Top con giáp "đại phát" trước 30 tuổi

Tuổi Dậu
![]() |
![]() |
![]() |
Tổng hợp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Những câu nói hay về tình yêu ý nghĩa, sâu sắc nhất |
Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam. Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn giấy với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói : « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy.
Cụ Khổng lấy số cho ta như sau : Lúc còn là đồng sinh (4), sẽ thi ở Huyện đậu hạng 14, thi ở Phủ hạng 71 và thi ở Đề Đốc (5) hạng 9. Năm tới đi thi, quả thật cả ba nơi đều đậu hạng đúng y như tiên đoán của cụ.
Cụ Khổng lấy thêm số tốt xấu suốt cuộc đời cho ta. Tiên đoán rằng, năm nào sẽ thi đậu hạng mấy, năm nào sẽ thi vào dự bị lẫm sinh (6), năm nào sẽ lên cống sinh. Sau khi lên cống sinh, đến năm nào sẽ được bổ nhiệm làm huyện trưởng của tỉnh Tứ-Xuyên, nhưng chỉ làm được ba năm rưỡi rồi sẽ xin về hưu. Năm 53 tuổi, ngày 14 tháng 8, giờ Sửu, sẽ mất tại nhà. Tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.
Từ đó về sau, mỗi lần thi cử đều đậu hạng không ngoài sự tiên đoán của cụ Khổng. Chỉ có một lần, cụ tiên đoán chừng nào phụ cấp lẫm sinh ta lên đến 91,5 thạch (7) gạo mới được lên cống sinh. Nhưng đến khi phụ cấp ta lên đến 70 thạch, quan Tông-Sư họ Đồ trong Đề-đốc-học-viện đã xin cho ta lên dự bị cống sinh. Ta thầm nghi trong bụng rằng cách bói của cụ Khổng chưa chắc chính xác hoàn toàn.
Nhưng sau đó quả thật vì cấp trên vắng mặt, quan thay thế tạm thời lúc đó là ông Dương, bác bỏ đơn xin này. Mãi cho đến năm Đinh Mão (1627), quan Tông-Sư Ân Thu Minh tình cờ xem lại những bài thi tuyển (8) còn sót lại nơi trường thi, thấy bài thi của ta xuất sắc mà tiếc rằng : « Năm bài thi vấn đáp này đâu có thua những bài tấu nghị (9) trong triều đình. Ta nỡ nào để những học trò tài giỏi như thế mãibị chôn vùi trong phòng học. » Bèn chiếu theo đơn xin cũ, phê chuẩn cho ta lên dự bị cống sinh. Nếu tính luôn những trợ cấp từ trước đến giờ, vừa đúng 91,5 thạch.
Kể từ đó ta càng tin theo số mạng an bài; mọi việc thăng quan tiến chức, giàu sang phú quý đều có thời có lúc của nó. Vì vậy ta an phận mặc đời đẩy đưa, chẳng mong cầu gì cả.
(còn tiếp)
Chú thích:
(1) Liễu Phàm : họ Viên, hiệu Liễu Phàm, tên Huỳnh, tự Khôn Nghị. Người Giang Nam sông Ngô, đời Minh. Sanh năm 1535, mất năm 1609, hưởng 74 tuổi. Sống tại quê vợ ở tỉnh Triết Giang, huyện Gia Thiện. Lúc 16 tuổi đậu Tú tài, 33 tuổi đậu Cử nhân và 52 tuổi đậu Tiến sĩ. Ông viết lại 4 bài để dạy con của ông là Thiên Khải, sau này cũng đậu tiến sĩ.
(2) Thi cử : Ngày xưa Trung Hoa lập chế độ thi cử để tuyển lựa người tài giỏi làm quan.
(3) Hoàng Cực số : Sách Hoàng Cực Kinh Thế Thư , tác giả là Thiệu Khang Thiết. Sách này căn cứ trên Kinh Dịch và số học để bói về thời thế đất nước cũng như vận mệnh của con người.
(4) Đồng sinh : học sinh chưa thi đậu lần nào. Đồng sinh theo học ở trường tư thục (tiểu học tư nhân do một người thầy tổ chức tại địa phương). Sau đó đồng sinh sẽ thi tú tài. Tú tài phải thi ba nơi; huyện, phủ và Đề đốc (tỉnh). Cả 3 nơi đều đậu mới được gọi là đậu tú tài.
(5) Đề đốc học viện : là bộ giáo dục cấp tỉnh. Các kỳ thi cử tú tài và cử nhân đều tổ chức tại đó.
(6) Lẫm sinh : Học sinh sau khi đậu tú tài sẽ học ở Học-Cung (trường trung học công lập địa phương) gọi là tiến học. Trong vòng 3 năm đầu phải trải qua 2 kỳ thi : Tuế khảo và Khoa khảo. Nếu thi đậu sẽ được liệt vào danh sách dự bị lẫm sinh gọi là bổ lẫm. Đợi cho đến khi nào có chỗ trống sẽ được đôn lên làm lẫm sinh. Kể từ lẫm sinh trở đi có thể hưởng phụ cấp gạo theo tiêu chuẩn. Lẫm sinh phải thi nhiều lần để lên cõng sinh. Các kỳ thi đều tổ chức tại Đề đốc học viện. Thi đậu cống sinh sẽ coi như mãn khoá Học-Cung, gọi là xuất học hay xuất cõng. Rồi lại phải lên thủ đô, vào Quốc Tử Giám để học tiếp và thi lên tiến sĩ.
(7) 1 thạch = 100 lít (gao)
(8) Bài thi tuyển : Những giám khảo trong Đề đốc học viện đều do triều đình bổ nhiệm xuống. Trong đó có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo và nhiều giám khảo phòng thi. Mỗi phòng thi có khoảng từ 8 đến 18 thí sinh. Lúc chấm bài, giám khảo phòng thi tuyển lựa những bài xuất sắc cho chủ khảo chấm. Ngoài những bài chủ khảo đã chấm đậu, phần còn lại gọi là bài thi tuyển, trong đó có bài của ông Liễu Phàm.
(9) Tấu nghị : Các quan trong triều đình mỗi khi muốn đề nghị chính sách đều phải viết trên giấy để trình lên vua xét duyệt gọi là tấu nghị.
Thông thường người Việt Nam chọn những người đàn ông trong làng có các tiêu chuẩn: Khoẻ mạnh, hoà nhã, tốt tính, làm ăn phát tài, con cháu đuề huề, trong năm không có đại tang...làm người xông đất nhà mình vào sáng sớm mồng một tết. Người xông đất sau khi đốt bánh pháo, mở lời chúc tết, đưa phong bao lì xì cho gia chủ sẽ được đón tiếp niềm nở, được mời ăn uống và được gia chủ lì xì lại...vì ai cũng tin rằng nhà mình đang đón ông Phúc vào nhà. Điều này ứng với câu đối nổi tiếng: Tối 30 khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới / Sáng mồng một lỏng then tạo hoá, mở toang ra đón ông Phúc vào nhà....
Nhà văn hoá Hữu Ngọc cho rằng tục xông đất của người Việt biểu hiện ý muốn hướng thiện, hướng tới điều lành. Bất cứ ai, dù là kẻ trộm cắp, kẻ xấu tính cũng muốn được một người tử tế, tốt tính tốt nết đến xông đất nhà mình. Nghĩa là họ muốn trở nên tốt lành hơn, thiện hảo hơn năm cũ. Cái hay của tục xông đất còn biểu hiện ở chỗ năm nào cũng nhắc lại một lần vào sáng sớm mồng một tết, khởi đầu của một năm. Tính lặp lại không mệt mỏi này đã giúp cho tính thiện trong nhân gian tồn tại, không bị thui chột theo thời gian.
Cụ thể và thực tế hơn, nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc nhận xét: " Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Tất nhiên, người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn giản hơn nhiều: Người được chọn xông đất phải khoẻ mạnh, tốt tính, và gia cảnh khấm khá, hoà thuận.".
Nếu ở thế kỷ trước, người có học, kẻ làm quan chọn người xông đất năm mới một cách kỹ lưỡng đến mức trở thành hình thức và khó tính thì thời nay những người giàu có cũng sính lễ nghĩa không kém. Ý nghĩa chờ mong những điều lành, tính tốt được thay thế bằng khát vọng cháy bỏng về sự giàu có. Người ta tìm đến các ông thầy vọc vạch Hán tự, dịch lý... nói tuổi của mình để nhờ xem chọn người xông đất tuổi nào cho hợp. Thậm chí, nhiều người còn thuê người xông đất bằng cách đưa tiền trước để đúng giờ đã chọn đến xông đất và mừng tuổi cho mình.
Đối với người dân, đặc biệt là giới trẻ, niềm tin của họ cũng giản dị hơn, dễ hiểu hơn tầng lớp làm ăn buôn bán. Đôi vợ chồng trẻ Thành - Ánh (Khu Tập thể Định Công) dự định chọn một người bạn thân năm vừa rồi đẻ con trai để được hưởng vía tốt với mong muốn sinh được con trai trong năm tới, dù người đó không hợp tuổi với anh Thành.
Nhà văn hoá Hữu Ngọc chỉ quan tâm tới ý nghĩa thanh tẩy tinh thần, khả năng tự làm mới bản thân mình chứ không kiêng cữ bất cứ một điều gì của tục xông đất. Vị sứ giả văn hoá của Việt Nam này đã nhiều lần mời bạn bè người nước ngoài không biệt biệt nam nữ tới nhà ăn bánh chưng vào lúc giao thừa, ăn bữa cơm thân mật vào sáng mồng một tết. Bản thân nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc cũng rất “dễ tính” khi chọn người xông đất: “Năm nào tôi cũng mời một người bạn thân đến xông nhà, không kể năm đó là năm con gì hay bạn tôi có hợp tuổi không”.
ân gian như sau:
1. Liên sinh quý tử
Với những người sốt ruột muốn có con ngay, hãy sử dụng miếng ngọc bội cổ mang tên “liên sinh quý tử”.
Hình dạng của miếng ngọc bội này là 1 cậu bé ngồi trên lá sen hoặc tay cầm bông sen (loại này còn có tên là “trì hà đồng tử”) “liên” là hoa sen, lá sen nhưng lại đồng âm với chữ “liên” là liền ngay, nên tấm ngọc bội mang ý nghĩa cầu chúc có con sớm.
2. Miên miên qua điệt
“Qua” có nghĩa là quả dưa, “điệt” là dưa nhỏ. Hình ảnh giàn dưa leo trái to, trái nhỏ và trái nhỏ thì nhiều hàm ý là “con cháu đầy đàn”. Cho nên khắc hình tượng “con cháu đầy đàn” trên cẩm thạch, người đeo sẽ nhanh chóng sinh con, vẽ trên tranh thì treo trong phòng ngủ.
“Điệt” là hài âm cho “điệp” (bướm). Từ đó, hợp lại thành “qua điệp”. Hình ảnh phú quý đồng tử tay cầm bướm, chân đạp dưa là hàm ý con cháu đầy đàn, phú quý cát tường.
3. Bầu bí đầy đàn
Giàn bầu bí dây leo chằng chịt, quả to quả bé treo lủng lẳng là biểu tượng 1 gia đình sum họp, con đàn cháu đống.
Người ta khắc họa hình giàn bầu trĩu quả trên đá ngọc làm bùa cho những đôi vợ chồng hiếm con, nếu vẽ thành tranh thì treo trong nhà, với ý cầu chúc đẻ nhiều con.
4. Thạch lựu
Để có nhiều con, có thể sử dụng viên bạch ngọc tạc hình quả lựu. Hình quả lựu ở đây được bổ làm đôi, 1 nửa lộ ra rất nhiều hạt, mang ý nghĩa “lựu khai bách tử” (tức là lựu nở nhiều con). Việc mang tặng bức tranh “lựu khai bách tử” cho đôi vợ chồng mới cưới, được coi là lời cầu chúc tốt đẹp.
5. Cát khánh hữu dư
Treo tranh có hình 2 đứa trẻ tay cầm khánh, tay cầm cá. Khánh với ý nghĩa là “cát khánh” (điều vui mừng, tốt lành), cá biểu tượng là “hữu dư” (có dư).
6. Phú quý đồng tử
Là tranh 2 đứa trẻ khả ái tay cầm kim câu thiêm tài tiến bảo, sau lưng là cây phú quý đầy tiền vàng.
Ca dao ta có câu:
Tháng tư đong đậu nấu chè.
An tết Đoan ngọ trở về tháng năm.
Chứng tỏ rằng Tết Đoan Ngọ là một tết cũng được chú ý của người Việt Nam ta xưa, tuy rằng tục lệ ăn tết này ta đã bắt chước Tàu, cũng như nhiều tiết lễ khác.
Vậy Tết Đoan Ngọ là tết gì ? Và ta ăn Tết Đoan Ngọ vào ngày nào tháng Năm ?
Đoan Ngọ là gì ?
Theo sách Phong Thổ ký thì Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết Đoan Dương.
Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa trưa, Đoan Ngọ là bắt đầu lúc giữa trưa; còn Dương là mặt trời, là khí dương Đoan Dương nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh.
Tết Đoan Ngọ ăn vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch.
Sở dĩ Tết này được gọi là Tết Đoan Ngọ, chính tvì tháng năm là tháng bắt đầu nắng to, khi dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa.
Theo địa bàn thì phương Nam là chính Ngọ, mà Ngọ là ngôi dương, cho nên tết này là Tết Đoan Dương. Vả chăng tháng năm cũng lại là tháng Ngọ trong một năm.
Người Trung Hoa còn gọi Tết Đoan Ngọ là Tết Trùng Ngũ hay Đoan ngũ nữa.
Theo sách “Tuế thời lạp ký” thì Trùng Ngũ là hai số 5 gặp nhau, mồng 5 tháng Năm. Ngoài ra xưa kia ở kinh kỳ, người ta gọi ngày mồng 1 tháng năm là Đoan Nhất, ngày mồng 2 là Đoan Nhị, ngày mồng 3 là Đoan Tam, ngày mồng 4 là Đoan Tứ và ngày mồng 5 là Đoan Ngũ.
SỰ TÍCH TẾT ĐOAN NGỌ.
Thực ra ban đầu, ngày Đoan Ngọ chì là ngày người dân cúng lễ để đánh dấu một thời tiết mới, mừng sự trong sáng quang đãng. Hơn nữa giữa tiết hạ này oi bức, bệnh tật thương hay có, nên người ta cúng vái để cầu được bình yên, tránh đựợc mọi bệnh thời khí.
Nhưng về sau để cho ngày nay có một ý nghĩa, người ta liền lấy ngày đó làm ngày kỷ niệm Khuất Nguyên và các ông thầy thuốc cũng nhân dịp này kỷ niệm hai chàng Nguyễn Triệu và Lưu Thần vào núi Thiên Thai tìm thuốc.
SỰ TÍCH KHUẤT NGUYÊN.
Khuất Nguyên, họ Tam Lư làm chức Tả Đồ nước Sở dưới Triều vau Hoài Vương vào thời Thất Quốc bên Tầu ( 307 – 246 tr . Tây Lịch), có tài và liêm chính. Mỗi khi vào Triều bàn bạc quốc sự, ông đều bị vua Hoài Vương bài bác vì những nịnh thần xúi giục.
Về sau ông bị nhà vua truất bỏ. Để tự tả nỗi oán than ông viết bài thơ “ Ly Tao”.
Khi vua Sở Hoài Vương sang Tần, ông hết lời can ngăn nhưng Hoài Vương không nghe, rồi bị chết ở đất Tần. Vua Tương Vương kế nghiệp vua Hoài Vương không những không chịu nghe lời ông lại còn bắt ông đi đày.
Ông làm bài thơ “ Hoài Sa” rồi đá vào mình nhảy xuống sông Mịch La tự vận. Hôm đó là ngày mồng 5 tháng Năm.
Được tin đó là vua rất hối hận và thương tiếc sức dân làm cỗ ra tận bờ tận bờ sông cúng ông và ném cỗ xuống sông ông hưởng, nhưng cỗ bị cá tôm ăn hết. Ong báo mộng cho nhà vua hay, và xin với nhà vua nếu nghị tình thương ông thì khi ném cỗ xuống cho ông phải lấy lá bọc lại, buộc bằng chỉ ngũ sắc, cá tôm sẽ không ăn được.
Theo lời báo mộng của ông, vua ra lệnh cho nhân dân làm theo.
Từ đó vào ngày mồng 5 tháng Năm bên Tàu, dân chúng làm cỗ cúng linh đình trên các bờ sông rồi lấy lá bọc lại, buộc ngũ sắc ném xuống dòng nước để làm kỷniệm ông Khuất Nguyên.
Riêng tại sông Mịch La, người nước Sở mở hội rất vui, ngoài việc cúng lễ Khuất Nguyên còn tổ chức các cuộc đua thuyền, tượng trưng cho ý muốn vớt thây Khuất Nguyên.
SỰ TÍCH LƯU THẦN VÀ NGUYÊN TRIỆU.
Lưu Thần và Nguyễn Triệu là hai người đời nhà Hán, nhân ngày Tết Đoan Dương cùng rủ nhau vào núi hái thuốc, gặp hai nữ kết duyên. Sau thời gian nữa năm sống nơi tiên cảnh với vợ tiên, hai người nhớ nhà đòi về. Giữ lại không được, hai tiên nữ đưa tiễn chồng về. Trở về làng, Lưu, Nguyễn thấy phong cảnh đã khác xưa, nữa năm trên cõi tiên là mấy trăm năm ở dưới cõi trần. Hai chàng bèn đi tìm trở lại cõi tiên, nhưng không thấy nữa. Hai chàng rũ nhau vào trong rừng rồi không thấy trở về.
Nhiều nhà thơ đã ngâm vịnh rất nhiều về sự tích đầy thi vị của hai chàng, và riêng thi sĩ Tản Đà đã có một tập chèo “ Thiên Thai” kiệt tác.
Dưới đây là đọan hai nàng tiên tiễn biệt Lưu, Nguyễn về:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai.
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi!
Nữa năm tiên cảnh
Một bước trần ai.
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn rêu nhạt,
Nước chảy hoa trôi,
Cái hạt bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi,
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thở thẩn bóng trăng chơi.
LỄ BÁI TRONG NGÀY ĐOAN NGỌ
Có tiết lễ, phải có cúng bái. Cũng như các tết khác, ta cũng ăn Tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ.
Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; tại các thôn xóm có cúng tại miếu. Ở nhà, các tư nhân sữa lễ cúng ông bà ông vải và cúng Thổ Công. Trong lễ tại miền Bắc về dịp này thế nào cũng có trái dưa hấu vì lúc này đang mùa. Cỗ cúng xong thì ăn, không ai mang đỗ xuống sông như tục bên Tầu, và ta cũng không cúng Khuất Nguyên tuy là ngày kỷ niệm Khuất Nguyên.
Riêng tại gia đình các đông y sĩ có sữa lễ cúng Thánh sư, ngoài lễ cúng tổ tiên và Thổ Công.
Hoa quả là những thứ không thể thiếu trong ngày Tết Đoan Ngọ
TỤC LỄ NGÀY ĐOAN NGỌ
Ngoài việc cúng lễ trong ngày Tết Đoan Ngọ, xưa và cả nay ở một vài địa phương, người Việt ta có nhiều tục lệ được mọi người cùng theo. Những tục lệ có khi ta bắt chước theo người Trung Hoa, có khi chính là tục lệ riêng của nước ta:
Tết mồng 5 tháng Năm, còn được ta gọi là Tết Giết sâu bọ, vì trong ngày hôm ấy ta có tục giết sâu bọ. Thoe quan niệm của ta xưa, trong người, nhất là trong bộ phận tiêu hóa, thường có sâu bọ. Sâu bọ này nếu không bị trừ đi sẽ sinh sản ngày càng nhiều và gây tại hại cho người, nhưng giết sâu bọ không phải là một chuyện dễ dàng và không phải là bất cứ lúc nào cũng giết chúng cũng được. Quanh năm chúng ẩn sâu trong bụng, duy chỉ có ngày mồng 5 tháng Năml là chúng ngoi lên. Nhân dịp chúng ngoi lên, người ta cần giết chúng.
Giết sâu bọ bằng gì.?
Chính bằng những thức ăn, nhất là bằng rượu nếp và hoa quả.
Sáng sớm ngày mồng 5 tháng Năm, ngay khi thức dậy, súc miệng xong là phải giết sâu bọ ngay. Ở miền Bắc, trong dịp này mỗi người ăn ít nhất một bát cơm rượu nếp, sau đ1o ăn một bát thạch, rồi đến ăn các trái cây như mận, muỗm, sấu, đào, roi ( mận) vv …
Đối với trẻ con, người ta bôi chúng một ít thần sa, chu sa vào hai bên thái dương và vào bụng. Có khi người ta hòa với nước cho chúng uống. Người ta cắt nghĩa sự giết sâu bọ nhu sau:
Sáng hôm mồng 5 tháng năm, bọn sâu bọ ở bụng dưới ngoi lên bụng trên. An rượu nếp vào cho chúng say, sau đó những trái cây làm cho chúng chết. Mỗi trái cây đều là một vị thuốc giết sâu bọ. Trong đông y, Thuốc Nam cũng như thyốc Bắc, các vị thuốc phần lớn đều lấy ở loài thảo mộc, các trái là kết tinh của loài thảo mộc xho nên có tính chất giết được sâu bọ.
Ngoài trái cây, người ta còn có cho trẻ con bôi hoặc uống thần sa, chu sa, vì người ta tin rằng, lúc sâu bọ bị trái cây giết có sự phản ứng gây sự bất an cho trẻ con nên dùng thần sa, chu sa để trấn an trước. Đó là tục lệ và ý kiến người xưa!
Ngày nay, hàng năm khi mồng 5 tháng Năm tới, ngoài việc cúng bái, vẫn còn người giết sâu bọ, vẫn ăn cơm rượu nếp ( cơm rượu) vào buổi sáng và vẫn dùng trái cây như xưa.
Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng 5 tháng 5 là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Người ta quan niệm, trong ngày này, các loài sâu bọ đều hoảng hốt, trốn chạy vì nhà ai cũng có bữa cỗ "giết sâu bọ" vào sáng sớm, với hoa quả đầu mùa. Đào mịn lông tơ, mận đủ mùi chua ngọt, chuối ta mập mạp, dưa hấu bổ dọc thành những chiếc thuyền rồng sơn son mịn cát lóng lánh như lân tinh, dứa còn nguyên cái mũ miện xanh rờn óng bạc, nhưng cái lòng nó vàng tươi khêu gợi. Và đương nhiên không thể thiếu món rượu nếp.
Thành lệ, cứ đến sáng sớm ngày mồng 5, người ta cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, kê, bánh đa, mận, muỗm, dưa hấu, uống nước dừa... bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì uống rượu hòa ít tam thần đơn hoặc bôi phẩm hồng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để trừ trùng.
Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu.
Nhiều người mua bùa chỉ đeo cho trẻ con. Bùa kết bằng chỉ ngũ sắc, kết theo hình hoa sen, quả đào, quả ớt... Lại may áo lụa mang đến các cửa chùa, cửa tĩnh in dấu vẽ bùa rồi mặc cho trẻ, có ý trừ ma tà cho khỏi quấy.
Giữa trưa hôm ấy thì làm cỗ cúng gia tiên, rồi đi hái lá mồng năm. Tục hái thuốc mồng 5 cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có Dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá vối, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... đem về ủ rồi phơi khô, để sau đem nấu uống cho rằng uống thế thì lành.
Lại có nhiều người đi lấy lá ngải cứu, năm nào thì kết hình con thú nǎm ấy như năm Tý thì kết con chuột, năm Sửu kết con trâu, năm Dần kết con hổ... treo ở giữa cửa, để trừ ma quỷ và về sau ai có bệnh đau bụng thì dùng làm thuốc sắc uống.
Xem thêm: Văn khấn tết Đoan ngọ mùng 5 tháng 5 âm
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
![]() |
Ảnh minh họa |
Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch.
+ Lễ trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt nam theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
+ Cúng ai trong lễ giao thừa
Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì.
Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
+ Sửa lễ giao thừa
Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.
Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
+ Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.
Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.
Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà..
+ Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
+ Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch
- Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
- Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
- Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
- Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
- Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
- Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.
Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: xã Thái Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vua Lý Nam Đế - vua nước Vạn Xuân (nhà Tiền Lý).
Nội dung: Hội Tử Các mở ra hàng năm nhằm kỉ niệm ngày chiến thắng giặc Lương, lập nước Vạn Xuân của vua Lý Nam Đế. Lễ rước và lễ vật cúng tế là lợn; các trò chơi dân gian là: đánh đu, đấu vật.
![]() |
=> Mời các bạn xem thêm Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
Ngoài hai cách an sao lưu trên, nhiều người đã an thêm nhiều sao khác, và không những an sao lưu theo năm mà còn an sao lưu theo tháng, ngày hoặc giờ nữa. Vấn đề an sao lưu được thực hiện để chi tiết hóa sự giải đoán vì ví dụ nếu không an sao lưu theo ngày thì làm sao ta có thể tìm ra sự khác biệt giữa các ngày 1, 13, 25 của một tháng nào đó ?
Ta có thể an sao lưu căn cứ vào Can và Chi của năm (nếu an sao lưu theo năm), tháng (nếu an sao lưu theo tháng), ngày (nếu an sao lưu theo ngày) và giờ. Nguyên tắc chung thì ta vẫn sử dụng cách an sao như an sao cố định. Cần phân loại cách an sao cố định căn cứ vào Can Chi:
An theo chi: vòng Thái Tuế, Thiên Không, Nguyệt Đức, Long Trì, Phượng Cát, Giải Thần, Thiên Khốc, Thiên Hư, Thiên Mã, Hoa Cái, Kiếp Sát, Cô Thần, Quả Tú, Phá Toái, Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỉ
An theo can: Lộc Tồn, Kình, Đà, Lưu Niên Văn Tinh, Quốc Ấn, Đường Phù, Khôi Việt, Quan Phúc, Lưu Hà, Thiên Trù, Triệt
An theo can chi kết hợp: hành nạp âm, Tuần
An theo chi tháng: Tả Hữu, Địa Giải, Thiên Giải, Thiên Hinh, Riêu - Y
An theo chi tháng và ngày: Tam Thai, Bát Tọa
An theo chi giờ: Không Kiếp, Thai Cáo, Xương Khúc
An theo chi giờ và ngày: Ân Quang, Thiên Quí
An theo can năm, tháng, ngày, giờ: các chính tinh bao gồm vòng Tử Vi và Thiên Phủ, Tứ Hóa (Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ)
An theo can năm và giới tính: vòng Bác Sĩ
An theo can năm, tháng, giờ: cục
An theo can năm, tháng, giờ, giới tính: vòng Tràng Sinh
An theo chi năm, giờ, giới tính: Hỏa, Linh
An theo chi năm, tháng, giờ: Đẩu Quân, Thiên Tài, Thiên Thọ
An cố định: La, Võng, Thương, Sứ
Sau đây là một số khác biệt khi an sao lưu
An sao lưu thuộc vòng Bác Sĩ
Lưu Bác Sĩ luôn luôn đồng cung với lưu Lộc Tồn. An vòng sao lưu Bác Sĩ thì cần xác định tính thuận nghịch của vòng sao này. Có hai cách có thể áp dụng:
Cách một: căn cứ vào tính Âm Dương của Can và phân biệt đối tượng là nam hay nữ : Dương Nam Âm Nữ thì an theo chiều thuận, Âm Nam Dương Nữ thì theo chiều nghịch. Ví dụ như gặp lá số của Nam nhân và Can của thời gian coi là Dương thì đây là trường hợp Dương Nam an theo chiều thuận, nếu là Nữ thì là Dương Nữ lại an theo chiều nghịch. Nguyên tắc an sao lưu như vậy phù hợp với cách an sao cố định
Cách hai: căn cứ Âm Dương của Can: can dương thì an thuận, can âm thì an nghịch. Nguyên tắc an sao như vậy thì mâu thuẫn với cách an sao cố định vì không có sự phân biệt giới tính Nam Nữ khi an. Việt Viêm Tử sử dụng cách này
An sao lưu Trường Sinh
Trường Sinh trong Tử Vi được an luôn luôn căn cứ vào hành nạp âm. Có hai cách an:
Cách một: căn cứ vào hành nạp âm để xác định cung khởi Tràng Sinh rồi từ đó an vòng Lưu Tràng Sinh theo chiều thuận. Cung khởi được xác định như sau:
Hành Mộc khởi tại Hợi, Kim tại Tỵ, Hỏa tại Dần, Thủy Thổ tại Thân. Cách an này giống như cách xác định vòng Tràng Sinh căn cứ vào ngũ hành bản Mệnh
Cách hai: căn cứ vào hành nạp âm và âm dương của can hay chi để xác định cung khới của sao Tràng Sinh sao cho Mộ luôn tại tứ mộ và dương thì an thuận, âm thì an nghịch cho các sao thuộc vòng này. Như vậy
Dương Mộc khởi tại Hợi, an thuận
Âm Mộc khởi tại Mão, an nghịch
Dương Hỏa khởi tại Dần, an thuận
Âm Hỏa khởi tại Ngọ, an nghịch
Dương Kim khởi tại Tỵ, an thuận
Âm Kim khởi tại Dậu, an nghịch
Dương Thủy hoặc Thổ thì khởi tại Thân, an thuận
Âm Thủy hoặc Âm Thổ thì khởi tại Tí, an nghịch
Việt Viêm Tử sử dụng cách này
An Tứ Hóa
Tứ Hóa cố định được an căn cứ vào Can và chính tinh hoặc Tả Hữu, Xương Khúc trong đó Tả Hữu được an theo tháng, Xương Khúc được an theo giờ. Có nhiều quan điểm về lưu Tứ Hóa:
Quan điểm 1: không an lưu Tứ Hóa vì Tứ Hóa được an theo chính tinh hoặc Tả Hữu, mà chính tinh thì không có sao lưu tương ứng, còn Tả Hữu thì phải biết tháng mới xác định vị trí và Xương Khúc thì cần biết giờ mới an được thành ra không thể an Lưu Tứ Hóa theo năm hoặc tháng, ngày
Quan điểm 2: không an lưu Tứ Hóa theo năm, tháng hoặc ngày, chỉ lưu Tứ Hóa theo giờ bằng cách căn cứ vào năm tháng ngày giờ coi để an sao lưu 14 chính tinh và Lưu Tả Hữu, Lưu Xương Khúc rồi an Lưu Tứ Hóa giống như các an Tứ Hóa cố định. Nếu chấp nhận quan điểm này thì cần phải chấp nhận lưu Mệnh và lưu Thân
Quan điểm 3: an lưu Tứ Hóa căn cứ vào can và chính tinh cố định hoặc Tả Hữu, Xương Khúc cố định. Cách an sao lưu thì giống như cách an sao Tứ Hóa cố định. Cách an này có điểm vô lý là khi coi lưu tháng thì có lưu Tả Hữu nhưng mà Lưu Tứ Hóa lại không được an theo Lưu Tả Hữu mà lại an theo Tả Hữu cố định
Vận dụng trong giải đoán
Sao Lưu chỉ có giá trị tạm thời trong thời gian ta an sao nên chỉ có ảnh hưởng gia giảm tốt xấu trong hạn đó mà thôi. Khi sao Lưu trùng với sao cố định hoặc kết hợp với sao cố định thành bộ thì ảnh hưởng gia tăng, ví dụ như Lưu Kình Dương gặp Kình Dương hoặc Đà La. Sao Lưu xuất hiện trong cung nào thì ảnh hưởng lên cung đó, ví dụ như xuất hiện tại Phụ Mẫu thì ta có thể coi như là sao lưu đó được an trong lá số trong thời gian đó, phương pháp giải đoán thì sử dụng cách phối hợp như là sao cố định. Số lượng sao lưu sử dụng tùy theo kinh nghiệm của mỗi người nhưng qua kinh nghiệm có những sao lưu cần phải thêm không thể bỏ qua như Lưu Triệt, Lưu Song Hao.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Như (##)
Có rất nhiều kiểu mái nhà đang thịnh hành hiện nay như: mái nhà hình vòm, mái nhà bằng, mái nhà lượn sóng, mái nhọn… Mỗi kiểu mái đều có tác dụng riêng và cách phối hợp cũng như cách chọn nguyên vật liệu để xây dựng cũng khác nhau. Tùy vào điều kiện kinh tế gia đình để bạn chọn vật liệu lợp mái phù hợp. Khi tiến hành lợp mái, bạn cần chú ý những điểm sau:
Quy tắc “Nhất góc ao, nhì đao đình”
Quy tắc này có nghĩa là khi thiết kế mái nhà bạn cần phải tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, miếu hướng chính diện vào nhà. Vì khi nhà bạn mở cửa ra hướng góc mái sẽ dễ xảy va chạm khi di chuyển, gió lùa từ cạnh mái, cạnh tường thổi vào nhà của bạn
Ngoài ra bạn cần chú ý đến điểm góc mái. Nếu nhà của bạn mở cửa chính diện với góc mái hay góc mái chĩa vào nhà sẽ gây cảm giác bất an không tốt cho ngôi nhà của bạn.
Ngày nay, đối với nhà ở nông thôn, phần lớn mái nhà được thiết kế kiểu hình tam giác giúp cho nước mưa, bụi bẩn dễ tuột xuống không bị đọng trên nóc nhà. Tuy nhiên, nếu xét vè phong thủy thì kiểu mái nhà này lại không tốt cho những nhà lân cận.
Cấu tạo của lợp mái
Với nhà truyền thống thì phần mái nhà sẽ quay mặt dài về hướng Nam nên phần đỉnh mái nhà sẽ kéo từ Đông sang Tây. Ngoài ra, nên dùng cây xà gồ bọc vải đỏ ở hai đầu đặt ở đỉnh mái và treo tấm bùa bát quái ở giữa như cách thể hiện sự trân trọng của gia chủ đối với ngôi nhà của mình.
Ngày nay, những căn nhà thiết kế hiện đại phần lớn không sử dụng cây xà gồ đặt ở đỉnh nhà như trước mà có sự thay đổi đôi chút là đặt 2 cây xà gồ gần nhau trên đỉnh.
Nóc nhà thường được thiết kế theo hình tam giác và được thiết kế khe hở ở hai đầu có tác dụng thông gió và thoát khí tích tụ trong nhà ra ngoài. Vì vậy, nếu nhà bên cạnh có cửa đối diện với nóc nhà sẽ dễ làm tiền tài dễ bị hao tổn.
Cây đòn dông
Đối với mỗi căn nhà, cây đòn dông, đòn tay cũng đóng vai trò quan trọng của mái nhà. Theo phong thủy, đòn dông và đòn tay tuyệt đối không được chĩa sang nhà bên cạnh. Do đó, đối với nhà ở nói chung và nhà biệt thự nói riêng thì khi ngói lợp nhà phải dùng tấm thép tạo thành nẹp và bịt kín cây xà gồ để tránh làm ảnh hưởng đến những nhà xung quanh.
Màu sắc mái nhà
Hiện nay, chúng ta dễ dàng nhìn thấy những mái nhà có nhiều màu sắc khác nhau. Với mái tôn, bạn có thể sơn màu theo ý thích của mình, còn với nhà lợp ngói thì ngoài màu ngói đất nung truyền thống thì cũng có các loại ngói màu với nhiều màu sắc khác nhau cho bạn lựa chọn.
Nhưng nếu theo phong thủy thì nên kiêng kỵ sử dụng mái lợp màu xanh mà nên sử dụng màu đỏ hoặc màu nâu sẫm sẽ rất tốt giúp mang lại nhiều vượng khí cho ngôi nhà của bạn.
Nhìn chung, xét về văn hóa ứng xử, điều này đem lại sự cẩn trọng khi làm nhà lợp mái, nhằm giữ gìn cũng như cầu an lành cho mình. Còn về thực tế xây dựng thì hiện nay nhiều biệt thự lợp mái ngói đã dùng thép tấm làm thành nẹp bịt kín đầu các xà gồ như là một giải pháp an toàn không đụng chạm đến xung quanh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Đây là điển cố thứ Mười lăm trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Tần Đắc Chí (còn gọi là Tô Tần Thỏa Chí). Quẻ Quan Âm Tô Tần Đắc Chí có bắt nguồn như sau:
Sau khi Tô Tần theo Quỷ Cốc Tử học hành thành tựu, rất muốn gặp thiên tử nhà Chu, nhưng không có đường tiến cử. Trong lúc nóng giận, ông đã bán hết gia sản, đến các nước chư hầu tìm đường tiến thân. Nhưng Tô Tần đi khắp đông tây ròng rã mấy năm, cũng không được trọng dụng. Tiền bạc đã hết, quần áo rách nát, đành phải trở về nhà.Vợ của Tô Tần ngồi trước khung cửi, không thèm nhìn đến Tô Tần. Tô Tần xin chị dâu làm cơm cho mình, chị dâu cũng làm như không nghe, quay người bỏ đi.
Tô Tần phải chịu sự đả kích nặng nề, càng quyết tâm dùi mài sách vở, ngày ngày nghiền ngẫm sách “Âm phù” cho đến đêm khuya. Có khi đọc sách đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ, bèn lấy dùi tự đâm vào đùi, để thấy đau mà tỉnh táo trở lại. Khổ công như thế trong suốt hơn một năm trời, kiến thức của Tô Tần đã càng thêm sâu sắc.
Tô Tần lại tiếp tục lên đường, đầu tiên ông đến nước Tần, nhưng vẫn không được trọng dụng. Vừa đúng lúc Yên Chiêu Vương chiêu mộ hiền tài trong thiên hạ, nên Tô Tần đến nước Yên, nhanh chóng được Yên Chiêu Vương tín nhiệm. Tô Tần cho rằng, nước Yên muốn báo mối thù với nước Tề lớn mạnh, thì trước tiên phải thể hiện sự khuất phục đối với nước Tề, để che đậy ý muốn báo thù, nhằm có đủ thời gian cần thiết chấn hưng nước Yên. Sau đó, phải khích lệ nước Tề không ngừng tiến công các nước khác, nhằm đề phòng Tề tấn công Yên, đồng thời làm tiêu hao lực lượng của nước Tề. Vì thế, Tô Tần khuyên nước Tề đánh nước Tống, hợp tung để đánh Tần.
Năm 285 trước Công nguyên, Tô Tần đến nước Tề, công kích mối quan hệ giữa hai nước Tề và Triệu, được Tề Man Vương tín nhiệm, phong làm tướng nước Tề. Nhưng ông vẫn ngầm bàn mưu kế với nước Yên. Tề Man Vương không biết chân tướng sự việc, vẫn lệnh cho Tồ Tần chỉ huy binh sĩ chống lại quân đội nước Yên. Khi quân đội hai nước Tề, Yên giao chiến, Tô Tần cố ý làm cho quân nước Tề thất bại, tốn thất đến năm vạn người. Do đó, quần thần nước Tề bất hòa, dân chúng hoang mang, tạo điều kiện cho liên quân năm nước của Nhạc Nghị công phá nước Tề.
Sau đó, Tô Tần lại thuyết phục được nước Triệu liến kết với các nước Hàn, Ngụy, Tề, sở, Yên tấn công nước Tần. Vua nước Triệu rất vui mừng, ban thưởng cho Tô Tần rất nhiều báu vật. Được sự giúp đỡ của nước Triệu, Tô Tần lại đến nước Hàn, thuyết phục Hàn Tuyên Vương; đến nước Ngụy, thuyết phục Ngụy Tương Vương; đến nước Tề, thuyết phục Tề Tuyên Vương; rồi lại đến nước sở, thuyết phục sở Uy Vương. Các nước chư hầu đều tán đồng mưu sách của Tô Tần, vì thế sáu nước thực hiện hiệp ước hợp tung. Tô Tần làm Tung ước trưởng, được phong tướng sáu nước. Sau khi về đến nước Triệu, Triệu Vương phong cho Tô Tần làm Vũ An Quân. Nước Tần nhận được tin này, vô cùng lo sợ. Trong suốt mười lăm năm sau đó, quân đội nước Tần không dám đưa quân tấn công đến cửa Hàm Cốc.
Khi Tô Tần đã thanh danh hiển hách, vàng bạc muôn nghìn, tùy tùng ngựa xe đông đảo, các nước chư hầu ở phía đông Hoa Sơn đều theo nhau khuất phục. Tô Tần vổn chẳng qua chỉ là một kẻ sĩ cơ hàn xuất thân từ nơi nghèo khổ, nhưng cuối cùng đã được lên xe xuống ngựa, tung hoành thiên hạ, vào triều du thuyết vua chư hầu, uy thể lấn lướt các quan đại thần tả hữu, thiên hạ không ai có thể sánh được với ông.
Sở dĩ Tô Tần có được thành quả như vậy, là do ông đã không nản lòng trước thất bại, kiên định ý chí không chịu khuất phục, cuối cùng đã đạt được đến đỉnh cao danh vọng.
Phong tục cưới hỏi của người Việt bao gồm nghiều thủ tục và lễ nghi khác nhau, cho đến nay thì những thủ tục đó vẫn được phát huy và lưu giữ. Lễ cưới người Việt bao gồm các phong tục cưới hỏi sau: Lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ nạp tài, lễ thành hôn. Khi tổ chức một tiệc cưới thì hai bên gia đình nhà trai va nhà gái đều phải thực hiện đầy đủ các phong tục và lễ nghi đó.
Vậy để giúp cô dâu và chú rể cũng như phụ huynh của hai bên gia đình hiểu được rõ hơn về những thủ tục ấy. Xin chia sẻ cùng bạn tìm hiểu vể lễ nạp tài trong cưới hỏi người Viêt.
Lễ nạp tài là một nghi lễ được tiến hành đồng thời với nghi lễ ăn hỏi. Vào ngày ăn hỏi gia đình nhà trai sẽ chuẩn bị những nghi lễ cũng như các tráp lễ vật đưa tới nhà gái để hỏi cưới cô dâu. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi vùng miền mà tráp lễ vật được chuẩn bị khác nhau, và số lượng tráp cũng khác nhau.
Nhưng thông thường trong lễ ăn hỏi phải có các thứ lễ vật sau:
Có rất nhiều ý kiến cho rằng khoản tiền nạp tài đó là khoản tiền ,à nhà gái thách cưới nhà trai. Nhưng có ý kiến lại cho rằng khoản tiền đó là nhà trai mang sang để cảm ơn công sinh thành, nuôi dưỡng của nhà gái đối với con dâu mà họ sắp rước về. Và có ý kiến lại cho rằng khoản tiền đó là nhà trai dành tặng cho cô dâu để làm của hồi môn sau ngày cưới.
Số tiền nạp tài đó sẽ được nhà trai trình bày trong một mâm tráp riêng hoặc kèm theo mâm tráp đồ nữ trang cho cô dâu. Thông thường só tiền nạp tài là số tiền lẻ nhằm mang lại sự may mắn và hạnh phúc cho cô dâu và chú rể.
Lễ nạp tài mang một ý nghĩa tót đẹp, nhưng cũng động chạm tới vấn đề nhạy cảm giữa hai bên gia đình do vậy cô dâu và chú rể có vai trò trong việc bàn bạc và thống nhất giữa hai bên gia đình. Không đặt nặng vấn để tiến bạc mà phải coi trọng hạnh phúc của cô dâu và chú rể là trên hết và một tình thông gia bền chặt.
1. Tránh các cạnh sắc nhọn
Những cạnh sắc nhọn không chỉ dễ gây thương tích mà theo phong thủy, chúng còn phạm phải mũi tên độc. -vậy tại sao bạn sẽ kết hợp nó vào phòng ngủ của bạn? Một số mặt hàng như tủ đầu giường và bạn có thể không thể giúp đỡ, nhưng bạn có thể làm mềm không gian của bạn bằng cách thêm trang trí tự nhiên hơn giống như thực vật, đèn, tác phẩm điêu khắc và các cạnh trơn khác.
2. Cửa sổ kích cỡ vừa phải
Nhiều người thích cửa sổ lớn vì khung cảnh bên ngoài quá tuyệt vời. Tuy nhiên, cửa sổ lớn trong phòng ngủ mang lại cảm giác thiếu an toàn. Để đảm bảo an ninh và sự riêng tư, cửa sổ phòng ngủ nên vừa phải, có rèm che chắn cẩn thận.
3. Hạn chế các thiết bị điện tử
Ngay cả khi đã tắt thì TV và các thiết bị khác vẫn phát ra các nguồn năng lượng điện từ trong khi bạn ngủ. Cố gắng hạn chế các loại thiết bị điện tử trong phòng ngủ, nếu có cần cách xa vị trí đầu khi ngủ của bạn ít nhất 1 mét. Bạn hoàn toàn có thể dùng đồng hồ báo thức hay vì đặt giờ bằng điện thoại thông minh.
4. Giá sách gọn gàng
Bạn sẽ không nghĩ rằng một kệ sách gọn gàng có thể ảnh hưởng đến tâm trạng của bạn. Thế nhưng giá sách bừa bộn có thể phá vỡ phong thủy của phòng. Sắp xếp sách dựa theo màu sắc và trọng lượng khi đặt những cuốn sách nặng hơn ở dưới cùng.
5. Chú ý đầu giường
Tương tự như các mẹo ở trên, phong thủy phòng ngủ giúp bạ luôn cảm thấy thoải mái và được bảo vệ trong khi nghỉ ngơi. Đầu giường vững chãi luôn tạo cảm giác che chở hơn là bức tường trống.
6. Trần nhà vừa phải
Nhà trần cao ấn tượng hơn nhưng tạo cho mọi người cảm giác mình nhỏ bé, đơn độc. Một căn phòng cao từ 2.1 - 2.7m là lý tưởng nhất.
7. Đặt lại vị trí giường
Trong phong thủy, vị trí giường đóng một vai trò rất lớn. Lý tưởng nhất, giường của bạn phải được bố trí dựa vào tường đối diện chéo với cửa phòng ngủ của bạn. Nếu việc đó không khả thi thì ít nhất vị trí của nó càng xa cửa càng tốt.
8. Chú ý diện tích phòng
Phòng ngủ quá lớn thực sự có thể tạo cảm giác bất an, vì mọi người hay mong muốn phòng ngủ có cảm giác thân mật và riêng tư. Vì bạn không thể đập đi xây lại nên hãy thêm một số đồ nội thất nho nhỏ trong phòng như ghế nghỉ, giá sách,...thay vì để trống trải. Sơn phòng tông màu nóng cũng mang lại cảm giác ấm áp hơn.
9. Không làm việc trong phòng ngủ
Phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi. Bạn hãy giữ cho tâm trí thảnh thơi và thoát khỏi những bộn bề của công việc. Máy tính xách tay, điện thoại, máy tập,...đều có thể làm bạn xao nhãng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Để phát huy hết hiệu suất của con ngựa phong thủy thì phải chú ý đến kiểu dáng, chất liệu và quan trọng là phương hướng bài trí của nó. Cùng ## xem kiến thức phong thủy và khám phá xem bài trí ngựa phong thủy như thế nào nhé!
Con ngựa có số mệnh khoẻ mạnh, bản tính của ngựa hào phóng, táo bạo, không ràng buộc, cho nên khi bài trí ngựa phong thủy sẽ làm cho chủ nhân trở nên vui vẻ, thêm năng lượng, có tác dụng cải thiện, đột phá cục diện bế tắc, thăng tiến trong công việc, tình cảm hôn nhân chuyển biến…
## thấy con ngựa trong phong thủy không chia ra là “hung thú” hay “cát thú”. Nhưng đa số mọi người vẫn coi ngựa là cát thú thăng tiến. Để phát huy hết hiệu suất của con ngựa phong thủy thì phải chú ý đến kiểu dáng, chất liệu và quan trọng là phương hướng bài trí của nó.
Ngựa thuộc Ngọ, cho nên vị trí bài trí tốt nhất là hướng chính Nam. Về chất liệu, ngựa làm từ kim loại, ngọc và đồng là tốt, không dùng ngựa có chất liệu bằng cao su hay nhựa vì chúng không có một chút linh lực nào. Muốn đạt được lý tưởng của mình thì đầu ngựa hướng với phương ấy, muốn chuyển nhà thì bài trí ngựa tại vị trí Dịch mã theo tháng đó.
Theo ## thì nếu muốn tốt về tình cảm hôn nhân thì phối hợp với vị Đào hoa theo năm hay tháng đó. Cụ thể, nếu là năm tháng Dần, Ngọ, Tuất: Vị trí Dịch mã tại hướng Thân, Đào hoa tại hướng Mão. Nếu là năm tháng Thân, Tý, Thìn: Vị trí Dịch mã tại hướng Dần; Đào hoa tại hướng Dậu. Nếu là năm tháng Hợi, Mão, Mùi: Vị trí Dịch mã tại hướng Tỵ; Đào hoa tại hướng Tý. Nếu là năm tháng Tỵ, Dậu, Sửu: Vị trí Dịch mã tại hướng Hợi; Đào hoa tại hướng Ngọ.
Lưu ý: Người tuổi Tý (chuột) không được bài trí con ngựa tại hướng Nam vì hướng chính Nam do ngựa quản lý xung khắc với chuột. Trong “Bát quái” ngựa thuộc quẻ Càn (Thiên môn) ứng với Ngũ hành thuộc Kim, nếu người tuổi Tí bài trí con ngựa tại hướng Nam (hướng Nam thuộc Hỏa) thì sẽ xuất hiện “Hỏa đốt Thiên môn”, tức trong nhà sẽ xuất hiện 3 tình huống xấu. Đó là: Người trong nhà dễ bị đau đầu, choáng đầu; con cái không hiếu thuận, hay tranh cãi với cha mẹ; người trong nhà hay bị ho, đau phổi. Cách hóa giải đơn giản nhất là chuyển con ngựa sang chỗ khác. Nên đặt tượng ngựa hay tranh ngựa hướng ra cửa vì theo phong thủy sẽ “Mã đáo thành công”.
Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống. Qua bài viết này các bạn sẽ đọc được những câu nói hay nhất về hạnh phúc của các tác giả, nhà triết học nổi tiếng trên thế giới, những quan điểm về hạnh phúc đời sống hay nhất.
Cuộc sống của mỗi người thì ít nhiều gì cũng sẽ có hạnh phúc về vật chất cũng như tinh thần. Các bạn hãy đọc và suy ngẫm những câu nói nổi tiếng, câu nói hay về hạnh phúc trong đời sống dưới đây nhé.
1. Khi tôi ở một mình, tôi hạnh phúc.
When I am alone I am happy.
William Carlos Williams
———-
2. Người ít hiểu biết về bản chất con người tới nỗi muốn đi tìm hạnh phúc bằng cách thay đổi bất cứ thứ gì khác ngoài tâm tính của chính mình sẽ chỉ phí hoài cuộc đời trong những nỗ lực vô vọng.
He who has so little knowledge of human nature as to seek happiness by changing anything but his own disposition will waste his life in fruitless efforts.
Samuel Johnson
3. Hạnh phúc không có nghĩa là mọi việc đều hoàn hảo. Nó có nghĩa là bạn đã quyết định nhìn xa hơn những khiếm khuyết.
Being happy doesn’t mean that everything is perfect. It means that you’ve decided to look beyond the imperfections.
Khuyết danh
4. Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá.
Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose.
Helen Keller
5. Không dễ để tìm hạnh phúc trong bản thân mình, và không thể tìm thấy nó ở đâu khác.
It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.
Agnes Repplier
6. Hạnh phúc là người thầy hà khắc, đặc biệt là hạnh phúc của người khác.
Happiness is a hard master, particularly other people’s happiness.
Aldous Huxley
7. Thu nhập cao là công thức tốt nhất cho hạnh phúc mà tôi từng biết.
A large income is the best recipe for happiness I ever heard of.
Jane Austen
8. Hãy kiên quyết đừng để mình trở nên nghèo túng: hãy sử dụng ít hơn bạn có. Sự nghèo túng là kẻ thù lớn đối với hạnh phúc của con người; nó phá hủy tự do, và nó khiến một vài đức hạnh trở thành không thực tế, và số còn lại cực kỳ khó khăn.
Resolve not to be poor: whatever you have, spend less. Poverty is a great enemy to human happiness; it certainly destroys liberty, and it makes some virtues impracticable, and others extremely difficult.
Samuel Johnson
9. Làm thế nào để có, để giữ, và để tìm lại hạnh phúc thực ra đối với hầu hết người đời ở mọi thời đại là động lực bí mật của tất cả những gì họ làm, và tất cả những gì họ sẵn sàng chịu đựng.
How to gain, how to keep, how to recover happiness is in fact for most men at all times the secret motive of all they do, and of all they are willing to endure.
William James
10. Hãy dừng bước để chắc chắn mọi điều bạn đang làm lúc này thực sự là điều sẽ khiến bạn hạnh phúc. Bạn không thể chỉ sống vì một vài mục tiêu nào đó trong tương lai và để nó trở thành tất cả. Bởi đó là điều một số người làm. Họ bước lên con đường và có vô số tấm biển nói, ‘Đường này. Đường đó.’ Nhưng sẽ ra sao nếu bạn tới nơi, bạn đạt được đúng những điều mình muốn, cũng như họ, chỉ có điều tất cả những gì không ổn thì vẫn không ổn. Nếu thế thì sao?
Stop and make sure that everything you are doing right now is really what makes you happy. You can’t just live for some goal in the future and have that be everything … have that be it. Because that is what some people do. They get on this road and there are all these signs saying, ‘This way. That way.’ But what if you get there, you get exactly what you wanted, like some people do, except all the things that were wrong, are still wrong. Then what?
Khuyết danh
11. Hành động có thể không mang tới hạnh phúc, nhưng không có hạnh phúc nào lại thiếu hành động.
Action may not bring happiness but there is no happiness without action.
William James
12. Sự tồn tại là cuộc mặc cả lạ lùng. Đời nợ chúng ta thì ít mà chúng ta thì nợ đời tất cả. Hạnh phúc thực sự duy nhất đến từ việc cống hiến hết bản thân vì một mục tiêu nào đó.
Existence is a strange bargain. Life owes us little; we owe it everything. The only true happiness comes from squandering ourselves for a purpose.
William Cowper
13. Anh không thể nói anh hạnh phúc nếu anh không thắng cuộc.
You cannot say that you are happy when you don’t win.
Arsene Wenger
14. Cả giàu sang lẫn sự vĩ đại đều không thể mang cho chúng ta hạnh phúc.
Neither wealth or greatness render us happy.
La Fontaine
15. Anh không bao giờ nên hướng con người về hạnh phúc, bởi hạnh phúc cũng chỉ là sự sùng bái của thị trường. Anh nên hướng con người tới sự yêu thương lẫn nhau. Dã thú giày vò con mồi cũng có thể hạnh phúc, nhưng chỉ loài người có thể yêu thương lẫn nhau, và đây là thành tựu cao nhất con người có thể mơ ước đạt tới.
One should never direct people towards happiness, because happiness too is an idol of the market-place. One should direct them towards mutual affection. A beast gnawing at its prey can be happy too, but only human beings can feel affection for each other, and this is the highest achievement they can aspire to.
Aleksandr Solzhenitsyn
16. Niềm hạnh phúc to lớn nhất của mọi cuộc đời là sự cô độc bận rộn.
The happiest of all lives is a busy solitude.
Voltaire
17. Hạnh phúc của một người là kết quả nỗ lực của chính anh ta, một khi anh ta đã biết nguyên liệu cần thiết của hạnh phúc chỉ là một ít can đảm, sự tự chối bỏ ở mức độ nhất định, tình yêu công việc, và trên hết, một lương tâm trong sạch.
One is happy as a result of one’s own efforts once one knows the necessary ingredients of happiness simple tastes, a certain degree of courage, self denial to a point, love of work, and above all, a clear conscience.
George Sand
18. Tiền bạc chưa bao giờ và sẽ không bao giờ khiến con người hạnh phúc, trong bản chất nó không có gì có thể tạo ra hạnh phúc. Một người càng có nó nhiều bao nhiêu càng muốn nó nhiều bấy nhiêu.
Money has never made man happy, nor will it, there is nothing in its nature to produce happiness. The more of it one has the more one wants.
Benjamin Franklin
19. Bạn được tha thứ cho hạnh phúc và thành công của mình chỉ khi bạn sẵn sàng hào phóng chia sẻ chúng.
You are forgiven for your happiness and your successes only if you generously consent to share them.
Albert Camus
20. Để hạnh phúc, chúng ta không được để tâm quá nhiều đến người khác.
To be happy, we must not be too concerned with others.
Albert Camus
21. Cuộc sống đồng điệu giữa những người yêu nhau là hạnh phúc lý tưởng.
Life in common among people who love each other is the ideal of happiness.
George Sand
22. Hạnh phúc của xã hội là kết thúc của sự cai trị.
The happiness of society is the end of government.
John Adams
23. Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc.
There is only one passion, the passion for happiness.
Denis Diderot
24. Những người thật sự yêu nhau không viết ra niềm hạnh phúc của mình.
Lovers who love truly do not write down their happiness.
Anatole France
25. Hạnh phúc giống như một nụ hôn… bạn phải chia sẻ nó để tận hưởng nó.
Happiness is like a kiss…you must share it to enjoy it.
Khuyết danh
26. Chiếc bàn, cái ghế, bát hoa quả và cây đàn vi ô lông; còn cần gì hơn cho hạnh phúc?
A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy?
Albert Einstein
27. Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu bạn tiếp tục tìm kiếm thành phần của hạnh phúc. Bạn sẽ không bao giờ sống nếu bạn vẫn tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời.
You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. You will never live if you are looking for the meaning of life.
Albert Camus
28. Thế giới đầy những kẻ mà quan điểm về một tương lai thỏa mãn thực chất là sự quay trở lại quá khứ đầy lý tưởng.
The world is full of people whose notion of a satisfactory future is, in fact, a return to the idealised past.
Robertson Davies
29. Hạnh phúc không phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài, thái độ tinh thần của chúng ta điều khiển nó.
Happiness doesn’t depend on any external conditions, it is governed by our mental attitude.
Dale Carnegie
30. Không ai hạnh phúc nếu không nghĩ mình hạnh phúc.
No man is happy who does not think himself so.
Publilius Syrus
31. Một nửa thế giới không thể hiểu hạnh phúc của người khác.
One half of the world cannot understand the pleasures of the other.
Jane Austen
32. Để sống, chúng ta phải tranh đấu không ngừng, chúng ta phải có lòng can đảm để hạnh phúc.
To live we must conquer incessantly, we must have the courage to be happy.
Henri Frederic Amiel
33. Hạnh phúc giống như những lâu đài trong chuyện cổ tích với cổng được rồng canh gác: chúng ta phải chiến đấu để chinh phục nó.
Happiness is like those palaces in fairy tales whose gates are guarded by dragons: we must fight in order to conquer it.
Alexandre Dumas
34. Hạnh phúc trong cuộc đời không phụ thuộc nhiều vào điều xảy ra với bạn bằng cách mà bạn đón nhận nó.
The happiness of this life depends less on what befalls you than the way in which you take it.
Elbert Hubbard
35. Hạnh phúc là khi điều bạn nghĩ, điều bạn nói và điều bạn làm hài hòa với nhau.
Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.
Mahatma Gandhi
36. Hạnh phúc đúng là món quà của thượng đế.
Le bonheur est bien un présent divin.
Aristotle
37. Chính là một dạng màu mè học đòi về tinh thần khiến người ta nghĩ rằng mình có thể thiếu tiền mà hạnh phúc.
It is a kind of spiritual snobbery that makes people think they can be happy without money.
Albert Camus
38. Tôi không tự hào, nhưng tôi hạnh phúc; và hạnh phúc mùa lòa, tôi nghĩ vậy, còn hơn lòng tự hào.
I am not proud, but I am happy; and happiness blinds, I think, more than pride.
Alexandre Dumas
39. Hạnh phúc không phải đích đến; nó là phụ phẩm.
Happiness is not a goal; it is a by-product.
Eleanor Roosevelt
40. Tôi không biết số phận anh sẽ thế nào, nhưng tôi biết rằng những người duy nhất trong các anh sẽ thực sự hạnh phúc là những ai đã tìm được cách để phụng sự.
I don’t know what your destiny will be, but one thing I know: the only ones among you who will be really happy are those who will have sought and found how to serve.
Albert Schweitzer
41. Đôi lúc cũng cần thiết dừng chân trong cuộc hành trình theo đuổi hạnh phúc, và chỉ đơn giản là cảm thấy hạnh phúc.
Now and then it’s good to pause in our pursuit of happiness and just be happy.
Guillaume Apollinaire
42. Thực sự thì tôi cho rằng không gì thực hơn hạnh phúc và không gì hạnh phúc và ngọt ngào hơn sự thật.
Indeed in general I hold that there is nothing truer than happiness, and nothing happier and sweeter than truth.
Gottfried Wilhelm Leibniz
43. Nhưng hạnh phúc còn là gì ngoài sự hài hòa giản đơn giữa một người và cuộc sống của anh ta?
But what is happiness except the simple harmony between a man and the life he leads?
Albert Camus
44. Để giữ được niềm vui bạn phải chia sẻ nó. Hạnh phúc chào đời đã là anh em sinh đôi.
To have joy one must share it. Happiness was born a twin.
Lord Byron
45. Hạnh phúc luôn luôn được tính toán.
Le bonheur est toujours compté.
Yoram Kaniuk
46. Dù chúng ta có lang thang tới đâu, hạnh phúc cũng được tìm thấy trong phạm vi hẹp, và ở giữa những điều trong tầm với của chúng ta.
What ever our wandering our happiness will always be found within a narrow compass, and in the middle of the objects more immediately within our reach.
Edward Bulwer Lytton
47. Chỉ kẻ ngu xuẩn mới hy vọng lúc nào cũng hạnh phúc.
Only a fool expects to be happy all the time.
Robertson Davies
48. Hạnh phúc và sự phi lý là hai đứa con của cùng một mẹ đất. Chúng không thể tách rời.
Happiness and the absurd are two sons of the same earth. They are inseparable.
Albert Camus
49. Điều chúng ta gọi là hạnh phúc là điều chúng ta không biết.
What we call happiness is what we do not know.
Anatole France
50. Con đường hạnh phúc có thể là con đường quên lãng.
La route du bonheur est peut-être la route de l’oubli
Yasmina Reza
Dù thế nào đi chăng nữa, bạn hãy luôn mỉm cười với cuộc sống hiện tại của mình, hãy tin rằng thế giới này còn bao điều tốt đẹp đang chờ bạn khám phá.
Cùng khám phá nhé. Tình yêu vốn là thứ tình cảm rất khó có thể đong đếm được. Khi đã yêu thì ai cũng mong muốn người mình yêu được hạnh phúc nhất. Hết lòng vì người mình yêu, cùng người ấy đồng cam cộng khổ, chỉ cần có tình yêu thì dù có khó khăn vất vả, có phải hy sinh nhiều đến thế nào, có lẽ cũng không quá khó khăn.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh hưởng của Hỏa Linh phải kể là nghiêm trọng. Tỉ dụ Mệnh cung VCD, Hỏa Tinh hay Linh Tinh độc thủ thì quan hệ với những người sinh thành không mấy tốt đẹp, hoặc mồi côi hoặc bố mẹ chia lìa, hoặc đi làm con nuôi, hoặc không gần gũi phải ở với ông bà nội ngoại, chú bác cô dì, hoặc như Lã Bố làm con ba họ.
Trường hợp Hỏa Linh đóng ngay vào Phụ mẫu cung, nhưng chính tinh của cung này tốt lại thấy cả Lộc Mã thì phải đoán rằng thủa nhỏ đi theo bố mẹ đến một dị vực (phương xa) tạo điều biến đổi cho cả cuộc đời về sau (tỉ dụ lần du cư tị nạn sang Mỹ)
Hỏa với Linh đều chủ về biến động, thứ biến động gay gắt khó khăn chìm nổi. Hỏa với Linh trên biến động lại mang riêng hai trạng thái khác biệt. Cổ nhân viết:”Hỏa minh, Linh ám”. Giả như hỏa Linh mang đến tai họa thì Hỏa rõ ràng khả dĩ nhìn thấy trước mà dự liệu được, nhưng Linh thì bất ngờ và âm thầm.
Hỏa như sóng dữ nổi trên mặt nước. Linh như ngọn sóng ngầm khó đề phòng. Hỏa Tinh thộc dương hỏa, sao của sát phạt chủ về các việc hung họa. Hỏa Tinh thủ Mệnh tính cứng rắn cương quyết, có quyền uy nhưng rất nóng ngẩy không chịu an hận, không thể thỏa hiệp với hiện thực ưa phiêu lưu và bôn ba.
Linh Tinh thuộc âm hỏa cũng là sao sát phạt chủ về những việc phá hoại. Linh Tinh lanh lợi và cơ mưu, cao vọng không chấp nhận hiện thực, tâm ý bất thường dễ phản phúc hay tạo những đột biến
Tỉ dụ như Hỏa Linh vào Điền Trạch đều đưa đến tai hoạ về nhà cửa: cháy nhà, bị đoạt nhà. nếu Hỏa Tinh thì cháy nhà xảy đến bằng tai nạn vô ý. nếu Linh Tinh thì xảy đến bằng có kẻ đốt nhà. Âm mưu đoạt nhà đều vì Linh Tinh chứ không phải do Hỏa Tinh
Hỏa Linh vào cung Tật Ách thì hỏa bệnh thuộc thực và rõ rệt. Linh Tinh bệnh thuộc hư và âm trầm.
Hỏa Linh đóng mệnh tuổi trẻ đã ly hương. Ở cung Phụ mẫu, tuổi nhỏ sớm phải xa cha mẹ một thời gian. Ở cung huynh đệ, anh em chia lìa. Ở Phu Thê cung vợ chồng phân tán. Để tìm hiểu cặn kẽ vẫn phải căn cứ vào nguyên tắc “Hỏa minh Linh ám” mà đoán Hỏa và Linh đều rất hợp với sao Tham Lang.
Tại sao? Vì Hỏa Linh thuộc hỏa mà Tham Lang là Dương Mộc, Mộc sinh Hỏa. Tham Lang có Hỏa hay Linh thêm Lộc Tồn, hoặc Hóa Lộc chủ về hoạnh phát tiền bạc. Nếu thấy cả Không Kiếp chen vào thì bạo phát rồi bạo bại.
Tham Linh không hay bằng Tham Hỏa. Cổ nhân nói “Tham Linh tịnh thủ tướng chi danh (Tham Lang Linh Tinh đồng cung đác địa làm tướng văn tướng võ) cho người ta cảm tưởng rằng Linh đi với Tham tốt hơn Hỏa đi với Tham.
Thực ra không phải vậy, Hỏa gặp Tham là minh Hỏa, Linh gặp Tham là ám hỏa. Hỏa cần phải sáng sủa, không nên tối ám. Bởi thế khi viết vào chi tiết cổ nhân mới thêm:”Hỏa Tinh mà hội hợp với Tham Lang ở vượng địa chức tới tước hầu và thượng tướng, lập công lớn nếu không bị hung sát phá, tuổi trung niên thành công”
Còn với Linh Tinh thì cổ nhân viết:”Ngộ Tham Lang tú, quan lộc diệc bất ninh nhược phùng cư vượng địa, phú quí bất khả luận”. Linh và Hỏa đứng với Tham Lang đều đi tới chổ thành đạt phú quí hơn người, nhưng riêng Linh Tinh cổ nhân phê mấy chữ “diệc bất ninh” trong khi với Hỏa tinh thì không phê mấy chữ này. Bất ninh là không yên. Tham Linh thường phải ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn hơn Hỏa minh Linh ám càng rõ rệt khi chúng hiện vào các cung tử tức, nô bộc. Cung tử tức không chính tinh Hỏa tinh đơn thủ, nếu đối cung có chính diệu hay thì vẫn sinh con được, không sợ tuyệt tự. Nhưng nếu là Linh Tinh thì bà thứ sinh con cho chứ không phải chính thê.
Hỏa Tinh đóng nô bộc với Hình Kị thì chỉ bị bộ hạ oán ghét nhưng không mưu hại. Còn bị LinhTinh thì chẳng những căm giận mà còn âm mưu phản bội dẫn họa tới.
Hỏa Linh đi với Dương Đà lại biến ra những ý nghĩa khác. Kình Dương Đà La đều thuộc Kim. Hỏa Linh thì thuộc Hỏa. Kim có hỏa luyện mới nên thép tốt, vàng y. Kình Dương là dương kim cần dương hỏa hun đúc. Cho nên Kình Dương chỉ tốt khi gặp Hỏa Tinh
Đà La là âm kim, cần âm hỏa cho nên Đà La chỉ gặp Linh Tinh mới hay. Kết quả khác nhau ở chổ Kình hỏa thì phát mau và rạng rỡ, còn Đà Linh thì phát chậm và âm thầm. Kình gặp Hỏa có quyền đi với chức tước. Đà gặp Linh có quyền nhưng không ở chức vị cao.
Đà Linh thường là người giỏi về công an mật vụ và không thể thành võ tướng với võ công hiển hách mọi người đều biết. Đà Linh dễ gặp nguy hiểm hơn Kình Hỏa nhưng nguy hiểm qua mưu mô tranh chấp. Kình Hỏa thường nổi bật khi biến động đã hoàn tất.
Đà Linh thường là người âm thầm hoạt động để dựng nên biến động. Kình đi với Linh hay Đà đi với Hỏa đều trở thành vô dụng hoặc tác hại.
Có câu phú rằng “Kình Dương Linh Tinh vi hạ cách (Kình Dương đứng với Linh Tinh là hạ cách). Trong khi Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì lại có câu phú khác “Dương Hỏa đồng cung uy quyền cuất chúng” (Kình Dương đứng bên Hỏa Tinh thì oai quyền. Dĩ nhiên phải là Kinh Dương đắc địa)
Hỏa Linh đứng thế hiệp Mệnh, nghĩa là Mệnh cung ở giữa hai phía sát bên là Hỏa Linh. Cách cục này phải kể như xấu, đưa tới hung tọa bất an, cuộc đời bôn ba nếu Mệnh cung chính tinh xấu càng nặng. Trường hợp Mệnh cung Tham Lang độc thủ nơi miếu vượng thì lại là cách hoạnh phát bạo phát. Trường hợp Hỏa Linh hiệp Kình Dương ở Mệnh thì vẫn thành công nhưng cực kỳ gian nan.
Những câu phú cổ nhân về Hỏa Linh còn thấy:
- Vũ Khúc Dương Đà kiêm hỏa tú, táng mệnh nhân tài
(Mệnh hoặc vận hạn có Vũ Khúc Kình Đà Hỏa tinh vì tiền mà tang mạng)
- Hỏa Linh thủ xung nữ dâm dục
(Hỏa Linh đóng Mệnh cung hoặc xung chiếu đàn bà đa dâm)
- Thất Sát LinhTinh trận vong yểu triết
(Thất Sát gặp LinhTinh số không thọ, thường hung tử)
- Linh Tinh Phá Quân bôn ba lao bác tài tinh khuynh
(Linh Tinh Phá Quân hãm cuộc đời long đong vất vả và tiền bạc phá bại)
- Linh Hỏa Dương Đà thủ Mệnh yêu đã bối khúc chi nhân
(Tại Mệnh hội tụ Kình Đà Linh Hỏa dễ bị tật như còng lưng)
- Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa Linh ở Mệnh nơi miếu địa công danh hiển hách)
- Linh Tinh toạ Mệnh nhập miếu vũ chức cư đa
(Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà)
- Linh Xương Đà Vũ hạn ngộ đầu hà
(Vận hạn thấy Linh Tinh hãm gặp Đà La Vũ Khúc hãm hay Văn Xương có thể chết)
- Hỏa Linh dũ Phá đương Thân, bại điền tài ư tổ nghiệp
(Hỏa Linh đứng với Phá Quân ở Thân không phải cung Thân thường phá điền tài của tổ nghiệp)
- Linh Hỏa miếu vi nhân đại dởm
(Linh Hỏa thủ Mệnh miếu địa là người can trường to gan)
- Hỏa Linh Dương Đà vi tứ sát đơn phùng Cơ nhi hữu duyên
(Tứ Sát Hỏa Linh Dương Đà một trong bốn sát ấy gặp Thiên Cơ là người có duyên).
- Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng
(Hỏa Linh ưa gây họa gặp thêm Kiếp Không ở chỗ Thiên Sứ họa còn gấp bội)
- Linh phùng Sứ, Mã hội Dương Đà hữu tật tứ chi
(Cung Tật ách nơi sao Thiên Sứ đóng lại thấy cả Dương Đà chân tay có tật)
- Hỏa Linh hãm ư tử tức đáo lão vô nhị khốc
(Hỏa Linh hãm vào cung tử tức, hiếm con hoặc lúc già xa con)
- Linh Hỏa Hình Tang tối hiềm tử tức, hạnh ngộ Nhật Nguyệt tịnh minh lão lai tất hữu
(Linh Hỏa Hình Tang ở cung con, nếu như có Nhật Nguyệt song hữu thì khi về già cũng có người nối dõi)
- Hỏa Linh nhập Mệnh miếu, kiến chư cát, lập vũ công
(Hỏa Tinh hay Linh Tinh miếu địa đóng mệnh gặp thêm các cát tinh lập đựơc võ công)
- Hỏa Linh tương ngộ nhập miếu danh chấn chư bang
(Hỏa với Linh đồng cung ở đất miếu danh tiếng khắp nơi)
- Hỏa Linh hãm hội Dương Đà bảo cưỡng tai thâm.
(Hỏa Linh ở đất hãm gặp Kình Đà thì lúc nhỏ lắm bệnh tật)
- Nữ Mệnh Hỏa Tinh tâm độc, nội lang, khắc phu khắc tử
(Đàn bà Hỏa Tinh thủ mệnh giỏi tháo vát nhưng tâm độc và dữ dằn khắc chồng khắc con)
- Đà La Hỏa Linh đồng cung giới dịch chi tật
(Mệnh hay Tật Ách có Đà La Hỏa Linh dễ mắc chứng phong ngứa, sưng gan)
- Hỏa Linh ngộ hãm Thiên Cơ
Hẳn trong Mệnh ấy có tà chứ không
(Hỏa Linh hãm gặp Thiên Cơ hãm, người thật khùng như bị ma làm)
- Hỏa Linh Trì Mộc sáng soi
Lánh mình lửa cháy, nước sôi chớ gần
- Hỏa Linh ngộ Mã oán gia
Đề phòng hỏa hoạn mới là khỏi tai
- Linh Tinh Việt Hỏa đoài biên
Thạch trung hương hỏa thất kiềm sinh tai
(Linh Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Việt ở Dậu dễ bị tai họa về nhà cửa)
- Kiếp Không da ắt đen hoàn
Hỏa Linh mặt khó sầu đăm đêm ngày
(Mệnh Hỏa Linh mặt mày ít tươi tỉnh, thường xấc sược, giận dữ)
- Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ
Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương
- Tuất Thìn Xương Khúc Đà Linh
Sát gia Mệnh hạn gieo mình trầm vong
- Kình Dương Kị Hỏa một bài
Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh
- Dương Linh toạ thủ Mệnh ai
Lại gặp Bạch Hổ hoạ tai đao hình
- Linh phùng Sát Phá hạn hành
Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung
- Phu cung Riêu Sát Kình Dương
Hội giao Linh Hỏa gái toan giết chồng
- Cự Môn Linh Hỏa tương phùng
Ba lần mối lái chẳng xong mối sầu
(Linh Hỏa đây đóng vào cung Phu thê)
- Linh Tinh hà tiện bao nhiêu
Phá Quân kia lại tiêu liều tiêu vung
(Linh Tinh ở cung Phu thê có vợ hay chồng hà tiện)
- Kiếp Không Linh Hỏa xấu xa
Sinh con lại gặp những lại gặp những tà ác tinh
(Kiếp Không Linh Hỏa vào tử tức hiếm con, con bất hiếu, bất mục)
- Bóng tà vẫn kém hào con
Bởi chưng Linh Hỏa Thái Âm hãm nhàn
- Hỏa Linh Dương Nhẫn lâm vào
Có sinh con cũng liệt vào tật thương
- Thiên Hình giữ của tốt sao
Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen
(Linh Tinh đây ở cung Tài Bạch)
- Thiên Lương ngộ Hỏa chớ lầm
Hại người tổn vật mấy lần họa sinh.
Hỏa Tinh ở Dần Ngọ Tuất là miếu địa. Hỏa Tinh tại Tỵ Dậu Sửu là đắc địa. Hỏa Tinh vào Hợi Mão Mùi là lợi địa. Hỏa Tinh đứng Thân Tí Thìn là hãm địa.
Linh Tinh đóng Dần Ngọ Tuất, Thìn, Tỵ, Mùi là miếu địa. Linh Tinh hãm ở Tý Hợi Dậu Sửu.
![]() |
Tượng Đức Phật nhập Niết Bàn Chùa Thiên Phước |
Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, chùa được xem như một “đóa sen” nghìn tuổi của thủ đô Hà Nội.
Chùa Một Cột còn có tên gọi khác là Chùa Mật (gọi theo Hán-Việt là Nhất Trụ tháp), Diên Hựu tự hay Liên Hoa Đài (Đài hoa sen) nằm trong quần thể di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa tọa lạc giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.
Chùa Diên Hựu được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm Kỷ Sửu (1049), niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất. Nhưng cũng theo tài liệu lịch sử khác thì tại vị trí chùa Một Cột ngày nay, vào thời nhà Đường (năm Hàm Thống thứ nhất) một cột đá trên có ngôi lầu ngọc (với tượng Phật Quan Âm ở trong) đã được dựng giữa một hồ nước vuông.
Vua Lý Thái Tông thường đến cầu nguyện, được hoàng tử nối dõi, liền tu sửa lại thành chùa, xây thêm một ngôi chùa bên cạnh chùa Một Cột (cách 10 m về phía Tây Nam) và đặt tên cả quần thể chùa này là Diên Hựu tự (với nghĩa là “phúc lành dài lâu” hay “Phước bền dài lâu”).
Năm 1954, trước khi rút quân, Pháp cho tay chân đặt thuốc nổ phá chùa Một Cột. Sau ngày tiếp quản thủ đô (10/10/1954) Bộ văn hóa đã có một đợt trùng tu lớn là chùa Một Cột và chùa Diên Hựu như hiện nay.
Chùa Một Cột chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.
Qua năm tháng, chùa Một Cột đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần. Đời Lý Nhân Tông (1072 – 1128), năm Anh Vũ Chiêu Thắng 5 (1080), vua cho đúc chuông treo ở chùa gọi là ” Giác thế chung” (chuông thức tỉnh mọi người) và một tòa phương đình bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng vì chuông quá nặng nên phải để dưới đất, do vậy đánh không kêu. Chỗ ruộng để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở gọi là Quy Điền. Khi quân Minh bị nghĩa quân Lam Sơn bao vây ở Đông Quân, Vương Thông đã cho phá hủy quả chuông nay để đúc vũ khí (1426).
Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan, với bức hoành phi ba chữ “Diên hựu tự”, nguyên là công trình được dựng lần đầu tiên năm 1049, để mở rộng quy mô cho chùa Một Cột trong việc thờ cúng, tụng kinh Phật và sinh hoạt của các tăng ni (trong quần thể chùa Diên Hựu lúc đó). Kiến trúc còn lưu đến hiện nay của công trình này có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ 18 (đợt trùng tu năm 1847), phụ vào với chùa Một Cột.
Ngày 4 tháng 5 năm 2006, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập chùa là “Kỷ lục Việt Nam” . Đến ngày 10 tháng 10 năm 2012, tại Faridabad (Ấn Độ), Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập kỷ lục châu Á: “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất” cho chùa Một Cột.
Kiến Trúc: Chùa Một Cột có nét kiến trúc từ trước đời nhà Lý khá giống ngôi chùa Nhất Trụ (Hoa Lư, Ninh Bình). Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m, đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có Lưỡng long chầu nguyệt.
Hình ảnh “Lưỡng long chầu nguyệt” trên các mái đình đền, chùa chiền, không chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà còn ẩn trong đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người và nền văn minh cổ xưa. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.
Trong vườn chùa hiện có một cây bồ đề sum xuê từ đất Phật, do tổng thống Rajendra Prasad tặng nhân dịp Chủ tịch Hồ Chí Minhqua thăm Ấn Độ năm 1958.
Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản chùa Một Cột. Ngoài ra, tại thủ đô Moskva của Nga cũng có một phiên bản chùa Một Cột được xây lắp tại Tổ hợp Trung Tâm Văn Hóa – Thương Mại và Khách Sạn “Hà Nội – Matxcova”, là công trình lớn nhất của người Việt Nam tại nước ngoài hiện nay.
Chùa Diên Hựu cùng chùa Một Cột được khách thập phương trong và ngoài nước tới cầu nguyện, tham quan. Đây là một ngôi chùa có lối kiến trúc cổ độc đáo, là thắng cảnh của Hà Nội cũng như cả nước.
Trong vũ trụ, vạn vất sinh ra không phải chỉ có tính một mặt. Có mặt tốt và mặt xấu, có khi tốt với trường hợp này mà xấu cho trường hợp khác. Nói một cách dễ hiểu là không có vật gì chỉ toàn có hại mà hoàn toàn không có chút lợi ích nào cả…
Thật vậy! Như trong phương pháp chọn ngày tốt thì những ngày đẹp huy hoàng, cát lợi về nhiều mặt được con người sử dụng vào các việc trọng đại, mang tính chất đại sự như cưới hỏi – kết hôn, khởi công – động thổ, xuất hành – khai trương… Tuy nhiên, có bao giờ bạn tự hỏi còn những ngày xấu dùng để làm gì? Bởi tính chất lưỡng cực, đen trắng, tốt xấu, cho nên ngày được chia thành này tốt và ngày xấu, ứng dụng trong thực tế có những việc đại sự, cũng có những việc nhỏ không quan trọng lắm. Đặc biệt trong Phong thủy có cái hay đó là hóa giải sát khí, mang lại sự bình an cho những người ở trong căn nhà. Mỗi vận, mỗi năm, có những đặc điểm khác nhau, vì vũ trụ luôn vận động, cho nên lưu niên vận khí của các phương vị sẽ thay đổi, chuyển biến một cách huyền bí, vi diệu. Biết được dạng trường khí, cát – hung đối với từng phương vị, thì người ta sẽ chuẩn bị vật phẩm phong thủy phù hợp (phải xác định đúng dạng cát hung, và lựa chọn vật phẩm đúng đắn, nếu dùng vật phẩm không phù hợp sẽ không có tác dụng, thậm chí còn phản tác dụng là đằng khác). Sau khi chọn được chuẩn xác những vật phẩm cần thiết rồi, treo vào ngày nào để có tác dụng tốt nhất, đó cũng là một vấn đề.
Như trên đã trình bày, những này treo, đặt, trưng bày những vật phẩm phong thủy nhằm hóa giải những sát khí hình thể hoặc sát khí lý khí lưu niên gây ra nên được tiến hành vào những ngày xấu. Cụ thể như sau:
+ Trực Trừ: Theo chu kỳ chuyển động 12 năm theo quỹ đạo vòng quanh Trái đất của Mộc tinh, nên tạo ra hệ quả quả 12 địa chi, 12 trực ngày, 12 trạng thái của vòng trường sinh. Trực Trừ là trạng thái này tốt nhất để thanh lọc trừ bỏ những sát khí, như được dọn dẹp vệ sinh trời quang mây tạnh, sạch bong và trả lại trạng thái tinh khiết trong lành cho trường khí môi trường. Nó còn được gọi bằng cái tên khác là Mộc dục, tắm gội trừ uế trong Tử vi, miêu tả trạng thái trẻ sơ sinh phát triển tới mức độ tự biết làm công việc vệ sinh cá nhân. Bởi vậy nên treo pháp khí phong thủy (hồ lô, chuông gió, tượng, chuỗi tiền…) vào những ngày này thật là lý tưởng.
+ Ngày trực Phá: Ngày này là một ngày xấu, vì bản chất phá hoại hao tán. Tuy nhiên nó lại rất đắc lợi đối với các công việc như chữa bệnh, uống thuốc, phá dỡ nhà cũ, tiêu hủy rác rưởi đồ cũ. Vì bản chất hao tán, nên đối với bệnh tật, đồ đạc cũ đều bị tiêu trừ một cách nhanh chóng thuận lợi. Đối với sát khí phong thủy trong nhà ở cũng vậy, khi đặt thiết bị, vật phẩm vào các ngày này thì khí xấu bị đẩy lui và tiêu biến, khí tốt trở lại…
+ Ngày trực Chấp: Ngày trực Chấp nên làm các việc như cầu thầy trị bệnh, san nền…Nên có thể dùng để treo, đặt các vật phẩm phong thủy rất tốt. Tác dụng của nó sẽ được nhân lên.
Như vậy, trên cơ sở phân tích, ta thấy được tác dụng của một số ngày xấu. Vạn vật không có gì là chỉ toàn mặt hại, quan trọng là cách vận dụng có đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo hay không mà thôi!
Hải Triều
Ngày nọ, khi các đệ tử khất thực trở về, đức Phật có hỏi các đệ tử: “Này các đệ tử! Các người hàng ngày vất vả mang bát khất thực là vì điều gì?”.
Chúng đệ tử nghe xong liền chắp hai tay, cung kính: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con là vì bồi bổ sức khoẻ, nuôi dưỡng sắc thân để mong cầu được sự giải thoát thanh tịnh cho sinh mệnh chúng con”.
Đức Phật nhìn các đệ tử bằng ánh mắt trong suốt, trầm tĩnh hỏi: “Vậy các đệ tử hãy cho ta biết, sinh mệnh của nhục thể thọ được bao lâu?”.
“Bạch Đức Thế Tôn! Sinh mệnh của chúng sinh hữu tình thông thường kéo dài mấy chục năm ạ”. Một đệ tử đáp một cách rất tự tin.
Đức Phật lắc đầu: “Con hoàn toàn chưa hiểu được chân tướng của sinh mệnh”.
Một người khác thấy vậy liền nghiêm trang trả lời: “Sinh mệnh con người giống như cỏ hoa, mùa xuân nảy lộc đâm chồi tươi non mơn mởn, mùa đông cành khô cây héo lại hoá thành cát bụi”.
Đức Phật mỉm cười: “Con có thể xét đến mức ngắn ngủi của sinh mệnh, nhưng đối với sự liễu giải của Phật Pháp, vẫn hạn chế ở vẻ bề ngoài”.
Một đệ tử khác: “Bạch đức Thế Tôn! Sinh mệnh giống như loài phù du, sớm sinh tối diệt, cùng lắm chỉ dài như một đêm thôi ạ!”.
“Con đã quan sát sâu hơn đối với hiện tượng sớm nở tối tàn của sinh mệnh, đối với Phật Pháp như vậy đã nhận thức vào phần cơ thịt nhưng vẫn chưa đến cùng sự việc”. Đức Phật trả lời.
Với các gợi ý của đức Phật, chúng đệ tử ngày càng chăm chú lắng nghe, có người nói: “Bạch đức Thế Tôn, kỳ thực sinh mệnh chúng ta không khác gì so với sinh mệnh của giọt sương mai. Trông lung linh đẹp đẽ, nhưng chỉ cần ánh nắng chiếu rọi thì nó sẽ tiêu tan khô kiệt trong chớp mắt”. Đức Phật mỉm cười không nói.
Chúng đệ tử ngày càng tranh luận sôi nổi không ngớt. Bỗng một đệ tử thanh thoát: “Bạch đức Thế Tôn, đệ tử cho rằng, sinh mệnh con người chỉ dài trong một hơi thở”.
Lời vừa dứt, mọi người đều kinh ngạc, tất cả nhìn về phía đức Phật đợi chờ sự khai thị của Đức Thế Tôn. “Đúng rồi, đúng rồi! Tuổi thọ của sinh mệnh chỉ dài như một hơi thở. Chỉ có nhận thức về sinh mệnh như vậy mới thực sự trải nghiệm được tinh tuý của sinh mệnh. Này các đệ tử! Các người chớ nên thảnh thơi lười biếng, cho rằng sinh mệnh rất dài giống như sương mai, như kiếp phù du, như cỏ hoa, hay dài như vài chục năm của kẻ phàm tục. Tuổi thọ của sinh mệnh chỉ như một hơi thở mà thôi! Phải trân trọng mỗi phút giây của sinh mệnh, mỗi phút giây phải không ngừng phấn đấu, không ngừng tinh tấn tu tập!”
"Kinh thư" có viết: "Phượng hoàng minh hỉ, vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh bỉ, vũ bỉ triều dương" (Chim phượng chim hoàng cùng hót ở trên đồi cao kia. Cây ngô đồng đón ánh mặt trời mọc tốt tươi nơi sườn đồi). Do đó, người xưa đã sáng tác nên bức tranh "Đan phượng triều dương" (chim phượng đỏ hướng về mặt trời), mặt trời và chim phượng cùng vẽ trên một bức tranh để biểu thị con người hướng về phía tương lai tươi đẹp, cùng vươn tới cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Treo tranh hợp phong thủy sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích trong cuộc sống. Tranh phượng
hoàng có thể treo trong phòng ngủ giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Hợp và kỵ:
• Tranh chim phượng hoàng treo ở vị trí cát lợi trong phòng ngủ của vợ chồng thì có thể làm không gian đẹp hơn, cũng như có thể khiến cuộc sống hôn nhân tràn đầy hạnh phúc.
• Phượng hoàng có đặc tính của loài gà, người cầm tinh con rồng, rắn và trâu rất hợp với gà, do đó hợp nhất là treo tranh chim phượng hoàng; Còn người cầm tinh con mèo, chó và gà không hợp với gà cho nên không nên treo loại tranh này.
• Do chim phượng hoàng có đặc tính giống với gà, do đó không nên treo tranh chim phượng hoàng ở vị trí chính Đông của ngôi nhà, bởi vì đây là vị trí tương xung của gà. Nên treo ở vị trí tương hợp là hướng Đông nam, hướng Đông bắc hoặc treo ở vị trí Dậu là hướng chính Tây.
(Theo Bố trí đồ vật theo phong thủy)
Quán quân: Tuổi Hợi
Người tuổi Hợi, đặc biệt là người sinh tháng 3 âm lịch, sẽ có thành công vang dội trong sự nghiệp bằng chính tài năng, khối óc và đôi tay của mình. Dù không sinh ra trong gia đình giàu có, không có nền tảng tài chính cơ bản nhưng người tuổi Hợi lại biết xây dựng sự nghiệp vào trí tuệ và sự nỗ lực của mình để vượt qua mọi gian nan, thử thách, giành vinh quang và làm giàu cho bản thân.
Thông thường, người tuổi Hợi có được đại nghiệp vững chắc và hưởng vinh hoa phú quý khi bước sang độ tuổi trung niên. Lúc đó, họ sẽ đền đáp xứng đáng những người đã giúp đỡ họ chân thành và nhiệt tình lúc khó khăn.
Á quân: Tuổi Dần
Người tuổi Dần sinh tháng 7 âm lịch thường có cuộc sống khó khăn khi trẻ, bởi không được thừa hưởng tài chính từ phía gia đình. Đổi lại, họ có ý chí kiên cường, tinh thần cầu tiến cao độ, khả năng xử lý tình huống khéo léo, nên đến trung vận họ sẽ gây dựng sự nghiệp đỉnh cao khiến ai ai cũng phải ngưỡng mộ.
No3: Tuổi Ngọ
Những ai sinh trong tháng 5 âm lịch thuộc con giáp này cũng sẽ lập nên đại nghiệp vinh quanh cho bản thân mình khi đến tuổi trung niên. Thời thơ ấu của những người tuổi Ngọ sinh trong tháng này thường không được thuận lợi và trải qua nhiều gian khổ. Chính lẽ đó, họ luôn nỗ lực không ngừng, dùng chính trí thông minh và sự chăm chỉ của mình để đạt được thành công như mong đợi.
No4: Tuổi Dậu
Thời niên thiếu của người tuổi Dậu cũng đầy khó khăn, vất vả và không được người thân trợ giúp về khoản tiền bạc. Nhưng bằng sự nỗ lực không ngừng, cộng thêm trí tuệ thông minh, nhạy bén và lối sống lạc quan, có hoài bão, họ đã tự tạo dựng cuộc sống giàu sang, phú quý cho bản thân từ đôi bàn tay trắng.
Đặc biệt, những người sinh vào tháng 8 âm lịch thường có số giàu sang, cuộc sống sung túc, được cả danh và lợi khi bước sang tuổi trung vận. Họ thường chủ động lập kế hoạch rõ ràng và cố gắng đến sức lực để đạt được mục tiêu đã đề ra.