Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vật phẩm phong thủy: Nghê, Sư Tử và Kỳ Lân –

Trong phong thuỷ, việc dùng các tượng linh vật để trấn yểm là rất phổ biến. Những con vật trấn giữ trước cửa có tác dụng thu hút được sát khí, đem lại sự bình an cho nhà cửa, gia trạch. Sử tử là một loài vật vô cùng manh mẽ, được mệnh danh là chúa sơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thuỷ, việc dùng các tượng linh vật để trấn yểm là rất phổ biến. Những con vật trấn giữ trước cửa có tác dụng thu hút được sát khí, đem lại sự bình an cho nhà cửa, gia trạch.

doi-nghe-phong-thuy

Sử tử là một loài vật vô cùng manh mẽ, được mệnh danh là chúa sơn lâm tức là loài vật dũng mãnh nhất. Tiếng gầm của sư tử có thể khiến cho mọi loài đều sợ hãi. Sư tử dùng để trấn ở nơi cửa ra vào của các cơ quan hành chính. Vì dùng tượng sư tử có thể làm mất đi tài lộc do sự dũng mãnh của nó.

Loài nghê là loài vật huyền thoại, nó giống như sư tử nhưng hiền lành hơn, vừa có vai trò hoá giải sát khí , vừa mang lại tài lộc cho nên nghê được sử dụng rất phổ biến ở Hồng Kông, trấn ở cửa trong mỗi ngôi nhà.

Loài Kỳ Lân là con vật nhân từ và hiền lành, môt loài vật linh thiêng huyền thoại, nó mang lại tài lộc nên không trấn cửa mà bày trong những cung vị tốt của ngôi nhà để mang lại phúc lộc cho gia chủ.

Để phân biệt 3 loại này thì nên nhớ rằng, nghê tóc thường xoăn, mình giống như sư tử. Loài Kỳ Lân thì có sừng và mình như mình hươu.

Chúc các bạn có được một cái nhìn toàn diện hơn về các loại linh vật này trong Phong Thuỷ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy: Nghê, Sư Tử và Kỳ Lân –

Cấm kị đi bộ, nằm ngủ dưới đèn chùm

Không chỉ làm căn nhà sáng đẹp hơn, đèn chùm mang lại chi năng lượng lớn ảnh hưởng tốt tới vận may và các mối quan hệ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi vào hầu như bất kỳ căn biệt thự nào bạn cũng sẽ thấy những chiếc đèn chùm to đẹp. Bên cạnh chức năng chiếu sáng và làm đẹp, chúng còn có ý nghĩa phong thủy không nhỏ. Đèn chùm được cho là mang đến nguồn năng lượng dương mạnh mẽ giúp kích thích vượng tài. Dưới đây là tám lời khuyên về phong thủy và đèn chùm, và lý do tại sao bạn cần nó trong nhà.

1. Mối quan hệ và tiền tài

Trong nhà hàng bao giờ bạn cũng thấy thực khách ưa tụ tập xung quanh các bàn sáng nhất. Đèn chùm mang lại vận may tài lộc cho nhà hàng cũng như kích thích mối quan hệ của thực khách. Như bạn thấy, đi ăn và xã giao luôn đi đôi với nhau ở các thương vụ kinh doanh, đặc biệt là các nước châu Á. Năng lượng thổ của các tinh thể pha lê và năng lượng hỏa của ánh sáng kích thích hỗ trợ xuất sắc cho cả hai khía cạnh này.

2. Gia tăng vận khí

Ánh sáng là một trong những chất kích hoạt phong thủy tốt lành nhất. Nó tăng gấp đôi và gấp ba khi ánh sáng được khúc xa bằng đèn chùm pha lê lấp lánh. Lăng kính của các tinh thể đèn chùm tạo nên những tia nhiều màu đặc biệt tốt cho chi năng lượng. Tinh thể còn là đại diện cho dạng tinh khiết nhất và cao nhất của năng lượng thổ.

 Cấm kị đi bộ, nằm ngủ dưới đèn chùm - 2

3. Hóa giải vận hạn

Các tinh thể giúp hóa giải nhiều vấn đề trong phong thủy như bếp và bồn rửa cạnh nhau. Khi điều này xảy ra sẽ có một cuộc xung đột giữa người đàn ông và người phụ nữ của gia đình, tương ứng với cuộc đụng độ giữa nước và lửa. Tuy nhiên, năng lượng của đèn chùm có thể hoạt động trung gian, đánh tan các cuộc va chạm giữa hai nguồn năng lượng.

4. Năng lượng tích cực

Một cách tuyệt vời để thu hút chi năng lượng vào nhà là lắp đèn chùm ở tiền sảnh hoặc gần cửa trước. Năng lượng thanh khiết của tinh thể sáng gia tăng chi năng lượng nhập vào nhà của bạn.

 Cấm kị đi bộ, nằm ngủ dưới đèn chùm - 3

5. Phụ nữ của gia đình

Phụ nữ tượng trưng cho đất và đèn chùm giúp "thắp sáng trái đất", mang lại may mắn cho người phụ nữ trong gia đình và mối quan hệ hôn nhân. Nó cũng củng cố các mối quan hệ và tình yêu của tất cả các thành viên trong gia đình.

6. Phòng ngủ

Nếu căn phòng tối tăm, đèn chùm sẽ dễ dàng làm sáng phòng lên. Tuy vậy khi treo đèn chùm cần tránh để thẳng giường. Treo đèn ngay phía trên giường ngủ sẽ tạo nên cảm giác không an toàn, ảnh hưởng đến chất lượng.

 Cấm kị đi bộ, nằm ngủ dưới đèn chùm - 4

7. Tránh đi bộ dưới đèn chùm lớn

Bởi vì năng lượng của đèn chùm rất mạnh nên cũng tạo ra áp lực không nhỏ. Sử dụng đèn chùm cỡ nhỏ và vừa ở vị trí bạn hay đi qua.

8. Kích hoạt các góc quan trọng

Đèn chùm ở bất cứ nơi nào trong ngôi nhà cũng kích thích vận khí nhưng chúng đặc biệt hữu ích trong từng góc cụ thể. Sử dụng đèn chùm ở phía Tây và Tây Bắc góc, nơi ánh sáng và năng lượng thổ sẽ có lợi cho trẻ em và người đàn ông của ngôi nhà. Phía Đông Bắc và Tây Nam sẽ giúp gia tăng mối quan hệ và tạo ra sự hài hòa trong gia đìn. Góc phía Nam mang lại sự tài lộc và thành công.

Theo Đông Đông (Fengshui) (Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cấm kị đi bộ, nằm ngủ dưới đèn chùm

Giấc mơ làm đẹp mang lại nhiều may mắn

Giấc mơ làm đẹp dự báo bạn sẽ có nhiều niềm vui và hạnh phúc như ý.
Giấc mơ làm đẹp mang lại nhiều may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Giấc mơ làm đẹp dự báo bạn sẽ có nhiều niềm vui và hạnh phúc như ý.


Giac mo lam dep mang lai nhieu may man hinh anh
Ảnh minh họa
  Nữ giới chưa kết hôn mơ thấy làm đẹp cho thấy bạn là người hấp dẫn. Bạn sẽ tìm được công việc như ý hoặc người chồng tuyệt vời.   Bạn là người đã có gia đình, giấc mơ này ngụ ý bạn đang rất yêu đời. Công việc thuận lợi như ý, gia đình hạnh phúc mỹ mãn.   Nếu mơ thấy mình chải tóc, cho thấy trong lòng bạn rối bời bởi nhiều vấn đề. Tuy nhiên, mọi khó khăn sẽ được giải quyết ổn thỏa.   Bạn mơ thấy mình chải tóc thuận chiều không bị rối, dự báo phiền muộn sẽ qua đi, niềm vui, hạnh phúc sẽ đến với bạn.   Thấy mình soi gương trong mơ, nếu hình ảnh rõ ràng là điềm báo sẽ có tin vui từ xa tới.    Tuy nhiên, nếu trong giấc mơ thấy mình soi gương và hình ảnh mờ ảo, ám chỉ người yêu của bạn có thể gặp một vài phiền phức nhỏ. 

Nằm mơ thấy mình đang trang điểm cho thấy bạn đang cố gắng che giấu đi một khía cạnh bên trong chính mình, tuy nhiên điều này cũng dự đóan con đường phía trước vô cùng thuận lợi. 

Nếu bạn nằm mơ thấy mình trang điểm quá đậm, điều này có nghĩa là bạn đặt nặng vấn đề coi trọng vẻ đẹp bên ngoài hơn bản chất bên trong. 

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ làm đẹp mang lại nhiều may mắn

Một Số Đồ Vật Hóa Giải Những Điểm Bất Lợi

H óa giải các vật nhọn, tà khí, tia của vật hình thù kỳ lạ ở bên ngoài nhà chĩa thẳng, xâm nhập, chiếu vào nhà trong nhà như đầu hồi, góc nhọn của công trình kiến trúc khác, cung ngược, đường điện cao thế, tháp sắt, biển quảng cáo, đống đá, ống khói, đường xá. Có thể dùng các vật hóa giải như gương bát quái, kính lồi lõm, sư tử đá, tượng con vật, chậu cảnh, bình phong, rèm, quả cầu thủy tinh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Các Vật Hóa Giải Sát Khí Bên Ngoài Nhà:

   Nếu cửa sổ, cửa lớn bị góc nhọn, đầu hồi của nhà khác chiếu, có thể dùng gương bát quái, biển mặt thú…hóa giải. Nếu là cửa sổ có thể bịt lại, chuyển cửa sang hướng khác hoặc treo rèm ốc, cũng có thể dán giấy bạc phản quang trên ô kính cửa sổ hoặc đặt chậu cảnh ở bệ cửa sổ để hóa giải.

   + Sử tử đá: Nếu ngôi nhà bị đường chĩa vào, có thể dùng đá, sư tử đá để che chắn, xây bình phong để hóa giải. Sư tử đá chủ yếu để chống lại tà khí, đem lại khí lành, tạo ra sức mạnh cho ngôi nhà. Cổ nhân gọi sư tử đá là thần trị tà, yêu ma không dám vào nhà. Sư tử đá thường đặt ở hai bên cổng, cửa hính, trong nhà chỉ để một con là đủ. Nếu đặt quá nhiều, lợi bất cấp hại. Sư tử đặt trong nhà có thể là sư tử đồng, gốm, gỗ, ngọc. Nên chọn màu sắc hồng, nâu. Tượng sư tử ở phương Tây Bắc vì sư tử ở vị trí hướng Càn thuộc Kim. Sư tử đặt hướng Tây Bắc phải làm bằng đồng mới tốt. Sư tử phải có đôi, nhìn nhau. Nếu một con bị nứt vỡ phải thay cả một đôi, con sư tử còn lại mang ra sông thả xuống nước.

   Khi đặt sư tử trong nhà đầu phải hướng ra cổng, không được quay ngang, đặc biệt kỵ quay vào nhà. Sư tử dùng để trấn áp yêu ma tà khí, quay ra cửa, tà khí mới tan, quay vào nhà, bị tà khí tấn công hai bên sườn hoặc bị “đánh tập hậu”

   + Rùa đá: Nếu sát khí quá mạnh, bạn có thể đặt rùa hóa giải, bởi rùa biểu tượng trường thọ. Đầu rùa phải hướng ra ngoài nhà, trợ giúp cho sư tử đá. Rùa đặt trong nhà phải là rùa đầu rồng, đặt ngoài vườn là rùa đá hoặc rùa gốm. Rùa sứ, rùa gỗ đặt ở hướng Đông, hướng Nam trong nhà. Rùa đá, rùa gốm đặt ở hướng Tây Nam, hướng Đông Bắc trong vườn sân. Rùa đầu rồng nên đặt hướng Tây Bắc, Tây trong nhà. 

   Dùng mai rùa hoặc gương bát quái treo trước cửa chính có thể hóa giải sát khí của góc nhọn chiếu vào nhà

   + Rồng đá: Hóa sát khí có hiệu quả nhất là rồng. Tranh rồng hút nước, phun nước, vờn nước có tác dụng trấn sát. Đầu rồng nên hướng ra cổng và đặt ở hướng Bắc. Tranh quần long phải có chủ, tức là phải có một con đầu đàn. Tranh rồng nên chọn tranh khắc đá, tốt hơn tranh gỗ. Tượng rồng nên để nơi cao ráo hướng ra phía cổng, bên cạnh bể cá hoặc ở trên bể  cá là tốt nhất. Tranh rồng nên có mây. 

   + Chó đá: Cách hóa giải sát khí dùng tượng chó đá cũng rất hiệu quả, nhưng không đặt tượng đá này ở hướng Đông Nam. Nếu theo bát cẩm trạch, hướng Bắc tốt nhất đối với bạn, bạn nên đặt chó đá đen, hướng Tây tốt, đặt chó đá trắng, hướng Nam tốt, đặt chó đá vàng, hướng Đông tốt đặt chó đá tam thể. 

2. Các Vật Hóa Giải Sát Khí Bên Trong Nhà:

   Sát khí bên trong khó nhận biết như xà nhà, góc chéo…..Thông thường, nếu phát hiện người nhà hay ốm vặt, dùng các vật sau đây để hóa giải. Các vật này treo ở cửa ra vào, góc tường, gầm cầu thang: Hồ lô, cảnh liễu, hình bát quái, la bàn, bùa phép, ảnh chung quỳ…

   + Hồ lô gỗ: Nếu người nhà bị bệnh lâu ngày, treo ba chiếc hồ lô gỗ ở đầu giường có thể khỏi bệnh, bởi hồ lô gỗ trừ tà. Nếu treo hồ lô ở phương vị sinh khí, chủ khỏe mạnh, tinh thần phấn chấn. Nên treo ba chiếc hồ lô ở ba hướng: Sinh khí, Thiên y, Diên niên. Nếu treo ở vị trí các hướng xấu như tuyệt mệnh, lục sát, họa hại, ngũ quỷ, không có tác dụng. 

   + Quả cầu thủy tinh: Thường đặt giữa nhà để lấy sinh khí cho các thành viên trong nhà. Nếu để trong phòng đọc sách, người chủ và trẻ em chăm học. Đặt ở bàn học, trẻ em sẽ tập trung, ham học, nhớ lâu. Không nên đặt ở đường đi, góc phòng, nhà bếp.

   + Chuông gió: Đặt ở cửa ra vào là tốt. Chuông gió có tác dụng ngăn chặn tà khí rất có hiệu quả. Chuông gió có tác dụng chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài rất tốt.

   + Gương bát quái: Chỉ nên đặt ở ngoài nhà. Nếu gương được đưa lên chùa một thời gian rồi mang về treo thì tốt hơn. Gương bát quái chủ yếu phản xạ lại tà khí xâm nhập. 

   + La bàn, nam châm: La bàn nếu đặt bên trong, trên bậu cửa chính, con cái khỏe mạnh, học tập thông minh. Nam châm đặt ở gầm giường (dưới đất) có tác dụng tránh tà khí từ dưới đất rất tốt.

   + Ảnh Chung Quỳ: Chung Quỳ là thần tróc ma quỷ. Treo ở buồng ngủ là tốt nhất.

   + Bùa phép: Bùa phép có thể để trong ví, đeo bên người, đặt dưới gối, dưới chiếu có tác dụng rất tốt.

3. Phép Hóa Giải Triệt Để Theo Hai Cách Sau Đây:

   - Cách di chuyển: Ngoài việc chuyển cổng cửa đến vị trí tốt ra có thể, chuyển bàn thờ, hướng giường, hướng bếp, hướng bàn vào vị trí tốt trong bát cẩm trạch (xem Đông tứ trạch – Tây tứ trạch).

   - Cách tăng giảm, thay thế: Đồ đạc trong nhà nếu ít quá nên mua thêm, nếu quá nhiều cần giảm bớt để đạt hiệu quả tụ khí và tiện sử dụng. Bàn ghế cũ, nếu không thật sự cần thiết, buộc phải thay đổi, nên giữ nguyên. Bạn không nên chạy theo mốt, thay đổi đồ đạc luôn luôn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một Số Đồ Vật Hóa Giải Những Điểm Bất Lợi

Làm thế nào có thể lựa chọn được vị trí không gian sử dụng? –

Nếu bạn bước vào một công ty, đầu tiên nhìn thấy một văn phòng làm việc ngay ngắn, chỉnh tề, sẽ cho bạn cảm giác điền hòa, điều này cũng chính là đại biểu cho mối quan hệ giao tiếp trong nội bộ công ty rất hoàn mỹ. Bởi vì, người tổ chức của một công

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn bước vào một công ty, đầu tiên nhìn thấy một văn phòng làm việc ngay ngắn, chỉnh tề, sẽ cho bạn cảm giác điền hòa, điều này cũng chính là đại biểu cho mối quan hệ giao tiếp trong nội bộ công ty rất hoàn mỹ.

Bởi vì, người tổ chức của một công ty cần phải ngồi ở vị trí vượng khí sinh tài mới có thể khiến cho ông chủ công ty có đủ năng lực giữ vừng vai trò lãnh đạo với tập thể, cũng có thể đem lại tư duy phán đoán tương đối chính xác.

Phòng ngồi phía Bắc hướng Nam, cần phải lấy hướng chính Bắc và Tây Nam là phòng của Chủ tịch hội đồng quản trị.

noi-that-van-phong-vt

–   Phòng ngồi phía Nam hướng Bắc, cần phải lấy hướng chính Nam và Đông Bắc là phòng của Chủ tịch hội đồng quản trị.

–    Phòng ngồi phía Đông hướng Tây, cần phải lấy hướng chính Đông và Tây là phòng của Chủ tịch hội đồng quản trị.

–    Phòng ngồi phía Tây hướng Đông, cần phải lấy hướng chính Tây Bắc và Đông Nam hoặc hướng chính Nam là phòng của Chủ tịch hội đồng quản trị.

–   Phòng ngồi phía Đông Bắc hướng Tây Nam, cần phải lấy hướng Đông Bắc và Tây Bắc là phòng của Chủ tịch hội đồng quản trị.

–   Phòng ngồi phía Tây Nam hướng Đông Bắc, cần phải lấy hướng chính Đông và Tây Nam là phòng của Chủ tịch hội đồng quản trị.

Những vấn đề nói trên đều là tài vị của mỗi kiểu văn phòng, chỉ cần tận dụng tài vị, thì có thể đem lại tài khí tốt. Sự bố trí thông thường trong công ty là có phòng Chủ tịch hội đồng quản trị, phòng Tổng giám đốc, phòng Quản lý, nếu trong một phòng có dùng hai tài vị trở nên tất sẽ có không gian trưởng thành lớn.

Sau khi đã chọn được không gian tốt, cần chú ý đến phương vị phía sau chỗ ngồi của Chủ tịch tập đoàn hoặc tổng giám đốc có cửa số hay không, nếu có thì nên có tấm vách ngăn lại, nếu không thì khiến cho tiểu nhân dễ hại.

Ngoài ra cần chú ý bên trái phải của chỗ ngồi có trụ góc nhọn nào không, hơn nữa lại rất gần chỗ ngồi, nếu có tình trạng như vậy, cần dùng bốn cây cành hoặc dây treo với màu sắc rực rỡ đồ cách ly sự xung xạ của từ trường ở những góc nhọn này. Hiện tương này nếu như không được hoá giải thì hầu hết mọi người đều sẽ có hiện tượng mỏi lưng, điều này sẽ ảnh hưởng đến từ trường sức khỏe cơ thể, không thể ngăn được. Tấm bình phong trong phòng làm việc của Chủ tịch hội đồng quản trị và phòng của Tổng giám đốc không thể dùng những tấm kẹp che kín toàn bộ, tốt nhất là dùng những tấm thủy tinh trong suốt, đế đạt được tác dụng tầm nhìn. Nếu phòng của Chú tịch hội đồng quàn trị hoặc Tổng giám đốc là bố cục đóng kín, thì đại diện cho tác dụng không thể nhìn qua được. Hơn nữa toàn bộ phương diện thống ngự của lãnh đạo sẽ có hiện tượng đoạn tầng, thường khiến cho mỗi sự việc của công ty đã được ông chủ trao đổi rõ ràng ban đầu sẽ bị cách đoạn, tất cả quá trình trở thành không rõ ràng, đợi khi xảy ra vấn đề rồi ông chủ không còn cách nào khác là phải chịu thiệt thòi mà xử lý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nào có thể lựa chọn được vị trí không gian sử dụng? –

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Có những dạng lông mày thanh tú mang tới vận mệnh tốt đẹp cho chủ nhân, nhưng cũng có những lông mày lại mang tới điều xấu cho người đó. 23 dạng lông mày điển hình để xem vận mạng mỗi người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cung giống như vân tay, mỗi người có một dạng lông mày khác nhau. Có những dạng lông mày thanh tú mang tới vận mệnh tốt đẹp cho chủ nhân, nhưng cũng có những lông mày lại mang tới điều xấu cho người đó. 23 dạng lông mày điển hình tới đây của Phongthuyso tổng hợp có thể xem được vận mạng của người đó. 

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

 

Tìm kiếm liên quan:  lông mày lá liễu, lông mày lá liễu là gì, lông mày lá liễu nam, lông mày lá liễu như thế nào, lông mày bên cao bên thấp,lông mày bị bạc, lông mày cách xa nhau, lông mày cao,lông mày cao hơn tai, lông mày chữ nhất, lông mày chữ v,lông mày hình lưỡi kiếm, lông mày hình tam giác, lông mày không có đuôi, lông mày không đều, lông mày kiếm, lông mày kiếm mi, lông mày lưỡi đao, lông mày lưỡi kiếm, lông mày lưỡi mác, lông mày thanh tú, lông mày tam giác, lông mày sâu róm, lông mày rồng, lông mày cong

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp 23 dạng lông mày điển hình nhất

Thực hư vòng gỗ sưa tránh tà trong tháng cô hồn

Vòng gỗ sưa tránh tà: Nhiều người kinh doanh buôn bán không tiếc tiền bỏ ra hàng chục triệu đồng để mua về chiếc vòng bằng gỗ sưa nhằm tránh tà và cầu may mắn.
Thực hư vòng gỗ sưa tránh tà trong tháng cô hồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người kinh doanh buôn bán không tiếc tiền bỏ ra hàng chục triệu đồng để mua về chiếc vòng gỗ sưa nhằm tránh tà và cầu may mắn.

 

► Xem thêm: Những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn để tránh xui xẻo

Người xưa từng so sánh gỗ sưa đắt tựa vàng mười, trong khi đó các loại gỗ hoàng đàn hay gỗ ngọc am chỉ được sánh với giá trị của ngọc. Đây là loại gỗ hoàng tộc quý hiếm và có giá trị kinh tế cao. Do đó, mỗi khi tháng cô hồn tới, không ít người lại săn lùng chiếc vòng gỗ sưa này với mong muốn xua đuổi những điều xui xẻo, tăng phước khí và sự an lành cho cuộc sống.

Thuc hu vong go sua tranh ta trong thang co hon hinh anh
Ảnh minh họa

Trong dân gian lưu truyền quan niệm rằng đeo vòng gỗ sưa giúp trừ tà khí, ma quỷ và loại gỗ này có thể dùng để làm bàn thờ, đồ thờ cúng giúp xua đuổi tà khí, mang lại sự hưng thịnh về tiền tài cho gia chủ.
 
Người Trung Quốc cổ đại còn lấy mạt gỗ sưa đỏ để ướp xác hoặc để cho vào cốt bát hương; các thầy cúng dùng loại gỗ này để làm kiếm, đồ trấn yểm trừ tà… Có lẽ đây là lí do chính khiến nhiều người đua nhau chi bạc triệu để mua vòng gỗ sưa về để trừ tà, cầu bình an, cầu đức Phật gia hộ.
 
Ngoài ra, một số người làm trong nghề mộc, thường xuyên tiếp xúc với gỗ sưa cho rằng khi đeo vòng làm từ loại gỗ này có thể ngăn ngừa một số bệnh da liễu, tránh côn trùng đốt. Gỗ sưa đỏ phát ra vượng khí rất mạnh và có mùi hương dịu nhẹ, giúp hành khí, hoạt huyết, tốt cho người bị bệnh tim mạch, dạ dày, cao huyết áp… Người đeo vòng này vừa có thể tăng cường sức khỏe lại giúp tinh thần thoải mái, thêm phúc phận.
 
Hiện nay trên thị trường có hai loại vòng gỗ sưa đỏ ở dạng hạt mộc và hạt đánh bóng. Hạt đã đánh bóng có mức giá cao hơn so với hạt mộc. Một số người cho rằng, loại vòng gỗ sưa chất lượng là khi tiếp xúc với da thịt từ 1 tháng trở lên thì lớp đánh bóng bạt hết, màu gỗ bóng dần đẹp lên một cách tự nhiên. Tùy từng loại gỗ khác nhau mà giá trị các loại vòng khác nhau, loại đắt nhất được làm từ lõi cây sưa, vân hiếm có giá hàng chục triệu đồng, chuyên phục vụ những doanh nhân và người giàu có.
 
Theo một số chuyên gia phong thủy, vòng gỗ sưa là vật khí có tính chất huyền bí trong tâm linh chứ không phải vật đặc trưng trong phong thủy. Với phong thủy, loại vòng này chỉ dùng để hộ mệnh. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có nghiên cứu rõ ràng nào về tác dụng đặc biệt của loại vòng gỗ sưa mà hầu hết chỉ là truyền miệng.

Các bài viết cùng chủ đề tháng cô hồn, có thể bạn quan tâm:
Mặc tháng cô hồn xui xẻo, những con giáp này vẫn rủng rỉnh tiền tiêu Chuyên gia phong thủy giải đáp: Cưới trong tháng cô hồn – Nên hay không nên? Cho đàn ông sờ ngực sẽ gặp may mắn trong tháng cô hồn? Bảo bối phong thủy xua đuổi tà khí trong tháng cô hồn Kinh nghiệm cúng lễ đuổi ma xua tà trong tháng cô hồn
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư vòng gỗ sưa tránh tà trong tháng cô hồn

3 chòm sao nữ vị tha, có tầm lòng độ lượng

Có những người bị tổn thương cũng tự mình chịu đựng, người khác xin lỗi là lập tức tha thứ. 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.
3 chòm sao nữ vị tha, có tầm lòng độ lượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những người nội tâm không ai nhìn thấu, tuy rằng bề ngoài kiên cường nhưng trong lòng lại rất yếu đuối, bị tổn thương cũng chỉ có thể tự mình chịu đựng, chỉ cần người khác mở lời xin lỗi là lập tức đồng cảm, tha thứ. Trong 12 cung hoàng đạo, thì 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.

 

3 chom sao nu vi tha, co tam long do luong hinh anh
 

 

Thủy Bình (Bảo Bình)

  Cô nàng Thủy Bình chân thật mà nói thì không thanh cao nhưng vô tâm, lười cùng người khác đôi co, tranh đoạt. Người với với người kết giao quan trọng nhất là cái tình, sự thấu hiểu và tương giao nên Thủy Bình suy nghĩ rất đơn giản, hợp thì ở chung, không hợp thì tách ra, ít oán trách thì đời vui vẻ.   Thủy Bình với việc ăn nói cũng không thông thạo, sợ rằng lời mình nói ra không đủ rõ ràng, không hết ý trong lòng khiến người khác hiểu lầm nên tốt nhất là không nói. Lâu dần, người ta cho rằng chòm sao nữ vị tha này thanh cao.

Mời bạn xem thêm: Bảo Bình và cung hoàng đạo nào có mối lương duyên trời định? 

 

Thiên Yết

  Đối với Thiên Yết mà nói, nếu là bạn bè thì không cần giải thích, không bạn bè thì giải thích cũng chẳng ích gì. Nếu đã không liên quan đến nhau thì gặp gỡ cũng không chuyện trò, ta đi đường ta, người đi đường người, không vướng bận.   Đây là chòm sao ngoài lạnh trong nóng điển hình, lúc nào cũng lãnh đạm đấy nhưng nội tâm lại yếu đuối, lo lắng bị người khác nhìn thấu, không an toàn nên dần lùi bước, tự dưng có cảm giác “cao cao tại thượng”, xa vời với người khác. Dần dần trở thành không quan tâm tới sự đời, nếu không phải chuyện quá nghiêm trọng thì đều bỏ qua. Cũng có thể coi Thiên Yết là chòm sao nữ hiền lành. Tìm hiểu thêm: 360 độ về Thiên Yết

Sư Tử

  Bề ngoài là chòm sao quảng giao nhưng trong vấn đề tình cảm lại hoàn toàn yếu thế. Sư Tử là chòm sao thanh cao thật, không phải chỉ vô tình hay cố tình làm thế, đó là khí chất tự nhiên. Họ thuần túy, đơn giản và không bao giờ mưu tính hại người, cũng không thù lâu nhớ dai, tha thứ được đều tha thứ.  
3 chom sao nu vi tha, co tam long do luong hinh anh
 
Sư Tử thường sợ làm tổn thương người khác nên chính mình nhận lấy tổn thương, thà rằng bỏ qua chứ không muốn dây dưa thêm phiền hà. Thà là một mình mình chịu ấm ức chứ không muốn cả đôi bên đều phải tổn hại. Cô nàng này quả nhiên là chòm sao nữ lương thiện.

Có thể Sư Tử quan tâm: 9 Điều khiến nhiều người yêu mến Sư Tử

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ vị tha, có tầm lòng độ lượng

Đoán vận mệnh cuộc đời con người qua sơn căn –

Sơn căn nhỏ hẹp là người ích kỷ, hung bạo, kém kiên nhẫn, nóng nảy,dễ hành động sai lầm. Nhân tướng học coi phần giữa hai mắt (sơn căn), khoảng cách giữa hai đầu lông mày (ấn đường) và nơi cao nhất trên sống mũi là 3 cung vị: Sơn Căn, Niên Thượng, Th
Đoán vận mệnh cuộc đời con người qua sơn căn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán vận mệnh cuộc đời con người qua sơn căn –

Những câu chúc mừng tân gia ý nghĩa nhất

Tổng hợp những câu chúc mừng Tân Gia ý nghĩa nhất cho tất cả mọi người là một món quà của những câu nói hay xin gửi tặng đến những độc giả
Những câu chúc mừng tân gia ý nghĩa nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu chúc mừng Tân Gia ý nghĩa nhất cho tất cả mọi người là một món quà của những câu nói hay xin gửi tặng đến những độc giả có ý định lên nhà mới hay còn gọi là Tân gia nhé.

Tân gia là một truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc ta, vì vậy bạn đang băn khoăn chưa biết chọn lựa câu nào để sử dụng thì bài viết hôm nay sẽ là một lời gợi ý không tồi đâu nhé.

Những câu chúc mừng Tân Gia ý nghĩa nhất

“Cung chúc an khang toàn gia thịnh
Vạn kỷ niên xuân ý cát tường”

——–

“Gia đình vạn sự bình an
Tài vô lộc đến phúc duyên tràn đầy”

———

“Phát đạt đắc trường tồn
Hưng thịnh lộc vĩnh cửu”

———

“Thời đáo hưng long phúc thọ hội
Vận phùng phát đạt lộc tài sinh”

———

“Vinh hoa phú quý niên trường thọ
Tài lộc an khang tuế cát tường”

——–

“Mua bán phát tài thông bốn bể
Tài nguyên thịnh vượng nối ba sông”

Đồng thời, bạn cũng có thể dùng thơ để gửi lời chúc mừng tân gia:

Chúc mừng gia đạo đặng an khương
Ngũ phúc lâm môn dán ngõ đường
Đức lộc đa tài lưu mãi hưởng
Công danh hiển đạt đáo hoài vương
Thỏa lòng như ý tràn vui tưởng
Hỷ dạ hanh thông trải cát tường
Viên thổ tứ thời hưng phú vượng
Khắp nhà bông trái tỏa mùi hương…

Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia
Ngũ phúc lâm môn trải khắp nhà
Điền trạch bốn mùa sinh vạn quả
Thổ viên tám tiết nở ngàn hoa
Lòng mơ như ý niềm vui thỏa
Dạ ước hanh thông hỷ sự hòa
Hưng vượng đồng tâm xây chí cả
Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia

Chúc mừng Phước đức đáo lưu gia
Phú quý kim ngân tấn ngập nhà
Lộc biếc tứ thời – cây trĩu quả
Hạnh xanh bát tiết – nhánh đầy hoa
An cư êm ấm hoài vui thỏa
Lạc nghiệp bình yên mãi hỷ hòa
Hưng vượng đồng tâm xây chí cả
Công thành danh hiển đạt tài đa….

Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia
Ngũ phúc lâm môn trải khắp nhà
Cành biếc bốn mùa sinh vạn quả
Cây xanh tám tiết nở ngàn hoa
Công danh tấn phát lòng vui thỏa
Sự nghiệp tràn dâng tâm đạo hòa
Hưng vượng đồng tâm xây chí cả
Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia….

Chúc mừng hạnh phước đến toàn gia
Tài lộc thênh thang trước cửa nhà
Điền trạch thiên thời sinh vạn quả
Thổ viên địa lợi nở ngàn hoa
Lòng mơ như ý niềm vui thỏa
Dạ ước hanh thông hỷ sự hòa
Hưng thịnh muôn đời xây chí cả
Chức mùng hạnh phúc đến toàn gia

Chúc mừng gia đạo vạn an khương
Ngũ phúc lâm môn đại cát tường
Đức lộc đa tài lưu mãi đọng
Công danh hiển đạt đáo hoài vương
Hạnh ninh hưng vượng giăng đầu ngõ
Phú quý giàu sang tấn cửa đường
Viên thổ tứ thời sanh trĩu quả
Trước nhà bông kết tỏa mùi hương…

Trên đây là những câu chúc mừng tân gia hay và nghĩa nhất cho mọi người. Bạn đã chọn cho mình câu chúc tân gia ưng ý chưa?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu chúc mừng tân gia ý nghĩa nhất

Cách cục Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời chiếu cửa sấm)

Hay còn được gọi là cách cục Nhật xuất phù tang (mặt trời mới mọc), tức sinh vào ban ngày, sao Thái Dương và Thiên Lương trấn mệnh tại cung Mão được Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu là phù hợp với cách cục này. Nhưgn chỉ có người sinh năm Ất, Tân, Nhâm mới hợp cách, trong đó tốt nhất là sinh năm Ất. Nếu Sinh vào những năm khác cũng chủ về cát lợi, nhưng tại cung tam phương, tứ chính không được có sát tinh xung phá. Nếu gặp sát tinh là phá cách, chủ về bị tiểu nhân ám hại.
Cách cục Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời chiếu cửa sấm)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm: Tính tình thẳng thắn, có tài năng lãnh đạo nổi trội, có tinh thần trách nhiệm, giàu lòng nghĩa hiệp, có tài giao tiếp, xuất thân giàu sang hoặc sớm thành đạt trở nên nổi tiếng.

Khuyết điểm: Không hợp với mệnh nữ, vì có chí khí của nam giới, lấn át chồng, dễ bị sa ngã bởi đàn ông.

Ca quyết như sau:
Thái Dương Mão vị quý kham khoa
Tất chủ bình sinh phú quý gia
Thuần túy thiếu niên đăng giáp đệ
Chinh chiến thanh thế động di Hoa

Nghĩa Là:
Thái dương tại Mão thật hiển quý
Ắt chủ bình sinh được giàu sang
Tuổi trẻ khoa danh sớm đỗ đạt
Chiến công lừng lẫy khắp biên cương

Trong kinh văn có viết: "Mặt trời (Thái Dương) chiếu cổng sấm, phú quý vinh hoa".

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời chiếu cửa sấm)

Máy tính và mệnh tuổi

Máy vi tính, điện thoại di động và thiết bị nạp điện đều là những vật có tính Hỏa cực mạnh. Tính Hỏa của máy tính gây ảnh hưởng tới từng thành viên trong gia
Máy tính và mệnh tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đình. Do vậy, cần chú ý đến việc sử dụng nó.

(Ảnh minh họa)

Mỗi máy tính khi sử dụng còn cần có thêm 1 con chuột. Con chuột này đại diện cho yếu tố Thủy (vật duy nhất thuộc Thủy của máy tính).

Người cần Thủy nhất thiết không được sử dụng loại chuột vi tính phản quang. Vì chuột phản quang sẽ khiến Thủy duy nhất ở máy tính "bốc hơi". Người thiếu Hỏa sử dụng chuột phản quang liên tục nhấp nháy có thể làm tăng tính Hỏa. Hỏa thêm Hỏa không ổn.

Người kỵ Hỏa nhưng lại phải thường xuyên sử dụng máy tính thì nên đặt 1 cốc nước ở bên cạnh máy tính hoặc treo tranh có nội dung về nước, băng tuyết... để giảm nhẹ tính Hỏa.

Khi máy tính hoạt động thì mặt bàn cũng quyết định thuộc tính ngũ hành của nó. Người cần Kim thì mặt bàn cần chứa yếu tố tượng trưng cho núi tuyết. Người cần Thủy thì mặt bàn nên có màu sắc và hình ảnh của nước. Người cần Mộc thì có thể dán cỏ cây, hoa lá lên mặt bàn hoặc bày chậu cây cảnh. Người cần Hỏa thì mặt bàn nên có màu lửa. Người cần Thổ thì mặt bàn nên có màu sắc và hình ảnh của sa mạc.

Khi thiết lập mật khẩu cho máy tính cũng cần dựa vào ngũ hành. Người cần Mộc có thể chọn số 1 và 2 (1 - Giáp Mộc, 2 - Ất Mộc); người cần Hỏa chọn số 3 và 4 (3 - Bính Hỏa, 4  - Đinh Hỏa); người cần Thổ chọn số 5 và 6 (5 - Mậu Thổ, 6 - Kỷ Thổ); người cần Kim chọn số 7 và 8 (7 - Canh Kim, 8 - Tân Kim); người cần Thủy chọn số 9 và 0 (9 - Nhâm Thủy, 0 - Quý Thủy).

(Theo Phong thủy rước lộc vào nhà)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Máy tính và mệnh tuổi

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, tu vi Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, đây là bói tình yêu thông qua lá bài Tarot để dự đoán tình yêu trong tương lai của bạn tan/hợp?

Quy tắc bói bài:

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân “Mối quan hệ sắp tới của mình sẽ ra sao?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.

Lựa chọn 1: The Empress

 
TheEmpress.png

Lựa chọn 2: The Chariot

TheChariot.png

Lựa chọn 3: The Star

TheStar.png

Xem kết quả dự đoán tình yêu trong tương lai của bạn:

 

Lựa chọn 1: The EmpressDễ đi vào vết xe đổ

Bốc được lá bài này cho thấy bạn sống phụ thuộc vào hoài niệm quá khứ. Bạn trân trọng những kỷ niệm cũ đã qua và luôn để một góc trong tim cho mối tình cũ. Vô tình gặp lại bài hát của hai người, địa điểm từng đi qua…, ngay lập tức các ký ức sẽ sống lại trong bạn. Khi ấy, bạn sẽ quên hết “gấu” ở hiện tại để chìm đắm trong quá khứ.

Mối tình trước tan vỡ, dường như nguyên nhân chính là thói quen sống dựa vào nhiều vào tình cảm của bạn. Bạn quyết định bằng cảm tính, nên đôi lúc thiếu sáng suốt và chịu nhiều tác động của người khác. Do vậy, hai bạn thường xuyên xảy ra xích mích.

Lựa chọn 2: The Chariot – Trắc trở về sau

Khi mới làm quen với người mới, hai người như cực nam châm trái dấu hút nhau mạnh mẽ, bạn tìm thấy điều mình thiếu ở đối phương và ngược lại. Người ấy giống như một thế giới bí ẩn mà bạn luôn muốn tìm hiểu. Tuy nhiên, chính sự khác biệt lớn ấy lại tạo ra xung đột, nếu thiếu sự thông cảm, cả hai sẽ dần xa cách.

Sau một thời gian dài gắn bó, cặp đôi này bắt đầu xuất hiện dấu hiệu “lười yêu”, cho dù tình cảm vẫn mặn nồng. Hơn nữa, bạn lại có suy nghĩ phụ thuộc nhiều vào duyên số, nên đôi lúc bỏ mặc người ấy. Hãy xác định nghiêm túc về mối quan hệ đó nếu bạn muốn tình yêu vĩnh cửu.

Lựa chọn 3: The Star – Tình yêu hòa hợp

Tin vui dành cho chủ nhân này là mối tình sắp tới của bạn sẽ rất hòa hợp. Hai bạn như nghệ sĩ tung hứng cực kỳ ăn ý. Nếu thiếu đi một nửa, bạn sẽ không còn là chính mình và thấy cuộc sống thiếu ý nghĩa. Vậy nên, cuộc tình mới sẽ tạo nhiều sức ảnh hưởng tới công việc, lối sống và suy nghĩ về tình cảm của bạn, nếu bạn quan tâm tới tuổi vợ chồng xem ởXem tuổi vợ chồng.

Hơn nữa, “gấu” lại biết cách mang lại điều ngọt ngào, lãng mạn để bạn thấy mình may mắn khi song hành cùng người ấy. Thậm chí, nửa kia trở thành động lực giúp bạn cố gắng vượt qua những trở ngại trong cuộc sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

4 cách khắc phục phòng khách quá dài

Tạo tâm điểm cho căn phòng sắp xếp nội thất vuông góc với căn phòng chính là những cách hiệu quả để khắc phục nhược điểm của phòng khách có chiều dài lớn.
4 cách khắc phục phòng khách quá dài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng biết việc trang trí nội thất và bài trí phòng khách dài chẳng hề dễ dàng. Nếu phòng khách của bạn cũng rơi vào tình trạng này, hãy tham khảo một số gợi ý trang trí sau đây để có một không gian tiếp khách đẹp mắt và khoa học.

1. Tạo tâm điểm của căn phòng

Tâm điểm chính là nơi tập trung sự chú ý của mọi người khi bước vào căn phòng. Nó có thể là tivi, bức tranh nghệ thuật hay chỉ là cánh cửa sổ. Tùy từng trường hợp mà bạn có lựa chọn thích hợp. Tâm điểm nên được đặt ở trung tâm của bức tường dài nhất căn phòng. Bạn không nên lấy tâm điểm ở bức tường hẹp bởi nó sẽ càng khiến căn phòng như dài hơn.

2. Phân chia phòng thành nhiều khu vực khác nhau

Đối với phòng khách dài, thay vì bố trí bàn ghế tập trung tại một nơi, bạn có thê phân tách chúng thành những không gian riêng biệt hơn như khu vực tiếp khách chung, góc đọc sách hay nơi diễn ra các hoạt động vui chơi của các thành viên. Căn phòng được lấp đầy bằng nội thất sẽ làm mất đi cảm giác về chiều dài của căn phòng. Bạn có thể sử dụng nội thất khác màu hoặc nên những tấm thảm để phân tách những không gian này

3. Bài trí khu vực tiếp khách ở trung tâm

Nếu không muốn phân chia phòng thành nhiều khu vực khác nhau, bạn có thể sử dụng cách đặt bàn ghế ở trung tâm của phòng khách, biến nơi đó thành tâm điểm của căn phòng. Đối với căn phòng hẹp, bạn nên kê đồ nội thất áp sát tường để đảm bảo cho việc đi lại trong phòng được thông suốt. Phòng khách dưới đây với chiếc sofa trắng đặt ở vị trí trung tâm vừa ấn tượng, vừa giúp co bớt chiều dài của phòng.

4. Đặt nội thất vuông góc

Một cách khác giúp bạn đối phó với một căn phòng dài là đặt đồ nội thất vuông góc với chiều dài của phòng. Một chiếc bàn nước hoặc chiếc sofa đơn được vuông góc với chiều dài sẽ giúp cắt tầm nhìn thẳng và giúp căn phòng như bị co bớt độ đài. Ví dụ, tại phòng khách dưới đây, chiếc sofa lớn chữ L cũng góp phần không nhỏ trong việc khiến căn phòng bớt dài và trở nên ấm cúng hơn. Tuy nhiên với cách làm này bạn cũng cần lưu ý đến kích cỡ của nội thất sao cho vấn đề đi lại thuận tiện nhất.

(Theo Dothi.net)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 cách khắc phục phòng khách quá dài

Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?

Bụng là vị trí thường rất ít khi có nốt ruồi, nhưng không hẳn là không có. Và khi nốt ruồi mọc ở bụng nó cũng mang những ý nghĩa nhất định tùy thuộc vào vị trí nó nằm trên bụng là gì.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bụng là vị trí thường rất ít khi có nốt ruồi, nhưng không hẳn là không có. Và khi nốt ruồi mọc ở bụng nó cũng mang những ý nghĩa nhất định tùy thuộc vào vị trí nó nằm trên bụng là gì. Bài viết dưới đây của thư viện xem bói sẽ giải nghĩa nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì. Mời các bạn cùng theo dõi nhé.

Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?

Có thể tính nốt ruồi ở bụng là ở vị trí nào?

Nếu tìm ý nghĩa của nốt ruồi trên bụng chung chung thì có lẽ sẽ rất khó, thậm chí là không có kết quả. Bởi vùng bụng là vùng có diện tích rộng trên cơ thể. Và nốt ruồi có thể mọc ở bất cứ vị trí nào đó trên bụng của cả nam và nữ.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ tìm ý nghĩa của nốt ruồi ở bụng tại 3 vị trí:

Ở 2 bên eo, dưới cạnh sườn non

Ở giữa rốn

Ở giáp giữa ngực và bụng, phần hõm xuống.

Khi có nốt ruồi trên bụng tại các vị trí này, bạn có thể đọc nghĩa như dưới đây.

2. Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?

Như đã nói ở phần trên, khi có nốt ruồi trên bụng ở 3 phần đã kể thì có thể giải nghĩa như sau:

Với nốt ruồi mọc ở 2 bên eo:

Đây là vị trí 2 bên hông, dưới sườn trở xuống. Người có nốt ruồi vị trí này nếu ở bên phải thì sinh toàn con gái, bên trái thì sinh toàn con trai. Nốt ruồi son (có màu đỏ) thì quý hơn nốt ruồi đen

Với nốt ruồi mọc ở giữa rốn:

Không ai còn xa lạ vùng rốn trên cơ thể. Khi nói nốt ruồi ở bụng tại rún nghĩa là xung quanh gần hoặc bên trong rún. Nếu có nốt ruồi ở đây thì có 2 luồng ý kiến:

Nốt ruồi đỏ thì sinh con quý tử, con hợp cha mẹ. Nốt ruồi đen thì ăn uống dễ bị chột bụng

Có luồng ý kiến lại cho rằng, nốt ruồi trên bụng này là người có tính bảo thủ, hay ghen tỵ, cuộc sống khó khăn, gian nan

Với nốt ruồi mọc giữa ngực và bụng:

Tại vị trí giáp ranh này, nốt ruồi mang 2 luồng ý nghĩa:

Nếu là nốt ruồi nổi thì danh vị, tiền tài đều tốt, làm ăn phát đạt, cuộc sống sung sướng

Nếu là nốt ruồi chìm thì là người ưa danh hão huyền, làm việc không nhiệt tình đến cùng, dễ chán chường, mệt mỏi và bỏ cuộc.

Như vậy, tuy đều là nốt ruồi ở bụng nhưng ở các vị trí cụ thể khác nhau, hay màu sắc khác nhau thì nốt ruồi lại mang một ý nghĩa khác nhau, thậm chí là đối nghịch hoàn toàn. Tuy nhiên, việc xem tướng nốt ruồi trên bụng để đoán tài vận chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu bạn có nốt ruồi ở vị trí nào đó mà ý nghĩa không tốt thì cũng đừng nên quá buồn lòng nhé. Quan trọng vẫn là tấm lòng lương thiện, hành nhiều việc tốt, tránh những điều xấu v.v là cuộc sống của bạn sẽ thanh thản, gặp nhiều điều may mắn.

Tìm kiếm liên quan: nốt ruồi ở bụng, nốt ruồi ở bụng phụ nữ, nốt ruồi son ở bụng, nốt ruồi trên bụng

Xem thêm những bài viết liên quan khác:

Nốt ruồi vượng phu ích tử có nghĩa là gì?

+ Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì?

Nốt ruồi xấu là gì? Nên là gì với những nốt ruồi xấu

+ Xem bói nốt ruồi đoán vận mệnh tương lai của bạn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?

Mơ thấy anh trai –

Mơ thấy anh trai thường là giấc mơ tốt đẹp, dự báo bạn sẽ có được cuộc sống bình an, hạnh phúc. Nếu nam giới mơ thấy anh trai mình, điều này nhắc bạn nên có thái độ ôn hòa hơn với anh trai để tránh xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong gia đình. Nếu bạn l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy anh trai thường là giấc mơ tốt đẹp, dự báo bạn sẽ có được cuộc sống bình an, hạnh phúc.

image_29079_images1370600_anhem1_ND

Nếu nam giới mơ thấy anh trai mình, điều này nhắc bạn nên có thái độ ôn hòa hơn với anh trai để tránh xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong gia đình.

Nếu bạn là nữ giới thì giấc mơ về anh trai mang thông điệp rằng gia đình bạn sẽ luôn hòa thuận, êm ấm.

Trong giấc mơ bạn thấy người anh trai của mình xuất hiện với hình ảnh mạnh mẽ, điều đó chứng tỏ bạn đang hài lòng với cuộc sống của mình, đặc biệt là về số tài sản hiện có.

Mơ thấy anh trai xuất hiện với bộ dạng khốn đốn, nghèo khó thì bạn nên chú ý tới cuộc sống hiện tại. Đây là dự báo bạn sẽ gặp chuyện không may như có thể bị tổn thất tài sản, tiền bạc.

Ngoài ra, giấc mơ này còn có ngụ ý rằng bạn không nên quá tự mãn, hãy biết quan tâm và hòa đồng hơn với những người xung quanh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy anh trai –

Đền Giá - Thái Nguyên

Đền Giá tọa lạc tại địa phận thôn Cẩm La, xã Đông Cao (Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên. Mỗi năm, đền Giá có hai kỳ lễ hội: Kỳ thứ nhất và Lễ hội chính
Đền Giá - Thái Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhắc tới hội Gióng, mọi người thường nhớ làng Phù Đổng, Gia Lâm (Hà Nội), nơi tương truyền chàng trai Phù Đổng đứng lên đánh giặc. Tuy nhiên, ngoài làng Phù Đổng, ở Việt Nam còn có 4 ngôi đền khác liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng, trong đó có một ngôi đền ở Thái Nguyên, đó là Đền Giá. Đền Giá tọa lạc tại địa phận thôn Cẩm La, xã Đông Cao (Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên.

Hàng năm vào ngày mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng Âm lịch tại đền sẽ diễn ra lễ hội truyền thống.

Tương truyền, thời Hùng Vương thứ 6, nước ta bị giặc Ân xâm lược. Cậu bé làng Phù Đổng bỗng lớn vụt dậy, cầm quân đi đánh giặc. Một lần, khi đang đuổi giặc qua vùng đất thuộc địa phận huyện Phổ Yên (Thái Nguyên), thì trời tối, rừng cây rậm rạp, không rõ lối đi mà cánh quân của Phù Đổng đã thấm mệt. Lúc đó, một người dân địa phương đi đến, chỉ đường rồi cùng đoàn quân đi đánh giặc. Giặc tan, đất nước trở lại thanh bình, nhà vua phong cho chàng trai làng Phù Đổng là Phù đổng Thiên Vương (nhân dân vẫn gọi là Thánh Gióng), người dân địa phương có công giúp Phù Đổng đánh giặc được phong là “Mạnh Điền Quốc Vương” và cho nhân dân địa phương được thờ cúng. Từ đó, nhân dân địa phương dựng lên một ngôi miếu nhỏ làm bằng gỗ, lợp mái tranh để thờ cúng.

Sang đến thời Lê, khi nền văn hoá dân tộc bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ, đền Giá được xây dựng với quy mô to, đẹp. Trải qua thăng trầm lịch sử, đền Giá đã được sửa chữa nhiều lần, nhưng vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. Ngôi đền không chỉ là nơi người dân địa phương cũng như khách thập phương thể hiện đời sống tâm linh mà nó còn thể hiện những tinh hoa trong kiến trúc của dân tộc. Khu đền có hai toà nhà: Nhà tiền tế ở phía trước rộng 5 gian và hậu cung rộng 3 gian đều có các phần kiến trúc bằng gỗ chạm trổ tinh vi, phong phú với các kiến trúc cuối Lê đầu Nguyễn. Phần tường xây ở hậu cung, đốc nhà…có đắp nổi các hình hoa lá và long, li, quy, phượng.

Mỗi năm, đền Giá có hai kỳ lễ hội. Kỳ thứ nhất – lễ hội chính, từ ngày mùng 4 đến mùng 6 tháng Giêng, có rước kiệu trên là những chiếc “dò” (làm bằng tre tươi bào mỏng, nhuộm màu đỏ, vàng) tượng trưng cho roi sắt của Thánh Gióng; dân chúng khắp trong làng ngoài xã mang lễ vật tới đền tế lễ. Xưa, trong những ngày lễ hội có đánh đu, vật, hát trống quân, hát ví nhưng nay đã mai một. Kỳ thứ hai, chỉ tổ chức trong ngày 9 tháng 4 âm lịch. Ngày lễ hội, dân chúng dâng xôi, gà tế lễ trong đền. Đặc biệt, đồ lễ còn có một mâm cơm, ba nong cà – những thức ăn mà theo truyền thuyết, chàng Gióng từng ăn rồi vươn vai đứng dậy lên đường đánh giặc Ân. Hiện nay, kỳ lễ hội này lại được tổ chức vào ngày 30/4 âm lịch hàng năm.

Đền Giá còn là nơi diễn ra một sự kiện lịch sử trọng đại của huyện Phổ Yên. Ngày 22/8/1945, tại ngôi đền này đã diễn ra hội nghị cán bộ chủ chốt để thành lập chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của huyện, góp phần vào cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 của tỉnh Thái Nguyên. Với giá trị kiến trúc và ý nghĩa lịch sử như vậy Đền Giá đã được xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Giá - Thái Nguyên

Giải mã ý nghĩa giấc mơ thấy con cá –

Giấc mơ thấy cá tượng trưng cho sự thanh thoát và may mắn. Cá liên kết với nước. Cá mang đến nhiều trí tuệ kiến thức, bởi vì cá có thể bơi đến tận sâu của lòng đại dương và mang về cho con người nhiều điều mới mẻ. Bên cạnh đó, nằm mơ thấy cá còn có r
Giải mã ý nghĩa giấc mơ thấy con cá –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã ý nghĩa giấc mơ thấy con cá –

Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Chọn đất tốt an táng là một trong những việc rất quan trọng. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ là một gợi ý đáng lưu tâm cho bạn.
Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn đất tốt an táng là một trong những việc rất quan trọng, không chỉ với người đã khuất mà còn với gia đình, những người còn sống. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ là một gợi ý đáng lưu tâm cho bạn.


Chon long huyet cho phu nu trong nha, con chau doi doi phuc am hinh anh
 
Huyệt mộ mà Hình và Thế mâu thuẫn, đại mạch không thông, phong thủy hỗn loạn thì sẽ nảy sinh hiện tượng trái với tự nhiên. An táng ở đất ấy thì thi thể không thể tiêu tan, có hại cho người đã mất và vận thế của gia đình.    Long huyệt là nơi đất tốt, có long mạch, rất thích hợp để an táng, có lợi cho người còn sống, con cháu được hưởng phúc tổ tiên. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ không giống với nam giới. Vốn “phúc đức tại mẫu”, huyệt mộ của người phụ nữ càng tốt thì gia trạch càng hưng.   Muốn táng người nữ trong nhà ở cuộc đất tốt cho âm trạch thì phải chọn nơi phong thủy thật tốt, trước thoáng rộng, sau có chỗ dựa, chín dòng nước như Cửu Long mang nước, phân cách đồi núi như đóa hoa sen nở rộ, gọi là Cửu Long tráo ngọc liên”. Nếu thiếu một dòng, thêm một dòng hay dòng nước quá mạnh đều có thể phá vỡ thế cục, không tốt.   Số 9 là số lớn nhất ở hàng đơn vị, ẩn chứa ý nghĩa chí tôn, phát âm cũng tựa như vĩnh hằng, là kí tự cát tường, may mắn. Mặt khác, dòng nước nhỏ thì không gọi là Long mà là Xà, cũng mất thế cục.   Chọn huyệt cát, yên âm trạch
Theo quan niệm của người phương Đông, âm trạch là yếu tố quan trọng tác động đến đời sống. Linh hồn người chết có yên ổn thì con cháu mới thịnh vượng, được

Một cuộc đất tốt để táng người nữ khác là “Lạc thần liễn”. Thế đất này chỉ hợp với táng người nữ, táng người nam thì cả gia tộc bại vong, người nam trong nhà không ốm yếu chết bệnh cũng suy đồi.
  Mộ mà phía trước có một đạo nho nhỏ dẫn tới suối hoặc ao, mà con suối ấy lại là địa mạo hiểm thủy thì chính là thế huyệt tốt. Dòng nước mà suối dẫn vào tưới tắm, làm tốt tươi cho ngôi mộ, thế đất cực tốt trong phong thủy âm trạch.   Đây là thế huyệt hiếm gặp, giữa huyệt có dòng nước vĩnh viễn chảy, không lớn tới mức tràn ra, không nhỏ đến nỗi khô cạn, tụ khí. Tìm được cuộc đất tự nhiên như vậy rất thích hợp để táng người nữ trong nhà, con cháu được hưởng phúc ấm.  
► ## gửi tới bạn đọc công cụ xem ngày chôn cất theo Lịch vạn sự để mồ mả an yên

Trần Hồng (Theo 99166)

Xem Clip Chọn năm sinh con hợp tuổi cha mẹ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Xem lá số tử vi đoán mệnh nữ hai chồng

Hi hữu là những trường hợp một vợ hai chồng. Ngoài yếu tố tình cảm, đó còn có thể do người đó có bát tự song phu (mệnh nữ hai chồng) trong lá số tử vi.
Xem lá số tử vi đoán mệnh nữ hai chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Pháp luật quy định chế độ hôn nhân một vợ một chồng nhưng thực tế, vẫn không ít người vi phạm. Và hi hữu là những trường hợp mệnh nữ hai chồng, người phụ nữ qua lại chung sống với ca hai người đàn ông cùng một lúc. Ngoài yếu tố tình cảm, đó còn có thể do người đó có bát tự song phu trong lá số tử vi.


Xem la so tu vi doan menh nu hai chong hinh anh 2
 

1. Bát tự có chứ nam mệnh ngoài giá thú

  Xem lá số tử vi, Quan tinh đại biểu cho người chồng. Nhưng nếu có thêm Thương Quan trong ngày sinh tháng đẻ thì chính là bát tự song phu, đại biểu người chồng bị tổn hại, có điềm ngoại tình.    Thương Quan khắc phu, mệnh nữ hai chồng làm tổn thương người chồng, có thể là về mặt thân thể, sức khỏe, cũng có thể là về tình cảm, tâm lý. Nhưng tựu chung lại, mệnh Quan không mạnh, bị áp chế nên vai trò của người chồng không rõ nét. Vì thế mà bản mệnh gặp đại vận sẽ đi tìm người đàn ông khác để bổ sung thiếu hụt về Quan tinh trong số mệnh của mình.  

2. Tuế vận có thông tin nam mệnh ngoài giá thú

  Thông điệp gợi ra trong tuế vận của người phụ nữ nhắc tới người đàn ông không danh chính ngôn thuận hoặc xuất hiện Quan ẩn chính là bát tự song phu. Gặp đại vận Thương Quan, chắc chắn sẽ làm tổn thương về tinh thần của người chồng, tìm kiếm tình nhân bên ngoài.   Ở năm đại vận lưu niên, Thương Quan gặp Quan, hai người đàn ông cùng tới một lúc, bản mệnh ngoài chồng chính thức còn có tình nhân hoặc quan hệ như vợ chồng với hai người đàn ông cùng một lúc, không phân biệt được đâu là chồng, nđâu là tình nhân.
 
Xem la so tu vi doan menh nu hai chong hinh anh 2
 

3. Thân vượng thắng Tài Quan

  Bát tự mệnh nữ hai chồng cho rằng, Thân vượng là một trong những yếu tố tạo nên bát tự song phu. Thân vượng mới có thể gánh được cả Quan cả Tài. Quan đại diện cho chồng, Tài đại diện cho tình nhân. Mệnh cục ngày chủ vượng, ngày tọa Tài tinh, lại gặp thêm Thực Thương thì chắc chắn cuộc đời người phụ nữ không thể chỉ có một người đàn ông. Mà hai người này còn chung sống hòa bình, ôn hòa đúng mực, hỗ trợ toàn diện cho bản mệnh nữ.
► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Xem tử vi tiết lộ tài vận và nhân duyên cho nam mệnh Cách xác định quý nhân vận theo tử vi Tìm hiểu về ý nghĩa của tứ trụ trong tử vi
Trần Hồng
     
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem lá số tử vi đoán mệnh nữ hai chồng

Xem mệnh chọn màu xe –

Theo quan niệm của một số người, màu sắc xe, biển số xe ảnh hưởng trực tiếp đến tiền tài, sức khỏe của chủ nhân. Dưới đây là cách để bạn chọn được màu xe, biển số xe hợp với mệnh và năm sinh của bạn. Người mệnh Hỏa Người mệnh Hỏa nên chọn xe màu xanh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm của một số người, màu sắc xe, biển số xe ảnh hưởng trực tiếp đến tiền tài, sức khỏe của chủ nhân. Dưới đây là cách để bạn chọn được màu xe, biển số xe hợp với mệnh và năm sinh của bạn.

Người mệnh Hỏa

Người mệnh Hỏa nên chọn xe màu xanh lá cây. Có thể chọn xe màu da cam, đỏ, hồng cùng mệnh. Nếu bạn cảm thấy một chiếc xe màu xanh lá cây đôi khi quá nổi bật và không phù hơp, hãy chọn các màu như nâu, vàng đậm, trắng, bạc, vàng sáng. Cần tránh xe màu xanh nước biển, đen.

Người mệnh hỏa sinh các năm: 1934, 1935, 1948, 1949, 1956, 1957, 1964, 1965, 1978, 1979, 1986, 1987, 1994, 1995.

(Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935, Mậu Tý 1948 & Kỷ Sửu 1949, Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957, Giáp Thìn 1964 & Ất Tỵ 1965, Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979, Bính Dần 1986 & Đinh Mão 1987)

xanh la cay

Người mệnh Thổ

Người mệnh Thổ nên chọn xe màu đỏ, da cam, hồng. Có thể chọn màu nâu, vàng đậm, vàng nhạt, bạc, trắng. Nên tránh màu xanh lá cây và nhớ đừng lạm dụng màu xanh da trời, đen.

Người mệnh thổ sinh các năm 1938, 1939, 1946, 1947, 1960, 1961, 1968, 1969, 1976, 1977, 1990, 1991, 1998, 1999.

(Mậu Dần 1938 & Kỷ Mão 1939, Bính Tuất 1946 & Đinh Hợi 1947, Canh Tý 1960 & Tân Sửu 1961, Mậu Thân 1968 & Kỷ Dậu 1969, Bính Thìn 1976 & Đinh Tỵ 1977, Canh Ngọ 1990 & Tân Mùi 1991.)

xe mau do

Người mệnh Kim

Người mệnh Kim nên chọn xe màu nâu, vàng đậm. Bạn cũng có thể mua xe màu trắng, vàng nhạt, xanh nước biển. Cần cân nhắc khi mua xe màu xanh lá cây và thận trọng với màu đỏ, da cam, hồng.

Người mệnh Kim sinh các năm 1932, 1933, 1940, 1941, 1954, 1955, 1962, 1963, 1970, 1971, 1984, 1985, 1992, 1993, 2000, 2001.

(Nhâm Thân 1932 & Quý Dậu 1933, Canh Thìn 1940 & Tân Tỵ 1941, Giáp Ngọ 1954 & Ất Mùi 1955, Nhâm Dần 1962 & Quý Mão 1963, Canh Tuất 1970 & Tân Hợi 1971, Giáp Tý 1984 & Ất Sửu 1985)

mau vang dam

Người mệnh Thủy

Người mệnh Thủy nên chọn xe màu trắng, vàng nhạt. Có thể sử dụng màu cùng mệnh như xanh nước biển, đen hay màu xanh lá cây. Bạn cần tránh những màu như nâu, vàng sẫm. Màu đỏ, da cam là màu khắc xuất cũng nên thận trọng khi lựa chọn.

Người mệnh Thủy sinh các năm 1936, 1937, 1944, 1945, 1952, 1953, 1966, 1967, 1974, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997.

(Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937, Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945, Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953, Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967, Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975, Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983.)

mau trang

Người mệnh mộc

Người mệnh Mộc nên sử dụng xe có màu xanh nước biển, đen, tím. Có thể sử dụng màu xanh lá cây, nâu, đỏ, hồng, da cam và cần tránh các màu kim như bạc, trắng, vàng ánh kim.

Người mệnh Mộc sinh các năm 1942, 1943, 1950, 1951, 1958, 1959, 1972, 1973, 1980, 1981, 1988, 1989, 2002, 2003.

(Nhâm Ngọ 1942 & Quý Mùi 1943, Canh Dần 1950 & Tân Mão 1951, Mậu Tuất 1958 & Kỷ Hợi 1959, Nhâm Tý 1972 & Quý Sửu 1973, Canh Thân 1980 & Tân Dậu 1981, Mậu Thìn 1988 & Kỷ Tỵ 1989.)

Nhìn chung, nên rất trận trọng khi sử dụng các màu tương khắc với mệnh của bạn để có thể an tâm khi sử dụng xe. Dù sao, quan trọng hơn vẫn là việc tập trung khi lái xe, không sử dụng rượu bia và lái xe đúng luật, còn nếu không thì dù có sử dụng xe có màu phù hợp đến mấy bạn cũng phải nhận những hậu quả đáng tiếc.

menh moc


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem mệnh chọn màu xe –

Sao Thiên Lương trong tử vi - hình tượng Lý Tịnh

Trong tử vi đẩu số, sao Thiên Lương được lấy từ nhân vật quan Tổng binh ải Trần Đường Lý Tịnh, có ba người con trai Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, được mệnh danh là Thác Tháp Lý Thiên Vương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi đẩu số, sao Thiên Lương được lấy từ nhân vật quan Tổng binh ải Trần Đường Lý Tịnh. 

Lý Tịnh từng bái Độ Ách chân nhân tại Tây Côn Lôn làm thầy theo học pháp thuật nhiều năm, thấy đạo thần khó thành, nên từ biệt thầy xuống núi, sau lĩnh chức Tổng binh của triều đình Ân Trụ. Phu nhân của ông là An thị sinh được ba con trai, con trưởng là Kim Tra, con thứ là Mộc Tra, con út là Na Tra.

Kim Tra bái Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn tại động Vân Tiêu núi Ngũ Long làm thầy, Mộc Tra theo học Phổ Hiền chân nhân tại động Bạch Hạc núi Cửu Cung, còn Na Tra vừa ra đời đã được Thái Ất chân nhân nhận làm học trò.

Lý Tịnh với danh xưng là "Thác tháp thiên vương" (thiên vương nâng tháp) là một võ tướng trong truyện Phong thần diễn nghĩa, với hình tượng mình mặc giáp trụ, đầu đội mũ ô vàng, tay trái dỡ một toà tháp, tay phải cầm cương xoa ba mũi hoặc bảo kiếm.

sao Thiên Lương Lý Tịnh

Do Thương Trụ vô đạo, trăm họ lầm than khổ cực, các chư hầu lớn nhỏ tôn Tây Bá hầu Cư Phát làm thủ lĩnh, hợp quân phạt Trụ. Cả ba con trai của Lý Tịnh cũng đều theo về dưới trướng Vũ Vương, làm bộ tướng tiên phong. Lý Tịnh vốn là tướng nhà Ân, đứng trước tình hình đó, không biết phải làm thế nào. Sau ông được Đạo nhân Nhiên Đăng chỉ điểm, tạm thời từ quan về ở ẩn, đợi đến khi Chu Vũ Vương dấy binh thì đến hợp lực cùng ba người con trai cùng tham gia nghiệp lớn.

Trong thời gian Vũ Vương phạt Trụ, Lý Tịnh cùng ba con trai đã lập rất nhiều công lao lớn, đặc biệt là con trai út Na Tra, hoá thân của hoa sen trắng (sao Hoả), đánh đâu thắng đó, giúp đỡ đắc lực cho chiến thắng của Vũ Vương. Khi sự nghiệp hoàn thành, triều Chu đã được kiến lập, Vũ vương tiến hành luận công ban thưởng, cả bốn cha con Lý Tịnh đều không màng đến danh lợi, không hẹn mà cùng lẳng lặng trở về nơi lu luyện của thầy mình, rồi từ đó đến cuối đời chỉ chuyên tâm học đạo tu tiên.

Lý Tịnh vốn là một võ tướng, nhưng công lực tu hành rất cao thâm, hơn nữa còn mang tấm lòng nhân ái, sẵn sàng dùng tài năng và pháp lực để cứu vớt nhân dân ra khỏi cơn nước lửa mà không màng chuyện sống chết của bản thân.

Lý Tịnh tu đạo mà thành thần tiên, trở nên trường thọ. Khương Tử Nha sau khi tự phong mình làm chủ nhân sao Thiên Cơ, lại thấy sao Thiên Lương còn vô chủ, bèn phong thần trước cho Lý Tịnh, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương. Bởi vậy trong hệ thống lý luận Tử Vi Đẩu Số, tính cách của Lý Tịnh được gán rất nhiều cho sao Thiên Lương.

Thiên Lương là sao chủ về tuổi thọ và sang quý, có lòng trắc ẩn, bản tính trung hậu, thích bố thí, hay lo chuyện bao đồng. Hành sự quyết đoán, thích giúp đỡ ngưòi khác nhưng việc nhà lại thiếu sự quan tâm.

Danh hiệu Thác Tháp Lý Thiên Vương của Lý Tinh bắt nguồn như sau:

Người con trai út của Lý Tịnh tên là Na Tra, từ nhỏ đã ương bướng và rất nghịch ngợm. Một hôm, Na Tra cùng đám bạn của mình chơi đùa nơi ven biển, làm kinh động đến tận Thủy cung của Đông Hải Long Vương. Long Vương bực tức lệnh sai Dọa Xoa đi tìm hiểu ngọn ngành. Tới nơi thì Dọa Xoa bị Na Tra giết chết. Sau đó Long Vương lại sai Tam thái tử đi thu phục Na Tra. Do nói năng thiếu khiêm nhường nên đã chọc tức bản tánh ương ngạnh khiến Na Tra xuống dưới biển và đại náo Long cung, giết chết Tam thái tử, phá hủy Long cung và bắt nhốt Long Vương. 

Trước tình hình đó, không còn cách nào khác, Lý Tịnh đành bắt Na Tra tự sát. May được Thái Ất chân nhân dùng hoa sen giúp cho Na Tra được hồi sinh. Na Tra sau khi trở lại với thân xác của mình thì trong lòng không vui, muốn tìm cha mình để trả thù. Bởi tài năng cao cường của Na Tra, Lý Tịnh không thể chống đỡ được nên Phật Tổ Như Lai liền ban cho ông một tòa bảo tháp xá lị bằng vàng. Lý Tịnh nhờ đó mới nhốt được Na Tra vào trong bảo tháp.

Sau này mối thù giữa cha và con được hóa giải. Cùng nhau theo về trướng Vũ Vương tiên phong phạt Trụ cứu dân độ thế. Lý Tịnh có được bảo tháp thần kỳ này mà trở thành danh xưng "Thác tháp Lý thiên vương".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Lương trong tử vi - hình tượng Lý Tịnh

Tên đã hợp mệnh với Con

Cuộc sống hiện đại, dễ dàng bố mẹ có thể tham khảo tư vấn đặt tên cho con, hãy dành chi phí về thời gian và vật chất để để lựa chọn cho con cái tên tốt nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hơn ai hết, các chuyên gia tử vi, phong thủy hiểu rõ tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Cuộc sống hiện đại, dễ dàng bố mẹ có thể tham khảo tư vấn để lựa chọn cho con cái tên tốt nhất.

ten-goi-hop-menh

Câu hỏi: Em sinh con vào ngày 28/7/2013 tức là ngày 21/6 Âm lịch. Trước khi sinh, bạn bè em cũng nhiều người khuyên nên đợi con ra đời, biết ngày biết giờ rồi mới đi xem tên cho con. Bạn bè em hay nói "Cái tên cũng rất quan trọng vì sẽ gắn kết với con cả đời, nhiều khi con quyết định vận mệnh con". Tuy nhiên, vì trước giờ hai vợ chồng cũng không quá quan tâm tới chuyện phong thủy khi đặt tên nên em cũng thường để ngoài tai. Thêm vào đó, vì thích con sau này sẽ thông minh, học giỏi nên vợ chồng em đã định đặt tên cho cháu là Anh Minh.

Minh nhà em rất khó nuôi. Con thường xuyên ngày ngủ đêm thức, ăn uống lại lung tung thất thường. Thêm vào đó, không hiểu sao từ khi có con, việc làm ăn buôn bán của chồng em lại xuống dốc hẳn. Hôm vừa rồi chị hàng xóm sang chơi, thấy em tâm sự chuyện con. Chị khuyên em nên đi khai sinh lại cho Minh. Chị bảo Minh tuổi Tỵ, loài rằn kỵ nhất là những tên thuộc bộ Nhật như Tinh, Đán, Tảo, Minh, Tình, Huy, Trí, Thời, Hiểu, Thần, Diệu, Yến, Tấn, Nhật…"Em đặt tên cho con như vậy, khó trách nó toàn ngày ngủ đêm thức. Chị không biết xem mệnh nhưng có lẽ tên con xấu cũng khắc bố nên việc làm ăn mới đi xuống" chị tâm sự.

Đặt tên cho con có đi xem phong thủy không ạ? Liệu có đúng là em nên khai sinh lại cho con vì đặt phải tên không hợp mệnh không?

Trả lời:

Phân tích cái tên

Bạn chưa cho thông tin đầy đủ, nên không thể xem cụ thể tuy vậy, theo ngày tháng bạn cho 28/7/2013, tức năm Quý Tỵ - tháng Kỷ Mùi - ngày Ất Mùi, đang trong tiết khí Đại thử. Tuy không có thông tin giờ sinh, nhưng cũng có thể nhận định là can ngày không được lệnh, Ất Mộc yếu gặp Kỷ Thổ mạnh, theo nguyên lý hóa giải ngũ hành trong cuốn "Trang sức đá quý ngọc theo phong thủy", cần bổ sung Mộc.

Hiện tượng quấy khóc, khó nuôi có nhiều nguyên nhân, như không hợp tuổi bố mẹ, trường khí đất nơi ở thấp hoặc không ổn định, sinh vào năm tháng ngày giờ không thuận lợi mà dân gian hay gọi là phạm giờ sinh. Cần phải xem cụ thể từng trường hợp để có kết luận đúng đắn.

Việc đặt tên theo năm sinh (cụ thể ở đây là năm Tỵ) chỉ dùng để tham khảo, bởi điều này tác động bởi ý nghĩa nhiều hơn là tác động bởi âm dương ngũ hành, nên không có quyết định được toàn bộ. Nếu xét tên theo ngũ hành, Anh (Mộc) Minh (Hỏa) thì cũng được tương sinh, nhưng trường hợp này đang cần Mộc, sinh cho Hỏa là bị tiết đi cũng không tốt.
Đặt tên cho con cũng khiến nhiều cha mẹ "đau đầu nhức óc" (ảnh minh họa)
Sử dụng phong thủy để hóa giải bé hay quấy khóc do không hợp mệnh

Khai sinh lại là quyền của bạn, cá nhân quan điểm của tôi là mọi trường hợp đều có hướng hóa giải. Ví dụ trường hợp này thiếu Mộc, bổ sung hành Mộc như quần áo màu xanh, cháu bé quá chưa đeo được trang sức, thì cũng có thể cho ít đá xanh vào dưới gối như mã não xanh, đá ô liu,... Tất nhiên nên nhớ đây là những viên đá nhỏ đường kính 1-2mm đã mài nhẵn, số lượng vừa phải trong khoảng 2-300gr, liều lượng cụ thể phải tùy thực tế cân nặng và thời gian định đặt. Như vậy sẽ giúp cháu ngủ ngon hơn, bớt quấy khóc.
Cách đặt tên cho con hợp mệnh

Từ phong thủy hay bị lạm dụng quá nên thành ra cái gì cũng phong thủy, phong thủy bản chất là nghiên cứu về khí, nhằm mục đích cân bằng khí của môi trường sống với cơ thể con người, chứ cũng không phải là gió và nước như nhiều người lầm tưởng. Họ tên liên quan nhiều hơn đến mệnh lý, có dính dáng đến phong thủy thì cũng là trên nền tảng âm dương ngũ hành, tuy vậy không nên đánh đồng với nhau. Họ tên tất nhiên liên quan nhiều đến tính cách, hay số phận, nhưng không thể trả lời ngắn gọn ở đây được. Bạn chỉ cần biết rằng, một cái tên dễ nghe, dễ nhớ cũng đã tạo thuận lợi hơn trong giao tiếp rồi.

Như đã nói ở trên về từ phong thủy, đặt tên thì nên suy xét đến mệnh lý, đến âm dương ngũ hành. Còn khi cần làm nhà dựng cửa, sẽ cần đến phong thủy.

Nguyên tắc cơ bản khi đặt tên con lại phải tùy theo quan niệm, trường phái hay cách đặt. Ví dụ có nhà kiêng đặt tên trùng với người lớn tuổi hơn trong dòng họ như ông bà bố mẹ cô dì chú bác, thì đó là nguyên tắc đặt tên của nhà đó gia đình đó. Còn về cơ bản, tên hợp và đẹp cần chú ý đến các nhân tố sau:

- Âm thanh: Khi âm thanh của tên một người được gọi ra, người ta có thể cảm nhận một cách trực tiếp bản thân người có cái tên đó và cảm nhận của người được gọi. Bản thân "âm" cũng bao hàm cả số (tần số âm), có số chính là có sự hiệu ứng. Do đó khi chọn tên cần lựa chọn những âm dễ nghe, dễ gọi, tránh những âm không thanh nhã và những âm gần giống nhau.

- Ý nghĩa: ý nghĩa của tên, nếu cùng biểu trưng cho một người thì không nên dùng những chữ không nho nhã, thô tục. Tốt nhất là có liên quan đến họ, tức là ý nghĩa của họ và tên phải thông suốt trời đất. Như tên Mai Lan Phương, tức là trong họ và tên có sự nâng đỡ lẫn nhau, cùng ca ngợi nhau. Nhiều cái tên thô tục quá như Nguyễn Thị Khoái, Lại Văn Nhanh,... dễ làm mọi người bật cười khi nhắc đến.

- Hình: Hình dạng của chữ thể hiện khả năng dẫn dắt và ám thị, sức khỏe của người đó. Cần chú ý kết cấu dài ngắn cân đối hài hòa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên đã hợp mệnh với Con

Cách sửa nhà có không gian không đẹp –

Theo thuyết phong thủy, nhà ở vuông vắn là đẹp nhất. Nếu nhà dài và hẹp hoặc không theo qui tắc thì đều bị coi là không tốt. Nhưng các tòa nhà trong thành phố hiện nay đều thiết kế theo hình dài, hẹp hoặc không theo qui tắc, thường là do không còn cá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo thuyết phong thủy, nhà ở vuông vắn là đẹp nhất. Nếu nhà dài và hẹp hoặc không theo qui tắc thì đều bị coi là không tốt.

thiet_ke_nuoc_cho_khong_gian_nha_vuon_0

Nhưng các tòa nhà trong thành phố hiện nay đều thiết kế theo hình dài, hẹp hoặc không theo qui tắc, thường là do không còn cách lựa chọn nào khác mà phải mua, tuy nhiên trong lòng chủ nhà luôn bất an, khó sống yên ổn. Đầu tiên phải nói đến phòng khách dài, hẹp. Dài, hẹp tức là chiều dài lớn gấp 2 lần chiều rộng. Nếu chiều dài dài 10m mà chiều rộng chỉ có 4m thì được coi là dài và hẹp. Như vậy không những không phù hợp với phong thủy mà còn khó thiết kế các phòng trong nhà. Cách giải quyết tốt nhất là dùng tủ thấp, bàn trang điểm chia phòng khách thành hai phần, chia khoảng dài thành hai khoảng nhỏ hình vuông, như vậy không những phù hợp với phong thủy mà còn thay đổi được cảm quan, không còn cảm giác chật hẹp nữa. Tuy nhiên, khi làm như vậy cần chú ý vài điểm sau:

Chỗ chia cắt nên tối đa để gần đường trung tuyến, vì làm như vậy thì hai phần sau khi chia ra mới thành hình vuông, nếu không sẽ không còn ý nghĩa ban đầu nữa. Nên cố gắng dùng đồ dùng trong nhà để phân chia, ví dụ như tủ hoặc bàn trang điểm dưới 3 thước là lý tưởng nhất, vì như vậy mới khiến cho không khí ở hai phòng mới chia lưu thông với nhau. Nếu dùng tủ cao hoặc tường ván phân cách thì lại trở thành cắt xén. Đồ dùng để phân cách không được để đốì diện với cửa lớn. Làm như vậy sẽ có ảnh hưởng không tốt đến người trong nhà, đặc biệt là về sức khỏe. Do đó cũng không nên để tủ hướng về phía cửa phòng của trẻ. Nếu thực sự không thể tránh được thì chỉ còn cách đặt cạnh tủ một chậu cây để hóa giải. Trên đây đã trình bày về, phòng khách dài, hẹp, phòng ngủ dài, hẹp cũng có thể áp dụng cách làm như phòng khách, chia phòng ngủ làm hai phần. Nếu nằm trên giường nhìn căn phòng dài và hẹp sẽ có cảm giác cô đơn lạnh lẽo, những người có thần kinh hạy cảm sẽ hay nghĩ ngợi tưởng tượng lung tung, tự tạo ra ảo giác. Nhưng nếu dùng tủ thấp chia phòng ngủ làm hai, một nửa dùng làm phòng trang điểm hoặc phòng đọc sách, một nửa dùng để ngủ và nếu để vô tuyến trên nóc tủ thì khi nằm trên giường có thể xem được cả chương trình truyền hình. Sau khi thay đổi thì phòng ngủ không còn cảm giác trống rỗng nữa, mà cảm thấy yên lòng hơn rất nhiều.

Có một số điều cần chú ý, có người dùng gương để ngăn phòng ngủ, thực ra làm như vậy là không thích hợp. Nếu gương hướng về phòng trang điểm hay phòng đọc sách thì không vấn đề gì nhưng nếu gương hướng về phòng ngủ thì lại phạm vào điều tối kỵ trong phong thủy, thường sẽ khiến người trong phòng sinh bệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sửa nhà có không gian không đẹp –

6 đường chỉ tay đặc biệt ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn

Các đường chỉ tay đặc biệt trên bàn tay có đặc điểm gì? Cùng Phong thủy số kiểm tra bàn tay của bạn có những đường chỉ tay đặc biệt này không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các đường chỉ tay đặc biệt trên bàn tay có đặc điểm gì? Cùng Phong thủy số kiểm tra bàn tay của bạn có những đường chỉ tay đặc biệt này không nhé.

Đường chỉ tay may mắn

Đường chỉ tay may mắn

Đường chỉ tay đặc biệt này là hai đường vòng cung, đường thứ nhất nốt liền từ ngón tay trỏ sang ngón áp út, đường thứ hai là từ ngón áp út tới hết ngón tay út như hình vẽ dưới đây:

Đường chỉ tay này là biểu tượng của sự may mắn, của hạnh phúc. Nếu bạn may mắn sở hữu đường chỉ tay này, cuộc sống của bạn dường như luôn trôi qua một cách êm đềm, ít sóng gió. Không những vậy, con đường công danh sự nghiệp cũng như cuộc sống gia đình của bạn luôn được trải hoa hồng. Bạn dường như ít gặp phải chuyện buồn phiền, nếu có cũng nhanh chóng qua đi.

Đường chỉ tay quý nhân phù trợ

Đường chỉ tay quý nhân phù trợ

Vị trí của đường chỉ tay này song song với đường vận mệnh nhưng ngắn hơn đường vận mệnh, nó nằm ở giữa đường vận mệnh.

Những người có đường chỉ tay này luôn có quý nhân phù trợ. Họ thường gặp được người có thể giúp đỡ và hỗ trợ trong công việc cũng như cuộc sống hàng ngày. Và một điều thú vị là quý nhân này có thể là chồng hoặc vợ tương lai của bạn.

Đường chỉ tay tiền bạc:

Đường chỉ tay tiền bạc nằm ở vị trí dưới cùng của ngón tay cái (đốt thứ 2 của ngón tay cái). Đường chỉ tay tiền bạc là những đường vân hình ngang, dọc hoặc thẳng đứng song song, hoặc đan xe hay xếp liền kề nhau.

Đường chỉ tay đặc biệt này có khá ít người có, nó thể hiện về khả năng tích lũy và quản lí tiền bạc, tài chính. Nếu bàn tay của ai có những đường vân ở vị trí này càng nhiều và sâu đậm thì chứng tỏ bạn tích lũy được nhiều tài sản.

Đường chỉ tay sáng tạo:

Đường chỉ tay sáng tạo, thường là hai đường thẳng song song, hơi nghiêng hoặc thẳng đứng nằm ở giữa ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn.

Đường chỉ tay này thể hiện cho sự sáng tạo, đổi mới tư duy của người chủ nhân. Những người sở hữu như thế này thường sẽ thành công trong lĩnh vực nghệ thuật, sáng chế.

Đường chỉ tay chữ M:

Những người chỉ tay chữ M là những người đặc biệt. Họ được dự đoán là những người nổ bật, có tài năng và trực giác tuyệt vời trong bất kỳ lĩnh vực nào. Những người có đường chỉ tay chữ M, thường có trực giác khá nhạy bén. Những người có đường chỉ tay đặc biệt này thường là người có khí chất đặc biệt sau: là người có khả năng lãnh đạo, giàu có và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, họ luôn bộc lộ những tố chất đặc biệt trong công việc và sự nghiệp của mình.

Đường chỉ tay ngây thơ.

Nếu ở đốt cuối cùng của ngón trỏ có nhiều vân ngang dọc là biểu thị cho những người có tính lương thiện, chất phác, dễ bị người khác lợi dụng. Nếu trên bàn tay của bạn có những đường chỉ tay đặc biệt này  thì bạn nên thận trọng, không nên lo chuyện bao đồng, cẩn thận không sẽ vướng vào những vấn đề rắc rồi, thị phi.

Xem thêm ý nghĩa những đường chỉ tay khác tại: Xem bói chỉ tay

: Chỉ tay hình tam giác 3 đường chỉ tay không cắt nhau
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 đường chỉ tay đặc biệt ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn

Đạo lý vận mệnh

I– Luận về lập mệnh 1. Khổng Tiên Sinh đoán rõ định mệnh.
Đạo lý vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy.

Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả.

Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế.

Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.

Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi.

Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy.

Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách.

II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh

1. Nguyên lý của việc cải tạo

Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa.

Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều cực ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì?

Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư?

Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được?

Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy.

Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm thì thật không hợp đạo lý mà chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Số mệnh đã định thì chẳng phải phí công phí sức, dù cầu hay không, tự nhiên rồi sẽ có. Ngược lại số không có, lại không biết phương pháp hướng nội tâm cầu thì dù có trăm phương ngàn kế mưu đồ cũng không được gì cả, chỉ mất công vô ích mà thôi, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất.

2. Phương pháp cải tạo vận mệnh

a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh

Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru!

Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá  mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượi nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết.

Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là số mệnh đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói cũng là do quả báo định vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn.

b)   Việc triệt để sửa lỗi

Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy.

Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao! Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được.

Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư?

Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu.

Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không?



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đạo lý vận mệnh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd