Các bước xem tướng người chính xác nhất –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nên dọn dẹp chuyển hết đồ đạc vào bên trong nhà rồi mới tiền hành dọn cúng sau.
Và một điều cần lưu ý khi vào nhà mới thì mọi người ai cũng phải cầm một thứ gì đó trên tay, không được đi tay không vào nhà. Tuổi dần thì nghiêm cấm phụ dọn nhà kể cả phụ nữ có thai cũng không được.Trong giờ tốt, gia chủ tự tay cầm tiền bạc nữ trang, tài sản quý giá cất vào tủ.
Và nếu bạn đi đám nhà mới hay còn gọi là Tân gia, bạn nên mua theo một số vật dụng trong gia đình đến tặng bạn bè, những thứ vật dụng như soong nồi, chén bát, nó có ý nghĩa mang lại sự sung túc cho gia đình gia chủ.

Khi cúng động thổ, quý vị hãy chuẩn bị các lễ vật sau : ngũ quả ( là 5 loại trái cây ), bông tươi, nhang đèn,1 bộ tam sên ( 1 miếng thịt luộc, 1 con tôm luộc, 1 trứng vịt luộc ), xôi thịt, 3 miếng trầu cau ( đã têm ), giấy vàng bạc, 1 dĩa muối gạo, 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước.
Sau khi cúng xong, đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp, nơi thờ cúng Táo Quân.
Nhớ mỗi kỳ đổ mái -đổ thêm tầng đều phải sắm lễ cúng vái.
Hôm nay là ngày……tháng……năm……
Gia đình chúng con dọn đến đây là……………………..(ghi địa chỉ)
Hôm nay chúng con thiết lập hương án, sắm sanh phẩm vật, trước linh vị kính trình các Cụ tổ Tiên nội ngoại 2 bên : nhờ hồng phúc Tổ Tiên, nhờ Âm Đức cha mẹ, chúng con đã tạo được ngôi gia. Nay hoàn tất thi công, chúng con chọn được ngày lành tháng tốt để di cư nhập trạch, kính rước chư Hương linh Tiên Tổ về đây để chúng con sớm hôm hương khói tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin, ông Bà Tổ tiên nội ngoại 2 bên thương xót con cháu, chứng giám lòng thành giáng lâm linh án thụ hưởng lễ vật. Độ cho chúng con phước lộc song tu, gia đạo hưng long, xuất nhập bình an, lộc tài thạnh vượng.
Cúi mong Anh linh Tiên Tổ chứng giám, thọ cảm ân sâu.
Kính cáo.
No1: Tuổi Hợi
Không chỉ khéo tay, con giáp này còn rất hoạt bát, biết tận dụng mọi cơ hội để mang lại lợi ích cho bản thân. Vào thời điểm cuối năm với nhiều dịp lễ lớn như Giáng sinh, Tết, cơ may kiếm tiền sẽ liên tiếp xuất hiện và người tuổi Hợi sẽ không bỏ lỡ.
![]() |
Có thể họ sẽ thu về rất nhiều lợi nhuận từ công việc kinh doanh đồ hand-made phát lộc của mình dịp cuối năm. Tài ăn nói khéo léo sẽ giúp họ bán sản phẩm dễ dàng hơn. Mặt khác, sự tính toán tỉ mỉ tới từng “cái kim, sợi chỉ” sẽ hỗ trợ đắc lực họ trong việc buôn bán không thua lỗ.
No2: Tuổi Mão
Là con giáp không thường xuyên gặp may mắn trong cuộc sống, nhưng người tuổi Mão rất nỗ lực để vượt lên hoàn cảnh khó khăn, mang lại cuộc sống sung túc. Điều này có thể suy ra họ sẽ nắm bắt bất kỳ công việc gì nhàn hạ nhất, nhưng kiếm được thật nhiều tiền trong dịp cuối năm, chào đón năm 2015.
![]() |
Sự kiên trì sẽ giúp họ bám trụ được với công việc làm thêm đòi hỏi mất nhiều thời gian, thậm chí làm đêm như giao hàng hay bán quần áo, hoa quả. Người tuổi Mão nghĩ rằng, nếu họ cố gắng 200% sức lực trong dịp này, thì đầu năm mới sẽ có hầu bao rủng rỉnh hơn, hứa hẹn trong năm tới sẽ không phải lo lắng nhiều về tài chính.
No3: Tuổi Thân
Nếu tuổi Mão dựa vào lòng kiên trì, sự nỗ lực, tuổi Hợi kiếm tiền bằng sự khéo léo, thì người tuổi Thân lại có nhiều cơ hội sở hữu thu nhập “khủng” nhờ vào sự sáng tạo, làm những gì mà chưa ai từng làm trước đó.
![]() |
Họ sẽ nghĩ ra được hình thức kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó đặc trưng cho dịp cuối năm để kiếm tiền. Số vốn bỏ ra sẽ rất ít, trong khi con giáp này lại thu về siêu lợi nhuận. Nói cách khác, đây là thời điểm tốt nhất để người tuổi Thân “bán chất xám” của mình.
Mr.Bull (theo SN)
Trong thế giới con người có rất nhiều tốt nhưng người xấu đặc biệt là sở khanh thì cũng không hề ít. Bạn nên tránh xa những con người này vì họ sẽ làm tổn hại đến bạn. Tuy nhiên đặc điểm để nhận biết những chàng trai sở khanh là gì? hay nói một cách khác là những chàng trai sở khanh có tướng mạo thế nào? Hãy cùng đọc bài viết sau để sớm nhận ra người tốt hay sở khanh bên cạnh mình nhé!
Nội dung
Đặc điểm nhận diện mũi chim ưng là sống mũi hẹp, hơi nhô lên cao, chóp mũi dài và nhọn cong quặp xuống như mỏ con chim ưng. Nam giới có tướng mũi này tuy tài giỏi, năng động nhưng lại tham vọng, không bao giờ chịu thiệt thòi, sẵn sàng chèn ép người khác hoặc giở chiêu trò để đạt mục đích.
Người có tướng này thường không biết giữ lời hứa hoặc chỉ hứa suông để làm hài lòng người khác. Tính cách họ thường lạnh lùng, thờ ơ và không mấy quan tâm đến cảm xúc của mọi người xung quanh.
Nam giới có tướng này khá đa nghi, không biết giữ lời hứa. Họ thường nắm uy quyền hoặc ưu thế trong tay nhưng lại dùng nó để gây áp lực hoặc khống chế người khác. Trước mặt mọi người, họ tỏ vẻ quan tâm theo kiểu kẻ mạnh muốn cứu vớt kẻ yếu, sẵn sàng hứa hẹn nhiều điều phi thực tế nhằm đánh lạc hướng của mọi người và “thừa nước đục thả câu”.
Khi ai đó uy hiếp hoặc làm tổn hại đến lợi ích của họ, họ sẽ bất chấp thủ đoạn để ngăn chặn, thậm chí làm cho đối phương thân bại danh liệt. Làm bạn hoặc đối tác của những người sở hữu tướng mạo này, bạn sẽ luôn là người chịu thiệt hoặc là vật hy sinh tội nghiệp.

Người có đôi mắt lúc nào cũng đong đưa, liếc nhìn người khác, cộng với đôi môi mỏng thường khá ích kỷ, không hiểu sự đời nên dễ bị cô lập với mọi người xung quanh. Khi gặp khó khăn họ cũng không có ai ra tay giúp đỡ, các mối quan hệ xã giao kém, là người khá đơn điệu và vô tình vô nghĩa.
Ngoài ra, họ thường tính toán chi ly trước khi làm việc gì đó để mang lại lợi ích lớn nhất cho bản thân. Họ cố gắng không làm phật ý mọi người, tích cực tham gia các hoạt động tập thể, nhưng vì tính ích kỷ quá lớn, nên mọi sự cố gắng để hòa đồng với mọi người của họ đều vô ích. Trong mắt người khác, họ chỉ là “ngụy quân tử” mà thôi.
Nam giới sở hữu tướng mạo này thường dễ bị kích động, không kiểm soát được cảm xúc, lời nói và hành động không mấy nhất quán. Họ luôn giấu chặt suy nghĩ nội tâm và tìm cách áp đảo người khác để bảo vệ lợi ích của mình.
Những người này chỉ biết đến cái lợi trước mắt của bản thân mà sẵn sàng làm tổn hại đến lợi ích của người khác.
Xem thêm:
Bảng tra can giờ qua can ngày
| 11-1 giờ |
1-3 giờ |
3-5 giờ |
5-7 giờ |
7-9 giờ |
9-11 giờ |
11-13 giờ |
13-15 giờ |
15-17 giờ |
17-19 giờ |
19-21 giờ |
21-23 giờ |
|
| Tý | Sửu | Dần | Mão | Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | Thân | Dậu | Tuất | Hợi | |
| Giáp, Kỷ |
Giáp Tý |
Ất Sửu |
Bính Dần |
Đinh Mão |
Mậu Thìn |
Kỷ Tỵ |
Canh Nọ |
Tân Mùi |
Nhâm Thân |
Quý Dậu |
Giáp Tuất |
Ất Hợi |
| Ất, Canh |
Bính Tý |
Đinh Sửu |
Mậu Dần |
Kỷ Mão |
Canh Thìn |
Tân Tỵ |
Nhâm Ngọ |
Quý Mùi |
Giáp Thân |
Ất Dậu |
Bính Tuất |
Đinh Hợi |
| Bính, Tân |
Mậu Tý |
Kỷ Sửu |
Canh Dần |
Tân Mão |
Nhâm Thìn |
Quý Tỵ |
Giáp Ngo |
Ất Mùi |
Bính Thân |
Đinh Dậu |
Mậu Tuất |
Kỷ Hợi |
| Đinh, Nhâm |
Canh Tý |
Tân Sửu |
Nhâm Dần |
Quý Mão |
Giáp Thìn |
Ất Tỵ |
Bính Ngọ |
Đinh Mùi |
Mậu Thân |
Kỷ Dậu |
Canh Tuất |
Tân Hợi |
| Mậu, Quý |
Nhâm Tý |
Quý Sửu |
Giáp Dần |
Ất Mão |
Bính Thìn |
Đinh Tỵ |
Mậu ngọ |
Kỷ Mùi |
Canh Thân |
Tân Dậu |
Nhâm Tuất |
Quý Hợi |
Theo bảng trên, nếu bạn sinh vào khoảng thời gian từ 5-7 giờ (tức giờ Mão) và thuộc ngày có hàng can là Giáp thì trụ giờ của bạn sẽ là Đinh Mão. Tương tự, nếu bạn sinh vào khoảng thời gian từ 11-13 giờ ngày đó thì trụ giờ của bạn là Canh Ngọ. Nếu sinh vào khoảng thời gian từ 5-7 giờ của ngày có hàng can là Ất hoặc Canh thì giờ sinh của bạn là Kỷ Mão.
(Theo Tử Bình nhập môn)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trích dẫn từ sách Tử vi đẩu số toàn thư của cụ Vũ Tài Lục dịch và bình chú
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a) Cát hung
b) Hư thực
c) Chủ khách
d) Cường nhược
Cát – Hung: Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào?
Sao tốt lâm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì?
Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với các cung tam hợp và cung xung chiếu:
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
B. Cứu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
Khi chọn mua biệt thự, bạn cần nắm vững mối quan hệ giữa địa hình và môi trường, sự kết hợp giữa cảnh quan môi trường và kiến trúc biệt thự. Việc chọn địa hình là điều rất quan trọng. Nó thường xuất phát từ các yếu tố:
Thế đất phải bằng phẳng
Bạn nên chọn thế đất bằng phẳng để xây biệt thự. Tránh xây nhà trên thế đất bị nghiêng hoặc hình tam giác vì ở thế đất này sẽ khiến mọi người luôn có cảm giác lo âu, thậm chí có thể xảy ra tai nạn tàu xe.
|
| Nên xây biệt thự ở thế đất bằng phẳng |
Nếu phải xây biệt thự trên mảnh đất dốc thì khi lựa chọn cần đặc biệt chú ý quan sát môi trường xung quanh.
Xét từ góc độ khoa học, ngôi nhà được xây trên thế đất bằng phẳng sẽ có khả năng chịu lực tốt và công trình sẽ có tuổi thọ lâu hơn.
Mảnh đất trước cửa nhà rộng rãi, có nguồn nước. Theo phong thủy, nước là tượng trưng cho nguồn tài sản. Đây được xem là nơi lý tưởng để xây nhà.
Nếu cửa chính của ngôi nhà đối diện với vách núi dốc thì đấy không phải chỗ ở thích hợp. Theo phong thủy, thích hợp nhất là khi bạn xây nhà có phần lưng tựa vào núi. Nó tượng trưng cho chỗ dựa để phát triển về sự nghiệp của gia chủ.
Phương hướng
Nhà nên tọa Đông triều Tây, tọa Tây triều Đông, tọa Tây Bắc triều Đông Nam, tọa Đông Nam triều Tây Bắc, tọa Đông Bắc triều Tây Nam, tọa Tây Nam triều Đông Bắc, tọa Nam triều Bắc và tọa Bắc triều Nam.
|
| Biệt thự phải ở hướng chính |
Khi xây biệt thự nên để một chút đất trống ở hướng Nam, điều này sẽ rất tốt đối với gia chủ. Dù cho mảnh đất đó để không hoặc sử dụng làm vườn hoa đều đem lại điều tốt cho mọi người trong nhà. Nếu mặt phía Nam của ngôi nhà đối diện với vườn hoa thì càng tốt. Nó sẽ tạo không gian thư thái, thoáng mát.
|
| Hướng Nam nên để khoảng đất trống |
Không nên chọn nơi “tàng phong”
Nếu xây nhà ở gần nơi có gió to, theo phong thủy thì khí sẽ bị gió thổi tán đi.
|
| Không xây biệt thự ở nơi "tàng phong" |
Khi chọn đất cho biệt thự tốt nhất là nên quan sát xung quanh. Nếu cảm giác đầu tiên của bạn về khu đất đó là nơi gió nhẹ thì đây chính là nơi đất lành để ở.
Chất đất phải sạch sẽ
Đối với những tòa biệt thự ít tầng thì vấn đề chất đất có sạch hay không. Nếu đất này trước đây là ao hồ hay sông nhỏ thì sau khi xây, khí dưới đất sẽ bay lên rất nhiều. Nếu xây nhà trên đất trước đây là bệnh viện hay nhà thờ, đền miếu… sẽ khiến cho người ở trên đất đó luôn có tâm trạng bồn chồn, bất an.
Nền kiên cố
|
| Đất cát được xem là nền kiên cố |
Nền đất cát được coi là nền tương đối kiên cố, không sợ nguy cơ sụt lún. Một ưu điểm nữa của loại đất này là sự khô ráo, rất tốt đối với việc phát triển của những vi khuẩn có ích và có thể tự mình làm sạch thổ nhưỡng. Nước dưới đất ít nhất phải cách móng nhà 0,5m. Như vậy mới có thể phòng trừ khí lạnh đồng thời ngăn chặn nguồn nước bị ô nhiễm.
Đất phải trồng nhiều cây xanh
|
| Trồng nhiều cây xanh tạo không khí trong lành |
Nếu chọn đất xây biệt thự bạn cũng nên lưu ý đến quỹ đất cho cây xanh. Cây xanh là vành đai ngăn khí độc, giữ khí lành, cùng với mặt nước điều hòa khí hậu cho nơi ở của bạn. Không chỉ vậy, việc trồng nhiều cây xanh xung quanh biệt thự sẽ mang đến cho bạn sự thư thái, yên bình sau những áp lực của cuộc sống thường ngày.
