Tính trùng tang –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Theo các chuyên gia phong thủy, hạnh phúc gia đình cũng phụ thuộc nhiều vào năng lượng sinh khí của ngôi nhà. Nguồn sinh khí dồi dào mang đến những cơ hội tìm được người hợp duyên phận cho người còn độc thân cũng như gia tăng sự gắn bó giữa hai vợ chồng.
Những ngôi nhà có nền thấp hơn mặt được là nơi âm khí tụ vào. Mọi người sống trong những ngôi nhà đó thường gặp trắc trở về đường hôn nhân. Những ngôi nhà tầng cao lại có dương khí quá mạnh, cũng không phù hợp mang lại vận đào hoa.
Trong phong thủy, 4 địa chi Tý, Ngọ, Mão, Dậu đều đại biểu cho vận đào hoa. Ví dụ nếu trong bát tự (giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh) xuất hiện một trong 4 địa chi này thì nơiời đó có mệnh đào hoa. Tương tự như vậy, những ngôi nhà ở hướng Tý, Ngọ, Mão, Dậu có dòng nước, hồ ao, bể bơi, bể nước, bể cá,...sẽ có lợi hôn nhân.
- Nhà đằng sau hướng Tây, trước hướng Đông, có dòng nước từ Đông chảy về Nam.
- Nhà cửa sau hướng Nam, trước hướng Bắc, dòng nước từ Bắc chảy về Đông.
- Nhà cửa sau chính Đông, dòng nước từ Tây chảy về Bắc.
- Nhà phía sau hướng Bắc, phía trước hướng Nam, dòng nước từ Nam chảy sang Tây.
Ngoài ra, hàng năm gia chủ nên chú ý chòm sao Ngũ hoàng - sao hạn ảnh hưởng đến hôn nhân. Tránh kê giường hoặc hướng dầu giường vào vị trí sao Ngũ hoàng trong nhà. Nếu không thể chuyển phòng, chuyển giường, bạn phải treo chuông gió, xâu tiền xu Ngũ đế hay bình hồ lô để chặn bớt sát khí. Vào năm 2016, sao Ngũ hoàng nằm ở cung Đông Bắc.
Khi bạn còn là thai nhi 13 tuần tuổi, vân tay đã được hình thành và đó là “dấu ấn” riêng của bạn. Hơn 100 năm qua, hình pháp học (criminology) dùng dấu vân tay để nhận dạng tội phạm bằng khoa phân tích vân tay (dermatoglyphics).
Chuẩn bị
Lựa chọn 1: Phấn hoặc bột màu sẫm (nếu là phấn, mài thành bột); băng keo; giấy trắng.
Lựa chọn 2: Miếng đệm có mực; giấy trắng.
Thao tác
Lăn dấu tay lần lượt từng ngón – ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út, ngón út, ngón cái. Làm cả hai tay, và bạn có 10 dấu vân tay. Bạn lăn tay vào bột màu rồi lăn dấu vân tay vào băng keo. Sau đó dán băng keo lên giấy trắng để “lưu” dấu vân tay. Hoặc bạn cũng có thể lăn tay vào miếng đệm có mực rồi lăn tay trên giấy để có dấu vân tay.
Kết quả
Có 3 cách cơ bản để tìm khi phân tích vân tay: vòng cung (tròn góc và nhọn góc), xoắn ốc và vòng thòng lọng. Dĩ nhiên có nhiều biến đổi và nhiều cách kết hợp với những kiểu này. Kết quả khác nhau tùy những kiểu vân tay mà bạn có và chúng ở ngón tay nào.
Vòng cung tròn góc: Có nhiều dấu này thì có thể bạn khó khăn diễn đạt cảm xúc, nhưng bạn rất thực tế. Nếu có ở ngón trỏ, bạn yêu thích truyền thống và tham vọng công danh. Nếu có ở ngón giữa, bạn thích quan điểm giáo dục truyền thống. Nếu có ở ngón áp út, bạn coi trọng tình cảm. Nếu có ở ngón cái, bạn có niềm đam mê và ý chí mạnh, nhưng cũng có chút máu nổi loạn.
Vòng cung nhọn góc: Dấu này thường chỉ thấy ở ngón trỏ. Có thể bạn là người nhạy cảm nhưng bốc đồng.
Xoắn ốc: Nếu có nhiều xoắn ốc (thường gọi là hoa tay), bạn là người có trách nhiệm. Có thể có chút độc đoán trong quan điểm của bạn, do vậy mà không lạ gì khi “hoa tay” có yếu tố của lửa, nhưng bạn có tài. Nếu có ở ngón trỏ, bạn có tri giác và không thể nói dối. Nếu có ở ngón giữa, bạn rất hiếu kỳ, thích điều tra và tìm hiểu các bí ẩn. Nếu có ở ngón áp út, bạn rất tỉ mỉ và có thể giữ bí mật. Nếu có ở ngón cái, bạn có năng khiếu lãnh đạo và tính độc lập cao.
Vòng thòng lọng: Dấu này khá phổ biến. Nó có nghĩa là bạn khá linh động và không thích những gì đều đều. Các dấu này cho biết mức độ cảm nhận cuốc sống, có yếu tố của nước. Nếu có ở ngón trỏ, bạn có tính độc lập cao và muốn tự khẳng định mình. Nếu có ở ngón giữa, bạn có nhiều ý tưởng hay và sáng tạo. Nếu có ở ngón áp út, bạn sáng tạo với cảm xúc của mình. Nếu có ở ngón út, bạn tiên phong về tinh thần (hiếm có ở ngón út). Nếu có ở ngón cái (thường có ở ngón này), bạn có tính nhân đạo.
Những căn bệnh khác nhau cũng liên quan dấu vân tay. Chân cũng có dấu “vân chân”. Hơn 2000 năm trước, các thợ gốm Hồng Kông đã in dấu vân tay lên các bình để làm dấu sở hữu riêng.
Nguồn: Tổng hợp.
![]() |
► Mời các bạn đọc thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
Quan niệm Ngũ Hành trong y lý
Chữa bệnh có y lý (lý luận đông y) không chỉ đang còn thịnh hành ở Trung Quốc mà hầu hết các Lương y, ngay cả một số bác sỹ (tây y) ở nhiều nước trên thế giới cũng đều coi hai thuyết này là cơ sở nhận thức bệnh học hữu ích. Nó soi sáng phần nào mọi khía cạnh của bệnh lý của con người; làm cơ sở cho phương thuốc điều trị.
Quan niệm Ngũ Hành trong y mệnh.
Để phòng chữa họa tai, người ta có y mệnh. Đó là sự tìm đến các môn dự báo, dự đoán như: dự báo khí tượng, dự đoán vận hạn đất nước, xã hội, con người trong các thời vận bằng dự đoán học mà hai thuyết Âm Dương và Ngũ Hành đều có mặt trong Dịch, Lý, số v.v… Tất cả các môn đó nhằm phần nào biết trước vận hạn: lành, dữ để phòng tránh hay khắc trừ đem lại sự an bình cho con người.
Quy tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc đã chế hóa vạn vật trong nguyên lý Âm Dương biến hóa, đối lập mà thống nhất. Các môn dự đoán đều dựa trên hiện tượng và thực thể cụ thể cho trước, có trước rồi trên cơ sở của nguyên lý Âm Dương và quy tắc của Ngũ Hành mà suy luận dự đoán cho điều sắp xảy tới. Việc giải một “phương trình” để tìm ẩn số “mệnh” ở đây không khác gì giải phương trình để tìm ẩn số trong toán học. Cũng có những dữ kiện đã cho, đã có, đã biết mà đi tìm kết quả nhờ quan hệ giữa chúng. Nhưng để mang tính khoa học thì kết quả của các môn thuật số chỉ là dự đoán. Dự đoán y mệnh càng có cơ sở vững chắc ngoài nguyên lý Âm Dương còn phải cần đến quy tắc của Ngũ Hành. Vì vậy quy tắc Ngũ Hành được thịnh hành là thế.
No 1. Tuổi Thân
![]() |
Người tuổi Thân sống cởi mở, yêu thích cuộc sống, tràn đầy năng lượng. Dù đã ngấp nghé tuổi già, họ cũng không từ bỏ tâm trí thời còn trẻ. Đối với sự vật, sự việc vẫn tràn đầy sự tò mò, thích mạo hiểm, tìm tòi cuộc sống tràn đầy màu sắc. Thái độ của họ vui vẻ, lạc quan, luôn tin tưởng tất cả sẽ tốt đẹp, tâm trạng vô âu vô lo, tự do tự tại. Cuộc sống có nhiều biến cố nhưng cuối cùng họ vẫn hạnh phúc, tuổi thọ cao.
No 2. Tuổi Mão
![]() |
Người tuổi Mão được ấn tượng bởi sự ấm áp và yên bình. Chính vì sự ấm áp này mà trái tim của họ luôn rộng mở, không bao giờ vì những chuyện nhỏ nhặt mà tính toán. Sự khoan dung và từ tốn của họ không phải chỉ để làm vừa lòng ánh mắt của mọi người. Họ sống thản nhiên, yên bình, chỉ cần quan tâm đến thói quen ăn uống, phòng ngừa những yếu tố của môi trường thì sống trường thọ là điều vô cùng dễ dàng.
No 3. Tuổi Hợi
![]() |
Nhiều người cảm thấy chán vì tính cách của người tuổi Hợi phản ứng chậm chạp, không suy nghĩ nhiều, nhưng cũng vì tính cách có phần thiếu tập trung này lại khiến họ dễ sống thọ hơn. Bởi không vội vàng nên họ không phải chịu ảnh hưởng của những cảm xúc như nôn nóng, kích động. Vì không nghĩ nhiều nên họ không phải chịu sự buồn rầu đến khổ sở. Vì lười nhác nên họ hiểu thế nào là tận hưởng cuộc sống và khiến cho bản thoải mái hơn.
No 4. Tuổi Thìn
![]() |
Bí quyết sống thọ của người tuổi Thìn là biết cân bằng giữa làm việc và nghỉ ngơi, họ cầm lên được thì sẽ đặt xuống được, lúc lười biếng thì sẽ đi hưởng thụ; khi hành động họ sẽ làm việc tích cực hơn bất cứ ai. Họ rất tham vọng, việc có thể nắm chắc trong tay thì nhất định sẽ cố gắng phấn đấu, việc nào không đạt được thì họ sẽ không dây dưa, lập tức đi tìm kiếm những điều mới mẻ hơn. Chính sự thản nhiên như vậy đã khiến người tuổi Thìn có sức khỏe tốt và tinh lực dồi dào.
No 5. Tuổi Tý
![]() |
Không ai có thể nghi ngờ sức sống mạnh mẽ của người tuổi Tý. Tuy cuộc sống của họ xoay quanh những điều nhỏ bé, không đeo đuổi những thứ xa hoa, nhưng lúc nào cũng thoải mái, bộc trực và vui vẻ. Bất luận phải ở trong một môi trường hiểm hóc đầy thách thức, ý chí của họ vẫn không sa sút, vẫn có thể nói cười tự nhiên. Chỉ dựa vào những điều trên, người tuổi Tý đã thành ngôi sao sáng trong hàng ngũ các con giáp sống thọ.
Chocopie (theo Sina)
Mọi người ai cũng muốn mua được một ngôi nhà tốt, đã có thầy phong thuỷ tổng kết và đúc rút ra những nét đặc trưng quý giá của nhà ở, xin cung cấp để mọi người cùng tham khảo:
1. Tựa núi gần nước (Y sơn bàng thủy)
Trước có con sông nhỏ , sau có dốc núi là một môi trường lý tưởng nhất cho nhà ở. Núi phía sau để tựa có thể tàng phong tụ khí; địa hình vừng chắc “trước thấp sau cao”, vững như thái sơn, phía trước minh đường rộng thoáng, tầm nhìn tốt, sông chảy uốn khúc vừa hợp là “thuỷ hữu tình”. Tục ngữ có nói “Uốn khúc thì có tình.” Không nhanh không chậm, đai ngọc 9 khúc uốn lượn vây quanh mang đến tài phú, là bố cục phong thuỷ nhà hợp lý nhất, nhưng hiện nay tìm được bố cục như vậy ở thành phố là quá khó khăn.
Cần phải chí ra thêm rằng, phong thuỷ học chia nước ra làm hai loại là nước sống và nước chết (hoạt thuỷ và tử thuỷ).
Hoạt thuỷ là chỉ nước sạch lưu động với tốc độ vừa phải, có năng lượng sống phong phú. Tứ thuỷ là chỉ nước đục, ô nhiễm, nước có mùi hôi thối, thiếu năng lượng sống, dễ dẫn dụ con người rơi vào con đường tội lỗi.
Dùng gương soi, có thể lợi dụng nước sống, xử lý nước chết có hiệu quả. Ví dụ, điều chỉnh góc độ gương phản chiếu dẫn hình ảnh nước chảy trên sông vào nhà, tức là dẫn tài khí vào nhà. Ngược lại, chiếu gương vào nước chết làm cho tà khí phản xạ ra khỏi nước.
Ngoài ra, còn phải chú ý đến hình thái nước. Rốt cuộc thì nhà ở hợp với mặt nước hồ phẳng lặng hay là mặt nước biển sóng trào? Nếu nước lưu động ôn hoà là phong thủy tốt; trái lại, hình thế nước gấp gáp mạnh mẽ thì nguồn của cải trong nhà không ổn định, chóng thành mà cũng nhanh bại.
Từ đó có thể thấy, nhà ở phía trước có mặt nước, nếu là mặt nước biển hàng ngày sóng trào mạnh mẽ thì sẽ thiếu không khí may mắn ôn hoà, ở cạnh biển như vậy về phong thuỷ học ngoài sự bất ổn về nguồn của cải ra, còn ảnh hưởng đến sự yên ổn tâm lý con người. Nếu sóng biển quá mạnh cũng có nghĩa là gió lớn, ngày nào cũng ở nơi sóng to gió lớn như vậy thử hỏi có yên ổn được không ? Ở lâu trong môi trường như vậy tinh thần người ta trớ nên căng thẳng, âu lo. Vì vậy, nếu muốn chọn nhà ở gần biển thì nên chọn ở vùng biển sóng lặng mới là nơi phong thuỷ tốt.
Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý không nên ở quá gần biển, nhà ở quá gần với biển sẽ phạm phải cát cước sát, vận nhà không được lâu bền, khó tụ được tài khí.
2. Trước nhà có công viên
Công viên trước nhà, minh đường rộng rãi, là sự lựa chọn tốt nhất. Ở nơi đô thị có thể tìm được nơi có nhiều màu xanh cây lá thì thật là đáng quý. Minh đường thoáng rộng, tinh thần sảng khoái, vận khí hanh thông, tầm nhìn xa rộng, chỉ cần bố cục nhà tốt nữa thôi thì đây sẽ là nơi ở lý tưởng. Tuy nhiên công viên ở dây phải là loại không hoang dã, nếu không tác dụng sẽ ngược lại. Hoặc nếu nhà ở quá gần công viên, hoạt động buổi sáng sớm dễ bị ảnh hưởng, chẳng hạn như bị nhiễu bởi những âm thanh luyện khí công, dàn, hát v.v… cần phải xem xét kỹ.
3. Bên trái, bên phải có điểm tựa
Nhà ở mà bên trái và bên phải đều có nhà khác tức là nhà có điểm tựa trái phải. Hai bên trái phải tiêu biểu cho quý nhân, có thể nhận được sự giúp đỡ, đề bạt từ bạn bè, quá trình phân đấu không phải gian khó lắm. Trái phải sơ lược là tiền đồ, nó giống như ghế ngồi hai bên có tay vịn, trước mặt có không gian thoáng rộng, nếu phía sau lại có núi (toà nhà) để tựa, bố cục nội thất tốt thì đó là một ngôi nhà có phong thuỷ tốt nhất ở thành phố. Phong thuỷ học nhìn nhận nhà ở từ bên ngoài, bên trái có thanh long, bên phải có bạch hổ, phía trước có chu tước, phía sau có huyền vũ, bốn xung quanh có thể hộ ứng cho nhau, hoà quyện với nhau được xem là nhà ở tôn quý.
Thạch anh tóc vàng – viên đá quý nhất trong họ hàng thạch anh. Ý nghĩa của thạch anh tóc vàng là biểu tượng của sự phát triển, sinh sản, sự thịnh vượng, thăng tiến, giúp chủ nhân thăng hoa trong đường tình duyên, hạnh phúc lứa đôi được yên ấm, bền vững. Bài viết sau tìm hiểu Thạch anh tóc vàng mang ý nghĩa gì?
Nội dung
Thạch anh tóc vàng thực chất là một biến thể của họ đá thạch anh (họ nhà thạch anh được phân ra làm nhiều loại như thạch anh hồng, thạch anh tím, thạch anh tóc v.v…). Chúng là đá thạch anh nhưng có lẫn các tinh thể ru-tin, các tinh thể ru-tin này hình giống như những sợi tóc, nên còn được gọi là tinh thể tóc. Tên khoa học của thạch anh tóc vàng là Rutilated Quartz.
Thạch anh tóc vàng có độ cứng là 7/10 (tính theo thang độ cứng Mohs). Như vậy, chúng là loại đá rất bền, không ngại va chạm mạnh, khó vỡ hơn hầu hết các loại đá tự nhiên khác.
Một chiếc vòng tay thạch anh tóc vàng có đẹp hay không. Điều kiện quan trọng nhất là hiệu ứng quang học ánh kim (tóc vàng kim) của chúng. Vậy hiệu ứng quang học ánh kim này là gì?
Những sợi tóc (ru-tin) có một đặc điểm rất thú vị, đó là dưới ánh sáng ban ngày hoặc ánh đèn điện neon, chúng sẽ phản quang và phát ra những tia sáng lấp lánh như những thỏi vàng 18k. Người ta gọi hiệu ứng này là “hiệu ứng quang học ánh kim” hay “hiệu ứng quang học tóc vàng kim”.
Tùy vào đặc tính của sợi tóc ru-tin như sợi tóc mỏng hay dày, vàng đậm hay vàng nhạt, có lẫn tạp chất hay không v.v…, mà ánh sáng phản quang sẽ có mức độ “lung linh” khác nhau. Vì vậy, khi chọn một chiếc vòng thạch anh tóc vàng, bạn hay lưu ý đặc điểm này. Bằng mắt thường của mình, đưa chiếc vòng ra ánh sáng, hoặc rọi dưới ánh đèn, sau đó quan sát mức độ “lung linh” của chúng để xác định hiệu ứng quang học.
Các chuyên gia về trang sức đưa ra 3 tiêu chuẩn chung để đánh giá chất lượng một chiếc vòng tay thạch anh tóc vàng, bao gồm: tiêu chuẩn về màu sắc, tiêu chuẩn độ trong và tiêu chuẩn kiểu cắt
Hay nói cách khác, một chiếc vòng tay thạch anh tóc vàng có màu sắc như thế nào là đạt tiêu chuẩn? Một chiếc vòng nhìn tổng quát bằng mắt thường có màu sắc vàng đều, hài hòa cân đối, không nhạt quá, các sợi ru-tin không có sắc nâu là đạt tiêu chuẩn về màu sắc. Tuy nhiên, nếu màu vàng đậm mà tươi, sáng sẽ được đánh giá cao hơn hẳn.
Cũng giống như nhiều loại đá khác, một chiếc vòng thạch anh tóc vàng cũng được đánh giá qua tiêu chuẩn độ trong. Các hạt đá khi quan sát bằng mắt thường không có các tạp chất, bọt khí, có thể nhìn xuyên qua, trong như pha lê thì có thể đã đạt đến tiêu chuẩn 4A. Nếu kỹ hơn, dùng kính lúp soi kỹ viên đá, cũng không phát hiện tạp chất thì sản phẩm đó có thể đạt tiêu chuẩn là 5A.
Những sản phẩm vòng thạch anh tóc vàng đục, có nhiều tạp chất, thường không được đánh giá cao nên giá thành sẽ rẻ hơn rất nhiều.
“Tiêu chuẩn về kiểu cắt” là một thuật ngữ trong ngành trang sức đá quý. Nói đơn giản, là khi quan sát chiếc vòng đá thạch anh tóc vàng, quan sát các hạt đá, có tròn đều hay không và có bị méo mó hay không. Tiêu chuẩn về kiểu cắt của một chiếc vòng thạch anh tóc vàng chất lượng phải là tròn đều, bề mặt được mài dũa sáng bóng, người nghệ nhân khi mài phải làm sao để bề mặt đá hấp thụ được ánh sáng nhằm phát huy tối đa hiệu ứng quang học ánh kim.
Ý nghĩa đầu tiên của thạch anh tóc vàng được các chuyên gia phong thủy chứng minh chính là năng lượng phát triển mạnh mẽ của loại đá quý này. Thạch anh tóc vàng hợp với mệnh Kim, mệnh Thổ bởi chúng có màu vàng.
Kết tinh tinh khí trong đất trời từ hàng nghìn năm, năng lượng trong thạch anh tóc vàng có khả năng mang lại cho con người cảm giác sảng khoái, tinh thần minh mẫn, suy nghĩ lạc quan và tích cực hơn. Đồng thời, chúng cũng giúp chủ nhân thăng hoa trong đường tình duyên, hạnh phúc lứa đôi được yên ấm, bền vững.
Năng lượng của thạch anh tóc vàng có hiệu quả nhất trong việc tập trung trí óc, thúc đẩy hoạt động năng nổ, rất thích hợp với người làm việc kinh doanh, nghiên cứu khoa học và sáng tạo.
Đặc biệt, chiếu theo luật ngũ hành, thạch anh tóc vàng là viên đá của những người mệnh Thổ. Theo đó, chúng sẽ bảo vệ chủ nhân mệnh Thổ khỏi những tai họa, mang lại may mắn và giữ họ luôn khỏe mạnh, tránh xa mọi bệnh tật, đau khổ.
Không chỉ mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc, trong lĩnh vực tôn giáo và tâm linh, thạch anh tóc vàng bã mía cũng đem lại những tác dụng nhất định. Người ta tin rằng loại đá quý này có khả năng kết nối giữa sự sống và linh hồn đồng thời giải mã bí ẩn của những giấc mơ.
Theo quan niệm tâm linh của phương Đông, loại đá này toát ra trường năng lượng chống lại ám khí, xua tan những điều không may mắn. Đối với người phương Tây, thạch anh tóc vàng lại giúp chống bùa ngải và xua đuổi ma quỷ.
Ngoài ra, tác dụng mầu nhiệm và ý nghĩa của thạch anh tóc vàng còn được nhận đinh bởi các chuyên gia trị liệu, các thiền sư và những người làm việc trong lĩnh vực tâm linh, tôn giáo. Theo đó, những người tập yoga chuyên nghiệp cho rằng thạch anh tóc vàng có khả năng kích thích não bộ, cải thiện hệ thống tiêu hóa, giúp họ tập trung cao độ, cân bằng giác quan và thu hút được nguồn năng lượng của vũ trụ ví vậy họ thường chọn mua những mẫu vòng tay thạch anh. Trong khi đó, các thiền sư thường kết hợp sử dụng loại đá quý này khi thiền định để đạt được cảnh giới cao hơn trong quá trình tập luyện.
Theo các tài liệu nghiên cứu về tâm thần học, thạch anh tóc vàng có ý nghĩa rất tích cực trong việc điều trị các vấn đề về tâm thần và chứng mất trí nhớ. Đồng thời, loại đá này còn góp phần làm giảm sự lo lắng, tăng cường khả năng tập trung, sự quyết đoán, lòng dũng cảm trong cuộc sống. Thường xuyên đoe trang sức có gắn thạch anh tóc vàng sẽ giúp giảm bớt sự cô đơn, hỗ trợ điều trị chứng trầm cảm, lấy lại sự lạc quan và niềm vui trong cuộc sống.
Một số chuyên gia thôi miên cũng sử dụng thạch anh tóc vàng để giúp người bệnh thoát khỏi những ám ảnh về lỗi lầm trong quá khứ đồng thời điều hào cảm xúc tốt hơn, khiến họ được giác ngộ và tìm ra chân lý cuộc đời.
Các nhà khoa học cũng đá tìm ra tác dụng của thạch anh tóc vàng trong việc điều trị chứng rố loạn tiêu hóa, phục hồi sinh lực, tăng cường chức năng cho hệ miễn dịch, điều hòa hệ hô hấp, ổn định huyết áo và hỗ trợ hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn. Từ xa xưa, những người La Mã đã biết dùng loại đá quý này để trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, dạ dày và bệnh thận hiệu quả.
Mặt khác, ý nghĩa của thạch anh tóc vàng còn được chú ý đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh. Chúng giúp những người thiếu quyết đoán trở nên sáng suốt và tỉnh táo hơn trước những lời dụ dỗ ngon ngọt của các nhân viên bán hàng. Đồng thời giúp họ không bị lọc lừa hay lợi dụng để làm lợi cho đối thủ.
LÁ SỐ TỬ VI CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA – MỘT VỊ ĐẠI LỰC, ĐẠI HÙNG, ĐẠI BI
Đây là đoạn trích dẫn trong tập sách tử vi của cụ THIÊN LƯƠNG, sau đây Xem Tướng Chấm Net xin giới thiệu đoạn dẫn này.
Ngày sinh: ngày 8 tháng 4 năm Mậu Tuất, giờ Ngọ
– Thưa tiên sinh sau một tời gian theo dõi đọc KHHB, nhất là số 11 ngày 15.10.73 vừa rồi, tôi đánh bạo đến đây mong rằng tiên sinh chỉ bảo cho biết thêm về tử vi.
– Bạch Đại Đức, hôm nay Đại Đức chiếu cố đến thật vinh dự cho tôi, biết đâu sau khi ra về, Đại Đức sẽ thấy thất vọng, cái tôi chỉ là thiểu học không căn bản. Xin thưa thật, sỡ dĩ tôi dám mạo muội trình bày ý kiến không ngòai mục đích tìm thầy mở lối.
– Xin tiên sinh đừng quá nhún nhường, tôi thật tình là một người tìm học tử vi, hôm nay có mang theo một lá số mà tôi có công sưu tầm theo sự hiểu biết của tôi, mong tiên sinh giải đáp cũng như những lá số tiên sinh đã phân tích lâu nay trên KHHB để làm thước ngọc khuôn vàng cho mức học của tôi. Không nói ra, chắc sau khi xem, tiên sinh cũng biết đây là số của đức Thế Tôn mà đời tôi đã trao trọn cho giáo thuyết của Ngài, căn cứ theo năm sinh là năm 563 trước dương lịch (Mậu Tuất) lấy ngày 8 tháng 4 giờ Ngọ để lập thành, xin tiên sinh cứ trung thực phân tách may ra tôi mới thêm phần nào ánh sáng.
(Trên đây là lời đàm thọai được ghi trong cuộc nói chuyện giữa cụ Thiên Lương và một vị Đại Đức, độc giả của giai phẩm KHHB)
Sau cuộc tiếp chuyện với Đại Đức không quen biết, không dám phụ lòng người thành thật đã chiếu cố, để đền đáp công người đến tận nhà khuyến khích và được biết lá số của Đức Phật, tôi cố tìm kiếm những điểm chính nào mà Ngài đã vượt hơn thế nhân gọi là tuệ giác.
– Tuổi Mậu Tuất, Mệnh Thân đồng cung tại Hợi, ở vị trí sáng suốt cùng với thiên địa cảm thông, như người có sứ mạng, có sự đồng minh của thiêng liêng để dìu dắt nhân loại (Thiếu Dương được Hồng Đào Hỉ). Thiên Không đây mới thật vấn đề tài tình. Ở vị trí Dần Thân Tỵ Hợi, Thiên Không phải phụ thuộc Hồng Loan, dầu đồng cung hay xung chiếu, là bản tính của người không ham phù vân, tự tu tự tỉnh biết trọng cái lý công bằng thiên nhiên, hễ vay là phải trả, muốn là phải khổ, mọi sự vật đều là không, là chân lý vô thường của nhà Phật, là chân lý thường diễn biến hàng giờ hàng phút, tất cả không có gì là không biến dịch từ cái sinh đến cái diệt cứ liên tục thay nhau bất tận của cái thế luân hồi.
– Phủ phùng không là cái phủ trống rỗng, là cái không có gì, ngay cái mệnh của Ngài coi cũng là Không, thiết tưởng Hồng – Lộc xung chiếu, Ngài còn thiết gì mà không ngăn cách bằng Tuần, huống chi Hồng Lộc là miếng mồi ở trong có thuốc độc (Hà-Sát) với Ngài là bậc tuệ giác làm sao mà không coi thường gạt bỏ.
– Thiên Không đã tài tình mà Cô Thần ở đây không kém phần đặc sắc. Người ta thường nói Nam kỵ Cô, nữ kỵ quả thì lý đương nhiên là người cô quạnh cho đến cả vợ con ruột thịt đồng bào nhân loại đại –đồng, dầu Đông hay Tây, Nam hay Bắc dưới tệ nhãn của Ngài (Thiếu Dương Thiên-Hỉ) đều là con người nay kiếp này, mai kiếp khác cũng như nhau, Ngài vẫn một tình thương âu yếm nhân hậu ( Thiên-Đức, Nguyệt –Đức, Long- Đức, Phúc-Đức).
– Khoa, Đào, Việt, Tả Hữu là vạn năng của Phật, dầu ở khía cạnh nào vẫn là tập trung ở cái nhân tứ đức, cái tuệ- giác quán thông của Ngài cùng trời đất( thân mệnh đồng cung).
– Thiên tướng cung Quan ở Mão là Thiên Tướng hãm, nếu là tuổi khác không được Thiếu-Dương, không được Tứ-Đức, có lẽ đây là 1 ông thầy tướng số có hạng. Với Đức Phật như lá số này (Mậu-Tuất) chỉ là một thầy tu khiêm tốn không quyền uy, không ép buộc, không khuyến dụ ai phải theo mình, ai hỏi thì nói, nói rồi coi cũng như không nói. Thiên Tướng đây có tính cách bình dân muốn để quần chúng tự ý giải thoát mình, chứ Ngài không muốn cho mình là người sáng ban phát ơn-huệ cho ai là người mê muội. Cái phẩm chất của Thiên Tướng (Mão Dậu) nó đã giản dị cặp thêm thiên quan có ý nghĩa thông cảm trời cao (Dương), Thiên-Phúc đất rộng (Âm) là sứ mạng của người thông đạt lý lẽ âm dương muốn mọi người hết mê để tự mình thành Phật hết cả.
– Nó thong thả tự do tự mình cởi mở lấy mình, ngay cả những lời Ngài nói đừng có tin ngay. Chứng nào thấy chắc chắn có giá trị thì hãy theo cũng có nghĩa căn bảo người ta chớ đừng sùng- tín dễ dàng để rồi dễ thành thành –kiến sai lạc cho học thuyết luân lý hay tôn giáo.
– Căn cứ theo số này người Dần Ngọ Tuất vận hành đến Tỵ Dậu Sửu là phải khắc phục và bị sa lầy, biết rằng Ngài giác Ngộ từ năm 29 tuổi và dấn thân vào khổ hạnh hành xác mất 6 năm tức là ở giai đọan 22-31 mất 3 năm chót và 3 năm đầu ở giai đọan 32-41. Ngài đắc đạo năm 35 tuổi thành một vị thế tôn. Ở vị trí Quan-Phù, Thai-Tuế, Bạch Hổ cùng ảnh hưởng của Thái Dương ở Dần là mặt trời ló dạng ở Chân trời, rồi từ đó mà đi cho đến ngày tịch ở tuổi 80 ở cung Ngọ được Nhân loại tôn sùng kính bái cho đến ngày nay trên 2.500 năm.
– Đời Đức Thế Tôn Thích Ca dĩ nhiên Ngài thành Phật là ở chỗ Tuệ-giác hơn người ( thân mệnh đồng cung ở vị trí Thiếu Dương, Thiên-Hỉ hội đủ Tả Hữu, Khoa,Đào, Việt, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức, Phúc Đức và cả bộ Thiên Quan, Thiên Phúc) mới dứt bỏ được địa vị cao sang, vợ đẹp con khôn phải là một người hùng, không ỷ lại vào đâu để tìm chân lý là người có nghị lực, song rồi chỉ có một hoài-bão sao cho nhân loại được giải-thoát trần ai khổ ải là đại từ bi.
– Bạch Đại Đức theo lá số này, cứ như thiển kiến của tôi, có lẽ hình ảnh Đức Thế Tôn có phần in đúng, thì dĩ nhiên sự giác ngộ sâu rộng của Đại Đức đã tiến gần Đức Thế Tôn. Vậy để tạ lòng chiếu cố, tôi xin tóm tắt trình Đại Đức, không dám nào đánh trống qua cửa nhà sấm.
Nam mô A Di Đà Phật!
Quán quân: Tuổi Sửu
Hơn thế, con giáp này còn sở hữu tính cách điềm đạm, xử lý mọi tình huống có đầu có cuối và không bao giờ trốn tránh trách nhiệm cũng như khuất phục trước thách thức ở hiện tại.
![]() |
Đôi khi tính cố chấp và bướng bỉnh của người tuổi Sửu khiến họ đưa ra phán đoán nhầm lẫn. Thay vì đổ lỗi cho người khác, họ tự quy trách nhiệm cho mình và sửa chữa nó nhanh nhất có thể. Cách sống vô cùng thực tế nhưng lại không vụ lợi, toan tính cá nhân của người tuổi Sửu được mọi người yêu mến. Bạn thấy đấy, đội ngũ bạn bè của người tuổi Sửu khá hùng hậu và hoành tráng.
Á quân: Tuổi Hợi
Người tuổi Hợi trung thực, đôn hậu và vô cùng lương thiện. Họ làm việc bằng cả sự nhiệt huyết và chân thành của mình. Hơn thế, người tuổi Hợi có cách tư duy thực tế, nên nhanh chóng nhìn nhận ra vấn đề, không bao giờ rơi vào tình trạng “tâm hồn treo ngược cành cây”. Do đó, hiệu quả công việc của họ khá cao.
![]() |
Cách đối nhân xử thế của người tuổi Hợi vô cùng hài hòa và cân bằng. Không có chuyện họ mưu lợi cá nhân trên công sức của người khác.
No3: Tuổi Tuất
Người tuổi Tuất lý tính, biết kiểm soát cảm xúc bản thân để đạt được những mục đích lớn. Lối tư duy hiện thực, rõ ràng và hợp logic của con giáp này giúp họ dễ dàng gặt hái được thành công trong công việc.
![]() |
Họ muốn chinh phục mục tiêu đã đề ra bằng chính thực lực của mình chứ không phải kiểu thực dụng, sống “kiếp tầm gửi” dựa dẫm, dùng người khác làm bàn đạp để thăng tiến. Ngoài ra, cá tính mạnh mẽ nhưng lại bộc trực và lương thiện của người tuổi Tuất mang lại cho mọi người cảm giác tin tưởng và dễ gần.
Mr.Bull (theo Dyxz)
► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị |
![]() |
![]() |
Quy tắc bói bài:
1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.
2. Tự hỏi thầm bản thân: “".
3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Maruko (theo Sohu)
Con hư cũng là con, cha mẹ dẫu có “sơ suất” gì thì cũng là cha mẹ, không ai thay đổi được cộng nghiệp này. Do vậy, trợ duyên để chuyển hóa lẫn nhau, cải tạo cộng nghiệp gia đình tốt đẹp hơn là điều cần làm của người con Phật hiếu thảo
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Tăng thăng bằng, phần Đất [trích], VNCPHVN ấn hành, tr.119)
Hầu hết chúng ta đều tâm niệm cha mẹ là Trời Phật, là đối tượng kính thờ, là bất khả xâm phạm. Nuôi dưỡng và vun đúc ý niệm này sâu vào tâm khảm là một tố chất quan trọng để tác thành nên tâm hiếu, hạnh hiếu. Song thực tế cho thấy vẫn còn nhiều bậc cha mẹ do nghiệp lực chi phối nên chưa thực sự gương mẫu và thể hiện hết trách nhiệm, vai trò phụ mẫu của mình, dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ cho con cái và cả gia đình.
Người đời thường phê phán con cái bất hiếu là nghịch tử nhưng cũng nghiêm khắc khi quy kết “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Hiện có không ít những người con phải gánh chịu chua chát với câu “ân nghĩa sanh thành”, oán trách và xa lánh cả song thân. Ở đây, chúng ta không trách cứ ai cả, vì đã là con người thì dù ở vai vị nào cũng có những hạn chế nhất định, không ai tránh khỏi lỗi lầm.
Cần bình tâm quán sát về bản thân, gia đình để nhận ra dòng vận hành của nghiệp lực, cộng nghiệp của cả gia đình. Nhờ quán chiếu sâu sắc vào cộng nghiệp, chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn về thực trạng gia đình hiện tại mà bớt đi những oán trách lẫn nhau và quan trọng hơn là mở ra một hướng mới để chuyển hóa, khắc phục. Ngay đây, việc thực thi hạnh hiếu được nâng tầm cao hơn là khuyến hóa cha mẹ bỏ tà quy chính.
Con hư cũng là con, cha mẹ dẫu có “sơ suất” gì thì cũng là cha mẹ, không ai thay đổi được cộng nghiệp này. Do vậy, trợ duyên để chuyển hóa lẫn nhau, cải tạo cộng nghiệp gia đình tốt đẹp hơn là điều cần làm của người con Phật hiếu thảo. Với con người, mọi lỗi lầm đều từ vô minh mà ra, từ tham ái mà hình thành, từ sân si mà dấy khởi. Thay vì oán trách, chúng ta hãy vận dụng tín (niềm tin), giới (làm lành, tránh ác), thí (buông xả) và tuệ (hiểu biết) vùng với tình thương, kính trọng để khuyến hóa cha mẹ hướng về Tam bảo.
Không ai nỡ nhìn người thân của mình đi vào cõi ác. Do vậy, khuyến hóa cha mẹ hướng thiện, bỏ tà quy chính không chỉ đem lại hạnh phúc an vui cho cha mẹ trong đời này mà cả những đời sau. Làm được điều này mới gọi là tận hiếu, chí hiếu, là “làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cho cha”.
Phong thủy cho rằng, cửa sổ như đôi mắt của ngôi nhà, nó giúp chủ nhân đưa ra những quyết định sáng suốt. Vì thế, tùy vào vị trí, diện tích nhà, diện tích phòng mà thiết kế số lượng, diện tích cửa sổ cho thích hợp.
Các căn phòng như phòng khách, phòng ăn, phòng bếp có thể đặt cửa sổ có kích thước lớn hoặc nhiều cửa sổ để mang lại sinh khí cho phòng. Ngược lại, các gian phòng mang tính âm, đòi hỏi sự yên tĩnh như phòng làm việc, phòng ngủ không nên có quá nhiều cửa.
Nên thiết kế số lượng, kích thước cửa sổ hợp phong thủy
Theo phong thủy, cửa sổ đại diện cho nguồn năng lượng dương, khi nguồn năng lượng này mạnh có thể khiến gia chủ căng thẳng. Do đó, để năng lượng dương chuyển hóa vào tường và dòng năng lượng cân bằng, trên cửa sổ, cần bố trí thêm rèm treo cố định. Bên cạnh đó, sử dụng một chiếc rèm cửa sổ đẹp không những điều chỉnh ánh sáng phù hợp mà còn làm tăng tính thẩm mỹ của cả phòng.
Cửa sổ ngôi nhà tượng trưng cho các con, cửa chính của ngôi nhà tượng trưng cho cha mẹ. Theo đó, tỷ lệ giữa cửa sổ và cửa chính không nên quá 30%, nếu không như vậy, giữa các thế hệ sẽ phát sinh mâu thuẫn.
Cửa sổ có cánh đẩy ra ngoài sẽ tốt cho gia chủ
Đối với phòng làm việc hay phòng khách nên thiết kế cửa sổ có cánh đẩy ra ngoài, tượng trưng cho việc mở rộng cơ hội giao tiếp. Không nên thiết kế cửa sổ quá hẹp vì có thể làm tầm nhìn bị hạn chế, ngôi nhà nặng khí âm, u tối.
Nên tránh cửa sổ hướng về phía đầu chủ nhân có thể căn thẳng, đau đầu. Không nên thiết kế cửa sổ đối diện trực tiếp với cửa chính vì như thế sẽ giữ được nguồn tài lộc trong gia đình. Trong quá trình thiết kế, nếu đã mắc sai sót có thể đặt chậu cây xanh, trồng cây leo. Đặc biệt, ưu tiên dùng loại cây có lá tươi tốt, hoa nở đẹp để mang những điều may mắn đến cho gia chủ.
Bố trí cửa sổ tốt nhất là ở hướng Bắc hoặc Nam
Mở của cửa sổ tốt nhất là theo hướng Bắc hoặc Nam, mưa nắng ôn hòa. Người làm ăn kinh doanh nên chọn hướng Đông. Nên tránh mở cửa sổ hướng Tây vì nắng nóng làm gia tăng sự căng thẳng.
(Theo CafeLand)
Đền Phù Ủng cách Thủ đô Hà Nội khoảng 45km về phía Đông tọa lạc tại làng Phù Ủng, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đền thờ danh tướng đời Trần là tướng quân Phạm Ngũ Lão – người có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông, và Ai Lao.
Với những công lao mà Phạm Ngũ Lão đã lập được và để tưởng nhớ đến một vị tướng tài danh là người con của quê hương, dân làng Phù Ủng đã lập đền thờ Phạm Ngũ Lão ngay trên nền đất cũ của nhà ông. Toàn khu di tích được xây dựng vào thế kỷ XIV. Đền được trùng tu vào thời Nguyễn. Khu chính thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão danh tướng đời Trần, bên tả thờ cha và bên hữu thờ mẹ. Khu trong là nơi thờ Tĩnh Tuệ công chúa và Lăng Vũ Hồng Lương.
Đền thờ chính được khắc 4 chữ Hán đại tự là “Đông A điện soái” tức là điện thờ tướng nhà Trần, bởi chữ “Đông” kết hợp với chữ “A” thành chữ Trần. Khu đền thờ có nhiều cây cổ thụ tạo nên vẻ trầm mặc u tịch khi vắng khách viếng thăm.
Kiến trúc đền, gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung.Xung quanh ngôi đền, là cụm di tích lịch sử văn hoá gồm nhiều đền chùa, miếu thờ các bậc tiền bối họ Phạm, đền thờ quận chúa Thuỷ Tiên – con gái duy nhất của ông và chùa thờ Phật.
Để tưởng nhớ công lao của tướng quân Phạm Ngũ Lão, hằng năm nhân dân đã tổ chức khai hội truyền thống đền Phù Ủng từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng (âm lịch), tương truyền là ngày Phạm Ngũ Lão ra quân đánh giặc.
Hằng ngày, mặc dù không phải là ngày lễ chính của đền Phù Ủng, nhưng ngôi đền vẫn được nhân dân khắp nơi tới chiêm bái tham quan và dâng hương bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong cho gia đình được bình an khang thái. Ngoài việc tham quan đền chính thờ Phạm Ngũ Lão, nhân dân còn tham quan các đền thờ cha và thờ mẹ đều thuộc khu di tích đền Phù Ủng
Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên trên các diễn đàn lý số
Sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn thường viết "tại đẩu chủ về... tại số chủ về..."
Ví dụ như sao Vũ khúc, sách viết: "Vũ khúc thuộc Kim, tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài"
Như vậy, Gloria nên tìm hiểu hàm nghĩa của:
- Tên sách có chữ Phi tinh được hiểu như thế nào? Thứ tự phối Phi tinh và Chính tinh là có khác nhau?
- Tại Đẩu có nghĩa là gì? Tại Số có nghĩa là gì?
Phải chăng câu "tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài" có thể được hiểu là "tại Thiên chủ về Thọ, tại Địa chủ về Tài"
Khi xét tới Thiên bàn và Địa bàn của một lá số, thì có thể vẫn xảy ra trường hợp, Vũ khúc tại Địa bàn cư cung Dần, ngộ Liêm Trinh tại Thiên bàn cư cung Dần ==> Vũ Khúc và Liêm Trinh đều gặp nhau tại cung Dần
===================
Xác định Địa bàn đối với lá số có giờ sinh là Tý - Ngọ thì như thế nào? (Thân Mệnh đồng cung)
Theo tìm hiểu của Tôi, hiện có hai trường phái dùng cách thức khác nhau:
- Trường phái thứ nhất lấy cung Phu thê để lập Cục
- Trường phái thứ hai thì lấy cung Phúc đức để lập Cục
Thực tế kiểm nghiệm của cá nhân Tôi, theo cách thức như sau:
- Dương nam Âm nữ thì lấy cung Phúc đức để lập Cục,
- Âm nam Dương nữ thì lấy cung Phu thê để lập Cục
Gloria sinh giờ Tý, số có Thân Mệnh đồng cung, nên kiểm thêm độ tin cậy của thông tin như thế nào, khi lập Địa bàn cho lá số của bản thân. (trường hợp năm tháng ngày giờ sinh của Gloria có thể gọi là đặc biệt)
....
Sách Phi tinh viết:
Tử vi thuộc thổ, là tôn quân ở trên trời, chủ về nắm giữ những điều quan trọng của tạo hóa. Cai quản ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Mệnh con người lấy Tử vi để định số, an các vòng sao.
Tử vi thủ Mệnh là trung đài, trước một vị là thượng đài, sau một vị là hạ đài, cần phải xem cả tam đài có miếu vượng hay không?
Sách viết như vậy, ta nên hiểu "Tam đài" như thế nào?
==============
Thứ tự Phi tinh phối Chính diệu: (theo sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn)
NAM ĐẨU
- Thiên phủ là sao thứ nhất
- Thiên lương là sao thứ hai
- Thiên cơ là sao thứ ba
- Thiên đồng là sao thứ tư
- Thiên tướng là sao thứ năm
- Thất sát là sao thứ sáu
BẮC ĐẨU
- Tham lang là sao thứ nhất
- Cự môn là sao thứ hai
- Lộc tồn là sao thứ ba
- Vũ khúc là sao thứ tư
- Liêm trinh là sao thứ năm
- Vũ khúc là sao thứ sáu
- Phá quân là sao thứ bảy
Không thấy nói gì đến thứ tự của sao Tử vi khi phối với Phi tinh, vì sao lại như vậy? con số 13 chính diệu phối Phi tinh được hiểu như thế nào?
....
Gloria, on 16/10/2012 - 14:05, said:
Thưa cụ, có phải cháu hiểu, đó là xem vị trí xuất thân, biến động của gia đình anh em đương sự, có đúng không ạ?
Nên xét tới đối cung và xung cung, hàm nghĩa của Sao có khác nhau,
Ví như Mệnh cư Hợi, thì "đối cung" là Tham lang đối cung với Thiên tướng + Liêm trinh, còn "xung cung" là Cự môn xung cung với Thái dương (Cục định sinh Nhật nghịch bố tử, đối cung Thiên phủ thuận lưu hành. Vi hữu Dần Thân đồng nhất vị, kỳ dư Sửu Mão hỗ an tinh)
....
Gloria, on 16/10/2012 - 19:09, said:
Cháu cần có thêm chút thời gian để suy nghĩ về cội nguồn của Đẩu và Số
Điều này là cần thiết, Tôi nghĩ nên như vậy!
Tiêu chí topic nói "phi tinh" và "tứ hóa" (Mạn đàm về TV ĐS phi tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm), mối quan hệ giữa Cửu cung phi tinh và Tử vi, ta nên khảo cứu sau.
Cổ nhân nói "Vô vận bất năng tự tạo", con người ta sinh ra có vận, vận có thuận nghịch, khởi điểm tính thuận nghịch được xét bắt đầu từ cung Mệnh, nên từ cung Mệnh để xét tới đối cung hay để xét tới xung cung. Giả như Mệnh lập tại Hợi, là cung Tứ sinh, cung Phụ mẫu đối cung Huynh đệ, ví dụ ở đây có thể xét tới tình trạng dưỡng dục (tuổi Tân thì Hợi lập Mộc cục, dưỡng cư Tuất, Mộc dục cư Tý = dưỡng dục - dục của Mộc sẽ khác với Thổ dục, Kim dục, Thủy dục, Hỏa dục)
Tỵ Hợi được cho là Thiên môn và Địa môn, khi Cự môn nhập Thiên môn (cung Hợi) được cho là chỗ cung vượng (theo Thiệu Khang Tiết), tuổi Tân nên Thanh long động tại cung Hợi, được cho là Mệnh hợp cách thăng quan phát tài. Năm Quý thì Cự môn ngộ Đà la, là năm mà Cự môn hóa thành "ám" được gọi là "cửa đóng" (kiểm thêm ngày Quý?), lại thêm năm Quý xét tới xung cung Nô và Huynh chứa Phục bình + Tướng quân, được gọi là "phá đối hạ cục"... khi ta trọng năm Quý cưỡng không hóa "ám" cho Cự, vì Cự hóa Quyền năm Quý, tới năm Giáp lại gặp ngay phải cách "Mão đầu đới tiễn", thì sẽ xảy ra tình trạng được cho là phá cục, ... đại khái như vậy, ta nên tập trung vào mệnh bàn 12 cung trước, đối với Cửu cung phi tinh phối Tử vi nên khảo cứu sau (vì đó là mối quan hệ giữa Tử vi liên quan tới Kỳ môn và Phong thủy)
Giloria là cách Thân Mệnh đồng cung, còn Ngô Bảo Châu thì Thân cư Phúc đức, tuổi Nhâm có Lộc tồn ngộ Cự môn, thường biến cách nhân sư, nhưng Gloria được cách Trường sinh ngộ Thanh long còn Ngô Bảo Châu thì không được như vậy. (Theo "Tử vi Đẩu số - Thiệu Khang Tiết" thì Trường sinh ngộ Thanh long gọi là cách đặc biệt)
....
Gloria, on 20/10/2012 - 19:05, said:
Câu hỏi cho mọi người: Lý thuyết trục trong Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh và trục trong Đông A có trùng nhau hay không?
Có liên hệ gì giữa các trục này và ba trục thiên địa nhân sát trong tử vi nam phái?
Gloria có tự đặt ra câu hỏi: "Tại sao Quân tử luôn luôn được ở trong, Tiểu nhân luôn phải ở ngoài không? Phải có thời của Tiểu nhân đoạt ngôi, mà Quân tử bị thất thế phải đi ra ngoài!"
Nguyên tắc "Thiên chính Địa thường" định lệ = ghi năm bắt đầu từ Tý, ghi tháng bắt đầu từ Dần
Để trả lời câu hỏi mà Gloria, thì có thể thiết lập lá số Tử vi theo nguyên tắc ngược lại, có nghĩa là ghi năm bắt đầu từ Ngọ, ghi tháng bắt đầu từ Thân.
Định lệ Kê - Mã - Trư - Long - Ngưu - Hổ, nay đổi lại thành Thố - Thử - Xà - Cẩu - Dương - Hầu (Mão - Tý - Tị - Tuất - Mùi - Thân)
Định cục theo chiều ngược kim đồng hồ, tất cả vẫn giữ nguyên, ví dụ tuổi Tân mệnh cư Hợi, thì Ngọ Mùi là Thổ cục, Tị Thìn là Tam cục, Dần Mão là Nhị cục, Tý Sửu là Kim cục, Tuất Hợi là Hỏa cục... sau đó an sao Tử vi, Mệnh cư Hợi thuộc Hỏa cục, ngày 23 thì Tử vi cư Thìn, có Thiên đồng nhập cung Mệnh,...
Giả như ta nói, Bắc bán cầu là Cự môn, Nam bán cầu là Thiên đồng có được không? Trục Tị Hợi có phải là trục phân âm dương không? Nếu không phải thì gọi trục Tị Hợi là trục gì?...
Tiêu chí của topic là Mạn đàm... nên tôi đề xuất thêm một hướng, để truy tìm câu trả lời
Gloria có thể làm thử xem sao, rồi chúng ta đưa ra câu trả lời mà Gloria đã hỏi
....
Gloria, on 22/10/2012 - 04:17, said:
Cháu đang sợ rằng cách cháu tính Cục là sai, vì nếu mệnh an tại Dần và Mão thì sẽ không ra kết quả khớp với cụ. Có thể là có gõ nhầm.
Đúng là Tôi gõ sai, (khởi từ Mùi 5, Ngọ 5, Tị 3, Thìn 3, Mão 2, Dần 2, Sửu 4 Tý 4, Hợi 6, Tuất 6, Dậu 3 Thân 3).
Người ở Bắc bán cầu và người ở Nam bán cầu, cùng năm tháng ngày giờ, cùng giới tính, chắc là phải khác nhau từ lập số cho đến luận giải số, nhận định này Tôi cũng sai,.... thôi, cho qua và không bàn tới nội dung này nữa.
Nhưng, Tôi vẫn nghĩ nhiều tới nguyên tắc: Trời có âm dương - Đất có cương nhu - Người có nhân nghĩa. Ví dụ như nói về Mệnh thuộc Kim
- Trời = Giáp Tý Ất Sửu >< Giáp Ngọ Ất Mùi = Một âm một dương, một thủy một thổ, thủy thổ tương khắc
- Đất = Nhâm Dần Quý Mão >< Nhâm Thân Quý Dậu = Một cương một nhu, dần mão thuộc mộc, thân dậu thuộc kim, Kim Mộc tương khắc
- Người = Canh Thìn Tân Tị >< Canh Tuất Tân Hợi = thìn tị trong bát quái ứng với Tốn, tuất hợi ứng với Càn, hình thể và mầu sắc của cả 2 có sự khác nhau.
Lại thêm dụ ý:
Thiên địa khai minh
Thủy Thân Mộc Hợi
Sơn Trạch thông khí
Mộc Dần Kim Dậu
....
Gloria, on 22/10/2012 - 14:38, said:
Kính thưa cụ.
Cho cháu hỏi, cụ có quan tâm tới lý thuyết Phiêu Phiêu, còn gọi là Kỵ Truy Kỵ, Lộc Truy Kỵ, chuyển Kỵ không ạ?
Cháu đang cùng một số cộng sự work một chút về Phiêu Phiêu, nhưng vẫn thực sự chưa nắm được tinh túy của nó. Cụ có đánh giá gì về lý thuyết này không ạ?
Tôi muốn biết trước thông tin về Lộc
- Thiên lộc năm Nhâm 2012 nhập Mệnh
- Địa lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Đinh Thái âm hóa Lộc, ứng cung Thê cư Dậu, Địa lộc can Đinh tại Ách
- Nhân lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Bính Thiên đồng hóa Lộc, ứng cung Quan cư Mão, Nhân lộc can Bính tại Di
Trong tam Lộc của thiên - địa - nhân cho tới thời điểm này đã ứng chưa? Nếu chưa ứng, thì là Thiên lộc Nhâm chưa ứng? hay Địa lộc Đinh chưa ứng? hay Nhân lộc Bính chưa ứng?
Tôi hỏi như vậy là muốn kiểm lại công thức này, trước khi chúng ta bước sang lĩnh vực thuyết Phiêu Phiêu,
Nếu Gloria thấy phiền về thông tin này thì thôi
....
Nam Đẩu hội tụ với Đế thiên tại phương Khôn, được gọi là "Đới Thiên phúc Địa", người sinh ra vào đêm, cần xác định rõ phương vị của mặt Trăng mọc, nay mặt Trăng ở nơi hữu triền, được gọi là "hướng minh". Gọi là "hướng minh", có nghĩa là ở nơi sáng vẫn hướng tới nơi chỗ sáng hơn, cũng như ở nơi tối mà hướng tới nơi sáng vậy, chẳng thể ở nơi sáng mà nhìn vào nơi u tối,...
Mệnh được định cách "Đới Thiên Phúc Địa", cho nên khi điều kiện cho phép, nên quan tâm tới Địa mệnh!
Lại nói:
Người Sinh sau Hạ chí tới trước Đông chí, mặt Trời được tính bắt đầu ở 1 độ chòm sao Tỉnh, còn đối với người sinh sau Đông chi cho tới trước Hạ chí, mặt Trời được tính ở 6 độ chòm sao Cơ,...
Vậy, hỏi rằng, Tại sao "Xuất Dần nhập Thân" thì được gọi là Quân tử thời đang thịnh trị? Xuất Thái nhập Bĩ sao?
Nay,
Gặp người ở thời "Thủ vỹ hoành thiên" (trục Thìn Tuất), Mệnh cư Hợi được định cách "Đới thiên Phúc địa",... và như vậy cung Thân (mệnh) được xác định theo phương vị của Địa hộ,... Mệnh cư Hợi, nơi giao giới âm dương, có thể nên bắt đầu từ "Xuất Khôn nhập Càn" vậy!
==========
Bài tập: nên tìm tư liệu đọc trước, tìm hiểu về chữ "Bích" khi nói tới "Nguyệt bích", đó là mối quan hệ giữa 12 tháng với sao Bích, được gọi là Nguyệt Bích, cung Hợi nằm ở trên Thiên môn, định lệ hàm chứa hai tú: Thất và Bích
....
Mr.Anh, on 23/10/2012 - 09:51, said:
Thưa cụ, tính Địa Và Nhân có phải tính theo ngũ hổ độn: Bính - Tân (tuổi Tân), Đinh Nhâm (Nhâm), Bính lộc tại Di, Đinh Lộc tại Ách?
Mong cụ chỉ dạy.
Cảm ơn cụ
- Cách đọc sách Thứ nhất nhận thấy: Trong sách "Tử vi Đẩu số", tập 1-2-3, 03 tập đầu này do Bắc phái trấn thủ, tập 4-5-6-7 do Nam phái trấn thủ, tại 03 tập đầu quyển 2 có nói tới phép "tam tam", có nghĩa là căn cứ vào ngày sinh, phối hợp với Cục số, kết hợp với Hóa Lộc "gốc" của Thiên mệnh, để tính Địa lộc.
- Cách đọc sách thứ hai nhận thấy: Trong sách Quả Lão tinh tông - Quyển thượng, có trình bày về nguyên tắc tính Thiên nguyên lộc, Địa nguyên lộc, Nhân nguyên lộc
Cả hai cách thức này, khi trải qua thực nghiệm với một số người sống gần 12 ~ 15 năm, lao động ở môi trường nghề nghiệp khác nhau,... đúc kết thống kê lại, để làm rõ mối quan hệ của Thiên mệnh Hóa Lộc "gốc" với cung Thân (mệnh), xác định Địa lộc một cách chính xác.
Khi Tôi hỏi Gloria, là để kiểm lại cả hai cách thức mà sách đã viết, là đúc kết cá nhân, không có giá trị phổ biến.
Mr.Anh nên theo những gì sách Tử vi đã được phổ cập sử dụng trong nhiều năm qua, khi nào sách biên dịch in ra phổ biến về Địa lộc và Nhân lộc, thì chiêm nghiêm sau, nên như vậy.
....
@ Gloria:
Nguyên tắc tính thiên can cho Tiểu hạn Gloria đã biết cách tính chưa?
- Đại Hạn khởi đầu là Kỷ Hợi
- Tiểu hạn khởi đầu là Quý Sửu
- Thái tuế là Tân Dậu
....
Năm 1981 - Tân Dậu (xác định Địa thường chính nguyệt - cách thứ nhất)
- Tháng Tám - Dậu = hào Thượng quẻ Ly + hào Sơ quẻ Đoài
- Tháng Chín - Tuất = hào Nhị quẻ Đoài + hào Tam quẻ Đoài
- Tháng Mười - Hợi = hào Tứ quẻ Đoài + hào Ngũ quẻ Đoài
===============
- Ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch năm Tân Dậu (28/10/1981) => hào Thượng quẻ Khôn
...,...,...,
- Ngày 23 tháng 10 âm lịch (19/11 DL) => hào Tứ quẻ Phệ hạp - hào Tứ nạp can Kỷ
- Năm Tân, can Kỷ nhập cung Mệnh - Địa mệnh đắc chính.
....
Một người có Mệnh cư Ngọ, thiên can nhập cung Mệnh là can Canh, đương số tuổi Sửu nên thiên can Tiểu hạn là can Ất. Khi thiên can của Đại hạn và Tiểu hạn Ất Canh tương hợp, sách viết: "Đại vô bất chu, Tiểu vô bất cụ, Ngũ tinh tòng Nhật lãnh tụ chi thần cách"
Khi thiên can của Đại hạn và thiên can của Tiểu hạn tương hợp, Cổ nhân cho rằng cũng là một trong những căn cứ để xếp vào loại Mệnh tốt (đại quý)
Đây là một ví dụ, năm 1995 đương số đã được gọi bằng "Ông" mà không phải gọi là "thằng" (cấp Tá), đó là "ông Tướng" (Thiếu tướng), 17/11/1949 DL, 8h00
....
saobienden:
Em thấy anh Gloria quan tâm nhiều đến Thất chính Tứ dư, em xin tài liệu này từ chú Công là Phó khoa Hồi sức cấp cứu - BvTW - 108 (học trò Cụ), anh đọc xem có giúp được gì không anh nhé
- Giáp Kỷ tác Hỏa
- Tứ sinh = Bính Dần - Ất Tị - Bính Thân - Ất Hợi => Bính + Ất
- Tứ vượng = Mậu Tý - Đinh Mão - Mậu Ngọ - Đinh Dậu => Mậu + Đinh
- Tứ mộ = Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Kỷ Mùi - Giáp Tuất => Giáp + Kỷ
- Ất Canh tác Kim
- Tứ sinh = Nhâm Dần - Tân Tị - Nhâm Thân - Tân Hợi => Nhâm + Tân
- Tứ vượng = Giáp Tý - Giáp Ngọ - Quý Mão - Quý Dậu => Giáp + Quý
- Tứ mộ = Ất Sửu - Canh Thìn - Ất Mùi - Canh Tuất => Ất + Canh
- Bính Tân tác Thổ
- Tứ sinh = Mậu Dần - Đinh Tị - Mậu Thân - Đinh Hợi => Mậu + Đinh
- Tứ vượng = Canh Tý - Kỷ Mão - Canh Ngọ - Kỷ Dậu => Canh + Kỷ
- Tứ mộ = Tân Sửu - Bính Thìn - Tân Mùi - Bính Tuất = Tân + Bính
- Đinh Nhâm tác Thủy
- Tứ sinh = Giáp Dần - Quý Tị - Giáp Thân - Quý Hợi => Giáp + Quý
- Tứ vượng = Bính Tý - Ất Mão - Bính Ngọ - Ất Dậu => Bính + Ất
- Tứ mộ = Đinh Sửu - Nhâm Thìn - Đinh Mùi - Nhâm Tuất =. Đinh + Nhâm
- Mậu Quý tác Mộc
- Tứ sinh = Canh Dần - Kỷ Tị - Canh Thân - Kỷ Hợi => Canh + Kỷ
- Tứ vượng = Nhâm Tý - Tân Mão - Nhâm Ngọ - Tân Dậu => Nhâm + Tân
- Tứ mộ = Quý Sửu - Mậu Thìn - Quý Sửu - Mậu Tuất => Quý + Mậu
....
Khi phán đoán mệnh người,
Trước hết xem phát truyền.
Khí vượng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu Quan
Khí tướng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu tài
Khí hưu khi phát dụng,
Thường bệnh tật liên miên.
Khí tù khi phát dụng
Bệnh tật chẳng bỏ qua.
Vương tướng khi phát dụng,
Sự việc thường ứng nghiệm
Một truyền hưu tử tới
Việc mờ mịt chẳng thông
Cục ý nghĩa tiến lùi
Khí đặc thù vượng tuyệt
Suy mộ coi như thoái
Thai sinh tiến chẳng lo
Thoái khí việc càng hung
Tiến khí an càng an
Nguồn: Cụ giảng về Ngân Thăng thuật
(Nguồn: sưu tầm)
lethanhnhi, on 07/09/2012 - 06:37, said:
SAO ĐỂ BIẾT ĐẦU BẠN MỌC SỪNG:
- Mệnh Cự môn thìn tuất, nam mệnh, chỉ cần vợ kiếm tiền, bất kể là tiền gì, mọc sừng cũng........không sao
- vũ khúc thất sát lộc tồn tả hữu cư phu thê
- Phu thê cung hóa kị nhập tử tức cung
- Phu thê hóa kị nhập quan cung
- phu thê tử phá sửu mùi, cả vợ chồng đều thích đi ăn vụng
- điền kị nhập bệnh
Ví dụ câu:
+ Phu thê hóa kị nhập quan cung
- Lá số lưu theo can Năm, thấy cung Phu thê gặp can Đinh, mà can Đinh có Cự Môn ngộ hóa Kị,
- Sau đó nhìn tới cung Quan thấy có sao Cự Môn cư Quan
- Phái Nhất Diệp Tri Thu cho rằng: can cung Phu thê hóa Kị nhập cung Quan, và đưa ra nhận định cho rằng: tình cảm vợ chồng sao nhãng, cả vợ và chồng đều thích đi ăn vụng
Trường phái này công bố nguyên tắc xem về Cung rất đáng quan tâm
...
@ Lethanhnhi: Khi tìm hiểu về trường phái Nhất Diệp Tri Thu, thì LethanhNhi lưu ý:
- Nam đẩu được cho là: chủ về hướng nội, chủ nhu - Ngoại nhu Nội cương.
- Bắc đẩu được cho là: chủ về hướng ngoại, chủ cương - Ngoại cương Nội nhu
Hàm nghĩa tinh yếu này, quyết định chi phối nguyên tắc lập tượng ==> lấy cơ sở của nguyên tắc này làm phương pháp luận xem xét sự vượng nhược của Cung, và xác định những Cung nào bị Sát tinh xung phá để đưa ra lời đoán định.
Có thể xem đây là Nguyên tắc thứ nhất của trường phái Nhất Diệp Tri Thu vậy!
...
lethanhnhi, on 08/09/2012 - 10:29, said:
em nhận ra người quen rồi, em đang dùng quẻ
@ LeThanhNhi:
Về quẻ này, thì Trung Châu phái và Tri Thu phái có điểm giống nhau và có điểm khác nhau khi lập thuyết cho Môn phái
- Giống nhau là hai Môn phái đều phối Tử vi với can Kỷ và Thiên phủ với can Mậu
- Khác nhau đó là, Trung Châu phái thì phối can Nhâm với Thiên Đồng, Tri Thu phái thì phối can Nhâm với Thiên tướng
Khi nào LeThanhNhi hứng thú đi sâu nghiên cứu thêm, để làm chủ bản thân và tự giải hạn cho mình, thì nên lưu ý!
...
Trích Lời tựa sách Tử Vi Đẩu số - Thuật Đăng Hạ, tập 2 <đã xuất bản ở Việt Nam - nxb Hồng Đức>
".... Vì vậy, khi bậc tiên sư truyền lại cho tác giả có nhắc nhở; " Nhà ngươi về sau thay người đoán mệnh, một là tiền công không được lấy cao (tác giả đoán mệnh cho người đã 5 năm nay mà chỉ lấy có 500 đồng, từ ngày 1 tháng 4 năm Dân Quốc 74 mới thu lên 600 đồng, mà những người đoán mệnh khác đều thu tới 1000 đến 2000 đồng). Hai là dặn dò người xem hàng năm nên đến xem lại lưu niên, để kiểm chứng sự việc dự đoán lần trước có chính xác hay không". Nỗi khổ tâm của tiên sư khiến tác giả vô cùng cảm phục!
Thuật Đăng hạ trình bày nhiều luận điểm mà các thư tịch khác không dễ gì tìm thấy, chẳng hạn như:
1. Người có sao Thái Dương và Thái Âm ở cung Thiên Di thì nên phát triển ở các phương hướng Đông, Bắc, Nam, bất lợi ở hướng Tây..
2. Người có sao Văn Xương ở cung Ngọ thì kỵ đi về hướng Nam.
3. Ngoài ra còn có màu sắc y phục (nhưng điều này quá phức tạp, lại không chuẩn xác)
4. Đi sâu vào phân tích tính cách, chẳng hạn như:
- Người có sao Thiên Hỷ tọa mệnh rất đáng yêu, được mọi người yêu thương.
- Say mê một số sở thích như câu cá, đánh cờ, uống rượu, âm nhạc, thích mua sắm quần áo...
Thuật đăng hạ nhấn mạnh âm đức. Nếu chúng ta đoán mệnh không chuẩn là vì các nguyên nhân sau:
1. Bát tự giờ sinh không đúng.
2. Ông bà cha mẹ, bản thân người đó có làm những việc tổn tới âm đức hay không? Cho nên khuyên chúng ta nên làm nên làm nhiều việc thiện, để phúc ấm lại cho con cháu.
3. Cũng nhấn mạnh các vấn đề như quỷ, luân hồi, báo ứng,...., cho nên nếu bạn không tin có quỷ thần thì không nên tìm hiểu thuật số.
4. Việc tiên cơ khó đoán.
Thuật Tử vi Đẩu số trong cổ thư không những khó đọc mà ý nghĩa khó hiểu, phải dựa vào sự kiểm chứng của chúng ta để đạt được sự tham ngộ.
Tham ngộ là tự mình nghiên cứu tham khảo từ nhiều nơi rồi ngộ được những điều uyên áo, huyền diệu trong đó.
Cuộc đời tác giả cảm thấy hổ thẹn vì không có cống hiến gì cho quốc gia xã tắc, nay giữa đêm khuya, khơi bấc đèn, mài mực chấp bút, tỏ bày tất cả để mọi người cùng nghiên cứu tham khảo, hy vọng giúp mọi người " phao chuyên dẫn ngọc", cùng mọi người tranh luận, đạt được những tri kiến, phần là mong mỏi các bậc cao nhân thạc đức điểm chỉ những hạn chế của bản thân.
CUỐI XUÂN, NĂM ẤT SỬU
PHAN TỬ NGƯ KÍNH BÚT!
Chủ đề An Khoa muốn bàn đến "ưu - nhược" của chính diệu, đây là vấn đề phải chăng, luôn được điều chỉnh theo "thời" đối với xã hội học
Tôi vẫn chưa bước ra khỏi tầm ảnh hưởng tư tưởng của Đạo giáo trong học thuyết của Tử vi, cho nên dụ ý mà Tôi muốn nói tới, đó là mối quan hệ giữa Thiên bàn và Địa bàn, khi chúng ta xem xét được cả Thiên (bàn) và Địa (bàn), thì có thể Ta không dùng khái niệm "ưu - nhược" để miêu tả, ví dụ như Ta nói:
- Khi Thiên bàn sinh trợ cho Địa bàn, thì được gọi là "Đạo khí", có nghĩa là đương số thường hành động mang Phúc của mình đem cho người khác, ám chỉ sự giúp đỡ là bổn phận.
- Khi Địa bàn sinh trợ cho Thiên bàn, thì gọi là "trợ khí", có nghĩa là đương số tự hưởng lấy Phúc phận của mình
- Khi Thiên bàn khắc Địa bàn thì gọi là "thuận", trên khắc dưới, thì đương số bẩm khí có thiên uy, có thể tự biết phải làm như thế nào để lãnh đạo người khác
- Khi mà Địa bàn khắc Thiên bàn thì gọi là "nghịch", dưới khắc trên, thì phần nhiều cuộc đời đương số thường trì trệ, khó để trở nên hiển quý, khi ở vào nơi Tử Tuyệt thì càng tồi tệ, ở vào nơi Sinh Vương mà có đủ tài lực để phát, thì cũng không thể nhanh
An Khoa tham khảo thêm một hướng nhìn cho vui
...
Khi đêm đến, bằng mắt thường, nhìn lên bầu trời, có tới ngàn vạn ngôi Sao, cái mà hướng Ta tập trung nhìn tới, đó là những ngôi Sao sáng nhất, nổi bật sáng tỏ đối với những sao ở xung quanh. Đây cũng có thể là một cách suy nghiệm.
...
AnKhoa, on 22/10/2012 - 17:05, said:
Thưa cụ, đây có thể là nỗ lực của ngành tâm lý học tích cực mà nhiều học giả phương Tây đang gắng sức tìm hiểu. Nhưng trải qua một thời gian nghiên cứu, rồi đi vào nghiên cứu Tử Vi, AnKhoa lại thấy rằng:
Để nhìn được bằng mắt thường, để có thể hướng cái Ta tập trung nhìn tới thật khó lắm. Đôi mắt của mỗi người có thể không khác nhau nhiều về tính chất sinh học, nhưng nó lại được "che phủ" bởi một lăng kính, mà lăng kính đó lại được định hình bởi một số sao tại Mệnh, Thân hay Vận trong hiện tại?
Chúng ta hướng vào nội dung chủ đề topic, đó là Ưu - Nhược của cái "chính", An Khoa có thể nói sơ qua về Thất sát được không?
Nếu có thể phân loại, chúng ta tìm hiểu thêm
- Những loại Mệnh nào, có ngũ hành của Mệnh không "dụng" được Thất sát, mặc dù là Thất sát thủ mệnh?
- Những loại tuổi nào theo can chi Năm phối ngũ hành Cục vô hiệu hóa Thất sát không phát huy được tác dụng, mặc dù Thất sát thủ Mệnh?
- Mối quan hệ của cái "chính" khi nhập cung? Ví dụ như Cự môn nhập cung Nô thì... Cự môn nhập cung Di thì... Cự môn nhập cung Tử tức thì... hay Thất sát cư Phu thê thì... Thất sát cư Tật ách thì...
...
Durobi có tìm hiểu tại sao ngày Thượng huyền và ngày Hạ huyền (ngày 8 và 23) sao Tử vi không an tại Sửu Mùi?
Bất kể là tuổi gì? bất kể là sinh vào tháng nào? cũng như Mệnh cục là Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục, thì người sinh ngày 8 và ngày 23 không bao giờ sao Tử vi an tại Sửu Mùi. Chắc phải có nguyên nhân và lý do của nó!
Và tại sao Thất chính Tứ dư lại căn cứ vào Ngày sinh để xác định cung Thân? khác với Tử vi "Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi,... nghịch hồi an Mệnh thuận an Thân"
...
QuachNgocBoi, on 23/10/2012 - 18:50, said:
Thưa cụ Hà Uyên,
Cháu tính lại thấy với ngày 23 (Hạ Huyền) thì đúng như vậy.
Nhưng với Hỏa Cục thì ngày mồng 8 (Thượng Huyền) thì Tử Vi đến tại cung Mùi.
Với môn Thất Chính Tứ Dư thì Thân an theo Nguyệt (có ẩn Nhật), một tuần trăng 30 ngày thì trung bình sẽ mất 2,5 ngày trên 1 cung (18 canh giờ / 1cung) để đi hết được 1 vòng 12 cung.
Hà Uyên, on 20/10/2012 - 19:56, said:
... lại nói đối với 5 cục thì không bao giờ ngày 23 có Tử vi đóng tại Mùi,
Cảm ơn anh QuachNgocBoi
Viết bài trả lời anh Vuivui ngày 20/10, thì Tôi chỉ nói tới ngày 23, nhưng ba ngày sau, tức ngày 23/10, Tôi lại viết thêm ngày mồng 8 tương thích với năm Mậu Quý, nói thêm vào như vậy là vì "chính nguyệt" đối với năm Mậu Quý (Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi...) có thể phải xem xét kỹ hơn khi gặp "nhuận", Tôi đưa thêm ngày mồng 8 vẫn còn mang thêm một số hàm ý khác
Nhưng thôi, Ta bàn lại sau, trở lại với tính Ưu - Nhược của cái "chính" trong topic này.
...
AnKhoa, on 23/10/2012 - 17:19, said:
Thưa cụ, Thất Sát vốn là một Tướng tinh,
Tôi muốn hiểu thêm, trên nguyên tắc nào và nguyên nhân nào, sao Thất sát được cho là "Thất sát vốn là một Tướng tinh"!
Đối với Phi tinh thì ngài Trần Đoàn xếp theo thứ tự đứng thứ 6 của Nam đẩu (1 Phủ, 2 Lương, 3 Cơ, 4 Đồng, 5 Tướng, 6 Sát). Đối với Đẩu số, khi phối thiên can, sao Thất sát phối với can Canh theo thứ tự của thiên can là số 7,... ví như những nguyên tắc này, có thể đủ để kết luận sao Thất sát là Tướng tinh!!! hay vẫn có nguyên nhân nào khác, mà chúng ta chưa đề cập đến
...
banghuynh, on 24/10/2012 - 10:48, said:
@Cụ Hà Uyên: cháu xin được nêu suy nghĩ về các mệnh có thể "dụng" được Thất Sát là: Kim, Thủy
Kính Cụ!
Có thể sau này, banghuynh sẽ tự mình định hình cho mình một "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của cái "chính". Tôi nói vậy là vì, trong mỗi người như chúng ta, cùng đọc một quyển sách về Tử vi, nhưng chọn "ngữ" để chuyển hóa thành "thần ngôn" là có khác nhau
Ví dụ với tiêu chí của Topic, khi Tôi đọc sách, thì tự định hình "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của Thất sát như sau:
- Tính "hữu trợ" và "vô trợ" của sao Thất sát (thông qua cung Huynh để xác định)
- Tính "nhanh" hay "chậm", "sớm" hay "muộn" của sao Thất sát (xác định "tính" này thông qua cung Phu thê)
- Tính "mạnh" hay "yếu" của sao Thất sát (thông qua cung Tật ách)
- Tính thích nghi với hoàn cảnh "đột biến" hay không có khả năng thích nghi (cung Di)
- Tính trật tự và bất trật tự, tính có kế hoạch theo thứ tự hay không theo thứ tự của sao Thất sát (thông qua cung Nô)
- Tính xu hướng phát triển theo trường phái cánh tả hay trường phái cánh hữu của sao Thất sát (Hư - Thực của cung Quan)
- Tính sở trưởng và sở đoản của sao Thất sát (cung Phúc đức)
- Là "tính" hay là "tình", là "tình" hay là "lý" của sao Thất sát (cung Phụ mẫu)
Đại khái như vậy, khi nói về cái Ưu hay cái Nhược của cái "chính", banghuynh đọc thêm cho vui
...
AlexPhong:
Trong dòng lịch sử phát triển của tử vi, nền tảng đã bị thất truyền không biết do cố ý hay vô tình. Tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, sự thất truyền cũng vậy, mặt tốt là người nghiên cứu người sử dụng không ngừng tìm tòi kiểm nghiệm với mục đích tìm lại nền tảng cũng như hiện đại hóa cho tử vi bắt kịp với nhịp sống hiện đại. Từ đó tử vi phát triển không ngừng, hoa nở rồi sàng sẩy rồi gieo trồng rồi hoa lại nở.
Thì, trong số các tác giả Việt Nam có một tội đồ đã được vinh danh, đó là tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm Thần Khê Định Số. Nôm na là cách dùng tướng pháp bổ khuyết cho tử vi. Tác phẩm này gián tiếp thừa nhận sự bất lực của ông trong nghiên cứu tử vi. Ông đã đầu hàng, giương cờ trắng trước khi tìm hiểu cặn kẽ quân thù. Và ông tìm một cứu cánh đó là tướng pháp. Theo phương pháp này thì tử vi thui chột từ đây, thôi chấm dứt, thôi thế là hết, thôi không còn gì nghiên cứu, tử vi không chính xác khi không kết hợp với tướng pháp vì chính xác thì Thần Khê Định Số đã không ra đời.
Nói về tướng pháp, đã là cao thủ xem tướng thì khỏi cần lá số tử vi. Mang tướng pháp kết hợp vào tử vi để cải tiến tử vi khác gì lắp động cơ đốt trong cho xe bò, còn con bò dùng để làm gì. Mà tử vi cũng chẳng phải xe bò, thậm chí còn là hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hành trình. Lê Quý Đôn đã từng nỗ lực giết chết tử vi, nhưng may mắn sao cuốn sách không phổ biến. Có người than: eo ôi tiếc thế, sách yêu thế mà lại không phổ biến. Nhưng theo tôi đó là điểm may cho giới học thuật nước nhà. Và nếu ai có cuốn sách trong tay, làm ơn đốt đi giùm, xin cảm ơn sau.
Đôi khi và nhiều khi chúng ta đao to búa lớn, Đạo nọ Đức kia. Nhưng những điểm đơn giản như sự phân bố lệch của sao Tử Vi lên địa bàn, điểm Thìn và điểm Tý, vì sao Thổ cục khởi thân thì chúng ta không nhìn ra. Cái gì điều chỉnh lại sự lệch lạc này? Chúng ta học học học và học những đống kiến thức hào nhoáng vô dụng vào người mà bỏ mất các suy luận cơ bản. Tích trữ bom nguyên tử trong khi khẩu súng lục cũng không biết dùng. Tử vi nó phải thế này cơ, sao đơn giản thế được, nó phải xoắn quẩy cơ, sao thẳng đơ thế được. Uke, do what you want.
Về đâu, về đâu hỡi các Thần Khê? Về đâu đạo đức cho Không Kiếp, bomb cho Ưu Nhược?
Tôi làm việc trong một thời gian tương đối dài, chức năng chủ yếu là vô hiệu hóa đối tượng, ngăn chặn sự phá hoại mang tính hủy diệt,... không hề biết mặt đối tượng, thân thế, thân nhân,... dữ liệu ban đầu chỉ có khoảng khoảng sinh năm... sau đó biết đến tháng,... sau đó biết được ngày sinh nhật thông qua ĐT (đặc tình) là "bạn gái",... những dữ liệu này đã mang lại nhiều hiệu quả ngoài mong muốn,... đỡ mất tiêu phí lực lượng, thời gian,... cho nên, anh AlexPhong đưa ra nhận định, nhằm hướng tới sự nghiên cứu chuyên nghiệp và chuyên sâu về Tử vi. Một nhận định mang tính chiến lược.
Hai chữ tri thu cũng ví như lưỡng nghi Cha Mẹ, cùng một mục đích sinh Con, mà kết quả khác nhau, hoặc là con trai, hoặc là con gái. NhuThăngThái dần quy tụ lại trong ngoài (chủ khách) = Nội cục - Ngoại cục - Nội cách - Ngoại cách, thì nhìn nhận ngày càng rõ hơn.
Khi cục đã không chính, thì nghĩa cũng biến hóa theo (紫 微 正 義 = Tử vi chính nghĩa), ngài Trần Đoàn nói với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn như vậy.
Chính cục được hiểu như thế nào? Đó là căn cứ vào ngày sinh để biết ngôi vị của Đế tinh, theo đó kỳ số cục là một nguyên tắc chính yếu
...
Khi ta khảo cứu, sách nói rằng: "60 giờ tương ứng nhất cục" (5 ngày), theo đó
- Từ ngày mồng 1 hàng tháng tới ngày mồng 10 là 1 tuần ứng với Nhị cục, kỳ số Nhị cục từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 10
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 15 đủ số, ứng với Tam cục, kỳ số Tam cục từ ngày 11 tới ngày 15
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 20 đủ số, ứng với Tứ cục, kỳ số Tứ cục từ ngày 16 đến ngày 20
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 25 đủ số, ứng với Ngũ cục, kỳ số Ngũ cục từ ngày 21 tới ngày 25
- Từ ngày mồng 1 tới ngày cuối tháng ( 29 - 30) đủ số, ứng với Lục cục, kỳ số Lục cục từ ngày 26 tới ngày 29 tháng thiếu, hoặc ngày 30 tháng đủ. (riêng tháng Hai là 28 ngày)
...
@An Khoa:
- Chính cục được căn cứ vào Can năm + cung mệnh + ngày sinh
Ví dụ:
- Người tuổi can Mậu Quý, sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh lập tại Dậu, ứng tam Cục, nhưng sinh ngày 21 thì kỳ số Cục là Ngũ cục, nên chưa được gọi là chính Cục, theo đó thì Tử vi cư Thân
- Khi ta gặp người tuổi can Đinh Nhâm, vẫn sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh cư Dậu, ứng ngũ Cục, trường hợp này được gọi là chính Cục, vì căn cứ vào ngày sinh, sinh ngày 21 thỏa được điều kiện kỳ số ngũ Cục, theo đó thì Tử vi cư Tuất.
Không chính cục luôn hướng tới chính cục, mệnh cư Dậu không chính cục có Thái âm, luôn hướng tới mệnh chính cục có Cự Cơ tọa thủ.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 20:16, said:
Thưa cụ Hà Uyên, Nội cục và Ngoại cục ở đây chắc là ngũ hành nạp âm của tháng mà cung mệnh và cung Thiên Di rơi vào để thể hiện chủ khách, còn Kỳ Cục Số là khái niệm khác?
Nội cục là chính cục của Mệnh
Ngoại cục căn cứ vào giờ sinh xác định Thân, người Thân cư Phu Thê + Thân cư Phúc thì không có Ngoại cục, chỉ có những người Thân cư Tài Di Quan thì mới tồn tại Ngoại cục. Đây là nguyên lý tham lưỡng (3 và 2) của Dịch.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 23:18, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Vậy thì có nghĩa rằng có điều kiện tương thích thì sẽ được gọi là kỳ số cục. Nhưng có cái cháu chưa hiểu, đó là điều kiện kỳ số cục này dựa vào so sánh độ lớn của cục hay dựa vào tương quan của hai cái ngũ hành cục? Bởi vì tương quan của ngũ hành cục và kỳ số cục đưa đến khá nhièu điều thú vị, và địa vị cháu là tác giả thì sẽ phát triển lý thuyết dựa trên điều này, nhưng có vẻ như cái này khác với ý của cụ.
Tiếp theo, cháu muốn hiểu, dựa vào Kỳ Số Cục để an thêm 1 sao Tử Vi nữa, vậy thì từ đó ta có thể nói về vị trí của sao Tử Vi mới này?
Còn cái ngoại cục, chắc cũng gần giống như với trường phái sử dụng tứ hóa của cung Thân, nhưng ở đây là áp dụng với ngũ hành nạp âm để đưa tới các vòng trường sinh. Có một điều cần để ý, theo quan điểm của cháu, phải sử dụng cung Thiên Di để nghiên cứu tương tác, chứ không thể sử dụng cung Thân chỉ trong trường hợp cung thân đóng ở phía bên kia của cung mệnh bởi ranh giới Điền-Tử, vì khó có thể nói ngoại cục mà sử dụng cung Thân mà bỏ qua cái quan trọng nhất là cung Thiên Di.
Kính cụ.
NhuThangThai cần một số thời gian để trả lời câu hỏi: tại sao năm Ất Canh thì trị số Cục tuân thủ theo thứ tự và trật tự 6 - 5 - 4 - 3 - 2
Ngài Trần Đoàn đã khải mở mối quan hệ của Ngày từ Nhất cục
...
Thái úy Lý Thường Kiệt tâu Vua: “Thần xin đề cử 2 quan A và B, sau khi hạ thần xem xét về Mệnh số, quan A giữ chức Cục trưởng cục đối ngoại, quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần”
Vua nói: “Để trẫm cho người chuyển Mệnh số của hai người này đến mật viện, cho các quan Tuyên úy trong mật viện cho ý kiến, sau đó Trẫm sẽ phê chuẩn”
Sáu cha Tuyên úy trong mật viện, thì 4 cha Tuyên úy phê đồng ý, 2 cha Tuyên úy phê không đồng ý.
Nhận xét của sáu cha Tuyên úy được chuyển đến Vua, đọc xong Vua đồng ý phê chuẩn theo đề nghị của Thái úy Lý Thường Kiệt.
Một trong hai cha Tuyên úy phê không đồng ý hỏi Vua: “Quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần, xét cục số không có khả năng đối ngoại đã đành, vì Thân cư Thê, nhưng thế Chủ Khách bị phạm Cô Hư, xin Bệ hạ xem xét”.
Vua nói: “Chiến trường cũng như thị trường, Trẫm cần chính cục chuyên nhất, đạt mục đích có đầu thì có cuối, quân lương được chu đáo, hai người này vận số không có hóa Quyền, nhưng quan trọng hơn cả là đắc chính cục”
Cha Tuyên úy đã hiểu được ý Vua.
...
AnKhoa, on 26/02/2012 - 11:27, said:
Gửi cụ HaUyen,
"Thế Chủ Khách phạm Cô Hư" nghĩa là sao ạ?
Trả lời An Khoa một vài bài viết cũng không đủ, Tôi nhớ trước đây, chỉ riêng nhóm 4 sao căn cứ vào địa chi Cô Quả Khốc Hư này, đã phải học 90 tiết, sau đó thực tập 60 tiết, phối nghĩa với cục, sau đó phối nghĩa với cách, tiếp theo là tổ hợp Nội cục + Ngoại cách hay Ngoại cục với Nội cách, sau đó viết tiểu luật về 4 sao này theo hàm nghĩa THƯ HÙNG, khi mình ở cương vị chủ hoặc khi mình ở cương vị Khách,.v.v... để được gọi là đào tạo chuyên nghiệp, rồi tới tào tạo chuyên sâu, cũng tốn nhiều tiền của vậy.
Thanh thản thấy vui, thì viết bài tham gia mà An Khoa!
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 08:45, said:
Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.
Nói về kỳ số cục, thì dựa vào sách viết: số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch, câu này được hiểu như thế nào?
Đó là nói về mối quan hệ của Ngày trong Tháng - Ngày quyết định vị trí sao Tử vi. Ví như nói ngày 15 giờ Mão, xét tới ngày 14 thì số đủ, giờ Mão là nói số chưa đủ của ngày 15, hiểu đơn giản như thông lệ Tháng thuận Giờ nghịch.
Theo sách viết: "Số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch", thuyết này đã thừa nhận nguyên lý tự nhiên, đó là Giờ chuyển tiết khí trong ngày theo Lịch pháp.
Kỳ số cục, ngoài vấn đề cho ta biết trị số tương ứng với cục, để biết Mệnh số có đắc chính cục hay không, thì còn cho ta biết 5 can tương ứng với 5 ngày kỳ số cục, điều này làm căn cứ để xét Tứ hóa trong 10 can, xác định mức độ ứng cho mỗi vận nhân.
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 19:53, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Thấy bác lên trên này, cháu mừng quá. Nhân tiện, cháu có một số câu hỏi mong bác giải đáp.
1-có người nào sử dụng phương pháp luận mệnh dựa trên bát tự trụ năm hay không? Bác VDTT nói rằng có cuốn Trung Hoa Dự Trắc Học, tại sao bây giờ nó không còn phát triển nữa? Bởi vì môn này tồn tại từ thời Lạc Lộc Tử, tại sao đến thời Từ Tử Bình lại bị thất truyền? PHải chăng là vì lúc đó truyền nhân môn phái đó gặp trục trặc gì đó?
2-Cháu suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu tuổi Ất-Canh thì cục số giảm từ 6-5-4-3-2. Mong bác có thêm gợi ý. Cháu nghĩ suốt 2 tiếng đồng hồ, giờ đã chịu hẳn.
3-Trong các nghiên cứu của bác về nguồn gốc tinh đẩu thì bao nhiêu thực sự đến từ Thiên Văn, và bao nhiêu đến từ các quẻ dịch?
4-Có lần bác từng nói rằng Cự Môn thực ra là hành thổ ẩn tàng Kim. Theo NDTTP thì nó là hành thủy, Vượng tại Hợi (khác với tử vi Việt). Tương tự, họ cho rằng Thiên Lương thuộc Thổ, cũng khác với tử vi Việt.
Vậy theo bác, cái gì đúng, cái gì sai
Trong 4 vấn đề mà Nhuthangthai nêu ra, đều là những vấn đề có nội dung rộng, trả lời súc tích cô đọng, hay trả lời cho xong, cũng không thể ngày một ngày hai để rõ được hàm nghĩa.
Lịch sử đã cho ta biết, người đứng đầu một "Ấp" với 300 hộ dân (theo Dịch), tối thiểu cũng phải biết đọc từ 2700 => 3000 chữ, thì mới biết mà hiểu được "chiếu chỉ" từ quan huyện, quan tỉnh, hay cao hơn nữa là Vua, lại thêm theo thời gian chữ viết cũng được thay đổi (7 lần), kèm theo đó là Lịch pháp được vua phê chuẩn theo từng "thời". Nhưng, cái nôi văn minh vẫn là Đại lục, theo đó ta có thể nhận thấy, sự phát triển xã hội của Đài Loan so với Trung tâm văn minh Đại lục, tùy theo mỗi người mà đưa ra nhận xét của mình. Cá nhân tôi cho rằng, khả năng phát triển của phái Nhất Diệp Tri Thu, khó mà đi trước học thuyết của ngài Trần Đoàn viết sớ tâu Vua. Đây không phải là việc mà chúng ta phải đi xác minh độ tin cậy này làm gì, điều quan trọng mà Ta có thể nhận thấy, mối quan hệ giữa Thiên can và Địa chi đối với 30 ngày trong 1 tháng, để tìm hiểu về Mệnh lý thông qua Mệnh số, nền móng xây dựng học thuyết này, là từ ngài Trần Đoàn.
Sách viết, cũng như những trang mạng có nội dung về Huyền Học, vẫn chỉ đưa ra cách mà không nói cục đi kèm theo, những tinh túy được đúc kết từ thực tiễn, thông qua những câu Phú, cũng không chỉ rõ cục này thì phối với cách nào,... mà thường nói hai chữ chung chung là cách cục vậy. Hay khái niệm Tứ chính thì được hiểu như thế nào? Biện lý đến khi nào thì phải dùng đến số để khẳng định độ chính xác, sau đó lại dùng Lý suy Mệnh, rồi lại phải dùng đến khả năng của Số để dẫn giải..., nên vấn đề cục và số hình như chúng ta đang trong tình trạng còn nhiều hạn chế.
Nói ví như, Cục đường bộ và Cục đường biển thì những Cách nào đáp ứng đạt tới mục đích cuối cùng có hiệu quả và kết quả, hay Cục văn hóa dân gian và Cục trinh sát, hoặc như Cục y tế dự phòng và Cục tình báo,.v.v... vậy nên, khi nói cách cục thông qua thực tiễn cụ thể đối với từng con người trong mối quan hệ xã hội, đó là một phần giá trị Nhân học của Tử vi, mà không thể coi Tử vi như đi mua một cái gương soi, phương pháp sử dụng là soi mệt nghỉ xem Ta là ai,... mà quên mất rằng Ta đang tồn tại trong mối quan hệ tổng hòa đó. Hoặc như khi ta coi Lộc tồn tượng là "cầu", còn Hóa Lộc tượng là "kích", kích cầu cũng không thể xa rời quy luật 1/3, mở rộng kích cầu là điểm tựa chiến lược cho sự phát triển vận mệnh của mỗi người, cũng như của một TP hay một đất nước. Tiềm năng lớn nhất của mở rộng kích cầu là ở thành thị mà không phải ở nơi chưa được đô thị hóa, đây cũng chỉ là một quan niệm về lộc khi chúng ta đang tồn tại theo cơ chế thị trường vậy
...
NgoaLong, on 28/02/2012 - 10:18, said:
Có vẽ như bác HaUyen mắc sai lầm cơ bản từ đầu khi nhận định như trên chăng, để rồi phát kiến thêm cái gọi là Cục nữa để cho phù hợp???
Cảm ơn Ngoalong về kết kuận của bạn
Tôi đang cùng Nhuthangthai nói về Thủy cục và Thổ cục gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, sự chia sẻ này của Tôi đã sai.
Mong Nhuthangthai thông cảm vì Tôi đã sai cơ bản, cục đường bộ và cục đường biển tuy cùng thuộc một Bộ (cung Thân -trường sinh), nhưng đã quan niệm rằng chức năng và nhiệm vụ của đường biển và đường bộ là giống nhau.
...
Durobi chia sẻ bài dịch:
Phan Tử Ngư - Làm Sao Biết Lấy Được Chồng Tốt?
Hạnh phúc cả một đời của người phụ nữ quan hệ ở ở ông chồng, vì ông chồng hiền lành tốt tính thì gia đình tất mỹ mãn hạnh phúc.
Những sao dười đây biểu thị nữ mệnh sẽ lấy chồng tốt. (Phan Tử Ngư: Qua khảo chứng của tôi, điểm quan trọng nhất là vào năm mà tiểu hạn có Hồng Loan mà quen người yêu và sau đó cưới thì khá hạnh phúc, Hồng Loan củng chiếu cũng vậy. Nhưng Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tuất, Hợi thì cát, lạc hãm thì hung.)
Nữ mệnh :
1. Thái Dương đóng nơi miếu vượng, như Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
2. Cung Phúc đức có Thái Dương tọa thủ + Xương, Khúc.
3. Cung Phu thê có Tử Vi tọa thủ + Xương, Khúc.
4. Cung Phu thê Tử Vi hoặc Tử Vi Thiên Phủ.
5. Cung Phu thê Thiên Đồng + Xương, Khúc.
6. Cung Phu thê Thiên Phủ tọa thủ.
7. Cung Phu thê Thái Âm miếu vượng.
8. Cung Phu thê Thiên Tướng.
9. Cung Phu thê Thiên Lương hoặc Thiên Cơ + Thiên Lương.
10. Cung Phu thê Văn Xương hoặc Văn Khúc (Chỉ cần 1, nếu Xương Khúc đồng cung thì có Đào Hoa).
11. Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tuất, Hợi hoặc tọa thủ tại Mệnh.
12. Thiên Cơ miếu vượng tọa Mệnh.
13. Thiên Phủ thủ Mệnh, Thân.
14. Thái Âm miếu vượng thủ Mệnh.
15. Thiên Tướng miếu vượng thủ Mệnh.
16. Thiên Lương miếu vượng thủ Mệnh.
17. Tả Phụ hoặc Hữu Bật đóng ở Mệnh.
18. Phá Quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ.
19. Khôi, Việt đóng ở mệnh hoặc Thân.
20. Lộc Tồn đóng ở Mệnh + tam phương có sao tốt chiếu.
21. Hóa Khoa, Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền đóng ở Mệnh.
22. Thiên Đồng + Thiên Lương đóng ở cung Phu thê.
Phan Tử Ngư - Làm Sao Phối Hợp Suy Đoán Đại Tiểu Hạn
Cổ thư nói: "Tham lang Văn Xương đồng cung, chính sự điên đảo", lại nói: " Tham Lang Văn Xương tại Sửu Mùi, tai nạn sông nước". Thế thì chúng ta sẽ gặp trường hợp trên mấy lần ở tiểu hạn, thế thì sẽ xảy ra năm nào? Chủ yếu phải phối hợp đại hạn thì mới ứng! Tóm lại, đại hạn và tiểu hạn kết hợp lại để suy đoán là điểm độc đáo của Tử Vi.
- Đại hạn có Địa Kiếp hoặc Địa Không, tiểu hạn lại gặp Địa Không hoặc Địa Kiếp, năm ấy phải chú ý những việc sau:
(1) Không được đầu tư lớn, sẽ lỗ vốn.
(2) Không được di chuyển bằng đường hàng không.
(3) Không đến những nơi lầu cao hoặc núi cao.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn cũng có một trong tứ sát, năm ấy sẽ bất lợi nhiều chuyện.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn có Tham Lang + Văn Xương, phải chú ý những chuyện sau:
(1) Sẽ có tai nạn xe cộ hoặc gãy xương.
(2) Người đang đi làm (kể cả nhà nước và tư nhân), phải đề phòng những sai sót về hành chính, dễ bị phạm lỗi, giáng chức, thậm chí mất việc.
(3) Không nên đi bơi đi chơi ở biển, thuyền viên thì không nên khởi hành ra biển.
- Trước cung đại hạn 3 cung, tức cung Phu thê lâm thời (hoạt bàn), có Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Quân, Cự Môn, Linh Tinh, Không Kiếp v.v..., vợ chồng sẽ xảy ra chuyện sinh ly tử biệt.
- Đại hạn vào cung Phu thê, tiểu hạn có Hồng Loan, Thiên Riêu, có chuyện Đào hoa sẽ xảy ra.
- Tiểu hạn vào cung có Tả Phụ Hữu Bật giáp, rất cát lợi, có thể mua bất động sản, hoặc phát tài.
- Tiểu hạn đi đến cung có Lộc Tồn, tam phương tứ chính có Thiên Khốc Thiên Hư, sẽ nổi danh.
- Tiểu hạn gặp Thái Duơng hóa Lộc, sẽ nổi tiếng.
- Đại hạn hoặc tiểu hạn có Liêm Trinh Thất Sát + sát tinh, lại gặp năm Bính Liêm trinh hóa Kỵ, có tai nạn giao thông.
- Tham Lang đồng cung Hỏa hoặc Linh, gặp năm Mậu Tham Lang hóa Lộc, bột phát ào ạt, hoặc phát tài lớn.
- Cung Tài bạch có Thiên Riêu, vào năm Quí, nếu đánh bạc tất thua, hoặc vì mất tiền vì gái.
- Năm sinh là năm Canh, đại hạn hoặc tiểu hạn lại gặp năm Canh tứ hóa sẽ gặp trục trặc mọi chuyện.
- Lưu Xuơng nhập cung Mệnh, Thân, hoặc đại tiểu hạn, thi cử sẽ đậu, quan chức thì có tin thăng chức. Phụ nữ thì sẽ có con.
- Lưu Mã đồng cung với Lộc Tồn tại tiểu hạn hoặc Mệnh thì sẽ xuất ngoại, di chuyển, du lịch, quan chức thì lên chức, người làm ăn thì trúng quả.
- Thiên Cơ cung Thiên Di của năm sinh hoặc cung Thiên Di hoạt bàn, gặp năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ bị chuyện đi lạc, nếu có hung tinh đồng cung thì bị tai nạn giao thông.
- Lưu niên gặp Văn Xuơng hóa Kỵ, đi thi là rớt.
- Tài bạch cung có Thiên Cơ, đại tiểu hạn và lưu nguyệt lưu nhật gặp Thiên Luơng hóa Lộc, đánh bạc tất thắng lớn.
- Lưu niên Đại hao nhập cung Điền, sẽ bị ăn trộm đến viếng, gặp thêm sát tinh thì mất sạch sành sanh.
- Đại tiểu hạn có Hồng Loan gặp Đại Hao, hoặc tại cung Tài bạch, sẽ bị chuyện mất tiền.
- Đại tiểu hạn Liêm Trinh gặp Tả Phụ hoặc Hữu Bật, coi chừng điềm đi tù.
- Tham Lang đóng cung Quan lộc tại hãm địa + sát tinh, đại tiểu hạn gặp phải thì do tham ô nên bị bắt.
- Cung Phúc đức hoặc cung Tài bạch của năm sinh hoặc hoạt bàn có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ, sẽ bị mất tiền do đầu cơ hay đánh bạc.
- Năm sinh hoặc lưu niên Văn Xương hoặc Văn Khúc hóa Kỵ nhớ đừng làm (giúp) gì cho ai.
- Tham Lang tại Mệnh, Thân hoặc Tật ách, gặp Bệnh Phù đồng cung, lại gặp thêm Tham Lang hóa Kỵ, do chơi bời mà bị mắc bệnh hoa liễu.
- Tham Lang đóng cung Tài bạch hãm địa, gặp năm Quí Tham Lang hóa Kỵ, công việc làm ăn gặp sóng gió, hoặc cơ duyên không may mắn.
- Hoa Cái đồng cung với Cô Thần hoặc Quả Tú, đại tiểu hạn lại gặp, điềm bất lợi hoặc tử vong cho người phối ngẫu.
(Trích Tử Vi Tinh Áo - Phan Tử Ngư, trang 167 - 169)
Xin chào anh chị em trên diễn đàn. Thuật Tử vi được cấu tạo làm 12 cung, mỗi một cung là 30 độ (360/12 = 30), được thể hiện trên hình tròn, mà ngày nay được thiết lập lá số là hình chữ nhật hay hình vuông. Thuật Tử bình được căn cứ theo 4 chi của năm - tháng - ngày - giờ, mỗi một chi trong thuật Tử bình tương đương với 369 / 4 = 90 độ Khi chúng ta giả thiết rằng, 4 chi của Tử bình có mối quan hệ với 12 cung trong Tử vi, thì điều này dẫn tới khả năng, 4 cung trong 12 cung của Tử vi tiến tới giới hạn 30 độ => 45 độ. (90/2 âm dương) Chúng ta lại đặt một giả thiết nữa: một lá số có Mệnh lập tại cung Tuất gặp Tử Tướng, nhưng số Tử bình lại không có chi Tuất, nên cung Mệnh không còn giá trị góc 30 độ nữa, mà có thể giảm tới chỉ còn 15 độ chẳng hạn. Còn khi lá số có cung Mệnh lập tại Tuất gặp Tử Tướng, mà số Tử bình trong 4 chi có chi Tuất, thì cung Mệnh có giá trị góc 30 độ => 45 độ. Hà Uyên qua trải nghiệm thấy thú vị, nhưng còn rất nhiều lúng túng. Mong muốn cùng Anh/chi/em trên diễn đàn bình giải. Hà Uyên.
...
Chủ đề này, Hà Uyên căn cứ vào vị trí Địa lý của đất nước VN, nằm tại khu vực được gọi là Nhiệt đới gió mùa. Quá trình lao đông sản xuất của người Việt cổ là lúa nước, còn bên Đại lục là lúa mỳ.
Căn cứ theo chữ Nhiệt, mỗi cá thể đều có giới hạn trừ 2 và cộng 5. Có nghĩa là nhiệt độ cơ thể mỗi người trung bình là 37 độ, khi trừ đi 2 chỉ còn 35 độ thì trụy tim mạch, hoặc khi cộng với 5 thì 37 + 5 = 42 độ, thì dẫn tới hôn mê. Trừ 2 cộng 5 đều có kết quả như nhau.
Điều này, cho chúng ta hiểu ý nghĩa về giới hạn. Như vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra một câu hỏi: 12 cung trong Tử vi của mỗi một người, nhất thiết bắt buộc phải chia đều hay không? Mỗi cung 30 độ?
Khi áp dụng vào thực tiễn thấy nảy sinh nhiều điều kỳ lạ. Có thể là một ngõ cụt, cũng có thể là một hướng tư duy, khi truy tìm mối quan hệ của các môn học thuật đối với một cá nhân cụ thể.
...
thieukim, on Sep 9 2009, 01:35 PM, said:
cái ngày nghe ngộ ngộ hì hì, khoa TB đâu có phải chỉ căn cứ theo 4 chi? còn thiên can thì sao? can tàng như thế nào? người đặt vấn đề có thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua chưa?
Chào thieukim
Hay qúa, Hà Uyên cũng chưa thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua.
Cũng chỉ từ cái mà được gọi là định danh thôi, ví dụ như Tử bình có 4 chi là Tuất-Thân- Hợi-Tý, cũng vẫn con người đó, Tử vi mệnh lập tại Dần ngộ Tử Phủ, Hà Uyên đã để mắt tới gần 50 năm mà danh phận cũng chưa đi tới đâu.
Lại một trường hợp cùng năm tháng ngày, chỉ khác giờ sinh, đó là sinh vào giờ Hợi mà Tử bình có chi Hợi, thấy cuộc đời khác hẳn. Kể cũng lạ
Thắc mắc này có thể không đi đường dài được, Hà Uyên nghe theo bạn, thieukim bàn về vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua vậy.
Xin chào anh chị em.
Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau:
- Hoả Lục cục
- Thổ ngũ cục.
- Kim tứ cục
- Mộc tam cục.
- Thủy nhị cục.
Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy?
Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy?
...
Gửi Minh An.
Phàm hai quẻ Càn Khôn sinh ra sáu con, Bố Mẹ thân thoái mà 6 con thì tiến (2 lùi 6 tiến), cũng như là Âm Dương sinh ra Ngũ hành vậy. Chúng phối hợp với nhau mà thành 64 quẻ. Cũng giống như Can Chi phối hợp với nhau, mà thành Giáp Tý vậy. Nhân quẻ mà suy ra Cơ - Ngẫu, Biến - Hóa, thì cũng như Can Chi phối hợp, mà cũng suy ra Xung - Hợp - Chế - Hóa vậy.
Thì có khác nào khi nói về Ngũ hành, Thuỷ chỉ sinh ở Canh Tân, mà không Hóa ở Bính - Tân. Hỏa chỉ sinh ở Giáp Ất, mà không Hóa ở Mậu - Quý. Thuyết Biến quái, thì cho đây, là cái gốc của Dịch. Tất cả 64 quẻ đều lấy từ đây mà ra. Như vậy, là vẫn lấy Hóa khí làm Bản khí, thì cũng trái với ý nghĩa tương sinh của Ngũ hành vậy.
- Bỏ một dùng ba: 360 thì dùng 270
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
...
"Thân giảm" có câu:
Dương cực tắc kháng,
Âm cực tắc ngưng,
Kháng tắc hữu hối,
Ngưng tắc hữu hung.
Dương cực thì kháng,
Âm cực thì ngưng,
Kháng thì hối hận,
Ngưng thì hung hiểm.
Địa thế Khôn, Thổ dĩ hậu súc tải vật. Vô Thổ bất Thủy.
Địa trung hữu Thủy, Sư: Thổ dĩ dung súc Thủy.
Âm lấy Dương làm gốc, Dương lấy Âm làm gốc.
Thủy sinh ở 1 lấy Hoả thành ở 6.
...
Vâng, anh Thiên Sứ.
Hà Uyên đã đọc được hơn ba lần về tác phẩm: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Cảm ơn Anh.
Dưới đây, là một trong những cách tường giải về độ số Cục trong môn Tử vi:
Từ Nguyên lý:
- Bỏ một dùng ba: 360 thì chỉ dùng 270 => 1 giáng 3 thăng.
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
Hành kim: Có 2 quẻ là Càn và Đoài. Càn 1, Đoài 2. Tuy nhiên, số 9 chính là 1 số chứa trong nó cả Càn lẫn Đoài nên số của hành kim là: 9+1+2 = 12/4 = 4 => Kim tứ cục. Từ Sinh, Vượng, Mộ có 3 khoảng, từ Sinh đến Vượng, từ Vượng đến Mộ và từ Mộ đến Sinh. Số của mỗi hành sẽ được chia cho 3 khoảng đó. Như vậy, tại mỗi khoảng, giá trị của hành kim là 12: 3 = 4 ( Kim tứ cục)
Tương tự hành Thổ có Cấn và Khôn, trị số là 8+7 = 15 / 3 = 5 => là Thổ ngũ cục
Hành Thủy quẻ Khảm có trị số là 6 / 3 = 2 => Thủy nhị cục.
Hành Mộc là quẻ Chấn và Tốn. Trị số là 4+5 = 9 / 3 => Mộc tam cục.
Duy chỉ có hành hỏa là Ly, 3: 3 = 1. Chẳng lẽ lại là Hỏa nhất cục.
Bạn Minh An đã gửi thư, đặt v/đ về việc tường giải của mình.
Cũng mong anh Thiên Sứ cùng anh chị em trên diễn đàn cho ý kiến bình giải.
...
Chào Minh An.
Khi tìm hiểu về Ngũ hành, mối quan hệ "sinh- khắc" cũng phải đủ một điều kiện, dựa vào quy luật Tứ thời của Tự nhiên. Ví như khi nói Hỏa khắc Kim, khi chúng ta xét Hoả phải ở trong trạng thái "thành" thì mới có thể khắc được Kim. Thông qua "số" mà bàn thì, Hỏa thành ở 7, thì 7 + 4 + 9 = 20 = 6 + 5 + 4 + 3 + 2 = 20. Tương tự như vậy, khi Kim khắc Mộc, thì số "thành" của Kim là 9 ta có: 9 + 3 + 8 = 20, cũng bằng 20 => điều này, cho chúng ta nhận thức được những gì?
Người xưa lấy Mộc tinh để làm thước đo cho mỗi một cung, cũng gọi là Tuế tinh, 12 năm. Khi căn cứ vào lấy "Vượng" để dụng sự, thì lấy Mộc làm thước đo như sau:
- Mộc có trị số Vượng là 3 của Chấn => Mộc Tam cục
- Kim có trị số Vượng là 7 của Đoài => 7 - 3 = 4 => Kim Tứ cục
- Hỏa có trị số Vượng là 9 của Ly => 9 - 3 = 6 => Hỏa Lục cục
- Thủy có trị số Vượng là 1 của Khảm => 3 - 1 = 2 => Thủy Nhị cục.
- Thổ có trị số Vượng là 8 của Cấn => 8 - 3 = 5 => Thổ Ngũ cục
Anh chị em cùng Minh An bình giải.
...
Tam hợp của Địa chi được căn cứ vào đâu để quy Ngũ hành cho Tam hợp?
Có thể, Người xưa cũng thông qua nguyên lý: "Bỏ một dùng ba, bỏ hai dùng sáu, bỏ ba dùng chín" chăng?
- Hợi - Mão - Mùi => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Mộc.
- Thân - Tý - Thìn => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Thủy.
- Tị - Dậu - Sửu => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Kim.
- Dần - Ngọ - Tuất => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Hỏa.
Vậy còn Thổ thì sao? Tại sao Thiên can Mậu thì lại được khởi Trường sinh từ cung Dần? Tại sao Địa chi tam hợp cục của Thổ lại được khởi Trường sinh từ cung Thân?
(Nguồn: Sưu tầm)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
No.1 - Tuổi Tý | No.2 - Tuổi Mùi | No.3 - Tuổi Mão | No.4 - Tuổi Tuất | No.5 - Tuổi Hợi |
Tuệ Anh
Các công trình công cộng như nhà văn hóa, nhà bảo tàng v.v… hay các công sở, công ty v.v… việc trang trí ngoại thất hay ngoại cảnh được chú ý chủ yếu là làm tăng thêm về khía cạnh thẩm mỹ và lôi cuốn sự chú ý hay phô trương sự đài các, sang trọng.
Việc trang trí đôi khi xuất phát từ sự tôn kính, sự uy nghi (các nơi thờ cúng, công sở), giàu có, cao quý (cung điện, nhà bảo tàng) v.v… Ví dụ như các cung điện vua, chùa, các phủ của các vị nguyên thủ quốc gia. Các nơi làm việc của quốc gia các nơi cơ quan công quyền v.v…
1. Sự trang trí ngoại thất và ngoại cảnh thường có các xu hướng
– Rất cầu kỳ và cầu toàn về mặt thẩm mỹ, về tâm linh và phong thủy.
– Cầu kỳ thuần tuý nghệ thuật và mỹ thuật.
– Đơn giản với cả khái niệm cần có cho đủ lệ bộ.
– Bình thương chỉ để không trống trải nên tuỳ tiện theo khả năng kinh tế.
– Tôn kính hoàn toàn thuộc ý thức tâm linh và phong thuỷ.
2. Trang trí ngoại thất mang ý nghĩa tâm linh và phong thuý hoàn toàn
Hình thức trang trí nhằm tượng trưng cho sự tôn kính thường được sử dụng trong các: Đình, đèn, chùa, nhà thờ, lăng tẩm, khu tưởng niệm. Việc trang trí đực phân ra hai phần.
– Trang trí ngoại thất cho các trưởng hợp kể trên luôn mang ý thức tâm linh. Đó là đắp và khám sứ các chữ, các hình tượng chầu tứ linh như: Long, Ly, Quy, Phượng, như bức đại tự, hoành phi câu đối v.v…
– Trang trí cái cổng tam quan, cổng và bia, đài hai bên côổng bằng đắp nối và khảm sứ, hoặc viết về các câu đối, câu khải, kệ v.v…
– Vẽ ở bức bình phong trước cổng chùa chiên, đình phủ hay ở bia đài hai bên cổng chính những tích chuyện giáo xưa như “thầy trò Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh” hay các tích báo hiếu trong “thập nhị tư hiếu” cổ xưa (hai mươi bốn kiểu báo hiếu) v.v…
Kiểu trang trí ngoại thất tạo hình biểu cảm khá năng “gợi tâm” đến người xem hay nhìn. Đó là ý nghĩa tâm linh nhưng đồng thời nó cũng tạo hiệu dụng phong thủy của hình thức trang trí ngoại thất; mặc dù các cánh trang trí có thể không tuân thù một số phép của phong thủy Ngũ Hành.
3. Trang trí ngoại cảnh trong trường hợp các công trình tôn kính
Đối với các công trình thuộc loại tôn kính, việc trang trí ngoại cảnh lại luôn tôn trọng các phép phong thuỷ là chù yếu.
Nó được thể hiện ờ cách bài trí sân vườn, cây cảnh, hình tượng, cây cối v.v…
Ví dụ: Ở các chùa đình, hổ có hình bán nguyệt hay có hình vuông, có thể có thêm một đảo nhỏ, thả sen, súng, cá chép, cá vàng.
– Hai bên sân trước trồng cây hoa hoặc hải đường, ngân, lựu. Bách ngoài cùng trồng các cây trong bộ tam đa: đề, đa, si, sanh hay tùng, bách, trắc bách diệp.
– Vòng quanh sân bày các chậu Ngô đồng, đào, huệ, mẫu dơn, hoa trà, các chậu bonsai, cây cảnh phù hợp.
Trang trí ngoại cảnh cần tạo cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch, u tịch nhằm làm tăng ý nghĩa tâm linh và tôn trọng tuyệt đối các phép phong thuỷ.
4. Trang trí ngoại thất và ngoại cảnh đơn giản
Cách trang trí ngoại thất và ngoại cảnh cho các công sở văn phòng, công ty, trường học, nhà máy v.v… thường đơn giản, ít khi xuất phát từ ý thức phong thuỷ thực sự. Trang trí chí mang tính hình thức với các đường nét kiến trúc vì vậy trang trí ngoại thất ở các dạng công trình nàv thường dơn giản với các nét phong trào, hoa văn kiểu cách điệu nhằm làm giảm sự dơn điệu của vẻ ngoài của công trình.
Trang trí ngoại cảnh ở các công ty lại càng dơn giản hơn với vài cây cảnh được cắt tỉa tạo hình đặt trước cữa ngoài sân, hoặc vài bồn hoa, hàng cây đại thụ lấy bóng mát v.v…; có tương bao xung quanh và cổng (huyền quan).
Tóm lại trang trí ngoại cảnh ở các nơi công sở rất thuần tuý không có ý thức từ phong thủy.
Song, mọi loại hình trang trí nào dù sao dưới cách nhìn cùa nhà phong thuv thì nó đều có chứa đựng ý nghĩa phong thủy.
Vì thế, nếu việc trang trí ngoại thất và ngoại cảnh vô tình phạm vào một phép phong thuỷ cát tường nào thì công sở ấy có thể gặp được các điều may mắn; Nếu là phạm vào điều cấm kỵ, theo phép phong thủy, thì có thể gặp những điều bất lợi nào đó, do hiệu ứng phong thuỷ tạo nên.
5. Trang trí ngoại thất và ngoại cảnh rất cầu kỳ
Trang trí rất cầu kỳ với sự tính toàn cẩn thận về các mặt: Nghệ thuật mỹ thuật, phong thủy và tâm linh.
Có thể nói, việc trang trí này không bị điều kiện vật chất tiền của chi phối. Điều kiện chi phối duy nhất là môi trường xung quanh và địa thế.
Từ các điều kiện môi trường và địa thế, việc trang trí ngoại thất và ngoại cảnh của cổng trình được xem xét rất cẩn thận về kỹ thuật, mỹ thuật, về phong thuỷ và tâm linh.
Đó là các công trình kiến trúc cung điện, phủ, đài v.v…
Trang trí ngoại thất cho các loại công trình nhằm tôn lên vẻ uy nghi, sang trọng mang đủ sắc thái của phong thủy và tâm linh.
Sự tôn trọng các phép phong thuỳ Ngũ hành phù hợp, hài hòa: Sinh, đồng, khắc, triệt giữa môi trường với các dạng hình của công trình; tính hợp lý giữa địa thế với kết cấu kiến trúc của cổng trình.
Sự tuân thủ phép phong thủy cát tường trong trang trí ngoại cảnh của công trình bằng các thuật bày bố các hình tượng, vật thể như hồ nước, hòn non bộ, cầu, lầu bát giác, dòng chảy, vườn non bộ, cây thế, vườn hoa, cây đại thụ, thậm chí cả sông đào, dài quan sát v.v…
Sự tôn trọng phép phong thủy tài lộc, với các thuật “dụ long”, “chiêu khí” v.v… bằng cách bố trí, bày đặt theo thuỷ, mộc, thổ, kim, hỏa tổ hợp Ngũ hành và cân bằng Âm Dương và trật tự phát triển trong mối liên kết chặt chẽ cảa các yếu tố tự nhiên và vũ trụ.
Phải nói rằng, ngoài sự chú ý về khía cạnh thấm mỹ và phong thủy, việc trang trí ở các công trình trên còn mang nhiều ý niệm tâm linh toát ra từ các hình tượng Long, Ly, Quy, Phượng, Cóc vàng và Cá chép và tượng các con thú để tăng sinh khí cầu mong ngũ phúc và trấn trị quỷ quái nhằm giữ bình an.
Như vậy việc trang trí ngoại thất và ngoại cảnh ở các công trình cung điện, phủ, đài, dinh thự, biệt thự là rất cầu kỳ và cẩn trọng.
Chùa Ba Đồn tọa lạc tại ấp Tứ Tây, phường An Tây trên đường từ đàn Nam Giao đi về hướng Nghĩa Trang thành phố. Chùa Ba Đồn đã từng chứng kiến qua nhiều thăng trầm của lịch sử qua các giai đoạn. Nay lại được biết đến, bởi đây là nơi an nghỉ của hàng vạn con người xấu số – một khu mộ hợp táng lớn nhất cả nước. Chùa do các phổ (phường nghề) tự lập và những người giữ chùa là những người bán thế xuất gia (có gia đình), không có tu sĩ như các chùa khác.
Từ phía ngoài nhìn vào chúng ta sẽ thấy rất rõ những bãi cỏ rộng, bằng phẳng, xung quanh có nhiều lăng mộ khác chen vào. Đó là ba bãi cỏ tuyệt chỉ mọc một loại cỏ chỉ xanh rờn bằng phẳng giống như ba cái sân bóng. Ở giữa nổi lên một ngôi chùa nhỏ, giống một ngôi miếu hơn là chùa. Trước kia nơi đây không phải là chùa, mà chỉ là một bãi đất trống được dùng làm cồn mồ chôn cất những người đã chết không nơi nương tựa trong các giai đoạn chính của lịch sử.
Năm 1803, trong giai đoạn xây dưng kinh thành Huế, vua Gia Long (1802 – 1819) đã cho tiến hành việc di dời 8 ngôi làng nhỏ nằm ở phía Bắc của sông Hương, khu vực cồn mồ của 8 làng cũng được di dời. Với những mồ mả không có thân nhân đến nhận thì triều đình cho tiến hành việc quy tập lên vùng rừng núi phía Tây Nam của thành phố (nay khu vực này là xóm Hành, thuộc thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế). Triều đình cho lập văn bia cho các ngôi mộ này vào 07/03/1803 và ghi rõ: “Ân Tứ Hiệp Táng Vô Tự Chi Mộ” (nghĩa là nơi an táng những người chết không nơi nương tựa), mà dân gian thường hay gọi là “cồn mồ 8 làng”.
Đến năm 1835, vua Minh Mạng cho lập một bàn thờ ở giữa trời (đàn) tại cồn mồ 8 làng đề hằng năm nhà nước tổ chức cúng tế những cô hồn của 8 làng. Về sau cho dựng thêm hai đàn nữa để cúng tế những cô hồn của cồn mồ thứ hai và thứ ba.
Dân chúng gọi ba cồn mồ có ba đàn hằng năm tế lễ đó là Cồn mồ Ba Đàn (Ba Đồn). Sau ngày thực dân Pháp đánh chiếm Huế, dân chúng và binh lính trong Thành đạp nhau chạy theo vua ra các cửa Nhà Đồ, cửa Hữu làm chết hàng ngàn người. Lúc đầu người chết được dập hai bên lề đường và ngay trong các vườn nhà chung quanh. Về sau người Pháp “giăng giây thép hoạ địa đồ nước Nam” bắt dân chúng phải cất bốc hết các mồ mả chôn trong và ngoài Kinh thành. Những mồ vô chủ lại được đưa lên Ba Đồn “hợp táng” hình thành thêm một số Cồn mồ nữa.
Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi miếu xưa đã bị đổ nát rất nhiều. Nhưng nhờ sự đóng góp của bà Nguyễn Thị Lựu (bà ngoại của vua Thành Thái), cùng người dân khắp nơi, đặc biệt là người dân địa phương, ngôi miếu đổ nát năm xưa đã được trùng tu, để ngày nay trở thành nơi cúng tế hàng năm cho dân làng ở Ba Đồn.
Chùa Ba Đồn xưa còn gắn liền với những sự tích huyền bí, bất kể người dân nào dù là lớn hay nhỏ đã từng sống và lớn lên tại đây đều rất thành kính hướng về Ba Đồn, vì thế mỗi dịp đi ngang đây, người dân cũng không to tiến, cũng không đùa giỡn, thậm chí không một ai dám đá banh ngay trên bãi đất trống bằng phẳng trong khuôn viên của chùa.
Và để cầu mong cho các linh hồn sớm siêu thoát, miếu Ba Đồn đã rước tượng Phật về để thờ. Dần dần ngối miếu nhỏ được xây cất thành một ngôi chùa nhỏ, mà ngày nay mọi người Huế đều quen với tên gọi – chùa Ba Đồn.
Hiện nay, một số hạng mục công trình của chùa đã bị xuống cấp, nhiều hiện vật quý của chùa ngày trước như chiếc đại hồng chum, một chiếc trống đại, hay 1 bức hoành phi sơn son thếp vàng do ông Hoàng Châu Nguyên, một thương nhân Trung Hoa gửi tặng năm xưa giờ đây đã không còn nữa. Khuôn viên của chùa cũng đã bị chiếm dụng đi nhiều.
Đất trên các cồn mồ tại Chùa Ba Đồn chỉ có cỏ mọc chứ không thấy bất cứ một loài cây lớn nào: theo giải thích của các vị sư trong chùa thì ngày trước khi chôn xác tại đây, người dân đã rải rất nhiều muối lên nơi này; có ý kiến khác cho rằng vì dưới đất là hàng ngàn xác chết nên tử khí bốc lên không ngớt, cũng vì thế mà không một loại cây lớn nào có thể mọc lên được.
Các sư thầy của chùa Ba Đồn đều là những “người bán thế xuất gia” (nghĩa là vẫn có gia đình), chứ không phải thuộc tầng lớp tu sĩ như các ngôi chùa khác. Cũng vì thế, trải qua những biến cố của lịch sử, ngôi chùa Ba Đồn vẫn chưa được Giáo hội Phật giáo công nhận.
Chùa Ba Đồn là một di tích rất lạ với mười cồn mộ hợp táng lớn nhất nước, đây còn là nơi hợp táng những chiến sĩ yêu nước đã hy sinh dũng cảm trong biến cố đánh Tây năm 1885 để bảo vệ Kinh thành Huế. Ngày nay Kinh thành Huế được công nhận là di sản thế giới, việc tôn tạo các di tích nầy để tưởng nhớ người xưa là sự thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của thế hệ con cháu hôm nay.
nước biển. Màu tương ứng đá quý đó là: đá thiên thạch, đá huyền vũ; đá mã não xám; màu xanh là đá topaz, đá aquamarine, đá sapphire,…
Tốt thứ nhì là được hòa hợp: Mộc với Mộc, nhiều cây sẽ là rừng. Màu xanh của cây có các loại đá quý: đá peridot, đá aventurine, và ngọc cẩm thạch,…
Tiếp theo là sự chế khắc: Mộc chế khắc được Thổ. Người mệnh Mộc có thể chế khắc được viên đá mình đeo có màu tượng trưng của đất, là màu nâu sẫm, màu vàng thổ. Tương ứng đó là các loại đá mã não, thạch anh vàng, đá mắt hổ,…
Người có mệnh Mộc không nên dùng đá có màu thuộc hành Kim. Rất bất lợi cho chủ nhân, bởi lẽ Kim sẽ khắc Mộc. Màu của kim là màu trắng, màu ghi. Đá tương ứng sử dụng là đá thạch anh trắng, thạch anh pha lê, mã não ghi, mã não trắng, sapphire trắng,…
Một số loại đá quý trang sức, và đá phong thuỷ sử dụng tốt nhất cho người thuộc mệnh Mộc:
ĐÁ HỢP MỆNH MỘC |
||
Loại sản phẩm |
Loại đá |
Màu sắc |
Trang sức đá quý |
Đá Topaz | Xanh nước biển, da trời |
Trang sức đá quý |
Đá Saphia (saphia) |
Xanh da trời, lá cây, nước biển |
Trang sức đá quý |
Đá Peridot |
Xanh lá cây |
Trang sức đá quý |
Ngọc lục bảo (emerald) |
Xanh lá cây |
Đá phong thủy |
Đá Aguamarine |
Xanh nước biển |
Đá phong thuỷ: cầu, trụ, trưng bày |
Đá thạch anh khói |
Xám |
Đá phong thuỷ: cầu, điêu khắc, trưng bày |
Đá mã não |
Xám |
Đá phong thuỷ: cầu, trụ, trưng bày |
Tạch anh xanh (đá Aventurine) |
Xanh lá cây |
1. Tướng Lông Mày hình 1 - Người không tham vọng quyền lực
Những người có kiểu lông mày tự nhiên như thế này thường không màng danh lợi, mà chỉ nghĩ đến cuộc sống bình yên là cái đích cuối cùng. Bạn cho rằng việc đấu đá, tranh giành khiến họ mệt mỏi, chịu nhiều áp lực, trong khi với tài năng của mình, bạn thừa sức tạo ra của cải để sống dư giả.
Tuy nhiên, bạn lại tỏa ra lức lôi cuốn đến lạ kỳ, và luôn có sức ảnh hưởng tới những người xung quanh. Vì vậy, cơ hội để nắm bắt quyền lực lại đến với bạn rất nhiều. Nếu chấp nhận nắm bắt, bạn sẽ làm rất tốt trên cương vị lãnh đạo.
2. Tướng Lông Mày hình 2 - Người tham vọng Quyền lực
Bạn thích được “đeo mặt nạ” cho bất kỳ những gì mình làm để mọi thứ trở nên hoàn hảo. Bạn quyết đoán và có tố chất vạch ra hướng đi cho cả tập thể đông người. Bạn sở hữu tài năng diễn thuyết, lôi cuốn người khác. Tất cả những tốt chất của một người lãnh đạo đều hội tụ ở bạn.
Quan trọng hơn cả, bạn có đam mê và ham muốn được đứng ở vị trí lãnh đạo. Vì vậy, bạn sẽ đoạt về mình mọi cơ hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của mọi người để leo lên ghế ngồi danh dự. Trên thực tế, nếu được coi trọng, bạn chẳng tiếc công sức để cống hiến cho tập thể tốt.
3. Tướng Lông Mày hình 3 - Thông Minh và thích quyền lực
Tính cách nổi trội của bạn là thông minh, hóm hỉnh và biết cách đọc tâm lý đối phương. Dù tầm hiểu biết còn hạn chế ở một số lĩnh vực không phải thế mạnh, nhưng bạn vẫn tự tin, xoay sở giỏi trong mọi tình huống. Nói về quyền lực, bạn rất thích thú và tỏ rõ quan điểm muốn được đặt vào vị trí lãnh đạo.
Bạn tự tin cho rằng chỉ khi ở vị thế cao nhất, mọi tố chất của mình mới được phát huy. Nếu chỉ làm một người bình thường, thì cuộc sống sẽ cơ cực, phí phạm tài năng nên phấn đấu bằng mọi giá phải có danh vọng từ khi còn rất trẻ.
4. Xem Tướng Lông Mày hình 4 - Nổi loạn và chống đối quyền lực
Không đến mức bạn chống lại cả thế giới, mọi nguyên lý theo lẽ tự nhiên, nhưng bạn thích làm mọi việc theo cách của riêng mình. Bạn tin rằng nếu điều gì đó không hữu ích, thì cần gạt bỏ và thay đổi. Tính cách phóng khoáng của bạn khó tồn tại trong môi trường gò ép với nhiều nguyên tắc.
Kết quả là bạn chẳng những không tham vọng quyền lực, mà còn chống đối lại để sống, làm việc theo cách của riêng mình. Dù vậy, bạn vẫn đối xử với mọi người bằng lòng kính trọng nên không bị cô lập.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
kiếp sát (Hỏa)
***
1. Ý nghĩa tính tình:
2. Ý nghĩa nghề nghiệp:
3. Ý nghĩa của kiếp sát và một số sao khác:
- Kiếp Sát, Thất Sát: không sợ chết, can đảm, liều mạng.
- Kiếp Sát và Tứ Sát: nếu ở cung Tật thì bị ác bệnh.
- Kiếp Sát, Thiên Giải hay Tuần Triệt: Thiên Giải, Tuần, Triệt chế được nóng tính hay ác tính của Kiếp Sát, làm cho tâm tính đầm, thuần trở lại.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
![]() |
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
![]() |
![]() |
Có lẽ trong cuộc đời của mỗi con người có thể yêu rất nhiều lần. Và trong tất thảy những mối tình ấy sẽ có một người khiến ta cười sảng khoái nhất, khóc đau đớn nhất, khiến ta suy nghĩ sâu sắc nhất, hay những lời nói yêu thương khiến ta đau thắt mỗi lần nhớ lại. Thậm chí khi ta bị phản bội cũng sẵn sàng chọn lựa sự im lặng, trái tim đang đau đớn tột cùng nhưng hình ảnh người mình yêu thương vẫn tồn tại trong mọi ngóc ngách những nghĩ suy.
Liệu trong những con giáp chọn cách im lặng khi bị phản bội có bạn hay không?
Người tuổi Sửu:
Những người tuổi Sửu được biết đến với tính nhẫn nại cực kỳ cao. Trong tình yêu họ luôn hi sinh nhiều hơn, dễ nghe theo sự áp đặt của đối phương. Trong cuộc sống hôn nhân, tuổi Sửu luôn là người bao dung với đối phương trong mọi tình huống. Họ không quá coi trọng chính bản thân mình mà ngược lại hi sinh hết mình cho gia đình và người mà họ yêu thương. Người yêu hay vợ/chồng có những mối quan hệ ngoài luồng khác thì họ sẵn sàng tha thứ cho đối phương.
Người tuổi Mùi:
Những người cầm tinh con Dê thì trái tim hay yếu đuối, rất dễ cảm động với một sự việc đáng thương nào đó. Trong tình yêu, khi bị đối phương phản bội, tuổi Mùi lại chẳng thể chịu nổi việc hai bên cùng đau đớn, hay tổn thương. Nếu người họ yêu làm điều có lỗi với họ thì họ lại nghĩ do bản thân không tốt. Nếu quả thực đối phương đã đi sai đường và miễn là biết nhận ra cái sai của mình thì tuổi Mùi sẵn lòng tha thứ và bỏ qua tất cả.
Người tuổi Hợi:
Tấm lòng bao dung của người tuổi Hợi cực kỳ đáng khâm phục. Họ luôn có cái nhìn lạc quan trước vấn đề bị đối phương phản bội và có những suy nghĩ tích cực hơn bao giờ hết. Nửa kia phản bội họ, phần lớn thì tuổi Hợi đều nhẫn nại và cho đối phương thêm cơ hội. Sự thức tỉnh trong tâm hồn của tuổi Hợi thực sự quá ngưỡng mộ. Vậy nhưng nếu đối phương cứ năm lần bảy lượt lừa gạt họ thì họ sẽ không bao giờ bỏ qua nữa.