Phước 70 đời, phước do chính mình tạo nên, không cầu được
Mỗi khi tai qua nạn khỏi, thoát khỏi lưỡi hái tử thần, người ta lại nói rằng phước 70 đời hay phước do ông bà để lại, điều này có nghĩa gì trong Phật giáo?
Mỗi khi tai qua nạn khỏi, thoát khỏi lưỡi hái tử thần, người ta lại nói rằng may mắn “phước 70 đời” hay “phước do ông bà để lại”… Dưới góc nhìn Phật giáo, điều này có nghĩa gì?
1. Đạo Phật cho rằng nhân sinh không có sự may mắn ngẫu nhiên
Theo đạo Phật, không có sự may mắn ngẫu nhiên, vì nếu có thì làm sao giải thích tại sao may mắn đến với người này mà không đến với người kế bên. Điều này cũng không chắc là do "phước đức ông bà để lại”. Bởi nếu nhìn lại cuộc đời tổ tiên, nhiều khi thấy cuộc đời họ thật khốn khổ bất hạnh, phước của họ còn không đủ đem lại cho chính họ chút sung sướng hạnh phúc nào, lấy gì họ để lại cho con cháu về sau dùng… Phước 70 đời, chỉ có duy nhất phước đức chính bản thân mình tích tụ từ bao đời trước, như một vòng bảo vệ khổng lồ bao bọc lấy mình khi hoạn nạn ập tới trong cuộc đời, như thuyền to giữa biển, như áo lạnh cực tốt giữa cơn bão tuyết… hay áo giáp sắt che kín thân trước cung tên giáo mác đạn dược đang phóng tứ tung.Hoạn nạn từ bên ngoài tới là do những ác nghiệp mình tạo ra đời trước hay đời này, đáo hạn thì nó tới không gì ngăn cản nổi, không tránh đâu thoát được, cách duy nhất là hứng chịu... Vấn đề là hứng chịu với cái áo giáp phước đức dầy hay mỏng, lành lặn hay rách nát thôi.
2. Phước đức do chính mình tạo nên chứ không thể cầu mà có được
Câu hỏi đặt ra là làm làm sao tạo đươc chiếc áo giáp vạn năng kể trên?
Lời Phật dạy, Phước phải do chính mình tạo nên chứ không thể cầu mà có. Chỉ ngồi yên một chỗ cầu khẩn mà không hành động thì cũng vô ích.Làm phước thì được phước, cầu phước thì không có phước. Giống như kiến thức phải học mới có, sự no bụng phải ăn mới được chứ không thể cầu xin phép lạ từ ai.Làm phước là làm những việc nhằm mang lại lợi ích cho người khác, dẫu mình không được hưởng hay thậm chí phải chịu hy sinh, thiệt thòi về thời gian công sức của cải. Bên cạnh đó, kiểm soát được lời nói của mình cũng là phước đức lớn nhất trong đời.
Một việc làm như vậy dẫu nhỏ bé đến mấy cũng sinh phước, còn chỉ nhắm cho lợi ích bản thân thì dẫu tốn kém bao nhiêu cũng không mảy may sinh ra chút phước nào.Người kém phước dẫu ở giữa người thân thuộc quen biết, cũng vẫn phải vất vả khó nhọc tự lo mọi việc, có cần giúp đỡ cũng phải kêu cầu nhưng cũng chẳng được vừa ý, bởi trong quá khứ, ngay những người thân này cũng chưa được mình giúp đỡ nên đời này họ không có ý muốn báo đáp.Người có phước dẫu một mình ở nơi xa lạ trong hoàn cảnh nào cũng được giúp đỡ tận, được che chở bảo bọc an toàn trong hoạn nạn, hay ở giữa kẻ thù.Vậy mới nói, làm phước, trước hết để chuyển nghiệp của chính mình, để cuộc đời ta đi lên từ từ. Cứ mỗi kiếp sau sẽ hạnh phúc hơn kiếp này; trí tuệ hơn; dung mạo uy nghi hơn; uy đức lớn lao hơn. Có nhiều cách tích đức tạo nghiệp lành lưu đời con cháu không tốn một xu, đó cũng là cách để tạo phước đức cho chính bản thân mình.
Đừng nghĩ cái tâm ta là của ta, đừng tưởng những ý nghĩ trong đầu ta là của riêng mình, tự mình tạo ra không ai biết. Ý nghĩ trong đầu mình chính là do nhân quả mà thành.Có những khi ta nghĩ những chuyện tốt đẹp, có những lúc ta nghĩ chuyện xấu xa làm ta cũng phải giật mình, tại sao ta lại có suy nghĩ đến kỳ quặc như vậy, vì nhân quả.Đó là do ta đã phạm lỗi gì đó của hôm nay, hôm qua, hôm kia, tuần trước, hay tháng trước… ta lỡ xúc phạm một bậc đáng kính nào đó mà tâm ta thay đổi, tự nhiên ý nghĩ bất thiện khởi lên một cách tự nhiên, như thành bản chất của mình, như mình đã từng là người xấu xa vô đạo đức.Một người luôn nghĩ điều tốt, điều thiện, từ bi, nghĩ về đạo đức là do phước. Trong từng ngày của đời sống, ta đều giữ gìn tâm hạnh kỹ lưỡng, lễ kính Phật, khiêm nhu, không dám xúc phạm đến ai. Tự nhân quả nó tạo nguồn tư tưởng tốt trong tâm, lời nói tốt, hành vi tốt, rồi phước cứ tăng dần mà đi lên. Mỗi người cần phải hiểu lời Phật dạy về nhân quả thì mới có thể áp dụng đúng trong cuộc sống.T.HLời Phật dạy: Trân trọng phụ nữ là phúc báo nghiệp lànhLời Phật dạy: Tham sắc dục thì sẽ phải nhận quả báoLời Phật dạy: Đoán biết người có vận mệnh tốt hay xấu chỉ cần nghe họ nói
Giấc ngủ góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển tâm sinh lý của các bé. Vì vậy, phụ huynh nên sắp xếp vật dụng trong phòng ngủ của bé hợp lý để tạo ra môi trường sinh hoạt lành mạnh cho con.
Các bậc phụ huynh thường cho rằng việc sắp xếp phòng ngủ của trẻ nhỏ không quan trọng, chỉ cốt sao để bé có không gian riêng, thoải mái là được. Tuy nhiên, theo phong thủy, với trẻ dưới 7 tuổi, yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí (tượng trưng cho sức khỏe). Nếu biết cách tác động sẽ giúp không khí đối lưu trong phòng tốt nhất, tác động tốt đến sức khỏe của bé.
Không vi phạm điều cấm
Theo phong thủy, khi bố trí chỗ ngủ của bé, cần tránh:
- Đặt giường trực tiếp ngay cửa ra vào phòng hay gần cửa sổ vì luồng khí chênh lệch trong và ngoài phòng dễ gây bệnh, ảnh hưởng đến giấc ngủ của bé.
- Không để gương soi trong phòng vì sẽ gây ra từ trường nhiễu loạn khó kiểm soát, ảnh hưởng đến giấc ngủ.
- Tránh làm la-phông nổi hay xà nhà trong phòng bé vì sẽ tạo ra từ trường đè nén, khiến bé thường giật mình, khó ngủ.
Tránh vật sắc nhọn
- Hạn chế tối đa những vật dụng trang trí có nhiều góc nhọn. Theo phong thủy, những góc nhọn có thuộc tính Hỏa, không tốt cho cung Sinh khí trong phòng, đồng thời còn dễ gây chấn thương cho trẻ nhỏ vốn hiếu động.
- Nên sử dụng những vật dụng bằng gỗ, với các góc cạnh bo tròn để hạn chế tối đa tổn thương cho trẻ nhỏ.
Cẩn thận khi khử mùi
- Khi bé ngủ dậy, hãy mở cửa và bật quạt trong phòng cho thoáng khí.
- Không nên sử dụng thuốc khử mùi vì chúng không tốt cho khứu giác của trẻ.
- Có thể dùng túi thơm hút ẩm làm từ thảo dược thiên nhiên để khử mùi.
- Có thể treo bình hồ lô trong phòng bé. Đây là vật phẩm phong thủy biểu tượng của sức khỏe, sẽ giúp bé ăn uống tốt, khỏe mạnh, tránh được bệnh tật.
Độ sáng phù hợp
Để ánh sáng trong phòng ngủ không ảnh hưởng đến mắt của bé, phụ huynh nên:
- Dùng loại đèn dây tóc, cho ánh sáng vàng ấm, nhiệt lượng tỏa ra hài hòa.
- Chọn vị trí đặt đèn sao cho ánh sáng tản đều khắp phòng, phả đều dễ chịu, độ sáng vừa phải.
Chú ý hướng gió
Phụ huynh cũng cần chú ý hướng thổi của quạt và máy lạnh trong phòng bé:
- Luôn để quạt xiên góc so với chỗ nằm, khoảng cách từ quạt/máy lạnh đến giường bé phải từ 1,5m trở lên để gió vừa đủ, không quá lạnh.
- Tránh đặt bé ngủ dưới quạt trần vì khi quạt quay sẽ sinh ra nhiều từ trường xấu, không tốt cho sức khỏe của bé. Bên cạnh đó, cánh quạt quay sẽ che một phần ánh sáng, gây hiệu ứng chớp-tắt, về lâu về dài sẽ gây hại cho mắt bé.
(Theo Thế Giới Gia Đình) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Trúc Loan (##)
Ý nghĩa sao Quan Phù - Lý luận thông mình và sắc bén
Hành: Hỏa
Loại: Phù Tinh, Hình Tinh
Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén
Tên gọi tắt thường gặp: Phù
Phụ tinh. 1 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
Sao Quan Phù khi đi với các sao tốt:
Biết xét đoán, lý luận. Quan Phù thường hội chiếu với Thái Tuế, chỉ mọi sự liên quan đến pháp luật (kiện cáo, thị phi, cãi và biện hộ, bút chiến ...). Đây là hai sao cần thiết cho nghề thẩm phán, luật sư.
Hay giúp đỡ, phù hộ. Quan phù gặp sao tốt thì làm tốt thêm, như trường hợp gặp Xương Khúc Tuế thì lợi ích cho những việc liên quan đến pháp luật (kiện cáo, thị phi, cãi và biện hộ, bút chiến ...).
Sao Quan Phù khi đi với các sao xấu:
Hèn hạ, gian nịnh, phản bội
Ưa trả thù, thích kiện tụng, câu chấp, đố kỵ
Bị oán, bị báo thù, bị kiện, bị phản bội
Có tinh thần ganh đua, cạnh tranh
Sao Quan Phù là sao cạnh tranh, đố kỵ, nặng tinh thần báo phục, lắm khi sử dụng thủ đoạn để tranh thắng, khơi mào cho sự trả đũa của nạn nhân. Vì vậy, Quan Phù báo hiệu cho nghiệp chướng của việc báo oán, thù dai nếu tọa thủ ở Phúc, Mệnh, Thân.
Các Bộ Sao Xấu đi cùng sao Quan Phù:
Phù, Tuế, Đà, Kỵ: thị phi, kiện cáo, làm mất ăn mất ngủ vì cạnh tranh hơn thiệt; bị tai bay vạ gió.
Phù, Hình, Không, Kiếp: bị thù oán, bị mưu sát vì thù
Phù, Sát, Hổ, Hình: bị tù, bị vu cáo mang họa
Phù, Liêm, Tang, Hổ: bị tù tội, bị kiện cáo, bị tai nạn, tang tóc do sự báo thù, phản bội mà có.
Phù, Phá, Hình: quan tụng, ly dị (nếu ở Phu Thê)
Ý Nghĩa sao Quan Phù Ở Cung Tài Bạch:
Hay bị kiện vì tiền bạc, bị phản bội vì tiền (lừa gạt)
Sống vì nghề kiện (luật sư hay hộ giá viên ...)
Ăn cá trên sự thi đua cạnh tranh như cá ngựa, đấu võ ...
Ý Nghĩa sao Quan Phù Ở Cung Nô Bộc:
Tôi tớ phản chủ
Tôi tớ lấy trộm của chủ
Thường gặp bạn xấu
Ý Nghĩa sao Quan Phù Ở Cung Quan Lộc:
Học luật, hành nghề luật (thẩm phán, trạng sư ...)
Cạnh tranh và hay bị cạnh tranh trong nghề nghiệp
Quan Phù Khi Vào Các Hạn:
Có kiện tụng, cạnh tranh, cãi vã. Thắng cuộc nếu có Khôi Việt, thất bại nếu ở cung tuyệt
Kì thực phong thủy nhà ở có thể giúp ích được cho các bạn trong việc mang thai, cùng xem những yếu tố nào sẽ giúp cho nữ gia chủ nhanh chóng có em bé nhé.
Nhiều cặp vợ chồng mong mỏi có một đứa con mà khó khăn. Con cái là lộc trời cho, người gặp may mắn thì nhanh chóng sinh được quý tử, còn người không may thì đành phải lắng nghe tiếng gọi của ông trời, chấp nhận số phận của mình. Tuy nhiên, theo phong thủy học thì kì thực việc thụ thai có thể nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta, với điều kiện rằng bản thân chúng ta phải nắm bắt được những kiến thức về phong thủy.Có thể bạn chưa biết, nhưng phong thủy nhà ở tốt hay xấu có thể trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thụ thai của nữ chủ nhân. Cũng chính vì thiếu hiểu biết mà trong cuộc sống hàng ngày, rất nhiều thai phụ không hề nhận ra rằng có rất nhiều yếu tố trong phong thủy nhà ở có tác động rất xấu đến bản thân mình.
Nếu bạn và một nửa của mình đang có kế hoạch sinh em bé hay chuẩn bị đón chào thiên thần nhỏ đến với gia đình mình thì tốt nhất nên tìm hiểu kĩ về phong thủy nhà ở, tránh mắc phải những lỗi đại kị phong thủy có thể ảnh hưởng đến việc mang thai và sinh em bé. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ tóm lược giúp các bạn những ý chính, những điều cần lưu ý để các bạn có thể tự mình thay đổi được phong thủy nơi mình sống, giúp cho các thiên thần bé nhỏ nhanh chóng hạ cánh xuống cuộc đời mình.
1. Chú ý vị trí hướng Nam và hướng Bắc trong nhà
Theo phong thủy đời sống thì khi cầu tự, hai vị trí hướng Nam và hướng Bắc trong nhà là vị trí quan trọng nhất trong nhà. Nếu bạn muốn mang thai thì tốt nhất nên dọn đến ở trong căn phòng nằm hướng Nam và hướng Bắc trong căn nhà mình.
Nếu hướng Nam, hướng Bắc trong nhà bạn không có phòng ở thì phải đảm bảo hai vị trí đó không được tối tăm ẩm thấp mà phải luôn sáng sủa, tốt nhất là có ánh nắng chiếu vào. Hai phương vị này trong căn nhà sáng rõ sẽ giúp cho vận trình con cái của gia chủ được tươi sáng hơn, gia đình sẽ có thể đón thêm thành viên mới.
Điểm tựa vô cùng quan trọng trong phong thủy. Theo quan điểm phong thủy đời sống, dòng nước chảy có quan hệ với tài lộc, còn núi non có quan hệ với con người, con cái. Chính vì thế, nếu căn nhà vững chãi, phía sau có thêm điểm tựa thì chắc chắn sẽ rất có lộc con cái.
Phía sau nhà có núi tựa mình là thiết kế phong thủy vô cùng hoàn hảo, nhưng với điều kiện kinh tế xã hội ngày nay thì đó không phải là một lựa chọn dễ dàng cho nơi ở. Trong trường hợp phía sau nhà bạn không có điểm tựa mà không có điều kiện chuyển đến nơi phong thủy tốt hơn thì có thể chọn một bức tranh núi non hùng vĩ treo trong nhà. Với các gia đình sống ở chung cư nơi thành phố cũng có thể lựa chọn cách này, sẽ có lợi cho việc mang thai và sinh nở của nữ gia chủ.
3. Trong nhà thiết kế nhiều cửa, lan can
Trong nhà có vượng về đường con cái hay không chủ yếu do yếu tố nhân khí và địa khí quyết định. Tương tự với trường hợp phía trên, phía sau nhà có điểm tựa kì thực là để ngăn cho nhân khí thoát đi, giúp tích tụ nhân khí.
Trong nhà, bạn có thể thiết kế thêm một số cánh cửa, vách ngăn, giúp cho nhân khí và địa khí có thể tập trung hơn trong nhà. Khi hai yếu tố này được dàn xếp ổn thỏa, chắc chắn sẽ có lợi cho sự ra đời của em bé, giúp cho gia đình ngày càng thêm đông đúc, con cái đầy đàn, hôn nhân hạnh phúc.Ngoài ra, cũng xin nhắc thêm bạn một số lưu ý về phong thủy nhà ở cho bà bầu. Khi nữ chủ nhân đã mang thai, nơi thai phụ ở tốt nhất nên sáng sủa, cũng không được thay đổi quá nhiều về kết cấu trong suốt quá trình mang thai, đặc biệt hạn chế di chuyển, đổi nơi ở… Những điều này vừa có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thai phụ, vừa có thể làm kinh động đến Thai Thần – vị thần bảo trợ cho sức khỏe của mẹ và em bé. Để chào đón những thiên thần nhỏ đến với gia đình mình, bạn đừng quên những điều trên nhé.An An
Nắm vững 8 quy tắc phong thủy phòng bếp bảo vệ bà bầu5 kiểu người cần tránh giao tiếp khi bạn đang bầu bíLời cổ nhân: Muốn con tài đức, mẹ phải lấy thân làm mẫuGiúp vợ chồng hiếm muộn cầu tự thành công với 4 mẹo phong thủy Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
Ngày Tam nương không nên xây nhà, xuất hành, cưới hỏi
Theo quan niệm của phong thủy phương Đông, một tháng âm lịch có 6 ngày được xem là cực xấu, không thích hợp để làm chuyện đại sự như xây nhà, xuất hành, cưới gả.
Từ trước đến nay, mọi người thường hay nói đến ngày rất xấu là ngày Tam nương. Do đó, người ta thường tránh làm những khởi sự quan trọng như xuất hành, khai trương, động thổ xây nhà, cưới hỏi,... vào ngày Tam nương để khỏi gặp những điều xui xẻo. Vậy ngày Tam nương là gì?
Tam nương có nghĩa là "ba người đàn bà". Theo quan niệm trong dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba người là Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự, những giai nhân tuyệt sắc đã làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công Nguyên. Trong thời đại của mình, họ được coi là "hồng nhan họa thủy", mang lại sự xui xẻo và bất hạnh cho những người liên quan.
Muội Hỉ mê hoặc vua Kiệt làm sụp đổ nhà Hạ đã từng tồn tại 500 năm (khoảng 2100 TCN - 1600 TCN).
Đát Kỷ làm vua Trụ si mê, khiến nhà Thương (khoảng 1600 TCN - 1066 TCN) sụp đổ. Người đời thường khắc họa Đát Kỷ là một con hồ ly tinh biến thành.
Bao Tự làm u mê vua dẫn đến làm sụp đổ nhà Tây Chu (khoảng 1066 TCN - 771 TCN).
Trong mỗi tháng âm lịch, có 6 ngày được coi là ngày Tam nương gồm: ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22 và 27. Dân gian truyền miệng rằng đây là những ngày này là ngày sinh và ngày mất của ba nàng.
Ngày Nguyệt kì trong quan niệm của tử vi phương Tây
Tuy có có điểm khác biệt về các chòm sao, cung hoàng đạo,...nhưng có một điều rất đáng ngạc nhiên là ngày Tam nương của phương Đông và ngày Nguyệt kì của phương Tây lại trùng với nhau. Nguyệt kì là lịch theo tuần trăng, biểu hiện ngày trăng tròn, trăng khuyết trong tháng.
Trử vi phương Tây có 12 cung hoàng đạo. Khi mặt trăng quay quanh trái đất và trái đất tự quay quanh mình, cứ khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới. Khi di chuyển sang một cung hoàng đạo mới, mặt trăng sẽ tạo thành một dòng năng lượng mới ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên trái đất.
Khi qua mỗi cung hoàng đạo, mặt trăng sẽ mang lại một dòng năng lượng mới
Trong một tháng, thời điểm trăng non là khi năng lượng trong vũ trụ tràn đầy nhất, mọi người có thể khởi sự làm những việc trọng đại như động thổ làm nhà, kí kết hợp đồng. Trăng non di chuyển qua trăng lưỡi liềm vào khoảng ngày mùng 3 âm lịch và mùng 7 âm lịch là trăng thượng huyền. Hai ngày này là thời điểm giao thời, nửa tối nửa sáng, hay bị lỡ dở khi làm việc quan trọng.
Kỳ trăng khuyết diễn ra trong các ngày 8 - 13 âm lịch. Đây là thời điểm cần tập trung hành động để giải quyết vấn đề. Ngày 13 là giai đoạn chuyển từ bán nguyệt sang trăng tròn. Trăng tròn (từ ngày 14 - 18 âm lịch) là những ngày tốt để gặt hái thành quả sau một thời gian dài bỏ công sức. Ngày 18 là thời điểm chuyển giao từ trăng tròn sang trăng khuyết, là lúc năng lượng bấp bênh gây nên xung động lớn cho vạn vật. Ngày 22 là thời điểm năng lượng suy yếu dần khi chuyển giao sang một cung hoàng đạo mới. Trăng tàn (diễn ra từ ngày 27) là khoảng thời gian các “phù thủy” khoái nhất vì đây là lúc con người có giác quan thứ 6 mạnh nhất, thích hợp để cúng tế.
Chu kỳ chuyển biến của mặt trăng
Trong tử vi phương Đông và phương Tây luôn có những ngày xấu khi những nguồn năng lượng không ổn định. Mặc dù đây chỉ là quan niệm dân gian nhưng nhiều gia đình vẫn tin theo khi làm chuyện đại sự vì quan niệm "có thờ có thiêng, có kiêng có lành".
(Theo Khám phá) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Lan là loài hoa sang trọng bậc nhất, có nhiều màu sắc, kiểu dáng, lại tươi lâu giúp bạn không tốn chi phí khi trang trí nhà
Bạn có thể thoải mái lựa chọn loại hoa lan tùy thuộc vào phong cách của ngôi nhà
Bình hoa trắng mang đến nét đẹp nhẹ nhàng, tinh tế cho phòng ăn cổ điển
Phòng ăn lớn với sự kết hợp hài hòa giữa sang trọng và phong cách đồng quê nhờ sự xuất hiện của những mẫu ghế gỗ mộc mạc. Không gian sống động với bình hoa tím đặt trên bàn.
Bình hoa cùng tông màu đen - trắng của căn phòng mang đến sự lịch thiệp, nhã nhặn
Nhờ những bình hoa lan, chậu cây và các vật dụng màu nâu đất, phòng vệ sinh phong cách châu Á gần gũi hơn với thiên nhiên
Phòng vệ sinh trở nên thư giãn với màu sắc dịu dàng và mùi hương nhẹ của hoa
Phòng tắm ấn tượng hơn nhiều với một vài cành hoa lan cắm trong bình đơn giản
Khi được trồng trong chậu, dù lá rụng nhiều nhưng loài hoa này vẫn có thể nở bền suốt cả tháng
Để có được bó hoa rực rỡ, bạn có thể kết hợp các loại lan khác nhau
Những bông hoa lan trở nên đẹp hơn nhiều với chiếc bình trồng cây vốn là vỏ sò lớn
Để làm nổi bật bình hoa lan, bạn có thể trồng kết hợp các loại cây nhỏ xung quanh
(Theo Vnexpress) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Để tiết kiệm không gian hoặc khuếch đại không gian, nhiều người ngăn cách không gian phía dưới đỉnh mái nhà thành một phòng mới, gọi là gác xép, thường dùng làm phòng ngủ hoặc phòng chứa đồ. Nhưng thực tế, gác xép tuy không đóng vai trò quá quan trọng trong kiến trúc ngôi nhà, nhưng cũng có phong thủy riêng, nếu trang trí sai, vẫn gây ảnh hưởng đến gia đình.
Cấm kị 1: Độ dốc lớn
Vị trí gác xép có hạn, mái nhà cũng trở nên thấp hơn. Như vậy, không khí sẽ không vận hành thuận lợi như ban đầu, vào mùa mưa, mùa hạ sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn. Cho nên, để đạt được hiệu quả tụ khí, độ dốc của gác xép nên nhỏ một chút.
Cấm kị 2: Xà ngang chèn ép
Gác xép thông thường có mái nghiêng. Nếu mái chỉn chu có trật tự thì không sao, nhưng nếu kết cấu mái hỗn loạn thì cần điều chỉnh lại, hồi phục độ chỉn chu của nó. Đồng thời, cũng cần tránh tình trạng xà ngang chèn ép. Xà ngang chèn ép trên đỉnh là điều đại kị trong phong thủy. Nếu như một người ở trong môi trường như thế lâu dài, sẽ dễ hao tài tốn của.
Cấm kị 3: Không mở cửa sổ
Cần mở cửa sổ để đảm bảo gác xép đủ ánh sáng và thông gió, bởi vì chỉ có ánh sáng chan hòa và không khí lưu thông mới có thể đuổi vận không may đi, khiến tinh thần con người phấn chấn. Ngoài ra, màu sắc tổng thể khi trang trí gác xép cũng nên lấy màu ấm hoặc màu nhạt làm chủ đạo bởi gác xép vốn dĩ thấp, nếu như dùng màu quá đậm và trầm sẽ đem đến cảm giác u ám.
Màu sắc tổng thể khi trang trí gác xép cũng nên lấy màu ấm hoặc màu nhạt làm chủ đạo bởi gác xép vốn dĩ thấp, nên như dùng màu quá đậm và trầm sẽ đem đến cảm giác u ám.
Cấm kị 4: Dùng gác xép làm phòng ngủ
Do vị trí và môi trường bất lợi, hao năng khá lớn, đồng thời muốn nạp khí cũng khó, nên chúng ta có thể suy xét đến việc biến gác xép thành thư phòng, phòng tập luyện, phòng chứa đồ, chứ không nên dùng làm phòng ngủ.
Cấm kị 5: Cầu thang thẳng
Phong thủy gác xép có tốt không, chủ yếu là xem tụ khí. Cầu thang nối với gác xép dùng để vận chuyển khí trường, cho nên khi thiết kế cần chắc chắn, thường không dùng cầu thang thẳng. Điều này là để tránh tài khí, vận khí do trực xung mà đi xuống. Cầu thang nối với gác xép nên dùng xoắn ốc, hoặc có chỗ vòng để giữ khí.
Văn Khấn Yết cáo Gia Thần, Gia tiên khi cưới gả được dùng trong dịp lễ cưới hỏi. Các cụ ta xưa có câu ”Trai khôn dựng vợ, Gái khôn gả chồng”, từ cổ chí kim HÔN – NHÂN bao giờ cũng được xem là việc quan trọng của cả một đời người. Khi hai gia đình nhà trai, nhà gái quyết định tác hợp cho hai trẻ nên vợ nên chồng và tiến hành các thủ tục: lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới vào các ngày tiến hành các lễ trên thì gia đình bên nhà trai và nhà gái đều phải làm lễ yết cáo Gia Thần, Gia Tiên.
Sắm lễ cúng Yết cáo Gia Thần, Gia tiên khi cưới gả
Ngày lễ Chạm Ngõ, gia đình nhà trai làm mâm lễ mặn xôi, gà cúng Gia Thần, Gia Tiên để trình báo việc hệ trọng của chàng trai. Lễ Chạm Ngõ nhà trai mang sang nhà gái gồm:
Một cơi trầu (12 mớ trầu), cau bổ tư hoặc để cả buồng, mứt sen, trà, rượu, thuốc lá, một thiếp vàng.
Cha cô dâu tương lai mang lễ này đặt lên bàn thờ Gia Thần Gia Tiên để cúng trình báo về việc hệ trọng của con gái.
Lễ ăn hỏi: Nhà gái nhận lễ ăn hỏi của nhà trai gồm: Trầu, cau, trà, rượu, thuốc lá, bánh cốm, bánh phu thê (su xê) theo yêu cầu của mình rồi đặt lên bàn thờ cúng Gia Thần, Gia Tiên. Sau lễ ăn hỏi nhà gái đem chia lễ ăn hỏi cho họ hàng, bạn bè, người thân, cơ quan… Khi chia lễ ăn hỏi người chia lễ đưa thiệp mời dự đám cưới có ngày giờ đã chọn.
Lễ cưới được tổ chức vào ngày lành tháng tốt do hai bên gia đình chọn.
Văn khấn Yết cáo Gia Thần, Gia tiên khi cưới gả
Khi gia đình có hỷ sự: trai lấy vợ, gái gả chồng, nhà trai và nhà gái đều phải làm lễ yết cáo Gia Thần, Gia Tiên sau khi dâng lễ, thắp hương thì khấn:
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
Con kính lạy tiên họ….. chư vị Hương linh.
Tín chủ (chúng) con là:…….. Ngụ tại:…
Hôm nay là ngày….. tháng…. năm …….
Tín chủ con có con trai (con gái) tên là….. kết duyên cùng ……
Con của ông bà …………………..
Ngụ tại:………………………………….
Nay thủ tục hôn lễ đã thành. Xin kính dâng lễ vật, gọi là theo phong tục nghi lễ thành hôn và hợp cẩn, trước linh toạ Ngũ tự Gia thần chư vị Tôn linh, truớc linh bài liệt vị gia tiên chư chân linh xin kính cẩn khấn cầu:
Phúc Tổ Di Lai,
Sinh trai có vợ (nếu là nhà trai),
Sinh gái có chồng (nếu là nhà gái)
Lễ mọn kính dâng,
Duyên lành gặp gỡ,
Giai lão trăm năm,
Vững bền hai họ,
Nghi thất nghi gia,
Có con có của.
Cầm sắt giao hòa
Trông nhờ phúc Tổ.
Chúng con lễ bạc tâm thành, xin được phù hộ độ trì.
– Mọi phương diện trong cuộc sống của 3 con giáp này đều hanh thông phơi phới trong tháng 7, nhất là những ngày đầu tháng. Hãy tận dụng cơ hội hiếm có này để mưu đại sự, ắt thành công.
Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?Top 3 con giáp sau một đêm trở thành TỶ PHÚXem lịch tránh tháng xấu không nên đi xa cho 12 con giáp 1. Tuổi NgọDanh sách con giáp đón tin vui trong tháng 7 không thể bỏ lỡ người tuổi Ngọ. Sự nỗ lực, phấn đấu hết mình vì công việc, sự nghiệp trong những tháng ngày vừa qua sẽ mang lại “hoa thơm trái ngọt” cho người tuổi Ngọ trong tháng 7 này. Ngoài việc được cấp trên đánh giá cao, bạn còn được nhận phần thưởng xứng đáng với những gì đã cống hiến.
Thêm nữa, tháng này người tuổi Ngọ được nhiều quý nhân giúp đỡ, các hạng mục đầu tư đều đã sinh lời, tín hiệu vô cùng khả quan, đường tài lộc cũng như quan lộc vô cùng xán lạn. Chỉ cần bạn tự tin tiến lên phía trước, thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra, mục tiêu dù khó khăn nhường nào, bạn vẫn chinh phục dễ dàng.Vận đào hoa của người tuổi Ngọ cũng khởi sắc mạnh, tình duyên phơi phới, không lo thiếu người bầu bạn, theo đuổi, đời sống tình cảm phong phú vô cùng.12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi MãoNgười tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật?Già và xấu là nỗi ám ảnh kinh hoàng của những con giáp nào? 2. Tuổi SửuCuối cùng mọi nỗ lực và cố gắng đầy nhiệt huyết của người tuổi Sửu cũng được đền đáp xứng đáng. Bước sang tháng 7, tháng của những thành quả, của sự tuyên dương, của những phần thưởng danh giá, người tuổi Sửu luôn được vinh danh ở mọi lĩnh vực họ tham gia hoạt động.
Thêm nữa, những ý tưởng sáng tạo mới đồng loạt được con giáp này mạnh dạn đề xuất, khiến ai nấy đều tâm phục khẩu phục. Tính khả thi của nó rất cao, hứa hẹn tiền đồ tươi sáng đang chờ đợi bạn phía trước.Tài lộc của người tuổi Sửu đang ở độ nở rộ, tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh. Nhân cơ hội này, bạn có thể hùn vốn đầu tư, hợp tác kinh doanh với người hợp mệnh để cả hai bên cùng có thể đút túi lợi nhuận lớn hơn. 3. Tuổi Mùi
Tư duy, suy nghĩ của người tuổi Mùi trở nên thông thoáng, tích cực bất ngờ trong tháng 7. Vốn lại sở hữu khả năng tài chính nhạy bén, không khó để con giáp này thu về lợi nhuận đáng ngưỡng mộ trong tháng.Người làm công ăn lương nhận tin vui tăng lương hoặc thăng chức. Người kinh doanh, buôn bán kiếm lãi suất cao, chi ít thu nhiều, tài chính bừng sáng, nhìn đâu cũng thấy cơ hội kiếm tiền.Thêm nữa, các mối quan hệ xã giao của người tuổi Mùi được cải thiện và nâng cấp đáng kể. Đi đâu, làm gì cũng có quý nhân sẵn sàng giúp đỡ bạn, công việc không thành công mới là chuyện lạ.Việt Hoàng Con giáp đào hoa nhất tháng 7, sợ gì kiếp FA đeo bám Nếu chưa tìm được đối tượng ưng ý trong tháng 6, tới tháng 7 này là cơ hội hiếm có của những con giáp dưới đây. Nếu có mặt trong danh sách này, bạn kê cao gối Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Vào một ngày đầu mùa hè 2010, do vấn đề công việc và sinh kế, tôi có một chuyến đi xa. Nơi tôi đến là thành phố Sài Gòn đông đúc, phồn hoa. Thật may mắn cho tôi, ngoài vấn đề kinh tế, thì tôi có duyên được học một môn khoa học dự đoán hết sức lý thú. Không chỉ với tôi, mà nó còn là đam mê của người người khác : Tử vi.
Như một cơ duyên, một lần uống trà với bác tôi, cụ kể lại cho tôi quá trình cụ đến với Tử vi ra sao. Chị dâu tôi, có một thời kỳ cho vay ăn lời. Một thanh niên không thể trả được số tiền vốn – lãi, nên đã bỏ trốn. Cậu ta bỏ lại một chiếc rương gỗ, đã khóa chặt. Khi thu chiếc rương đó về, gia đình bác tôi phải vất vả mới mở nó ra được. Điều kỳ diệu là trong đó có sách vở về môn Tử vi.
Phân tích kỹ chiết tự thì “Tử” là màu tím, “vi” là sự nhỏ bé, diệu kỳ và huyền bí. Theo nhiều giai thoại kể lại thì trong cung Linh Tiêu của Ngọc hoàng, có một loại hoa nhỏ, màu tím dùng để dự đoán rất là linh nghiệm.
Theo một cách giải thích khác, thì Tử vi là một ngôi sao trỏ ngôi vua trong chòm tử vi. Và người ta lấy tên ngôi sao này đặt tên cho môn khoa học dự đoán này.
Vậy Tử vi là gì? Hiểu một cách đầy đủ, đó là một môn khoa học dự đoán, cát hung, thịnh, suy, thăng trầm, của con người. Dựa vào bộ môn này, con người ta có thể đoán được từ gia đạo, công danh, sức khỏe, bệnh tật và tiền đồ của con người
Theo nhiều các tài liệu có giá trị đáng tin cậy còn lưu truyền lại. Môn khoa học này do một học giả, đạo sỹ thời Tống, bên Trung Hoa sáng lập ra. Đó là Tổ sư Trần Đoàn, hay Hi Di lão tổ. Ông tên thật là Trần Đoàn, hiệu là Hi Di tiên sinh, còn có hiệu khác là Phù Dao tử, tên tự là Đồ Nam. Không ai rõ năm sinh năm mất của ông. Chỉ biết ông sống vào cuối thời Ngũ đại nhà Chu đầu thời nhà Tống, đây là giai đoạn đất nước Trung Hoa có nhiều biến cố thăng trầm về chính trị, kinh tế, chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, đất nước bị chia sẻ, các triều đại hưng khởi rồi lại nhanh chóng sụp đổ. Đến khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, xây dựng nhà Tống, thì đất nước mới được yên ổn, thái bình.
Trần Đoàn sinh trưởng trong một gia đình trí thức đương thời, cha ông làm công tác, biên soạn thiên văn, lịch pháp. Bình sinh ngài là người tinh thông tất cả các bộ môn, Nho. Y, Lý, Số. Những người cùng thời viết về người, là một tấm gương hiếu học, kiến văn quảng bác, mắt chẳng bao giờ rời sách vở, thi thư, không màng danh lợi. Ngoài môn Tử vi, người còn sáng lập môn Hà lạc bát tự (người ta hay gọi là tứ trụ), nhân tướng học, phong thủy, cũng có công lao của người đặt nền móng, hệ thống hóa. Học trò của người có danh sỹ Thiệu Ung, tự Khang Tiết, là một gương mặt tiêu biểu điển hình, kế thừa học thuật của ngài và sáng lập ra môn Mai Hoa dịch số.
Sau khi Vua Thái Tổ nhà Tống thống nhất thiên hạ, lập nên chế độ thái bình thịnh trị, có mời Hi Di lão tổ làm quan, nhưng người từ chối, và xin tu luyện ở núi Hoa Sơn, nhờ tư chất thông tuệ, tâm hồn khoáng đạt, không màng danh lợi, ngài còn biết thuật dưỡng sinh, tu tiên, nên ngài thọ 118 niên.
Tài liệu nguyên gốc của môn Tử vi là cuốn “Triệu Thị minh thuyết – Tử vi kinh”. Mới đầu bộ môn này lưu truyền trong hoàng thất nhà Tống. (vua Tống họ Triệu) và người ta hay gọi là phái Triệu gia. Như vậy, phái này được thừa hưởng bộ môn này trực tiếp và nguyên gốc từ Tổ sư Hi Di
Đến thời nhà Trần, Hoàng Bính – một viên quan nhà Tống, đoán rõ được vận nước sẽ mất bởi tay người Mông Cổ, ông bỏ sang Đại Việt, xin cư ngụ, làm tôi con nhà Trần, ông mang về hai bộ tài liệu “Triệu Thị minh thuyết – Tử vi kinh” và “Tử vi tinh nghĩa”. Nhà Trần trên cơ sở đó biên soạn thêm, tạo ra bộ “Đông A di sự” và phái Tử vi Đông A ra đời (Chữ Trần ghép từ chữ Đông và chữ A – nên họ Trần còn gọi là họ Đông A, hào khí Đông A…)
Đầu thời Lê – Trịnh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, một học giả nổi tiếng đương thời, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Có khả năng dự đoán tương lai trong mấy thế kỷ. Ông cũng đóng góp công lao không nhỏ, vào việc nghiên cứu Tử vi ở nước nhà, đáng tiếc là sách vở của ông bị thất lạc, không ai còn lưu giữ được
Cuối thời Lê – Trịnh đầu thời Tây Sơn, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784), đã nghiên cứu Tử vi, và cho ra đời hay công trình vĩ đại, đó là bộ “Thần kê định số”, và “Phú tử vi của Lê Quý Đôn”. Hai bộ sách này hiện nay vẫn còn lưu truyền, và nhiều người học Tử vi đẩu số ưa chuộng sử dụng. Được xem như sách gối đầu giường vậy.
Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến những năm 1991, do chủ trương bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan của chính quyền Cách mạng, nên phong trào học tập, nghiên cứu Tử vi ở miền Bắc chìm lắng xuống. Thế nhưng ở Miền Nam phong trào học thuật phát triển rầm rộ, nổi lên những tên tuổi, sừng sững như những cây đại thụ vĩ đại
Học giả Nguyễn Phát Lộc với hai bộ sách Tử vi hàm số, và Tử vi Tổng hợp. Cuốn Tử vi hàm số, tác giả nêu bật lên vấn đề, hàm số tử vi, Phúc, Mệnh, Thân, Quan, Tài, Điền. Với đặc điểm một cấu trúc lá số như vậy, thì tổng hòa các mối quan hệ có tính chất xâu chuỗi logic với nhau như thế nào? Khai thác được hàm số này, thì quá trình luận giải đã đạt tới sự thành công tương đối.
Cuốn tử vi tổng hợp, tác giả nghiên cứu kỹ, các bộ sao, nói lên các cách về tính tình (ghen tuông, tự ái, gian xảo, trung hậu…), các cách về nghề nghiệp, khoa bảng, giàu có thịnh vượng hoặc ngược lại. Hạnh phúc cá nhân, sự đáp ứng, và hưởng thụ về mặt vật chất, tinh thần
Cụ Thiên Lương và môn phái của cụ có bộ Tử vi nghiệm lý, nghe đồn môn phái của cụ còn lưu giữ bí kíp do cụ tìm ra, và lưu truyền nội bộ. Khám phá đặc biệt là nhân sinh của các nhóm người (vòng Thái thế, vòng Thiên không, vòng Thiếu âm và vòng Tuế phá). Cụ còn nghiệm lý sâu sắc về các đại vận làm nên sự thành công của đời người, hoặc là sự sa lầy, thất bại, khó khăn, trắc trở
Cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang tổng hợp và biên soạn cuốn Tử vi đẩu số Tân biên. Nội dung cơ bản, đặc biệt về cung điền, vấn đề âm phần phúc đức và các yếu tố tâm linh huyền ảo… Cả ba vị này đều được coi là những người đặt nền móng cho nền Tử vi đương đại
Tử vi ảo bí biện chứng là di sản của cụ Hà Lạc dã phu Việt Viêm Tử. Ngoài ra, còn phải kể tới các danh sư nổi tiếng thời kỳ ấy như cụ Ba La, Kiến trúc sư Nguyễn Bảo Mạnh, Giáo sư Hoàng Quân, Cụ Nguyễn Văn Y, cụ Đỗ Văn An…
Gần đây nhất, là Tử vi ứng dụng, của cụ Bửu Đình.
Ngày nay, dưới chủ trương mở cửa đổi mới của nhà nước và của Đảng, môn Tử vi quay về với đúng giá trị của nó, là một khoa học dự đoán chân chính, không phải là mê tín dị đoan như người ta vẫn nghĩ. Chính điều này, tạo nên một làn sóng nghiên cứu và học tập bộ môn khoa học này, sách vở tài liệu được in ấn, lưu hành rộng rãi. Các trung tâm lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, các hội quán được xây dựng, trên cơ sở dự đoán cát – hung, may – rủi, tránh được những đổ vỡ, thất bại cho nhiều người. Trên cơ sở đó, việc học tập trao đổi giao lưu về học thuật cũng được đẩy mạnh, cởi mở hơn, đặc biệt, trên các diễn đàn mạng xã hội, các webzide về học thuật
Một bình minh đang hé rạng, hứa hẹn rất nhiều thành công của Tử vi đã mở ra. Chúng ta tin rằng, trên con đường khám phá bản thân, vận mệnh, và tu dưỡng tốt hơn đang ngày càng gần tới đích. Chúng ta tự hào rằng chúng ta được kế thừa, là con cháu của các bậc tiền hiền, trong tương lai không xa, chúng ta sẽ làm rạng rỡ, di sản, cơ đồ của họ Đông A, Lê Quý Đôn, cụ Thiên Lương…
Tình yêu của những cô gái không bao giờ có thể nói lý, dù cho bạn trai rất tốt cũng tìm ra điểm không ưng. Vậy lý do chia tay của 12 chòm sao nữ là gì nhỉ?
Tình yêu của những cô gái không bao giờ có thể nói lý, dù cho bạn trai rất tốt cũng tìm ra điểm không ưng, dù trải qua những ngày tháng ngọt ngào cũng vẫn thấy thiếu sót, muốn thay đổi. Vậy lý do chia tay của 12 chòm sao nữ là gì nhỉ?
► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu
Bạch Dương và Thiên Yết: đối phương làm trái ý mình
Trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì Bạch Dương và Thiên Yết nắm tay nhau cùng rất bá đạo. Họ cảm thấy đối phương làm trái ý mình, không đứng về phía mình, rất khó chịu. Vì thế mà họ làm náo động lên, bù lu bù loa, nói đối phương không yêu mình rồi hậm hực, đùng đùng đòi chia tay, đúng là không nói đạo lý.
Kim Ngưu và Ma Kết: đối phương không hiểu mình
Chòm sao Kim Ngưu nữ và Ma Kết nữ khá nhạy cảm và yêu cầu cao về sự đồng điệu tâm hồn. Chỉ cần cảm thấy bạn trai có chút không thấu hiểu mình là sẽ nhanh chóng nghĩ ngợi rồi chia tay. Trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì đây quả là lý do vô lý, vì hai nàng này có chịu thổ lộ tâm tư gì đâu mà cứ khăng khăng đòi người yêu phải hiểu cơ chứ.
Song Tử và Bảo Bình: đối phương không phối hợp
Như gần như xa, hai cô nàng hoàng đạo này yêu cầu bạn trai phải tâm ý tương thông, lúc cần là có mặt ngay tức khắc, đâu phải thánh nhân mà làm được. Loại tình yêu này dằn vặt, cần bạn trai toàn lực phối hợp, đúng là tiểu yêu quái, khó chiều quá đi.
Cự Giải và Song Ngư: đối phương không lãng mạn
Mặc dù nói lãng mạn không thể ăn được nhưng con gái ai chẳng thích, nhất là những cô gái có tâm hồn bay bổng, nhạy cảm như Song Ngư và Cự Giải. Họ yêu cầu bạn trai phải thật tinh tế, thật lâm li, giống như trong ngôn tình vậy. Nhưng đâu phải chàng trai nào cũng có đủ tâm tư, thời gian và công sức, mỗi người một tính, phải thực tế một chút chứ các cô gái.
Sư Tử và Nhân Mã: đối phương không mãnh liệt
Khi vừa bắt đầu, cảm xúc mãnh liệt những qua một thời gian sẽ dần bình lặng, ngày tháng trôi đi đều đều, thực tế cuộc sống vốn là như vậy. Nhưng trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì hai cô nàng Nhân Mã và Sư Tử lại cố tình quên điều này, họ cứ nhất nhất cho rằng tình cảm phải thật mạnh mẽ, đáng chờ mong, nếu không thì đường ai nấy đi ngay.
Xử Nữ và Thiên Bình: đối phương có hình tượng không tốt
Không còn cách nào khác, đàn ông phần lớn đều không quá chú trọng ngoại hình cá nhân, cho dù có cố gắng nhưng không phải ai cũng có thể như soái ca trong phim được. Mà hai chòm sao nữ hoàn hảo như Xử Nữ và Thiên Bình thì chắc chắn không chấp nhận rồi, yêu cầu này quá mức cao, có phần áp đặt cá nhân rồi. Đáng sợ 4 chòm sao nữ trở mặt như trở bàn tay1001 cách thu hút đàn ông “cực dễ” của Chòm sao nữ thông minh3 chòm sao nữ có phúc, tìm thấy hạnh phúc mới sau ly hônTrình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Trúc Loan (##)
La bàn hay còn gọi là La Kinh, Chân bàn, theo các dữ liệu ghi chép la bàn xuất hiện sớm nhất vào thời nhà Tống.
La bàn hình tròn, thông thường la bàn chia ra làm 24 phương vị. Về sau trải qua quá trình phát triển dần dần và có nhiều cải biến. Mặt của là bàn ngày càng phức tạp, số lượng các vòng tròn trên la bàn cũng ngày càng nhiều hơn. Thông thường các nhà phong thủy thường dùng la bàn Bát Quái. Loại la bàn này gồm 3 vòng: Vòng ngoài cùng khắc 24 phương vị, vòng giữa khắc 8 cung là: Khảm , Cấn , Chấn, Ly, Khôn, Đoài, Càn. Vòng trong cùng khắc 12 cung: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Ở giữa la bàn là hình vẽ âm dương nửa đen và nửa trắng.
La bàn Bát Quái không chỉ dùng để chỉ phương vị, mà còn dùng để suy đoán cát hung của vận mệnh, năm tháng, ngày giờ.
La bàn là dụng cụ dùng để xác định phương hướng trong không gian nhất định.
La bàn từ hoạt động dựa theo từ trường Trái Đất thì dùng cho xác định các hướng Bắc, Nam, Đông, Tây ở trên mặt Trái Đất. Trên các phi thuyền bay trong vũ trụ thì phải dùng la bàn không từ tính, để định hướng theo một đối tượng chỉ hướng nào đó, ví dụ hướng về phía Mặt Trời.
Dịch vụ Đặt tên cho con hoặc đổi tên cho người lớn
1 - Ý nghĩa của tên gọi ảnh hưởng như thế nào đối với vận sốcủa con người Tâm lý hầu hết những ai sắp được làm cha mẹ đềumuốn tìm kiếm cho con mình 1 cái tên thật hay, thật có ý nghĩa, và mong muốncái tên ấy mang đến cho con mọi điều tốt đẹp nhất. Những người đã trưởngthành cũng mong muốn tên mình hay, có ý nghĩa liên quan đếnchí hướng, nguyện vọng, nghề nghiệp của mình.
Trong các phương pháp ứng dụng để khai thác các tiêu chí thông tin tốt xấu vận số con người qua các Đại-tiểu vận (Đai vận là 10 năm. Tiểu vận là 1 trong 10 năm của Đại vận đó), những Đại Sư khoa Tử Bình đã nhận thấy tên gọi của mỗi người cũng có ảnh hưởng chi phối nhất định đến vận số con người.
Theo khoa Tử Bình thì căn cứ theo Ngũ Hành Can Chi của tổ hợp Tứ trụ (Năm-Tháng-Ngày-Giờ) xem sự sinh-khắc-hình-hợp-xung-phá như thế nào, Hành nào quá yếu hoặc quá mạnh…gặp Can-chi Đại-Tiểu vận nào thì tốt đẹp nhiều thuận lợi hay mờ ám nhiều xung xấu…có thể nói giống như một phương trình phản ứng Hóa học vậy.
Nếu tổ hợp Tứ trụ các Can-Chi thể hiện Ngũ Hành đầy đủ, cân bằng (hai chữ CÂN BẰNG ở đây ta hiểu theo khái niệm tương đối), thì có thể dùng một tên nào đó tùy thích mà không phải lo sợ tên gọi đó ảnh hưởng xấu đến vận số của mình. Nhưng nếu tổ hợp Tứ trụ có một Hành quá yếu, thậm chí là không có... thì nên ứng dụng DỤNG THẦN NHÂN TẠO để lấy tên theo bộ Ngũ Hành (Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ), tức là có thể lấy một tên gọi thuộc Hành đã bị thiếu trong Tứ trụ để mỗi lần kêu tên là lại một lần được "nạp năng lượng", nên có thể nói tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp, nếu ứng dụng đúng thì có thể làm cho vận số cũng được tốt hơn.
Chẳng hạn như họ tên đầy đủ của một người là NGUYỄN THỊ THU THỦY, tứ trụ của người này Hành Thủy quá mạnh lại thiếu hẳn Hành Hỏa, thì nên đổi tên thành NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG. Vì chữ Ánh có tượng là ánh sáng và chữ Hồng thuộc Hành Hỏa. Tuy nhiên vì người này sinh trong tháng 11âm lịch, là thời điểm Hành Thủy cực vượng khắc Hỏa mạnh, trong khi Hỏa ở mùa Đông là tử địa nên cần phải ứng dụng thêm màu sắc để hỗ trợ cho Hành Hỏa. Trong sinh hoạt thường ngày cần thường dùng các đồ tư trang cá nhân có màu Đỏ hoặc Hồng như quần áo, khăn, mũ v.v…vì màu sắc là công cụ quyền lực chi phối Ngũ hành rất mạnh, chẳng hạn như trong một môi trường thích hợp nó có thể gây ra ảo giác.
2 -Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc
Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người khác gọi, vì thế phải hay, tránh thô tục, không trúc trắc, phản cảm. Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh dùng nhiều chữ để dễ gọi. Tên gọi phải có kiểu chữ đẹp, dễ viết, chân phương. Không trùng tên trong gia đình ít nhất là trong 4 đời. Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hoà giữa họ và tên, nhất là về ý nghĩa. Ví dụ: tên Mai Hiền: có nghĩa là đóa mai dịu dàng.
1. Sau khi họ uống rượu. Lúc này men rượu làm thay đổi sắc khí mắt, mặt không phân biệt điều lành, dữ. Cử chỉ, thái độ, hành vi bị rượu làm thay đổi khó phân người hiền, ngu. 2. Sắc dục quá độ. Khi đã có sắc dục quá độ thì thần thái thay đổi, khí sắ
Dưới đây là top 5 những người dễ giàu trong 12 con giáp, bằng sự nỗ lực của bản thân cùng sự may mắn của số phận, những con giáp này đã tạ dựng cho mình một gia tài đáng mơ ước.
Hãy cùng khám phá xem họ là những ai nhé!
1. Tuổi Hợi
Những người tuổi Hợi là những người giàu sang phú quý, hơn ai hết họ biết nắm bắt số phận của mình trong tay. Một điều đáng ngạc nhiêu là 80% sự giàu có của người tuổi Hợi không phải do số phận mà do những lỗ lực của họ đạt được.
Những người tuổi Hợi sinh ra là để chinh phục thử thách và họ bị cuốn hút bởi những khát vọng lớn mà họ đặt ra.
Đối với họ, giàu có chỉ là vấn đề thời gian.
2. Tuổi Thân
Tuổi Thân thường chỉ những người vất vả, nhưng ít người biết những người tuổi Thân là những người có sự nhạy bén về vấn đề tài chính. Họ chủ động trong những cơ hội để đạt được địa vị trong xã hội.
Dù theo số mệnh thì đây là con giáp không có số mệnh giàu sang nhưng bù lại, họ biết tiết kiệm, chăm chỉ và biết nắm bắt cơ hội một cách khỏe léo. Chính vì thể họ luôn gặt hái được những thành công hơn cả mong đợi.
3.Tuổi Thìn
Trong mắt mọi người, dường như người tuổi Thìn gặt hái được thành công một cách quá dễ dàng, bởi họ không giỏi trong việc quản lý tài chính, cũng không quá nỗ lực để thực hiện một điều gì đó. Điều này cũng không có gì sai, bởi số mệnh giàu sang của con giáp này có tới 8 phần. Khi sinh ra họ đã có số mệnh may mắn như vậy rồi, nên sự cố tu vi gắng của họ chỉ cần bằng hoặc chưa bằng người khác thì cũng đã chạm tới thành công.
4. Tuổi Mùi
Người tuổi Mùi rất biết cách kiếm tiền. Trong lĩnh vực tài chính, họ có năng lực đặc biệt, vô cùng nhạy bén, thông minh. Họ có thể tìm thấy cơ hội tốt lành cho mình ngay cả trong tình huống cấp bách, đầy khó khăn. Người khác có thể không nhìn thấy cơ hội ngàn vàng đó, nhưng với người tuổi Mùi thì không gì không thể.
Số mệnh giàu sang của người tuổi Mùi có tới 6 phần. Tuy nhiên, không vì thế mà họ dễ dàng kiếm được món tiền khổng lồ đâu nhé. Bởi phần lớn số tiền họ kiếm được đều dựa trên khả năng thực có của mình. Họ cũng phải trải qua bao gian nan, vất vả mới có được thành công đỉnh cao đó.
5. Tuổi Dần
Con giáp này luôn ôm giữ mộng tưởng về một thời đại hoàng kim với sự giàu có bậc nhất bản thân. Cộng thêm số vận phú quý chỉ có 3 phần, nên người tuổi Dần thường khá chật vật trên con đường chinh phục sự giàu sang thời trẻ. Theo Ione, họ có thể trở thành tỷ phú nhưng chỉ khi đã ở độ tuổi trung niên.
Bởi thế nên người tuổi này thường có tâm lý than thân trách phận, trách ông trời không công bằng vì bắt họ phải mất quá nhiều thời gian trong cuộc đời mới có được cuộc sống giàu sang mà họ khát khao bấy lâu.
Phòng khách là không gian quan trọng trong mỗi ngôi nhà, vì đây được coi như bộ mặt của gia đình. Đó là lí do phòng khách phải được chăm chút kĩ lưỡng. Và một trong những yếu tố quyết định không gian phòng khách của gia đình bạn chính là màu sắc của những bức tường. Những gợi ý màu sắc và cách trang trí cho phòng khách của bạn :
Nếu bạn là một người yêu thích sự thanh lịch, dịu dàng thì màu trung tính chính là sắc màu tuyệt vời để thể hiện cá tính đó của bạn. Màu kem và trắng nhạt, là hai tông màu trung tính tốt nhất cho mọi không gian phòng khách. Hai tông màu này phù hợp với nhiều phong cách và loại đồ nội thất khác nhau. Tường màu kem, đi cùng một bộ salon màu nâu, cùng một số đồ trang trí màu đen hoặc nâu đậm khác sẽ đem đến cảm giác sang trọng và mạnh mẽ.
Màu nóng
Nếu bạn thích một không gian ấm áp và tràn ngập ánh sáng thì các tông màu vàng nhạt, cam nhạt chính là lựa chọn của bạn ! Những tông màu này cũng không quá khó phối hợp nên bạn không cần phải lo về việc kết hợp màu tường với những đồ nội thất khác. Tường màu vàng nhạt có thể đi cùng bộ sofa màu kem đậm, hay màu nâu đều khiến không gian của bạn trở nên ấm cúng và gần gũi hơn.
Màu tương phản
Đây là lựa chọn yêu thích của những người có cá tính mạnh mẽ. Bạn có thể chọn mà tường là màu trắng hoặc các màu trung tính, nhưng các đồ nội thất sẽ là màu nóng, mạnh. Tường màu be, đi cùng rèm cửa đỏ, sofa đỏ sẽ khiến phòng khách của bạn trông thật ấn tượng. Tuy nhiên, không nên sử dụng quá nhiều màu tương phản trong cùng một không gian, vì chúng sẽ gây rối mắt và phá vỡ không gian của bạn.
Hiện tượng: Nếu bàn ăn đặt ở nơi cửa vào trong nhà làm cho mọi người vừa bước vào nhà là nhìn thấy tình trạng trên bàn ăn, như vậy sẽ làm cho thói quen ăn uống của người trong nhà và mối quan hệ giao tiếp bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Phương pháp hóa gi
Hiện tượng: Nếu bàn ăn đặt ở nơi cửa vào trong nhà làm cho mọi người vừa bước vào nhà là nhìn thấy tình trạng trên bàn ăn, như vậy sẽ làm cho thói quen ăn uống của người trong nhà và mối quan hệ giao tiếp bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Phương pháp hóa giải: Tốt nhất là bạn nên điều chỉnh vị trí bàn ăn hoặc dùng bức bình phòng để che chắn lại hoặc gấp bàn ăn lại để hóa giải.
Lễ hội Gióng - Lễ hội “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam
Hàng năm cứ đến ngày 9/4 âm lịch (ngày ông Gióng thắng giặc Ân), người dân bốn phương từ mọi ngả xa gần lại đổ về để xem lễ, dự hội. Lễ hội Gióng được cử hành
trong không gian rộng, dài khoảng 3km gồm đền Thượng, đền Mẫu (thờ mẹ Gióng) và chùa Kiến Sơ.
(Ảnh minh họa)
Hội bắt đầu từ ngày 6 - 12 tháng 4 (âm lịch). Từ mùng 6 - 8 tháng 4, dân làng tổ chức lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng. Ngày chính hội mùng 9 tháng 4 có lễ rước kiệu võng từ đền Mẫu lên đền Thượng và tổ chức hội trận (diễn lại trận phá giặc Ân). Ngày mồng 10 làm lễ duyệt quân tạ ơn Gióng. Ngày 11 là lễ rửa khí giới. Ngày 12 có lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất. Cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo mừng thắng trận…
Để biểu đạt những ý tưởng và triết lý dân gian, hội Gióng có dàn vai diễn hết sức phong phú và độc đáo. Ví dụ, các ông “Hiệu” là hệ thống tướng lĩnh của ông Gióng; “Phù Giá”, đội quân chính quy của ông Gióng; các “Ông Hổ”, đội quân tổng hợp; “Làng áo đen”, đội dân binh; “Cô Tướng”, tượng trưng các đạo quân xâm lược… Hội Gióng là một kịch trường dân gian rộng lớn với hàng trăm vai diễn tiến hành theo một kịch bản đã được chuẩn hóa từ xa xưa để lại. Bên cạnh đó, các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. Hội Gióng thực sự là một lễ hội “độc nhất vô nhị” ở nước ta. Nó là một “hội trận”, vừa thể hiện tinh thần chống giặc ngoại xâm của người Việt cổ, vừa thể hiện mong ước “Quốc thái dân an” của nhân dân.
Sự hấp dẫn của hội Gióng trước hết phải kể đến ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước, truyền thống võ công, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc.
Người ta thường nói "chó tới nhà thì có, mèo tới nhà thì nghèo", ý là mèo thường mang lại điều không may cho gia chủ. Giấc mơ thấy mèo thường dự báo điềm dữ nhưng không phải là không có ngoại lệ.
► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy máu theo thế giới tâm linh
Ảnh minh họa
Trong giấc mơ, bạn gặp một chú mèo trắng, ngụ ý rằng bạn đang trải qua thời gian khó khăn, nhưng nếu đó là một chú mèo đen, điều ám chỉ lại là: bạn đang có điều sợ hãi. Mơ thấy mèo ngủ thường là điềm thành công nhỏ.Mơ thấy nuôi mèo, điềm báo có nhiều triển vọng kiếm ra tiền.Mơ thấy mèo rừng đuổi theo mình về nhà, điềm gia vận tốt đẹp, được quý nhân giúp đỡ.
Nếu bạn nằm mơ thấy mèo cắn là bạn đang lo lắng về vấn đề gì đó, có thể là trong công việc, hoặc chuyện gia đình. Ngược lại nếu bạn mơ thấy đang giết mèo, đây là điềm báo bạn đang cố chứng tỏ mình để giành lấy quyền lực cũng như địa vị.Nằm mơ thấy mèo đang cào, bạn phải hết sức cẩn thận trong mọi việc bởi đang có một thế lực nào đó đe dọa tới cuộc sống cũng như sự nghiệp của bạn. Trong giấc mơ bạn thấy một con mèo bị chết hoặc bị ai đó giết, điều này cho biết bạn đang cảm thấy lo lắng, lưỡng lự trước một việc quan trọng nào đó mà bạn chưa thể quyết định được. Bạn đang chịu tác động, áp lực đến từ nhiều phía.Nếu giấc mơ của bạn xuất hiện hình ảnh của một con mèo con điều này đại diện cho một giai đoạn chuyển hướng độc lập. Chứng tỏ bạn đã sẵn sàng để khám phá những điều mới mẻ mà cuộc sống đã mang đến cho bạn. Trong giấc mơ mà bạn giết một con mèo: Bạn đang gặp khó khăn trong cuộc sống, những áp lực mà bạn đang gặp phải vô cùng lớn và nó làm cho bạn cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Các mối quan hệ đang dần thu hẹp lại và bạn đang cảm thấy thất vọng trong mối quan hệ này.Còn trong giấc mơ thấy mèo biến thành một con chó con, thì đây là dấu hiệu có một sự chuyển đổi trong cuộc sống cá nhân của bạn. Điều này đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong bạn. Bạn đang đi xa ra khỏi giới hạn của mình và bạn có ý định chăm sóc người khác. Bạn đang tìm kiếm cho mình sự đồng thuận. Nằm mơ thấy mèo vồ là bị người công kích.Nằm mơ thấy mèo ngồi ngao trước cửa là có tang khó.Nằm mơ nghe thấy tiếng mèo ngao mà không thấy mèo là điềm xui xẻo.Nằm mơ thấy mèo nhà là có sự phản phúc của người thân, rất gần.Nằm mơ thấy rờ rẫm mèo hay mèo cạ lông vào mình là có cạm bẫy.Thấy đi với mèo là bị phản bội vì tình.Thấy đánh mèo là có tin vui.
Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Người có mệnh Thất Xích Phá Quân tinh thích hợp làm nghề gì? –
Thất Xích tinh đại diện cho giao tiếp, nghề thích hợp là luật sư, cố vấn pháp luật, ngành tiền tệ, nhân viên ngân hàng, nhân viên bán hàng, phiên dịch, nhà diễn thuyết, bác sĩ ngoại khoa, nha sĩ, bán hàng sắt, đồ trang trí, diễn viên, nghề thuỷ sản,
Đôi khi, gặp phải chuyện khó khăn, chúng ta ngay lập tức nghĩ tới việc nhờ giúp đỡ, mong dựa dẫm vào người khác thay vì tìm cách tự mình giải quyết vấn đề, như vậy không chỉ khiến năng lực bản thân yếu đi mà còn làm mất rất nhiều thời gian.
Dựa dẫm vào người khác không bằng dựa vào chính mình, tuy làm được điều này luôn rất khó. Hãy xem ai trong số 12 con giáp nổi bật nhất với khả năng tự lực cánh sinh nhé.
Trong tử vi đẩu số, sao Thiên Lương được lấy từ nhân vật quan Tổng binh ải Trần Đường Lý Tịnh, có ba người con trai Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, được mệnh danh là Thác Tháp Lý Thiên Vương
Trong tử vi đẩu số, sao Thiên Lương được lấy từ nhân vật quan Tổng binh ải Trần Đường Lý Tịnh.
Lý Tịnh từng bái Độ Ách chân nhân tại Tây Côn Lôn làm thầy theo học pháp thuật nhiều năm, thấy đạo thần khó thành, nên từ biệt thầy xuống núi, sau lĩnh chức Tổng binh của triều đình Ân Trụ. Phu nhân của ông là An thị sinh được ba con trai, con trưởng là Kim Tra, con thứ là Mộc Tra, con út là Na Tra.
Kim Tra bái Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn tại động Vân Tiêu núi Ngũ Long làm thầy, Mộc Tra theo học Phổ Hiền chân nhân tại động Bạch Hạc núi Cửu Cung, còn Na Tra vừa ra đời đã được Thái Ất chân nhân nhận làm học trò.
Lý Tịnh với danh xưng là "Thác tháp thiên vương" (thiên vương nâng tháp) là một võ tướng trong truyện Phong thần diễn nghĩa, với hình tượng mình mặc giáp trụ, đầu đội mũ ô vàng, tay trái dỡ một toà tháp, tay phải cầm cương xoa ba mũi hoặc bảo kiếm.
Do Thương Trụ vô đạo, trăm họ lầm than khổ cực, các chư hầu lớn nhỏ tôn Tây Bá hầu Cư Phát làm thủ lĩnh, hợp quân phạt Trụ. Cả ba con trai của Lý Tịnh cũng đều theo về dưới trướng Vũ Vương, làm bộ tướng tiên phong. Lý Tịnh vốn là tướng nhà Ân, đứng trước tình hình đó, không biết phải làm thế nào. Sau ông được Đạo nhân Nhiên Đăng chỉ điểm, tạm thời từ quan về ở ẩn, đợi đến khi Chu Vũ Vương dấy binh thì đến hợp lực cùng ba người con trai cùng tham gia nghiệp lớn.
Trong thời gian Vũ Vương phạt Trụ, Lý Tịnh cùng ba con trai đã lập rất nhiều công lao lớn, đặc biệt là con trai út Na Tra, hoá thân của hoa sen trắng (sao Hoả), đánh đâu thắng đó, giúp đỡ đắc lực cho chiến thắng của Vũ Vương. Khi sự nghiệp hoàn thành, triều Chu đã được kiến lập, Vũ vương tiến hành luận công ban thưởng, cả bốn cha con Lý Tịnh đều không màng đến danh lợi, không hẹn mà cùng lẳng lặng trở về nơi lu luyện của thầy mình, rồi từ đó đến cuối đời chỉ chuyên tâm học đạo tu tiên.
Lý Tịnh vốn là một võ tướng, nhưng công lực tu hành rất cao thâm, hơn nữa còn mang tấm lòng nhân ái, sẵn sàng dùng tài năng và pháp lực để cứu vớt nhân dân ra khỏi cơn nước lửa mà không màng chuyện sống chết của bản thân.
Lý Tịnh tu đạo mà thành thần tiên, trở nên trường thọ. Khương Tử Nha sau khi tự phong mình làm chủ nhân sao Thiên Cơ, lại thấy sao Thiên Lương còn vô chủ, bèn phong thần trước cho Lý Tịnh, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương. Bởi vậy trong hệ thống lý luận Tử Vi Đẩu Số, tính cách của Lý Tịnh được gán rất nhiều cho sao Thiên Lương.
Thiên Lương là sao chủ về tuổi thọ và sang quý, có lòng trắc ẩn, bản tính trung hậu, thích bố thí, hay lo chuyện bao đồng. Hành sự quyết đoán, thích giúp đỡ ngưòi khác nhưng việc nhà lại thiếu sự quan tâm.
Danh hiệu Thác Tháp Lý Thiên Vương của Lý Tinh bắt nguồn như sau:
Người con trai út của Lý Tịnh tên là Na Tra, từ nhỏ đã ương bướng và rất nghịch ngợm. Một hôm, Na Tra cùng đám bạn của mình chơi đùa nơi ven biển, làm kinh động đến tận Thủy cung của Đông Hải Long Vương. Long Vương bực tức lệnh sai Dọa Xoa đi tìm hiểu ngọn ngành. Tới nơi thì Dọa Xoa bị Na Tra giết chết. Sau đó Long Vương lại sai Tam thái tử đi thu phục Na Tra. Do nói năng thiếu khiêm nhường nên đã chọc tức bản tánh ương ngạnh khiến Na Tra xuống dưới biển và đại náo Long cung, giết chết Tam thái tử, phá hủy Long cung và bắt nhốt Long Vương.
Trước tình hình đó, không còn cách nào khác, Lý Tịnh đành bắt Na Tra tự sát. May được Thái Ất chân nhân dùng hoa sen giúp cho Na Tra được hồi sinh. Na Tra sau khi trở lại với thân xác của mình thì trong lòng không vui, muốn tìm cha mình để trả thù. Bởi tài năng cao cường của Na Tra, Lý Tịnh không thể chống đỡ được nên Phật Tổ Như Lai liền ban cho ông một tòa bảo tháp xá lị bằng vàng. Lý Tịnh nhờ đó mới nhốt được Na Tra vào trong bảo tháp.
Sau này mối thù giữa cha và con được hóa giải. Cùng nhau theo về trướng Vũ Vương tiên phong phạt Trụ cứu dân độ thế. Lý Tịnh có được bảo tháp thần kỳ này mà trở thành danh xưng "Thác tháp Lý thiên vương".
Mỗi con giáp có một đặc điểm riêng biệt không giống nhau. Vì thế những đặc điểm này của họ khi xét về công việc thì mỗi đặc điểm lại phù hợp với một công việc riêng. Vậy con giáp nào có biệt tài kinh doanh? Những con giáp có tài kinh doanh nên có sự
Mỗi con giáp có một đặc điểm riêng biệt không giống nhau. Vì thế những đặc điểm này của họ khi xét về công việc thì mỗi đặc điểm lại phù hợp với một công việc riêng. Vậy con giáp nào có biệt tài kinh doanh? Những con giáp có tài kinh doanh nên có sự nhạy bén và tính quyết đoán trong việc làm ăn. Đặc biệt, họ rất nhạy cảm với tiền ^^.
Nội dung
1 Những con giáp có biệt tài kinh doanh
1.1 Tuổi Dậu
1.2 Tuổi Thân
1.3 Tuổi Thìn
Những con giáp có biệt tài kinh doanh
Tuổi Dậu
Người tuổi Dậu có phong cách làm việc quyết đoán, tự tin, thích sáng tạo. Cộng thêm năng lực thực thụ, sự nỗ lực hết mình, và chút may mắn, họ sẽ kiếm bội tiền khi cơ hội đến.
Con giáp này biết cách biến thách thức thành cơ hội cho mình. Trong hoàn cảnh cấp bách và khó khăn nhất, họ vẫn điềm tĩnh nghĩ ra cách xử lý tối ưu. Bởi lẽ họ là một trong số những người có con mắt tinh tường và sáng suốt trong lĩnh vực kinh doanh.
Tuổi Thân
Trong 12 con giáp, người tuổi Thân có sự nhạy bén nhất về các con số. Chỉ cần nhìn thấy tiền, họ sẽ thấy vô cùng hào hứng và tràn đầy ý chí quyết tâm để nắm được nó trong tay. Cá tính này khiến họ không ngừng học tập ngay từ khi còn trẻ và tích lũy nhiều kinh nghiệm để thành công trong việc kinh doanh sau này.
Người tuổi Thân có tài tổng hợp và đánh giá tình hình kinh doanh một cách khoa học. Họ cẩn trọng trong từng đường đi nước bước nên ít khi bị thất bại hoặc thua lỗ.
Tuổi Thìn
Vốn thích thể hiện và ưa sĩ diện, người tuổi Thìn không bao giờ xuất hiện luộm thuộm hoặc nhếch nhác trước mặt người khác, dù điều kiện kinh tế đang gặp khó khăn. Vì lý do đó, họ luôn nỗ lực kiếm thật nhiều tiền và chủ yếu bằng con đường kinh doanh.
Trong lĩnh vực buôn bán, người tuổi Thìn khá nhạy bén và có thái độ điềm tĩnh, khó bị ngoại cảnh tác động, nên thường gặp hái được nhiều thành công. Hơn thế, họ phấn đấu không mệt mỏi, cố gắng kiên trì tới cùng để đạt được mục đích. Do đó, cuộc sống về già sung túc, giàu có là điều thường thấy ở những người tuổi Thìn.
Sinh ngày Tý: Tuy nhiên, họ lại hay bị tiểu nhân quấy rối, vu cáo, kiện tụng phiền phức.
Sinh ngày Sửu: Đây là ngày có sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên người tuổi Thân làm gì cũng thuận buồm xuôi gió. Tuy phải làm việc xa quê, đôi lúc cũng bị hao tốn tiền của nhưng được trời ban phúc, cuộc đời nhiều niềm vui và lợi lộc.
Sinh ngày Dần: Người sinh vào ngày này thường có số không may mắn. Do bị sao Dịch Mã tọa mệnh nên phải bôn ba xứ người, bị tiểu nhân đại phá, cuộc đời bất hạnh khó yên ổn.
Sinh ngày Mão: Nhờ có sao Tử Vi chiếu mệnh nên người tuổi Thân sinh ngày này có số quyền cao chức trọng. Tuy đôi lúc bị tiểu nhân hãm hại nhưng không bị tổn thương hay thất thoát tiền của nhiều, mọi việc vẫn bình yên vô sự.
Sinh ngày Thìn: Do bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên tuổi Thân thường bị họa lớn, hao tài tốn của. Tuy nhiên, nhờ có tài đức và sự ứng phó linh hoạt nên mọi sự vẫn bình an.
Sinh ngày Tỵ: Là người có số may mắn, gặp hung hóa cát, lại được sao Thiên Đức chiếu mệnh nên dù trong đời có gặp chuyện tranh giành cãi cọ, nhưng cũng đều giải quyết êm thấm.
Sinh ngày Ngọ: Người tuổi Thân sinh vào ngày này số hay gặp phải nghịch cảnh, chuyện lành dữ khó lường. Nên thận trọng trong cuộc sống để tránh những rắc rối có thể xảy ra.
Sinh ngày Mùi: Đây không phải là ngày tốt đẹp để chào đón người tuổi Thân ra đời. Họ sẽ phải nhận lấy số phận cô đơn, sức khỏe suy yếu, tai nạn liên miên và rất nhiều vận đen khác có thể xảy ra.
Sinh ngày Thân: Được sao Hồng Loan chiếu mệnh nên sinh vào ngày này là người có số mệnh tốt lành, hưởng thọ, hưởng phúc. Tuy nhiên, trong vấn đề kết giao bạn bè lại gặp nhiều bất lợi. Nên lưu ý tới bệnh đau đầu, chóng mặt.
Sinh ngày Dậu: Đây là ngày tốt lành vì có sao Hoa Cái chiếu mệnh. Sinh ngày này người tuổi Thân sẽ có cuộc đời may mắn, nhân duyên tốt lành, tình cảm chan hòa, tha thiết.
Sinh ngày Tuất: Ngày sinh này không mang đến điều may mắn tốt lành cho cuộc đời của người tuổi Thân. Ngược lại, họ sẽ phải nhận cuộc sống bất ổn, nhiều nỗi lo âu, phiền muộn.
Sinh ngày Hợi: số mệnh của người tuổi Thân nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên tài vận thuận lợi, phát đạt. Tuy bị sao Cẩu Giảo chiếu mệnh nhưng cuối cùng cũng được bình an.
Căn cứ vào đặc điểm về bản tính của loài rắn và các mối quan hệ tương sinh tương khắc với những con giáp còn lại, người xưa đúc rút cách đặt tên hay cho người
1. Dựa vào đặc tính sinh sống Rắn thích được ở trong hang ẩn náu, nghỉ ngơi ngủ đông và được đi lại tự do. Theo đó, nên đặt tên cho người ruổi Tỵ bằng các chữ có bộ Khẩu, Miên, Mịch.Những tên hay cho người tuổi Tỵ: Khả, Tư, Danh, Dung, Đồng, Trình, Đường, Phẩm, Định, Hựu, Cung, Quan, An, Nghi, Bảo, Phú…Loài rắn thích ở trên cây và thích tô điểm để có sự thăng cách trở thành rồng. Do vậy, có thể dùng những chữ có bộ Mộc, Sam, Mịch, Thị, Y, Thái, Cân. Những tên phù hợp: Mộc, Bản, Kiệt, Tài, Lâm, Tùng, Sâm, Nghiệp, Thụ, Ngạn, Thái, Chương, Ảnh, Tố, Luân, Duyên, Thống, Biểu, Thường, Tịch, Đế, Phàm, Tường, Lộc, Trinh, Kì, Thái, Thích…Rắn cũng thích ở đồng ruộng nên có thể đặt tên chứa chữ Điền. Ngoài ra, rắn là loài ăn thịt, nên có thể sử dụng chữ Tâm, Nhục để đặt tên. Những tên phù hợp bao gồm: Nam, Điện, Giới, Lưu, Phan, Họa, Đương, Phúc, Đơn, Huệ, Tất, Chí, Cung, Hằng, Hoài, Tình, Tuệ, Hồ, Cao…2. Dựa vào mối quan hệ tương sinh với những con giáp khác Tỵ - Ngọ - Mùi là tam hợp, do đó có thể hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, nên đặt tên cho người tuổi Tỵ bằng các chữ như: Đằng, Dịch, Ly, Quần, Nghĩa, Khương…Theo Địa chi, Tỵ - Dậu –Sửu tam hợp nên có thể dùng các chữ Dậu, Sửu để đặt tên cho người tuổi Tỵ: Kim, Phượng, Dậu, Y, Bằng, Phi, Sinh, Địch, Hàn…Những chữ có hình dạng tương tự như con rắn như Xước, Cung, Kỉ, Tị, Trùng, Ấp cũng phù hợp để đặt tên cho người tuổi Tỵ: Nguyên, Sung, Tiên, Khắc, Căng, Kiến, Tuần, Thông, Đạo, Đạt, Tuyển, Bang, Đô, Đặng, Na, Thiệu…3. Những tên cần tránhTỵ - Hợi đối xung, do đó không nên dùng chữ Hợi để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Những tên nên tránh: Tượng, Hào, Dự, Gia, Nghị, Duyên…Rắn và Hổ thuộc hình hại, người xưa có câu “Rắn mà gặp hổ như bị dao đâm”, do đó nên tránh dùng tên có chứa chữ Hổ như: Hiệu, Hổ, Xứ…Rắn sợ sức nóng thiêu đốt của mặt trời và phần lớn cuộc đời nó sống trong hang động, dưới bóng cây. Do đó, tránh đặt tên cho người tuổi Tỵ bằng các chữ có bộ Nhật như: Tình, Huy, Trí, Hiểu, Thần, Diệu…Ngoài ra những chữ chứa bộ Thảo, Thủy, Nhân, Mễ, Đậu, Hòa cũng không thích hợp để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Vì rắn sợ bị loài người phát hiện, không thích ăn ngũ cốc…Những tên nên tránh: Giới, Hoa, Linh, Anh, Nha, Thảo, Minh, Liên, Diệp, Mậu, Bình, Thủy, Cầu, Giang, Hà, Quyết, Tuyền, Thái, Châu, Hải, Hạo, Thanh, Hiếu, Quý, Mạnh, Nhân, Lệnh, Trọng, Đại, Tín, Luận, Thu, Khoa, Tích, Mục, Lê, Phong, Đậu, Phấn, Tinh… Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Hầu hết những người tuổi Thìn đều là trai xinh, gái đẹp. Bất luận là nam hay nữ thì phần lớn họ đều có tướng mạo hơn người, cộng với tính thẩm mỹ cao, nhạy bén với trào lưu nên dù chưa tìm được một nửa đích thực thì họ vẫn có ưu thế cao. Đặc biệt dễ nhận được thiện cảm từ người khác phái. Trong thời gian cuối năm này, đào hoa của người tuổi Thìn khá tốt - có không ít người đem lòng mến mộ và cơ hội phát triển thành tình yêu rất cao.
Tuổi Hợi
Những người tuổi Hợi thường có tính cách dịu dàng nhưng cũng rất đa tình. Một số ít vẻ ngoài tưởng như sôi nổi nhưng kỳ thực sâu thẳm trong nội tâm của họ rất mềm yếu. Do vậy, những người khác phái sau khi quen biết một thời gian nhất định rất có thể sẽ rung động trước sự gần gũi, ấm áp của con giáp này. Họ là người quý trọng cuộc sống gia đình. Khoảng thời gian cuối năm, đào hoa của người tuổi Hợi chủ yếu phát triển từ các mối quan hệ bạn bè xung quanh, đặc biệt là những người bạn đã lâu không liên lạc, cơ hội trùng phùng và nảy sinh tình cảm một cách tự nhiên rất đáng để mong đợi.
Tuổi Thân
Người tuổi Thân tính tình hoạt bát, cởi mở, luôn có những cách nghĩ táo bạo hơn người. Trong một tập thể, họ thường là người tạo niềm vui bởi tính hài hước thú vị của mình. Cộng với khoảng thời gian cuối năm vận thế của người tuổi Thân đang đà đi lên, trong đó vận đào hoa khá thịnh vượng, những cuộc họp mặt, gặp gỡ hay tiệc tùng đều là nơi để họ tạo ấn tượng tốt và tìm thấy nửa kia của mình.
Khang Ninh (the D1xz)
iOne tuyển gấp 4 phóng viên Nhịp sống, Thời trang, Vui độc, Video. Hạn nộp CV: 31/12/ 2016. Chi tiết tại đây.