, say mê Địa Lý mà đem cái Âm Cục, Dương Cục của Đại Lý vào trong Tử - Vi. Vả lại, khoa Địa Lý không phải là một khoa duy nhất đã phát sinh ra vòng Tràng Sinh “cho” Lý Học Đông Phương.

Như trên đã trình bày, cùng một học giả Huỳnh Kim đã xây dựng quan trọng cho Quẻ Dịch, đã bồi đắp lớn lao cho Tử Vi thì quan niệm về vòng Tràng Sinh của Tử - Vi và của Bốc Dịch phải gần nhau mật thiết hơn.

Vòng Tràng sinh trong Tử vi cũng rất quan trọng và người xưa đã viết riêng, viết bằng chữ to, chứ không để lẫn lộn với các sao khác. Muốn chiêm nghiệm vòng này thì nên chiêm nghiệm theo cái “Ý nghĩa” của toàn vòng, chứ không phải cắt ra từng “Ông Sao” nhỏ như Tử, Tuyệt, Mộc Dục, Thai v…v… Cái việc Thai ngộ Đào Hoa, Mộc phùng Hoa Cái v,v… chỉ là sự kết hợp phụ của vòng Cục với một vài sao khác. Đó không phải là ảnh hưởng chính yếu của vòng Cục, một trong ba vòng quan trọng của Tử vi.

Tôi xin mạo muội góp thêm một vài nhận xét với ông Cao Trung về vòng Tràng Sinh.

Bài này đã khá dài, tôi xin hẹn lại kỳ tới, sẽ bàn về Mệnh Chủ, Thân Chủ, Thiên Trù, Lưu Niên Văn Tinh.

Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để đỡ lúng túng khi nghiên cứu một lá số Tử Vi

Lập Quẻ Dịch Bằng Cách Gieo Đồng Tiền

Cần có 3 đồng tiền cổ đã được linh hóa. Người đến xin quẻ phải trực tiếp gieo đồng tiền.
Lập Quẻ Dịch Bằng Cách Gieo Đồng Tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cần có 3 đồng tiền cổ đã được linh hóa. Người đến xin quẻ phải trực tiếp gieo đồng tiền. Cách gieo như sau:

- Đặt 3 đồng tiền vào lòng bàn tay trái, bàn tay phải úp lên.
- Để yên 1 phút cho từ trường của con người tác động vào đồng tiền, tập trung tư tưởng nghĩ về việc đang muốn cầu.
- Xóc đồng tiền trong lòng bàn tay. Nam xóc 7 lần, Nữ xóc 9 lần, rồi thả từng đồng ra đĩa. Gieo lặp lại 6 lần. Mỗi lần ghi được 1 hào. Lần lượt ghi từ dưới lên trên, gieo lần 1 là hào 1, lần 2 là hào 2, lần 3 là hào 3.... lần 6 là hào 6.

- Cách ghi các hào như sau: (mặt có 4 chữ nho là mặt ngửa, mặt không có chữ nho là mặt xấp)
2 đồng ngửa ghi là hào dương (+)
1 đồng ngửa ghi là hào âm (-)
3 đồng ngửa ghi là hào âm (-) (có biến)
3 đồng xấp ghi là hào dương (+) (có biến)

Thí dụ: Gieo bằng đồng tiền 6 lần được quẻ chủ là thiên lôi vô vọng và quẻ biến là thuần ly. Cụ thể như sau:

lần 6: 2 ngửa, hào +
lần 5, 3 xấp,hào + biến
lần 4: 2 ngửa, hào +
lần 3: 3 ngửa, hào - có biến
lần 2: 1 ngửa, hào -
lần 1, 2 ngửa, hào +

Quẻ chủ
+
+ (0)
+
-
-
+
thiên lôi vô vọng

quẻ biến
+
-
+
+
-
+
thuần ly

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lập Quẻ Dịch Bằng Cách Gieo Đồng Tiền

Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Việc thờ Thần của người Việt từ xưa đã có sự chọn lọc theo quan điểm ai có công với dân với nước thì thờ. Tất nhiên không ngoại lệ các trường hợp chết vào giờ “thiêng” có ảnh hưởng đến cuộc sống của một địa phương nào đó. Tuy nhiên các trường hợp này ít được sùng bái rộng rãi, được sắc phong cũng như ít được bảo tồn, thường chỉ có các miếu nhỏ, đống đất có dầu tích và nén nhang do từ tâm ở các vùng Trung, Nam, Bắc.
Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.

Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay!
  Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh.   Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay.   Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi:   “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng).   Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương  (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong…   Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ.   Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”…   Như vậy, trong vòng 5-7 km, các  xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh.   Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi…   Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương.   Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.

Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân.
  Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định.   … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”…   Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi:   … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội”
Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng.   Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc.   Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi:   Nam Hải thần phong thiên hữu sắc   Cần môn ba tố địa giai binh   Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc,   Cầu môn nổi sóng đất anh linh.   Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ…   Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ…   Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”.   Tạm dịch:   - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển.   - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi.   Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng.   Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt,   Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam,   Ngàn thu thơm nức hương lan,   Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương…   Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng,   So bể, trời hình tượng cao sâu   Sáng soi khắp chốn đâu đâu,   Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia   Trăm họ nức âu ca cổ vũ,   Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm.   Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên,   Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài,   Đang vui lúc lòng trời yên thuận,   Quốc gia đều hoà khí xuân phong.   Sau vì nhất quốc tam công,   Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô.   Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng,   Bóng tà dương soi rạng bể Nam.   Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn,   Chúa tôi một dạ những toan phục hồi.   Giang sơn Tống dẫu mười còn một,   Có lẽ đâu chịu mất ngay đi.   Ngoài thì tướng sĩ phù trì,   Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn.   Người son phán mà gan vàng đá   Việc binh nhung vững dạ kiên tâm.   Thần dân báo đáp quân ân,   Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ.   Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống,   Hẳn không dung những giống bất nhân.   Lại khuyên võ tướng mưu thần,   Gắng công vì nước đền ơn sinh thành…   Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh,   Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên   Mới hay thành bại do thiên,   Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay.   Cuộc thế sự hết bày trò rối,   Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan…   Lênh đênh trên biển liều thân,   Quyết lòng thu thập quan quân phục thù,   Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng,   giãi gan cùng trời trắng bề trong.   Ôi thôi thả lá giữa dòng,   Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi.   Ấy mấy biết người trời khác giá,   Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh.   Chí thành Phật cũng chứng minh.   Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi   Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết,   Chùa La Sơn Nam Việt là đây.   Ung dung ở chốn am mây   Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi…   Độ bốn vị đều nên Thần phúc,   Hoá chân thân bốn khúc trầm hương.   Gió đưa thoảng ngát một phương,   Hào quang trước mắt ngư phường khô hay.   Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển,   Rước lên thờ kính tiến khói hương.   Nhờ ơn từ đấy mấy làng   Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen.   Đua cầu phúc lập đền tế lễ   Độ cho người sông bể biết bao   Kể chi giông tố ba đào   Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên…   Công hộ quốc thơm ghi Nam sử,   Lễ suy tôn khởi sự Đông – A   Mẫu về chắc giáng điện toà   Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường.   Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết.   Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi:   “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”…   “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”.   Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công.   … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo…   Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”.   Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công.   Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ…   Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh),  “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn…   Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể.   Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào.   Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh.   Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay.   Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại.   Tạm dịch:   Đền Thần mới sửa bên sông Trệ   Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung   Hoặc câu:   Âu ca một hội Xuân sau trước,   Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng.   Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công.   Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương.   Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào.   Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh.   Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ.   Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân:   “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”.   (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành).
Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Những mẹo tránh ma quỷ trong tháng 7 âm hiệu quả

Theo truyền thuyết, tháng 7 xá tội vong nhân là thời gian ma quỷ được tự do đi lại trên trần gian. Để tránh ma quỷ trong tháng 7 âm, có một số điều nên chú ý.
Những mẹo tránh ma quỷ trong tháng 7 âm hiệu quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Xua ma, tranh quy trong thang co hon hinh anh
 
Tháng xá tội vong nhân là truyền thống của người Việt và nhiều nước theo đạo Phật khác. Trong tháng này, người ta thường cúng vàng mã, đồ ăn cho người thân đã mất và những linh hồn vất vưởng, không nơi nương tựa. Đây là một trong những phong tục rất nhân văn. 
 
Đây là thời gian ma quỷ tập trung trên trần gian, những hồn ma lang thang thăm lại nơi chốn cũ nên để tránh ma quỷ vào tháng 7 âm, tốt nhất không làm các việc như tùy tiện đốt mã mà không cúng bái, đi chơi đêm, nhổ lông chân, ăn vụng đồ cúng, thức khuya, phơi quần áo ban đêm, nhặt tiền rơi trên đường, hù dọa người khác. Những việc ấy đều dẫn ma quỷ tới quấy nhiễu hoặc khiến quỷ khí vận vào người.
 
Trong bố trí, sắp xếp đồ đạc cũng phải lưu ý để tránh ma quỷ vào tháng 7 âm. Chuông gió là vật phẩm phong thủy có nhiều tác dụng tốt, tuy nhiên, nếu treo ở đầu giường thì “họa vô đơn chí”, từ cát hóa thành hung. Tiếng chuông gió kêu như tiếng chuông gọi hồn của các thầy pháp, thu hút ma quỷ. Khi ngủ là lúc con người yếu đuối và ít đề phòng nhất. Treo chuông gió gần chỗ ngủ thì dẫn dụ quỷ tới làm hại bản thân.
 
Trước khi đi ngủ nên quay đầu dép hướng ra ngoài để “đánh lạc hướng” ma quỷ, hướng chúng đi chỗ khác. Nếu quay mũi dép vào trong thì ma quỷ nhìn vào đó đoán biết có người trên giường sẽ tới làm hại.
 
Việc đi đứng, nói năng cũng cần thận trọng để tránh ma quỷ trong tháng 7 âm lịch. Cây đa, góc tối, nơi vắng vẻ thường là chỗ trú ngụ của ma quỷ, nên tránh đứng lâu hoặc đi qua đó. Ma quỷ thấy hợp sẽ nhập hoặc theo về nhà. Nói năng không nên to tiếng, nói bậy sẽ gặp họa “vạ miệng” từ ma quỷ. Cần hòa nhã, nhỏ nhẹ, không thề thốt những điều viển vông.
 
Tránh làm các việc lớn trong tháng cô hồn như mua xe, làm nhà, xin việc, kí hợp đồng, cưới xin… Bởi tháng này là tháng của ma quỷ,  âm khí thịnh thì làm gì cũng không hay, không những không thuận lợi, may mắn mà còn dễ gặp xui rủi, tai họa.
 
Một điều để tránh ma quỷ trong tháng 7 âm ai cũng phải biết là tuyệt đối không chặt cây to. Những cây lâu năm thường là nhà của ma quỷ, âm hồn, chặt đi thì chúng mất nhà nên thù oán, sẽ theo về nhà mình chiếm nơi ở hoặc quấy phá để trả thù.
 
Ông bà ta có câu “có thờ có thiêng”, dẫu chưa có chứng cớ chứng minh tính chính xác nhưng chỉ là đôi chút việc nhỏ, không ảnh hưởng nhiều tới sinh hoạt thường ngày thì nên nghe theo để giữ yên ổn cho bản thân và gia đình.

Các bài viết về tháng cô hồn, có thể bạn quan tâm:
Thứ tự làm 4 lễ cúng rằm tháng 7 tại nhà để hóa giải mọi tai ương Infographic: Nên làm gì trong tháng cô hồn để không bị vong linh quấy quả? Kinh nghiệm cúng lễ đuổi ma xua tà trong tháng cô hồn Bày cách cúng cô hồn chuẩn, gia đình không bao giờ bị ma quỷ quấy nhiễu
  ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những mẹo tránh ma quỷ trong tháng 7 âm hiệu quả

Xem tướng người tốt (Phần 1)

Trong nhân tướng học, tướng rồng, tướng phượng, tướng kì lân...là tướng người tốt, có cuộc sống giàu sang, phú quý.
Xem tướng người tốt (Phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Xem tuong nguoi tot (Phan 1) hinh anh
Ảnh minh họa
  1. Tướng rồng

Đặc điểm: Thân hình cao lớn, dáng đi vững chãi, sắc mặt hồng hào, ánh mắt uy nghiêm, giọng nói ôn hòa, lông mày dài và rậm. 
 
Tính cách: Người có tướng rồng khá quyết đoán, khả năng xử lí công việc nhanh chóng, hợp lí. Trong quan điểm nhân tướng thời xưa, đây là tướng đế vương, nắm giữ quyền hành lớn trong tay, thường có địa vị cao trong xã hội và là tướng người tốt, biết giúp đỡ người yếu thế.
 
2. Tướng phượng

Đặc điểm: Thân hình dong dỏng cao, đôi mắt thon dài, chân mày nhỏ hẹp, thần sắc uy nghi, giọng nói trong trẻo. 
 
Tính cách: Người có tướng phượng thường có cuộc sống giàu sang phú quý và được vang danh trong thiên hạ.
 
3. Tướng kì lân

Đặc điểm: Thân hình vừa phải, ngực rộng, rắn chắc và hơi ưỡn về phía trước, trán cao mắt sáng, chân mày đen rậm, giọng nói rõ ràng, to tát.
 
Tính cách: Chủ nhân của tướng kì lân là người “ăn to nói lớn”, có thể làm nên sự nghiệp hiển hách cho đời.
 
4. Tướng sư tử
 
Đặc điểm: Thân hình cao to, vai rộng và nở, lưng to, chân tay rắn chắc, miệng rộng môi dày, mắt lớn đầy uy lực, tiếng nói ầm vang, trán gồ cao.
 
Tính cách: Người có tướng sư tử rất thông minh, mưu trí, văn võ song toàn. Họ chính trực, thẳng thắn nên dễ “mất lòng trước, được lòng sau”.
 
5. Tướng voi
 
Đặc điểm: Thân hình to lớn và nặng nề, bước đi chậm chạp, dáng ngồi nghiêm chỉnh, môi dày, mũi thấp.
 
Tính cách: Người có tướng này tuy không nhanh nhẹn thông minh nhưng lại hiền hậu, suy nghĩ chín chắn và làm việc chăm chỉ nên có cuộc sống giàu sang khi về hậu vận.
 
6. Tướng tê giác

Đặc điểm: Thân hình to lớn, trán cao rộng, lông mày rậm rạp, đầu tròn, mắt nhỏ nhưng hơi lồi, hai tai nhỏ nhưng dày.
 
Tính cách: Đây là tướng tốt. Người này có sức khỏe cường tráng, ít bệnh tật, sống thọ và có cuộc sống sung túc, giàu có.

7. Tướng khỉ

Đặc điểm: Thân hình nhỏ, vừa phải, trán nhô cao về phía trước, hai mắt đen tròn, lưỡng quyền nổi cao.
 
Tính cách: Người có tướng khỉ vô cùng lanh lợi, mưu trí và cuộc sống sung túc nhưng có điểm hạn chế là khá háo sắc.
 
8. Tướng ngựa

Đặc điểm: Khuôn mặt rất dài và hẹp dần ở phía dưới, miệng rộng, răng to, lưng dài.
 
Tính cách: Người có tướng này thường chăm chỉ, khoan dung, cuộc sống những năm đầu đời tuy vất vả nhưng hậu vận tốt, hưởng phúc an lành.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng người tốt (Phần 1)

Duyên vợ chồng

Tu trăm năm mới chung một chuyến thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên vợ chồng, đó là câu nói dân gian về duyên phận nhân sinh,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tu trăm năm mới chung một chuyến thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên vợ chồng, đó là câu nói dân gian về duyên phận nhân sinh, gặp nhau bởi chữ duyên, gắn kết đời nhau bởi chữ nợ, trân quý cơ duyên này cũng chính là trân quý bản thân mình vậy.

Vợ chồng là thiếu nợ lẫn nhau sao? Vợ chồng là nợ nghiệp nhau sao? Duyên vợ chồng như thế nào mới có thể chấm dứt đây? Vợ chồng lại là cái gì duyên mà kết thành đây? Tục ngữ có câu:“Tu trăm năm mới đi chung thuyền, tu ngàn năm mới chung chăn gối”. Ý câu này là, những người có thể ngồi chung trên một chuyến thuyền đều là người hữu duyên, còn có thể kết thành vợ chồng thì giữa họ với nhau mối duyên càng sâu đậm. Nói cách khác, quan hệ vợ chồng là loại sâu sắc nhất trong tất cả các loại duyên phận, chỉ có điều là trong những duyên này có thiện có ác.

Duyên vợ chồng nhìn chung đến từ ba loại duyên dưới đây:

Duyên đến từ việc người này có ân với người kia

Con người trong những lần gặp nhau, nếu người này có ân với người kia, khiến họ cảm động khôn nguôi, và nguyện ý báo ân trả nợ, thì vào kiếp sau một người sẽ là nam còn người kia là nữ, bởi nguyện ước thiện lành trong quá khứ mà kết thành vợ chồng.

Ví dụ, khi bạn rơi xuống nước, lúc đó không ai nguyện ý cứu bạn, nhưng lại có một người dũng cảm quên mình vì bạn, mặc kệ có cứu sống hay không, bạn vẫn ghi lòng tạc dạ ân nghĩa này. Vì đền ân cứu mạng, bạn vào kiếp sau sẵn lòng làm thân trâu ngựa báo đáp. Loại tình huống này chính là duyên vợ chồng vì báo ân mà kết thành.

Trong các loại duyên vợ chồng, loại duyên vợ chồng này có thể hạnh phúc mỹ mãn nhất, bởi vì sâu thẳm trong ý thức của một người tồn tại ý niệm dâng hiến một cách không oán không hối, nên hai bên đều có thể hạnh phúc. Tuy nhiên, loại vợ chồng này không bảo đảm là không cãi nhau hoặc không ly hôn, nếu cá tính không hợp thì vẫn sẽ có vấn đề ma sát khi sống chung.

Duyên mà người này thiếu nợ người kia

Nếu như duyên vợ chồng kết thành từ việc người này thiếu nợ người kia, thì chúng ta có hai loại nợ nần được tính đến. Một là khoản nợ tiền tài, hai là khoản nợ tình cảm, cũng có những khoản nợ khác, nhưng hai loại trên vẫn là chính yếu.

Ví như nếu kiếp trước bạn là đàn ông, bị một người con gái phụ bạc, lừa gạt tình cảm, cảm thấy không cam lòng. Như vậy kiếp sau bạn sẽ còn gặp lại cô ấy. Khi cô gái này gặp được bạn, cô sẽ nắm chặt bạn, không bao giờ để bạn chạy trốn nữa. Đây chính là vợ chồng vì khoản nợ tình cảm mà kết thành.

Một ví dụ khác như, khi nam nữ đang trong quá trình tìm hiểu, con trai lúc nào cũng là người chi trả mọi khoản. Nếu cô gái ham hưởng thụ điều này, mà lại không thành tâm muốn kết giao, khi đã lợi dụng được một thời gian liền lạnh lùng rời đi, như vậy người con trai đương nhiên sẽ rất không cam tâm. Nếu là vậy, cô gái này trong kiếp sau sẽ còn gặp người con trai này, cô gái khi đó cũng sẽ có tiền, nhưng rất nhiều tiền của cô đều bị anh ta tiêu hết, hoặc cuối cùng đều thuộc về anh ta. Trường hợp này là vợ chồng vì khoản nợ tiền tài mà kết thành. Dẫu đây là vì ác duyên mà kết thành vợ chồng, nhưng chỉ cần trong quá trình sống chung tại kiếp này có thể làm việc chăm chỉ, không so đo với nhau khi ở chung, thì vẫn có cơ hội sống hạnh phúc.

Nhân duyên thiếu nợ lẫn nhau

Loại duyên thiếu nợ lẫn nhau này, tức là nợ qua nợ lại nhưng là nợ tiền tài và tình cảm là phần nhiều. Nói cách khác, nếu đôi bên khi tìm hiểu, đã nợ nhau các khoản tiền tài và tình cảm như trên, họ kiếp này gặp lại kết thành vợ chồng, vừa vặn dễ dàng giúp nhau trả nợ.

Lúc này cũng có thể nói, vợ chồng kết thành chính là vì cân bằng nhân quả. Chính vì có nhân quả nên “quan hệ” giữa con người với nhau liên tục được cân bằng, không tồn tại bất công.

