Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chọn quà 8/3 cho mẹ nhân ngày Quốc tế phụ nữ

Quà 8/3 cho mẹ nhân ngày Quốc tế phụ nữ: Nếu còn băn khoăn chưa biết dành tặng món quà gì cho mẹ, bạn nên tham khảo những gợi ý dưới đây.
Chọn quà 8/3 cho mẹ nhân ngày Quốc tế phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nếu còn băn khoăn chưa biết dành tặng món quà gì cho mẹ - người phụ nữ vĩ đại nhất trong cuộc đời mỗi con người, bạn nên tham khảo những gợi ý dưới đây.



Chọn quà 8/3 cho mẹ không chỉ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc, sự kính trọng vô bờ, mà hơn thế, nó còn là những điều tốt đẹp và may mắn nhất dành cho người mẹ kính yêu.


1. Chọn màu đá phong thủy hợp số tương sinh của mẹ


Số tương sinh của mẹ: Lấy hai số cuối trong năm sinh của mẹ bạn, sau đó cộng lại cho đến khi chúng thành một số duy nhất. Cộng số đó với 5 rồi tiếp tục cộng đến khi tổng của chúng là một số duy nhất. Cuối cùng, hãy đối chiếu với bảng dưới đây để chọn màu đá phong thủy phù hợp và mang tới nhiều may mắn nhất cho mẹ.

Chon qua tang me ngay 8 thang 3 hop phong thuy hinh anh
 
Ví dụ: Mẹ bạn sinh năm 1967, lấy 6+7=13, 1+3=4, 4+5=9. Vậy số tương sinh của mẹ bạn là số 9.

Bảng màu đá phong thủy tương ứng với số tương sinh:

Số Đá màu
1 Trằng
3, 4 Xanh dương
2, 5, 8 Đỏ
6, 7 Vàng
9 Xanh lá cây

2. Món quà dành tặng người mẹ trí thức


Nếu người mẹ kính yêu của bạn thuộc tần lớp trí thức, thành đạt và đang làm việc ở cơ quan, công ty hay tập đoàn lớn, bà sẽ phải đi họp, tiếp xúc đối tác thường xuyên.

Chon qua tang me ngay 8 thang 3 hop phong thuy hinh anh 2
 
Bên cạnh đó, những trang phục, phụ kiện mẹ mặc thường ngày cũng cần toát ra phong thái đĩnh đạc, đầy uy quyền nhưng vẫn nho nhã, thanh lịch.

Khi chọn quà 8/3 cho mẹ, bạn có thể chọn đồ để phối kết hợp với phong cách đó của mẹ. Đó có thể chọn một chiếc nhẫn có những viên kim cương nhỏ (hoặc đá) dát trên bề mặt. Khi đeo nhẫn kiểu này, mẹ sẽ rất dễ dàng phối hợp với những bộ vest sọc nhỏ trang nhã. Sự kết hợp đó sẽ nâng thêm vẻ đẹp sang trọng, đầy nữ quyền của mẹ.

3. Món quà dành tặng người mẹ đảm đang


Trong trường hợp mẹ bạn đã về hưu, luôn tự tay thu xếp mọi việc trong nhà như nấu nướng, may vá quần áo... thì món quà bạn dành tặng mẹ ngày 8/3 nên thiên về mặt tinh thần.

Chon qua tang me ngay 8 thang 3 hop phong thuy hinh anh 3
 
Đó có thể là một cuốn sách mẹ yêu thích, đĩa nhạc đầy các bài hát mẹ vẫn thường ngâm nga, bức tranh phong cảnh nhẹ nhàng, bộ phim hay... Nếu có thể, bạn dành chút thời gian để chia sẻ, trao đổi và bình luận với mẹ.

Nếu mẹ thích các món đồ handmade, bạn có thể chọn mua những món phụ liệu và cùng mẹ tự thiết kế thành những đồ vật dễ thương, trang sức độc đáo, cá tính. Đó có thể là hạt gỗ, hạt nhựa, pha lê với nhiều kiểu dáng khác nhau như tròn, vuông, sao, chữ nhật, chữ cái...


4. Món quà dành tặng người mẹ thích màu sắc


Chon qua tang me ngay 8 thang 3 hop phong thuy hinh anh 4
 
Nếu mẹ bạn có phong cách phối đồ nổi bật, thích màu sắc rực rỡ để có thể trở thành tâm điểm mỗi nơi mẹ đến, bạn có thể chọn một vài món nữ trang có hình bông hoa với cánh hoa to và nhiều chi tiết đính kèm.

Khi quan sát, thấy mẹ thường xuyên xõa tóc, mặc đầm khi đi dự tiệc, bạn có thể bổ sung vào bộ sưu tập nữ trang của mẹ những chiếc trâm cài đầu lóng lánh bằng đá với nhiều màu sắc khác nhau...

Con giáp sinh ra để mang may mắn cho cha mẹ
– Nhờ hồng phúc của những con giáp này, đường công danh, sự nghiệp, tài vận và quan vận của cha mẹ như được chắp thôi đôi cánh, ngày càng

5. Món quà dành tặng người mẹ hiền lành, chất phác


Nếu trước kia mẹ bạn là nông dân, công nhân từng phải lao động vất vả để nuôi bạn lớn khôn, nay bạn có thể chọn quà 8/3 cho mẹ  là một chiếc áo mới, khăn len quàng cổ, đôi giày mới hay tấm chăn để mẹ đắp trong tiết trời se lạnh chứ không nhất thiết phải là những chiếc nhẫn, bông tai hay dây chuyền đắt tiền.

Chon qua tang me ngay 8 thang 3 hop phong thuy hinh anh 5
 
Món quà nhỏ nhưng tấm lòng lớn lao ấy sẽ làm mẹ thêm ấm lòng. Bạn đừng quên chọn màu sắc theo số tương sinh của mẹ để mẹ luôn gặp nhiều may mắn, an lành trong cuộc sống.

Ngọc Điệp

 
Mắt một hay hai mí hé lộ điều bất ngờ về tình duyên
Những người sở hữu tướng mắt hai mí (cả hai bên mắt) có nhân duyên tốt, lối suy nghĩ lạc quan, được nhiều người yêu mến. Bên cạnh đó, người này cũng rất thủy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn quà 8/3 cho mẹ nhân ngày Quốc tế phụ nữ

Luận giải vận số của người tuổi Mão theo ngày sinh

Do Tý - Mão xung khắc nên người sinh ngày Tý thường ít gặp may mắn. Tuy nhiên, trong hôn nhân, nếu được sao Hồng Loan chiếu mệnh thì con cháu đông vui.
Luận giải vận số của người tuổi Mão theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Do Tý - Mão xung khắc nên người sinh ngày này thường ít gặp may mắn. Tuy nhiên, trong hôn nhân, nếu được sao Hồng Loan chiếu mệnh thì con cháu đông vui.

(Hình minh họa)

Sinh ngày Sửu: Mão theo ngũ hành thuộc Mộc khắc chế Sửu thuộc Thổ nên vận số người sinh ngày này thường không thuận lợi; có người phải chịu cảnh cô đơn.

Sinh ngày Dần: Người sinh ngày này phạm phải sao Quang Phù nên cần đặc biệt thận trong trong lời ăn tiếng nói, tránh điều đáng tiếc xảy ra.

Sinh ngày Mão: Nhờ sao Thiên Tướng chiếu mệnh người sinh ngày này vận số tốt, tài lộc dồi dào.

Sinh ngày Thìn: Nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên mọi việc thông suốt.

Sinh ngày Tỵ: Sự nghiệp tuy thuận lợi nhưng bị sao Dịch Mã chiếu mệnh nên không đa phần phải sống xa quê hương.

Sinh ngày Ngọ: Nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên nam giới sinh ngày được có được sự trợ giúp đắc lực của vợ. Tuy cuộc sống có lúc gặp bất trắc nhưng cũng không gây thiệt hại lớn.

Sinh ngày Mùi: Là người trí tuệ, sắc sảo, tinh thông nghệ thuật; thường bị tiểu nhân đố kỵ, hãm hại nên thường mang tâm trạng bất an.

Sinh ngày Thân: Đa phần là người có sức khỏe kém nhưng nhờ được sao tốt Nguyệt Đức chiếu mệnh nên bệnh tật đều sớm lành.

Sinh ngày Dậu: Do bị các sao xấu Địa Không, Thái Tuế, Phá Quân chiếu mệnh nên vận số không may mắn.

Sinh ngày Tuất: Nhờ sao Tử Vi chiếu mệnh nên vận số tốt đẹp.

Sinh ngày Hợi: Do bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên cuộc sống thường bất ổn nhưng vẫn có được sự thành công nhất định trong sự nghiệp.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Mão theo ngày sinh

Văn khấn chúng sinh rằm tháng bảy

Ngày Rằm tháng bảy mọi tội nhân cõi Âm, vong linh của gia đình, họ tộc được xá tội, ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian. Sửa lễ và văn khấn thế nào cho đúng?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam Rằm tháng bảy - Tiết Trung Nguyên là tiết của dịp ”Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng bảy hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian.

cung-giam-thang-7

Bởi vậy, các gia đình ở Dương Gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ.

Ngoài cúng gia tiên ngày ”Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.

Chuẩn bị sắm lễ và văn khấn để cúng chúng sinh rằm tháng bảy như thế nào?

1. Sắm lễ cúng rằm tháng bảy

Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ để cúng

- Lễ cúng gia tiên gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…

- Lễ cúng chúng sinh gồm các lễ vật: Bánh đa, bỏng, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…

2. Văn khấn chúng sinh rằm tháng bảy

Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!

Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần
Con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy Táo phủ Thần quân chính thần.

Tiết tháng 7 sắp thu phân
Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà
Âm cung mở cửa không nhà bơ vơ
Đại Thánh Khảo giáo
A nan Đà Tôn giả
Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương
Gốc cây xó chợ đầu đường
Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang
Quanh năm đói rét cơ hàn
Không manh áo mỏng, che làm heo may
Cô hồn nam bắc đông tây
Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn
Dù rằng : Chết uổng ,chết oan
Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu
Chết tai nạn - chết ốm đau
Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình
Chết bom đạn, chết đao binh
Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi
Chết vì sét đánh giữa trời

Nay nghe tín chủ thỉnh mời
Lai lầm nhận hưởng mọi lời trước sau
Cơm canh cháo nẻ trầu cau
Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh
Gạo muối quả thực hoa đăng
Mang theo một chút để giành ngày mai
Phù hộ tín chủ lộc tài
An khang thịnh vượng hài hòa gia trung
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời
Bây giờ nhận hưởng xong rồi
Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần

Tín chủ thiêu hóa kim ngân
Cùng với áo quần đã được phân chia

Kính cáo tôn thần
Chứng minh công đức
Cho tín chủ con tên là……………
Vợ/Chồng: ………………………..
Con trai: ……………………….....
Con gái: …………………


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn chúng sinh rằm tháng bảy

Hé lộ bí ẩn nét tướng má lúm đồng tiền

Người sở hữu nét tướng má lúm đồng tiền thường có số giàu sang, phú quý, nhân duyên tốt đẹp, công danh, sự nghiệp rạng rỡ.
Hé lộ bí ẩn nét tướng má lúm đồng tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người sở hữu nét tướng má lúm đồng tiền thường có số giàu sang, phú quý, nhân duyên tốt đẹp, công danh, sự nghiệp rạng rỡ. Xem tướng người có má lúm đồng tiền.

  1. Lý giải về má lúm đồng tiền   Phương diện y khoa: Má lúm đồng tiền nằm ở vùng má và gần miệng, chỉ là một khiếm khuyết nhỏ trên hệ thống cơ mặt. Phần da trên phần cơ bị khiếm khuyết và dính xuống tổ chức liên kết bên dưới, tạo ra một vết lõm. Vết này lộ rõ khi các cơ hoạt động khóc, nói, cười.   Má lúm đồng tiền cũng có tính di truyền. Nếu bố hoặc mẹ có má lúm đồng tiền, thì con sinh ra sẽ có 25-50% cơ hội thừa hưởng đặc điểm này. Trong trường hợp cả bố và mẹ đều có má lúm đồng tiền, thì con sinh ra có cơ hội thừa hưởng từ 50-100%.  
He lo bi an net tuong ma lum dong tien hinh anh
 
Phương diện văn hóa phương Đông: Má lúm đồng tiền được giải thích bằng câu chuyện như sau.   Người trần chết xuống Âm Phủ phải đi qua Quỷ Môn Quan. Tại đây, họ phải uống loại nước có tên là Vong tình thủy. Loại nước này có mục đích làm tiêu tan, xóa hết ký ức ở cõi trần, quên đi mọi sự việc kiếp trước.   Tuy nhiên, có một số người đã khóc lóc van xin, do còn nặng tình nặng nghĩa với cuộc sống trước khi chết, không uống loại nước này. Diêm Vương đã đánh dấu họ bằng vết lõm trên má của người được đầu thai.   Vì thế, theo quan niệm phương Đông, người có má lúm đồng tiền vẫn còn lưu giữ ký ức, hình ảnh của cuộc sống cũ và những ký ức này có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác. Họ là những người chung thủy sắt son.   Phương diện văn hóa phương Tây: Má lúm đồng tiền là do Thần Vệ Nữ đánh dấu để phù trợ tái sinh ở kiếp khác.    2. Má lúm đồng tiền nhìn từ góc độ nhân tướng học    Trong nhân tướng học, má lúm đồng tiền phản ánh phần nào nội tâm, tính cách của người chủ sở hữu nó. Đây là nét tướng phú quý, giàu sang, cuộc sống an nhàn, sung sướng, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
 
He lo bi an net tuong ma lum dong tien hinh anh 2
 
Nữ giới có tướng má lúm đồng tiền thường dịu dàng, duyên dáng, nhiệt tình và dễ gần. Nhân duyên của người này rất tốt, đặc biệt là nhân duyên khác giới.   Đàn ông có má lúm đồng tiền thường vui vẻ, năng động, nhiệt tình, thích giúp đỡ người khác, nên nhân duyên cũng vượng, được nhiều người để ý, yêu mến.   Má lúm đồng tiền bên phải   Đây được xem là dấu hiệu của sắc đẹp, nét đào hoa, tiền bạc và quyền lực. Tính cách người này thân thiện, tốt bụng, được nhiều người yêu mến. Đa phần trong số họ là người có địa vị, quyền lực trong xã hội, được nhiều người nể trọng. Công danh, sự nghiệp cũng rạng rỡ.    Má lúm đồng tiền bên trái   Các quý cô sở hữu lúm đồng tiền bên trái không chỉ có vẻ bề ngoài đáng yêu, duyên dáng mà còn có tài ăn nói, khéo léo trong giao tiếp. Họ dễ tạo thiện cảm với người xung quanh bởi tính cách dịu dàng. Trong tình yêu, người này chung tình, khi đã yêu thì khó thay lòng đổi dạ, thích được người yêu quan tâm và chiều chuộng.   Con trai có má lúm đồng tiền bên trái nếu không có ngoại hình điển trai thì nhìn qua cũng đã duyên dáng, nhân duyên vô cùng tốt đẹp. Họ thường có nhiều mối tình lãng mạn, có cuộc sống đào hoa hơn hẳn các chàng trai khác.    Hoàng Lam   Nhân tướng học là gì?
– Nếu bạn vẫn còn thắc mắc về nhân tướng, tướng số, hãy cùng ## tìm hiểu các căn nguyên, vấn đề cơ bản của nhân tướng học.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hé lộ bí ẩn nét tướng má lúm đồng tiền

Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tuổi nào tương hợp - tương khắc, bổ khuyết cho nhau? Teen có thể tham khảo bảng tra dưới đây để biết mối tương quan giữa các con giáp nhé.
Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã. Qua bảng dưới đây, các bạn 12 con giáp sẽ biết được đối tượng tương khắc với mình và tránh ghép đôi cùng nhau hoặc tìm cách hóa giải tương khắc nhé.

12-con-giap-5376-1437623762.jpg

Tuệ Anh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Mộc

Người tuổi Thân mệnh Mộc là những người sinh năm Canh Thân 1920, 1980... có tính cách chăm chỉ và cần cù.
Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

tuoi than menh moc
 

Người tuổi Thân mệnh Mộc là những người sinh năm Canh Thân 1920, 1980...

Đức tính chăm chỉ, chịu khó là một trong những nét nổi bật của người tuổi Thân mệnh Mộc. Nhờ tinh thần hiếu học cùng trí thông minh bẩm sinh, họ có được vốn kiến thức sâu rộng. Tài trí và óc phán đoán nhanh nhạy giúp họ luôn chủ động trong công việc.

Họ thường lên kế hoạch tỉ mỉ, chu đáo trước khi làm một việc gì đó, rồi mới thực hiện từng bước. Vì vậy, tuy thành công đến với họ không nhanh nhưng chắc chắn. Người tuổi Thân mệnh Mộc có khả năng giao tiếp rất tốt, dễ hòa đồng với mọi người.

Tuy nhiên cũng có một số người tuổi Thân mệnh Mộc quá cẩn trọng và thường chỉ biết thỏa mãn với những thành tựu nhỏ ban đầu mà không biết nhìn xa trông rộng. Điều này có thể sẽ khiến họ mất đi những cơ hội tốt trong sự nghiệp.

Nếu có sao tốt tương trợ trong cung mệnh và luôn phấn đấu vươn lên thì họ sẽ sớm có được thành công trong sự nghiệp. Ngược lại, nếu không được sao tốt tương trợ, không biết kiên trì vượt khó vươn lên thì cuộc sống của họ sẽ rất khó khăn.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Mộc

Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Người tuổi Mùi mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Mùi 1943, 2003...
Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người tuổi Mùi mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Mùi 1943, 2003... 

Cả nam giới và nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường có vẻ ngoài ưa nhìn. Đây là những người có nghị lực, luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ không phải là những người quá tham vọng. Họ biết tự lượng sức để tiếp tục duy trì địa vị xã hội và thực lực kinh tế hiện có của mình. Họ cũng luôn lạc quan, hài lòng với cuộc sống. 1 số người tuổi Mùi mệnh Mộc lại có tính đa nghi và điều này đôi khi ảnh hưởng tiêu cực đến công việc. Sự do dự trong những tình huống cần phải quyết đoán khiến họ bị mất đi không ít cơ hội trong làm ăn kinh doanh.

Đa số người tuổi Mùi mệnh Mộc, đặc biệt là phụ nữ thường khá nhạy cảm. Họ coi trọng phép tắc, lễ nghĩa trong cuộc sống. Khi còn trẻ, người tuổi Mùi mệnh Mộc thường khá chăm chỉ, sống tiết kiệm. Cuộc sống của họ khá bình lặng, ít nhờ vả anh em, bạn bè. Sau khi lập gia đình, họ sẽ có cuộc sống khá giả hơn. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của chồng con.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Trang trí nhà cửa đón Tết tiết kiệm và hợp phong thủy

Có các cách đơn giản để giúp tổ ấm vừa đẹp lại vừa hợp phong thủy để đón Tết.
Trang trí nhà cửa đón Tết tiết kiệm và hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những ngày giáp Tết, các gia đình đang gấp rút hoàn tất việc sơn sửa vun vén, trang trí nhà cửa đón Tết. Có các cách đơn giản để giúp tổ ấm vừa đẹp lại vừa hợp phong thủy.
 

1. Tiết kiệm chi phí   Để khoác chiếc áo mới cho ngôi nhà đón Tết, không cần tốn quá nhiều chi phí nếu áp dụng 2 cách đơn giản. Đầu tiên là thay đổi cách bố trí đồ đạc trong nhà giúp không gian trở nên mới và ngăn nắp hơn. Dành chút thời gian để loại bỏ những thứ không dùng hoặc thay đổi phong cách nội thất với việc lắp gương  kính tô điểm thêm cho không gian.   Ngoài ra, làm mới tường nhà bằng việc bố trí lại tranh ảnh hoặc thay đổi tranh đã cũ. Bố trí cây xanh sẽ thêm màu sắc và làm tươi mới cho ngôi nhà. Ngoài ra, bổ sung thêm đồ nội thất đơn giản như sofa, kệ trang trí, đèn trang trí... giúp không gian linh hoạt và mới mẻ hơn.   2. Màu sơn và giấy dán tường cho năm mới   Năm mới nên thay đổi màu sơn tường theo chủ đề, cá tính hoặc màu hợp với mạng chủ nhà. Giấy dán tường cần chọn một mảng tường chủ đạo trong ngôi nhà để trang trí mẫu giấy dán tường phù hợp với chủ đề, ưu tiên các gam màu ấm nóng, ngôi nhà sẽ tràn ngập không khí xuân.   3. Phòng khách và nhà ăn   Phòng khách trong dịp Tết cần không gian thoáng rộng đồng thời gọn gàng, ấm cúng để chủ nhà bày tỏ lòng hiếu khách vừa thể hiện gu thẩm mỹ. Bước đơn giản là giảm bớt số lượng ghế phòng khách, chỉ giữ lại sofa 3 chỗ để có thể ghép thêm bàn ăn xếp dự phòng cho đông người. Giảm bớt đồ đạc hoặc trang trí không cần thiết để tăng không gian.   4. Lưu ý yếu tố phong thủy   Theo quan niệm, thay đổi nội thất hợp phong thủy để không gian nhà được mới mẻ, chào đón những điều tốt đẹp, mang vận may vào nhà. Theo phong thủy, người Việt thường sử dụng màu sơn hoặc giấy dán tường phù hợp với mạng của gia chủ theo cung ngũ hành. Ngoài ra, các hướng “môn, táo, chủ, thờ”  nên giữ nguyên theo tứ trạch của chủ  nhân.   5. Tạo điểm nhấn và sự mới lạ trong không gian   Dấu ấn Tết cổ truyền ở ngôi nhà Việt Nam là cách bố trí thật gần gũi, ấm cúng, đậm bản sắc Việt được thể hiện từ ngoài cổng, sân, đến phòng khách và gian bếp như sau :   Cổng: Chơi câu đối trong ngày Tết là nét văn hóa truyền thống của người Việt. Câu đối đỏ được treo hoặc dán trang trọng ngay cổng ra vào của ngôi nhà với ý nghĩa mừng năm mới, chúc tặng người thân, mong một cái Tết an lành, phú quý.   Sân: Hoa đào miền Bắc, hoa mai miền Nam là hai loài đặc trưng và được cho là biểu tượng của mùa xuân Việt Nam. Bên cạnh lan, cúc, trúc... thì mảnh sân đón Tết của người Việt không thể thiếu màu hoa chủ đạo  này.   Phòng khách: Phòng khách được xem là góc Tết trong ngôi nhà. Người Việt sẽ chú trọng cách bày trí vào các nơi như bàn thờ, bàn tiếp khách…   Bàn thờ là nơi tâm linh và phong thủy nên  được chăm chút thật kỹ lưỡng. Hoa tươi và ngũ quả được bày thật công phu cho lễ cúng giao thừa. Ngoài ra, trên bàn thờ có thể cắm thêm cành vàng lá ngọc tượng trưng cho phú quý.   Bàn tiếp khách là nơi gia chủ hàn huyên với khách đến nhà chúc Tết. Trên bàn khách không thể thiếu mứt - kẹo ngày tết, bộ ấm trà, phong lì xì… Tiếp theo là tường và các góc trang  trí Tết cần được điểm thêm các chậu cúc, quất hoặc một góc quê nh” nho nhỏ với các nông sản như ngũ đậu, bắp, xả...   Các điểm nhấn phụ như phòng ngủ, nhà vệ sinh… cũng nên trang trí nhẹ lại. Thay đổi drap giường theo chủ đề,  một vài chậu hoa xinh nơi ban công hay lọ hoa tươi nơi phòng vệ sinh... giúp tạo cho ngôi nhà bừng thêm sức sống trong dịp Tết.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí nhà cửa đón Tết tiết kiệm và hợp phong thủy

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Hóa giải các khuyết điểm của phòng khách –

Phòng khách có xà cột Xà hay cột đều dùng để đỡ trọng lượng của căn nhà nên không thể thiếu, điều khác biệt chỉ là chúng có xuất hiện ở những vị trí thấy rõ hay không mà thôi. Nếu xà cột xuất hiện ở chỗ thấy rõ sẽ gây trở ngại cho phong thủy phòng kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách có xà cột

Xà hay cột đều dùng để đỡ trọng lượng của căn nhà nên không thể thiếu, điều khác biệt chỉ là chúng có xuất hiện ở những vị trí thấy rõ hay không mà thôi. Nếu xà cột xuất hiện ở chỗ thấy rõ sẽ gây trở ngại cho phong thủy phòng khách và cần phải hóa giải.

Cột trong phòng khách chủ yếu chia thành 2 loại, loại thứ nhất là cột liền với tường được gọi là cột tường, và loại thứ hai là cột đứng riêng được gọi là cột độc lập, chúng đều có liên quan đến thiết kế xây dựng. Trong thiết kế xây dựng hiện nay, lưới cột đã trở thành một vấn đề rất được chú ý, do đó đã ít dần loại cột độc lập, vì cột tường dễ xử lý hơn, cột độc lập chỉ cần xử lý sai sẽ làm cho phòng khách trở nên tối tăm hơn. Thông thường, cột càng lớn càng khó xử lý, do đó khi chọn nhà ở, cần phải xem xét kỹ cột độc lập trong phòng có lớn và nhiẻu hay không, nếu xuất hiện tình trạng này thì nên bỏ qua và chọn nơi khác tốt hơn.

av

Phần lớn bên trên cột đều có xà ngang, vì thế nếu nếu ngồi gần cột sẽ luôn chịu sức ép của xà ngang trên đầu, cần cố gắng tránh ngồi gần cột, một số người thích bày bộ bàn ghế ở giữa hai cột và cho rằng làm thế để tận dụng không gian, thực ra đó là một quan niệm sai, sức ép của xà cột trên thực tế cũng giống như phải chịu sự xúc phạm, về sự phát triển và sức lực đều bị hạn chế, đây cũng là điều đại kỵ trong phong thủy. Còn nếu kê tủ ở giữa hai cây cột thì tuy có phải chịu sức ép của xà cột, nhưng là chiếc tủ phải chịu chứ không phải con người nên không bị trở ngại gì.

Đối với cột liền tường thì thường dùng tủ sách, tủ rượu, tủ trưng bày để che bớt và tạo thành một khối đối với các phần khác trong căn nhà. So với cột liền tường, cột độc lập đương nhiên khó xử lý hơn rất nhiều, vì có sự tồn tại của cột độc lập sẽ làm cản trở tầm nhìn, không gian hoạt động cũng bị cản trở, cần phải có bố cục khéo léo mới có thể hóa xấu thành tốt.

Nếu khoảng cách giữa cột độc lập và cột liền tường không xa, có thể dùng tấm gỗ hoặc tủ thấp để kết nối. Tấm cột tường có thể trang trí bằng cách treo tranh hoặc bày chậu cây cảnh, còn tủ thấp có thể làm cho tầm nhìn được thông thoáng, tăng thêm chiều sâu và không bị cảm giác chắn tầm nhìn.

Nếu không dùng tủ thấp có thể dùng tủ cao, nhưng tầm nhìn đương nhiên sẽ bị giảm; ngoài ra nếu dùng tấm gỗ cao để ngăn thì trên tường phải lắp đèn chiếu để tránh bị đơn điệu.

Nếu cột độc lập cách xa tường, không thể kết nối với tường bằng tủ hoặc tấm gỗ thì phải lấy đó làm trung tâm để bố trí lại, có hai phương án giải quyết vừa đẹp vừa phù hợp vói phong thủy như sau:

– Coi cột độc lập làm ranh giới: Có thể coi cột độc lập trong phòng khách làm đường ranh giới, một bên trải thảm, một bên bày đồ đá. Ngoài ra có thể dùng để chia bậc, một bên cao một bên thấp. Như vậy trông vào cột độc lập sẽ giống như đường ranh giới cao thấp do thiết kế từ đầu, cảm giác sẽ rất tự nhiên.

– Làm cột có máng hoa: Trong phòng khách rộng có thể treo các máng gỗ mỏng xung quanh cột độc lập, trong máng có thể trồng các loại cây trong nhà dễ sống. Để tiết kiệm không gian, nửa dưới của cột độc lập không nên đặt máng hoa, máng hoa nên bắt đầu từ phần giữa cột, vừa đẹp vừa không bị nặng nề, mà lại đạt được hiệu quả tạo khối xanh trong phòng khách.

Do vị trí cột làm chắn một phần ánh sáng nên trên cột nên lắp thêm đèn để có ánh sáng phụ, giải quyết vấn đề ánh sáng không đều và tăng thêm mỹ quan trong phòng khách.

Phòng khách có góc nhọn

Trong trường hợp phòng khách của gia đình bạn có góc nhọn bất hợp lý, có rất nhiều cách hóa giải đơn giản, hiệu quả mà không ảnh hưởng tới kết cấu của tổng thể ngôi nhà. Ví dụ, che góc nhọn đó bằng bức tường gỗ và tiếp theo là trang trí bình thường như tường nhà. Cũng có thể cân bằng những góc như thế này bằng hệ thống tủ, kệ có kích thước vừa vặn, dùng để đồ đạc vụn vặt và đồ trang trí trong nhà. Cách làm này sẽ đánh lạc điểm nhìn của những người xung quanh, tạo sự thu hút vào đồ vật trang trí hơn là vào góc nhọn không cần thiết.

Theo phong thủy, việc đặt một chậu cảnh lớn cũng khá hiệu quả vì chúng có tác dụng tiêu trừ ảnh hưởng của góc nhọn đối với phòng khách. Chú ý nên dùng những loại cây có cành lá tươi tốt, xum xuê hơn là những loại cây nhỏ.

Phòng khách nhỏ hẹp, trần thấp

Hiện nay nhiều căn hộ chung cư có thiết kế trần khá thấp, bỏi vậy lời khuyên cho việc lựa chọn nội thất của không gian này là những loại chân thấp, có chiều cao tương xứng với độ cao của trần nhà để tránh cảm giác bị gò bó. Nên tránh ghế có tay vịn cao, giảm thiểu các họa tiết trên trần và thiết kế cửa sổ rộng để tạo không gian rộng rãi. Phòng nhỏ nên kết hợp màu sắc nhã nhặn, hài hòa giữa sơn tường và nội thất.

Phòng bí không khí và thiếu ánh sáng

Không gian nhà phố, đặc biệt là tầng dưới cũng thường bí không khí và thiếu sáng do các công trình xây san sát nhau. Trong khi đó hầu hết phòng khách của gia đình lại được bố trí tại không gian này, bởi vậy điều quan trọng là thiết kế sao cho thông thoáng và thoải mái nhất cho người sử dụng.

Cách thông dụng nhất hiện nay là tạo không gian giếng trời trong nhà, thông gió và lấy sáng hiệu quả. Bên cạnh đó kết hợp với vách kính ngoài mặt tiền để không gian sinh hoạt trở nên dễ thở hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải các khuyết điểm của phòng khách –

Nuôi hắc ngư gánh hạn cho cả nhà

Theo phong thủy, tốt nhất gia đình nên nuôi tám chú cá vàng, một chú cá đen và đặt bể tại góc Đông Nam của gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nuôi cá cảnh không chỉ giúp đẹp nhà mà còn có những ý nghĩa phong thủy nhất định.   Những chú cá  có một sức sống mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng được cho là mang lại  vận may, thành công, trường thọ và cả tài lộc cho gia đình. Tuy nhiên, dù  nuôi cá trong nhà hay ngoài trời  cũng cần chú ý đến các phong thủy như đặt bể cá cảnh theo phong thủy hay số cá, màu cá. 

Cửu ngư quần hội

Hầu hết các nhà phong thủy  học đều cho rằng số chín là may mắn nhất, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi đây là con số ưa thích cho cá trong bể. Số chín tượng trưng cho sự thịnh vượng, giàu có cũng như trường thọ.

Tám đỏ - Một đen

Sự kết hợp tốt nhất là nên nuôi tám chú cá vàng và một chú cá đen trong bể. Theo các chuyên gia, sự hòa quyện của 8 đỏ và 1 đen sẽ mang lại nguồn năng lượng mạnh nhất hút tiền tài và may mắn. Gia đình có thể chọn nuôi cá chép koi, cá rồng hay chỉ đơn giản là những loại cá bình thường đều có tác dụng phong thủy tốt lành.

 nuoi hac ngu ganh han cho ca nha - 1

Hắc ngư

Một chú cá màu đen trong bể là rất quan trọng vì nó sẽ giúp hấp thu các năng lượng tiêu cực xuất hiện trong nhà. Do đó, chú cá hắc ngư nhỏ bé trở thành biểu tượng của sự an toàn, tin cậy. Người ta tin rằng nếu con cá đen trong bể bị chết mà không rõ nguyên nhân thì chứng tỏ chú cá đã gánh hạn thay cho gia chủ. 'Sự hi sinh' của chú cá nhỏ bé có tác dụng rất lớn để đem lại bình an cho gia chủ.

Mặc dù các nhà khoa học cũng giải thích rằng tại sao cá màu đen thường chết nhiều hơn các loại cá khác vì do chúng có tầm nhìn kém nên bất lợi trong việc tranh giành thức ăn thì mọi người vẫn giữ trong mình một niềm tin. Dù rằng họ luôn vớt cá ra khỏi bể ngay lập tức nhưng nhiều gia chủ vẫn chôn cất và dành cho những chú hắc ngư lời nguyện cầu siêu thoát tốt đẹp nhất.

 nuoi hac ngu ganh han cho ca nha - 2

Các con số biểu tượng

Bên cạnh số chín mang lại may mắn nhất, gia chủ cũng hay lựa chọn số lượng cá khác tùy vào mục đích phong thủy riêng.

Một: Khởi đầu mới

Ba: Tăng trưởng và phát triển

Sáu: May mắn

Tám: Tài lộc

Chín: Trường thọ, được coi là số may mắn nhất

Bội số ba bất kì (333, 888, vv): Gấp ba lần ý nghĩa may mắn của số gốc

Bể cá cảnh may mắn

Một bể cá cảnh phong thủy cần chú ý rất nhiều yếu tố để thu hút năng lượng tốt, tiêu trừ năng lượng xấu.

- Luôn giữ bể sạch

- Oxy lưu thông đầy đủ

- Môi trường sống cân bằng năm yếu tố phong thủy:  kim (cấu trúc, hình dáng của bể cá), mộc (rong rêu, các loại tảo trong bể), thủy (nước trong bể cá), hỏa (ánh đèn trang trí bể), thổ (hòn cuội, hòn non bộ).

- Cá luôn khỏe mạnh

Quan trọng nhất là luôn giữ bể cá sạch sẽ. Một bể cá bẩn thỉu, nhếch nhác sẽ thu hút các nguồn năng lượng tiêu cực ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống, đặc biệt là tiền tài.

 nuoi hac ngu ganh han cho ca nha - 3

Vị trí thích hợp

Mục đích phong thủy của bể cá là để kích hoạt các nguồn năng lượng dương. Những chú cá chuyển động liên tục, cùng dòng chảy của nước tăng thêm tài khí trong gia đình. Do vậy, khu vực tốt nhất để đặt bể cá theo phong thủy là hướng Đông Nam (hút tiền tài), hướng Bắc (hút công danh), và hướng Đông (hút sức khỏe và tình cảm).

Chú ý rằng không bao giờ được đặt bể cá trong phòng ngủ và phòng bếp vì yếu tố đại diện chính của nó là nước. Điều này sẽ mang đến nhiều năng lượng tiêu cực, hay nói cách khác là điềm xấu, cho cả gia đình bạn.

 nuoi hac ngu ganh han cho ca nha - 4

Phong thủy tốt trong hai phòng này sẽ mang đến cho gia chủ sức khỏe dồi dào, cơ thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn; do đó phong thủy sẽ kết hợp mạnh mẽ với nguồn năng lượng của chủ nhà. Khi yếu tố nước xuất hiện quá nhiều tại hai không gian này, ví dụ như gương, thác nước, v.v. sẽ làm giảm năng lượng mạnh mẽ của lửa. Nước tồn tại quá nhiều sẽ mang lại những lo lắng không đáng có cho giấc ngủ, cũng như làm giảm năng lượng gắn kết giữa vợ chồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nuôi hắc ngư gánh hạn cho cả nhà

Tình duyên của người tuổi Mão nhóm máu O

Những người này thường không che giấu được cảm xúc của mình. Mọi người xung quanh sẽ thấy rõ niềm vui sướng, hạnh phúc của họ khi yêu.
Tình duyên của người tuổi Mão nhóm máu O

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người này khá thông minh và hài hước. Yếu tố này ở họ hấp dẫn được nhiều người khác giới. Họ thường tận dụng khéo léo những cơ hội để ra hiệu cho đối phương biết tình cảm của mình. Tuy nhiên, họ cũng hay xấu hổ và không thích thổ lộ tình cảm trực tiếp.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Trong một khoảng thời gian ngắn, tình cảm của họ có thể phát triển và trở nên mãnh liệt nhưng rồi lại lắng xuống nhanh chóng. 

Ngay từ những lần gặp mặt đầu tiên, họ đã biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp và "ghi điểm" trong mắt đối phương. Ở bên họ, người yêu luôn có cảm giác yên tâm bởi sự chăm sóc tận tình, chu đáo.

Tuy nhiên, nhược điểm của họ là dễ "xiêu lòng" trước một đối tượng khác mặc dù đã có người yêu. Tuy nhiên, sau khi kết hôn và có con, họ sẽ toàn tâm chăm lo cho tổ ấm của mình. Dù là nam hay nữ thì người tuổi Mão thuộc nhóm máu O cũng rất coi trọng gia đình. Chính vì vậy, họ sẽ trở thành những ông bố bà mẹ mẫu mực và có trách nhiệm.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Mão nhóm máu O

Thực hư chuyện 2 đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình ở Phú Thọ

Vợ chồng anh Khải ở Phú Thọ có ước nguyện rằng sau này sẽ cho con mình vào chùa đi tu. Kỳ lạ là hai đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình khiến mọi người sửng sốt
Thực hư chuyện 2 đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình ở Phú Thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngay từ khi mới cưới vợ chồng anh Khải ở Phú Thọ đã có ước nguyện rằng sau này sẽ cho con mình vào chùa đi tu. Kỳ lạ là 2 đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình đã giúp ước nguyện của anh chị nhanh chóng thành hiện thực.
 

Chồng là Tiến sĩ, Giám đốc một Bệnh viện đa khoa ở Phú Thọ, vợ là chủ một ảnh viện áo cưới nổi tiếng, họ sinh được 2 người con 1 trai 1 gái đẹp như tranh vẽ, thông minh học giỏi, và đặc biệt chúng còn được biết đến là 2 đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình.
Thuc hu chuyen 2 dua tre nho duoc tien kiep cua minh o Phu Tho hinh anh
Lưu Triều và Mẫn Nghi
Bỗng một ngày người ta sững sờ khi bắt gặp ở trên ngọn núi thiêng của Tam Đảo cảnh tượng 2 vợ chồng vị Tiến sĩ này đang chắp tay cúi lạy và xưng hô là “con” với chính… 2 đứa con nhỏ do mình sinh ra…  

Bồ Tát không chỉ trong phim ảnh

  Men theo Quốc lộ 32, chúng tôi tìm về Hương Nộn – 1 xã nghèo của huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ hỏi thăm tới nhà anh Đào Nguyên Khải – Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện Tam Nông, có vợ là Lê Thị Hải là chủ ảnh viện áo cưới Lưu Triều giữa trung tâm Thị trấn Cổ Tiết ai cũng biết một cách tường tận. Với người dân nơi đây, cái tên Khải – Hải trở lên quá nổi tiếng, sự nổi tiếng ấy không chỉ bởi dù thành đạt trong sự nghiệp, kinh tế khá giả nhưng cặp vợ chồng trẻ này vẫn sống giản dị, đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, mà còn bởi xung quanh cuộc sống của cặp vợ chồng này và 2 đứa con nhỏ của họ có rất nhiều điều kỳ lạ. Điều kỳ lạ hiếm gặp ấy trở thành đề tài bàn tán xôn xao, hâm nóng cả vùng quê nghèo vốn yên ả.   Có lẽ bất cứ ai lần đầu tiên gặp gỡ cặp vợ chồng trẻ này cũng dễ dàng có thiện cảm. Với dáng người gầy dong dỏng, chân chất, hiền lành, trầm tính, ăn mặc giản dị hẳn ít ai nghĩ rằng anh Đào Nguyên Khải đang là Tiến sĩ và là Giám đốc một bệnh viện đa khoa. Người vợ là chị Lê Thị Hải trắng trẻo, xinh đẹp, với nụ cười đầy an lạc luôn hiện hữu trên khuôn mặt phúc hậu, nhân từ. Trong sự tiếp đón tiếp nồng hậu mến khách của con người miền đất Tổ trung du, anh chị trò chuyện cùng chúng tôi một cách cởi mở, chân tình.   Anh chị bảo: “Bây giờ nhà rộng thênh thang cũng chỉ có 2 vợ chồng mình ở. Con cái giờ chẳng còn ai. Ban ngày túi bụi đi làm vùi đầu vào công việc, tối về 2 vợ chồng lại tìm đến kinh sách Phật làm niềm vui”. Cảnh tụng kinh, niệm phật, trì chú và cùng ngồi thiền của cả 2 vợ chồng trẻ mỗi đêm trở thành hình ảnh quá đỗi quen thuộc với những người thân trong gia đình anh chị Khải – Hải.   Chị Hải kể: “Có lẽ những ai có niềm tin tâm linh trong sáng, lành mạnh bằng cái tâm thánh thiện, chí thành sẽ thấy cuộc sống có nhiều điều kỳ diệu, kỳ bí. Và càng thấy rằng Phật pháp thực sự vô cùng màu nhiệm mà ngay cả chính khoa học cũng không lí giải nổi”.   Chị nhớ như in, ngày trước gia đình chị rất nghèo, năm chị học lớp 4, mẹ đẻ chị gặp biến cố lớn khi phát hiện có mang ngoài dạ con bị vỡ phải cấp cứu. Sau khi kiểm tra, các bác sĩ bệnh viện chẩn đoán tình trạng của mẹ chị rất nguy kịch, bởi bị vỡ dạ con từ 9h30’ sáng mà tới tận 6h30’ chiều mới nhập viện thì nguy cơ cứu sống chỉ còn 0,1%. Nhưng gia đình chị vẫn quyết tâm “còn nước còn tát” đề nghị mổ phẫu thuật.   Do còn nhỏ, chị Hải không biết làm gì khác ngoài việc ngồi ngoài và…khóc. Trong giây phút ấy chị sực nhớ tới bộ phim Tây Du ký, hình ảnh Thầy trò Đường Tăng khi nào gặp hoạn nạn kêu cầu thì Quán thế âm bồ tát đều xuất hiện cứu giúp. Vậy là trong đầu chị lóe lên rằng chỉ có Bồ tát quán thế âm mới có thể cứu giúp được mẹ chị. Vậy là chị bắt đầu thiết tha cầu khẩn Bồ tát quán thế âm, thậm chí chị vừa đi chăn bò trên núi vừa khóc khẩn cầu.   Chẳng biết có phải cái tâm chí thành tha thiết của chị đã cảm ứng đến chư Phật, chư Bồ tát, mà ngay hôm đó, ca mổ của mẹ chị thành công tốt đẹp, chỉ chưa đầy 1 tuần sau sức khỏe của mẹ chị hoàn toàn bình phục và xuất viện trong sự ngỡ ngàng của các bác sĩ . Chị sung sướng vô cùng.  

Kỳ lạ giấc mơ thấy rồng đen

  Và bắt đầu từ đó chị có niềm tin tuyệt đối vào Phật pháp. Không có bất cứ vị cao tăng nào chỉ dẫn, cũng không hay đi lễ chùa, thậm chí nhà chị cũng không có cả bàn thờ Phật, tất cả đều là sự tự giác ngộ, hàng ngày chị chỉ nhất tâm niệm phật, niệm Bồ tát quán thế âm mỗi khi rảnh rỗi. Đã không ít lần chị có ý định xuất gia đi tu, nhưng vì nghĩ thương bố mẹ không có ai chăm lúc về già, hơn nữa lại chưa gặp được vị thầy nào đủ tâm đức dìu dắt mình trên con đường tu đạo, nên chị lại thôi.   Một hôm, đi qua nhà hàng xóm chị bỗng nghe được câu thơ phát ra từ loa: “Vui trong tham dục, vui mà khổ – khổ trong tu hành, khổ mà vui” – chị dừng lại nghe một cách chăm chú như nuốt từng lời, rồi chạy thộc vào hỏi câu thơ ấy của ai. Hàng xóm bảo với chị là câu thơ ấy của Thượng tọa Thích Viên Thành –Trụ trì chùa Hương, chị thầm ước bằng mọi giá mình phải đi gặp bằng được vị thầy này để vấn an, khai thị cho mình về Phật pháp.   Khi mà ước nguyện chưa được viên mãn, thì bỗng một hôm chị nhận được tin Thượng tọa Thích Viên Thành viên tịch. Hôm ấy chị khóc như mưa, ai hỏi lí do vì sao chị khóc chị chỉ nức nở: “Thầy mất rồi!”. nhiều người lại gặng hỏi: “Bố mày mất à? Sao mà mất ? chị lại trả lời: “Không phải là bố mà là thầy ở chùa Hương”. Mọi người cười ré lên quát chị :“Mày bị điên à, thầy chùa chết chứ bố mày có chết đâu mà khóc”. Càng bị mắng, chị lại càng khóc thương thảm thiết vị thầy đáng kính của mình dù chưa một lần gặp. Lúc đó trong đầu chị ước nguyện, sau này nếu mình lấy chồng sinh con, chắc chắn mình sẽ cho nó xuất gia đi tu.   Và rồi dường như duyên trời đã định, chị gặp được anh Đào Nguyên Khải – chàng cử nhân sinh viên y khoa Hà Nội, cũng là người rất mộ đạo Phật. Cả 2 nhanh chóng lên duyên. Điều kỳ lạ là cả 2 đều có cùng ước nguyện sau này có con chắc chắn sẽ cho nó xuất gia đi tu.   Giấc mơ rồng và đứa con trai kỳ lạ ra đời   Sau khi kết tóc xe duyên, hàng ngày vợ chồng anh Đào Nguyên Khải – chị Lê Thị Hải thường tụng kinh, niệm Phật, trì chú với tâm thành kính. Và chỉ 1 tháng sau, chị Lê Thị Hải nhanh chóng mang bầu. Trong thời gian mang bầu, chị Hải bỗng nằm mơ thấy một con rồng. Khác với những con rồng hay thấy trong sách báo, phim ảnh thường là màu xanh, màu đỏ, hoặc vàng và chúng thường bay lượn trên trời. Đằng này con rồng chị gặp lại màu đen, rất to, nhưng nó lại nằm im trông rất hiền từ, rồi nó nhìn chị. Thấy giấc mơ kỳ lạ chị Hải đem chuyện kể lại với chồng, anh Khải cười rồi nói: “Người ta nằm mơ thấy rồng vàng, rồng bạc, vợ chồng mình lại mơ thấy rồng đen, chuyện này kể ra chắc người ta buồn cười lắm ấy nhỉ!”.   Tới tuần thứ 2 bỗng chị Hải bị nóng sốt kéo dài nhiều ngày. Người thân trong gia đình lo ngại rằng mới mang thai mà bị nóng sốt cảm cúm như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu tới bào thai, thậm chí là hỏng thai, nên khuyên chị Hải phá thai. Xong chị Hải vẫn quyết định giữ lại cái thai ấy, chị có linh cảm thai nhi không có vấn đề gì cả. Và thực tế là bào thai vẫn phát triển hoàn toàn bình thường đến thời kỳ sinh nở.   Ngày sinh nở vợ chồng anh chị và hai bên gia đình họ hàng vui mừng vì đứa con đầu lòng là một quý tử rất kháu khỉnh, bụ bẫm. Chị Hải bảo: “Khi trẻ nhỏ vừa sinh lọt lòng mẹ thường mắt nhắm tịt lại vài ngày sau mới mở và thường người đỡ đẻ phải “tét” vào mông để kích thích trẻ cất tiếng khóc đầu đời. Thế nhưng, đứa con đầu lòng của anh chị vừa ra đời đã mở mắt tròn xoe nhìn xung quanh, rồi tự cất tiếng khóc oe oe. Điều kỳ lạ là chị sinh hạ đứa con trai đầu lòng vào đúng giờ mùi, ngày mùi, tháng mùi, năm mùi. Với mong muốn con mình luôn mạnh mẽ như dòng nước lớn của biển cả bao la, nên vợ chồng anh chị đặt tên con là: Lưu Triều”.   Sau khi sinh con, anh Khải thường xuyên đi làm vắng, chị Hải ở nhà chăm con, đồng thời mở cửa hàng chụp ảnh và kinh doanh áo cưới. Nhà chỉ có 2 mẹ con, nên mọi công việc nhà đều đến tay chị. Hàng ngày, chị để bé Lưu Triều nằm một mình trong nôi ở gần trước cửa ra vào để chạy đi chạy lại lo công việc phía sau nhà.   Mỗi lần như thế chị nói với con: “Nằm ở đây ngoan, trông nhà cho mẹ nhé, để mẹ đi làm. Có khách vào thì nhớ khóc lên gọi mẹ nghe chưa !”. Những tưởng chỉ là căn dặn con để lấy lệ tự động viên tâm lí mình là chính, vì con còn nhỏ xíu vài ba tháng tuổi làm sao đã hiểu và biết nghe lời người lớn được. Thế nhưng, điều lạ là đúng y như lời mẹ dặn, mỗi khi có khách vào là bé Lưu Triều lại khóc thé lên gọi mẹ.   Sau 4 tháng lại tiếp tục mang thai…   Chỉ trong vòng 4 tháng sau, chị Hải bất ngờ khi phát hiện mình lại tiếp tục mang thai đứa con thứ 2. Chị nhớ như in, trước thời điểm sinh cháu thứ 2 chị đi lễ chùa cách nhà vài km, ngày hôm sau về chị bỗng thấy râm râm đau bụng, anh Khải vội đưa chị vào bệnh viện. Tới bệnh viện, trong khi đợi chờ các bác sĩ thăm khám cho chị, chị cảm thấy đói bụng liền lấy ít hoa quả trong túi lộc mới đi lễ chùa về rồi bỏ ra ăn tạm.   Khi vừa ăn hết nửa quả lựu, chị chuyển dạ sinh hạ đứa con thứ 2 một cách dễ dàng như…đi chơi. Lần sinh hạ này là một bé gái. Cũng giống như người anh Lưu Triều, em bé gái này vừa lọt lòng mẹ cũng đã tự mở mắt và tự cất tiếng khóc chào đời. Song có điều kỳ lạ hơn là vừa sinh lọt lòng, móng chân móng tay của bé gái đã dài ngoằng .Và lại sinh đúng vào giờ Dần, ngày Rằm tháng 7 Âm lịch.
Thuc hu chuyen 2 dua tre nho duoc tien kiep cua minh o Phu Tho hinh anh
Vợ chồng anh chị Khải - Hải và 2 con
Điều đặc biệt này khiến nhiều người thân trong gia đình lo lắng, bởi dân gian Việt Nam thường có câu: “Trai mùng 1 gái hôm Rằm” . Theo như cách lý giải của các nhà khoa học thì sự vận động tương tác giữa mặt trăng và thủy triều vào thời điểm đặc biệt này sẽ có tác động nhất định tới bào thai và tâm sinh lý của đứa trẻ sinh ra. “Vì thế trong số những đứa trẻ này có những bé thường có tính khí khác thường, khó nuôi” – theo như cách lí giải của Tiến sĩ Vũ Thế Khanh – Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ và ứng dụng Việt Nam (UIA).   Và “cũng vì những ngày này thường đúng vào “ngày sóc và ngày vọng” là ngày mà người dân hay đi lễ đình, chùa, nên những ngày này thường được coi là ngày của thánh thần, trẻ nhỏ sinh vào ngày này dân gian thường gắn liên quan tới yếu tố tâm linh”– cách lí giải của Nhà nghiên cứu Doãn Phú – Trung tâm nghiên cứu tiềm năng và con người. Chẳng biết có phải sinh vào ngày đặc biệt hay không mà từ khi lọt lòng mẹ, bé gái này tỏ ra khác người rất thông minh, nhanh nhẹn, dễ dàng thích nghi với môi trường xung quanh, nên vợ chồng anh Khải – Hải chọn đặt tên cho con là “Mẫn Nghi”.   Hai anh em Lưu Triều và Mẫn Nghi lớn rất nhanh, học hành rất giỏi trở thành 2 trong số những “học sinh cưng” của các thầy cô Trường tiểu học Hương Nộn. Thế nhưng, bỗng một ngày 2 “học sinh cưng” ấy bỗng…biến mất khỏi nhà trường, khiến cô Chủ nhiệm và cô Hiệu trưởng rơi nước mắt đi tìm…  

Kinh ngạc khi con nhỏ nói chuyện giáo lý

  Như thường lệ, sau kỳ nghỉ hè các trường học bắt đầu vào năm học mới, các thầy cô và học sinh trường tiểu học Hương Nộn (huyện Tam Nông, tỉnh Phú họ) đều háo hức tề tựu mùa khai giảng năm học mới 2011 – 2012. Duy chỉ có học sinh Đào Mẫn Nghi của lớp 1B – một trong số những học sinh xuất sắc, thường hay tham gia văn nghệ của nhà trường thì vắng mặt.   Kể cả những buổi học sau đó cũng không thấy xuất hiện. Sự vắng mặt bất thường này khiến cô Hiệu trưởng và cô Chủ nhiệm nôn nóng phải liên lạc với phụ huynh để tìm hiểu. Và rồi cả nhà trường đều cảm thấy bị sốc nặng khi hay tin bé Mẫn Nghi đã xuất gia đi tu tại một ngôi chùa Tây Thiên tận trên ngọn núi cao của Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Cô Chủ nhiệm đã khóc nức nở, còn cô Hiệu trưởng thì một mực yêu cầu vợ chồng anh phải đón cháu về không được làm như thế. Thậm chí, cả cô Chủ nhiệm và cô Hiệu trưởng đã có những lần lặn lội lên tận Tây thiên để tìm gặp bé Mẫn Nghi.   Vợ chồng Tiến sĩ Đào Nguyên Khải Tâm Sự: “Mình dân y khoa, vợ là dân kỹ thuật, vốn là những người luôn kiên định theo chủ nghĩa duy vật nên rất ghét, thường xuyên lên án những gì là mê tín dị đoan, đồng bóng . Thế nhưng, giữa mê tín và tín tâm lại hoàn toàn khác biệt, những gì thuộc về thế giới tâm linh đã và đang xảy ra đối với gia đình mình thực sự là kỳ lạ không lí giải nổi. Lúc chưa sinh con thì cả vợ lẫn chồng đều tâm nguyện sau này có con cho nó xuất gia đi tu, nhưng khi dứt ruột sinh được 2 đứa con ngoan ngoãn, thông minh, xinh đẹp mà nghĩ cảnh cả 2 con đi tu là bố là mẹ ai chẳng thấy tiếc và xót con, nên đã không ít lần vợ chồng mình thối chuyển suy nghĩ”.   Song lạ thay, khi vừa khởi lên suy nghĩ ấy thì ngay đêm ấy chị Hải nằm mơ thấy mình nhìn thấy cảnh tượng xung quanh mình rất nhiều người bị ma quỷ sát hại và trong số đó có cả chính bản thân mình. Trong lúc hoảng sợ chị Hải bỗng nghe tiếng nói từ trên không trung vọng lại là hãy trì niệm câu chú cầu Quán Thế âm Bồ tát. Y như lời chỉ dẫn, chị nhất tâm trì niệm thì thấy bỗng dưng chị mặc áo choàng màu vàng ma quỷ không làm gì được chị.   Rồi chị gặp một vị thầy cao tăng, vị thầy bảo muốn giúp đỡ những người khổ cực kia thì hãy tìm cách cho 2 tiểu đồng tử xuất gia đi tu. Tỉnh giấc, chị Hải liền vội kể lại toàn bộ giấc mơ với chồng. Anh Khải bảo: “Giấc mơ đó như lời nhắc nhở 2 vợ chồng mình rằng tâm không được lay động với những gì mình đã phát nguyện”. “Song 2 đứa con có đi tu được hay không lại phải tùy duyên chứ không thể ép buộc được !” – chị Hải nhấn mạnh.   Kỳ nghỉ hè năm 2011, lần đầu tiên chị Hải đưa bé Mẫn Nghi lên chùa Tây Thiên, Tam Đảo vãn cảnh chùa. Vừa gặp các sư thầy tại đây, bé Mẫn Nghi bỗng quay sang nói với mẹ: “Con cảm thấy rất thích ngôi chùa này và muốn ở lại đây tu”. Các thầy bảo: “Đi tu xuất gia rất kham khổ và phải cắt đứt hết mọi tình thân dù là cha mẹ, con có đồng ý không?”. Không chút đắn đo Mẫn Nghi liền gật đầu. Dù luôn chuẩn bị tâm lí rằng các con mình sẽ đi tu, nhưng chị cũng không thể nghĩ rằng bé lại xuất gia đi tu một cách nhanh chóng và nhẹ nhàng như vậy, chị chỉ còn biết đồng ý.   Chiều theo ý con, chị Hải kìm nén lòng để lại đứa con nhỏ thơ dại mới 6 tuổi giữa đất khách quê người hoàn toàn xa lạ, chắp tay đảnh lễ các thầy rồi lẫm lũi cất bước xuống núi. Đi được một đoạn, bỗng bé Mẫn Nghi vẫy tay gọi chị quay lại, những tưởng bé sẽ nhớ bố mẹ mà đòi về hoặc ôm lấy mẹ mà khóc nức nở, nhưng chị bỗng sửng sốt khi thấy bé ghé vào tai nói rằng: “Cô về tu tập tinh tấn nhé! Nếu được cô cũng vào chùa đi tu nhé! Bởi như thế mới độ được nhiều cho chúng sinh chứ cô ở ngoài thì độ được mấy!”.
Thuc hu chuyen 2 dua tre nho duoc tien kiep cua minh o Phu Tho hinh anh
Hai chú tiểu có khả năng nhớ được tiền kiếp của mình
Câu nói ấy khiến chị Hải không kìm nén được cảm xúc trào dâng nước mắt. Là một người mẹ hơn 30 tuổi đời, dù hiểu biết Phật pháp, nhưng mình vẫn chưa giác ngộ được tới vậy, vậy mà một đứa trẻ 6 tuổi nói được những lời triết lí đạo Phật thâm sâu như vậy, chắc hẳn con mình đã có duyên tu với phật pháp từ tiền kiếp.   Vì nhớ con, nên thi thoảng chị Hải lên thăm con, lần gặp lại con mới đây nhất tại Tây Thiên, chị lại thêm lần nữa sững người khi bé Mẫn Nghi (nay là chú tiểu Bảo Nhiên) bỗng hỏi: “Mà nhà cô Hải là ở đâu ấy nhỉ? Nhiều người hỏi nhà chùa quê ở đâu mà nhà chùa chẳng biết. Cô nói để nhà chùa còn biết nhà chùa trả lời”.   Sau khi bé Mẫn Nghi xuất gia đi tu tại ngôi chùa Tây Thiên trên ngọn núi thiêng Tam Đảo (Vĩnh Phúc) cách nhà tới hơn một trăm km, dù rất nhớ thương đứa con gái nhỏ, nhưng vợ chồng Tiến sĩ Đào Nguyên Khải thường kìm nén lòng mình bằng việc hàng ngày nhất tâm cầu Chư Phật, Chư Bồ tát gia hộ, gia trì cho con mình vững bước trên con đường tu tập.   Mùa hè năm 2013, vợ chồng anh chị đưa bé Lưu Triều lên Tây Thiên thăm em gái. Sau cả chặng đường leo núi vất vả mới lên tới Tây Thiên, Lưu Triều bỗng nói với bố mẹ: “Con chưa đến chỗ nào mà thấy như chỗ này, con muốn ở lại đây không muốn về”.   Biết là cả 2 đứa con mình có duyên đặc biệt với ngôi chùa này, nhưng ngặt một nỗi ở đây đa số là các ni sư nên việc tiếp nhận các tăng vào tu tập e rằng khó khăn, nên vợ chồng anh chị một mặt động viên con là quay trở về nhà tiếp tục học đợi tới khi đủ 12 tuổi thì xuất gia đi tu, một mặt anh chị liên hệ với các chùa khác, thậm chí liên hệ với cả một vị thầy tận bên Canada xem có chùa nào phù hợp tiếp nhận con trai mình vào tu tập. Nhưng bé Lưu Triều khóc một mực đòi chỉ thích tu ở Tây Thiên, cho dù tu ở đây là khắc khổ nhất, rừng núi hẻo lánh nhất trong số tất cả các ngôi chùa mà bé Lưu Triều được bố mẹ đưa đi thăm.   Dù hiếm khi được lên tới đây, nhưng với bé Lưu Triều dường như tất cả đều rất đỗi quen thuộc, Lưu Triều chạy ngay tới cầm chiếc micro rồi quỳ xuống, bạch với các sư thầy một cách hồn nhiên: “Con xin được trọn đời xuất gia đi tu” trong sự ngỡ ngàng của bố mẹ và những người có mặt. Lưu Triều bảo: “Bố mẹ đã hứa năm 12 tuổi cho con đi tu, nên năm nay con đủ tuổi rồi, đến lúc con phải đi rồi, con quyết tâm đi”. Vợ chồng anh chị Khải – Hải đưa ánh mắt nhìn nhau, rồi cùng quay sang nhìn đứa con trai nhỏ bé trong nỗi niềm cảm xúc trào dâng buồn vui lẫn lộn khó diễn tả thành lời.   Anh chị kể, từ lúc bé xíu 2 đứa con mình đã bộc lộ những điều khác thường và thể hiện có duyên sâu đậm với Phật Pháp. Với nhiều người lớn đi lễ chùa quanh năm có khi chẳng học được thuộc 1 bài khấn nôm, thế nhưng, từ khi học mẫu giáo, 2 bé đã có thể học thuộc lòng câu chú của Đức Phật Dược sư (được phiên âm từ tiếng Phạn sang Tiếng Hán rất khó đọc và khó nhớ) chỉ sau một lần được bố dạy cách đọc.   Có lần 2 bé đi học, gặp cảnh tượng một con Chó đang mang bầu bị xe cán chết, bé Lưu Triều khóc thương con chó, bé Mẫn Nghi liền động viên an ủi: “Thật ra nó không phải là con chó đâu, nó chỉ đổi từ thân này sang thân khác thôi, nên Triều đừng khóc”. Khi tới trường học, thấy các bạn bắt ve sầu để nghịch, bé Lưu Triều khuyên các bạn không nên giết hại chúng sinh, mà nên phóng sinh nó đi, các bạn cười mỉa mai trêu Lưu Triều là “thần kinh”. Lưu triều vội lao vào đánh nhau với các bạn, giành giật bằng được con ve sầu để…giải cứu nó.   Một buổi nọ, cả nhà được nghỉ rảnh rỗi, anh Khải rủ 2 con cùng thi ngồi thiền. Điều kỳ lạ là chưa bao giờ dạy bé Mẫn Nghi ngồi thiền mà bé có thể ngồi thiền một cách thuần thục và an trụ rất lâu. Khi vừa xả thiền xong, bé liền quay sang hỏi bố: “Bố ơi vén bầu trời ra thì thấy cái gì nhỉ ?”. Anh Khải chỉ biết lắc đầu trong sự ngạc nhiên. Bé liền đáp: “Trong lúc ngồi thiền con thấy nhiều điều lắm bố ạ…!” Rồi bé kể một cách thao thao bất tuyệt. Còn bé Lưu Triều thường kể với bố về những giấc mơ lạ: “Con hay mơ lắm, mà trong giấc mơ con thấy con trải qua 800 kiếp luân hồi. Có lẽ con sợ nhất khi có kiếp con là con giun bị người ta xéo chết. Có kiếp con mải chơi quá, nên bị đọa vào địa ngục, quỷ giữ dồn đuổi đánh con, con vừa chạy vừa niệm Phật thì sau đó con được lên làm người…”.   Từ khi bé Lưu Triều đủ 12 tuổi, anh chị quan sát thấy bé có nhiều biểu hiện tâm trạng lạ, có đợt thấy bé ngồi học bài mà tỏ vẻ trầm ngâm, bố lân la hỏi thì bé trả lởi: “Dạo này con cứ hay có những ý nghĩ lạ, mà cứ như là mọi việc đang hiển hiện rất thật ngay trước mắt con ấy. Con thấy con đang ở trên một ngọn núi tuyết, con là chú tiểu đi cùng với 3 vị sư bước lên những bậc thềm toàn tuyết trắng toát. Sau đó con gặp Ngài Anan (Tôn giả A Nan là một trong mười đệ tử lớn của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni có học thức uyên thâm, trí nhớ siêu phàm. Được coi là Thị giả của Đức Phật, luôn tận tụy bên cạnh Đức Phật, ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy), ngài bảo con cố mà tu đi. Sau đó, con nhìn thấy một ngôi chùa rất to lớn và rất đẹp trong đó Đức Phật đang ngồi thuyết pháp”. Lưu Triều nói với bố mẹ: “Con thấy mọi người khen nhà mình đẹp, sao mà con thấy chẳng thích ở nhà mình tí nào ấy. Con thích vào chùa tu”…   Vậy là giờ đây, vợ chồng Tiến sĩ Đào Nguyên Khải đã “dâng” trọn 2 đứa con cho cửa Phật theo đúng lời phát nguyện từ trước khi mang thai và cũng là theo ý nguyện của cả 2 con. Việc làm này của vợ chồng anh khiến người thân, họ hàng, Lãnh đạo chính quyền địa phương, đồng nghiệp, dân làng…ai cũng bị sốc.   Không ít người ngăn cản, chỉ trích vợ chồng anh là điên, rồ, nhưng anh chị chỉ nở nụ cười an lạc. Anh chị bảo: “Đời là bể khổ, mà nỗi khổ lớn nhất là ai cũng phải chết. Cái chết luôn rình rập đến bất cứ lúc nào. Chết đi, bao của cải, danh vọng đều bỏ lại, chỉ có nghiệp tốt xấu tạo tác ở đời là mang theo. Chính cái nghiệp ấy cuốn con người vào vòng luân hồi sinh – tử…Có được kiếp người là vô cùng quý giá. Vậy nên, việc tận dụng từng giờ từng phút mà tu tập sửa mình, tẩy rửa nghiệp xấu đề giải thoát là việc quan trọng hơn cả. Vì thế, vợ chồng mình cho 2 con đi tu không phải vì suy nghĩ tiêu cực, vì “vô phúc” mà vì là mong chúng… thoát khổ. Giờ tiền bạc vật chất kiếm ra mỗi ngày vợ chồng mình đều đem đi làm từ thiện cả, hai người cùng tu tâm tích đức. Sau này nhắm mắt xuôi tay, mong sao đủ công đức để được về ‘Thế giới cực lạc’.

► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

ST.

Tại sao có người nhớ được tiền kiếp, có người không? Dấu hiệu nào cho thấy nhân duyên trời định từ kiếp trước? Luân hồi - kết quả của nghiệp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư chuyện 2 đứa trẻ nhớ được tiền kiếp của mình ở Phú Thọ

Cách cục Thạch trung ẩn ngọc (Ngọc ẩn trong đá)

Sao Cự Môn trấn mệnh tại cung Tý, Ngọ, lại có Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội là hợp cách. Nhưng chỉ có người sinh năm Tân, Quý mới được coi là hợp cách cục này. Lá số sở hữu cách cục này chủ về lý tưởng cao xa, tài hoa xuất chúng, trí tuệ hơn người, theo nghề kinh doanh sẽ trở thành bậc đại phú, theo nghiệp chính trị sẽ có được chức vị, vị trí cao, nhiều lộc, nắm giữ binh quyền nếu không cũng trở thành nhân vật có quyền uy trong giới khoa học, học thuật. Nhưng phải trải qua một quá trình phấn đấu vất vả, gian khổ mới có được thành tựu, nên cách cục này mới có tên gọi là "Ngọc ẩn trong đá". Sinh năm Tân, Quý là thượng cách, sinh năm Tỵ cũng cát lợi, trấn mệnh tại Tý sinh năm Canh cũng chủ về cát lợi.
Cách cục Thạch trung ẩn ngọc (Ngọc ẩn trong đá)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm: Có thị hiếu tốt, có hoài bão và nghị lực phấn đấu, ham thích nghiên cứu, tác phong linh hoạt, kiên cường, cứng rắn, tuổi trẻ gặp nhiều gian truân vất vả, đến trung niên và cuối đời mới thành tựu.

Khuyết điểm: Tuổi trẻ nhiều vất vả, gặp chuyện phiền phức, oan uổng.

Ca quyết như sau:
Cự môn tý ngọ hỷ tương phùng
Cánh trị sinh nhân Tân Quý trung
Tảo tuế định vi phan quế khách
Lão lai tư nhuận phú gia ông

Nghĩa là:
Cự môn ưa gặp Tý cùng Ngọ
Lại gặp năm sinh là Quý Tân
Sớm được thành danh nhập cung quế
Đến già thong thả hưởng giàu sang

Trong kinh viết rằng: "Cự môn tại Tý, Ngọ là ngọc ẩn trong đá", "Cự Môn tại Tý Ngọ gặp Khoa, Lộc, Quyền, ngọc ẩn trong đá phúc vô cùng".

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Thạch trung ẩn ngọc (Ngọc ẩn trong đá)

Độ dài ngón tay út nói lên điều gì về bạn?

Chọn phương án giống/gần giống nhất với độ dài ngón út bàn tay PHẢI của bạn. Bấm vào hình để xem đáp án!
Độ dài ngón tay út nói lên điều gì về bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

do-dai-ngon-tay-ut-noi-len-dieu-gi-ve-ban do-dai-ngon-tay-ut-noi-len-dieu-gi-ve-ban-1
Ngón út bằng 2 đốt ngón áp út Ngón út dài hơn 2 đốt ngón áp út
do-dai-ngon-tay-ut-noi-len-dieu-gi-ve-ban-2  
Ngón út ngắn hơn 2 đốt ngón áp út  

Alexandra V (theo VV)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Độ dài ngón tay út nói lên điều gì về bạn?

Đeo Ngọc phong thủy tốt cho vận khí, sức khỏe và tiền tài –

Người xưa cho rằng, đeo Ngọc trên người tốt cho Vận Khí, tốt cho Sức Khỏe, tốt cho Tiền tài…Vàng thời có giá, mà Ngọc lại vô giá. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau đây để biết đeo Ngọc phong thủy có ý nghĩa gì nhé! Ý nghĩa của việc đe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa cho rằng, đeo Ngọc trên người tốt cho Vận Khí, tốt cho Sức Khỏe, tốt cho Tiền tài…Vàng thời có giá, mà Ngọc lại vô giá. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau đây để biết đeo Ngọc phong thủy có ý nghĩa gì nhé!

il_340x270.457332004_hdgz

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của việc đeo Ngọc phong thủy
    • 1.1 Ngọc dưỡng người, ngọc dưỡng ngọc
    • 1.2 Làm đồ trang sức
    • 1.3 Có lợi cho sức khỏe, vận khí tốt và mang lại may mắn
    • 1.4 Mang lại giấc ngủ ngon và làm cho đầu óc thông minh
    • 1.5 Ngọc dưỡng sinh làm khỏe cơ thể
    • 1.6 Ngọc là cây cầu nối gắn kết thắt chặt tình cảm

Ý nghĩa của việc đeo Ngọc phong thủy

Ngọc dưỡng người, ngọc dưỡng ngọc

Ngọc ở trong đất sâu thẳm, từ vài nghìn năm đến vài triệu năm, trong phân chất của Ngọc chứa lấy vô số khoáng chất vi lượng, hấp thu tinh hoa Nhật Nguyệt Tinh Thần nên gọi là Tinh Hoa.

Cho nên mới nói là ngọc dưỡng Người, cũng lại là Người dưỡng Ngọc. Người đeo Ngọc lâu ngày, khí trường được Ngọc thâm nhiễm, trở nên sáng lạn, vận tốt tự nhiên đến thân…Ngọc được người đeo lâu ngày, cũng cảm nhiễm nhân khí, lên nước nổi vân, đã đẹp càng thêm đẹp.

Làm đồ trang sức

Từ xa xưa, con người đã sớm dùng Đá Ngọc làm đồ trang sức, có thể nói còn trước cả vàng…Các khối Ngọc đẹp đã là đồ gia bảo trong các danh gia vọng tộc, được lưu truyền cất giữ như báu vật…

Ngày xưa khoa học chưa tiến bộ, công cụ thô sơ, khai thác và chế tác đều rất tốn công của, nên có những tác phẩm đạt cả hai mặt là chất ngọc đẹp, chế tác tinh xảo, tức là báu vật giá trị liên thành…

Có lợi cho sức khỏe, vận khí tốt và mang lại may mắn

Khi người ta đeo Ngọc, do tác động của các khoáng chất vi lượng, tác động đặc biệt vào da vào các khí mạch, giúp cho cải tạo sức khỏe tốt lên, vận khí cũng tốt lên, nhất là Ngọc được chế tác thành linh vật Tỳ Hưu thì người sử dụng lại được may mắn về tiền tài.

Theo các phân tích của khoa học hiện đại, Ngọc hàm chứa rất nhiều các nguyên tố vi lượng, căn cứ theo màu sắc chúng ta có thể thấy được. Như ô xít sắt tạo ra màu đỏ, magie tạo ra màu xám, xanh là ô xít đồng….khi đeo ngọc các nguyên tố vi lượng thẩm thấu qua da, hoạt hóa các tổ chức tế bào, tăng cao sức đề kháng, bảo vệ con người trước bệnh tật.

Mang lại giấc ngủ ngon và làm cho đầu óc thông minh

Ngọc gối ở đầu, ắt ngủ ngon và đầu óc thông minh, xưa kia đế vương hoàng tộc, thường dùng các khối ngọc quý (Phổ biến là Mã Não) để chế tác thành gối gối đầu, hoặc làm mũ đội…hầu như các vị vua có tuổi thọ cao, đều dùng Ngọc làm gối để ngủ. Điều này cũng được Danh Y Lý Thời Chân nhắc đến trong cuốn “Bản Thảo Cương Mục”…

Ngọc dưỡng sinh làm khỏe cơ thể

Ngọc không chỉ để làm đồ trang sức, để bày, để làm đồ dùng. Mà Ngọc còn được dùng để dưỡng sinh làm khỏe cơ thể. Xưa kia trong Hoàng Triều từ Vua đến Vương tôn Hoàng Tử, Hoàng Hậu Phi Tần…đều là Ngọc không rời thân, lấy Ngọc để dưỡng sinh dưỡng sắc.

Tống Huy Tông mê Đá mê Ngọc, Dương Quý Phi nằm ngọc tránh nóng…cho đến ngày nay chứng thực Ngọc có thể dưỡng sinh đã được Khoa Học Hiện Đại xác nhận.

Ngọc là cây cầu nối gắn kết thắt chặt tình cảm

Ngọc là từ các khoáng chất thiên nhiên cấu thành, bởi vậy nó luôn có các đường vân, hoa văn và ẩn chứa nhiều nét đẹp bất ngờ. Đặc biệt như Ngọc Bích, Ngọc Phỉ Thúy, Mã Não…đường vân càng nhỏ, càng kỳ thú, càng trong sáng thì tức là Ngọc càng quý.

Trong cuộc sống, Ngọc làm lễ vật tặng cho thân nhân, cho người mình yêu, càng chứng tỏ sự trân trọng và là cây cầu nối gắn kết thắt chặt thêm tình cảm. Bởi thế người xưa có câu “Gia Hữu Ngọc Tất Hưng, Nhân Hữu Ngọc Tất Thanh”. Đeo Ngọc rất tốt cho vận khí, sức khỏe và tiền tài là vậy. Nhất là trang sức đeo cổ Tỳ Hưu Ngọc phỉ thúy, ngoài việc may mắn về tài lộc, công danh, sức khỏe, lại vừa đem lại may mắn trong các sự cố nạn tai…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đeo Ngọc phong thủy tốt cho vận khí, sức khỏe và tiền tài –

Xem tướng trán để biết vận số của bạn –

Vầng trán là biểu thị cho trí tuệ và có thể nói lên tính cách, vận số của bạn. Dưới đây là một số tướng trán điển hình. Tướng trán trên hình là tướng trán đạt tiêu chuẩn theo nhân tướng học. Đây là tướng trán của hầu hết các nhà chính trị, nhà khoa h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vầng trán là biểu thị cho trí tuệ và có thể nói lên tính cách, vận số của bạn. Dưới đây là một số tướng trán điển hình.

Tướng trán trên hình là tướng trán đạt tiêu chuẩn theo nhân tướng học. Đây là tướng trán của hầu hết các nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn, nhà doanh nghiệp… Tuy nhiên đàn ông có tướng trán này thì tốt; đàn bà có tướng trán này thành công trong sự nghiệp, nhưng thường có cuộc sống hôn nhân không mấy hạnh phúc, vợ chồng thường lục đục và dễ dẫn tới ly hôn.

1

Tướng trán ở hình trên là tướng trán đẹp, vầng trán tuy không cao nhưng có bề ngang rộng. Những người có trán này thường thành đạt trong sự nghiệp, nhưng mức độ thành công của họ không lớn, chỉ nhỏ lẻ.

2

Trán như hình trên là trán có hình vòng cung, đây là dạng trán tiêu chuẩn dành cho nữ giới. Những người có trán này thường dịu dàng, thông mình, hiểu lòng người, biết cách cư xử. Nam giới có trán này tính tình sẽ lương thiện, hiền lành nhưng không có chí tiến thủ và thiếu khả năng sáng tạo.

3

Vầng trán như hình trên tạo thành hình chữ M. Đây được gọi là vầng trán của nghệ sĩ. Những người có trán này có khả năng sáng tạo cao, vì thế, họ có thể thành công trong nhiều ngành nghề. Tuy nhiên, họ hơi bảo thủ, cố chấp vì thế không phải lúc nào họ cũng đạt được thành công.

Nếu trán chữ M kết hợp thêm phần xương trán gồ lên nổi rõ thì sẽ đạt thành tựu lớn trong sự nghiệp, ngược lại thì mọi việc chỉ đạt ở mức độ bình thường.

4

Trán như hình trên thoạt nhìn hơi giống trán chữ M, nhưng thực tế chỉ có phần giữa chân tóc hơi lồi ra một chút, được gọi là trán mỹ nhân tiêm. Những người có trán này rất hiếu thắng, tò mò và mưu mẹo, họ thường đi xa quê hương để lập nghiệp.

5

Trán như hình trên có nửa bên trên hơi ngả ra sau, tạo thành hình gần giống hình bậc thang so với nửa bên dưới. Dạng trán này thường thuộc về người không thông minh, tình cảm hời hợt, sự nghiệp không thuận lợi, khó gặt hái được thành công lớn.

6


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng trán để biết vận số của bạn –

Ba điều nên và không nên nhìn thấy khi vào nhà là gì? –

Khi bước vào nhà, ba điều nên được nhìn thấy là: - Một bức tường hoặc các đồ vật màu đỏ vì màu đỏ sẽ tạo cho bạn cảm giác vui mừng, may mắn, làm tăng sự ấm áp, gây hưng phấn và cảm giác thư thái. - Một chậu cây cảnh vì màu xanh của cây cối sẽ tạo c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

163

Khi bước vào nhà, ba điều nên được nhìn thấy là:

–  Một bức tường hoặc các đồ vật màu đỏ vì màu đỏ sẽ tạo cho bạn cảm giác vui mừng, may mắn, làm tăng sự ấm áp, gây hưng phấn và cảm giác thư thái.

– Một chậu cây cảnh vì màu xanh của cây cối sẽ tạo cho bạn nhiều hứng khởi đồng thời còn giúp bạn thư giãn mắt sau một ngày làm việc bên máy vi tính.

–  Nếu từ cửa vào nhìn thấy một bức tranh hay một bức vẽ nhỏ thì điều đó thể hiện trình độ văn hoá hay nhận thức cao của gia chủ. Ngoài ra còn làm dịu đi sự mệt mỏi, khó chịu bên ngoài.

Ba điều không nên nhìn thấy khi bước vào nhà là:

–   Khi mở cửa vào nhà mà nhìn ngay thấy bếp thì sẽ bị Hoả khí xung nhân.

–   Vừa mở cửa ra đã nhìn thấy nhà vệ sinh thì sẽ có cảm giác uế khí bám vào người, gây khó chịu.

–   Không nên đặt một tấm gương lớn đôi diện với cửa chính vì nó sẽ phản lại hoặc làm mất tài khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba điều nên và không nên nhìn thấy khi vào nhà là gì? –

Dự đoán vận mệnh bằng tử vi đẩu số

LỜI MỞ ĐẦU Tử vi, theo truyền thuyết dân gian Trung Quốc, nghĩa là hoa tường vi màuđỏ. Từ cổ đại, người Trung Quốc thường dùng hoa tường vi màu đỏ để bói toán.Trần Đoàn (thời Tống) đã sáng tạo ra phương pháp bói toán lấy tên là TỬ VI vàđặt “tử vi” làm tên một ngôi sao trong 110 sao để tính toán vận mệnh.
Dự đoán vận mệnh bằng tử vi đẩu số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

So với các khoa khác, tử vi xuất hiện tương đối chậm, nhưng đã mở đường cho một học thuật riêng bằng lý số theo một hướng đặc thù. Tử vi có khả năng vạch ra và dự báo những bước đường đời của con người và chỉ dẫn con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra cũng chủ động trước những hiểm hoạ sắp xảy ra.

Xuất phát từ quan điểm “Thiên nhân tương dữ” trong triết học Trung Quốc, Tử vi quan niệm con người là một phần của thế giới tự nhiên, thống nhất với tự nhiên, “là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ”. Bởi vậy, khi con người sinh ra ở một thời điểm nhất định thì tính cách tương ứng – từ tính cách ấy mà tạo nên số phận. Trần Đoàn đã quy nạp được hầu hết tính cách của con người vào 110 sao, xây dựng một phương pháp nghiên cứu con người và số phận con người. Quy luật của vũ trụ đã được diễn đạt thành quy luật của đời người. Trước đây, Kinh Dịch và Tử vi thường bị người ta quy là mê tín dị đoan. Bởi lẽ, người ta không hiểu được sự phong phú của nó đến nhường nào, thêm vào đó một số người lợi dụng tử vi để kiếm tiền, đã xuyên tạc bản chất của tử vi.

Tử vi đẩu số là phương pháp dự trắc về vận mệnh con người quan trọng nhất trong Mệnh lý học phương Đông. Phương pháp này lấy NĂM, THÁNG, NGÀY và GIỜ SINH để xác định vị trí 12 CUNG, tạo ra LÁ SỐ TỬ VI.
12 CUNG là thuật ngữ thiên văn học để đánh dấu 12 lần gặp gỡ giữa quỹ đạo vận hành của Mặt trời và Mặt trăng trong một năm. 12 Cung cũng nói lên nội dung và nhân tố chính liên quan tới vận mệnh của cuộc đời một con người.
12 CUNG gồm: Mệnh, Huynh đệ (anh em), Phu thê (vợ chồng), Tật ách (bệnh tật), Thiên di (xuất ngoại), Nô bộc, Tài bạch (của cải), Điền trạch (đất đai), Phụ mẫu (cha mẹ), Quan lộc (sự nghiệp),  Phúc đức , Tử nữ (con cái). Ngoài ra còn cung Thân (dự đoán tương lai của đời người), cung này tương phối cùng các Cung khác chứ không có vị trí riêng. Trong đó, MỆNH là Cung quan trọng nhất, vì Mệnh tốt, xấu gần như được phản ánh tại cung này.

Vai trò của Cung Mệnh và cung Thân :
Đầu tiên phải đả phá cách nhìn nhận "Nửa đời trước ứng với Mệnh, nửa đời sau ứng với Thân" ; "Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt”… Mà chúng ta phải nhìn nhận rằng Mệnh và Thân là một cặp Thể Dụng tương hổ với nhau . Mệnh và thân đều phản ảnh suốt cả cuộc đời con người chứ không có sự phân chia vai trò trước sau. Mệnh là thể, Thân là Dụng. Và bài toán Mệnh Thân là Bài toán đầu tiên và cơ bản nhất. Nếu nhìn nhận và giải quyết rõ ràng, kỹ lưỡng thì chúng ta đã nắm được 80% tính chất số mệnh của con người. Có lẽ đầu tiên người sáng chế ra môn tử vi chỉ để làm bài toán này, còn chuyện vận hạn là nhu cầu phát sinh sau đó.

Do vậy khi đoán cung mệnh tức là đoán tổng quát tính chất của đương số, kết hợp cung Thân để coi cái hay của mệnh có được phát huy hay không phát huy như thế nào ? Sự cộng hưởng của mệnh Thân như thế nào ? Mệnh Thân chỏi nhau như thế nào ? Dưới quan niệm thể dụng chúng ta sẽ suy luận và tiên đoán nhiều vấn đề trong cuộc đời đương số.
Điều đáng lưu ý là trên lá số có 6 cung dương và 6 cung âm, Mệnh thân đều hoặc là ở cung dương hoặc là ở cung âm. Đó là môi trường để Mệnh và Thân tương hổ với nhau. Trong 6 cung cùng âm hoặc cùng dương thì chia làm hai nhóm : Nhóm thân cư Mệnh, Tài, Quan và nhóm Thân cư Di, Phúc, Phối (Phu, Thê). Nhóm thứ nhất do nằm trong thế tam hợp, nếu mệnh có đủ những bộ sao như Cơ Nguyệt đồng Lương, Tử phủ vũ Tướng, Sát phá liêm tham, Cự Nhật … thì độ cộng hưởng của mệnh và thân rất cao và đương nhiên là thuận lợi, độ số thành công tăng lên rất cao, đặc biệt thân cư Mệnh . Khi nói đến thế tam hợp cần phải nói đến bộ Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, nói một cách khoa học thì đây là bộ sao chỉ trạng thái năng lượng cao, gặp tổ hợp sao xấu thì hoạ càng mạnh, gặp tổ hợp sao tốt thì phúc càng nhiều ! (vấn đề vòng thài tuế tôi sẽ bàn sau). Còn nhóm thứ hai thì Mệnh Thân không nằm trong thế tam hợp, đó là yếu tố bất lợi trong việc không liên kết được các bộ sao trong thế tam hợp, mệnh Thân thường đóng ở các bộ sao khác nhau, nhiều khi là chỏi nhau, như vậy là bất lợi, hoạ nhiều hơn phúc !

Xuất phát điểm của Tử vi đẩu số là Học thuyết Âm Dương Ngũ hành, phép đếm Can Chi và quan điểm hợp nhất Trời Đất và Con Người (“Thiên Địa Nhân hợp nhất”), lấy ĐẶC ĐIỂM VỊ TRÍ của các sao CÁT, HUNG, HÓA trong chùm sao tử vi để suy luận ra vận mệnh con người.

Phương pháp cơ bản của Tử vi đẩu số là căn cứ ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người định ra 12 cung và an hệ thống sao lên LÁ SỐ rồi xét sự tương quan vị trí các cung, các sao mà đoán ra địa vị, nhân cách, phúc họa, sang giầu của người đó.
SAO là yếu tố cơ bản của Tử vi đẩu số. Sự phân bổ và tổ hợp của Sao cùng độ SÁNG và độ lành dữ (cát hung)

2/ MỖI CUNG CHO TA NHỮNG THÔNG TIN GÌ ?

Cung Mệnh: Tương đương bộ não con người ta, là Cung Chính trong 12 Cung.
Cung Huynh đệ: Phán đoán quan hệ bản thân với anh chị em có tốt không.
Cung Phu Thê: Phán đoán tình trạng hôn nhân, đối tượng kết hôn, cuộc sống hôn nhân mỹ mãn hay không.
Cung Tử nữ: Suy đoán về cá tính, tư chất, học hành của con cái.
Cung Tài bạch: Là cung sinh tài (tiền), phán đoán tài vận, khả năng quản lý tài chính và tình hình kinh tế của một người.
Cung Tật ách: Đoán biết tình hình sức khỏe và thể chất của một người.
Cung Thiên di: Phán đoán Vận xuất ngoại, phát huy tài năng, biểu hiện sức sống của bản thân.
Cung Nô bộc: Còn được gọi là cung Thân hữu (bạn bè). Phán đoán mối quan hệ với đối tác, đồng nghiệp, bạn bè.
Cung Quan lộc: Phản ánh thong tin về sự nghiệp, học vấn, địa vị.
Cung Điền trạch: Xét xem có thể thừa kế cơ nghiệp tổ tiên không. Hoàn cảnh sống.
Cung Phúc đức: Phản ảnh điềm lành dữ trong cuộc sống tinh thần như tâm thái, nhân sinh quan, sở thích.
Cung Phụ mẫu: Dự đoán tính cách, hoàn cảnh gia đình, địa vị của cha mẹ, tình thương của cha mẹ.
của sao có ảnh hưởng quyết định tới sự luận giải lá số.

Nguồn sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán vận mệnh bằng tử vi đẩu số

Sai lầm trong bài trí phòng ngủ dễ khiến chủ nhân ốm yếu, nghèo khổ

Giường ngủ đặt dưới cầu thang sẽ khiến chủ nhân ngủ không sau và có thể gặp xui xẻo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 1  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 2  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 3  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 4  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 5  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 6  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 7  sai lam trong bai tri phong ngu de khien chu nhan om yeu, ngheo kho - 8

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sai lầm trong bài trí phòng ngủ dễ khiến chủ nhân ốm yếu, nghèo khổ

Vận trình tử vi trọn đời Bính Tý nam mang chi tiết

Bính Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bính Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1936, 1996 và 2056
Cung CẤN.
Trực THÀNH
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Khắc THIÊN THƯỢNG HỎA Con nhà HẮC ĐẾ (cô quạnh) Xương CON CHUỘT.
Tướng tinh CON RẮN Cậu Tài

Cậu Quý độ mạng

Luận xem số mạng tuổi này,

Bính Tý mạng Thủy nước đầy tràn sông.

Trai mà sanh đặng Thu Đông,Như cây gặp nước, như rồng gặp mây.

Bính Tý tánh ở hiền lành,Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền.

Ăn rồi phản phúc tự nhiên, Đổi thời không khả nghịch liền tự nhiên.

Một thân thất ý đủ điều,Nửa lành nửa dữ bao nhiêu chưa đành.

Tới hồi vận giữa hiển vinh,Căn nguyên tất phát môn đình đổi thay.

Tuổi già vận đến càng hay, Vinh hoa phú quý vàng son cửa nha.

xem bói tử vi tuổi Tý

CUỘC SỐNG

Tuổi Bính Tý thuộc mạng Thủy. Số tuổi được nhiều thành công trong cuộc sống, hay thay đổi ý định, không bao giờ có được một cuộc sống yên lặng, mà tự tạo ra nhiều sóng gió. Cuộc đời có lắm thương đau. Về mặt xã hội giữ được tiếng tăm và địa vị khiêm nhượng, ham thích những cái gì xảy ra thực tại hơn là những chuyện viễn vông, sự nghiệp và cuộc đời vẫn đi đôi với nhau, tạo được những điểm đặc biệt trong cuộc sống, cấu tạo được một hoàn cảnh khả dĩ làm cho cuộc sống có phần chắc chắn. Nhưng cuộc đời chưa chắc vào ở mức độ đó mãi. Sẽ còn thay đổi và luân chuyển mãi cho đến hết cuộc đời, mà không bao giờ có sự trầm lặng trong sự sống. Tuổi Bính Tý có nhiều phúc đức trong lớp tuổi trung bình, nhưng sau cùng qua thời gian từ 50 đến 52 thì lại có nhiều việc làm cho có nhân quả. Tuổi Bính Tý chỉ hưởng thọ trung bình từ 55 đến 60 tuổi. Nhưng vào tuổi 52 thì mắc bệnh thần kinh có thể không hưởng thọ lâu hơn tuổi dự định, nhưng làm phúc đức ăn ở hiền lành thì may ra hưởng thọ đầy đủ theo số Tử Vi.

TÌNH DUYÊN

Trong cuộc sống tuổi Bính Tý về vấn đề tình duyên cũng có nhiều sôi động, có nhiều thay đổi sầu thương, ít khi tìm được sự êm ấm vào tuổi nhỏ. Tình duyên vào lúc nhỏ thường ở trong sự tạm thời, không có một quyết định dứt khoát, cho đến khi qua tuổi 30, mới tạo được nguồn hạnh phúc chân chính. Số về vấn đề tình duyên rất khe khắt, không tạo được một cuộc sống ý hiệp tâm đầu, nếu có cũng chỉ là bề ngoài; nhưng bên trong vẫn có sự nghi kỵ hay thường có những bất đồng ý kiến. Đó là số của cá nhân. Nhưng nếu gặp được lương duyên có sự trùng hợp về tuổi tác và sự hòa hợp về tinh thần thì tình duyên mới có được sự ấm êm và hạnh phúc. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc lương duyên thường hay thay đổi bất thành, đó là những tháng 1 và tháng 7 trong cuộc đời. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng nầy trong cuộc đời thì bạn là người có nhiều vợ hay cũng quá đau khổ vì đ àn bà nhiều hơn, đó là những tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

 Về việc công danh cũng có nhiều thay đổi quan trọng, tuy nhiên số có nhiều phúc đức, nên chuyện công danh thường được lên cao mà ít khi có xuống thấp. Tuổi nhỏ thường có sự thay đổi công danh. Nhưng lớn thì tạo được nhiều tên tuổi. Cuộc đời hay đẹp về bước đường công danh, có thể tạo nên danh phận một cách rất dễ dàng, ít khi gặp sự khó khăn. Về gia đạo thì cũng hay có sự buồn phiền, số không mồ côi sớm, không nhờ thân tộc họ hàng trong việc tạo nên danh phận, mà nhờ bè bạn giúp đỡ nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng có thể nhờ sự trùng hợp của tuổi vợ chồng mà cuộc đời gặp nhiều may mắn hơn nữa. Tuổi Bính Tý trong tương lai có một sự nghiệp vĩ đại, đi song song với công danh, nhờ ở sự sáng suốt và lòng nhẫn nại, mà sự nghiệp thêm phần vững chắc, tiền bạc khá dư dả, tuy cũng có một thời gian long đong nhưng cuộc sống hoàn toàn ít khi bị khổ cực về tâm trí cũng như về xác thịt. Công danh và sự nghiệp có trở ngại vào khoảng tuổi 31 và 32, nhưng vào tuổi 33 thì hoàn toàn làm nên sự nghiệp bởi sự tiến triển của công danh, có phần chắc chắn và đồng đều, tiền bạc dồi dào, hạnh phúc ấm êm, cuộc sống thêm phần sáng sủa hơn.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trước khi muốn làm ăn hay phát triển công việc, muốn cho công việc được chắc chắn mà không sợ thất bại, bạn cần lựa tuổi để hợp tác, hùn hạp, hay cùng lo toan công việc; trong sự lựa chọn tuổi tác cũng phải tùy theo hoàn cảnh và trường hợp xảy ra, cũng như trong việc hôn nhân, cần lựa người hiền đức; vậy bạn cần lựa cho đúng những tuổi này mà hợp tác thì chắc chắn sẽ thành công, đó là những tuổi: Bính Tý, tuổi Tân Tỵ, tuổi Nhâm Ngọ và tuổi Ất Dậu, những tuổi này có thể giúp bạn làm ăn được phát đạt thêm nhiều kết quả và tài lộc vượng phát, không sợ thất bại.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

 Bạn kết hôn với tuổi Bính Tý, có những trường hợp sau đây: Tuổi Bính Tý giúp bạn thành công về mặt tiền tài, vợ chồng hòa thuận. Kết hôn với tuổi Tân Tỵ: Lúc đầu hao tốn nhiều, làm ăn tuy có tiền nhưng sau mới khá được, nhưng hào tài thường hay luân chuyển, con cũng hiếm muộn, vợ hay đi nhưng thường giúp chồng trên bước công danh. Kết hôn với tuổi Nhâm Ngọ: Thời gian đầu nghèo thiếu, nhưng sau được hiển vinh, tánh chồng vợ thường có sự xung khắc, nên kiên nhẫn thì thành công to, con rất hiếm muộn. Kết hôn với tuổi Ất Dậu: Tuổi nầy hoàn toàn tốt đẹp trong mọi lãnh vực, hào tài nhiều, danh vọng cao, con cái tốt, giúp cho cuộc đời đầy đủ êm ấm, hạnh phúc. Nhưng nếu đã lỡ thương yêu nhau nhằm những tuổi nầy thì bạn chỉ có một cuộc sống trung bình, không dư dả và cũng không thiếu kém, đó là những tuổi: Giáp Thìn và Mậu Dần. Những tuổi này cũng có sự trùng hợp, nhưng không làm cho cuộc sống được phát đạt trên mọi mặt. Khi gặp những tuổi nầy, thì cuộc đời bạn sẽ có nhiều buồn khổ hơn, sống trong cuộc thiếu thốn triền miên, vì tuổi hai người không có phúc đức, nên ít hưởng lộc. Đó là các tuổi: Mậu Thìn, Giáp Tuất, Canh Thìn. Những năm mà bạn có nhiều đại kỵ, không nên lựa chọn hôn nhơn, vì sự lựa chọn hôn nhơn sẽ đem lại nhiều lo âu, đau buồn mà còn làm cho cuộc sống thiếu cả sự sống, đó là những năm mà tuổi bạn ở vào 17, 21, 23, 29, 33, 35 và 41 tuổi. Nếu bạn phạm vào những tuổi trên, bạn đã có hôn nhân, bạn phải lâm vào tình trạng xa vắng, hay gặp nhiều buồn phiền. Bạn sanh vào những tháng này có phần đa thê và hay có sự đau khổ về đ àn bà, đó là những bạn sanh vào tháng 1, 2, 3, 4, 8 và 9. Nếu bạn lỡ sanh vào những tháng kể trên sẽ có nhiều vợ và hay khổ tâm vì đàn bà.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Sự sống lứa đôi là một điều quan trọng, nó liên quan mật thiết đến cuộc sống hằng ngày và cho cả một cuộc đời. Những tuổi mà không bao giờ có thể kết hợp lương duyên và có thể xảy ra nhiều đau buồn nhất, đó là những tuổi được kể ra sau đây: Đinh Sửu, Kỷ Mão, Tân Mùi, Quý Mùi. Tuổi Đinh Sửu, tuổi này ở với nhau sanh cảnh biệt ly; Kỷ Mão, sự chết chóc trong vòng một năm (tuyệt mạng); Tân Mùi (biệt ly); Quý Mùi (biệt ly). Những tuổi trên đây không làm cho cuộc sống đầy hạnh phúc mà trái lại có nhiều đau buồn hơn, nên tránh được là một điều tốt. Tuổi Bính Tý có nhiều tuổi đại kỵ, nếu gặp trong sự hợp tác làm ăn hay trong việc lương duyên, nên xem sao hạn cho cả hai người mà cúng vái Phật Trời hay cầu nguyện cho được phúc đức. Không nên bỏ qua sẽ có ảnh hưởng lớn. Thí dụ như năm Bính Ngọ, tuổi Bính Tý gặp sao Thái Bạch hay Thiên Tinh thì cúng ngày 15 dùng 7 ngọn đ èn, 7 chén nước lã lạy về hướng Tây. Cách cúng vái: Đốt nhang ba cây, quỳ trước bàn cúng, vái tên họ, tuổi, sao gì? Niệm ba lần: Nam Mô A Di Đà Phật – Nam Mô Cửu Diện Quân Cập Đại Tiểu hạn tôn thần quang giảng đạo trần chứng minh. Cách cúng sao: Bình bông tươi, nước dừa hay nước trà, cháo trắng, nhang đ èn. Và tùy theo năm mà cúng, vì mỗi năm sao hạn đều thay đổi.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Bính Tý thuộc mạng Thủy, tánh tình hiền hòa và rộng rãi. Tuy nhiên trong cuộc đời có nhiều sự khổ tâm không ít về cuộc sống, những năm khó khăn nhất trong cuộc đời hao tiền tốn của, đau bịnh liên miên hay thất bại công việc đến nỗi buồn chán nhất, đó là những năm bạn ở vào những tuổi: 24, 27, 33, 38, 45. Những năm này bạn nên cẩn thận, dè dặt kẻo gặp nhiều rắc rối cho cuộc đời bản thân hay cả cuộc sống.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Mạng Thủy xuất hành vào những ngày chẵn, nhưng lựa giờ lẻ tháng chẵn và có thể xuất hành như trên trong suốt cuộc đời luôn luôn được nhiều may mắn. Ngoài những sự trùng hợp trên thì ít khi có được những thành công vĩ đại.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 31 đến 33 tuổi: Những năm này bạn gặp sao hạn, có thể làm cho bạn có nhiều thiệt hại, có thể bị đau bịnh hao tài tốn của, hay gặp tai nạn bất ngờ, nhưng song song bạn có nhiều thành công về tài lộc, tình cảm có phần vượng phát mạnh mẽ, công việc làm ăn được trôi chảy hoàn toàn, nhưng tiền vô ra bất thường, ít khi gặp cảnh túng quẫn. Cố gắng vượt qua ba năm nầy.

Từ 34 đến 37 tuổi: Vượt được qua tuổi 33 thì công danh có phần lên cao tột độ, tiền bạc ở những năm nầy rất dễ chịu, làm đâu được đó, số phú quý nhưng lại gặp nhiều tai nạn hay những trở lực trong cuộc đời. Ảnh hưởng của cuộc sống liên quan đến công danh. Thời gian ba năm nầy hoàn toàn tốt đẹp.

Từ 38 đến 41 tuổi: Bạn vẫn hưởng một cuộc sống hay đẹp hoàn toàn cho đến tuổi 41 thì lại có sụp đổ đôi chút, năm nầy cũng nên đề phòng rủi ro, hay tù tội, bạn nên cẩn thận vào tuổi 41 hơn những năm khác. Ngoài sự hao tài tốn của, còn có sự sụp đổ đôi chút về công danh. Ngoài tuổi 41, những năm khác trung bình.

Từ 42 đến 47 tuổi: Vượt được tuổi 41 bước qua 42 và cho đến 47, gia đạo êm ấm, việc làm ăn phấn chấn, mọi công việc đều có thể tiến triển khả quan, chỉ có những chuyện xảy ra nhỏ nhặt về con cái, gia tộc mà thôi. Ngoài ra vào tuổi 45 có tang khó trong gia tộc.

Từ 48 đến 52 tuổi: Bốn năm sau cùng của cuộc đời lại xảy ra nhiều hoàn cảnh phân ly. Sự đau buồn lặng đi trong tâm não, mang nhiều chứng bệnh nan y, khó thoát được qua tai nạn, cảnh biệt ly như gần kề trong cuộc sống. Đến những khi nầy, nên vái Trời Phật, nếu có đạo thì nên cúng kiến cầu nguyện cho được phúc đức hy vọng sống thêm.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Tý

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Bính Tý nam mang chi tiết

Khi mua nhà cũ cần phải tìm hiểu thật kỹ –

Ngày nay, cùng với tốc độ phát triển đô thị ngày càng nhanh, lượng giao dịch nhà ở củng vì thế mà tăng theo, trong đó tỉ lệ giao dịch mua bán nhà cũ cũng ngày một lớn. Khi mua nhà cũ nếu như không lựa chọn thận trọng sẽ ảnh hưởng đến gia đình và sự n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ghiệp, sau khi mua xong vào ở, nếu vận khí không tốt lại phải bán đi, không những thua lỗ về mặt tiền bạc, mà nó còn gây nhiều ảnh hưởng xấu không thể lường hết được. Đế tránh những tổn thất không đáng có, khi mua nhà cũ đã qua tay sử dụng, bạn có thể tìm hiểu về những phương diện sau đây:

dieu-can-biet-mua-nha_dataland

(1)    Tìm hiểu nguyên nhân bán nhà

Chú nhà cũ phái chăng đã xảy ra tình hình bất lợi như là gặp chuyện thương vong khi ở nhà đó, tìm hiểu tình hình về sự nghiệp, gia đình, vận khí của họ trong thời gian ở trong nhà dó, tìm hiểu nguyên nhân bán nhà là vấn dề rất quan trọng.

(2)    Tìm hiểu bố cục thiết kế nhà

Vì nhà cũ thường có bố cục thiết kế không hợp lý nên phải hết sức lưu ý. Bố cục không tốt, ví dụ như cửa mở ra đối diện với ban công, cửa phòng bếp đối diện với cửa sổ, cửa phòng vệ sinh đối diện với cửa sổ là kiểu bố cục không tụ tài, nếu gặp lúc vận nhà đương vượng thì của cải vào và cũng ra khỏi nhà nhiều, gặp lúc vận nhà suy, của cải vào nhà thì ít, ra khỏi nhà thì nhiều, gia đình sẽ lụi bại. Còn phải xem xét đến vị trí của phòng bếp và phòng vệ sinh, nếu như vị trí hai không gian này không hợp lý nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người trong nhà.

(3)    Tìm hiếu môi trường xung quanh

Khi mua nhà cũ phải xem xét kỹ các vấn đề môi trường xung quanh nhà và quan hệ hàng xóm. Điểm cốt yếu của phong thuỷ là trời, đất  và con người hoà hợp nhau, vì môi trường khu vực có nhà cũ lộn xộn hơn so với khu vực nhà mới xây cất. Nhân tố môi trường có quan hệ trực tiếp đến sự tốt xâu của chất lượng cuộc sống người ở sau này.

(4)    Tìm hiểu vận suy, vượng của nhà

Nhìn từ góc độ phong thuỷ học thì đây là một trong những khâu rất quan trọng, cũng là mấu chốt của sự thay đổi vận khí tốt hay xấu trong nhà sau khi bạn đến ở. Hiện tại đa số nhà cũ bán là nhà 7 vận (1984 ~ 2003), từ năm 2004 bắt đầu tiến vào nhà 8 vận (2004-2023). Khi chủ cũ mua nhà, lúc đó tài vận của nhà đang vượng, nhưng khi người đó bán nhà đi nó đã bắt đầu chuyển sang vận suy. Mua được nhà đã đến vận suy vận khí không tôt. Cho nên khi mua nhà cũ xem vận nhà suy hay vượng là việc không thể xem nhẹ.

Dưới đây là số các sơn hướng, địa vận:

Cung càn (hướng Đông Nam) có Thìn sơn hướng Tuất, càn sơn hướng tốn, Hợi sơn hướng Tị, địa vận 160 năm; cung đoài (hướng đông) có canh sơn hướng Giáp, Dậu sơn hướng Mão, Tân sơn hướng Ât, địa vận 140 năm; cung cấn (hướng Tây Nam) có Sửu sơn hướng Mùi, cấn sơn hướng khôn, Dần sơn hướng Thân, địa vận 120 năm; cung ly (hướng Bắc) có Bính sơn hướng Nhâm, Ngợ sơn hướng Tý, Đinh sơn hướng Quỹ, địa vận 100 năm; cung khảm (hướng Nam) có Nhâm sơn hướng Bính, Tý sơn hướng Ngọ, Quý sơn hướng Đinh, địa vận 80 năm; cung khôn (hướng Đông Bắc) có Mùi sơn hướng Sửu, khôn Sơn hướng cấn, Thân sơn hướng Dẫn, địa vận 60 năm; cung chấn (hướng Tây) có giáp sơn hướng canh, Mão sơn hướng Dậu, Ất sơn hướng Tân, địa vận 40 năm; cung tốn (hướng Tây Bắc) có chân sơn hướng Tuất, tốn sơn hướng càn, Tị sơn hướng Hợi, địa vận 20 năm.

(5)   Tránh nhà cũ có trở ngại về phong thủy

Tại sao có những ngôi nhà chí vừa bước vào thôi đã cảm thấy như ngồi trước gió xuân, nhưng cúng có ngôi nhà khi bước vào tinh thần cảm thấy ngột ngạt, ức chế, đứng ngồi đều không yên? Đây chính là sự khác nhau xấu tốt về bố cục. Bố cục 4 bề rộng thoáng, sáng sủa, bài trí hài hoà là kiểu nhà để bạn lựa chọn. Nhưng nếu gặp những loại nhà dưới đây thì nên xem xét.

–    Tiền thông hậu thống, nhân tài lưỡng không

Cửa nhà tạo với ban công thành một đường thẳng phải dùng bình phong hoặc huyền quan ngăn cách, vì trước sau thông nhau có thể nhìn thấu từ cửa vào qua ban công, ngạn ngữ có câu: “Tiền thông hậu thông, nhân tài lưỡng không”. Hơn nữa gió vì thế có thể thổi mạnh xuyên qua nhà dễ làm cho người ở trong nhà sinh bệnh.

–    Cửa nhà đối diện với thăng điện hoặc cầu thang bộ.

Cửa nhà đối diện với thang điện hoặc cầu thang bộ là phạm xung, vốn nhà là nơi tụ khí dưỡng sinh, nếu như để cửa đối diện với thang điện hoặc cầu thang bộ thì sinh khí trong nhà sẽ bị hút đi hết, như vậy là đại kị. Phương pháp bổ cứu là dùng bình phong hoặc huyền quan ngăn cách.

–      Bố cục kiếm xuyên tim.

Nếu như cửa chính của nhà đối diện thắng với trục hành lang, đây cũng là xung sát, hành lang càng dài, nhà càng bất lợi, đây gọi là bố cục kiếm xuyên tim, nếu không dùng bình phong ngăn chặn thì không nên ở trong nhà này.

–      Bố cục lọt khí

Nếu cửa số mở ra bên ngoài là hành lang thì đó thuộc bố cục lọt khí, với những không gian có tính riêng tư kín đáo, như vậy là không thể được, đối với nhà ở chung như vậy cũng gây bất lợi. Ngoài ra, nhà có quá nhiều cứa sổ cũng xếp vào loại bố cục lọt khí, nhưng nếu quá ít cửa sổ thì lại thiếu sinh khí, đều không thuộc cát, cần được thay đổi.

Cửa chính nhà không được đối diện với cửa phòng vệ sinh. Ngoài ra, cứa phòng ngủ và cửa phòng vệ sinh cũng không được đối diện nhau, phòng ngủ và cửa phòng ngủ không được đối diện thắng nhau, những bố cục như vậy đều phạm môn xung.

Cửa phòng vệ sinh và cửa phòng bếp không được bố trí kề nhau. Nếu bố trí hai loại cửa này kế nhau thì cửa phòng vệ sinh phải được đóng kín thường xuyên, tránh ô nhiễm cho phòng bếp.

–      Trần nhà nên thiết kế cao

Trong phòng ngủ, phòng khách hoặc phòng ăn nếu có xà nhà thì phải nhớ không được để xà nhà chiếu thẳng xuống giường và chỗ ghế ngồi, hơn nữa trần nhà nên thiết kế cao chứ không nên thấp.

–      Cố gắng tránh có nhiều góc

Bên trong nhà cố gắng đừng để có quá nhiều góc nhọn, nhiều nhà cao tầng hiện đại, phòng khách có hình lăng trụ, thường xuất hiện nhiều góc trong phòng, như vậy không những có sát khí mà còn làm cho phòng khách mất đi sự hài hòa thống nhất. Nếu xuất hiện tình hình này nên dùng tủ che chắn các góc lại. Trường hợp không thể đặt được tủ thì có thể bố trí chậu cây cảnh vào vị trí góc, như vậy có thể làm tiêu giảm sự ảnh hưởng của góc nhà đối với phong thuỷ phòng khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi mua nhà cũ cần phải tìm hiểu thật kỹ –

Hóa giải sao chiếu theo năm và kích hoạt tài lộc, sức khỏe

Sao theo năm còn gọi là phi tinh lưu niên. Có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, tài lộc và cả công việc cũng như học tập. Do vậy cần xác định chính xác và hóa giải sao xấu kích hoạt sao tốt.
Hóa giải sao chiếu theo năm và kích hoạt tài lộc, sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.    Tình huống hóa giải sao theo năm và kích hoạt công danh, sự nghiệp, học hành thi cử.   - Phong thủy huyền không Phi tinh là một trường phái phong thủy rất thịnh hành tại triều đại Nhà Thanh (Trung Quốc). Trường phái này dựa trên sự di chuyển của 9 ngôi sao ( gọi là cửu tinh ) để luận cát, hung của 1 ngôi nhà, làng mạc, thành phố, đất nước, theo tiểu vận (20 năm), theo niên vận (năm), theo nguyệt vận (tháng), theo nhật vận (ngày), theo thời vận (giờ). 9 ngôi sao này bao gồm: Sao nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử. Trong đó có 3 ngôi sao tốt: Nhất bạch, Lục bạch, Bát bạch – chủ về tài lộc, công danh; 3 ngôi sao xấu: Ngũ hoàng, Tam bích, Nhị hắc – chủ về bệnh tật, kiện tụng, thị phi; các sao còn lại thì bình thường, tùy thuộc vào thời gian đương vận hay qua vận mà các sao này có tính chất tốt xấu khác nhau. Tuy nhiên các sao tốt, xấu nói trên đều thể hiện được bản chất của các sao, đặc biệt sao Tứ lục chủ về học hành thi cử nên có tác dụng tăng cường về khoa bảng.

- Xét về Phi tinh theo năm, cứ mỗi năm lại có một sao chủ quản của năm đóng tại trung tâm và phi thuận theo quỹ đạo nhất định ( gọi là lường thiên xích), do đó khi các sao tốt, hay xấu di chuyển đến đâu thì ở đó một là có dòng khí tốt ( cần được kích hoạt để đón nhận những dòng khí tốt mang lại tài vận cho ngôi nhà trong năm đó), hoặc các dòng khí xấu ( cần được hóa giải để khắc chế các dòng “hung khí” nhằm chế sát tính hung dữ và mang lại bình yên cho ngôi nhà).   2.  Tính chất vượng suy của cửu tinh: 1. Sao Nhất Bạch: Gọi là sao Tham lang, là Khôi tinh. - Vượng thì chủ về học hành thi cử, đỗ đạt cao, công danh, tiến tài, tiến lộc - Suy thì mắc các bệnh về bang quang, tai, thận, tử cung, hình khắc vợ

2. Sao Nhị Hắc: Gọi là sao Cự môn, là Bệnh tinh. - Vượng thì phú quý, phát võ, phụ nữ mưu lược và làm chủ gia đình. - Suy thì kiện tụng, tai nạn, hỏa hoạn, bệnh tật.

3. Sao Tam Bích. Gọi là sao Lộc tồn, Tụng tinh - Vượng thì chủ về công danh, hỷ sự - Suy thì tranh chấp, kiện tụng, bệnh tật huyết, gan, chân tay.

4. Sao Tứ Lục. Gọi là sao Văn khúc,  Văn xương tinh - Vượng thì khoa bảng, thi cử, công danh sách vở, khoa học nghệ thuật - Suy thì bệnh hen, máu, gan, tửu sắc, sẩy thai.

5. Sao Ngũ Hoàng. Gọi là sao Liêm trinh, Hỏa tinh - Vượng thì sự nghiệp hưng thịnh - Suy thì Kiện tụng, thị phi, đấu tranh nội bộ, bệnh tật, bệnh dịch, bất hòa, hao tổn người.

6. Sao Lục Bạch. Gọi là sao vũ khúc, Quyền tinh - Vượng thì Đinh tài lưỡng vượng, công danh quyền uy. - Suy thì tranh chấp quan trường, tai họa do kim khí gây ra, khắc vợ con.

7. Sao Thất Xích. Gọi là sao Phá quân - Vượng thì phát tài, hỷ sự, thăng tiến, đào hoa, may mắn - Suy thì trộm cướp,kiện tụng, lao ngục, mắc bệnh về đường hô hấp.

8. Sao Bát Bạch. Gọi là sao Tả phù, Điền tinh - Vượng thì phát về điền sản, công danh phú quý, phúc thọ. - Suy thì bệnh tật, đau chân tay, đau sống lưng.

9. Sao Cửu Tử. Gọi là sao Hữu bật, phúc thọ tinh - Vượng thì phát phúc, tăng tuổi thọ, tăng nhân đinh, học hành - Suy thì hay gặp tai nạn bất ngờ, đau mắt, bệnh tim, huyết.   3.    Hóa giải sao xấu và kích hoạt sao tốt - Hóa giải tính hung dữ của sao Ngũ hoàng, Nhị hắc thì cần treo chuông gió bằng đồng ( phong linh 6 ống), 1 đôi tỳ hưu bằng đồng, xâu tiền Ngũ đế, Hồ lô bát tiên. - Hóa giải sao tính hung dữ của sao tam bích cần sử dụng màu sắc là đỏ (đèn giấy màu đỏ, thảm đỏ..), chuông gió 6 ông bằng đồng, 1 đôi tỳ hưu. - Kích hoạt Sao Tứ lục cho việc học tập thi cử cần sử dụng 1 quả cầu thạch anh, 1 tháp văn xương. -  Kích hoạt việc mang lại tài lộc, công danh của 3 sao: Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch ta cần đặt 1 đôi tỳ hưu bằng đồng hoặc đá, Thiềm thừ, Thanh long.                    

6.Lục Bạch ĐN     2. Nhị Hắc Nam 4. Tứ Lục TN
5.Ngũ Hoàng Đông     7. Thất Xích Trung tâm 9. Cửu Tử Tây
1. Nhất Bạch ĐB     3. Tam Bích Bắc 8. Bát Bạch TB
Phi tinh theo năm 2011 Lưu ý: + Các vật phẩm phong thủy cần phải được khai quang đúng cách và chọn ngày giờ đặt đúng vị trí thì mới có tác dụng.             + Đá phong thủy có nhiều loại đá năng lượng kém ( do khai thác ở dạng non nên năng lượng không đủ để hóa giải), nên cần tìm đến nơi bán đá uy tí hay nhờ người am hiểu về năng lượng của đá để chọn được loại đá tốt nhất, đá phong thủy cần được tẩy rửa năng lượng xấu và trì chú phật pháp vào trong đá để mang lại may mắn.   4.    Trường hợp thực tế   3.1. Tìm vị trí ngồi học cho cháu nhỏ - Một gia đình tại hà nội có nhờ tác giả đến xem chỗ ngồi cho cô con gái nhỏ học lớp 1. Gia đình chủ nhà có nói là cháu nhỏ học thường không tập trung và học nhanh quên, kết quả học tập của kỳ đầu năm lớp 1 rất kém. Khi tác giả xem xét vị trí ngồi học của cháu nhỏ thì thấy có 2 sao của sao sơn và sao hướng tạo thành cặp sao 2 – 3, đây là cặp sao xấu (tụng đình) sự kết hợp của sao này trong vận 8 trở nên rất xấu với tính chất gây bệnh và thị phi. Kết hợp với phi tinh năm 2009 thì vị trí ngồi học của cháu nhỏ lại gặp sao thất xích. Như vậy cháu nhỏ không thể tập trung học được và hay bị phân tán tư tưởng.

- Tác giả sau khi xem xét đã chuyển bàn học sang phòng có cặp số sao 1-6 ( đây là cặp số sao Thôi quan – sẽ kích thích con đường học tập và thăng tiến), vị trí ngồi học mới lại có sao Tứ lục của năm, kết hợp với hướng ngồi tốt.

- Kết quả: Sau 1 tháng cháu bé đã có kết quả học tập rất tốt. Hiện năm 2011 cháu bé đang học lớp 3 và luôn luôn có thành tích học tốt.   3.2. Hóa giải sao Ngũ hoàng tại phòng ngủ của cậu con trai học cấp II

- Một gia đình tại hà nội có nhờ tác giả xem phong thủy nhà ở và nói với tác giả không hiểu sao từ đầu năm 2011 đến bây giờ (tháng 2) mà cậu con trai hay bị ốm đau, hay ho, uống nhiều thuốc vẫn chưa khỏi, học hành không tập trung.

- Tác giả kiểm tra tại phòng học của cháu bé thì phát hiện năm nay tại phòng học của cháu bé có sao Ngũ Hoàng đóng tại phòng ngủ và bàn học. Xét cặp sao trong vận 8 thì thấy cặp sao 1 – 8.

- Tác giả dùng 1 chuông gió 6 ống treo tại cửa sổ phòng ngủ của cháu bé, dùng một đôi tỳ hưu bằng đồng (được khai quang) đặt trên tủ nhìn ra ngoài cửa sổ, đặt một hồ lô bát tiên bằng đồng trên cửa sổ, đặt một tháp văn xương bằng đồng (được khai quang) tại bàn học, và bàn học được kê lại để lấy hướng. Đặt 1 quả cầu thạch anh trắng trên bàn học của cháu bé.

- Kết quả sau 2 tuần mẹ cháu bé điện báo cho tác giả biết là cháu hết ôm đau và học hành tập trung hơn. Mẹ cháu bé nói rằng “ phong thủy sao kỳ diệu thế”. Tác giả có đáp lại là chỉ cần mấy thứ đó để hóa giải tính hung dữ của sao Ngũ Hoàng là sẽ thay đổi ngay. Và đến tháng 11 năm 2011 mẹ cháu bé điện lại là tình hình học tập và sức khỏe của cháu bé rất tốt.   Trần Nhất Nam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải sao chiếu theo năm và kích hoạt tài lộc, sức khỏe

Quẻ Quan Âm: Nữ Oa Luyện Thạch

Nữ Oa đội đá vá trời là quẻ Quan Âm thứ 63 trung bình cung Mão, ý quẻ nói mọi việc phải làm từ gốc rễ, nếu không thì uổng phí công sức như mò kim đấy bể
Quẻ Quan Âm: Nữ Oa Luyện Thạch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 63 được xây dựng trên điển cố: Nữ Oa luyện thạch – hay Nữ Oa đội đá vá trời.

Quẻ này cung Mão, là quẻ trung bình. Phúc là nền móng của tài lộc, tài lộc là hạt giống của phúc, hai cái đó có quan hệ tương hỗ với nhau, nếu đã hiểu rõ được như vậy thì nên cẩn thận mà vun đắp, gìn giữ. Nếu không cũng giống như việc mò kim đáy bể, việc mong cầu đều uổng phí công sức bởi gốc rễ không được giải quyết.

Thử quái hài trung tầm trâm chi tượng. Phàm sự phí tâm lao lực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Nữ Oa luyện thạch

Thời viễn cổ, bộ lạc của Hoàng Đế và bộ lạc của Viêm Đế cùng sinh sống ở một vùng đất rộng lớn. Chuyên Húc là con cháu của Hoàng Đế, Cộng Công là con cháu của Viêm Đế, hai bộ lạc trong quá trình chung sống với nhau, khó tránh khỏi việc nảy sinh mâu thuẫn.

Cộng Công giỏi việc cày cấy. Một hôm, ông cùng con trai là Hậu Thổ đi khảo sát tình trạng đất đai của bộ lạc, phát hiện có vùng đất không được bằng phẳng, mùa khô không có nước, mùa mưa lại dễ bị ngập úng. Cộng Công liền đề xuất, lấy đất ờ chỗ cao chuyển xuống chỗ thấp, san bằng những chỗ đất trũng, làm như vậy không những có thể mở rộng được diện tích canh tác, mà còn có lợi cho thủy lợi tưới tiêu, thực là vẹn cả đôi đường.

Nhưng Chuyên Húc lại không tán thành cách làm của Cộng Công. Chuyên Húc cho rằng, trong hai bộ tộc, mình mới có quyền uy tối cao, Cộng Công đề xuất chủ trương như vậy là đã phạm vào quyền uy của Chuyên Húc, do vậy nhất quyết bác bỏ kế hoạch của Cộng Công. Cộng Công không hài lòng với Chuyên Húc, vì thế Cộng Công giao ước vói các thiên thần vốn đã không hài lòng với Chuyên Húc, cùng nhau lật đổ sự thống trị của Chuyên Húc. Và một cuộc chiến tranh ác liệt đã nổ ra.

Hai đội quân từ trên trời đánh xuống hạ giới, lại từ hạ giới đánh lên trên trời, chỉ thấy trời đất tối tăm, nhật nguyệt biến sắc. Dần dần, người ngựa của Cộng Công càng ngày càng ít ỏi, mà đội ngũ của Chuyên Húc càng lúc càng lớn mạnh. Thái Phùng hình người đuôi hổ, Kế Mông đầu rồng mình người và Kiêu Trùng hai đầu đã thống tĩnh loài ong độc và bọ cạp độc, cũng đến trợ giúp cho Chuyên Húc. Sau mấy ngày giao chiến, Cộng Công bị Chuyên Húc truy sát đến chân núi Bất Chu ờ phía tây bắc, bên cạnh Cộng Công chỉ còn lại mười ba kị sĩ.

Thế núi của núi Bất Chu cao vời vợi, là một cây cột lớn chống trời. Đây cũng là vật tượng trưng và chống đỡ quan trọng để Chuyên Húc duy trì sự thống trị trong vũ trụ. Lúc này Cộng Công đã thất vọng cùng cực, ý chí mạnh mẽ khi trước đã tiêu tan hết. Tiếng hò reo, tiếng dụ hàng vang vọng bên tai không dứt. Cộng Công tuyệt vọng gầm lên một tiếng lớn, lắc mạnh đầu, lao người về phía núi Bất Chu. Chỉ nghe một tiếng động long trời lở đất, ngọn núi Bất Chu chống giữ trời đất đã bị ông húc gãy đoạn giữa, đố sụp xuống.

Trụ trời đã đổ, bầu trời phía tây bắc mất đi vật chống đỡ, nghiêng hẳn xuống. Các vì sao trên trời lệch ra khỏi quỹ đạo, va vào nhau, lửa cháy rực trời; các dòng sông trên mặt đất đổi dòng, nước biển sôi sùng sục. Con người hoặc là bị lửa thiêu chết, hoặc là bị nước dìm chết, khắp nơi tiếng khóc động tròi. Khi mặt trời xuất hiện, mặt trời rừng rực mất đi vật che chắn, giống như lửa thiêu đốt trên mặt đất, rất nhiều người đã bị mặt trời thiêu chết.

May sao có thiên thần Nữ Oa đi qua, trông thấy chúng sinh phải chịu khổ nạn như vậy, liền quyết định luyện đá vá trời, để cứu vớt những sinh linh trên mặt đất.

Trước tiên Nữ Oa dùng chân rùa biển làm thành cây cột chống trời ờ bốn phương, khai thông dòng nước lớn đang chảy tràn lan, sau đó sai các vị tiên đi lấy đá ngũ sắc về. Bà đem luyện những viên đá ấy, rồi đem vá trời. Không lâu sau, bầu trời lại được phục hồi như cũ, con người không còn bị mặt trời nóng bỏng thiêu đốt nữa. Nữ Oa đã dùng ba mươi sáu nghìn năm trăm linh một hòn đá ngũ sắc để vá trời, chúng còn hình thành nên cầu vòng và ráng mây nhiều màu sắc.

Từ đó, con người lại có thể an cư lạc nghiệp, khắp nơi thái bình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Nữ Oa Luyện Thạch

Các lễ hội ngày 20 tháng 3 Âm Lịch - Hội Tháp Bà

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 20 tháng 3 âm lịch gồm có: Hội Sáo Đền, Hội La Vân, Hội Tháp Bà, các lễ hội trong tháng 3 âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 20 tháng 3 Âm Lịch - Hội Tháp Bà

Các lễ hội ngày 20 tháng 3 Âm Lịch - Hội Tháp Bà

1. Hội La Vân

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: Bà chúa Bèo Dâu, Quốc Sư Nguyễn Minh Không là thành hoàng làng.

Nội dung: Mở đầu hội là phần rước nước, rước thành hoàng làng, rước thánh tiếp theo là phần trình diễn nghề cấy bèo dâu truyền thống, đấu vật, múa lân, cờ tướng.

2. Hội Sáo Đền

Thời gian: tổ chức từ ngày 20 tới ngày 27 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Song An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Dụ Vương Ngô Từ và bà Đinh Thị Ngọc Kế, bà Ngô Thị ngọc Dao (mẹ của vua Lê Thánh Tông).

Nội dung: Sáo Đền được biết đến với trò chơi thả diều độc đáo. Cũng như mọi lễ hội khác, ngoài phần lễ là phần hội. Phần hội với đủ các trò chơi như: chọi gà, cờ người, bắn cung, bắt vịt... và trò thi diều sáo. Đã từ hàng trăm năm nay luật chơi không hề thay đổi. Người chủ diều chọn đúng hướng gió kéo dây. Ban tổ chức cắm hai cây sào trên đầu có buộc hai lưỡi mác rất bén, cắm hai cây sào đó hai bên dây diều, khoảng cách của hai cây sào là 50cm. Việc đó được làm với tất cả cánh diều nào vào cuộc thi. Khi nghe hồi trống lệnh nổi lên, các chủ diều chỉnh diều kéo căng dây và đâm lên. Cánh diều nào không chuẩn đảo qua đảo lại, dây diều sẽ chạm phải hai lưỡi mác trên hai ngọn sào là đứt dây ngay. Như vậy cánh diều đó bị loại khỏi cuộc chơi, cứ thế diều nào đậu được đến ngày cuối cùng của hội thì chủ diều đó đoạt giải. Những người cao tuổi trong làng cho biết: mỗi năm chỉ duy nhất một người đoạt giải, có năm không có ai đoạt được giải diều. Thi diều phải nhờ ở gió trời, vậy mà có năm vào ngày hội mà không có gió trời hoặc gió không đủ mạnh để đâm diều sáo, đến ngày 25 mà vẫn không có gió, sáng 26 là chính hội gió chỉ hiu hiu. Mọi người đến với lễ hội đã biểu hiện tâm trạng buồn vì có lẽ năm nay không được thi và xem thi thả diều. Nhưng đúng 11 giờ 15 phút trưa ngày 26 năm đó bắt đầu có từng cơn gió và sang đầu chiều gió đã đủ để tổ chức hội thi diều. Quả thực điều này khiến nhiều người phải ngạc nhiên, khó giải thích, theo các cụ nói đó là ''gió thần'', vậy là nhờ ''gió thần'' hội Sáo Đền không năm nào bị gián đoạn.

Diều được giải nhất ngoài việc đậu đến hết hội ở giữa hai lưỡi mác thì sáo diều phải thật hay. Sáo hay là bộ sáo gồm 2 sáo trở lên, tiếng sáo trong trẻo, âm thanh giữa các sáo trong bộ sáo phải phối hợp cho nhau hài hoà, ngọt ngào, du dương... Nói về sáo, ngày xưa chơi diều còn buông bằng dây tre, làm cánh diều khung bằng 4 cây tre nối lại. Bộ sáo của chiếc diều có 2 chiếc. Chuyện còn kể lại rằng khi diều bổ xuống cánh đồng, chủ diều chưa kịp mang về, có người ăn xin đã chui được lọt vào chiếc sáo to của diều đó ngủ. Câu chuyện này được người dân nơi đây lấy làm tự hào và luôn kể cho khách thập phương về dự lễ hội.

3. Hội Tháp Bà

Thời gian: tổ chức từ ngày 20 tới ngày 23 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: Khu tháp Pô Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Đối tượng suy tôn: Nữ thần Mẹ xứ sở (người Chăm).

Nội dung: Lễ hội diễn ra từ ngày 20 đến 23 tháng 3 Âm lịch hàng năm, gồm những nghi thức chính sau:

- Lễ thay y: được tiến hành đúng giờ Ngọ ngày 20 tháng 3. Vị chủ tế dâng trầm hương, nhang, hoa, trái cây và khấn vái. Các thành viên trong đội thay y thực hiện việc sắp xếp đồ lễ trong dinh và cởi xiêm y, mũ miện để tắm tượng. Nước dùng để tắm tượng được nấu từ rượu với nước và các cánh hoa có mùi thơm (5 loại). Sau khi tắm, tượng Mẹ được mặc xiêm y và mũ miện mới do người dân dâng cúng. Những bộ xiêm y sau khi thay được giặt sạch, rồi đưa ra trưng bày để du khách và nhân dân chiêm ngưỡng. Nước và khăn dùng để tắm tượng cho Mẹ xong được người dân xin về để lấy phước hoặc rửa mặt hay tắm cho trẻ con, hoặc tưới lên ghe thuyền, ... với mong muốn để trừ tà, trẻ con hay ăn và khỏe mạnh, người bệnh mau lành, những ghe, thuyền ra khơi gặp nhiều may mắn, ...

- Lễ thả hoa đăng: diễn ra từ 19 giờ đến 21giờ ngày 20 tháng 3. Nến và hoa được thả trên sông để cầu siêu cho các vong linh, với hơn mười ngàn chiếc hoa đăng nhỏ và năm hoa đăng lớn ...

- Lễ cầu quốc thái dân an: bắt đầu từ 6 giờ đến 8 giờ ngày 21 tháng 3, do Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Khánh Hòa thực hiện. Đây là đại lễ cầu cho đất nước thanh bình, phồn vinh, nhân dân an vui, hạnh phúc.

- Lễ cúng Ngọ, cúng thí thực: diễn ra từ 12 giờ đến 12 giờ 30 ngày 21 tháng 3 tại ngôi tháp chính, để dâng Mẫu và bố thí cho các cô hồn …

- Tế lễ cổ truyền: diễn ra từ 4 giờ đến 6 giờ ngày 23 tháng 3, do các cụ hào lão đình Cù Lao dâng lễ theo nghi thức cổ truyền, rất trang nghiêm.

- Lễ Khai Diên, lễ Tôn Vương: diễn ra từ 6 giờ đến 9 giờ ngày 23 tháng 3. Sân lễ được dựng trước Mandapa (tiền đình), mặt hướng vào điện thờ Đức Thánh Mẫu. Vật phẩm dâng cúng gồm có: hương đăng, trầu cau, rượu, vàng bạc, một phong bì đựng tiền (tiền này không bắt buộc, cúng nhiều ít là do Ban Tổ chức) và một khay để hai roi chầu. Hát thứ lễ là hát cúng Bà và hát cho thần linh xem, do các đoàn Hát Bội thực hiện. Trong lúc diễn, yêu cầu diễn viên phải diễn nghiêm túc và tích tuồng được diễn cũng phải được chọn lựa và theo dõi gắt gao. Lễ Tôn Vương được cử hành rất trang trọng trước khi tuồng kết thúc và trở thành một lệ bắt buộc phải có khi hát ở lễ hội Tháp Bà.   

- Lễ Dâng hương tạ Mẫu: diễn ra từ 23 giờ đến 24 giờ ngày 23 tháng 3, để dâng hương đăng lễ tạ Mẫu.

- Múa Bóng và hát Văn: diễn ra trong suốt các ngày lễ hội. Một mùa lễ hội, trong và ngoài tỉnh có khoảng hơn 100 lượt đoàn vào tháp dâng lễ Mẫu, sau đó biểu diễn múa Bóng và hát Văn ở sân khấu trước tháp chính. Trong những ngày diễn ra lễ hội còn có những buổi biểu diễn các tích tuồng cổ liên quan đến Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Múa Bóng là một hoạt động đặc sắc trong lễ hội Tháp Bà. Đến nay, Múa Bóng vẫn được người dân Nha Trang duy trì thực hiện trong các ngày lễ. Theo các cụ hào lão, ngày xưa xóm Bóng là nơi các vũ nữ Chăm về ở để biểu diễn Múa Bóng tại di tích và Lễ hội Tháp Bà. Tuy nhiên, ngày nay các đoàn người Chăm về dự lễ hầu như chỉ hành lễ mà ít tham gia Múa Bóng, còn các đoàn Múa Bóng trong và ngoài tỉnh Khánh Hòa ít nhiều đã có những sự sáng tạo và ảnh hưởng của Hầu Đồng ở miền Trung và miền Bắc.

- Hội thi rước nước và bày mâm hoa quả dâng Mẫu: diễn ra từ 10 giờ đến 15 giờ ngày 23 tháng 3. Hội này dành cho các đoàn về dự lễ hội tháp Bà. Nước được Ban tổ chức lấy từ chùa Hang về để trong các vại đặt dưới Mandapa. Các đoàn cử người thi đội chum nước từ Mandapa rước nước lên tháp để dâng Mẫu. Mâm quả được các đoàn chuẩn bị và thi đội nào sắp xếp đẹp nhất để dâng Mẫu. Mâm lễ của đoàn nào đẹp nhất được dâng lên Mẫu ở tháp chính, các mâm còn lại sẽ được dâng ở các tháp khác trong di tích Tháp Bà Pônagar.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 20 tháng 3 Âm Lịch - Hội Tháp Bà

Những con giáp vượng vận may nhất tháng 7

Dù là sự nghiệp, tiền bạc hay chuyện tình cảm, hôn nhân gia đình, những con giáp này đều gặp may mắn, mọi khó khăn trở ngại đều có người giúp đỡ giải quyết.
Những con giáp vượng vận may nhất tháng 7

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


  

► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác

Người tuổi Tỵ
 
Trong tháng 7, người tuổi Tỵ gặp tam hợp quý nhân nên mang đế nhiều vận may về tài chính. Khi đời sống vật chất ổn định, người tuổi Tỵ có nhiều thời gian để chăm lo các mảng khác của cuộc sống, đặc biệt là tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình. 

Nhung con giap vuong van may nhat thang 7 hinh anh
Tuổi Tỵ
 
Người tuổi Dần
 
Là một trong những con giáp vượng vận may nhất trong tháng 7, mọi dự định trong công việc, học hành thi cử và tình cảm của người tuổi Dần đều thuận buồm xuôi gió, dù trước đó cũng gặp không ít trở ngại. 

Nhung con giap vuong van may nhat thang 7 hinh anh 2
Tuổi Dần
 
Tính cách nhiệt tình và phóng khoáng của con giáp này đã mang lại không ít may mắn. Nếu gặp bất kì khó khăn nào trong cuộc sống hay tình duyên, người tuổi Dần đều được quý nhân giúp đỡ. Quý nhân ấy không ở đâu xa, chính là những người từng được bạn đối đãi hào hiệp và chân thành.
 
Người tuổi Dậu
Thời gian gần đây, người tuổi Dậu hạ quyết tâm cao độ trong công việc, nên trong tháng 7 này, sự nỗ lực ấy sẽ được đền đáp xứng đáng. Bằng chứng là hàng loạt những tin vui, điều may mắn đến với bạn: trúng thưởng, được thăng tiến, gặp hung hóa cát, mất đồ lại tìm thấy…

Nhung con giap vuong van may nhat thang 7 hinh anh 3
Tuổi Dậu
 
Ngoài ra, chuyện tình cảm của người tuổi Dậu cũng diễn ra thuận lợi. Người độc thân nhờ các mối quan hệ bạn bè mà tìm được ý trung nhân như ý. Tình cảm hôn nhân gia đình cũng mặn nồng, thậm chí có tin vui về đường con cái.
Người tuổi Thân
 
Trong tháng 7, người tuổi Thân gặp may mắn nhiều nhất về tài vận. Theo đó, các nguồn thu nhập dù là chính hay phụ đều tăng đột biến, giúp xóa tan cảm giác chật vật kiếm tiền hay phải tích lũy để thực hiện một kế hoạch lớn nào đó.

Nhung con giap vuong van may nhat thang 7 hinh anh 4
Tuổi Thân
 
Người tuổi Sửu
 
Trải qua một khoảng thời gian nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, cộng thêm với chút vận may, tháng 7 này người tuổi Sửu có thể mỉm cười, hài lòng với thành quả đạt được trong công việc và chuyện tình cảm. Tiến trình phát triển sự nghiệp của bạn vẫn diễn ra thuận lợi, thậm chí còn được cấp trên đánh giá cao, cơ hội thăng tiến và tăng lương thêm rộng mở. 

Nhung con giap vuong van may nhat thang 7 hinh anh 5
Tuổi Sửu
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp vượng vận may nhất tháng 7

Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo

Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo có bắt nguồn từ tác phẩm "Tây du ký". "Hành Giả" tức là Tôn Ngộ Không.
Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Bốn ba trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Hành Giả Đắc Đạo (còn gọi là Hành Giả Thành Đạo). Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo có bắt nguồn từ tác phẩm “Tây du ký”. “Hành Giả” tức là Tôn Ngộ Không.

Một hôm, sư tổ lên ngồi trên đàn cao, triệu tập các tiên, giảng giải đạo lớn. Tôn Ngộ Không đứng nghe bên cạnh, thích thú đến nỗi vò đầu bứt tai, mặt mày hớn hở, hoa chân múa tay. Sư tổ bước xuống đài cao, tay cầm cái thước, gõ vào đầu Ngộ Không ba cái, rồi chắp tay sau lưng, đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, bỏ lại mọi người mà đi.

Buổi tối hôm đó, khoảng chừng giờ Tý, Hầu Vương nhẹ nhàng trở dậy, mặc quần áo, lén mở cửa trước, trốn mọi người đi ra ngoài, ngẩng đầu quan sát, đúng vào lúc canh ba. Hắn theo con đường cũ đi đến bên ngoài cửa sau, thấy cánh cửa đó chỉ khép hờ. Ngộ Không vui mừng nói: “Lão sư phụ quả nhiên có ý truyền đạo cho ta, vì vậy mới mở cửa!” Bèn lập tức lách người đi vào trong cửa, đến dưới giường của sư tố. Thấy sư tố nằm co người, quay vào phía trong mà ngủ. Ngộ Không không dám làm kinh động, liền quỳ ở trước giường. Một lát sau, sư tổ Bồ Đề tỉnh dậy, tự mình lấm bấm rằng: “Khó thay! Khó thay! Khó thay! Đạo thật huyền diệu, chớ coi kim đan là tầm thường. Không gặp chí nhân truyền diệu quyết, miệng khô lưỡi đắng chỉ bàn suông!” Ngộ Không lớn tiếng đáp: “Sư phụ, đệ tử quỳ ở đây đã lâu!”

Sư tổ nghe thấy giọng nói của Ngộ Không, lập tức khoác áo, ngồi xuống nói: “Con khỉ này! Ngươi không ở bên đó ngủ lại đến chỗ ta làm gì?” Ngộ Không nói: “Hôm qua trước đàn, sư phụ đã đồng ý với mọi người, dặn đệ tử vào lúc canh ba, đi vào theo cửa sau để truyền đạo cho đệ tử, vì vậy mới to gan đến lạy dưới giường sư phụ!”

Sư tổ nghe vậy, rất vui, thầm nghĩ rằng: “Tên này quả nhiên là do trời đất sinh ra! Nếu không như vậy, làm sao mà giải được câu đố của ta?” Ngộ Không nói: “Lúc này không có Lục Nhĩ, chỉ có một mình đệ tử, xin sư phụ đại xá từ bi, truyền dạy cho đệ tử đạo trường sinh, đệ tử mãi mãi không quên ơn!” Sư tố nói: “Nay ngươi có duyên, ta cũng thấy vui. Nếu đã hiểu được ấn ý của ta, ngươi hãy lại gần đây, chú ý lắng nghe cho kỹ, ta sẽ truyền cho ngươi đạo trường sinh kỳ diệu!” Ngộ Không khấu đầu tạ ơn, cung kính lắng nghe, quỳ ở dưới giường. Lúc này căn nguyên đã tỏ, Ngộ Không tâm tư nhanh nhạy, ghi nhớ kỹ lời dạy của thầy, quỳ lạy tạ ơn sư tổ, rồi lập tức đi ra cửa sau.

Đã qua ba năm, sư tố lại lên bảo tọa, thuyết pháp cho mọi người, nói đến những ẩn dụ trong công án, bàn về ngoại tượng bề ngoài. Ngộ Không khấu đầu lạy mà nói: “Xin hãy truyền cho đệ tử thuật tránh được tam tai, sẽ không dám quên ơn!” Sư tổ nói: “Điều này không khó, nhưng vì nhà ngươi và những người khác không giống nhau, cho nên không thể truyền được!” Ngộ Không nói: “Con cũng đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất, cũng có cửu khiếu tứ chi, lục phủ ngũ tạng, sao lại cho rằng con không giống người?”

Sư tổ đáp: “Ngươi tuy giống người, nhưng so với con người lại thiếu phần má!” Thì ra con khỉ đó mặt gãy, má hóp và môi nhọn. Ngộ Không đưa tay sờ lên mặt, cười nói rằng: “Sư phụ chớ băn khoăn! Con tuy thiếu cái má, nhưng lại nhiều hơn con người cái túi má, cũng có thể sánh với nhau được!” Sư tố nói: “Thôi được, ngươi muốn học loại nào? Có một loại là Thiên canh số, gồm ba sáu phép biến hóa, có một loại là Địa sát số, gòm bảy mươi hai phép biến hóa!” Ngộ Không nói: “Đệ tử muốn biết nhiều hơn, xin cho học phép biến hóa Địa sát!” Sư tố nói: “Nếu đã như vậy, hãy lại đây, ta truyền cho ngươi khẩu quyết!” Bèn ghé tai truyền lời, truyền cho các diệu pháp. Hầu Vương một khiếu đã thông thì trăm khiếu thông, lập tức học thuộc khẩu quyết, tự mình tu luyện, cả bảy mươi hai phép biến hóa đều học thành công.

Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo là quẻ thẻ Thượng Cát trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 43 !

Quẻ này là tượng trời đất giao hòa.
Những việc mong càu hết sức tốt đẹp, không có nguy hiểm.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Hành Giả Đắc Đạo

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd