Nhưng để chọn được một cành đào đẹp hay một gốc đào ưng ý hợp phong thủy là một điều không hề đơn giản.
Cây đào được xem là tinh hoa của Ngũ hành, theo phong thủy cây này có thể trị bách quỷ nên khi đón năm mới ta thường thấy các gia đình hay trồng đào hoặc chưng bày một chậu đào trước cửa nhà.
Hoa đào còn là biểu tượng cho sự đổi mới và sức sinh sôi phát triển mạnh mẽ.
Thế nào là một cành đào đẹp?
Để chọn được một cành đào đẹp, trước tiên bạn cần biết một cành đào đẹp thì có hoa cánh kép, màu thắm, cành đều, gốc thẳng. Thân đào có thể xù xì nhưng khoẻ, chắc. Cành vừa phải, dăm (nhánh nhỏ nhất của cành đào) nhỏ, nhiều hoa.
Đào đẹp là đào có dăm vút thẳng ra ngoài tán, nụ trải đều từ đầu tới cuối dăm. Những cành có dăm to thường ít hoặc thưa hoa.
Đào có nhiều giống: đào bích, đào phai, đào trắng (bạch đào, rất hiếm); có đào thế, đào cảnh trồng chậu, đào cắt cành cắm lọ v.v…
Tên của các thế đào chủ yếu lấy theo chữ Nho như ngũ phúc, trực đổ, bạt phong, tam đa, long giáng…, còn hình dáng của các thế đào gợi lên ý nghĩa về biểu tượng cha – con, gia đình, các con vật trong truyền thuyết như long, phụng.
Khi chọn cần chú ý đào thế phải có đủ bộ tứ quý: hoa, nụ, lộc và quả, bởi đó là biểu tượng cho sự đề huề, ấm no của gia đình.
Còn khi chọn đào cây cũng gần giống với đào cành là nên mua các cây có dăm nhỏ và ngắn, các nhánh chính tạo nên dáng cây xuất phát từ một điểm trên thân, như vậy cây sẽ đẹp, cân đối.
Với loại đào cành
Chọn cành to nhỏ tùy theo không gian trong nhà. Điều quan trọng nhất là tán đào phải tròn, các nhánh phân bố đều.
Không nên chọn cành có tán lệch và các nhánh đâm lên không cùng bắt đầu từ một điểm trên thân gốc. Bạn nên tìm mua loại cành có dăm nhỏ. Đào dăm nhỏ thường có nụ rất nhiều và mập mạp, khi hoa nở có cánh dày trông rất đẹp.
Cách tết khoảng 3-5 ngày bạn mới nên mua đào để lúc đào nở hoa rộ sẽ vào đúng mấy ngày Tết. Khi đã mua được cành đào như ý muốn, bạn nên đốt gốc trước khi cắm vào lọ và nhớ rằng nước phải sạch.
Nên cho vào lọ vài viên thuốc vitamin B1, một chút kali để có dinh dưỡng nuôi hoa.
Bạn cũng nên mua các cây có dăm nhỏ và ngắn, các nhánh chính tạo nên dáng cây xuất phát từ một điểm trên thân. Như vậy, cây sẽ đẹp, cân đối.
Đào cây nở chậm hơn đào cành nên bạn phải chọn cây nở nhiều hoa vào lúc cận Tết. Nếu mua cây có ít hoa khi chỉ cách Tết vài ngày thì vào mấy ngày chính của năm, cây đào sẽ kém sắc hoa.
Để đào được bền, tươi lâu, với đào được trồng trong chậu, bạn nên tưới thường xuyên, giữ cây sạch, mát.
Khi cho cây vào chậu, tuyệt đối không được tưới quá nhiều nước, bởi đào là loại ưa ít nước, độ ẩm vừa phải, nếu không nó sẽ chết vì thối rễ.
Màu sắc hoa đào
Tuỳ theo loại đèn, màu tường, cách trang trí nhà mà mua loại đào cho phù hợp. Những nhà nhỏ, tường đèn tuýp nên dùng đào phai để tạo cảm giác sáng sủa, nhẹ nhàng.
Ngược lại, nhà rộng, thoáng dùng bích đào sẽ tạo được những điểm nhấn, cảm giác ấm cúng hơn.
Người có tuổi thường thích đào phai, nhưng theo dân gian, chỉ những nhà trong năm có tang mới cắm loại đào này.
Bí quyết cho hoa nở nhanh hay chậm để đón đúng Tết
Chọn được một cành, cây đào ưng ý rồi thì cách chăm sóc nó ra sao để nở hoa đúng trong 3 ngày Tết cũng rất quan trọng. Bạn có thể điều khiển cành đào nở nhanh hay chậm tùy theo ý muốn.
Đào cành mua về, phải đốt gốc, đốt cành hay nhúng ngay vào chậu nước nóng già 70-80 độ C để các chất dinh dưỡng dự trữ nuôi hoa trong cành không thẩm thấu được ra ngoài…
Nếu cành đào cắm trong nhà nở quá nhanh, có thể dùng dao sắc cứa một vòng quanh thân, cách gốc cành đào 1 gang tay, mục đích hạn chế chất dinh dưỡng lên thân nuôi hoa.
Một mẹo khác thường được người dân sử dụng là cho sỏi vào trong bình giữ lạnh, đào sẽ nở chậm. Người chơi nên thay nước khoảng 2-3 ngày/lần để đào được bền.
Ngược lại, muốn kích đào nở nhanh, người chơi có thể dùng một nắm vôi đắp quanh gốc, đảm bảo sau một đêm đào sẽ nở tung để đón đúng vào ngày mùng 1 Tết, để cầu mong cho gia đạo một năm mới nhiều may mắn.
1. Dáng đi hình chữ (V) hai đầu bàn chân hướng ra 2 phía, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc văn nghệ. 2. Đi bước ngắn:: là người bạt nhược, không có óc cầu tiến, ham nhục dục. 3. Dáng đi chữ “bát”: hai đầu bàn chân chụm lại, hai gót xòe ra là người thích phô trương, ưa bợ đỡ, nịnh hót. Tình tình ti tiện, ki bo nhưng có óc thông minh, có chí tiến thủ. 4. Đi nhanh:: người có tính nết nóng nảy, ưa hoạt động và ương ngạnh, thích kim tiền hơn là nghệ thuật, nhưng sống rất công bằng. 5. Đi co chân lên quá cao: là người bạc tình, thích cô độc, đầu óc giản dị, có tài nghệ giỏi nhưng không mấy tích cực. 6. Đi lê chân: người có tâm xảo quyệt, hẹp hòi, không có trách nhiệm, ham vật chất . 7. Đi bước dài bước ngắn: người có tính nết hồ đồ, không thành tín, chỉ thích những điều hào nhoáng, về lý trí bạc nhược. 8. Tướng đi hàng một và thẳng người: người là người xem thường sinh tử, mạnh dạn làm việc nghĩa, trọng nghĩa hơn trọng tài nhưng có hành động hấp tấp và vội vàng. 9. Đi cắm đầu về phía trước: là người có nghị lực dám làm dám chịu, có tinh thần mã thượng nhưng trí tuệ không được tốt cho lắm, hay suy xét sự lợi hại, quyết đoán mau lẹ nhưng hay nhầm lẫn và mau quên. 10. Đi hàng đôi: là hai đầu chân không thẳng hàng, đây là tuýp người thẳng thắn nhưng kiêu ngạo, háo danh. Đầu óc có tiến thủ, khẳng khái tranh đấu nhưng lại thiếu tự tin. 11. Đi bước dài: người sở hữu tướng đi này có lý trí và tình cảm đầy đủ, tính tình khoan hậu, ngay thẳng không gian lận, thích khoe khoang, không chịu nhân nhượng kẻ khác, có nhiều khả năng phát triển. 12. Dáng đi đong đưa như vịt:: là người có tánh nết thô lậu, thích hư vinh, cảm tình hời hợt, coi trọng đồng tiền, so đo tính toán, sống không thật tâm. 13. Dáng đi mà phần thân dưới từ bụng tới mông hơi giao động chút ít: người có tính tình ôn hòa, kiên nhẫn, lạc quan. 14. Dáng đi nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, khoảng cách giữa các bước đều đặn và hơi ngắn: đây là người hay chuộng thực tế, tính tình độ lượng, chan hòa với bạn bè, gia đình yên ổn. 15. Bước đi đều đặn, khoảng cách dài, chân không quá co kiểu như chân tới trước, thân hình tới sau, thẳng người không nghiêng lệch: người có tính tự phụ, có tài năng, việc làm chính xác và mau lẹ nhưng không thích bị ràng buộc và gò bó, người có uy tín 16. Khi đi thường có thói quen thọc hai tay vào túi quần hoặc hai tay chống nạnh, đầu hay cúi về phía trước: người này có tính khinh người, khoác lác, thích nịnh bợ. 17. Dáng đi mà thân hình lắc lư như rắn bò, chân bước nhúng nhảy như chim chìa vôi: người có số kiếp long đong, cuộc sống tạm bợ, ít khi được hạnh phúc. 18. Bước đi quá nhanh, như gấp rút một việc gì: đây là người có tính bồng bột, bộp chộp, thiếu chủ tâm, ít nhận xết, làm theo dục vọng, tính tình bừa bãi, quan niệm một chiều. 19. Đi cúi gầm xuống đất là người số không được thọ, thiếu hạnh phúc, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. 20. Dáng đi đầu ngã về phía sau, ngực và bụng uỡn về phía trước: là người thiếu nghị lực, nhu nhiều cương ít, tính hay cầu an, hiền hòa nhưng thiếu khôn ngoan mưu kế, làm việc không nhanh nhẹn.
► Mời các bạn tham khảo thêm: Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
Theo Xemtuongnhanh Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Trong tháng 11 tới, dù vui đến đâu cũng không nên chọc vào 3 chòm sao khó tính dưới đây bởi thời điểm này tính cách của họ không tốt lắm, vận trình cũng không thuận lợi, đừng có dại nhé.
► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của các cung hoàng đạo được cập nhật mới nhất
Hổ Cáp
Chòm sao Hổ Cáp tính cách bình tĩnh, suy nghĩ thâm trầm, tính toán sâu xa nên nhiều khi người ngoài không thể biết họ đang nghĩ gì. Thông thường thì Hổ Cáp không bộc lộ cảm xúc trực tiếp mà lẳng lặng tỏ thái độ thôi. Nhưng tháng 11 tới thì chòm sao khó tính này lúc nào cũng bực bội, gắt gỏng.Mà Hổ Cáp thì đâu phải người dễ chọc vào, vừa khó khăn, chán nản lại bị chọc ghẹo thì họ sẽ nổi xung lên ngay. Thế nên, tốt nhất là tháng tới hãy chỉ bàn chuyện nghiêm túc với Hổ Cáp thôi, thấy mặt họ có vẻ không vui thì lựa lời mà nói hoặc lảng sang chỗ khác nhé.
Ma Kết
Tiến vào tháng 11, Ma Kết gặp khá nhiều phiền muộn vì Thổ Tinh va chạm dẫn tới gặp nhiều điều khuất tất, mờ ám, bị hãm hại. Công việc thì cạnh tranh, tình cảm thì cãi cọ, trong lòng không có phút nào được thảnh thơi. Đã như vậy mà còn có ai chọc ghẹo thì chịu sao nổi.Ma Kết vốn đã là chòm sao khó tính, khi mọi sự bất lợi thì càng thêm đáng sợ. Trêu vào họ chắc chắn sẽ lãnh hậu quả rất đáng thương. Vì thế, tránh Ma Kết chẳng xấu mặt nào đâu, tìm đối tượng khác đi nhé. Chẳng may có đụng chạm Ma Kết thì hãy nghiêm túc lại ngay, đừng đi quá xa.
Bảo Bình
Bình thường thì Bảo Bình khá dễ thương, nói cười rộn ràng, tính cách cũng phóng khoáng, gần gũi có trêu chọc họ cũng không thấy giận. Nhưng mọi chuyện đổi khác khi tháng 11 tới chòm sao này liên tiếp gặp vận rủi trong chuyện tình cảm, mệt mỏi, âu sầu.Những lúc như thế này, không an ủi được câu nào tốt đẹp thì hãy để Bảo Bình yên, còn đổ dầu vào lửa trêu trêu chọc chọc, chắc chắn họ sẽ nổi khùng. Bảo Bình khùng lên thì chòm sao khó tính nhất cũng cảm thấy đáng sợ ấy chứ. Chòm sao này có nhiều ý tưởng quái đản để trả thù lắm đấy. Phê bình 4 chòm sao bảo thủ cứng đầu, để người yêu ấm ứcSong Ngư sinh ra dành cho ai?Đừng để 5 chòm sao chuẩn soái ca, thục nữ này chạy thoát Thái Vân Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
– Để đón ngày 8/3 vui vẻ, hạnh phúc trọn vẹn nhất, bạn cũng như nửa kia của mình có thể áp dụng một vài mẹo phong thủy dưới đây, đảm bảo hiệu quả trên cả tuyệt vời.
1. Đối với nữ giới
- Sắp xếp gọn gàng đồ vật trên bàn làm việc, loại bỏ những đồ không cần thiết. Nên để các tập văn bản, điện thoại... ở bên trái bàn làm việc. Như vậy, bạn sẽ đón ngày 8/3 trong tâm trạng thư thái, thậm chí còn thêm “thu hoạch” nào đó. Đây là một trong những
mẹo phong thủy ngày 8 tháng 3 đơn giản, dễ áp dụng nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ, giúp bạn tận hưởng niềm vui trọn vẹn.
- Lau gương ở nhà, gương bàn trang điểm hoặc gương nhỏ trong hộp phấn trang điểm mang theo bên mình. Sau khi lau sạch sẽ, bạn hãy soi và tìm sự khác biệt, phải chăng tâm trạng của bạn cũng được cải thiện đáng kể? Khi vui, nhiều điều tốt đẹp ắt tới, tình duyên thuận lợi cũng là điều tất nhiên.
- Nếu được tặng hoa tươi, không nên cắm hoa đó một cách tùy tiện. Theo quan điểm
phong thủy, bạn nên cắm, bài trí hoa đó ở phía phải bàn làm việc hay giường ngủ để mỗi ngày là một niềm vui chứ không chỉ riêng ngày 8/3.
Những loài hoa màu hồng có tác dụng hút vận đào hoa rất tốt. Nếu không được tặng hoa đi chăng nữa, bạn vẫn có thể chủ động “tự thưởng” cho mình một vài bông, hay một lọ để thúc vượng vận đào hoa cho chính mình.
- Trong ngày 8/3, chị em nên hành sự thận trọng, tránh xảy ra xung đột, cãi vã hoặc cho người khác vay mượn tiền bạc. Bởi theo quan điểm phong thủy, những điều này vô tình làm giảm vận thế, bạn khó lòng mà đón ngày Quốc tế phụ nữ trọn vẹn niềm vui.
Gợi ý những mẫu tóc trẻ trung cho 12 nàng hoàng đạo đón 8/3 Ngày Quốc tế Phụ nữ của các chị em đang đến rất gần. Dù đã có gấu hay vẫn còn độc thân thì 12 chòm sao nữ cũng hãy xuất hiện thật rạng rỡ và 2. Đối với nam giới
Phụ nữ là một nửa của thế giới, nhưng nếu không có đàn ông, nửa thế giới ấy khó mà trọn vẹn được. Do vậy, đừng tưởng
ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 thì cánh mày râu không liên quan nhé. Trái lại, họ đóng vai trò quan trọng giúp nửa kia của mình có được niềm vui trọn vẹn.
- Dành tặng mẹ, vợ, người yêu, cô giáo, cấp trên, đồng nghiệp nữ... món quà tinh thần, từ những lời quan tâm, động viên tới việc tặng hoa, tặng quà. Họ rất vui mừng và thầm cảm ơn bạn vì điều đó.
- Không ngại ngần giúp đỡ nửa kia làm việc nhà, trợ giúp đồng nghiệp trong công việc, bạn bè trong chuyện học hành, thi cử. Làm việc tốt, bản thân cũng được hưởng phúc, nhân duyên và vận đào hoa của bạn ngày càng vượng.
- Tới thăm nhà người thân, bạn bè hoặc tổ chức một bữa tiệc ấm cúng, mọi người quây quần bên nhau, chia sẻ tâm tư tình cảm, ai nấy đều hạnh phúc, vui vẻ một cách trọn vẹn.
- Lưu ý, nam giới không nên đi cắt tóc hay đi đền chùa trong ngày hôm nay, bởi theo quan điểm phong thủy, đó là điều kiêng kị.
Việt Hoàng
Chọn quà ý nghĩa dành tặng 12 con giáp ngày 8/3 (P2) – Khi chọn quà tặng 12 con giáp ngày 8 tháng 3, đặc biệt là chọn quà cho người tuổi Hợi, bạn có thể tặng nàng một chuyến du hí tuyệt vời, vừa Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Nhiều người đang tin rằng, chúng ta có thể giao tiếp được với người thân đã mất thông qua các hình thức áp vong, gọi hồn. Nhưng thực tế, có đúng vong hồn giao tiếp với chúng ta hay chỉ là sự tưởng tượng, ám thị của chính mình?
Hầu đồng là một hình thức áp vong phổ biến
Gọi hồn, vong nhập là hiện tượng linh hồn người khác, có thể là thánh thần, cũng có thể là người đã chết nhập vào cơ thể người sống, điều khiển người sống đưa ra các chỉ dẫn của linh hồn. Hiện tượng này giống như lên đồng (thật), hoặc là nhập hồn.Theo một số nhà nghiên cứu khác thì phần hồn cũng không thể tồn tại mãi mãi bởi chúng là các hạt điện sinh học. Tùy thuộc mức độ năng lượng sinh học của mỗi vong hồn mà các vong hồn khác nhau có tần số bước sóng sinh học khác nhau, trở thành các vong khác nhau. Các loại tần số này là vô số và tốc độ được xếp từ thấp đến cao và siêu siêu tốc. Do các nghiên cứu con người sau chết đang được tiến hành và đã nhận thấy có dấu hiệu của tình trạng thoát “khí” một dạng năng lượng khỏi cơ thể con người, có sự tụ tán theo quy luật của các thể “khí” đó, dẫn đến sự nghi vấn có tồn tại linh hồn. Mặt khác cũng đã có nhà ngoại cảm tìm được mộ thật được xác định sau khi thử AND, cũng như có những hiện tượng khoa học chưa giải thích được như thần giao cách cảm, giác quan thứ 6, giấc mơ tiên đoán cho nên các nhà khoa học cũng chưa phủ nhận hoàn toàn hiện tượng vong nhập.Nhưng những người chịu sự tác động của những năng lượng lạ (thế giới âm) thực sự là rất ít. Phần lớn là do vô tình mà họ đã bị sự tác động của ám thị tiêu cực từ phía bên ngoài hoặc tự ám thị của chính mình mà thành.Vong nhập, lên đồng là một trạng thái tâm lý đặc biệt, một trạng thái bệnh lý xuất phát từ vô thức, theo danh mục các loại bệnh tâm thần của Tổ chức Y tế thế giới được xếp vào loại hội chứng lên đồng.Một người bị vong nhập tức là người đó không bình thường, có vấn đề về thần kinh hoặc tâm thần (nhẹ hoặc nặng). Nguồn gốc của hiện tượng vong nhập là sự tương tác của ám thị lạ và tự ám thị. Khi một người đi áp vong, hoặc lên đồng thường ngồi tập trung như ngồi thiền để đầu óc trống rỗng. Trạng thái này đưa bộ não trở về vô thức. Trong trạng thái khởi đầu vô thức, người đó vẫn nhận biết xung quanh, tiếp nhận các ám thị lạ như về liệt sĩ, về đau thương, về chiến trận qua thầy pháp hoặc nhà ngoại cảm. Khi bộ não chìm vào vô thức các tác động từ bên ngoài sẽ là ám thị lạ tạo ra sự tự ám thị. Trong trạng thái tự ám thị nhiều khi rất mạnh mẽ đặc biệt đối với những người có thế năng bệnh tâm thần cao, bộ não sẽ nhào nặn, xây dựng thành các kịch bản đặc biệt.Bởi thế, dẫu chưa giải thích được hiện tượng nhập vong, áp vong là có thật hay không thì phần lớn những ông đồng, bà cốt hiện nay không thưc sự liên hệ được với thế giới người âm. Họ chỉ đang bị ám thị hoặc diễn đồng mà thôi. Cần tỉnh táo để tránh bị lừa gạt, tiền mất tật mang.ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Sức khỏe của người tuổi Tý Theo vận trình sức khỏe 12 con giáp tháng 9: Nửa cuối tháng 9 này, người tuổi Tý vượng vận quý nhân và đào hoa. Tuy nhiên, về sức khỏe lại không tốt, cần chú ý tới các bệnh về thận, hệ tuần hoàn, máu, còn nữ cần chú ý đến nội tiết. Sức khỏe của người tuổi Sửu
Gặp tháng 9 là bán hợp, vận thế của người tuổi Sửu tương đối thuận. Nhưng nửa cuối tháng này cần chú ý dưỡng sinh cho dạ dày, phổi, tiêu hóa, hô hấp, họng, da, gân cốt tứ chi. Sức khỏe của người tuổi Dần Gặp tháng 9 bị khắc chế, ngũ hành Mộc khí bị tương khắc. Vì thế cần chú ý dưỡng sinh khí chất và gan mật. Nên dùng túi gấm giúp vượng vận, cân bằng âm dương ngũ hành, trợ giúp cho sức khỏe. Sức khỏe của người tuổi Mão Tháng 9 sẽ là đối xung với tuổi Mão. Xung tức động, động tức không ổn định vì thế cần chú ý chăm sóc sức khỏe, đặc biệt cần dưỡng sinh cho mắt, gan và mật. Sức khỏe của người tuổi Thìn
Gặp tháng 9 là lục hợp Dậu Kim, Thìn Thổ lại sinh Kim, cho nên cần phải chú ý dưỡng sinh cho tỳ vị, phổi, tiêu hóa và hô hấp. Nên giảm thiếu ăn uống tiệc tùng, chú ý vệ sinh an tòa thực phẩm. Sức khỏe của người tuổi Tỵ Tháng 9 là tháng bán hợp, nhưng Tỵ Hỏa khắc Kim, dễ ảnh hưởng đến phổi, hô hấp, họng, amidan, răng miệng.
Ảnh minh họa
Sức khỏe của người tuổi Ngọ Đây là tháng tương khắc đối với bạn, vì thế tuổi Ngọ cần đặc biệt chú ý dưỡng sinh cho phổi, đường hô hấp, amidan, cổ họng và răng. Sức khỏe của người tuổi Mùi Sức khỏe 12 con giáp tháng 9: Tuy Thổ sinh Kim, nhưng ngũ hành của tuổi Mùi thuộc Táo Thổ (khô nóng), cho nên bạn cần chú dưỡng sinh cho gan, mật, phổi, hô hấp, amidan, họng. Sức khỏe của người tuổi Thân Gặp tháng 9 Kim khí quá nặng, người tuổi Thân cần chú ý dưỡng sinh cho gan, mật. Cẩn thận đề phòng mắc bệnh đường tiêu hóa. Sức khỏe của người tuổi Dậu Tháng 9 sẽ tạo ra mối quan hệ tương hộ, hơn nữa lại được sự trợ giúp của Thái Tuế nên Kim khí quá vượng. Bạn cần phải chú ý dưỡng sinh cho phổi, hệ hô hấp để phòng tránh bệnh tật. Sức khỏe của người tuổi Tuất Gặp tháng 9 là tương hại, hơn nữa ngũ hành của tuổi Tuất lại thuộc Táo Thổ. Vì thế sẽ gặp bất lợi cho sức khỏe. Vào thời điểm Kim quá vượng, Táo Thổ sẽ bị ảnh hưởng, bạn cần chú ý dưỡng sinh cho tỳ vị, tim mạch, tiêu hóa và mắt. Sức khỏe của người tuổi Hợi Gặp thế tương sinh, Thủy khí rất vượng vì thế cần chú ý dưỡng sinh cho thận, tuần hoàn máu. Nữ giới cần chú ý đến nội tiết, vệ sinh an toàn thực phẩm.
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ Xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh
Theo Kiến thức Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Trong đời sống tâm linh của người Việt, Phật giáo đặc biệt quan trọng. Phần lớn dân số nước ta theo hoặc tin đạo Phật nhưng lại thường hiểu sai 7 điều cơ bản
Trong đời sống tâm linh của người Việt, Phật giáo được coi là một phần đặc biệt quan trọng. Phần lớn dân số nước ta theo hoặc tin đạo Phật nhưng lại thường hiểu sai 7 điều cơ bản dưới đây.
1. Đức Phật không có thậtTrong tâm thức tâm linh của nhiều người Việt, Đức Phật giống như các vị thần thánh khác, là đấng siêu nhiên không tồn tại hữu hình. Nhưng nếu tìm hiểu Phật giáo, là một tín đồ của Phật giáo, thì chắc hẳn không thể không biết, Đức Phật vốn xuất thân là một người trần mắt thịt. Trải qua quá trình tu luyện, Người trở thành Phật và đi truyền đạo khắp nơi, cứu khổ chúng sinh. Đời sau để tưởng nhớ công đức và tôn vinh những giá trị nhân sinh tốt đẹp mà Ngài mang lại nên thờ cúng.2. Theo Phật giáo để được đến Cực LạcĐây là suy nghĩ sai lầm về Phật giáo mà nhiều người mắc phải. Mục tiêu của việc tu tập theo đạo Phật không phải là được tới thiên đường hay Cực Lạc, mà là quá trình con người rũ bỏ sự đau khổ nơi trần thế, tìm tới một cuộc sống hạnh phúc hơn.Cuộc sống hạnh phúc ấy phải trải qua quá trình học tập, tu dưỡng bản thân. Có thể là hạnh phúc ở kiếp sau, cũng có thể là ngay kiếp này nếu tu thành chính quả, giác ngộ sâu sắc những chân, thiện, mĩ của cuộc đời.3. Khấn Phật để xin tài lộcPhật dạy chúng sinh rũ bỏ tham, sân, si, sống bình yên và giản dị nên không có lý gì mà khấn Ngài để xin vàng, xin bạc. Hơn thế nữa, triết lý cơ bản của Phật giáo là thuyết nhân quả, gieo nhân nào gặt quả ấy, nên việc cầu cúng hoàn toàn không có tác dụng.Tin Phật, theo Phật tức là phải học Phật, tu dưỡng bản thân theo lối sống của Phật để đạt tới cảnh giới của sự hạnh phúc. Nếu sống thiện thì sẽ gặp được điều thiện, sống ác phải chịu quả báo, đối với tài lộc cũng vậy, không tự dưng mà có.4. Niệm Phật là đọc danh hiệu PhậtTụng kinh, niệm Phật không phải để cầu cúng hay học thuộc lòng, đọc lên là sẽ được Phật chứng cho. Mục đích lớn nhất của việc này là để chúng đệ tử ghi nhớ lời Phật dạy, soi sáng bản thân, giác ngộ Phật pháp và hành động theo. Vừa tụng niệm, vừa thấm nhuần và ghi nhớ, làm theo, ấy mới là niệm Phật chân chính.Điều tu dưỡng lớn nhất trong mỗi cuộc đời con người 5. Phật tử phải ăn chayĂn chay là hình thức được nhà Phật khuyến khích, vừa tránh sát sinh lại tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, những người theo đạo Phật không nhất thiết phải ăn chay trường. Tùy vào tình hình sức khỏe và điều kiện, có thể ăn chay theo các tuần trai. 6. Giáo lý nhà Phật quan trọng nhất là kinh sáchHệ thống giáo lý nhà Phật được ghi chép trong nhiều bộ kinh đồ sộ nhưng quan trọng nhất chỉ có hia điều: luật nhân quả và Tứ Diệu Đế (4 nỗi khổ lớn nhất của con người và cách tiêu diệt nỗi khổ, tu tập để thoát khỏi nỗi khổ). Nắm chắc hai điều này là nắm được tinh thần của Phật giáo. Kinh sách là những diễn giải, bài học, lý luận dựa trên hai điều cơ bản này. Đọc nhiều kinh sách, tụng niệm nhiều, tìm hiểu cao siêu mà không nắm vững hai điều trên thì coi như chưa biết đến Phật giáo.
7. Đạo Phật chỉ dành cho người giàTâm linh thì không có tuổi, tôn giáo thì không phân biệt người. Phật giáo là chỗ dựa về tinh thần cho tất cả những ai đang muốn đi tìm hạnh phúc đích thực của cuộc sống. Dù đang còn trẻ hay tuổi đã xế chiều thì Phật giáo cũng đều mang đến cho bạn những kiến thức, những bài học, những kinh nghiệm và triết lý sống đơn giản nhưng ý nghĩa.Tâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Các nhà nghiên cứu nhân tướng học hiện đại cũng đã chú ý rất nhiều đến các tướng biểu lộ ra bên ngoài (ngoại biểu) để xét đoán về tâm lý, cá tính và có thể cả tương lai của một người… Tướng đi Trước hết là tướng “đi” mà trong văn học Việt Nam qua mộ
Giải đáp ý nghĩa số lượng hạt trên vòng tay phong thủy
Không chỉ là trang sức cá tính, vòng tay phong thủy còn có ý nghĩa tâm linh, đem hạnh phúc, may mắn cho người đeo. Vậy số lượng hạt trên vòng tay có ý nghĩa gì?
Không chỉ đơn giản là một loại trang sức thể hiện cá tính, vòng tay phong thủy còn có ý nghĩa tâm linh, mang lại hạnh phúc, may mắn cho người đeo. Tuy nhiên, nhiều người vẫn còn băn khoăn về số lượng hạt vòng, thắc mắc không hiểu chúng có ý nghĩa gì. Từ xa xưa, vòng tay phong thủy đã được coi là một món trang sức được nhiều người ưa chuộng. Không chỉ ở Việt Nam mà còn có rất nhiều quốc gia châu Á khác, đặc biệt là các quốc gia có nền Phật giáo lâu đời và phát triển mạnh như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Nhật Bản… chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh người dân đeo trên tay một chiếc vòng phong thủy. Ngày nay, nó cũng trở thành một trong những vật phẩm phong thủy được ứng dụng nhiều nhất trong đời sống.
Vòng tay phong thủy có tự bao giờ? Có lẽ chẳng ai có câu trả lời chính xác. Chỉ biết rằng từ hàng nghìn năm trước, khi đức Phật đi du hành và phổ độ chúng sinh, Người đã truyền bá cho dân chúng về một loại vòng khi đeo trên tay có thể hóa giải mọi nỗi buồn đau trong cuộc sống, mang lại bình an cho tâm hồn. Chiếc vòng đó chính là “niệm châu”, hay còn gọi là chuỗi hạt niệm Phật, cũng chính là chiếc vòng phong thủy mà bạn đang đeo trên tay. Vì thế mà người ta thường nói những người thích đeo vòng tay phong thủy vốn có “thiện căn”, có nhân duyên lớn với Phật. Vậy khi lựa chọn vòng tay phong thủy, nên chọn số lượng hạt vòng là bao nhiêu? Số lượng hạt vòng tay phong thủy có ý nghĩa gì, có ảnh hưởng gì đến công dụng của chiếc vòng hay không?
Ý nghĩa số lượng hạt của vòng tay phong thủy trong quan niệm Phật giáo
Theo câu chuyện được ghi chép trong Mộc hoạn tử kinh, vua Ba Lưu Ly của nước Cao Ly (Triều Tiên) được Phật răn rằng “Nếu nhà vua muốn diệt phiền não, báo chướng, hãy xâu chuỗi tràng 108 hạt và mang bên mình. Chuyên tâm niệm Phật khi dùng tay lần hạt. Sau này, thân tâm ắt không tán loạn, cõi lòng thanh tịnh, an lạc, chết đi được đầu sinh lên cõi Diệm Thiên thứ ba”. Nhà vua nghe vậy làm theo, sau một thời gian thấy vô cùng hiệu nghiệm, cõi lòng an lạc, bèn lệnh làm thêm 1000 chuỗi hạt và ban cho hoàng thân quốc thích, khuyên bảo mọi người làm theo lời Phật dạy. Đây cũng là nguồn gốc xa xưa của vòng tay phong thủy trong Phật giáo. Có điều, tại sao chiếc vòng lại có số hạt là 108 chứ không phải là một con số nào khác? Thực ra, con số này có hàm ý rất thâm sâu, kết hợp giữa số lượng hạt niệm châu với danh hiệu trong điển tích. Có nhiều loại vòng tay với số lượng hạt vòng khác nhau, gồm loại 1080 hạt, 108 hạt, 54 hạt, 42 hạt, 36 hạt, 27 hạt, 21 hạt, 18 hạt, 14 hạt. Ngoài ra, còn có 1 loại nữa dành cho người thường là loại không có số lượng hạt nhất định, tùy theo kích cỡ cổ tay người đeo để xác định số hạt cho phù hợp.
1080 hạt biểu thị cho thập giới, mỗi giới có 108 phiền não, hợp thành 1080 phiền não. Thập giới biểu thị cho 10 thế giới mê và ngộ, có thể phân thành 10 loại như sau:(1) Cõi địa ngục, (2) cõi quỷ đói, (3) cõi súc sinh, (4) cõi Atula, (5) cõi người, (6) cõi trời, (7) cõi Thanh Văn, (8) cõi Duyên Giác, (9) cõi Bồ Tát, (10) cõi Phật. Chuỗi niệm châu có 108 hạt là loại thường thấy nhất, biểu thị cho sự cầu chứng 108 Tam muội, đoạn trừ 108 phiền não, từ đó khiến cho thân tâm đạt đến trạng thái tịch tĩnh. 108 hạt tượng trưng cho 18 giới (lục trần, lục căn, lục thức), đem số 18 này nhân với 6 phiền não căn bản (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) thành 36, lại phối với Tam thế quá khứ, hiện tại, tương lai, hợp thành 108 phiền não, giống như trong kinh nói. 54 hạt biểu thị cho 54 giai vị trong quá trình tu hành của Bồ Tát. Trong đó bao gồm: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, lại cộng thêm Tứ thiện căn vị. 42 hạt biểu thị cho 42 giai vị trong quá trình tu hành của Bồ Tát, bao gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác. 36 hạt không có hàm nghĩa chính xác, thông thường để tiện cho việc mang theo bên mình, chia 108 hạt thành 3 chuỗi, mỗi chuỗi 36 hạt. Trong đó, hàm chứa nghĩa lý lấy tiểu thấy đại, cho nên nó tương đồng với 108 hạt. 27 hạt biểu thị cho 27 hiền vị của Tiểu thừa tu hành 4 hướng, 4 quả, tức là 18 vị hữu học của 4 hướng, 3 quả trước và 9 vị vô học của quả A La Hán. Trong kinh đem giai vị tu hành của đệ tử Phật từ Hữu học đến Vô học cộng lại thành 27 loại. 21 hạt biểu thị cho 21 giai vị, bao gồm: Thập địa, Thập ba la mật và quả Phật. “Quả Phật” chỉ đạt đến quả vị thành Phật cứu cánh nhất. Chuỗi vòng 18 hạt tục gọi là “thập bát tử”. Trong đó, “Thập bát” chỉ “Thập bát giới”, tức lục căn, lục trần, lục thức. 14 hạt biểu thị Bồ Tát Quán Âm cùng với tất thảy chúng sinh trong thập phương, Tam thế, 6 cõi đồng nhất bi ngưỡng, khiến cho chúng sinh đạt được 14 công đức vô úy. Còn loại vòng tay không có số hạt nhất định, trong sách nhà Phật có đoạn viết rằng: “Nếu như có người tay cầm chuỗi hạt này, không thể theo lệ niệm tụng danh hiệu Phật và Đà la ni, nhưng có thể cầm tay hoặc mang bên mình lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Những lời được nói ra lúc thiện lúc ác, người này nếu như cầm chuỗi hạt trên tay, sẽ đắc công đức, nếu như niệm chư Phật, tụng chú, được phúc vô lượng”. Qua đây chúng ta cũng thấy, dưới quan niệm của nhà Phật, vòng tay phong thủy thực ra không quy định số hạt.
Số lượng hạt vòng theo quan niệm Thiên chúa giáo
Với người theo đạo Công giáo (Thiên Chúa Giáo), chuỗi vòng tay gồm rất nhiều loại. Chuỗi vòng tay phong thủy lần hạt kính Đức Mẹ Maria sẽ bao gồm 12 hạt nhỏ và 1 hạt cái. Loại chuỗi vòng nay sẽ dùng đọc 12 kinh kính Đức Mẹ. Bắt đầu với hạt cái mang ý nghĩa khởi đầu khi đọc kinh Lạy Cha và cũng dùng đọc kinh Sáng Danh. Chuỗi chục kinh mân côi với 10 hạt và 1 thắt nút hoặc như chuỗi lần hạt với 10 hạt và 1 hạt cái. Trong đó 10 hạt để đọc 10 kinh Kính Mừng, còn 1 hạt cái hay hạt thắt nút để đọc kinh Lạy Cha (lúc khởi đầu) và kinh Sáng Danh (kết thúc).
Tràng hạt (chuỗi hạt Mân Côi năm chục) bao gồm 1 chuỗi 10 hạt sẽ xen lẫn 1 hạt cái, được sử dụng để đọc 50 kinh mỗi lần. Thường cuối chuỗi sẽ có 2 hạt cái và 3 hạt nhỏ khi đọc kinh để các linh hồn sớm siêu thoát, trở về chốn Thiên Đàng. Chuỗi Mân Côi với 150 kinh (3 mùa) thể hiện sự khác biệt giữa chuỗi 50 kinh với 150 kinh qua số hạt. Chuỗi Mân Côi sẽ có 150 hạt vòng. Người đọc kinh sẽ được được cả 3 mùa: Mùa Vui, mùa Yêu Thường và mùa Mừng ngay trong cùng 1 chuỗi. Thay vì đọc riêng lẻ 3 vòng thì chỉ cần đọc 1 lần. Thường thì những người theo đạo Thiên Chúa Giáo sẽ đưa các chuỗi vòng tay này đến một vị Linh Mục để xin ban phép rồi mới đeo hàng ngày để tránh tà ma và loại bỏ tà khí.
Quan niệm số lượng hạt theo sinh - lão - bệnh - tử
Sinh - Lão - Bệnh - Tử là vòng tuần hoàn cuộc sống của mỗi con người. Theo quan niệm phong thủy, số lượng hạt vòng tay gắn liền với vòng tuần hoàn của đời mỗi người. Sinh là số 1, Lão số 2, Bệnh số 3, Tử số 4. Vòng tuần hoàn này liên tục được lặp đi lặp lại, chính vì thế những số chia hết cho 4 được xem là những số tử. Những số chia cho 4 dư 1 được xem là những số đẹp nhất để lựa chọn số hạt vòng tay phong thủy. Bạn cũng có thể chọn số hạt vòng lẻ (nếu những số hạt chia 4 dư 1 không vừa với tay bạn) vì số lẻ thuộc tính “dương”, nguồn gốc của những trường năng lượng tốt, nên sẽ mang đến dương khí là nguồn năng lượng tốt mỗi ngày của mỗi người. Khi lựa chọn vòng tay phong thủy có thể chọn các số lẻ như 15, 17, 19, 21 ….Tuyệt đối tránh đeo vòng có số hạt chia hết cho 4, bởi những số chia hết cho 4 là những số thuộc cung “tử”, không may mắn.
Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Hầu hết mọi người chưa biết đeo vòng tay đúng phong thủyHy VũĐừng biến vòng tay thành còng tayVật khí phong thủy để hạnh phúc trong hôn nhân Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Cát Phượng (##)
Những con giáp nam si tình, anh hùng không qua ải mĩ nhân
Đàn ông nhiều người vốn mạnh mẽ nhưng với người yêu lại trở nên ngoan ngoãn nghe lời, sự si tình của họ chứng minh cho câu nói “anh hùng không qua ải mĩ nhân
Đàn ông nhiều người vốn mạnh mẽ nhưng trước mặt người yêu lại trở nên ngoan ngoãn nghe lời, sự si tình của họ chứng minh cho câu nói “anh hùng không qua ải mĩ nhân”?
Tình yêu là một trong những tình cảm đẹp đẽ nhất trên thế giới này. Người gặp được tình yêu thực sự, dù có bé nhỏ, yếu đuối đến đâu cũng sẽ vì người mình yêu mà trở nên lớn mạnh, kiên cường, dù có ki bo đến đâu cũng trở nên rộng rãi, dù sắt đá đến thế nào cũng bị tình yêu làm cho yếu mềm.
Vậy theo tử vi, những con giáp nam nào vốn mạnh mẽ nhưng trước mặt người yêu lại trở nên ngoan ngoãn nghe lời, sự si tình của họ đáng để chứng minh cho câu nói “anh hùng không qua ải mĩ nhân”?
No.4: Nam tuổi Thìn
Người tuổi Thìn xem trọng quyền lực, đặc biệt là đàn ông. Dù làm gì họ cũng muốn là người nắm quyền chủ động, thẳng thắn bày tỏ ý kiến, thể hiện quan điểm. Trong quan hệ xã hội, đàn ông tuổi Thìn luôn muốn người khác làm theo ý mình.
Cái tôi quá lớn khiến người này bị cho là cực đoan, cố chấp, song khi gặp được người mình yêu thì họ lại sẵn lòng dâng hiến tất cả những gì tốt đẹp nhất cho người đó, hy vọng người ấy luôn vui vẻ. Vô tình họ trở thành kẻ si tình, nhân nhượng người yêu vô điều kiện, buông bỏ cái tôi của mình vì tình yêu.
Bạn có biết tuổi Thìn hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân hay không?
No.3 Nam tuổi Dậu
Người tuổi Dậu sôi nổi nhiệt tình, cũng rất có tài năng. Họ dám nghĩ dám làm, cũng không ngần ngại chỉ ra những điều chướng tai gai mắt, không quan tâm đến sắc mặt người khác. Những người bên cạnh họ luôn phải bao dung cho cá tính này của người tuổi Dậu.
Tuy nhiên, đàn ông tuổi Dậu lại rất coi trọng gia đình. Họ là mẫu người truyền thống, song lại luôn tôn trọng bạn đời. Khi gặp được người ưng ý, họ sẽ thoải mái thể hiện bản thân là người vui vẻ hài hước, muốn cô gái của mình luôn nở nụ cười, vì tình yêu mà thu lại hết những thói xấu xa.
No.2 Nam tuổi Dần
Người tuổi Dần có tham vọng thống lĩnh vô cùng mãnh liệt. Ở bất cứ đâu, họ cũng tỏ rõ cá tính của 1 người lãnh đạo, khiến người khác thấy khó có thể chung sống.
Song đứng trước tình yêu, họ chỉ là những gã si tình. Họ yêu vô tư, cho đi không hối tiếc, không bao giờ so tính thiệt hơn, cũng rất dễ lấy lòng các cô gái khác.
Nhưng vì tính tình nóng nảy, lại hơi cứng nhắc nên đàn ông tuổi Dần hay tranh cãi với người yêu, mâu thuẫn tới mức dường như không thể hòa giải được. Nhưng rồi cuối cùng thì vì tình yêu, người đàn ông mạnh mẽ đến mấy cũng sẽ bỏ qua sĩ diện mà chủ động xuống nước xin lỗi.
Mời bạn đọc thêm về tử vi tình duyên người tuổi Dần năm 2017.
No.1 Nam tuổi Ngọ
Đứng số 1 về mức độ si tình trong 12 con giáp chính là đàn ông tuổi Ngọ. Tính cách thất thường, nóng nảy bộp chộp, đôi lúc có phần lỗ mãng, người này rất dễ đắc tội người khác, cũng khó lòng vì người khác mà thay đổi.
Họ có phản ứng nhanh nhạy, linh hoạt trong mọi việc, cũng rất kiên định, ít khi dao động, từ bỏ mục tiêu. Người tuổi Ngọ hiếm khi lui mình vì người khác, hạn chế bản thân để thích ứng với tiết tấu của mọi người, thậm chí khi bị người khác dẫn dắt, họ sẽ ngay lập tức tỏ thái độ bất bình.
Nhưng khi gặp phải tình yêu thực sự, họ sẽ trở thành người đàn ông bao dung độ lượng, say mê với việc thỏa mãn mọi yêu cầu vô lý của đối phương, được đánh giá là anh chàng bạn trai “nhị thập tứ hiếu”.
Hy Vũ
5 chàng trai hoàng đạo si tình bậc nhất6 dấu hiệu cho thấy anh ấy yêu bạn thật lòngBí quyết phong thủy trong tình yêu để có hạnh phúc tựa như mơ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Bạch Dương Tình yêu của Bạch Dương giống như một trò chơi đối kháng vậy, phải có người qua kẻ lại. Bạch Dương khi yêu rất nồng nhiệt, chân thành nhưng không chấp nhận việc hi sinh không cần đền đáp. Với họ, yêu và được yêu luôn song hành với nhau, tình cảm bỏ ra phải được nhận lại xứng đáng. Song Tử Yêu đơn phương với Song Tử là một khái niệm xa lạ, họ có thể theo đuổi người khác nhưng không thể yêu một cách thầm lặng. Người ồn ào, náo nhiệt và cảm xúc mạnh như Song Tử sao có thể chấp nhận được sự cô quạnh, một phía trong tình yêu. Nhân Mã Tình yêu của Nhân Mã cần kích thích, thử thách và thật nhiều niềm vui. Yêu đơn phương không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu ấy. Một khi nhận thấy đối phương không có tình cảm với mình, Mã Mã sẽ nhanh chóng rời đi. Họ không cố chấp và kiên nhẫn đeo bám chờ người ta đổi ý. Thủy Bình Thủy Bình yêu và tin rằng, nếu đó là “chân mệnh thiên tử” dành cho mình thì sẽ đáp lại tình cảm của mình, còn không sao phải cưỡng cầu. Chòm sao này hiểu đạo lý tình cảm và kèm theo một chút cao ngạo không ai vì thiếu ai mà không sống nổi nên lặng lẽ rời đi, tiếp tục theo đuổi những mục tiêu hay ho khác. Trần Hồng (Theo Zodioscope)
Sao Hỏa được lấy hình tượng từ người con út của Lý Tính, tam thái tử Na Tra. Sao Hỏa trong Tử Vi Đẩu Số tượng trưng cho sức chiến đấu mạnh mẽ, nặng lượng dồi dào bất tận, vô cùng ổn định
Trong "Phong thần diễn nghĩa", Na Tra là nhân vật tượng trưng cho sao Hoả, một trong lục sát của Tử Vi Đẩu số. Theo như "Phong thần diễn" Na Tra là con trai út của Lý Tịnh, quan Tổng binh trấn giữ ải Trần Đường của vương triều Trụ. Khi Lý Tịnh còn học đạo, ông từng bái Độ Ách chân nhân núi Tây Côn Lôn làm thầy, nhưng vì đạo tiên khó học, nên ông xuống núi, nhận chức Tổng binh cho triều đình.
Phu nhân của ông là Ân thị đã sinh được hai con trai là Kim Tra và Mộc Tra. Vài năm sau, bà lại mang thai, nhưng hoài thai được ba năm sáu tháng vẫn chưa sinh. Lý Tịnh thấy quái dị, ngờ rằng là quái thai, còn Ân phu nhân cũng rất buồn phiền, không biết phải giải quyết ra sao.
Một đêm, Ân phu nhân mơ thấy có một đạo nhân đi vào trong phòng, thì ngạc nhiên nghĩ thầm: "Vị đạo nhân này sao lại tự tiện đi vào nhà của người ta?" Đạo nhân cầm một viên ngọc ném về phía phu nhân mà nói: "Phu nhân mau nhận con đi".
Ân phu nhân giật mình tỉnh dậy, thuật lại giấc mơ cho Lý Tịnh nghe. Lời chưa nói dứt, chợt thấy bụng đau dữ dội, Lý Tịnh bèn quay ra ngoài đợi. Một lát sau thị nữ hớt hải chạy ra báo: "Phu nhân sinh ra một quái thai". Lý Tịnh vào xem, chỉ thấy một khối sáng đỏ rực, khắp nhà sực nức hương thơm, thì ra Ân phu nhân sinh ra một cục thịt, đang lăn lông lốc khắp nhà. Lý Tịnh thấy cảnh tượng đó thì vô cùng kinh sợ, bèn rút kiếm chém vào cục thịt.
Bất ngờ từ trong cục thịt nhảy ra một đứa bé trai trắng trẻo xinh đẹp, đó chính là viên ngọc thiêng đầu thai chuyển thế. Tay phải đứa bé đeo một chiếc xuyến vàng, ngang bụng thắt một dải lụa đỏ. Chiếc xuyến vàng và dải lụa hồn thiên lăng chính là bảo vật trấn động của núi Càn Nguyên. Lý Tịnh thấy đứa bé vừa ra đời đã luôn chân chạy nhảy, thì vừa mừng vừa lo.
Hôm sau, có Thái Ất chân nhân tại động Kim Quang núi Càn Nguyên đến cầu kiến. Đạo nhân nói rằng: "Nghe nói tướng quân sinh được một vị công tử nên đặc biệt đến chúc mừng. Cho tôi nhìn quý công tử một chút được chăng?" Lý Tịnh cho người bế đứa bé ra cho Đạo nhân nhìn mặt. Đạo nhân bèn hỏi đã đặt tên chưa, Lý Tịnh đáp rằng chưa.
Đạo nhân bèn nói: "Để bần đạo đặt tên cho đứa bé và thu nhận làm đệ tử của bần đạo, có đưực chăng?" Và đặt tên cho đứa bé là Na Tra.
Theo "Phong thần diễn nghĩa", Na Tra từ thưở bé đã giương được cây cung càn khôn và mũi tên chấn thiên do hoàng đế Hiên Viên để lại, bắn trúng đứa bé hái thuốc của Thạch Cư nương nương, nên đã chuốc lấy tai hoạ lớn. Khi Na Tra bảy tuổi, đến nghịch nước tại cửa Đông Hải ải Trần Đường, làm kinh động đến long cung của Đông Hải Long vương. Tuần hải dạ xoa cùng Long vương tam thái tử Ngao Bính đến ngăn trở, đều bị Na Tra lấy đi tính mạng. Đông Hải Long vương nổi giận, tố cáo với Ngọc đế, buộc Lý Tịnh phải giao nộp Na Tra đền mạng. Na Tra khẳng khái dám làm dám chịu, cõng gông xin chịu tội, rồi tự mình lóc thịt trả mẹ, róc xương trả cha để đền đáp ơn dưỡng dục.
Sau đó, linh hồn Na Tra trôi dạt không nơi nương tựa, bay đến núi Càn Nguyên, được sư phụ là Thái Ât chân nhân triệu vào trong động. Rồi chân nhân sai Kim Hà đồng tử đến ao Ngũ Liên hái về hai đoá hoa sen và ba chiếc lá sen, sau đó ngắt cánh hoa sen xếp thành tam tài, bẻ lá sen xếp thành xương khớp, ba tấm lá sen chia ba phần trên, giữa, dưới hợp thành Thiên - Địa - Nhân, rồi đặt một viên kim đan vào chính giữa, dùng phép tiên thiên, vận khí chín lần, phân: Ly rồng, Đoài hổ, bắt lấy hồn phách của Na Tra, đẩy lên phía trên quát rằng: "Na Tra không biến thành người, còn đợi đến bao giờ!"
Bỗng nhiên một tiếng nổ vang rền, đám hoa, lá sen háa thành hình Na Tra nhảy vụt dậy, chỉ thấy thân cao một trượng, khuôn mặt hồng hào, môi đỏ như son, mắt toả thần quang. Na Tra lập tức sụp xuống bái lạy Thái Ât chân nhân.
Sau vì Lý Tịnh nổi lửa đốt miếu Na Tra, nên giữa hai cha con thành ra thù oán. Nhưng Lý Tịnh được Nhiên Đăng đạo nhân hoá giải, lại thêm hai con trai Kim Tra, Mộc Tra đều đầu quân về với Chu Vũ Vương, nên Lý Tịnh từ bỏ chức vị Tổng binh vào núi ở ẩn, đợi khi thời cơ chín muồi, bèn hợp lực cùng các con góp sức vào sự nghiệp thảo phạt Ân Trụ.
Trong thời gian Vũ Vương phạt Trụ, Na Tra được giao chức tướng tiên phong, cùng Dương Tiễn (sao Kình Dương), Hoàng Thiên Hoá (sao Đà La), Lôi Chân Tử (sao Linh) sánh vai tác chiến, lập rất nhiều kỳ công. Na Tra giỏi vận dụng các chiến lược linh hoạt, biến hoá khó lường, xuất kỳ bất ý, lâm trận dũng mãnh phi thường, thường gan dạ chọc thẳng vào sào huyệt địch, khiến kẻ địch kinh hồn bạt vía.
Sau khi Vũ Vương phạt Trụ thành công, muốn thưởng công ban tước cho Na Tra, nhưng Na Tra khước từ mà thảnh thơi trở về núi Càn Nguyên, theo Thái Ất chân nhân tiếp tục tu luyện. Lý Tịnh cùng Kim Tra, Mộc Tra cũng tương tự, không quyến luyến danh lợi thế tục, đều trở về nơi tu luyện của mình tiếp tục tu tiên.
Về sau, Na Tra được phong làm Hoả tinh, là một ngôi sao tượng trưng cho sức chiến đấu mạnh mẽ, với nguồn năng lượng dồi dào bất tận. Nếu nguồn năng lượng của sao Thái Dương do bị ảnh hưởng bởi lúc mặt trời mọc, lặn, nên không ổn định, lúc mạnh lúc yếu, thì năng lượng của sao Hoả là ổn định, liên tục, không hề tiêu giảm.
Theo khoa Phong Thủy, hình thể của lô đất mà trên đó chúng ta xây cất, hoặc là nơi căn nhà của chúng ta đang an vị, là rất quan trọng. Hình dáng bình thường, đều đặn, không có chỗ nào bị khuyết là tốt nhất. Chúng ta có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để tạo cho khu đất có hình dáng bình thường hơn so với hình dáng sẵn có của nó.
Những hàng rào hoặc giàn cây leo có thể chia lô đất có hình dáng xô lệch, không thẳng hàng thành các khu đất riêng biệt để dễ dàng xử trí hơn.
Việc sử dụng các chất liệu khác nhau để tạo ra các bờ đê có thể giúp phân ranh và, tất nhiên, cây trồng cũng có thể góp phần khai mở hoặc che đậy những không gian khó khăn nhất. Những sáng tạo trong việc trồng cây dường như có khả năng tạo ra mọi ảo giác mà chúng ta muốn.
Lô đất hình chữ nhật
Theo Phong Thủy, một lô đất hình chữ nhật được xem là lý tưởng. Căn nhà nên được đặt ngay giữa lô đất để khu vườn quanh nhà có tỉ lệ cân xứng với căn nhà.
Lô đất hình tam giác
Lô đất hình tam giác không được coi là tốt trong Phong Thủy vì các điểm nhọn của nó khiến cho chúng ta có cảm giác của một lưỡi dao. Thế đất này thật khó giải quyết vì chúng tạo ra ba khu vực chứa năng lượng ứ đọng.
Tuy nhiên, chúng ta có thể hóa giải bằng cách bố trí cây trồng và thiết lập những cảnh trí một cách cẩn thận để tạo ra ảo giác rằng đây là một lô đất có hình dạng bình thường. Một phương án khác là trồng cây dọc theo đường ranh thật dày và xây dựng các lối đi uốn lượn bên trong khu vườn.
Lô đất hình tròn và hình chữ l
Lô đất hình tròn rất khó. Mặc dầu luồng khí có thể luân lưu tự do, thoải mái nhưng thật khó lưu giữ nó và nên tạo một hình thể khác, ổn định hơn bên trong khuôn viên hình tròn để kê ghế ngồi. Với thế đất hình chữ L và các hình bất thường khác, tốt nhất nên phân thành các khu vực có hình dáng bình thường để dễ xử lý.
Tiền sảnh sáng sủa
Tiền sảnh sáng sủa nguyên thủy là một hồ nước phía trước nhà. Chức năng của nó là tụ khí và duy trì vùng không gian thông thoáng ở đó. Đó cũng có thể là hình thức của một khu vườn bị nhận chìm hoặc đơn giản là một không gian tụ họp rộng thoáng.
Ngày nay đó là không gian ngay cửa trước. Khu vực này nên cân xứng với mặt trước của căn nhà và nên được chăm sóc cẩn thận để luôn được sạch sẽ, gọn gàng. Theo Nghệ thuật bài trí nhà cửa theo khoa học Phương đông.
Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục
Trên đây là những sự thật khiến chúng ta phải giật mình chấn động trong lời kể sau đây của một vị hòa thường đã khai mở thiên mục, nói về lịch sử thuở xưa
Phát hiện những bí mật kỳ diệu của thân thể con người, sự thật kinh hoàng về thuyết tiến hóa của Darwin, hay tiết lộ về những phụ thể là động vật cáo, chồn … bám lên thân thể con người ngày nay. Đó là những sự thật khiến chúng ta phải giật mình chấn động trong lời kể sau đây của một vị hòa thường đã khai mở thiên mục.
Trước hết tôi xin được giới thiệu một chút, bản thân tôi năm nay đã 46 tuổi rồi, xuất gia làm tăng đã hơn 20 năm. Quê nhà của tôi ở tỉnh Vân Nam, nhưng tôi lại xuất gia ở một ngôi chùa của Miến Điện. Quê nhà chúng tôi rất kính ngưỡng Phật Pháp, gần như từng làng từng thôn, từng nhà từng hộ đều tín Phật, nếu như có người nào đó xuất gia làm tăng, toàn bộ gia tộc của người này đều sẽ cảm thấy rất tự hào.
Theo lời kể của mẹ tôi, lúc tôi vừa mới đầy tháng, thì đã được thọ giới, trở thành đệ tử của Phật. Tôi xuất gia vào năm 1990, lúc đó tôi 25 tuổi, lúc đó đứa con trai lớn của tôi đã được 8 tuổi. Vào ngày tôi xuống tóc, người dân trong thôn tôi đều đến chúc mừng tôi, vợ của tôi cũng rất vui mừng. Chỗ chúng tôi có phong tục như thế này, phàm là những người có gia đình xuống tóc xuất gia, vợ con của họ đều sẽ được cả làng chăm sóc tốt.
Ngôi chùa mà tôi xuất gia rất nhỏ, thêm tôi vào nữa thì cũng không đến mười người. Sư phụ của tôi là một hòa thượng rất già, những lúc bình thường không hay nói chuyện, nhưng mọi người dân trong làng gần đó lại rất tôn kính ông. Dưới sự dạy dỗ của sư phụ, tôi đã bắt đầu cuộc sống tu hành. Ngôi chùa chúng tôi thuộc về Phật giáo tiểu thừa, chỉ cung phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là tổ tôn, còn những vị Phật hay Bồ Tát khác, chúng tôi hết thảy đều không thừa nhận.
Cuộc sống tu hành cơ bản chính là như vậy: trồng trọt, ăn cơm, ngồi thiền tụng Kinh, ngoài ra cũng không có nội dung gì khác nữa, nhưng những điều này đối với tôi mà nói lại rất khó khăn, bởi vì tôi vốn không biết chữ, xem không hiểu kinh Phật, vậy nên chuyện tụng Kinh này tôi chính là làm không được. Tuy nhiên, sư phụ không cưỡng cầu tôi phải biết chữ, ông nói không biết chữ có khi trái lại còn là việc tốt, xem không hiểu kinh Phật cũng không hẳn là chuyện xấu, ông chỉ yêu cầu tôi nghiêm thủ giới luật, đả tọa tham thiền, vì vậy đã miễn việc tụng Kinh. Đương nhiên, sau này tôi lại biết chữ, nhưng đó là có cơ duyên khác dẫn đến.
Phật giáo tiểu thừa chúng tôi là thông qua trì giới nhiếp tâm, từ nhiếp tâm mà nhập định, từ nhập định mà khai mở trí huệ. Cũng không biết là tại sao, các sư huynh sư đệ thậm chí bao gồm cả sư phụ của tôi trong đó, nhập định đều rất khó khăn, trong khoảng một năm, khó mà thật sự nhập định được mấy lần, nhưng tôi thì lại khác, sau khi tu hành được ba tháng, tôi liền có thể nhập định trong lúc ngồi thiền.
Tôi biết, rất nhiều cư sĩ tại gia bản thân cũng từng ngồi thiền, nhưng lại không nhất định thể nghiệm qua cảm giác của việc nhập định. Thật ra nhập định chính là như vậy, các vị ngồi xếp bằng ở đó, khi tạp niệm dần dần diệt tận, mọi người sẽ tiến nhập vào một loại cảm giác tĩnh lặng hoàn toàn không còn một niệm, trong trạng thái tĩnh lặng này, công năng cảm quan của thân thế người toàn bộ đều mất hết, bản thân cảm thấy chỉ mới qua đi có mấy phút, thậm chí là mấy giây, nhưng khi xuất định xem lại thời gian, lại là đã trôi qua mấy tiếng đồng hồ rồi. Sư phụ nói tôi sở dĩ có thể nhập định mau chóng như vậy, thật ra chính là chỗ tốt do không biết chữ mang đến.
Thời gian mùa hè năm 1991, tôi xuất gia đã được hơn 1 năm rồi. Một buổi tối nọ, dưới sự dẫn dắt của sư phụ, toàn bộ hòa thượng trong chùa chúng tôi vây thành một vòng tròn ngồi thiền trước Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca, bất giác tôi lại nhập định. Tuy nhiên, lần nhập định lần này không giống như những lần trước, lúc đó tôi tự mình cảm giác hẳn là đã nhập định được khoảng một giờ đồng hồ rồi, nhưng khi xuất định, các vị sư huynh nói với tôi rằng, tôi đã ở trước tượng Phật nhập định ròng rã suốt bảy ngày liền, hơn nữa trong bảy ngày này, phía trên đỉnh đầu của tôi cứ mãi có vầng sáng bảy màu lưu chuyển, ngày đêm không ngừng, cho dù những người bình thường dùng mắt thịt cũng có thể nhìn thấy được, nhưng vầng sáng này đến từ nơi nào, lại là điều ai cũng không nói rõ được.
Sau khi xuất định lại qua mấy ngày nữa, tôi ngẫu nhiên phát hiện, bản thân mình nhắm mắt lại cũng có thể nhìn thấy đồ vật, hơn nữa còn nhìn được rõ ràng hơn cả khi nhìn bằng con mắt. Tôi đi thỉnh giáo sư phụ rằng đây là chuyện như thế nào, ông nói tôi chính là đã khai mở thiên nhãn thần thông, là chuyện tốt. Từ đó, tôi càng cố gắng dụng tâm tu hành. Đến đầu năm 1992, có một buổi sáng sớm khi tôi bái lạy trước tượng Phật, tôi đột nhiên phát hiện Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca phát ra ánh hào quang sáng chói, đồng thời cảm thấy có một luồng nhiệt giống như lửa từ đỉnh đầu của tôi tràn vào trong thân thể, dần dần tràn ngập ra khắp toàn thân, cả con người tôi cũng đã tiến nhập vào một loại trạng thái mơ hồ, tựa hồ như thời gian đều đã ngừng lại vậy. Cảm giác đó mĩ diệu phi thường, giống như là tắm nước nóng trong mơ vậy, tôi có một loại cảm giác đột nhiên đại ngộ, đồng thời thiên nhãn thần thông của tôi đã tăng tiến thêm một bước, ngay tại lúc đó, tôi đã nhìn thấy Pháp thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trên tượng Phật. Chỉ đây thôi vẫn còn chưa hết, tôi còn nhớ lại rất nhiều sự tình của những đời trước kiếp trước.
Thì ra, trong hai kiếp trước của quá khứ, tôi đều là hòa thượng xuất gia tu hành, nhưng vì nghiệp tội đời đời kiếp kiếp tích lũy quá nhiều, chướng ngại trùng trùng, đều không tu thành Chánh Quả. Ấy vậy, mỗi lần trước lúc viên tịch, tôi đều phát thệ nguyện rằng đời sau vẫn sẽ tiếp tục tu hành, vậy nên đời này lại đi vào cửa Phật tiếp tục duyên xưa. Bởi sự tu hành trong hai đời trước, nghiệp tội của tôi đã tiêu, lại tích lũy được vô lượng công đức, vậy nên lần tu hành này đã trở nên dễ dàng vô cùng, là điều mà những người tu hành bình thường vốn không có cách nào so sánh được.
Dựa vào căn cơ cùng với hồng nguyện ba kiếp của tôi, chỉ cần ý chí kiên định, đời này tu thành Chánh Quả là chuyện nhất định. Đáng buồn thay, tôi vừa mới nhớ lại những chuyện đời trước, Pháp thân của Đức Phật liền khai thị cho tôi, Phật Tổ nói Pháp mà Ngài truyền đã không còn được nữa rồi, vốn không còn có thể độ nhân được nữa, càng không thể khiến người ta tu thành Chánh Quả, hơn nữa Phật Tổ cũng sắp buông bỏ thế gian, không còn quản chuyện của nhân gian nữa.
Khi nghe tin dữ này, lòng tôi không khỏi đau đớn, lúc đó hai hàng nước mắt chảy mãi không ngừng, tôi nói Phật Tổ buông tay cõi người, như vậy ai sẽ trông coi độ hóa cho những đệ tử tín phụng Người như chúng tôi đây? Pháp thân của Đức Phật Thích Ca nói, người này đi rồi, tự nhiên sẽ có người khác đến thay, trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, tự nhiên sẽ có con đường có thể độ hóa các con đến bờ bên kia của Niết Bàn. Nói xong, Pháp thân của Đức Phật Thích Ca liền biến mất không thấy đâu nữa. Tôi đem tình huống mà Đức Phật nói với tôi kể lại với sư phụ và những người khác, sư phụ hỏi tôi sẽ dự tính thế nào, tôi đã đắn đo suy nghĩ rất lâu, nói với sư phụ rằng tôi sẽ đi vân du, đi tìm Pháp, đi tìm con đường thông đến bờ bên kia của Niết Bàn.
Phần trên nói tôi có thiên nhãn thần thông, tôi biết rất nhiều người cảm thấy hứng thú đối với cái này, ở đây, không ngại thì nói một chút vậy. Cái được gọi là thiên nhãn (thiên mục), thật ra chính là thể tùng quả của con người, cũng chính là Nê Hoàn cung mà Đạo gia nói đến. Mỗi người đều có thể tùng quả, chỉ cần trải qua tu luyện, thông qua năng lượng gia trì, đều có thể mở được thiên nhãn, cái này không có gì là thần bí cả.
Đạo sĩ tu luyện 300 năm trong núi sâu vén mở bí mật về công năng đặc dị
Dùng thiên nhãn nhìn thế giới, hoàn toàn không phải là cùng một khái niệm với con mắt thịt này, không phải là điều mà người thường có thể tưởng tượng được. Chúng ta dùng mắt thịt để nhìn đồ vật, thì đứng ở một chỗ chỉ có thể nhìn được một phương hướng, một tầng mặt, đúng vậy không? Dùng thiên nhãn nhìn thì sao, là toàn bộ phương vị, lập thể, cho đến hết thảy tín tức. Chính là nói chỉ nhìn thoáng qua một cái thì bốn mặt tám hướng, trên dưới trái phải, từ trong đến ngoài, toàn bộ tín tức nhìn không sót cái gì cả. Ví như nhìn một người, các vị dùng mắt thịt chỉ có thể nhìn được một khía cạnh của anh ta, hơn nữa chỉ có thể nhìn được bề mặt, còn dùng thiên nhãn thì sao, mỗi một tế bào của người này tôi đều có thể nhìn được hết sức rõ ràng, ngay cả trong lòng anh ta đang nghĩ cái gì, đều có thể nhìn ra được.
Thiên nhãn thông là gì, vì sao có thể nhìn thấy trước tương lai?
Sau khi khai mở thiên nhãn, đặc biệt là sau khi nhớ lại những việc trước đây của tôi, tôi liền lại có thể biết chữ, nhưng đều là chữ phồn thể, chữ giản thể tôi cũng đọc được, những quyển sách khác, ngay cả lật cũng không cần lật, tôi đảo mắt một cái toàn bộ đều biết hết. Bây giờ những cái gọi là khoa học kỹ thuật cao, trong mắt của tôi, đều là rất đơn giản, nhìn một cái là xuyên qua toàn bộ.
Thiên nhãn trong Phật gia chia thành năm tầng thứ:
Nhục nhãn thông
Thiên nhãn thông
Huệ nhãn thông
Pháp nhãn thông
Phật nhãn thông.
Khi tôi vừa mới khai mở thiên nhãn là đã ở tầng thứ nhục nhãn thông, đợi đến khi bắt đầu vân du, chính là tầng thứ Pháp nhãn thông rồi. Đến bước Pháp nhãn thông này rồi, tôi không những có thể nhìn được toàn bộ tín tức của người và động vật, mà còn có thể nhìn được lịch trình ba đời quá khứ của một sinh mệnh, có thể nhìn được nhân duyên ba đời trong quá khứ. Chỉ đáng tiếc là, tôi nhìn không được con đường tương lai của một sinh mệnh. Thật ra, cái gọi là thiên nhãn này, không phải là mê tín gì cả, ngay cả dùng đạo lý của khoa học cũng có thể hoàn toàn giải thích được.
Ví dụ như, mắt thịt của người thường chỉ có thể nhìn thấy những ánh sáng nhìn thấy được, còn những tia X , tia gamma gì đó, con người không nhìn thấy chúng được. Mà những tia sáng có lực xuyên thấu còn mạnh hơn tia gamma thì nhiều không đếm hết, có thể nói là vô hạn, hơn nữa không đâu không có. Thể tùng quả có thể nhìn thấy, cảm nhận thấy những tia sáng này, vì vậy có thể nhìn xuyên qua thân thể người, có thể nhìn thấy những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Thể tùng quả của những người bình thường là bị phong bế, thông qua tu luyện, có thể dần dần đả khai loại phong bế này, khiến nó có thể nhìn được đồ vật.
Như vậy tại sao tôi lại biết được trong lòng người khác đang suy nghĩ những gì? Lại làm sao mà biết được nhân duyên ba đời của người khác? Cái này càng đơn giản hơn.
Rất nhiều người đều đã biết, đại não của con người, có khoảng 90% là bị phong bế, căn bản là không sử dụng được. Những người đần độn, bị phong bế nhiều một chút, có thể đến 95%, những người thông minh, thì bị phong bế ít hơn một chút, có thể đại não của anh ta chỉ bị phong bế 85%. Còn có những người, não bộ bị cắt bỏ nửa bên, chỉ số thông minh gì đó một chút cũng không bị ảnh hưởng, có thể sinh hoạt bình thường.
Gặp gỡ những người vẫn may mắn sống sót dù mất một phần não Như vậy điều này cũng làm nảy sinh một vấn đề, phần lớn đại não kia làm những gì? Tôi xin nói cho các vị rằng, đó là dùng để tồn trữ kí ức, hết thảy kí ức trong đời đời kiếp kiếp của các vị đều tồn trữ trong đó, thậm chí tín tức của toàn bộ vũ trụ này trong đó đều có cả, chỉ là bị phong bế, vậy nên các vị dùng không được mà thôi. Những tín tức này, dùng thiên nhãn mà nhìn, đều là hình ảnh rõ ràng hoàn chỉnh, hơn nữa còn có màu sắc, giống như là ti vi vậy, ngay cả âm thanh đều có cả. Trong lòng bạn nghĩ cái gì, cũng sẽ hình thành hình ảnh ở trong đại não, vậy nên người ta nghĩ cái gì, những trải nghiệm trong quá khứ hay đời trước của ai đó, thì người có thiên nhãn thần thông nhìn một cái là rõ hết.
Thiên nhãn mở rồi, ngoài việc có thể nhìn thấy những gì mà con người không thể thấy được ra, tôi còn có thể nhìn thấy một số Thần Tiên, quỷ quái và những linh thể, hơn nữa còn có thể câu thông với họ. Nhưng thông thường tôi không hiểu được họ, bởi tôi là người đã từng nghe qua Phật Pháp, không dễ lý giải được những Thần linh ở tầng thứ tương đối thấp này. Bạn chắc chắn sẽ hiếu kỳ, Thần Tiên, quỷ quái là một loại phương thức tồn tại như thế nào? Hình thức đó quá nhiều rồi, phương thức tồn tại các dạng các loại đều có, muôn màu muôn vẻ vậy, nhưng những thứ này mà so với các Đấng Giác Giả thì thật là kém xa, ngay cả so sánh cũng đều không thể nào so sánh được, vậy nên tôi cơ bản là không quan tâm đến họ.
Có người có thể biết rằng, động vật là không được phép nghe Pháp, cũng không cho phép chúng tu luyện. Tại sao lại như vậy? Bởi vì động vật không có các nhân tố thiết yếu cần phải có để tu luyện Phật Pháp, cũng chính là thân thể người. Vậy bản chất khác biệt của con người và động vật rốt cuộc là ở chỗ nào? Có hai điểm, một cái là đan điền, một cái khác chính là Nê Hoàn cung, cũng chính là thể tùng quả. Trong đan điền tồn trữ khí tiên thiên trong vũ trụ, loại khí này là siêu việt hơn cả hai khí âm dương, lại được gọi là nguyên khí, vô cùng trân quý. Còn thể tùng quả, nó chính là hình ảnh thu nhỏ của đại thiên thế giới, linh hồn của con người chính là bị phong ấn ở nơi này, bên trong có thụ ấn của Phật để lại cho con người trước khi các vị chuyển sinh vào cõi người, tại sao nói ai ai cũng đều có Phật tính, chính là nhờ vào cái thụ ấn này, đây cũng chính là nơi tồn tại bản tính lương thiện của con người. Có hai thứ như vậy, con người mới có thể tu luyện, mới xứng đáng được nghe Phật Pháp. Thân người sở dĩ trân quý như vậy, chính là trân quý ở chỗ này. Nói con người là anh linh của vạn vật, chính là bởi vì trên thân thể của con người có thụ ấn mà Phật để lại.
Động vật nó không có thể tùng quả, cũng không có đan điền, cũng chính là nó không có trang bị bản tính lương thiện, vậy nên không để nó nghe Pháp. Không tin bạn xem mẫu giải phẫu của một số động vật xem, bất luận là động vật nào, đảm bảo là không có thể tùng quả, thứ này chỉ có con người mới có. Nói đến đây, tôi nghĩ đến thuyết tiến hóa của Darwin, nói con người là khỉ dần dần tiến hóa mà thành, đây hoàn toàn là ăn nói xằng bậy. Các nhà khoa học, nhà y học hiện đại, giải thích đối với thể tùng quả là con mắt thứ ba đã bị thoái hóa của con người. Như vậy được thôi, tại sao con khỉ, tinh tinh, vượn, khỉ đầu chó cho đến hết thảy các loài động vật linh trưởng này, đều chỉ có hai con mắt vậy? Chúng sao không có ba con mắt? Hơn nữa khi người ta thử giải phẫu những con động vật này, chúng nó đều không có thể tùng quả, điều này giải thích thế nào đây?
Mục đích chính của tà thuyết xằng bậy của Darwin là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, để mọi người tin rằng bản thân mình là con khỉ tiến hóa thành.
Xin nói rõ với các vị rằng, tôi thông qua thiên nhãn đã nhìn thấy được tình huống chân thật, Darwin thật ra là quỷ vương chuyển sinh vào cõi người, mục đích chính là làm loạn nhân gian, thuyết tiến hóa mà ông ta đưa ra, mục đích chính là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, để mọi người tin rằng bản thân mình là con khỉ tiến hóa thành, mà con người lại thật sự đã tin vào cái tà thuyết của Darwin, đây quả thật là điều sỉ nhục nhất cũng là điều tức cười nhất của con người. Tại sao Đức Phật Thích Ca bỏ mặc thế gian con người rồi, một trong những nguyên nhân chính là đại bộ phận con người đều đã không tin vào sự tồn tại của Thần Phật nữa, Pháp mà Phật truyền lại cũng không độ hóa nổi những loại người này, vì vậy Đức Phật cũng chỉ có thể không còn quản nữa.
Thần Phật đại trí đại huệ, đại từ đại bi, có đủ Thần thông vô thượng, nhưng cũng có vấn đề mà Thần Phật không thể giải quyết được, đó chính là nhân tâm. Nhân tâm không biến đổi, Thần Phật cũng không còn cách nào.
Người hiện đại không còn tin vào Thần Phật, cũng không muốn tu luyện Phật Pháp, nhưng động vật thì lại không phải vậy. Động vật nó không có thể tùng quả, như vậy linh hồn và đại não của nó cũng chính là không có bị phong ấn, trí huệ hoàn toàn khai mở. Các vị tự mình cảm thấy bản thân thông minh hơn động vật, thật ra các vị thua xa nó nhiều lắm, động vật nó cái gì cũng đều minh bạch, vậy nên động vật chính là trăm phương nghìn kế muốn có được thân thể người, dùng để tu luyện. Đây chính là tình huống chân thật của hôm nay, rất nhiều người trên thế giới này, các vị đừng nhìn thấy họ có hình người, cũng nói tiếng người, nhìn vào chính là con người, nhưng họ từ sớm đã không còn là người nữa, mà thật ra chính là linh hồn của động vật bám lên thân thể người.
Những người chủ động đi làm kỹ nữ, 99% có phụ thể là cáo. Chúng dùng phương thức này để lấy cắp tinh huyết của con người. Một đoạn thời gian trước, Bắc Kinh không phải đã truy ra một kỹ viện gọi là “thiên đường chốn ở nhân gian” hay sao, những người phụ nữ bán dâm trong đó, toàn bộ đều là hồ yêu phụ thể, quả thật yêu khí ngất trời. Tại sao nói rằng đến chốn ăn chơi kỹ viện sẽ giảm phúc giảm thọ đây, chính là vì bên trong cơ thể của những kỹ nữ này có quá nhiều yêu quái, họ chính là dựa vào phương thức này để ăn cắp tinh khí của con người.
Mọi người chắc biết người sống thực vật chứ, nhục thể đó vốn không có tổn thương gì, các cơ quan chức năng đều bình thường, tại sao người thực vật lại không có ý thức tư tưởng? Bởi vì linh hồn của họ sớm đã tiến nhập vào luân hồi rồi, đã không còn ở đó nữa.
Có những người thực vật sau bao nhiêu năm lại tỉnh dậy, tuy nhiên ký ức bị mất đi quá nhiều, trí lực cũng giảm đi rất nhiều. Phàm là những tình huống này, phần lớn đều là động vật phụ thể.
Có một số động vật thời gian tu luyện ngắn ngủi, đạo hạnh còn kém cũng rất vô tri, nó không biết rằng bám lên thân thể người rồi, thì chính là không xuống được nữa, hơn nữa trí huệ của nó cũng sẽ bị phong bế
Vì vậy nó hễ bám lên thân thể người, người thực vật đó liền tỉnh dậy, nhưng trí lực lại rớt xuống trầm trọng.
Đương nhiên, có những con động vật đã tu luyện hơn cả trăm nghìn năm, có được thần thông rất lớn, lúc này nó dẫu có lên thân thể người đi nữa cũng sẽ không xuất hiện vấn đề này, xem ra thì thấy tất cả đều rất bình thường, những người bình thường căn bản vốn không phát hiện được.
Chuyện người tu luyện kể ra đây, mục đích cũng là khuyến thiện, tu tâm dưỡng tính, đừng bị tà ác dẫn dụ thành mê mờ, tâm sáng tỏ thì mới có thể nhìn ra chân tướng mọi việc thế gian. Chân tướng này vốn là điều khiến bất kì ai cũng có thể cảm thấy kích động, nhưng mong các bạn có thể tu khẩu nghiệp, đừng phỉ báng Thần Phật để rồi tự rước họa cho bản thân, cửa địa ngục chờ đón. Tin hay không tin là do bạn quyết định, phúc họa cũng theo đó mà thành.
Lê Trung Hưng Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sáng giá nhất của cụ Thiên Lương.
Chúng tôi đương sọan bài tóm tắt lại các kinh nghiệm tử vi đã được nêu lên trong năm ngóai trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.
I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng - Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã. 2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh. 3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn. 4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế. 5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt. 6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan. 7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân. 8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh. 9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa. 10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc. b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc. c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy) d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy) e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy) f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
III- Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
IV- Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời).
V- Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần. b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân. d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
VI. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa - Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim - Hợi Mão Mùi : Hành Mộc - Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau : a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ. b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn. c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù. d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp : - Dần Ngọ Tuất là Hỏa. - Thân Tý Thìn là Thủy. - Hợi Mão Mùi là Mộc. - Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
X- Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
XI- Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
XIII- TỔNG LUẬN
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái "áo bí" của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu./.
Ngày nay trong các phương pháp đặt tên, thịnh hành nhất vẫn là đặt tên theo ngũ hành. Vậy thế nào là ngũ hành? Người ta tại sao lại phải lấy ngũ hành làm căn cứ để đặt tên?
1. Lý luận ngũ hành
Trong cuốn “Khổng Tử gia ngữ - Ngũ đế” có viết: “Trời có ngũ hành, Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ. Chia thời hóa dục, để thành vạn vật”. Ngũ hành là từ để chỉ năm loại nguyên tố vật chất, tức Thủy (nước), Hỏa (lửa), Mộc (cây), Kim (kim loại), Thổ (đất). Các nhà âm dương theo chủ nghĩa duy vật chất phác (giản đơn) cổ đại Trung Quốc cho rằng, năm loại vật chất này là khởi nguồn và căn cứ để tạo nên vạn vật.
Thời kỳ Chiến Quốc, học thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc (còn gọi là tương sinh tương thắng, ngũ hành sinh thũng) rất thịnh hành. Chủ nghĩa duy vật đơn giản cho rằng, một vật có tác dụng thúc đẩy một vật khác hoặc thúc đẩy lẫn nhau gọi là “tương sinh”, còn một vật có tác dụng ức chế một vật khác hoặc bài xích lẫn nhau gọi là “tương khắc” (cũng gọi là tương thắng).
Ngũ hành tương sinh có: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Ngũ hành tương khắc có: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
Cuốn “Thuyết văn – Bộ Ngũ” của Đoàn Ngọc Tài có phê chú: “Thủy Hỏa Kim Mộc Thổ, tương sinh tương khắc, âm dương giao ngọ dã”. Lý luận ngũ hành tương sinh tương khắc bao hàm các nhân tố của chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng, có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển của thiên văn, lịch sử, y học Trung Quốc. Đến nay, y học Trung Quốc vẫn lấy học thuyết ngũ hành để nói về thuộc tính của các tạng phủ và quan hệ tương hỗ của chúng. Ví dụ, Trung y cho rằng gan thuộc Mộc, tim thuộc Hỏa, tỳ thuộc Thổ, phổi thuộc Kim, thận thuộc Thủy…Ngoài ra, Trung y vẫn lấy lý luận ngũ hành tương sinh tương khắc trong lâm sàng để giải thích mối quan hệ hỗ trợ sinh trưởng và khắc chế nhau giữa các nội tạng. Ví dụ như gan có thể khắc chế tỳ, gọi là Mộc khắc Thổ; Tỳ có thể dưỡng phổi vì Thổ sinh Kim…Về phương diện điều trị, như bệnh gan phạm tỳ, thì áp dụng phương pháp điều trị ức chế gan, hỗ trợ tỳ, gọi là ức Mộc phù Thổ.
2. Người ta tại sao phải lấy lý luận ngũ hành để đặt tên?
Tư tưởng của con người là sản phẩm của xã hội. Hình thái ý thức của xã hội không lúc nào ngừng khắc dấu ấn vào trong não người. Mà tư tưởng con người có quan hệ mật thiết với nhận thức về tự nhiên, xã hội. Sự thịnh hành của học thuyết âm dương ngũ hành khiến cho người ta ràng buộc vinh nhục, phúc họa trong cuộc đời vào ngũ hành sinh khắc. Cho nên, khi đặt tên, đều hết sức mong cầu được âm dương điều hòa, cương nhu tương tế. Họ cho rằng như thế trong cuộc sống có thể gặp hung hóa cát, thuận buồm xuôi gió. Đây có lẽ là nguyên do mà mấy ngàn năm nay, mọi người vẫn luôn lấy lý luận ngũ hành làm căn cứ để đặt tên.
3. Mọi người làm thế nào để đặt tên theo lý luận ngũ hành?
Đặt tên theo lý luận ngũ hành có lẽ bắt đầu từ thời Tần Hán. Khi đó, người ta chủ yếu đem phép đặt tên theo can chi từ thời Thương Ân lồng ghép với quan điểm ngũ hành để đặt tên. Ở thời đại Chu Tần, người ta ngoài cái “Tên” còn đặt thêm “Tự”. Do đó, chủ yếu phối hợp thiên can với ngũ hành, đặt ra “Tên” và “Tự”. Như công tử nước Sở tên là Nhâm Phu, tự là Tử Thiên Tân, tức là lấy Thủy phối hợp với Kim, tức là lấy Thủy sinh Kim, cương nhu tương trợ cho nhau.
Đến đời Tống, phép đặt tên theo ngũ hành càng trở nên thịnh hành. Tuy nhiên, thời đó có khiếm khuyết là không coi trọng bát tự, chỉ lấy ý nghĩa của ngũ hành tương sinh để đặt tên.
4. Đời Tống ứng dụng ngũ hành tương sinh vào phép đặt tên như sau:
- Mộc sinh Thủy: Tên cha thuộc Mộc thì tên con phải thuộc Hỏa.
- Hỏa sinh Thổ: Tên cha thuộc Hỏa thì tên con phải thuộc Thổ.
- Thổ sinh Kim: Tên cha thuộc Thổ thì tên con phải thuộc Kim.
- Kim sinh Thủy: Tên cha thuộc Kim thì tên con phải thuộc Thủy.
- Thủy sinh Mộc: Tên cha thuộc Thủy thì tên con phải thuộc Mộc.
Đến nay, trải qua ngàn năm ứng dụng, phương pháp đặt tên theo ngũ hành đã được hoàn thiện rất nhiều, phối hợp chặt chẽ với 81 linh số và giờ ngày tháng năm sinh…để đạt hiệu quả đặt tên ở mức cao nhất.
Tiết Thanh Minh đi tảo mộ dùng hoa gì thì tốt? Thông thường nên chọn các loại hoa màu trắng thuần khiết, nhưng chúng ta cũng có thể dựa vào đối tượng khác nhau hoặc sở thích của người đã khuất mà dâng các loại khác nhau.
Sau đây là một số gợi ý trong việc chọn hoa đi Tảo mộ.
1. Hoa màu trắng: hoa cúc trắng, bách hợp trắng, cây mã đề
Tiết Thanh Minh truyền thống là để bày tỏ sự mong đợi vạn vật mùa xuân bừng sống lại, vòng tuần hoàn của cuộc đời lại bắt đầu tốt đẹp. Trong tiết Thanh Minh truyền thống, cành liễu mềm mại và hoa đào tươi thắm thường được dùng để tảo mộ. Còn ngày nay do mùi hương tao nhã và màu sắc thuần khiết nên hoa cúc, hoa cẩm chướng được mọi người dùng nhiều hơn. Ở rất nhiều nước châu Âu, hoa cúc được coi như gắn liền với mộ phần.
Thông thường mà nói, các loại hoa trắng tượng trưng cho sự tiếc thương, cho nên hoa cúc trắng, hoa bách hợp trắng và cây mã đề dùng cho việc tảo mộ là thích hợp nhất. Hoa hồng trắng, hoa dành dành hoặc các loài hoa có màu trắng trơn lại tượng trưng cho sự thương tiếc và nhung nhớ. Ngoài ra, một số người còn thích chọn các loại cây bình dị mà kiên cường như hoa lay-ơn, cây hương thảo. Hoa màu vàng cũng biểu tượng cho sự đau buồn và tưởng niệm, trong đó hoa cúc vàng được sử dụng phổ biến nhất.
Ngoài cúc trắng, cúc vàng cũng biểu tượng cho sự đau buồn và tưởng niệm.
2. Dựa vào tuổi tác và sở thích của người đã mất để chọn hoa
Đương nhiên, theo dòng chảy của thời gian, việc chọn hoa đi tảo mộ bây giờ đã không còn phải cứng nhắc ở việc lựa chọn hoa trắng. Rất nhiều người thích chọn hoa dựa vào sở thích và tuổi tác của người đã khuất hơn. Có thể chọn hoa lưu ly, hoa hồng vàng, hoa hồng đỏ. Nếu như người mất lúc tuổi cao, có thể tăng thêm tỉ lệ hoa màu đỏ, hồng, màu sắc ấm áp này thể hiện tình cảm nhớ nhung triền miên của con cháu. Cần phải chú ý, nếu như không có gì đặc biệt thì tốt nhất không nên đem các loại hoa có hương thơm nồng và hoa màu sắc sặc sỡ, để tránh khiến người khác nghĩ bạn không tôn trọng người đã khuất.
3. Tùy vào từng người khác nhau để chọn hoa khác nhau
Hoa tươi trong dịp Thanh Minh thường bó thành từng bó, màu sắc của hoa nên mộc mạc, lấy màu trắng làm chủ đạo, vàng làm phụ, điểm thêm chút sắc tím.
- Dâng cho người bề trên, có thể dùng hoa cúc vàng hoặc trắng.
- Với người cùng thế hệ, có thể dùng hoa cúc trắng và vàng, ngoài ra cũng có thể dùng các loại hoa màu trang nhã như hoa loa kèn, cẩm chướng…
Hoa loa kèn thích hợp cho mộ phần của người cùng thế hệ.
- Với bạn bè, không cần thiết câu nệ hình thức, nên chọn loài hoa mà khi sinh thời người đó thích là được.
Với bạn bè, nên chọn hoa mà khi sinh thời người đó thích.
Thật ra, hoa màu gì, hình dáng thế nào đều không phải là điều quan trọng nhất, bởi vì dù sao cũng không có luật lệ ban hành phải dùng hoa gì dịp Thanh Minh, mà quan trọng nhất đó là hoa phải gửi gắm được tính cảm của bạn với người đã khuất.
Đặc điểm của tướng mặt hình chữ Vương: Mặt hơi dài, từ phần xương gò má tới cằm trông giống như hình thang cân ngược.
Chủ nhân của tướng mặt này thường có sức lực dồi dào, nói nhiều nhưng không dàn trải mà có cách nghĩ và trọng điểm riêng của mình. Họ luôn thích thử sức làm mọi chuyện và một khi nói là sẽ làm bằng được.
Bên cạnh đó, người này khá hiếu chiến, hiếu thắng, quyết bảo vệ quan điểm sai lầm của mình, chứ không chịu nhận thua trước người khác. Họ tham vọng, không hài lòng với hiện tại, thường mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi thấy công việc phát triển thuận lợi, nếu cấp trên không đáp ứng yêu cầu tăng lương, họ sẵn sàng nhảy việc, đi tìm chân trời mới.
Ảnh minh họa
2. Cằm đầy đặn, Nhân trung vừa dài và sâu
Một người sở hữu tướng cằm đầy đặn, Nhân trung lại vừa dài, sâu và đường nét môi miệng rõ ràng thường có hoài bão lớn trong sự nghiệp. Người này khá coi trọng hình tượng, đề cao lễ nghi, ăn mặc chỉn chu, người khác nhìn vào thường có cảm giác uy nghi, đáng nể trọng.
Bên cạnh đó, họ không những chỉ có tham vọng trong sự nghiệp và cả phương diện tình cảm cũng vậy. Có thể nói người này thuộc tuýp cầu toàn, sẵn sàng bỏ ra mọi giá để có được cuộc sống viên mãn, hài hòa cả về vật chất và tinh thần.
3. Mắt tam bạch
Trong Nhân tướng học, mắt tam bạch hay còn gọi là mắt ba tròng, phần lớn là tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Người này có ý chí kiên cường, tham vọng lớn trong công việc. Họ luôn nỗ lực phấn đấu và dốc toàn bộ sức lực để đạt được thành công.
Nếu đuôi mắt có nhiều vết chân chim, cho thấy họ rất cố gắng phấn đấu, tuy nhiên vất vả mà lại không đạt được thành tựu lớn. Nếu phần lớn những nếp nhăn đó hướng xuống thì người có tướng mặt này gặp số phận vất vả, nỗ lực hết mình nhưng thu về thành quả không xứng đáng. Ngược lại, nếu những đường nhăn này hướng lên, đây là kiểu người sẽ gặt hái được thành tựu về công danh sự nghiệp. 4. Lông mày nằm ngang
Lông mày nằm ngang hay còn gọi là lông mày lưỡi mác. Người có tướng lông mày này thường rất kiên cường, không dễ thay lòng đổi dạ, không chịu khuất phục trước áp lực bên ngoài, ngược lại khi đối mặt với áp lực càng lớn, họ càng cảm thấy phấn khích và quyết tâm cao độ hơn.
Người này tích cực phấn đấu hết mình cho đến khi giành thắng lợi. Tuy nhiên nhược điểm của người này là quá cứng rắn, thậm chí có thể nói là cứng nhắc nên cũng dễ phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong cuộc sống và sự nghiệp.
5. Hai cánh mũi nở
Người có kiểu mũi và hai cánh mũi nở nang và hơi hướng lên trên thường có cá tính mạnh mẽ, độc lập nhưng lại âm thầm, không thích phô trương. Họ làm việc nghiêm túc, điềm tĩnh và chú ý nhiều tới hiệu quả thực tế chứ không phải là các tiểu tiết.
Hơn thế, họ làm việc gì cũng biết cân nhắc trước sau, không tổn hại đến lợi ích của người khác, biết chú ý tới đại cục nên trong tập thể thường được đề bạt làm quản lí hay lãnh đạo.
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
Phong thủy 2014: Nhà phạm Tam sát và cách hóa giải Tam sát –
Hướng nhà, hướng văn phòng, … phạm Tam sát, thì gặp hạn xấu về thanh danh, tiền bạc và các mối quan hệ. Trong phong thủy lấy hướng phạm tam sát là đại kỵ. Ngoài việc nhà ở, văn phòng, cửa hàng, phòng ngủ, phòng khách, phạm phải hướng có sao xấu “Ngũ
Hướng nhà, hướng văn phòng, … phạm Tam sát, thì gặp hạn xấu về thanh danh, tiền bạc và các mối quan hệ. Trong phong thủy lấy hướng phạm tam sát là đại kỵ.
Ngoài việc nhà ở, văn phòng, cửa hàng, phòng ngủ, phòng khách, phạm phải hướng có sao xấu “Ngũ Hoàng Đại Sát” chiếu, và sao xấu “Nhị Hắc” chiếu ngay hướng nhà mình đang ở, hoặc hướng văn phòng, hướng cửa hàng, mỗi năm mỗi hướng, thì bên cạnh đó cần phải chú ý đến hướng nhà, hướng văn phòng, hướng cửa hàng, hướng phòng ngủ phạm Tam sát.
Hướng nhà, hướng văn phòng, hướng cửa hàng, hướng phòng ngủ phạm Tam sát, thì người nhà mắc nhiều bệnh, gặp hạn xấu về thanh danh, tiền bạc và các mối quan hệ. Trong phong thủy lấy hướng phạm tam sát là đại kỵ.
Dần,Ngọ,Tuất hợp Hỏa cục, hòa vượng ở phương Nam,phương Bắc (Hợi, Tý, Sửu) và sự xung của nó là tam sát. (Hợi là kiếp sát, Tý là tai sát, Sửu là tuế sát, Tuế sát cũng gọi là mộ khố sát).
Thân,Tý,Thìn hợp Thủy cục, thủy vượng ở phương Bắc, phương Nam (Tỵ,Ngọ,Mùi) và sự xung của nó là tam sát. (Tỵ là kiếp sát,Ngọ là tai sát,Mùi là tuế sát).
Hợi,Mẹo,Mùi hợp Mộc cục,mộc vượng ở phương Đông, phương Tây (Thân,Dậu,Tuất) và sự xung của nó là tam sát. (Thân là kiếp sát,Dậu là tai sát,Tuất là tuế sát).
Tỵ, Dậu, Sửu hợp Kim cục, kim vượng ở phương Tây,phương Đông (Dần, Mẹo, Thìn) và sự xung của nó là tam sát. (Dần là kiếp sát, Mảo là tai sát, Thìn là tuế sát).
Lấy năm mà nói, như năm Dần, Ngọ, Tuất, Bắc phương đều nói là năm tam sát. Năm tam sát ở hướng, không thể tọa. Tọa tam sát tức tọa sát, đại kỵ: Năm, tháng, ngày, giờ Dần, Ngọ, Tuất, đều kỵ tu tạo ở Bắc phương. Các phương khác cứ thế mà suy ra.
Như vậy tam sát là tên gọi chung của kiếp sát,tai sát và tuế sát,mổi năm chiếm ba hướng tuyệt,thai và dưởng là tam hạp của ngủ hành.
Cụ thể: Năm nay là năm Giáp Ngọ (2014), theo câu quyết : Dần, Ngọ, Tuất: Sát Bắc. Có nghĩa là nhà ta ở hướng Bắc là phạm phải tam sát.
Nếu gặp phải tam sát, người nhà mắc nhiều bệnh, gặp hạn xấu về thanh danh, tiền bạc và các mối quan hệ.
Phương pháp hóa giải: Là đặt 3 con Kỳ lân hoặc 3 con Sư tử, và đặc biệt là 3 con Tỳ Hưu (vừa hóa giải hạn Tam sát, vừa chiêu tài lộc cho gia đạo). Đầu Kỳ lân hoặc Sư tử, hoặc Tỳ Hưu hướng ra ngoài cửa chính, muốn ngăn ngừa Tam sát, ta phải xếp liền 3 con Kỳ lân, hoặc 3 con Sư tử, hoặc 3 con Tỳ Hưu cùng một chỗ. Về chất liệu của Kỳ lân hoặc Sư tử, hoặc Tỳ Hưu, thì bằng đá, bằng ngọc, hay kim loại đều sử dụng được.
Ý nghĩa và điều cấm kỵ khi đặt tên cho con - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi
Ý nghĩa và điều cấm kỵ khi đặt tên cho con, Đặt tên cho con, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Ý nghĩa và điều cấm kỵ khi đặt tên cho con, tu vi Ý nghĩa và điều cấm kỵ khi đặt tên cho con, tu vi Đặt tên cho con
Trước tiên cần phải hiểu rằng đối với các bậc làm cha mẹ, khi đặt tên cho con nên hiểu đầy đủ ý nghĩa tên để đặt tên cho con đúng với những kỳ vọng, mong muốn của mình.
Điều cấm kỵ trong việc đặt tên cho con
Theo tử vi 2016 thì những ngày tháng con lớn khôn, cha mẹ hãy truyền đạt lại những ý nghĩa đó cho con và nhắc nhở con hàng ngày về những bài học bên trong cái tên, hướng cho con sống tốt, trở thành người có Đức, có Tài như những kỳ vọng của cha mẹ đã gửi gắm. Ý nghĩa tên thể hiện tình yêu thương và niềm tự hào của cha mẹ về đứa con yêu. Cha mẹ hãy gửi gắm vào cái tên của con mình những bài học giáo dục đạo đức và tính cách ngay từ đầu.
Còn đối với đứa trẻ, khi hiểu rõ ý nghĩa tên của mình, bé sẽ yêu quý, tự hào một cách sâu sắc về tên mình. Cái tên sẽ thay cha mẹ nhắc nhở con giữ Đức luyện Tài và có động lực điều chỉnh hành vi hàng ngày. Con sẽ luôn biết mình đi con đường nào ngay cả khi không có cha mẹ ở bên. Ý nghĩa cái tên như Bài học gối đầu, sẽ theo con mọi lúc, mọi nơi và suốt cuộc đời. Đến một thời điểm bạn hãy cho con biết được ý nghĩa tên của mình, lúc đó bé sẽ tự hào, yêu quý và trân trọng bản thân, từ đó biết ý thức vươn lên, tự cố gắng phấn đấu để xứng đáng với ý nghĩa tên của mình đã được cha mẹ đặt cho.
Coi bói thấy xã hội ngày càng hiện đại và đôi khi bố mẹ luôn mong muốn con mình luôn hạnh phúc, tài giỏi và làm rạng danh bố mẹ. Đặt tên cho con làm sao vừa đẹp, độc mà ý nghĩa thật không dễ. Tuy nhiên khi đặt tên cho con bố mẹ cần lưu ý một số điểm cấm kỵ như sau:
1. Tránh đặt tên con trùng tên với các người thân, họ hàng trong gia đình, đặc biệt là trùng tên với các cụ trong khoảng 3-5 đời hay các ông bà trong dòng họ gần gũi. Nếu vô tình đặt tên trùng như vậy, bạn hãy sử dụng tên ở nhà để thay thế cho tên chính đó nhé. 2. Đặt những tên quá cũ kĩ hoặc trùng lặp quá nhiều. Cho dù bạn cố đặt thêm những tên đệm, nhưng việc trùng lặp tên quá nhiều cũng không mấy hay ho. 3. Đặt tên quá thô tục, tối nghĩa. Những kiểu tên liên quan đến các bộ phận tế nhị của người, động vật, hay tên hàm ý có liên quan đến những thứ không trong sáng. 4. Đặt tên con với ý nghĩa nông cạn. Đôi khi những cái tên của bạn quá khoa trương và dễ trở thành trò chế giễu của mọi người. 5. Đặt tên mang ý nghĩa xấu liên quan đến bệnh tật, nhan sắc, tù túng. 6. Tránh đặt tên con theo các từ luyến láy. Cái tên đó sẽ hài hước nhưng dễ khiến trẻ chán ghét nếu bé không phải người mạnh dạn. 7. Tránh đặt tên chứa tên nước ngoài. Nếu không phải con lai tốt nhất bạn đừng đặt thêm các từ nước ngoài vào tên chính, hãy dùng nó làm tên ở nhà là được. 8. Không nên đặt tên con liên quan đến động vật không may mắn trong phong thủy. 9. Không nên đặt tên con khó phân biệt được giới tính. 10. Những tên liên quan đến sự vật hiện tượng không tốt lành như sấm, bão, lũ… cũng cần phải tránh. 11. Những tên chứa từ có liên quan đến thứ bậc vai vế trong gia đình cần phải tránh. 12. Những từ đa nghĩa , đồng âm , tục ngữ hay ngạn ngữ cũng nên tránh. 13. Tránh đặt tên theo người nổi tiếng. Vì sao, bởi họ rất dễ có những scandal không ngờ, chắc chắn bạn không muốn con mình liên quan phải không. 14. Không nên đặt tên con theo trào lưu, theo số đông . Cái gì là mốt thì sẽ rất nhanh lỗi mốt. 15. Không đặt tên con ám chỉ các bộ phận cơ thể 16. Không nên đặt tên con theo các từ ngữ cổ, các từ hán việt ít sử dụng. 17. Tránh những tên quá dài, quá ngắn, khó viết hoặc khó đọc. 18. Không nên đặt con tên vần A hoặc XYZ, khi trẻ đi học việc tên đầu sổ hay cuối sổ rất bất lợi. 19. Đặt tên con theo các đồ vật tế lễ, nghi thức cúng bái cũng cần tránh. 20. Đặt tên con theo các vị thần thánh, phật, chúa cũng cần tránh. 21. Đặt tên con có chứa thanh bằng , thanh trắc quá 3 từ liên tục. 22. Không nên đặt tên con liên quan đến tiền, kể cả tên đệm đọc lái liên quan đến tiền. 23. Tránh đặt tên con trùng với bố mẹ, nhiều gia đình đặt tên con trùng bố mẹ và khác tên đệm, điều đó sẽ gây rắc rối về sau. 24. Đặt tên con quá nổi bật là điều không nên. Một cái tên sáng nghĩa là đủ, không cần quá khoa trương. 25. Tránh đặt tên con theo các vị lãnh tụ , bậc thánh hiền, danh nhân.
Tục ngữ có câu: “Đàn ông sợ nhất là làm sai nghề, phụ nữ sợ nhất là lấy nhầm chồng”. Để tìm được người bạn đời trong biển người mênh mông quả không phải là chuyện dễ. Đối với phụ nữ, tìm được người chồng tốt vừa yêu thương vợ vừa biết lo cho gia đình đó là điều hạnh phúc nhất của cả đời người. Dựa vào 1 số đặc điểm của nét tướng biểu hiện dưới đây, có thể bạn sẽ tìm được người chồng ưng ý.
Vầng trán vuông là đặc điểm thường gặp ở nam giới. Chủ nhân của dạng trán này thường sống rất thực tế, thận trọng trong công việc. Họ là người rất kiên trì, có ý chí phấn đấu không mệt mỏi.
Nam giới có tướng trán này thường ít thành công ở giai đoạn đầu đời. Họ cần phấn đấu nhiều để có thể xây dựng sự nghiệp vững chắc. Đa số người trán vuông có khuynh hướng trở thành thương nhân. Cũng có 1 số người dễ đạt được thành công trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhờ vào năng lực và sự kiên trì của bản thân.
Trán vuông không phải là tướng lý tốt đối với nữ giới. Nếu như vầng trán của họ lại bị biến dạng bởi các vết sẹo hay các tỳ vết khác thì độ xấu càng tăng. Họ thường gặp nhiều rắc rối, thậm chí là bất hạnh trong đời sống hôn nhân.
Thiên đình cao rộng, mũi thẳng, ngũ nhạc hướng vào nhau. Thiên đình là cung vị của sự nghiệp. Người có thiên đình cao rộng, đầy đặn là người có khả năng phân tích tốt, làm việc có kế hoạch, sự nghiệp thuận lợi. Người có ngũ nhạc (trán, mũi, cằm và 2 gò má) đầy đặn, hài hòa là người có phúc tướng, sự nghiệp ổn định. Họ chính là chỗ dựa vững chắc cho nhân viên.
- Sơn Căn (khoảng cách ở giữa 2 đầu mắt) cao, màu sắc sáng sủa; sống mũi cao, chóp mũi tròn, 2 cánh mũi phải đầy đặn; chân mày hướng đến tóc mai là người có chí lớn, tài vận tốt. Nếu nam giới có đầu mũi nhọn, xương xẩu là người rất khắt khe, thường hay trách cứ vợ con; chặt chẽ trong chi tiêu. Nếu xương sống mũi lộ ra thì càng khắc vợ.
- Gian Môn (phía trên đuôi mắt) bằng phẳng,đầy đặn, không có nếp nhăn xung phá là tướng tốt, được sự hậu thuẫn đắc lực của người vợ. Nếu bộ phận này lõm vào thì duyên phận vợ chồng có thể bị tổn hại, khắc với vợ, không thể sống với một vợ đến già mà sẽ có nhiều lần kết hôn. Vị trí này dù không lõm nhưng lại có nốt ruồi hoặc có quá nhiều nếp nhăn nơi đuôi mắt kéo dài ra tận cung Phu Thê (phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt kéo dài đến chân tóc mai) thì có ảnh hưởng không tốt đến vợ.
- Nhãn thần (Mắt) đoan chính, thần thái thanh thoát nhưng phải có vẻ uy nghiêm, tròng trắng và tròng đen rõ ràng, phân minh. Ông chủ có nét tướng này là người thông minh, sức khỏe tốt; có tấm lòng lương thiện, biết phân biệt phải trái.
Nhiều người Hoa khi đánh giá bất kỳ đối tác làm ăn nào, xem mắt là quan trọng đầu tiên.
Nên chọn người mắt sáng (sáng trong, sáng xanh), lòng đen trắng rõ ràng, lòng đen nhiều hơn lòng trắng, tướng mắt cân đối: đây là một phần của tướng người quân tử, thông minh, chính trực.
Người mắt nâu thường lãng mạn, đa cảm, có khiếu nghệ thuật hơn người mắt đen (ít người đàn ông mắt nâu).
Nên tránh người mắt trái to hơn mắt phải. Ðây là tướng người ít nhiều gia trưởng.
Người mắt tam giác là người nhiều mưu mô, tâm tính không hiền lành. Tướng này không phải là người chồng tốt.
Người mắt to quá cũng thường không hay, vì người này thường mơ mộng, thiếu năng lực thực tế. Họ hợp với nghệ thuật hơn.
Người có mắt đẹp điển hình là Quan Vân Trường của Trung Quốc, đó là tướng mắt phượng mày ngài. Người đàn ông nào có được tướng mắt ít nhiều như vậy cũng là quý tướng rồi. Người như thế quan lộc, công danh sự nghiệp rất tốt, lại thêm tính thủy chung, son sắt.
Mắt tam bạch đản hoặc tứ bạch đản (là trường hợp nhãn cầu chỉ chạm vào một mí mắt, hoặc thậm chỉ không chạm mí nào cả trên cả dưới – kết quả là để lộ ra 3 đến 4 phần trắng trong cả con mắt): Ðây là tướng người vất vả, hung khí thậm chí đến tù tội, chết oan khuất. Các chị em bạn gái chọn người này nên cân nhắc thật kỹ và xem xét thêm các bộ vị khác.
Mắt “phù quang”: Ánh mắt lúc nào cũng sáng đều đều nhưng theo dạng đục đục, vui buồn không thấy biểu hiện trên ánh mắt. Ðây là tướng người lạnh lùng đến tàn nhẫn.
- Sống mũi không quá cao, chóp mũi không quá nhọn. Nếu người có mũi cao và đường sống mũi bị lộ thì sự nghiệp gặp nhiều trở ngại, khó có được sự ủng hộ của người cấp dưới. Người có chóp mũi nhọn và không đầy đặn thường kiêu ngạo, hay chỉ trích người khác sau lưng. Họ cũng rất chi li, tính toán về mặt lợi ích với cấp dưới.
- Chóp mũi tròn, đầy đặn; địa các (cằm) tròn trịa. Đây là ông chủ rộng rãi, tốt bụng, đáng tin cậy và luôn thân thiện với nhân viên. Họ giỏi giao tiếp và luôn đánh giá, nhìn nhận về con người, công việc một cách công bằng, phân minh.
- Địa Các (cằm): đầy đặn, bằng phẳng, vuông tròn là lý tưởng. Địa Các cho biết vận mệnh cuối đời; thể hiện quan niệm, thái độ, tình cảm của một người đối với gia đình. Nếu nam giới có cằm như trên là coi trọng cuộc sống gia đình. Trái lại, người có cằm nhọn thường không thích gò bó trong vai trò của một người chồng, do đó tình cảm vợ chồng vì thế cũng bị ảnh hưởng, cuộc sống gia đình không xuôi chèo mát mái.
- Eo tròn, lưng dày, vai bằng, rộng, ngực bụng cân đối thường là người có phúc tướng. Người này có nhiều phúc lộc, có thể gánh vác trọng trách trong gia đình và ngoài xã hội. Ngược lại, nếu nam giới có vai nhọn, cao là người có sức khỏe yếu, cuộc sống vất vả, bụng dạ hẹp hòi và nóng nảy.
- Diện mạo ôn hòa, nói năng nhã nhặn, giỏi kiềm chế; khi nói thì hướng đầu lên trên, không cúi gập đầu xuống. Đây là ông chủ có trình độ, khiêm nhường, biết trước biết sau, biết nghĩ đến quyền lợi của nhân viên.
Vào những năm cuối thời Đông Hán, Tào Tháo thực hiện chính sách “duy tài thị cử” (chỉ tiến cử người tài) để thu thập nhân tài trong thiên hạ, đồng thời cho các văn thần võ tướng trong triều có cơ hội được trổ hết tài năng.
Nhưng đến lúc về già, gian hùng đệ nhất Tam Quốc này vì sinh lòng nghi kị nên đã ra tay trừ khử vô số người có năng lực. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới cái chết oan khuất của một bậc kỳ tài nổi tiếng – Thôi Diễm.
Điều đáng nói là, sau khi “đệ nhất án oan đệ nhất Tam Quốc” này xảy ra, con cháu của Thôi Diễm lại có thể hưng thịnh được tới 700 năm. Trong khi đó, vương triều của Tào Tháo lại “sớm nở tối tàn”, tồn tại vẻn vẹn chỉ vài chục năm.
Cái chết tức tưởi của danh sĩ nổi danh Tam Quốc
Nạn nhân của “đệ nhất án oan thời Tam Quốc” là danh sĩ Thôi Diễm, tự Quý Khuê. Ông quê ở Võ Thành – Đông Thanh (nay là huyện Thanh Hà thuộc tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc).
Tương truyền rằng, Thôi Diễm lớn lên tuấn tú, nho nhã, từ sớm đã yêu thích đấu kiếm, tôn sùng việc học võ. Sau này, ông được quê nhà cử đi thi nên mới đọc sách, nghiền ngẫm “Luận ngữ”, “Hàn thi”.Thuở thiếu thời, ông bái một nhà đại Nho đương thời là Trịnh Huyền làm sư phụ.
Được một thời gian, quân Hoàng Cân ngày càng hung hăng, ngang ngược, Trịnh Huyền buộc phải trao trả môn sinh. Thôi Diễm sau khi xuất sư đã đi ngao du nhiều phương, 4 năm sau mới trở về quê nhà, ngày ngày “cầm sách đọc để tiêu khiển”.
Chân dung nhân vật Tam Quốc Thôi Diễm.
Sớm đã nghe được đại danh của Thôi Diễm, Viên Thiệu tìm mọi cách chiêu mộ ông về làm quan. Lúc bấy giờ, kỷ luật quân đội của Viên Thiệu rất kém cỏi, Diễm vẫn thường hết lời can gián.
Sau đó, Viên Thiệu lại muốn quyết chiến với Tào Tháo, Thôi Diễm đã một mực khuyên can, nhưng Thiệu vẫn nhất quyết không nghe.
Tới lúc hai người con trai của Thiệu tranh giành ngai vị, bên nào cũng muốn lôi kéo bậc kỳ tài họ Thôi này về phía mình. Nhưng Diễm nói mình có bệnh, kiên quyết từ chối.
Vì đắc tội với kẻ trên, Thôi Diễm một thân mang tội, bị tống vào ngục giam. May nhờ Âm Quỳ, Trần Lâm lo liệu, nhân vật kỳ tài này mới có thể thoát khỏi tội chết.
Sau này, Tào Tháo chiếm được Ký Châu, cũng hết lòng chiêu mộ Thôi Diễm ra làm quan cho mình.
Tương truyền rằng, Diễm sở hữu vóc người cao lớn, giọng nói sang sảng, mặt mày sáng sủa, râu dài 4 thước, dáng vẻ uy nghi, lại ăn nói ngay thẳng, được quần thần vô cùng kính trọng, ngay cả Tào Tháo cũng thập phần kính nể.
Sinh thời, Diễm vốn là người cương trực, từng khuyên can Tào Phi không nên đi săn, can gián Tào Tháo không nên “phế trưởng lập ấu” (phế con trưởng lập con thứ).
Có trong tay một nhân tài ăn nói ngay thẳng, can gián chân thật, Tào công luôn âm thầm tán thưởng Thôi Diễm. (Ảnh: nguồn internet).
Về việc chọn Thái tử, Thôi Diễm từng có đôi lời dâng lên quân chủ:
“Từng nghe rằng theo nghĩa Xuân Thu, lập con lấy trưởng, thêm nữa, Ngũ quan tướng (chỉ Tào Phi) là người thông minh, nhân hiếu, nên được kế thừa chính thống. Diễm này lấy cái chết để giữ ý kiến đó.”
Trong khi đó, vợ của Tào Thực (con thứ ba của Tào Tháo) là cháu gái Thôi Diễm. Nhưng với suy nghĩ chính trực, vị danh sĩ này vẫn lấy tính mạng của mình ra để ủng hộ trưởng tử Tào Phi.
Tào Tháo quý trọng và khâm phục ông chính là ở tấm lòng công chính, ngay thẳng ấy. Trong cuộc đời làm quan của mình, Thôi Diễm từng đề cử một nhân tài cho Tào Tháo. Người này họ Dương, tên Huấn.
Xét thấy Dương Huấn tài cán chưa đủ, nhưng lại thanh liêm chính trực, tuân thủ đạo lý, Thôi Diễm một lòng cất nhắc, Tào Tháo thấy vậy cũng chiêu mộ người này.
Năm 216, Tào Tháo xưng làm Ngụy Vương, Dương Huấn có dâng một bài biểu tán dương công trạng của quân chủ, trong đó còn có câu khen Tháo là người “thịnh đức”.
Kẻ sĩ đương thời thấy vậy liền châm biếm họ Dương này là kẻ xu nịnh, cũng theo đó mà chê bài Thôi Diễm tiến cử người không xứng đáng.
Sau khi xem qua biểu văn, Diễm gửi cho Dương Huấn một phong thư, trong đó có câu:
“Ta xem biểu chương, thấy là việc tốt thôi! Thời gian ôi thời gian, thời thế sẽ đến lúc chuyển biến!”
Ý tứ của câu văn trên rất rõ ràng: Thôi Diễm muốn phê bình nhưng kẻ chỉ biết chỉ trích, chê bai người khác. Nhưng không ngờ, có kẻ lại tố cáo phong thư này của ông mang hàm ý “khinh người”, “báng bổ" việc Tào Tháo cướp ngôi nhà Hán.
Tiếc thay cho Thôi Diễm một đời ngay thẳng, nhưng cuối cùng lại chết trong tay Tào Tháo chỉ vì bị vu vạ. (Ảnh minh họa).
Khi đó, Tào Tháo giận tím mặt, hạ lệnh cách chức Diễm, bắt ông làm lao dịch khổ sai, thậm chí còn sai người ngay đêm canh giữ, chẳng khác nào phạm nhân.
Không có tội nhưng lại bị phạt, đương nhiên một bậc danh sĩ như Thôi Diễm sẽ đem lòng bất mãn, cương quyết không nhún mình. Tào Tháo tức giận, sai người “ban thưởng” cho Thôi Diễm tự tử.
Nhận được án tử do chính tay vị quân chủ mình phụng sự bao năm ban cho, Thôi Diễm có nói: “Giết ta là không thỏa đáng, ta không biết rằng Tào công có ý tứ ấy.” Sau đó, ông liền tự sát. Một đời danh sĩ cứ như vậy đi vào dĩ vãng.
Bản chất "gian hùng" và cái kết "không như mơ" của Tào Tháo
Đánh giá về mối quan hệ của Tào Tháo và Thôi Diễm, nhà logic học trứ danh của Trung Quốc là Dịch Trung Thiên từng bình luận một đoạn đặc sắc:
“Thôi Diễm là danh sĩ đức cao vọng trọng nhất nhì Tam Quốc, ngay thẳng, nho nhã, lại có tầm nhìn xa trông rộng, dáng vẻ đường đường, nghiêm túc với triều đình, Tào Tháo cũng bị một phần chính khí của ông làm cho tâm phục.
Cái chết của Thôi Diễm là án oan lớn nhất lúc bấy giờ. Danh sĩ này dùng cái chết để chứng minh mình là người quân tử còn Tào Tháo lại dùng cái chết của ông ta để chứng minh bản thân là kẻ gian hùng.”
Cái chết được ví như "đệ nhất án oan Tam Quốc" của Thôi Diễm đã trở thành minh chứng lịch sử tố cáo bản chất gian hùng của Tào Tháo. (Ảnh minh họa).
Thôi Diễm dù chết, nhưng hậu duệ của ông sau đó lại vô cùng hưng thịnh. Đến thời Ngụy Tấn – Nam Bắc triều, dòng họ Thôi ở Thanh Hà đã trở thành một gia tộc trí thức danh môn nức tiếng.
Cho tới khi quan viên thời đầu nhà Đường chỉnh lý cuốn “thị tộc chí” (cuốn sách viết về những quý tộc, sĩ tộc danh tiếng), lẽ ra họ Thôi đã được đưa lên vị trí đầu bảng. Nhưng do Lý Thế Dân ra tay can thiệp, gia tộc này mới bị đánh tụt xuống hàng thứ ba.
Mặc cho thời thế thay đổi, người của Thôi gia vẫn đảm nhiệm nhiều chức quan lớn trong triều đình. Gia tộc danh môn này đã từng ghi nhận tới 23 người làm Tể tướng.
Kể từ người mở đầu là Thôi Diễm (thời Đông Hán) cho tới Tể tướng Thôi Dận của Đường triều, gia tộc họ Thôi đã có tới 700 trăm năm hưng thịnh.
Trong khi đó,nếu tính từ lúc Tào Tháo xưng làm Ngụy vương cho tới thời điểm nhà Ngụy diệt vong, cơ đồ của Tào gia tồn tại chỉ vẻn vẹn có 50 năm mà thôi.
Xanh lá cây là màu của sự sống, sự vận động. Màu này không xuất hiện nhiều trong cuộc sống con người nhưng lại có mặt ớ khắp mọi nơi trong tự nhiên.
Trong thực tế không có nhiều người thích màu xanh lá cây. Đơn giản bởi vì khi nhìn vào nó con người ta không có được cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. Nó luôn khiến con người ta phải vận động, suy nghĩ.
Đây là màu của tự nhiên, của môi trường – một màu tươi tắn, tượng trưng cho sức sống và niềm hi vọng. Màu xanh lá thể hiện ước mơ về một thế giới thật tươi, thật xanh và thật êm dịu!
Màu vàng
Màu của thành công và sự giàu sang. Mới đầu, nhìn màu vàng người ta thường có cảm giác dễ chịu và nhẹ nhàng. Nhưng càng nhìn lại càng thấy nhức mắt. Thành công và sự giàu sang cũng vậy.
Khi có được những thành công nhất định – những điều mà mình mong muốn – đó là niềm hạnh phúc. Nhưng đằng sau nó lại nảy sinh rất nhiều vấn đề.
Có người cho rằng, màu vàng là màu của sự phản bội. Cô dâu chủ rể khi chụp ảnh cũng thường tránh dùng những bó hoa màu vàng. Nhưng dù sao đi nữa, vẫn rất nhiều người thích màu này.
Nếu như trong kiến trúc cổ của người phương Đông, màu đỏ là màu chủ đạo, thì với người phương Tây, màu vàng mới là màu mang lại sự may mắn và hạnh phúc.
Màu đỏ
Người ta vẫn nói màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh và quyền lực. Màu đỏ xuất hiện khắp mọi nơi. Theo quan niệm của người phương Đông thì đây là màu tượng trưng cho hạnh phúc và đầy đủ.
Trong các cung điện hay bất cứ đồ dùng nào của người phương Đông đều có sự hiện diện của màu đỏ. Những người thích màu đỏ thường là những người có cá tính, mạnh mẽ, quyết đoán và có một niềm đam mê quyền lực khá lớn.
Màu đỏ không tượng trưng cho cái ác nhưng nó luôn đem lại cảm giác sợ sệt, chùn bước cho người xung quanh. Màu đỏ làm cho những người nhìn nó cảm thấy nóng hơn, khát khao hơn, nhưng cũng đề phòng hơn, cẩn thận hơn.
Màu tím
Nếu màu vàng được coi là màu của sự phản bội, thì màu tím lại được coi là biểu tượng của lòng chung thủy. Nó là sự pha trộn, sự kết hợp hài hòa giữa mạnh mẽ và nhẹ nhàng, giữa lớn lao và bé nhỏ. Có thể nói đây là một màu khá “dễ dàng”.
Nó có thể phù hợp với mọi người, mọi lúc mọi nơi. Không làm người ta quá mệt mỏi cũng không mang lại cảm giác quá nhàm chán. Do đó trong cuộc sống có rất nhiều người thích màu tím.
Tuy nhiên, do tính chất của màu tím là sự kết hợp. Thế nên những người thích màu tím thường là những người không quá nổi bật, quyết tâm của họ thường không lớn. Nhưng họ có cuộc sống tương đối đầy đủ và tốt đẹp.
Xanh da trời
Biểu tượng của hòa bình, của những gì nhẹ nhàng nhất. Xanh da trời luôn đem lại cảm giác an toàn, yên bình cho mội người xung quanh. Không phải ngẫu nhiên mà trong các lá cờ của các nước phương Tây đểu có màu xanh da trời.
Đó là biểu tượng của hòa bình và tình hữu nghị. Những người thích màu này thường là những người có tính cách ôn hòa, dễ chịu.
Tuy nhiên xanh da trời cũng dễ gây cho con người ta cảm giác chán mắt. Cũng như cuộc sống nếu yên bình quá, nhẹ nhàng quá sẽ rất nhàm chán và vô vị.
Màu đen
Là một màu luôn mang lại sự huyền bí nhưng sang trọng. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp dẫn, lôi cuốn và vô cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái không tốt của con người.
Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế lực xấu xa, đen tối. Nếu coi cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những nhân vật phản diện. Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ, vừa có cảm giác bị lôi cuốn kích thích trí tò mò.
Trong cuộc sống những người thực sự thích màu đen không nhiều. Nhưng những người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể. Bởi trong quan niệm hiện đại, màu đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền lực.
Màu hồng
Màu của tình yêu và sự lãng mạn. Bất cứ thứ gì mang màu hồng đều rất đẹp. Trong cuộc sống hiện đại, khi con trai có thể sử dụng những màu vốn trước đây chỉ dành cho con gái như đỏ, vàng, da cam…thì màu hồng vẫn là một màu đặc biệt.
Nó gần như là một màu danh riêng cho con gái, cho những gì nhẹ nhàng nhất. Màu hồng luôn mang lại sự bồng bềnh, huyền ảo, đẹp và không có thật.
Những người thích màu hồng là những người sống đầy lãng mạn. Họ coi cuộc sống như một cuốn tiểu thuyết, một bộ phim. Họ là những người mỏng manh, yếu đuối, dễ vấp ngã nhưng cũng dễ đứng lên.
Bởi với họ cuộc sống luôn tốt đẹp, luôn mang một màu hồng. Và do đó, niềm tin vào cuộc sống của họ cũng lớn vô cùng.
Màu trắng
Mọi vật đều bắt đầu từ màu trắng. Đó là sự khởi đầu, là những thứ đầu tiên nhất. Cũng có lẽ vì thế màu trắng còn là biểu tượng của sự hồn nhiên, trong sáng, tinh khiết và giản dị. Dù ở bất kì đâu màu trắng cũng gây cho người ta nhiều thiện cảm.
Nhưng cũng vì đây là một màu quá giản dị. Nên đôi lúc nó tạo cảm giác cô độc và thất bại. Trong những cuộc chiến cờ trắng có nghĩa là đầu hàng.
Những người thích màu trắng thương là những người có nội tâm phong phú. Hay nói khác hơn là người sống hướng nội. Cái thế giới tâm hồn ấy hồn nhiên, trong sáng và mỏng manh. nhưng lại rất khó xâm nhập vào.
Thuộc tính ngũ hành của sao Lộc tồn là âm thổ, là ngôi sao thứ ba trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là phú và quý chủ về lộc và thọ, có khả năng giải trừ tai ách, chế hóa Sát tinh. Tất cả các sao tại 12 cung lá số đều ưa thích đồng cung hoặc gia hội với Lộc tồn, gặp cát tinh sẽ thêm cát, gặp hung tinh sẽ giải hung, đặc biệt thích hợp với cung Mệnh, Thân, Tài, Điền, Di, vì Lộc tồn ở đây sẽ phát huy được khả năng một cách hiệu quả.
Lộc tồn còn có tên là sao Thiên lộc, trong lá số Lộc tồn không rơi vào Thìn Tuất Sửu Mùi, và luôn nằm giữa hai sát tinh Kình dương và Đà la, nên chủ về cô độc, dễ gặp rắc rối thường bị tảy chay nên dễ bị cô lập và vất vả. Do không bao giờ nằm đồng cung với hai sát tinh Kình dương và Đà la, bởi vậy không bị khống chế bởi Thiên la và Địa võng, nhưng khi gặp Lộc tồn vẫn nên hành sự thận trọng, không vì cuộc đời ít bị biến động mà gặp dịp may suôn sẻ. Đại hạn, tiểu hạn hay lưu niên gặp Lộc tồn, sẽ khiến cho các điều kiện vốn bất lợi lại trở nên tốt đẹp, đem lại khả năng hồi phục hoặc đổi mới.
Nếu Lộc tồn đứng một mình tại cung Mệnh, chủ về tính cách cực kỳ bảo thủ, không thích giao tiếp, chỉ chăm chăm bảo vệ bản thân, nên khó tránh khỏi cô độc. Hơn nữa, lại bị hai Sát tinh Kình Đà kèm hai bên, nên tuy chủ về giầu có, nhưng vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả, sau khi giầu có lại dễ rước điều tiếng thị phi.
Sao Lộc tồn thích nằm đồng cung, hoặc hội chiếu với các Cát tinh. Nếu nằm đồng cung với Tử vi hoặc Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương, Vũ khúc, Thái dương, Thái âm, có thể tăng cường độ sáng cho đối phương, nên chủ về phú quý. Nếu tại cung vị tam phương có Xương Khúc hội chiếu, sẽ trở thành người giầu có sang trọng, có học thức.
Sao Lộc tồn kị rơi vào cung không vong, gặp Địa không, Tiệt không là tối kỵ, thứ đến là Tuần không. Lộc tồn không ưa nằm đồng cung với Hóa Kị trấn mệnh, vì khi Lộc tồn trấn mệnh, ở hai cung bên cạnh chắc chắn sẽ có hai sao Kình dương và Đà la kìm kẹp, tạo thành cách Kình Đà giáp mệnh, là cục phá bại chủ về cô độc bần hàn, muôn sự bất lợi, vận hạn gặp phải sẽ có nhiều hung hại.
Lộc tồn đóng tại cung Mệnh cung Thân, không chỉ gặp Hóa Kị đồng cung mới hung, mà tại cung tam phương tứ chính nếu có 4 sát tinh Hỏa Linh Không Kiếp hoặc Hóa Kị xung phá, cũng chủ về trong cát có hung, nên đừng quá chú trọng đến vẻ tốt đẹp bề ngoài, mà cần lưu ý đến những nguy cơ tiềm ẩn phía sau nó, thường là sống nhờ kỹ nghệ, tay nghề khéo léo. Lộc tồn hay Hóa Lộc trấn mệnh, nếu gặp Địa không Địa kiếp là cách Lưỡng trùng Hoa cái (hai tầng lọng hoa), chủ về cao ngạo, cô độc, bần hàn, thường có duyên với đường tu hành.
Thiên Mã
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên mã là dương hỏa, là cát tinh trong chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là dịch mã, là sao chưởng quản lộc, chủ về thiên động (dịch chuyển).
Trong 12 cung của lá số, sao Thiên mã chỉ rơi vào 4 cung Dần Thân Tị Hợi, bởi vậy 4 cung này còn được gọi là 4 cung Mã. Cũng bởi vì 4 cung này chính là cung vị của sao Trưởng sinh trong 12 sao thuộc cục ngũ hành, nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi còn được gọi là 4 cung Sinh.
Do bản thân sao Thiên mã có hóa khí là Dịch Mã, chủ về di động, nên đây là sao mang tính cơ động giầu sức sống bẩm sinh, vốn rất giầu tiềm năng và có sức sống mạnh mẽ, nên có sự trợ giúp cực kỳ cơ động về danh lợi.
Thiên mã là một sao mang tính động, có câu Động thì cát lợi. Tĩnh thì vô công, do đó sao Thiên mã càng vất vả bôn ba, thu hoạch lại càng lớn, nên tượng trưng cho tiền tài vất vả. Nếu gặp các cát tinh Lộc tồn, Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm, Vũ khúc cùng sao Thất sát Tham lang miếu vượng, sẽ giúp cho Thiên mã phát huy được sở trường, chuyển động không ngừng nghỉ, phát đạt tại quê người để áo gấm về quê, chỉ có điều cần phải vất vả lao lực.
Thiên mã tốt nhất là nhập vào cung Phu thê, là nam mệnh sẽ được vợ giúp, nếu nằm đồng cung hoặc gia hội với các tài tinh như Lộc tồn, sẽ nhờ vợ mà trở nên giầu có. Mệnh nữ sẽ được hiển quý vì chồng, bản thân cũng có vận giúp chồng.
Nắm vững kỹ năng trong công việc, nghiên cứu chuyên sâu, làm việc thích hợp với sở trường, chuyên môn của mình, dễ dàng gặt hái được thành công, đây là đạo lý thực tế. Vậy bàn tay có thể thể hiện nghề nghiệp thích hợp của một người trong tương lai không? Tất nhiên, đây cũng là một trong những nội dung chính của thuật xem bói tướng tay.
Xem bói : Các khớp tay đầy đặn
Nếu bàn tay bạn có các khớp tay đầy đặn thì bạn có thể làm nhà lý luận, có ham muốn học hỏi cao. Tính nhẫn nại cao, nhiệt tình nghiên cứu, do đó thích hợp làm việc trong những ngành mang tính chuyên môn cao như học giả.
Xem bói : Có đường chỉ tay chia đôi bàn tay
Kiểu người này có trí não nhạy bén, họ là nhân tài ưu tú. Khả năng tập trung của người này cao, khả năng phân đấu lớn nhưng trong tính cách có chút hơi cực đoan. Đặc biệt là có thể phát huy tài hoa và thực lực trong những việc quan trọng, mang tính chuyên môn. Mặc dù hoạt động trong nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu tập trung trong các ngành y học, nghiên cứu học thuật và công trình kiến trúc.
Xem bói : Đường Trí tuệ đặc biệt rõ ràng, hơn nữa còn có ba đường phân nhánh
Tư tưởng rõ ràng, đa tài đa nghệ. Có thể làm nhiều công việc bình thường và có thể phát huy được khả năng trong lĩnh vực riêng.
Xem bói : Đường Công danh vòng lên gò Hỏa tỉnh
Người có đưòng Công danh như vậy thích hợp làm công việc mang tính chuyên môn.
Hành: KimLoại: Văn TinhĐặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, đơn từ Phụ tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Ý Nghĩa Tấu Thư Ở Cung Mệnh
Sao Tấu Thư ở Mệnh là người có năng khiếu, có tài, tướng mạo sang trọng, quý phái, có cốt cách, có văn chất thanh cao, tâm hồn hướng thượng.
Cùng các sao Thiên Quan, Thiên Phúc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Thiên Khôi, Thiên Việt, thì làm nên sự nghiệp lớn.
Gặp sao Văn Xương, Văn Khúc, lời nói khéo léo, dễ thu hút, thuyết phục được người khác, tế nhị. Gặp sao Lưu Hà, vừa ăn nói lưu loát, vừa thanh cao.