Vì vậy, bất kì ai khi đã nên duyên vợ chồng, cần phải quý trọng nhau mà chung sống, vì khoản nợ này sẽ còn thay đổi. Không được oán giận người kia, không được oán trời trách đất, vì oán thán sẽ khiến món nợ kia trả hoài không hết! Hoặc món nợ đã mắc càng ngày càng nặng hơn! Trong loại duyên vợ chồng này, bởi vì hai bên đối với nhau đều đòi hỏi bên này phải trả nợ bên kia, nên thường xuất hiện tính toán và tranh chấp. Tuy nhiên, hai bên chỉ cần thay đổi suy nghĩ, dùng thái độ cam tâm tình nguyện mà đối đãi với người kia, như vậy khoản nợ này sẽ nhanh chóng được trả hết.

Duyên vợ chồng tốt nhất

Trên đây là nói về các loại yếu tố kết thành duyên vợ chồng. Nếu dùng số mệnh con người để xem, các loại thiện ác trong duyên vợ chồng cũng phần nào nói lên bạn có hạnh phúc hay không, những người vì ác duyên mà thành vợ chồng, lại càng không cần phải nói. Tuy nhiên, nếu hai bên phù hợp ba điều kiện dưới đây, bất kể là loại vợ chồng duyên gì cũng có thể hưởng hạnh phúc. Vì vậy, khi bạn chọn người phối ngẫu, ba nhân tố này là rất quan trọng:

Một, hai bên cá tính tương hỗ.

Hai, hai bên đều kính trọng lẫn nhau.

Ba, hai bên đều là người có trách nhiệm.

Nói cách khác, điều kiện bên ngoài, vinh hoa phú quý hay không cũng không phải chỉ tiêu hạnh phúc hay không.

Làm sao biết duyên vợ chồng đã kết thúc hay chưa?

Bên cạnh đó, khi chung sống tại kiếp này, vợ chồng cãi nhau là chuyện thường tình. Tuy nhiên, sau khi giằng co cự cãi không ai chịu ai, luôn sẽ có một người nhất định muốn ly hôn, nhưng người kia lại không chịu, điều này nói lên rằng khoản nợ lẫn nhau vẫn còn chưa hết, duyên vợ chồng này còn chưa kết thúc.

Ngược lại, nếu như trong quá trình chung sống, tình cảm vợ chồng nhạt nhẽo, chẳng ai lưu luyến ai. Điều này nói lên rằng khoản nợ giữa vợ chồng đã hết, vì vậy hai bên sống chung giống như bạn bè, chẳng lưu luyến bịn rịn.

Ngoài ra, qua việc chia tay cũng có thể nhìn rõ duyên vợ chồng đã kết thúc hay chưa. Bất luận việc chia tay này là tử vong, đi xa nhà, xuất gia, hay ly hôn.

Nếu như đôi bên khó lòng chia ly, lúc chia tay khóc nức nở, thì ắt hẳn ân oán vợ chồng này còn chưa trả hết, duyên vợ chồng vẫn còn.

Còn khi chia tay, oán hận lẫn sự bất mãn vẫn khuấy động tâm can hoặc không cam lòng, điều này nói lên rằng “khoản nợ” giữa các bạn vẫn còn chưa trả hết, kiếp sau gặp lại vẫn sẽ tiếp tục kết làm vợ chồng.

Hoặc lúc chia tay, cả hai giống như bạn bè, không oán hận, chỉ đau thương hoặc khổ sở một chút, nhưng không đến nỗi muốn níu kéo nhau, điều này nói lên rằng khoản nợ giữa vợ chồng các bạn cuối cùng có thể chấm dứt rồi.

Vợ chồng là nghiệp chướng sao?

Phật giáo thường nói, kết hôn là nghiệp chướng, cái này chủ yếu nói về giải thoát trong tu luyện. Dựa vào duyên vợ chồng trong quá khứ, bởi vì có ân oán tình thù chưa kết thúc, vì vậy đời này kết làm vợ chồng, mà trước khi ân oán tình thù chưa cân bằng, hai bên sẽ phải gắn kết với nhau, người này cản trở người kia, tạo thành chướng ngại trên con đường tu hành. Tuy nhiên, nếu các bạn mong muốn nhanh chấm dứt duyên vợ chồng này, có thể dùng lý trí mà suy nghĩ để cải thiện quan hệ đôi bên. Suy nghĩ cho lợi ích của đối phương là điều kiện tiên quyết để quyết định sự việc, chuyện cản trở lẫn nhau này có thể giải quyết được.

Ngoài ra, nếu như duyên vợ chồng của các bạn còn chưa kết thúc, mà bạn muốn tu hành, thì bạn có thể tận dụng khoản thời gian chung sống vợ chồng để hiểu rõ nhân tính. Việc này chính là giúp bạn thêm trí tuệ, bởi hiểu tận tường nhân tính con người không phải chuyện dễ dàng.

Nam và nữ đều có cả ưu và khuyết điểm, và khoảng thời gian chung sống của vợ chồng cũng chính là thời khắc bạn học tập ưu điểm của người kia, đây cũng là điều không dễ để tiếp thu. Đặc thù giữa nam nữ khác nhau rất lớn, ví dụ như mưu cầu dục vọng và giá trị quan của nam nữ khác nhau, sở thích hoặc nhu cầu tình cảm cũng không giống nhau v.v.., bạn chính là trong khi chung sống vợ chồng mà tự mình tìm hiểu, nếu làm được như thế thì đây cũng là tu hành rồi.

    Duyên vợ chồng mặc dù là trở ngại giải thoát, nhưng nếu bạn có thể tận dụng tốt việc này để tìm hiểu nhân tính, thì cũng chính là có thể giúp bạn khai mở trí tuệ, chẳng phải đó là “đá kê chân” sao. Hãy tận dụng cho tốt cơ duyên này vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Duyên vợ chồng

Xem tướng đàn ông là người chồng chuẩn mực

Xem tướng đàn ông để tìm người chồng chuẩn mực là chỗ dựa vững chắc cho người vợ, là trụ cột gia đình, tướng đàn ông biết thương vợ thành đạt đáng tin cậy
Xem tướng đàn ông là người chồng chuẩn mực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng đàn ông tìm ra được hình tượng người chồng chuẩn mực là ước mơ của biết bao phụ nữ. Theo nhân tướng học, đàn ông có những đặc điểm về tướng mạo sau chắc chắn là người sẽ thành công trong cả sự nghiệp lẫn hôn nhân.

Nếu bạn đang muốn tìm “một nửa”, ngoài việc tìm hiểu tính cách, quan điểm sống, có thể tham khảo thêm vài gợi ý dưới đây khi nhìn vẻ bề ngoài của chàng.

Xem tướng đàn ông đi tìm người chồng mẫu mực

Đàn ông có tướng trán vuông

Vầng trán vuông là đặc điểm thường gặp ở nam giới. Chủ nhân của dạng trán này thường sống rất thực tế, thận trọng trong công việc. Họ là người rất kiên trì, có ý chí phấn đấu không mệt mỏi.

Đàn ông có tướng trán vuông tính tình cương trực, thẳng thắn, phụ nữ có thể tin tưởng dựa vào.

Sự nghiệp của người đàn ông này gặp nhiều thuận lợi và bền vững. Dù làm ngành nghề gì thì họ đều có quý nhân phù trợ và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Đặc biệt, người đàn ông này thích bảo vệ phái yếu, luôn tôn trọng và cảm thông với mọi người xung quanh.

Đàn ông có tướng cằm đầy đặn vuông vức

Cằm cho biết vận mệnh cuối đời của một người, đổng thời còn tiết lộ quan niệm, tình cảm của người đó đối với gia đình. Người đàn ông có cằm đầy đặn vuông vức là người rất coi trọng hạnh phúc gia đình.

Không những thế, người đàn ông có tướng mạo này còn là người nhân hậu và thường có sức khỏe tốt. Nhưng nếu một người đàn ông có cằm nhọn có nghĩa họ thuộc mẫu người thích bay nhảy, không thích sự gò bó của gia đình và thường không chung thủy.

Xem tướng đàn ông có đôi mắt có thần, tinh nhanh nhạy bén

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Nam giới có mắt sáng, thần thái thanh thoát, đoan chính và nhạy bén là người có thể làm nên đại nghiệp. Người này có nghị lực kiên cường, ít nói nhưng lại hành động hiệu quả, chính xác. Họ giữ được thái độ điềm tĩnh trước mọi khó khăn và hay làm việc trượng nghĩa. Điều đó lý giải nguyên nhân mẫu đàn ông này lại thành công cả trong sự nghiệp và hôn nhân.

Đàn ông có tướng mũi đầy đặn, sống mũi cao

Chiếc mũi là đại diện cho tài vận, công danh sự nghiệp của đàn ông. Nếu mũi nhỏ gày, hai cánh mũi lại dẹt xuống, người đàn ông này dù có được thừa hưởng tài sản từ tổ tiên để lại cũng sẽ cạn kiệt và nghèo khó. Ngược lại, nếu dáng mũi to, đầy đặn, sống mũi cao, hai cánh mũi có thịt thì lại là người phúc hậu, tài vận hơn người, công danh sự nghiệp có thành tựu lớn và là người chồng, người cha tốt trong gia đình.

Xem tướng đàn ông có môi dày, miệng rộng và sắc môi hồng hào

Tướng đàn ông này thường tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định và giữ vị trí cao trong xã hội. Họ sống tình cảm, trọng tình nghĩa nên thường là người chồng tốt và biết xây dựng hạnh phúc hôn nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông là người chồng chuẩn mực

Giải mã việc ngủ mơ thấy các địa điểm

Đôi khi bạn mơ thấy mình ở công viên, nhưng cũng có khi ở trong nhà tù. Địa điểm khác nhau thì ý nghĩa mỗi giấc mơ cũng khác nhau.
Giải mã việc ngủ mơ thấy các địa điểm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả

Mơ thấy mình ở trong bưu điện ám chỉ một thông điệp quan trọng sẽ xuất hiện trong vô thức hoặc từ sự sáng tạo đầy trí tuệ của bạn. Giấc mơ này cũng nói lên rằng, bạn cần có sự tiếp cận hoặc liên hệ thường xuyên hơn nữa với mọi người. Hãy giữ vững niềm tin hoặc cố gắng tìm cách liên hệ với những người nào đó trong quá khứ.

Giai ma mot vai dia diem thay trong giac mo hinh anh
Mơ thấy bảo tàng nhắc bạn nhớ về quá khứ

Giấc mơ về viện bảo tàng chỉ ra rằng con đường thành công của bạn sẽ không đi theo lối mòn truyền thống. Nó được tạo dựng từ sự sáng tạo độc đáo của cá nhân bạn. Chính vì thế, đôi khi bạn muốn được thử sức mình, thích được đối mặt với thử thách. Hình ảnh bảo tàng cũng ngầm nói đến những năm tháng đã qua của bạn. Nó cũng hàm ý bạn hãy nhớ về quá khứ, về người thân và gia đình. Quá khứ có thể đem lại cho bạn nhiều bài học, nhiều kinh nghiệm quý báu cho cuộc sống hiện tại và tương lai.
 
Mơ thấy mình ở trong công viên ám chỉ sự trốn chạy thực tại. Nó cũng gợi mở về những điều thiêng liêng như sự tái sinh, sự suy tư và những điều mang tính tâm linh. Ngoài ra, giấc mơ này cũng có thể xuất hiện sau khi bạn trải qua một thời kỳ khủng hoảng, xung đột nội tâm sâu sắc hoặc sau khi hoàn thành công việc nào đó với tất cả lòng nhiệt huyết của mình. 
 
Mơ thấy khách sạn ám chỉ việc bạn sắp có những thay đổi về mặt tâm lý hoặc tính cách. Điều này sẽ khiến bạn dần có những khác biệt từ thói quen trong sinh hoạt và cả cách tư duy. Ngoài ra, giấc mơ này còn biểu thị cái tôi của bạn đang dần phai nhạt đi.

Mơ thấy phòng thí nghiệm ám chỉ những cảm xúc đang trỗi dậy trong bạn: nỗi sợ hãi, niềm tin... Cũng có thể bạn sẽ được trải nghiệm cuộc sống từ những mối quan hệ mới hoặc có một số thay đổi trong cuộc sống.
  Trong giấc mơ, ta thấy bản thân đang ở trong văn phòng của mình thì có thể có một sự thay đổi trong tình yêu. Nhưng nếu đó là giấc mơ về một văn phòng mới lạ, nhiều khả năng ta sẽ thiết lập được mối quan hệ mới. Bạn mơ về văn phòng cùng với tâm trạng lo lắng, đây là điềm báo rằng, bạn có thể xích mích với gia đình. Giấc mơ này ám chỉ bạn đang mất dần sự tự do. Đáng tiếc hơn, có thể trong giai đoạn này, năng lực, tài năng của bạn không được mọi người chú ý, trân trọng. Giấc mơ này cũng nói lên rằng, bạn thường rơi vào cảm giác ngột ngạt, tù túng.   Ngoài ra, cũng giống như địa danh "sở thú", giấc mơ này tượng trưng cho trạng thái hỗn loạn. Vì vậy, bạn nên xem xét lại cuộc sống hiện tại của mình để có sự điều chỉnh cân bằng, hợp lý hơn.
 
Mơ thấy mình đang tìm kiếm một ốc đảo tượng trưng cho sự xung đột nội tâm, cảm giác bất an và những tình huống bất khả kháng. Mơ thấy mình đang nghỉ ngơi trên một ốc đảo ám chỉ những thành công trong lĩnh vực kinh doanh hoặc chính trị. Nó cũng nói rằng rất có thể bạn cần được hưởng một kỳ nghỉ vui vẻ.

Giai ma mot vai dia diem thay trong giac mo hinh anh 2
Mơ thấy nhà tù - cuộc sống của bạn đang bị tù túng
  Mơ thấy mình ở trong nhà tù ám chỉ việc bạn đang phải sống trong cảnh mất tự do hoặc không được thể hiện mình hoặc đang phải phải chịu sự bủa vây của những điều bất hạnh. Mơ thấy người nào đó ở trong nhà tù ám chỉ một phần cuộc sống của bạn đang bị tù túng.
 
Giấc mơ về nhà xe ám chỉ quãng thời gian mà bạn đã để nó trôi qua một cách vô ích. Bạn thấy mình đang cần có sự định hướng đúng đắn hơn trên con đường đi tới mục tiêu. Bạn mơ thấy mình kéo ô tô ra khỏi nhà xe. Nó chỉ ra rằng, những thành công bạn đạt được sẽ đem đến một cuộc sống ổn định, an toàn và vững chắc. Mơ thấy mình đang mở cửa nhà xe biểu thị việc bạn phải đưa ra quyết định quan trọng. Nói cách khác, bạn phải quyết định tới cách thức nắm bắt thời cơ để đạt tới mục tiêu. Ngược lại, giấc mơ thấy mình đóng cửa nhà xe ám chỉ việc bạn đã để cơ hội tốt tuột khỏi tầm tay.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã việc ngủ mơ thấy các địa điểm

Sao Tiểu Hao

Hành: Hỏa Loại: Hao Tinh, Bại Tinh Đặc Tính: Phá tán, hao tán Tên gọi tắt thường gặp: Hao
Sao Tiểu Hao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Tiểu Hao và Đại Hao. Gọi tắt là Song Hao. Cũng là sao thứ 4 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).



Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Dần, Thân, Mão, Dậu.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất, Hợi.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo

Cung Mệnh có sao Tiểu Hao, thì lùn, đẹt, ốm.

Tính Tình

Người thường hay thay đổi chí hướng, nghề nghiệp, tính hào phóng, thích tiêu pha, ăn xài lớn, hay ly hương lập nghiệp, thích đi đây đi đó hoặc làm các nghề lưu động, di chuyển.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Với Các Sao Khác:

  • Đại Hao, Tiểu Hao, Cự Môn, Thiên Cơ: Rất giàu có, tiền bạc thừa thãi vô cùng.
  • Tiểu Hao gặp Hỏa, Linh: Bị nghiện (ghiền).
  • Tiểu Hao vơí Tuyệt đồng cung: Xảo quyệt. Nếu Mệnh vô chính diệu thì càng giả trá và rất keo kiệt, tham lận.
  • Tiểu Hao gặp Tham Lang đồng cung hay xung chiếu: Hiếu sắc, dâm dật nhưng rất kín đáo.
  • Tiểu Hao gặp Hóa Kỵ: Vất vả, túng thiếu.
  • Đào, Hồng, Đại, Đại Hao: Tốn tiền nhân tình.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ không được sống gần quê cha đất tổ, phải thay đổi nơi ăn chốn ở, nghề nghiệp.
  • Tiểu Hao, Hóa Kỵ thì cha mẹ vất vả.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Phúc Đức
Đại Hao ở cung Phúc Đức có nghĩa là bần hàn, giòng họ ly tán, tha hương lập nghiệp. Đại Hao rất kỵ ở cung này.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Điền Trạch
  • Không có điền sản (nếu thêm Không, Kiếp càng chắc).
  • Dù có cũng phải bán, hoặc phải hao tốn tài sản.
  • Gặp Không, Kiếp đắc địa thì điền sản được mua đi bán lại rất mau.
  • Hao tốn vì dọn nhà cửa, thay đổi chỗ ở, hoặc một kiểng hai hoa.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Quan Lộc
  • Làm việc có tính cách lưu động, thường hay thay đổi chỗ làm hay đổi nghề nghiệp.
  • Tiểu Hao gặp Hóa Quyền: Người dưới khinh ghét.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Nô Bộc
  • Bị tôi tớ trộm cắp, làm hao tốn của cải hoặc bị người dưới, bạn bè ăn chận.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Thiên Di
  • Tiểu Hao ở cung Thiên Di có nghĩa là khi ra ngoài tốn tiền, thường phải tha hương lập nghiệp, thay đổi chỗ ở nhiều lần.


Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được tai nạn, nhưng nếu có thêm các sao xấu như Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì vì đam mê một thứ nào đó mà sinh ra bệnh tật.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Tài Bạch
Trừ phi đắc địa, vì bản chất của Tiểu Hao là hao tán, cho nên đóng ở cung nào làm giảm cái tốt của cung đó. Đặc biệt Tiểu Hao rất kỵ những cung Tài, Điền, Phúc. Về điểm này, Tiểu Hao nghịch nghĩa với Đẩu Quân.

Tiểu Hao ở cung này có nghĩa là tán tài, hao tài, nghèo túng, có dịp phải ăn tiêu luôn.
  • Tiểu Hao gặp Đào, Hồng: Tốn tiền vì gái.
  • Nếu Tiểu Hao gặp Phá hay Tuyệt thì bị phá sản. Tiểu Hao gặp Không, Kiếp cũng bị phá sản.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Tử Tức
  • Sinh nhiều nuôi ít.
  • Con cái không được ở gần cha mẹ.

Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Phu Thê
  • Đi xa mà gặp duyên nợ, việc cưới xin dễ dàng.
  • Đà La, Thiên Hình, Thiên Riêu thì người hôn phối phong lưu, tài tử.
Ý Nghĩa Tiểu Hao Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em ly tán, mỗi người một chí hướng.

Tiểu Hao Khi Vào Các Hạn
  • Có dịp hao tài tốn của hoặc vì tang khó, bệnh tật hay bị mất trộm.
  • Có sự thay đổi hoặc nghề nghiệp, hoặc chỗ làm, hoặc chỗ ở, hoặc đi ngoại quốc.
  • Nếu có ốm đau, thì mau hết bệnh.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tiểu Hao

Sự nghiệp và hướng ngồi của văn phòng tại gia? –

Văn phòng tại gia còn phải chú ý một điều là ngành nghề và hướng ngồi cũng có quan hệ nhất định, ở đây chúng tôi xin nêu ra một số trường hợp để tham khảo. - Ngành nghề thuộc Kim của Ngũ hành Ngành trang sức, tiền vàng bạc, xe hơi, ngân hàng tiền tệ,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn phòng tại gia còn phải chú ý một điều là ngành nghề và hướng ngồi cũng có quan hệ nhất định, ở đây chúng tôi xin nêu ra một số trường hợp để tham khảo.

Home-Office-5-e1326805389987
– Ngành nghề thuộc Kim của Ngũ hành

Ngành trang sức, tiền vàng bạc, xe hơi, ngân hàng tiền tệ, cơ giới đào lấp, ký kết khai thác, luật sư, giám đốc, thể dục thể thao… nên ngồi Tây hướng Đông, ngồi Đông hướng Tây Bắc, ngồi Đông hướng Tây Bắc hướng Đông Nam.

– Ngành nghề thuộc Mộc của Ngũ hành

Văn hoá xuất bản, tạp chí báo giới, văn học nghệ thuật, biểu điễn, dụng phẩm văn thể, phụ đạo giáo dục, trồng hoa cây cảnh, rau xanh, vật liệu từ gỗ, đồ y tế, nhân viên y tế, nhân sỹ, tôn giáo, may đo, thiết kế thời trang, kế toán… nên ngồi Tây hướng Đông, ngồi Tây Bắc hướng Đông Nam, ngồi Đông Bắc hướng Tây Nam, ngồi Tây Nam hướng Đông Bắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp và hướng ngồi của văn phòng tại gia? –

Mâm cỗ ngày tết của 3 miền Bắc -Trung - Nam có gì đặc biệt?

Mâm cỗ ngày tết của 3 niềm thường có những món nào? Món gì là đặc trưng cho mỗi vùng miền và cách làm như thế nào. Bạn hay cũng Phongthuyso tìm hiểu cách làm các món cỗ ngày tết của 3 miền Bắc, Trung Nam nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mâm cỗ ngày tết của 3 niềm thường có những món nào? Món gì là đặc trưng cho mỗi vùng miền và cách làm như thế nào. Bạn hay cũng Phongthuyso tìm hiểu cách làm các món cỗ ngày tết của 3 miền Bắc, Trung Nam nhé.


Mân cỗ ngày tết miền bắc:

Mâm cỗ ngày tết của 3 miền có gì đặc biệt

Những món đặc trưng trong mâm cỗ ngày tết miền Bắc

Đối với người Việt Nam, âm thực luôn được coi trọng hàng đầu trong những ngày Tết. Thành ngữ Việt Nam có câu "ăn Bắc mặc Nam". Những món ngon miền Bắc rất đa dạng, trong đỏ phải để đến những món đặc trưng như dưa hành, thịt đông, nẻm rán, giò chả các loại,....
Những món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ miền Bắc bao gồm:
+ Bánh chưng
+ Dưa hành
+ Giò nạc, giò thủ
+ Thịt đông
+ Nem
+ Rau nộm
+ Canh măng lỡi lợn (hoặc nấu cùng chân giò)
+ Canh mọc thập cẩm
+ Gà luộc
Việc bày trí mâm cỗ ngày tết của người miền Bắc thường khá phong phú, tùy thuộc vào những thói quen ăn uống mà mỗi gia đình lại có thêm những món khác nhau. Tuy nhiên, trong mâm cỗ ngày Tết của mọi gia đình miền Bắc thì không thể thiếu những món kể trên.
Bánh chưng: 
Bánh chưng là linh hồn của ngày Tết. Người xưa có câu: " Bánh Giày hình tròn tượng trưng cho trời, bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất". Tinh hoa đất trời được hòa quyện khéo léo từ đôi bàn tay của người thợ làm bánh. Ngày nay, khi xã hội phát triển, nhiều gia đình không có thời gian để gói bánh chưng thường sẽ đặt mua ở nhà nhà làm bánh chưng truyền thống.
Nguyên liệu để gói bánh chưng bao gồm:
+ Phần nhân bánh gồm có: Thịt (nên chọn loại thịt ba chỉ vừa có nửa nạc nửa mã, vị béo ngậy), đậu xanh đã được hấp chín, hành không, tiêu.
+ Nếp làm bánh là loại nếp mới thu hoạch, hạt tròn, bóng.
+ Thông thường bánh chưng có thể gói với lá dong hoặc lá chuối.
Khi gó thì phải gói chặt tay, thời gian luộc bánh chưng vào khoảng 10 - 14 tiếng, sau khi luộc xong thì rửa qua nước lã rồi dùng một tấm ván và những vật nặng ép bánh thật chặt. Để khi bóc bánh không bị nát, miếng bánh dẻo hơn, ngon hơn.
Dưa hành.
Dưa hành thường được sử dụng như một món ăn kèm với bánh chưng để giảm bớt cảm giác ngấy, và với các món có nhiều dầu mỡ. Vị chua nhẹ, cay cay của dưa hành giúp cơ thể dễ dàng tiêu hóa thức ăn.
Trước hết, bạn cần lựa loại hành già, củ chắc, cắt bỏ phần đuôi chỉ chừa lại phần rễ. Sau đó, ngâm hành vào trong nước tro có pha hàn the trong khoảng thời gian 2 ngày 2 đêm. Tiếp theo, vớt hành ra, cắt bỏ rễ, lột vỏ chỉ còn lại khoảng 5cm rồi xếp hành vào khạp, rải muối, bỏ một lớp mía chẻ mỏng, rồi đến lớp hành gài lại bằng những vỉ tre. Sau 2 tuần, bạn có thể lấy hành ra cho vào hũ thủy tinh, rồi nấu nước dấm đường để nguội cho vào. Tầm 3 ngày là ăn được.
Cách làm giò nạc, giò thủ:
Giò dùng thịt đầu heo thì gọi là giò thủ. Làm Giò thủ, tai heo, thịt thủ, không giã mà thái miếng vừa ăn, trộn thêm mộc nhĩ (nấm mèo), nước mắm, hạt tiêu rồi xào chín. Xong, gói bằng lá chuối tươi, buộc lạt cho chặt rồi luộc hoặc hấp cách thủy. Khi giò chín, vớt ra rồi ép, dùng 4 thanh tre cặp quanh khoanh giò, cột cho chặt, treo trên bếp. Khi ăn cũng thái miếng và bày trí thật đẹp.
Thịt đông:
Đây là món riêng của mùa đông Bắc Bộ. Chỉ trong cái không khí lành lành, thì mới cho ra món thịt đông thấm được được hương khí đất trời. Nguyên liệu làm thịt ba chỉ rất đơn chỉ chỉ cần thịt ba chỉ, thịt gà và thêm mảng bì lợn, mộc nhĩ.
Nem:
Đây là món ăn thồng thường hàng ngày.
Nguyên liệu là nem gồm: hịt lợn nạc (ngon nhất là nạc dăm) băm nhỏ, thịt cua bể hay tôm nõn, nấm hương, mộc nhĩ, hành khô, giá sống (hay củ đậu), trứng, hạt tiêu, muối, gia vị…
Nem được rán vàng, giòn trong chảo ngập mỡ. Nem rán phải chấm với nước mắn pha cùng tỏi, ớt, chanh, đường, sao cho vừa đủ độ mặn, chua, cay.

Mâm cỗ ngày tết miền Trung

Mâm cỗ ngày tết của 3 miền có gì đặc biệt

Những món đặc trưng trong mâm cỗ ngày tết miền Trung

Miền Trung là khu vực có thời tiết khắc nghiệt nhất trong cả nước. Khu vực này thường xảy ra hạn hán hoặc lũ lụt. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vào ngày Tết, người dân ở đây cũng háo hức chuẩn bị các món ăn ngon. Mâm cỗ ngày tết miền trung thường có những món đặc trưng gồm:
+ Bánh tét (nguyên liệu giống với bánh chưng nhưng được gói thành hình trụ dài với lá dong)
+ Nem chua: Đây là một món đặc sản của người miền Trung.
+ Dưa hành, rau củ: Dưa hành của người miền trung còn được muối chung với su hào, cà rốt.
+ Bánh tổ: Đây là một món ăn hấp dẫn không thể thiếu trên mâm cỗ ngày tết miền trung. Bánh tổ được làm từ nếp hương, mật mía, gừng và mè.
+ Giò bỏ tiêu sọ: Đặc trưng của người miền trung trong bữa ăn không thể thiếu vị cay. Móng bò tiêu sọ đặc trưng nhất là nhiều và thật nhiều tiêu được giã nát, có vị thơm đặc trưng cỏa bò và tiêu đen hòa quyện vào nhau.

Mâm cỗ ngày tết miền Nam:

Mâm cỗ ngày tết của 3 miền có gì đặc biệt

Những món đặc trưng trong mâm cỗ ngày tết miền Nam

Với khí hậu trái ngược với người miền Bắc, thì miền Năm đón Tết với thời tiết nóng ẩm cộng thêm nhiều đặc sản trù phú, trái cây đa dạng. Nên ẩm thực miền Nam cũng rất phong phú. Những món chính trên mâm cỗ ngày tết miền Nam có những món ăn sau:
+ Bánh Tét: Ngoài những nguyên liệu cần thiết để làm bánh tét thì phần nhân bánh Tét của người miền Nam có có thêm dừa nạo, đậu đen, lá cẩm, lá dứa,..
+ Củ cải ngâm mắm:
+ Canh khổ qua: Món này vừa chống ngán, lại thanh đạm rất phù hợp với khí hậu miền Nam. Ngoài ra, người dân ở đây còn có quan niệm, canh khổ qua còn có ý nghĩa là hết năm nay, qua mọi nạn khổ ải, qua mỏi sự khó khăn.
+ Thịt kho tàu: đây là món ăn vừa đưa cơm, lại vừa đẹp mắt.
+ Củ kiệu trộn tôm
+ Gỏi gà xe phay.
Ngoài những món chính như trên thì các vùng miền còn có thêm những món ăn khác, có sự giao thoa giữa các vùng miền. Trên mâm cỗ ngày tết không những bày biện nhiều món ăn mà còn là sự bày trí bài hòa về màu sắc,  hương vị. Ẩm thực là nét đặc trưng chính trong văn hóa, phong tục ngày tết cổ truyền Việt Nam.

: Mâm cỗ cúng tất niên gồm những gì Tết 2017 Mâm cỗ ngày tết ở miền Nam Mâm cỗ ngày tết ở miền Bắc Mâm cơm miền Bắc Mâm cơm cúng giao thừa miền Bắc
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mâm cỗ ngày tết của 3 miền Bắc -Trung - Nam có gì đặc biệt?

Xem trán đoán tính cách của bạn

Trán đại diện cho sức mạnh, cũng như sự thông minh, sáng tạo và trình độ học vấn. Ngoài ra, trán cũng có thể là một đặc điểm cho ta thấy tính cách của người đó.
Xem trán đoán tính cách của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem-tran-doan-tinh-cach-cua-ban
Trán rộng
Trán hẹp
Trán hình núi
Trán nhọn
Trán thẳng
Trán cong
Trán chữ M

Mộc Trà (theo Quiz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem trán đoán tính cách của bạn

Tướng mặt của người cô đơn

Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm

tuong-menh-yeu

Nếu như xương to nặng, đó là người cô đơn.

Dái tai quá to, lông mày giao nhau, lông mao dày, tóc mai dày, đó là người cô đơn.

Nếu vành tai lật ngược người đó thường sống một mình.

Lông mày rậm dày, chủ cô đơn.

Nếu như tiếng nói như tiếng sấm, đó cũng là người cô đơn.

Nếu như nách có mùi, cằm lệch cũng là mệnh cô đơn.

Xương gò má cao chủ về người đơn độc, cô lẻ.

Nếu như khóe miệng hướng xuống cũng chủ người cô đơn.

Tướng cô quả: Xương gò má cao, dưới mắt không có thịt 

Người có xương gò má cao, một đời cô độc, không có con nối dõi hoặc phải nhận con nuôi.

Người dái tai mỏng, sống xa cha mẹ vợ con, nhà cửa gia nghiệp phá tán, không bảo vệ được cơ nghiệp tổ tông.

Xương lông mày cao, nhiều vợ nhưng vợ phá hoại, bạc bẽo. Những người có hình tướng như thế còn lắm bệnh nhiều tật, tính khí bạo ngược, nóng nảy.

Người mà dưới mắt mỏng thịt, con gái gặp tai họa, ít khi giúp người khác, không được người ngoài quý mến.

Tướng yểu: Mặt như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả

Người béo như không xương là tướng đoản mệnh.

Nếu người có hình tướng sau: 2 mắt không có thần, tai nhỏ vẹo, người mệt mỏi như vô thần vô khí, thân dài nhưng mặt ngắn, da mặt mỏng, lưng lõm xuống, sắc mặt giống như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả là tướng đoản mệnh.

Tướng tản mạn: Tướng mệnh không thọ

Nếu người có hình tướng sau thì tuổi thọ không dài: Đuôi lông mày tản mạn, dái tai mỏng, khuôn mặt không hài hòa, mũi hếch, lỗ mũi lộ, trán nhọn, cằm nhọn, sống mũi lệch vẹo, da mặt lạnh, khí sắc ảm đạm, các bộ vị đều có nếp nhăn lại có nốt ruồi đen, 3 bộ vị là trán, mũi, cằm đều bằng phẳng và rộng, vẻ mặt sáng láng rạng rỡ thì người đó làm việc gì cũng thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt của người cô đơn

Tại sao phải có phù dâu?

Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn ngân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì "Nữ thập tam nam thập lục".
Tại sao phải có phù dâu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn ngân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì “Nữ thập tam nam thập lục”, con gái mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! Do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.

Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Đây phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp.

Con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Nhưng cô gái này nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường họ cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.

Đám cưới ngày xưa phải có phù dâu, không định lệ, và cũng không có danh từ “Phù rể”. Đám cưới ngày nay, nhiều nơi có cả phù rể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao phải có phù dâu?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd