Mơ thấy chồng rời xa: Rạn nứt trong đời sống tâm lý vợ chồng –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Việc chọn năm để kết hôn không chú trọng quá |
1. Năm Tý: nam tuổi Mùi và nữ tuổi Mão không nên kết hôn.
2. Năm Sửu: nam tuổi Thân và nữ tuổi Dần không nên kết hôn.
3. Năm Dần: nam tuổi Dậu và nữ tuổi Sửu không nên kết hôn.
4. Năm Mão: nam tuổi Tuất và nữ tuổi Tý không nên kết hôn.
5. Năm Thìn: cả nam và nữ tuổi Hợi không nên kết hôn.
6. Năm Tỵ: nam tuổi Tý và nữ tuổi Tuất không nên kết hôn.
7. Năm Ngọ: nam tuổi Sửu và nữ tuổi Dậu không nên kết hôn.
8. Năm Mùi: nam tuổi Dần và nữ tuổi Thân không nên kết hôn.
9. Năm Thân: nam tuổi Mão và nữ tuổi Mùi không nên kết hôn.
10. Năm Dậu: nam tuổi Thìn và nữ tuổi Ngọ không nên kết hôn.
11. Năm Tuất: nam tuổi Tỵ và nữ tuổi Tỵ không nên kết hôn.
12. Năm Hợi: nam tuổi Ngọ và nữ tuổi Thìn không nên kết hôn.
(Theo Đời người qua 12 con giáp)
![]() |
Hiện tượng: Chúng ta đều biết phòng khách là nơi tiếp nhận sinh khí, cũng là nội minh đường của dương trạch. Nếu phòng khách tối tăm không ánh sáng, ngoài việc đi ngược lại với quy tắc chuẩn cơ bản của dương trạch là “phòng khách sáng – phòng ngủ tối”, phòng khách tối tăm như vậy còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thị lực, con người sẽ trở nên bi quan, bảo thủ, mất hết ý chí, tự ti, không có chí tiến thủ.
Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất là sửa đổi bố cục. Nếu trong trường hợp không thể sửa đổi được bố cục thì hệ thống chiếu sáng của phòng khách phải dùng bóng đèn halogen để làm công cụ thắp sáng, bổ sung đầy đủ khí trường cho phòng khách. Cũng có thể trong phòng khách đặt một con Kỳ lân hoặc tăng dương khí cho căn phòng của nhà bạn đẻ hóa giải. Nói tóm lại, mục đích chính là điều chỉnh âm dương trong phòng được cân bằng, đảm bảo sức khỏe của cơ thể và tâm lý cho những người sống trong ngôi nhà.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
![]() |
Bấy giờ, đã đến lúc đức Thế Tôn khoác y – bát lên đường vào thành khất thực, trên đường đi, đức Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái, là người con có hiếu nên nghe theo lời dạy của cha trước khi mất, cứ mỗi sáng, sau khi tắm gội xong anh ta ra đường thực hành việc lễ bái sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới. Cuộc gặp gỡ là duyên khởi cho bản kinh Thiện Sanh ra đời.
Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách kiến tạo một xã hội hài hòa, một cuộc sống đầy an lành và hạnh phúc.
Trong tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh. Bài viết chủ yếu trích từ ấn bản điện tử từ trang nhà Phatviet.com của TT.Tuệ Sỹ, tất cả các đoạn trích đều được đóng mở “.”, phần lễ bái sáu phương, hầu hết lấy nguyên văn trong kinh.
Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:
“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”
Thiện Sinh bạch Phật:
“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái.”
Phật bảo Thiện Sanh:
“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu.”
Thiện Sinh thưa:
“Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh.”
Phật bảo Thiện Sinh:
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”
Bốn nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người, cướp của… gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế gian.
Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si… loại tham dục này thì cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp… cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc..thì cần thực hành và phát huy.
Phật bảo Thiện Sinh:
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.
Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ…
“Người nào không làm ác,
Do tham, hận, sợ, si,
Thì danh dự càng thêm,
Như trăng hướng về rằm”.
Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ, khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá,cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai?
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.
Muốn tìm tri âm, thật khó thay!”
Trong cuộc sống ai cũng cần có bạn, tình bạn kiểu Bá Nha – Tử Kỳ thuộc dạng xưa nay hiếm, nhưng cũng cần phải lựa bạn tốt mà chơi, vì nếu “giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1, tìm cách lừa dối; 2, ưa chỗ thầm kín; 3, dụ dỗ vợ người; 4, mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người; 5, xoay tài lợi về mình; 6, ưa phanh phui lỗi người”. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
Phật bảo Thiện Sanh.
“Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.
[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.
(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.
(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt”.
(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”
“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.
1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.
(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]
Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.
Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ.
Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.
Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.
“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con
“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.
Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo
“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.
Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều.
Ngăn ngừa chớ để làm ác.
“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”
Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.
Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống,…vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “đường hai nẻo xuống lên”.
Đi một vòng qua các khu nhà, bạn có thể phát hiện ra rằng có rất nhiều nhà treo gương bát quái hoặc gương bát quái trên mi cửa chính . Mục đích của việc treo gương bát quái chính là nhằm mục đích hóa giải các khí xấu chiếu vào nhà hoặc hấp thụ khác luồng khí tốt ở xa nhà. Trong tình trạng hiện nay, đất cát khan hiếm, nhà nọ nối tiếp nhà kia xây san sát nhau, cửa chính nhà này đối diện cửa chính nhà kia hoặc cửa sổ đối diện nhau là hết sức phổ biến. Chắc hẳn nhiều người sẽ băn khoăn, không biết treo gương bát quái trên cửa có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện hay không?
Để hiểu được rõ vấn đề trên bạn đọc cần phải hiểu qua công dụng của Gương bát quái trong phong thủy. Gương bát quái được chia làm 3 loại, gương lồi, gương lõm và gương phẳng
1. Gương bát quái lồi:
Gương lồi có một đường cong hướng ra ngoài cạnh của nó, phản xạ và làm đổi hướng những sát khí có hại. Gương lồi giống như mai rùa, có hình cầu lồi lên, là 1 công cụ hóa giải sát khí. Có rất nhiều vật thể mang sát khí trong phong thủy như cột đèn, các vật thể có hình dáng nhọn sắc, con đường chạy thẳng vào nhà, nhà thờ, cột cờ, khoảng không gian giữa 2 tòa nhà cao, biển báo giao thông, ống khói…
Khi nhà ở bị các vật thể mang sát khí xung chiếu, gương lồi sẽ có tác dụng rất hữu hiệu. Nếu cửa chính hoặc cửa sổ bị các vật mang sát khí chiếu thẳng vào, có thể treo gương lồi trước cửa để hóa giải.
Các trường hợp dùng gương lồi:
- Nhà đối diện ngõ, ngã 3, bị con đường xuyên thẳng vào nhà
- Nhà đối diện cột đèn, cột điện, cây nhọn chĩa thẳng vào nhà
2. Gương bát quái lõm:
Gương lõm có tác dụng hấp thụ các khí tốt, tích tụ các nguồn năng lượng, nó cong lõm vào trong. Tác dụng của gương lõm lại trái ngược so với gương lồi: gương lồi dùng để “phân tán”, còn gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt.
Ví dụ, khi cửa chính đối diện cầu thang đi xuống, khí cát trong nhà sẽ thất tán. Lúc này nên treo 1 gương lõm trước cửa. Hoặc trong trường hợp từ cửa sổ có thể nhìn thấy 1 ngọn núi với hình dạng đẹp, thuộc loại núi Văn Xương (có lợi cho đường học vấn), nhưng lại cách nhà quá xa, hãy treo 1 tấm gương lõm trước cửa sổ để thu nạp khí tốt của núi.
Gương bát quái lõm dùng trong trường hợp
- Phía xa nhà có nguồn năng lượng tốt như 1 ngọn núi
- Tuổi của chủ nhà hợp với hướng của nhà, muốn hấp thụ nguồn khí tốt
- Trong nhà có cầu thang đối diện cửa, treo gương bát quái để tránh khí tốt bị tản ra
3. Gương bát quái phẳng:
Một gương phẳng được coi là trung lập. Đối với gương phẳng, nếu đặt trong nhà cũng có tác dụng thu hút, thâu tóm năng lượng tốt trong phong thủy. Nếu treo ngoài cửa chính hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng phản xạ.
Treo gương phẳng tại phương vị cát lợi sẽ có tác dụng thu hút khí tốt; đồng thời, khi treo gương phẳng tại phương vị bị xung sát lại có tác dụng ngăn cản, hóa giải khí xấu.
Sau khi đã hiểu rõ tác dụng của các loại gương bát quái, có thể khẳng định một điều, cho dù có bị gương bát quái chiếu thẳng vào nhà cũng không có gì đáng ngại. Bát quái là một ký hiệu của vũ trụ , chỉ có tác dụng hóa giải điềm dữ, hoặc thu hút khí tốt chứ không hề gây bất lợi. Về cơ bản, bản thân bát quái không gây sát khí. Thông thường bát quái được in trên chất liệu gỗ, thi thoảng còn đính kèm gương nhỏ ở chính giữa nên được gọi là gương bát quái .
Tuy nhiên, nếu trên gương bát quái lại kèm thêm chạc đinh ba hoặc tranh thần tướng cưỡi hổ, tay cầm vũ khí thì sự việc sẽ khác. Vì chạc đinh ba và vũ khí trên tay thần tướng đều là vật sắc nhọn, hổ trắng cũng mang sát khí, nếu đối diện với cửa nhà người khác cũng gây sát khí cho họ. Bởi vậy bạn không nên treo gương bát quái dạng này đối diện với nhà hàng xóm.
Nói chung, người Á Đông tuy là giống da vàng, nhưng trong thực tế, trong cái vàng tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc trắng ngà, sắc hung hung đỏ như mặt Quan Công, sắc hơi mét xanh như Đơn Hùng Tín, trong truyện cổ của người Trung Hoa.
Về vị trí quan sát, tuy nói tổng quát là làn da, nhưng trong tướng học khi nói đến sắc da, người ta chú ý nhất đến da mặt, chỗ sắc dễ thấy nhất, còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.
b ) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hoặc thân thể
Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :
-Màu hồng, màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay, của vành tai
-Màu đen hoặc hung hung của râu tóc, lông mày
-Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu ( ta thường gọi là đen của tròng đen )
-Màu đỏ của các tia màu mắt ….
c ) Sự đậm lạt của từng loại màu
Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt hay làn môi ta thấy có môi hồng lạt, hồng đậm, hồng phương trắng. Cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh, trắng ngà. Tóm lại, sự đậm lạt của màu cùng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.
d ) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần
Cùng một màu hồng của môi, của cặp má, nhưng ta thấy có người môi khô, có người môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô trông như vỏ cây hết nhựa.
Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hợp do nhiều màu đơn thuần hợp thành. Lãnh vực của chúng cũng đồng một khuôn khổ như các lãnh vực của các đơn sắc.
Sau hết, trên khuôn mặt của một cá nhân, dù màu đơn thuần hay mau phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác, hoặc về phẩm chất, về độ đệm lạt, về thành phần cấu tạo ( đối với các loại màu phức tạp ) qua thời gian. Chẳng màu da trắng của một người có thể sau một thời gian biến sang hồng hay xanh xám: tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ; cặp mắt trong xanh và là môi tươi thắm có thể vì một lý do bệnh nào đó mà biến thành cặp mắt trắng đã làn môi thâm sì.
Tóm lại, khi nói đến sắc trong tướng học là ta nói đến màu của các loại da, màu của các bộ vị, độ đậm lạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của màu trên con người từ khu vực này sang khu vực khác, từ thời gian này sang thời gian khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lãnh vực nói trên, đi từ tổng quát tới chi tiết, từ chỗ đơn thuần tới chỗ phức tạp. Đôi khi quan sát bằng thị giác chưa đủ, người ta còn phải vận dụng đến cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lãnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.
II - CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC
Nói đến sắc tức là nói đến màu, nhưng ở đây nặng nề về phần màu của da trên khuôn mặt. Tướng học Á đông phân ra bảy loại đơn sắc:
- màu đỏ - màu xanh - màu vàng - màu hồng - màu trắng - màu tía - màu đen
Ba màu Đỏ, Hồng, Tía được tướng học Ngũ hành hoá thành ra hỏa sắc là màu chính thức của ba tháng hè, là màu da căn bản của loại người hình Hoả trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng.
Màu xanh thuộc Mộc, là màu sắc chính của ba tháng mùa xuân màu da căn bản của loại người hình Mộc.
Màu trắng thuộc Kim là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu là màu da căn bản của người hình Kim.
Màu đen thuộc thuỷ là màu sắc thuộc về mùa đông là màu da chính cách của loại người hình Thủy.
Sau cùng, màu vàng thuộc thổ, là màu sắc tượng trưng an lan quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.
a ) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người
Theo sự kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy thông thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có một ý nghĩa riêng biệt như sau:
-Màu xanh chỉ về lo lắng, kính hiểm, tật ách, trở ngại, tiểu nhân, nhục nhã
-Màu đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng,tù ngục phá tà , tật bệnh, hung tai
-Màu đen chỉ thuỷ ách, hao phá, mất chức, chết chóc
-Màu trắng chỉ hình khắc, hiếu phục, tật bệnh
-Màu hồng ( và đôi khi màu Tía ) chỉ về các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi, may mắn ngoài ý liệu
-Màu vàng chỉ vui vẻ, tài lộc thăng tiến, bình an may mắn
Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ xa gần chằng chịt với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói “ vui buồn, may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc".
Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp, tuỳ thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hoặc khô hoặc nhuận. Khởi nguyên của khí ở Ngũ tạng, sắc bắt nguồn từ khí, ban ngày hiện ra ở ngoài. Cái dụng của sắc còn tùy theo thời gian, khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế cảu sắc có thịnh có suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, khí hậu và Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại sắc, sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác, hoặc do nội trạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hoặc do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ sắc tự nhiên thiên bẩm hặoc vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thực là sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện rõ rệt ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung quan sự gia vận.
Nói tóm lại, biết ý nghĩa đặc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng được ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó :
- Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc
- Tính cách thanh trọc của sắc
- Hư sắc hay thực sắc
-Bộ vị xuất hiện
-Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người ( Ngũ hành hình tướng )
-Phối hợp hay không phối hợp với màu sắc từng mùa
-Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt
-Đơn thuần hay tạp sắc …
Chẳng hạn màu đen, tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thủy trong ba tháng mùa đông mà đặc biệt lại ở Địa các, với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
Màu đỏ, tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu ởn gười hình Kim trong ba tháng hè, sắc tươi tắn không hỗn tạp. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu xanh hay vàng mà lại là thanh sắc thì tuy tai ương vẫn có nhưng mức độ nguy hại giảm thiếu tới tối đa, rốt cuộc không có gì đáng ngại. Từ đó, ta có thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.
b ) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc
Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.
Ngoài các yếu tố kể trên, ta còn phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc. Đó là :
1 - Hư sắc và thực sắc
Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp, chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí. Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí.
Trái lại, thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ảnh trung thực chất nhựa cây chu lưu ở dưới lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.
Trong tướng học chỉ có thực sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.
2 - Vương sắc, trệ sắc, hoại sắc
Bất cứ loại thực sắc nào dù đơn thuần hay phức hợp cũng đều có thể ở vào một trong ba trạng thái trên.
*Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa, phân phối đều khắp bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vượng sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.
*Trệ sắc : Màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc, nhưng phẩm chất xấu hặoc phân phối không đều đặn (hoặc lốm đốm, hoặc chỗ đậm chỗ nhạt).
Trong tướng học, nói đến vượng sắc cách và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hoặc các bộ vị chính yếu.
Như danh xưng của nó , trễ sắc chủ về các sự bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát
-Kim trệ : Da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là đềim báo trước vẽ sự cùng khốn, ngưng trệ về của cải.
Mộc trễ : Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về tật bệnh, tai họa .
Thuỷ trệ : Toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai tai mờ ảo như khói ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ về quan trung thị phi.
-Hỏa trệ : Mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc.
-Thổ trệ : Màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.
*Hoại sắc: Xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hoặc pha trộn nhiều màu sắc tương khắc.
1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán
(Trích Lược Tử Vi :Tuổi Mùi, năm nay số mệnh ra sao? 12 Con Giáp và những đặc tính)
![]() |
Cách tra Kiếp Sát là lấy chi ngày (hoặc chi năm sinh) làm cơ sở để tra các địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Kiếp Sát nhập mệnh.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Thân, Tý, Thìn thấy chi Tỵ
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Tỵ, Dậu, Sửu thấy chi Dần
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Hợi, Mão, Mùi thấy chi Thân
Ví dụ: Người sinh vào 22 giờ ngày 3/9/1982 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Đinh Hợi, ngày Ất Hợi, tháng Canh Tuất, năm Nhâm Tuất.
Theo trường hợp 1, chi năm Tuất (Nhâm Tuất) gặp chi Hợi của giờ (Đinh Hợi), do vậy tổ hợp này xuất hiện Kiếp Sát.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)
![]() |
Phan Huy Chú nổi tiếng với bộ Lịch triều hiến chương loại chí |
Cha ông là Phan Huy Ích, mẹ là Ngô Thị Thục - em gái Ngô Thì Nhậm.
Phan Huy Chú là danh nhân có tài, một nhà bác học về nhiều lĩnh vực: y học, sử học, thơ ca... Ông còn là tác giả của những cuốn sách nổi tiếng: Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục, Hoa trình ngâm lục...
Sự nghiệp sáng tác lớn nhất của Phan Huy Chú được đánh dấu với bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Ông đã bỏ ra 10 năm (1809-1819) để hoàn thành bộ sách này. Đây là một công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa đồ sộ, một kho bách khoa toàn thư của đất nước. G.P.Muraseva, nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam người Liên Xô đã đánh giá: "Lịch triều hiến chương loại chí xứng đáng là bộ bách khoa toàn thư mà không có công trình nào sánh nổi về bề rộng phạm vi các vấn đề sử học Việt Nam thời phong kiến".
Phan Huy Chú đã nêu cao tấm gương về tinh thần say mê nghiên cứu khoa học, cống hiến cho đất nước công trình nghiên cứu có giá trị to lớn. Ông xứng đáng là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc.
(Theo Anninhthudo)
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây gồm năm loại: Dừa, Đu đủ, Xoài, Sung, Mãng cầu. mổi quả có ý nghĩa riêng, thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi,
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Thông thường là trên bàn thờ tổ tiên hoặc trên bàn tiếp khách. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Mâm ngũ quả hiện nay đã thay đổi rất nhiều, mang ý nghĩa trang trí cho không gian xuân nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh.
Gọi ngũ quả, tức là năm loại quả. Cách trang trí mâm ngũ quả ở hai miền Nam Bắc cũng khác nhau. Trong Nam, mâm ngũ quả gồm năm loại: Dừa, Đu đủ, Xoài, Sung, Mãng cầu hoặc chùm trái Mây. Ngoài Bắc mâm ngũ quả thường có: Chuối, Bưởi, Cam, Quýt, Phật thủ hoặc Hồng Xiêm.
Ngày nay, do du nhập một số lọai quả của nước ngoài như: Lê, Táo , Nho…nên mâm ngũ quả không còn là năm loại quả như trước đây nữa. Người ta bày thêm vào đó có khi lên tới bảy, tám loại quả, cốt cho mâm ngũ quả to, đẹp, trang trọng hơn, nhưng vẫn mang ý nghĩa tâm linh.
Đây là việc làm thể hiện tấm lòng thành kính của con cháu đối với Tổ tiên, ông bà và những người đã khuất. Mâm ngũ quả cùng với bánh chưng hoặc bánh tét là lễ vật để thờ cúng ông bà, Tổ tiên trong mấy ngày tết. Cầu nguyện ông bà, Tổ tiên phù hộ cho con cháu bước sang năm mới mọi sự tốt lành, an khang, thịnh vượng.
Từng loại trái cây mang ý nghĩa riêng: Mãng cầu là cầu chúc, Đu đủ là đầy đủ, Dừa là vừa hoặc thừa thãi, Xoài là Sài (ăn uống). Sung là sung sướng (tinh thần sống vui vẻ, hạnh phúc).
Trên bàn thờ ngày tết có mâm ngũ quả còn tăng thêm vẻ đẹp, trang trọng vào dịp đầu năm mới.
Ngoài ý nghĩa trên, mâm ngũ quả còn có giá trị là những vị thuốc quý.
Quả Dừa:
Mới dùng trong phạm vi dân gian như: dùng nước trái dừa non uống cho đỡ khát, vì nước dừa có tính mát, tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu; gáo dừa đốt thành than uống trị ngộ độc thực phẩm. Dừa còn dùng trong công nghiệp chế biến xà phòng, là chất gây bọt và tẩy mạnh.
Đu Đủ:
80% là nước, còn lại là chất đường và một số chất béo. Đu đủ chín được coi là món ăn bổ dưỡng sức khỏe, chữa bệnh táo bón, giúp tiêu hóa thức ăn (đặc biệt là tiêu chất thịt và trứng).
Xoài:
Là một lọai trái cây ăn rất ngon, có hương vị đặc trưng riêng, thành phần chủ yếu là chất bột, đường, vitamin C. Trong đông y dùng trị các trường hợp chảy máu cam: ho ra máu, chảy máu dạ con, đường ruột; dùng vỏ hoặc quả xoài nấu thành cao lỏng cho uống, vỏ thân giã nhỏ xào với ruợu đắp vào chỗ xương đau trị thấp khớp đau nhức; vỏ xoài nhai ngậm chữa đau răng; nhựa xoài kết hợp với bồ kết chữa ghẻ. Gần đây còn điều chế từ lá xoài họat chất trị heeps sinh dục rất hiệu nghiệm.
Quả Sung:
Quả chín ăn ngọt, có mùi thơm riêng, trẻ em rất thích. Trong dân gian dùng nhựa bôi lên mụn nhọt, làm mụn nhọt chóng tiêu tan. Trong bài thuốc cao dán mụn, thành phần nhựa Sung là chính. Dùng nhựa Sung đắp lên vết thương, vết thương mau tan máu bầm, máu tụ. Chị em phụ nữ bị sưng tuyến vú hoặc tắc tia sữa, bôi nhựa Sung có kết quả tốt.
Nhựa sung phết giấy bản đắp hai huyệt Thái dương và Ấn đường làm giảm đau đầu. Nhựa Sung + mật ong hòa nước uống trước khi ngủ làm nhẹ cơn hen suyễn.
Quả Na (mãng cầu): Chứa các chất đường và dinh dưỡng. Quả Na chín ăn rất ngọt, ngon, bổ, tính lành. Trong dân gian đã có câu: “Thứ nhất quả Na, thứ nhì quả Nhãn, thứ ba quả Hồng”.
Lá Na là vị thuốc chữa sốt rét. Quả Na ké (chết khô trên cây) dùng chữa nứt kẽ vú rất hiệu nghiệm: thái nhỏ, sao vàng, tán bột trộn dầu mù u đắp lên vú mau lành. Hạt Na có độc, trong dân gian dùng diệt chấy, rận bằng cách giã dập nấu nước gội đầu, chấy rận sẽ chết.
Ý nghĩa khác của Mâm Ngũ Quả:
Ngũ
Ngũ (五) (năm) là biểu tượng chung của sự sống, Ngũ quả chỉ sự tập trung đầy đủ các loại trái cây trong đất trời dùng thờ cúng. Thêm vào đó cư dân vùng nông nghiệp, Ngũ cốc được coi trọng nhiều hơn Ngũ quả.
Trong sách Chiêm thư, người ta thường nhìn Ngũ Quả để dự đoán được/mất của các mùa vụ lương thực trong năm. Lâu dần, sự xác tín biến thành tập tục, “ngũ quả” có thể tượng trưng cho sự cầu thị được mùa của người nông dân.
Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi.
Quả
Một mâm Ngũ quả ngày Tết ở miền Bắc Việt Nam, gồm cam, quất, bưởi, chuối và dứa.
Quả biểu tượng cho sự sung túc qua cấu tạo của nó: bên trong chứa hạt tượng trưng cho sao, quả bao lấy là Vũ trụ, ý nghĩa là sự sinh sôi trường tồn tái sinh bất tận của sự sống[14]. Mỗi loại quả có ý nghĩa riêng qua hình dáng/cầu tạo/hương vị, màu sắc và cách đọc tên[11]:
Màu sắc
Màu sắc của mâm thường hay tuân theo ngũ hành.Các loại quả dùng thường mang các sắc màu theo quan niệm là có tính may mắn: Đỏ (may mắn phú quý), Vàng (sung túc), …
Hình dáng, cấu tạo, hương vị:
Thường là cách hình dáng/cấu tạo có tính chất gợi tả điều tốt lành. Ví dụ: Lựu: có nhiều hạt, tượng trưng cho con cháu đầy đàn, Bưởi và dưa hấu: căng tròn, mát lạnh trong ruột, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn trong cuộc sống. Hương vị trái cây thường phải ngọt, thơm và không đắng, cay.
Ý nghĩa của một vài loại hoa quả thường được bày trên mâm ngũ quả:
– Lê (hay mật phụ), ngọt thanh ngụ ý việc gì cũng trơn tru, suôn sẻ
– Lựu, nhiều hạt, tượng trưng cho con đàn cháu đống
– Đào thể hiện sự thăng tiến
– Mai, do điển phiếu mai, con gái phải có chồng, hạnh phúc, không cô đơn
– Phật thủ giống như bàn tay của Phật, chở che cho con người
– Táo (loại trái to màu đỏ tươi) có nghĩa là phú quý
– Hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt
– Thanh long – ý rồng mây gặp hội
– Bưởi, dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn
– Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy nắng sương đọng thành quả ngọt và che chở, bảo bọc
– Quả trứng gà có hình trái đào tiên – lộc trời
– Dừa có âm tương tự như là “vừa,” có nghĩa là không thiếu
– Sung gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe hay tiền bạc
– Đu đủ mang đến sự đầy đủ thịnh vượng
– Xoài có âm na ná như là “xài”, để cầu mong cho tiêu xài không thiếu thốn./.
Họ cho rằng cầu thang chỉ là lối đi lại. Thực ra cầu thang vừa là nơi tiếp khí, chuyển khí trong nhà, mà cũng là nơi rất dễ xảy ra tai nạn. Vị trí tốt nhất cho cầu thang chính là bám sát tường.
Chẳng may cầu thang lại đối diện với cửa chính thì để tránh khi mở cửa làm nhân khí và tài khí thất thoát ra ngoài, phải treo một chiếc gương cầu lồi ở bậc thang và chỗ đối diện với cửa chính, để khí có thể phản xạ vào trong nhà, tất nhiên đây chỉ là cách cứu vãn.
Cầu thang là nơi mà khí lưu động rất nhanh, khí có thể lưu động từ tầng một lên các tầng khác, khi mọi người lên xuống cầu thang sẽ làm nhiễu loạn luồng khí mà hình thành thế đối xung. Luồng khí kỵ nhất là đi thẳng, vì vậy cầu thang nên thiết kế thoai thoải, còn về hình dáng nên làm câu thang theo kiểu xoắn chôn ốc hoặc đoạn giữa có chỗ ngoặt. Ngoài ra, nên làm bậc cầu thang bằng gỗ, như vậy có thể giảm nhẹ sự lưu động theo đường thẳng của luồng khí.
Khi thiết kế cầu thang cần chú ý hướng cầu thang theo phong thủy, cầu thang
không nên đối diện với cửa chính.
Cầu thang tránh đặt giữa nhà. Nhiều nhà thiết kế không quan tâm đến sự khác biệt giữa nhà ở và văn phòng nên đã thiết kế cầu thang ở giữa nhà. cầu thang đi qua vị trí chính giữa ngôi nhà, tức chia ngôi nhà thành hai nửa không gian, điều này sẽ làm cho trong nhà hay xảy ra tranh cãi, vợ chồng bất hoà, thậm chí phải ly tán, trong phong thuỷ cho rằng đây là tướng hung.
Cầu thang trong nhà ở thường có ba loại: thứ nhất là đoạn giữa có chỗ ngoặt (có chiếu nghỉ), thứ hai là câu thang hình xoắn chôn ốc, thứ ba là cầu thang nghiêng. Dù cầu thang được thiết kế theo kiểu nào thì chân cầu thang cũng không nên đặt ở giữa nhà, và ban công ở cuối cầu thang cũng không nên nằm ở giữa nhà.
Khoảng không dưới gầm cầu thang không nên làm phòng ăn, nhà bếp, phòng ngủ, mà chỉ có thể làm nhà kho. Có nhà để tiết kiệm không gian đã làm cầu thang rất dốc, điều này không chỉ là điều kỵ trong phong thuỷ, mà cũng không phù hợp với yêu cầu về độ an toàn. Đồng thời, cố gắng không làm bậc cầu thang bằng đá hoặc kim loại, nguyên nhân cũng như trên.
(Theo Phong thủy trong gia đình)
Chùa Nhất Trụ có kiến trúc độc đáo, trong chùa có cột kinh phật như hiện vật độc bản có ý nghĩa lịch sử văn hóa to lớn, đây còn là tài liệu nghiên cứu khảo cổ quan trọng xứng đáng là bảo vật quốc gia để bảo tồn và phát huy hết giá trị. Chùa Nhất Trụ nằm ở Khu di tích cố đô Hoa Lư,huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Chùa do Sư thầy Thích Đàm An trụ trì.
Chùa Nhất Trụ hay thường gọi là Chùa Một Cột là ngôi chùa cổ từ thế kỷ X thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Trong chùa còn giữ nhiều cổ vật gắn với lịch sử hình thành kinh đô Hoa Lư, nổi bật nhất là cây cột kinh bằng đá trước sân chùa, nó đang được các nhà nghiên cứu lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới.
Chùa tọa lạc trên khoảng đất rộng hơn 3000m2. Chùa được xây dựng năm 995, vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 4m, tiết diện hình bát giác.
Trên tám mặt của thân bát giác có khắc đầy chữ hán, ước khoảng 2.500 chữ, nhiều chữ đã bị mờ khiến cho văn tự không đọc được nguyên vẹn, số chữ có thể đọc được hoặc nhận dạng là 1.200 chữ. Do ảnh hưởng của thời tiết, môi trường tác động mà hiện tại số lượng chữ có thể đọc được là rất hạn chế. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” (“Hoàng đế Thăng Bình” tức vua Lê Hoàn).
Chùa Nhất Trụ nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng vững với thời gian.
Thạch kinh trong chùa Nhất Trụ là một minh chứng sinh động cho nền nghệ thuật điêu khắc đá Việt Nam. Năm 973, Nam Việt Vương Đinh Liễn, con trai vua Đinh Tiên Hoàng đã cho dựng ở Hoa Lư 100 cột kinh Phật bằng đá, khắc kinh Đà la ni. Kinh tràng Hoa Lư là biểu tượng của Pháp trong Tam Bảo nhà Phật (gồm: Phật, Pháp, Tăng). Sau nhà Đinh, vua Lê Hoàn cho dựng thạch kinh ở chùa Nhất Trụ. Từ đây về sau nhân dân Việt Nam có truyền thống dựng Thạch Kinh trước điện thờ Phật.
Qua nhiều lần trùng tu, đến nay chùa Nhất Trụ có một không gian nghệ thuật độc đáo mang lối kiến trúc riêng Về kiến trúc gỗ, chùa Nhất Trụ mang phong cách, dáng dấp thời Nguyễn, nhất là nghệ thuật chạm khắc gỗ.
Trong chùa thờ Mẫu, Thánh Hiền, Đức Ông, và 3 pho tượng Tam Thế, tượng A Di Đà…
Hàng năm, vào ngày 15 tháng Giêng, tại chùa thường diễn ra lễ khao tống thuyền rồng, đây là lễ cúng Phật cầu nguyện cho quốc thái dân an. Ngày 8/4 (âm lịch) có lễ lập hạ tại chùa, cầu thời tiết thuận hoà, mùa màng tốt tươi.
Chùa Nhất Trụ không chỉ là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần, tham quan tín ngưỡng của du khách thập phương mà còn là bộ phận không thể tách rời trong cụm di tích Cố đô Hoa Lư. Với những giá trị trường tồn, chùa đã được công nhận là di tích cấp Nhà nước. Đây là cơ sở pháp lí nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của di tích. Cầu Danh hãy đễn với chùa Nhất Trụ!
Đối với các nước khác châu Á, đại từ nhân xưng có 3 ngôi: Người nói, người nghe và người, vật, sự việc được đề cập đến trong câu nói. Chỉ có sáu từ cơ bản nếu dịch mộc mạc ra tiếng Việt là: tao, mày, nó, chúng nó, chúng tao, chúng mày.
Ví dụ: "Bố mẹ cháu bảo cháu đưa ba cháu sang thăm hai cụ". Câu này nếu dịch từ đối ra tiếng nước ngoài thì như sau: "Chúng nó bảo tao đưa nó sang gặp chúng mày".
ở Việt Nam ta đã quen từ nhỏ, đáng tuổi ông thì gọi là ông, đáng tuổi bác thì gọi là bác không đươc "mày tao chí tớ", "cá mè một lứa". Chúng ta nên thông cảm với người nước ngoài học tiếng Việt. Đại từ nhân xưng tiếng Việt rất đa dạng phong phú nhưng cũng rất phúc tạp, điều khó khăn phức tạp nhất là, ngay trong đại từ nhân xưng của ta đã mang sắc thái tình cảm, thể hiện sự yêu thương tức giận, kính trọng, khinh ghét, khách sáo, thân mật...
Trong cách xưng hô của ta có phân biệt tôn ti trật tự rõ ràng. Cháu bé hỏi rằng: Tại sao ông bảo cháu thưa bẩm, thế mà cháu gọi ông ông lại không thưa bẩm cháu. Cháu cũng không hiểu sao cha mẹ gọi con thì gọi thằng Giáp con ất được còn con gọi tên cha mẹ thì không được. Tại sao ông chú già rồi lại còn gọi là "ông trẻ".
Cách dùng từ để xưng hô của ta còn tuỳ thuộc vào mức độ thân sơ giữa người nói và người nghe. Ví dụ, thật thân tình bạn bè gọi nhau bằng mày tao, hắn thì quí; gọi nhau bằng thưa quí anh hoặc bằng ông thì coi như giễu cợt kích bác nhau. Ngược lại, mới quen biết sơ sơ mà mày tao thì coi như bất lịch sự, đôi khi nghe bực mình bỏ đi không thèm trả lời. Cụ già và Lão già đồng nghĩa nhưng khi nói "Tôi hỏi cụ già" thì rất khác "Tôi hỏi lão già". Cũng có trường hợp "lão" chưa hẳn đã già, mà là cách gọi thân mật.
Nếu có quan hệ họ nội, họ ngoại thì gọi theo quan hệ thân thuộc gắn bó tình thân thiết hơn; mặc dầu ít tuổi hơn mình nhưng ngang hàng cha mẹ mình thì gọi bằng chú, bác, cô, dì theo đúng vai vế trong họ. Ngược lại, đối với người đã lớn tuổi mặc dầu là bậc cháu nhưng để cho khỏi "chướng" nên gọi bằng anh, ông, bác ông... Coi như gọi thay con, cháu mình, như vậy thanh nhã và lịch sự hơn.
Thuần tuý quan hệ xã hội, không có quan hệ họ hàng nhưng theo phép xã giao "trưởng nhất tuế vi huynh, trưởng thập tuế vi phụ" (hơn một tuổi làm anh, hơn mười tuổi làm cha), tức là tôn lên ngang bằng với cha mà gọi chú, bác. Đây là phép tôn xưng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
1. Móng tay to |
2. Móng tay nhỏ |
Mộc Trà (theo Ave)
Tên sao | Âm dương - ngũ hành | Hóa | Chưởng quản | Chủ | Khảo bị |
Hóa lộc | Âm thổ | Tài lộc | Phúc đức | Tài lộc, thọ, duyên phận | Mở rộng là sức lưu thông, hiển lộ là tài |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Hóa Lộc là âm thổ, hóa khí là tài lộc, chưởng quản phúc đức, chủ về tài lộc, lại còn chủ về duyên phận, Hóa Lộc còn có hàm nghĩa mở rộng sức lưu thông, hiển lộ làm tiền tài, có thể cụ thể hóa tài phú.
Các tài tinh chính như Vũ Khúc, Thái Âm, Lộc Tồn, Thiên Phủ cùng với các tài tinh thứ như Liêm Trinh, Thiên Tướng, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Cô Thần mà không gặp Hóa Kỵ thì có lợi mà không có hại đối với tiền tài. Khi gặp Hóa Lộc thì tiền tài sẽ liên tục không dứt, hơn nữa còn dễ kiếm được tiền. Nhưng các tài tinh thứ mà gặp Hóa Kị (đồng cung hoặc ở đối cung tương xung), chủ về một đời tiền của lúc có lúc không, lên xuống thất thường, các mối quan hệ giao tế không tốt, phiền não vất vả. Cần phải xem trạng thái cát hung của các sao đồng cung và các cung vị tam phương tứ chính mới có thể đoán định được việc kiếm tiền có dễ dàng hay không. Tài tinh Hóa Lộc không gặp Hóa Kị, Địa Không, Địa Kiếp, lại nhập cung mệnh, thân, tài, quan, điền trạch thì nguồn tiền cực thịnh vượng. Tài tinh Hóa Lộc nhập các cung tử tức, phụ mẫu, tật ách, nô bộc, huynh đệ, chủ về hưởng thụ, hơn nữa còn có hiện tượng đào hoa.
Sao Hóa Lộc nhập miếu tại hai cung Dần, Thân đắc địa tại cung Tị, Hợi; không đắc địa tại bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; lạc hãm tại bốn cung Tị, Hợi, Mão, Dậu.
Sao Hóa Lộc sợ vào bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tuy hóa cát cũng không có tác dụng gì lớn, nhưng bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cũng là bốn cái kho, nên tiền tài có được sẽ giữ được. Hóa lộc vào bốn cung hãm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, cho dù cung mệnh đóng tại Thân, Tài, Quan, Điền, cũng không thể phát được. Sao Hóa Lộc rất sợ gặp sao Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kị xung phá, là biến thành điềm hung, nên đề phòng cảnh khó khăn không đủ chi.
Sao Hóa Lộc thủ tại các cung Mệnh, Thân, Quan Lộc, tại bốn cung Mã Dần, Thân, Tị, Hợi lại gặp lại gặp hai sao hóa là Hóa Khoa và Hóa Quyền (nếu ba sao hóa cùng ở cung mệnh thì sức mạnh mẽ sẽ kém hơn ở các cung tam vị hợp hội chiếu, nhưng vận thuở nhỏ khá thuận lợi), nếu không bị sát tinh xung phá, thì vận làm quan rất tốt.
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Từ nhiều thế kỷ, Tết cổ truyền ( Tết âm lịch) của người Việt luôn là thời điểm nở rộ của những trò chơi dân gian vô cùng phong phú, mang bản sắc riêng, phong tục riêng của từng địa phương. So với những dịp khác, trò chơi dân gian ngày Tết có phần đặc biệt hơn với bầu không khí cực kỳ sôi động, rạo rực tinh thần đua tranh và đầy ắp tiếng cười. Dưới đây là một số trò chơi dân gian đem lại tiềng cười sảng khoái ngày Tết:
1. Chơi đáo
Là trò chơi dân gian ngày Tết rất phổ biến ở khắp các vùng quê xưa. Thú vui đánh đáo không chỉ hấp dẫn trẻ em mà cả đối với người lớn bởi nó thể hiện sự khéo léo của người chơi và lại còn có tâm lý ăn thua kích thích dù chỉ là rất ít.
Ngày Tết, trẻ em được người lớn mừng tuổi một ít tiền và cũng được phép tiêu tiền nên dùng nó vào các trò chơi như đánh đáo rất hấp dẫn.
Trò chơi rất đơn giản trên một bãi đất bằng phẳng. Tùy theo quy định của người chơi mà khoét lỗ. Dễ thì khoét lỗ to, khó thì khoét lỗ nhỏ. Ngoài lỗ đáo là vạch quy định để từ đó người chơi đứng ném tiền xu về phía lỗ đáo. Vạch này xa hay gần lỗ đáo cũng do những người chơi tự quy định, càng xa thì càng khó. Đồng xu nào trúng vào lỗ thì người ấy được ăn. Cứ như vậy, lần lượt tới người tiếp theo, đến khi nào không còn xu nữa thì hết ván...
2. Đi cà kheo
Đi cà kheo là một trò chơi đòi hỏi người chơi phải lấy được thế cân bằng, có bước đi chính xác, sức khoẻ tốt kết hợp nhịp nhàng cả chân lẫn tay. Để làm chủ được đôi cà kheo đòi hỏi một khoảng thời gian tập luyện, dài hay ngắn trùy theo sự khéo léo của mỗi người.
Các cuộc thi cà kheo tại các vùng quê vào dịp Tết thường tạo được tiếng cười sảng khoái cho người theo dõi bởi sự hấp dẫn, bất ngờ của trò chơi. Sau khi chọn được người thắng cuộc, đội cà kheo cùng các cổ động viên của làng sẽ sang làng khác để thi tiếp.
3. Đấu vật
Đấu vật là một trò chơi thượng võ, cũng là một môn thể thao rất nổi tiếng vào các dịp Tết, dịp Hội. ở Việt Nam ngoài đấu vật ngày Tết còn có nhiều hội vật Làng Sình, Liễu Đôi, Hà Nam, Mai Động... Xưa ở vùng Bắc Ninh, Phú Thọ có những lò vật và những đô vật nổi tiếng cả một vùng. Để khuyến khích tài năng cũng như sự rèn luyện của trai tráng, nhiều làng xã đã treo giải vật rất cao trong 3 ngày tết. Tục xưa người ta trao giải bằng tiền, bằng mâm đồng, nồi đồng hay một số thứ khác.
Quy định chung của cuộc đấu là người chiến thắng phải vật cho đối phương thua trắng bụng (ngã ngửa ra đất) hay nhấc bổng được đối phương lên. Trong môn vật này không chỉ đòi hỏi sức khỏe mà sự mưu trí và nhanh nhẹn đóng góp phần đáng kể. Về kỹ thuật cũng có những "miếng" riêng của nó như đệm, bốc, ghì... mà tùy theo từng hoàn cảnh và điều kiện đô vật phải biết lợi dụng triệt để các thời cơ quật ngã hay bê bổng đối phương.
4. Kéo co
Là một trò chơi dân gian ngày Tết thu hút được rất nhiều người cùng tham gia, vừa có tác dụng rèn luyện sức khỏe, lại vừa vui vẻ, thoải mái. Nó đã trở thành trò chơi tập thể, phong tục phổ biến ở nhiều nơi trong nước ta. Cách chơi đơn giản, số người chơi bao nhiêu tùy ý, chia làm 2 phe bằng nhau, làm mốc đánh dấu vạch vôi để bên nào kéo được đối phương sang qua vạch mốc bên kia là bên đó thắng.
5. Chơi cờ tướng - cờ người
Đây là thú chơi tao nhã, trí tuệ nhân những lúc trà dư tửu hậu. Các cụ thường gặp nhau bên chén trà và mở bàn cờ tướng ra giải trí. 32 quân cờ chia thành 2 phe (16 quân đỏ và 16 quân đen), bày xong là cuộc đấu trí bắt đầu.
Cờ người cũng là cờ tướng mà quân cờ là người thật, cũng chơi trên sân bãi, 16 nam áo đỏ, 16 nữ mặc áo đen đeo biển (tên quân cờ) trước ngực, đứng vào vị trí. Hai tướng (Tướng Ông, Tướng Bà) mặc đẹp (như cờ tướng) có 2 cờ đuôi nheo cắm chéo sau lưng, được che lọng. Gặp buổi trời nắng, thì mỗi quân cờ được một người che ô, đứng bên và đi theo mỗi lần quân chuyển. Hai đối thủ ngồi phía sau. Có người chạy cờ, lo việc chuyển quân theo ý định của người chơi.
Mỗi lần đi một nước, đấu thủ (có tiếng trống khẩu) gõ một tiếng. Người chạy cờ tới nghe lệnh và chuyển quân trên bãi. Nguyên tắc đi quân là mã nhật, tượng điền, xe liền, pháo cách. Vào cuộc chơi phải bình tĩnh, thận trọng, chủ động không bị phân tán bởi những người xem mách nước. Đi một nước phải tính trước 2, 3 nước tiếp theo để khỏi bị bất ngờ trước đối thủ của mình. Cờ tướng, cờ bỏi cờ người thường thấy trong các ngày hội, ngày Tết, mừng xuân mới.
6. Đánh phết
Đánh phết là trò thi đấu chơi vào ngày hội xuân ở đồng bằng Bắc Bộ. Sân chơi là sân đình, hai đầu sân (theo hướng đông - tây) có vòng tròn vạch vôi hay đào lỗ làm mục tiêu. Người đánh phết chia làm hai phe dùng gậy tre để cả gốc dài 1m đánh vào quả phết (làm bằng gỗ tròn sơn đỏ, tượng trưng cho Mặt Trời), hễ quả chuyển vào vòng tròn (hay lỗ) của đối phương là thắng cuộc.
Có người cho rằng trò đánh phết có nguồn gốc từ tục thờ Mặt Trời (quả phết chuyển động từ đông sang tây và ngược lại). Dân gian còn gắn trò chơi này với sự tích Hai Bà Trưng luyện tập binh sĩ. Các cuộc thi đấu phết đều thu hút đông đảo người xem, mọi người cùng hò reo khích lệ trong không khí ồn ào sôi động. Cũng bởi vậy mà có câu khẩu ngữ “Vui ra phết”.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
7. Đập niêu đất
Đập niêu đất cũng là trò chơi dân gian ngày Tết khá phổ biến ở nhiều làng quê miền Bắc. Trò chơi thường diễn ra ở sân đình hay trên sân rộng. Trước khi chơi, người ta trồng ở giữa sân hai chiếc cột cách nhau 5m, buộc dây thừng nối 2 thân cột làm giá treo niêu. Một vạch mốc cách giá treo niêu khoảng 3 đến 5m được kẻ làm điểm xuất phát.
Trước khi chơi, trọng tài sẽ trao cho người chơi một chiếc gậy dài khoảng 50cm, những người tham gia chơi đứng dưới vạch mốc và bị bịt mắt nên họ phải định hình hướng đi và ước lượng khoảng cách treo niêu để đập cho trúng một trong những chiếc niêu đang treo trên dây. Người đập trúng niêu sẽ có được phần thưởng ghi trong mảnh giấy nhỏ trong chiếc niêu bị đập vỡ…
Những trò chơi dan giân này có giá trị văn hóa và tinh thần rất lớn. Nhưng do cuộc sống hiện nay có nhiều đổi khác, nên 1 số trò chơi đac không còn giữ được như xưa hoặc đã 1 phần bị đổi khác.
8. Bắt trạch trong chum
Với trò chơi bắt trạch trong chum, người ta đặt sẵn 5-7 chiếc chum thành một hàng ở sân đình, mỗi chum được đổ 2/3 nước và thả vào đó một con trạch. Khi trò chơi bắt đầu, từng đôi trai đến bên mỗi chiếc chum, mỗi người phải đưa một tay ra ôm nhau, còn tay kia thò vào chum bắt trạch. Cứ như vậy, cả hai choàng tay cho đến khi bắt được trạch. Trạch trơn nên luôn luôn chạy thoát, thành ra đôi trai gái chỉ bắt được tay nhau. Dân làng đứng xung quanh reo hò cổ vũ và trêu đùa các đôi, nhắc nhở đôi nào mải bắt trạch mà quên ôm nhau. Tiếng cười nói, tiếng chiêng trống náo động. Khi bắt được trạch, cả hai cùng giơ cao tay lên để mọi người xem đồng thời tiến lên lĩnh thưởng.
9. Bịt mắt bắt vịt
Ngày Tết hầu hết các làng Việt xưa đều có các trò vui để dân làng cùng chơi lấy may, lấy phước. Trò bịt mắt bắt vịt là trò chơi khá phổ biến. Người chơi và người xem tập trung tại một bãi đất rộng quây thành một vòng tròn. Ai muốn tham gia bắt vịt thì đăng ký với ban tổ chức. Người ta chọn những con vịt to, khỏe để chúng có thể chạy và bay nhanh. Hai người chơi bị bịt chặt mắt và đưa vào vòng tròn. Người ta thả vào vòng tròn một con vịt. Con vịt sợ hãi kêu và bay, chạy loạn xạ. Người bắt vịt cứ theo tiếng vịt kêu mà chạy theo bắt. Khi con vịt bị bắt thì cuộc chơi kết thúc. Hai người khác lại tiếp tục vào chơi tiếp.
10. Đi cầu kiều
Đi cầu kiều là một trò chơi rất đơn giản mà không kém phần thú vị. Người ta lựa chọn một bờ đất cao trên một hố đất rộng, bắc một đoạn tre làm cầu. Đoạn tre ấy một đầu nằm ghếch trên bờ đất, đầu kia buộc vào sợi thừng hay chão, dây buộc vào chiếc cột chôn vững chắc. Làm sao để chiếc cầu đung đưa khó đi. Giải thưởng được treo trên cột, đến lượt ai, người đó leo cầu lấy thưởng. Có người mới leo được vài bước thì đã ngã. Có người ra tới mút đầu cầu lấy được thăng bằng nhưng khi với tay lấy giải thưởng thì loạng choạng lăn tùm xuống ao. Cuộc chơi càng hấp dẫn và kích thích sự hiếu thắng của mọi người.
>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Hỏi: Ngón trỏ của bạn giống hình nào dưới đây nhất?
![]() |
![]() |
![]() |
Dung Nguyen (theo Higherperspective)
![]() |
No1: Chàng trai tuổi Thìn
Những anh chàng cầm tinh con Rồng có tinh thần trách nhiệm cao với bất kỳ chuyện gì do họ khởi xướng. Không những vậy, họ còn sở hữu tài vận sáng lạn, tính cách ôn hòa, điềm tĩnh, làm việc gì cũng quang minh lỗi lạc nên được nhiều người tin tưởng và giao phó trọng trách lớn.
Trong tình yêu, người tuổi Thìn chân thành và chu đáo nên dành được tình cảm nồng thắm và sự tin tưởng tuyệt đối của đối phương. Sau khi kết hôn, họ sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn cho người mình yêu thương.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
No.1 Tuổi Thìn | No.1 Tuổi Sửu | No.1 Tuổi Hợi | No.4 Tuổi Mùi |
Mr.Bull
khác gọi là dương trạch. Phong thuỷ ảnh hưởng đến môi trường nơi ở chủ yếu biểu hiện trên 3 mặt sau: Thứ nhất là chọn đất cho nhà, tức là nhu cầu một điều kiện địa hình có thể thoả mãn về sinh lý và tâm lý; thứ hai là việc xử lý hình thái sắp xếp nơi ở, bao gồm các nhân tố: lợi dụng và cải tạo môi trường tự nhiên, hướng, vị trí, kích thước, độ cao thấp, cửa cổng, đường đi, cấp nước, thoát nước v.v… thứ ba là trên cơ sở thêm vào một phù hiệu gì đó để thoả mãn nhu cầu về tâm lý tránh hung gặp cát.
Cốt lõi của phong thuỷ còn là khảo sát thăm dò chọn đất xây dựng nhà, tức là khảo sát về mối quan hệ hài hoà giữa hướng, bố cục với tự nhiên, mệnh vận của con người. Nó đưa mệnh đề triết học của người Trung Quốc xưa “Trời đất và con người hợp thành một” vào với các kiến trúc, sức chú ý của nó không đặt hạn chế ở một môi trường nào đó, mà là chú ý đến sự cảm ứng của con người đối với môi trường, và hướng dẫn cho con người tiếp nhận những cảm ứng này như thế nào để giải quyết từ việc chọn địa điểm đến việc xây dựng nhà. Ở đây, việc chọn vị trí, san lấp mặt bằng và bố trí không gian, phải tuân theo một “bản vẽ” và “trật tự” nào đó – trật tự của “trời”, trật tự của “đất”, trật tự của “cơ thể con người”. Như vậy con người mới có thể hoà cùng với nhà ở và toàn bộ môi trường tự nhiên làm một, từ đó có được sự cân bằng về tâm lý. Điều gọi là “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà” là cũng từ nó mà kiến trúc có được một sức sống mạnh mẽ.
Có học giả cho biết, hạt nhân của thuật phong thủy thể hiện tinh hoa lý luận kiến trúc cổ đại Trung Quốc. Thuật phong thuỷ trên thực tế là lý luận thiết kế quy hoạch kiến trúc cổ đại có tính tổng hợp và thống nhất rất mạnh các nhân tố bao gồm địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, mỹ học.
Thuật phong thuỷ cũng như những thuật toán khác đều có cội nguồn từ xa xưa, trải qua những năm tháng dài lâu dần dần hình thành nên hai loại lớn đó là lý pháp và hình pháp. Mà trong hai loại pháp này mỗi loại đều có nguồn gốc của nó. Giữa chúng khó có thể tách rời mà luôn có những liên hệ cơ địa, bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
Hàng ngàn năm nay, thuật phong thuỷ đã được truyền bá rộng khắp nơi mà không hề suy, vẫn luôn giữ được sức sống mạnh mẽ. Được như vậy bởi nó có thể cho chúng ta biết được trời đất con người luôn hoà làm một, con người sống trong trời đất phải làm thế nào để chọn được môi trường sống tốt nhất. Một kiến trúc đẹp nhất là kiến trúc mà mọi vấn đề nhà ở, sinh hoạt, công tác, học tập của con người đều vì trời, vì đất và vì con người, làm cho người ta luôn gặp được chuyện tốt lành tránh được điều xấu ác, tạo điều kiện cho thế hệ sau có môi trường sống, làm việc, học tập giao tiếp tốt hơn.
Hóa kỵ (Thủy)
***
1. Ý nghĩa cơ thể:
2. Ý nghĩa bệnh lý:
3. Ý nghĩa tính tình:
4. Ý nghĩa của hóa kỵ và một số sao khác:
a. Những cách tốt:
- Kỵ ở Tý Hợi có Khoa hội chiếu: người khôn ngoan, cẩn thận từ lời nói đến việc làm, được nhiều người kính trọng.
- Kỵ ở Tý có Khoa Lương hội chiếu: nếu có thêm cát tinh sáng sủa hội họp thì người có đức độ, danh vọng được quân dân quý mến, hậu thuẫn. Đây có thể là một nhà hiền triết, nhân sĩ, dân biểu, nghị sĩ hữu danh.
- Kỵ đồng cung với Liêm, Tham ở Tỵ Hợi: Hóa Kỵ chế khắc được sự bất lành, hóa giải nhiều hung họa do Liêm Tham Tỵ Hợi gây nên. Tuy đây không phải là cách tốt nhưng cũng khá giả, ít lo ngại về bệnh tật, tai nạn.
b. Những cách xấu:
- Kỵ Cự hay Kỵ Đào (Hồng) hay Kỵ Tham đồng cung: rất dễ bị thủy tai (chết hụt, chết đuối) hay bị bắt bớ, giam cầm. Riêng nữ Mệnh gặp bộ sao này bị tai nạn trinh tiết, thất tiết, bất chính hoặc hôn nhân trắc trở, có thể không chồng hay phải lo buồn về gia đạo.
- Kỵ gặp Xương, Khúc, Khôi, Việt: học hành trắc trở, thi trượt hay vất vả, dù có đỗ cũng không thành danh. Trong quan trường hay bị gièm pha, ly gián.
- Kỵ, Riêu, Đà ở liền cung: họa vô đơn chí
- Kỵ, Phục, Tuế: có sự thù hằn, cạnh tranh, kiện tụng, lo lắng vì sợ bị mưu hại, trả thù
- Kỵ, sát tinh đắc địa: danh tài hoạnh phát nhưng hoạnh phá, suốt đời lưu lạc. Nếu sát tinh hãm địa thì nguy cơ càng tăng, nghèo khổ, tai họa khủng khiếp, giảm thọ.
5. Ý nghĩa của hóa kỵ ở các cung:
a. ở Bào:
b. ở Phu Thê:
- Kỵ, Phục: vợ chồng bất hòa, khi ở khi đi. Lúc lấy nhau, hôn nhân bị cản trở. Khi đồng cư thì hay nói xấu nhau, có thể mưu hại nhau hoặc bị người chia rẽ.
c. ở Tử:
d. ở Tài:
e. ở Nô:
i. ở Điền:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Ngày nay, y khoa cũng dùng vân tay để chẩn bệnh và xác định gene thai nhi. Cơ quan pháp y có thể xác định đặc điểm thể chất (giới tính, chiều cao, trọng lượng) nhờ dấu vân tay. Hãy tự phân tích “chữ ký” của mình nhé.
Khi bạn còn là thai nhi 13 tuần tuổi, vân tay đã được hình thành và đó là “dấu ấn” riêng của bạn. Hơn 100 năm qua, hình pháp học (criminology) dùng dấu vân tay để nhận dạng tội phạm bằng khoa phân tích vân tay (dermatoglyphics).
Chuẩn bị
Lựa chọn 1: Phấn hoặc bột màu sẫm (nếu là phấn, mài thành bột); băng keo; giấy trắng.
Lựa chọn 2: Miếng đệm có mực; giấy trắng.
Thao tác
Lăn dấu tay lần lượt từng ngón – ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út, ngón út, ngón cái. Làm cả hai tay, và bạn có 10 dấu vân tay. Bạn lăn tay vào bột màu rồi lăn dấu vân tay vào băng keo. Sau đó dán băng keo lên giấy trắng để “lưu” dấu vân tay. Hoặc bạn cũng có thể lăn tay vào miếng đệm có mực rồi lăn tay trên giấy để có dấu vân tay.
Kết quả
Có 3 cách cơ bản để tìm khi phân tích vân tay: vòng cung (tròn góc và nhọn góc), xoắn ốc và vòng thòng lọng. Dĩ nhiên có nhiều biến đổi và nhiều cách kết hợp với những kiểu này. Kết quả khác nhau tùy những kiểu vân tay mà bạn có và chúng ở ngón tay nào.
Vòng cung tròn góc: Có nhiều dấu này thì có thể bạn khó khăn diễn đạt cảm xúc, nhưng bạn rất thực tế. Nếu có ở ngón trỏ, bạn yêu thích truyền thống và tham vọng công danh. Nếu có ở ngón giữa, bạn thích quan điểm giáo dục truyền thống. Nếu có ở ngón áp út, bạn coi trọng tình cảm. Nếu có ở ngón cái, bạn có niềm đam mê và ý chí mạnh, nhưng cũng có chút máu nổi loạn.
Vòng cung nhọn góc: Dấu này thường chỉ thấy ở ngón trỏ. Có thể bạn là người nhạy cảm nhưng bốc đồng.
Xoắn ốc: Nếu có nhiều xoắn ốc (thường gọi là hoa tay), bạn là người có trách nhiệm. Có thể có chút độc đoán trong quan điểm của bạn, do vậy mà không lạ gì khi “hoa tay” có yếu tố của lửa, nhưng bạn có tài. Nếu có ở ngón trỏ, bạn có tri giác và không thể nói dối. Nếu có ở ngón giữa, bạn rất hiếu kỳ, thích điều tra và tìm hiểu các bí ẩn. Nếu có ở ngón áp út, bạn rất tỉ mỉ và có thể giữ bí mật. Nếu có ở ngón cái, bạn có năng khiếu lãnh đạo và tính độc lập cao.
Vòng thòng lọng: Dấu này khá phổ biến. Nó có nghĩa là bạn khá linh động và không thích những gì đều đều. Các dấu này cho biết mức độ cảm nhận cuốc sống, có yếu tố của nước. Nếu có ở ngón trỏ, bạn có tính độc lập cao và muốn tự khẳng định mình. Nếu có ở ngón giữa, bạn có nhiều ý tưởng hay và sáng tạo. Nếu có ở ngón áp út, bạn sáng tạo với cảm xúc của mình. Nếu có ở ngón út, bạn tiên phong về tinh thần (hiếm có ở ngón út). Nếu có ở ngón cái (thường có ở ngón này), bạn có tính nhân đạo.
Những căn bệnh khác nhau cũng liên quan dấu vân tay. Chân cũng có dấu “vân chân”. Hơn 2000 năm trước, các thợ gốm Hồng Kông đã in dấu vân tay lên các bình để làm dấu sở hữu riêng.
Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau:
- Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt.
- Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời.
Vì thế khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và khoa phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phương cách hóa giải phong thuỷ thì nhiều và đa dạng phong phú. Thế nhưng để chọn lựa phương cách hóa giải phong thuỷ phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà chúng ta cần phải nghiên cứu từng bước một.
Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm Phong thuỷ căn nhà:
Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn.
Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt đủ rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một điều sai lạc vô cùng. Một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà vượng Sơn vượng Hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác, đất nghiêng trủng, hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm sai vị trí các Cung (Linh Thần hoặc Chính Thần) thì cũng không tốt. Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không.
Khi xem phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ quên đặc điểm khác (Phong thuỷ Hình Thế và Phong thuỷ Lý Khí tương hợp).
Tìm biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà. Có thể tạm phân loại các khuyết điểm về phong thủy như sau :
- Hình thể nhà và đất: Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm.
- Những tác hại xấu do bên ngoài: như là ngã ba đâm vào, đòn dông, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở.
- Âm dương (Linh & Chính): Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm: Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng.
- Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí các công nămg không đúng phương vị (Cung) hoặc như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà.
- Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống.
- Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Thế nhưng nếu bố trí nghịch vị thì cần phải có sự hóa giải đúng mức và kịp thời. Ví dụ như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa vv. Phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc.
Nhu cầu hạnh phúc của gia đình:
Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu. Ví dụ: Một gia đình lớn tuổi nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu có hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như là rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc.
Trái lại vợ chồng son trẻ có làm ăn ở nhà, không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác.
Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người.
Trở lại ví dụ đầu tiên, nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi.
Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình như sau : Tiền tài, hạnh phúc – sức khỏe, tuổi thọ – con cái (Phú - Quý - Gia Đạo). Tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình để chọn lựa những biểu tượng hóa giải thích hợp.
Phương cách hoá giải phong thuỷ:
Có nhiều phương cách hóa giải thế nhưng trước khi quyết định chọn lựa một phương cách hóa giải thích hợp cần phải quan tâm đến 2 điểm:
1) Khi dùng hóa giải tại cung nào nên chú ý đến ngũ hành của cung đó, để sử dụng các biểu tượng phong thủy thích hợp với hành của cung đó. Ví dụ khi muốn thay đổi hay phát triển công việc, thì công việc đầu tiên phải tăng cường cung Tài Lộc căn nhà, cung đó thuộc hành gì?, do Sao nào quản?. Do vậy những vật dụng tăng cường cung này phải tương sinh với Cung đó.
2) Khi hóa giải một khuyết điểm của căn nhà nên sử dụng đúng mức biện pháp hóa giải, để tránh những ảnh hưởng phụ do hóa giải quá độ gây ra. Ví dụ: khi hóa giải một phòng tắm xấu ở giữa nhà (trung cung) có thể che kiếng là đủ, chứ không nên vừa dùng kiếng, lại thêm cây kiểng hay dùng súng đại bác để bắn tiêu khuyết điểm này.
Ngoài hai yếu tố trên, chúng ta cũng không phải dễ dàng để chọn lựa một biểu tượng thích hợp vì rằng có nhiều biểu tượng hóa giải có cùng tác dụng thì biết chọn biểu tượng nào. Vì thế một biểu tượng hoàn hảo nhất để hóa giải phong thủy phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
* Hợp Phong Thủy: Ðây là tiêu chuẩn quan yếu đầu tiên, cần phải đạt được. Trong trường hợp có nhiều biểu tượng có cùng tác dụng thì biết chọn lựa thứ nào. Ví dụ: để hóa giải một cái đòn dông đâm vào cửa chính chúng ta có thể dùng nhiều phương pháp như: trụ phun nước, dời cửa chính,... nhưng chúng ta chỉ nên chọn lựa một biểu tượng thích hợp nhất mà thôi. Do vậy trước khi quyết định chúng ta phải dựa đến tiêu chuẩn thứ hai.
* Hợp nhu cầu hạnh phúc gia đình: Như trên đã nói, đối với người lớn tuổi mong muốn bình an dĩ hòa vi quý thì nên chọn lựa những biểu tượng nhẹ nhàng, không gây tác hại cho người khác mà cũng có thể đạt mục đích yêu cầu của mình. Trở lại ví dụ trên, chúng ta có thể chọn lựa biện pháp trụ phun nước. Thay vì chúng ta chọn những biểu tượng công phá có thể gây hại cho người khác và cho chính mình mà thôi. Trường hợp có nhiều biểu tượng đạt được hai tiêu chuẩn trên thì biết chọn biểu tượng nào. Chúng ta nên chọn biểu tượng phù hợp với tiêu chuẩn thứ ba.
* Hợp thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa gia đình: Ngoài những biểu tượng căn bản chúng ta cũng có thể sáng tạo những biểu tượng khác đạt được mục đích trên lại phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, hay địa vị gia chủ trong xã hội nữa. Ví dụ: ở khu vực kinh doanh người Mỹ có khi chúng ta dùng những vật dụng đầy thẩm mỹ khác chẳng hạn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)