(Theo Landtoday)
|
TUỔI TÝ (Tốt)
(Sinh năm 1924, 1936, 1948, 1960, 1972, 1984, 1996, 2008)
Tháng này có sao gây gổ ngự trị làm tăng cơ hội tranh chấp và bất hòa. Tuy nhiên nhờ sao Hổ Tú mang lại may mắn về quyền lực và sự chiến thắng. Điều này có nghĩa nếu muốn khắc phục những phiền toái, tránh va chạm, tranh cãi thì cần một cái đầu lạnh lùng không để ý đến việc nhỏ mà tập trung vào việc lớn hơn sẽ dẫn đến thành công mỹ mãn. Tháng này việc đến như thế nào thì nên làm như thế ấy không nên cưỡng cầu làm gì. Bạn có lợi thế trong kinh doanh và trong môi trường canh tranh ở tháng này, luôn đi trước dẫn đầu mọi người.
Vật khí tốt trong tháng: Hãy đặt chiếc gương lớn ở phía Bắc trên bàn làm việc nhằm kích hoạt may mắn và củng cố quyền lực cho bạn.
TUỔI SỬU (Tốt)
(Sinh năm 1937, 1949, 1961, 1973, 1985, 1997, 2009)
Một tháng tiếp nối hạnh phúc cho người tuổi Sửu nhờ có sự kết hợp của các sao tốt lành làm tăng cơ hội giành chiến thắng, quyền lực và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Bạn có nhiều cơ hội để thăng tiến và chiếm được lòng tin của mọi người đặt biệt là từ cấp lãnh đạo. Nhờ có quý nhân giúp đỡ mang lại cho bạn nhiều thuận lợi cũng như may mắn, giúp bạn hiểu biết thêm nhiều vấn đề đồng thời học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm. Đây là thời gian tuyệt vời để bắt đầu xúc tiến kế hoạch kinh doanh hoặc đa dạng hóa cũng như mở rộng. Nên biết lắng nghe học hỏi những kỷ năng mới đồng thời mở rộng các mối quan hệ xã hội. Đây là thời khắc thuận lợi cho bạn sự tăng trưởng trong kinh doanh đồng thời được đề bạc lên vị trí cao nhất.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt banner chiến thắng trên bàn làm việc để tăng cường vận may của mình
TUỔI DẦN (Tốt)
(Sinh năm 1938, 1950, 1962, 1974, 1986, 1998, 2010)
Bạn đã trải qua một tháng án binh bất động và thay vào đó một tháng có đầy đủ năng lượng để làm tất cả mọi việc nhé những người tuổi Dần. May mắn đến với bạn với đầy đủ kiến thức và trí tuệ. Tận dụng tất cả những điều may mắn của tháng này cùng với năng lượng đã được chuẩn bị từ tháng trước sẽ mang đến cho bạn chiến thắng cũng như thành công trong sự nghiệp. Tận dụng lợi thế sẽ có nhiều cơ hội cho bạn đi tiếp trong sự nghiệp cũng như mở rộng kinh doanh. Tình yêu tuyệt vời và lãng mạn cũng đến với người tuổi Dần trong tháng này. Bạn sẽ làm tốt mọi việc trong các tình huống mang tính canh tranh, thi cử. Nên tập trung cao độ vào các mục tiêu mà bạn đã đặt ra sẽ mang lại cho bạn thành công một cách chắc chắn.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt tượng Mã phong hầu trên bàn làm việc để tiếp thêm sinh lực cho sự nghiệp cũng như kích hoạt các sao may mắn trong tháng này.
TUỔI MÃO (Thận trọng)
(Sinh năm 1939, 1951, 1963, 1975, 1987, 1999)
Tháng này người tuổi Mão nên cẩn trọng trong mọi vấn đề. Vì có sự ngự trị ngôi sao bất hạnh, chướng ngại vật bắt đầu xuất hiện. Các mối quan hệ trở nên căng thẳng, xảy ra các vụ tranh cãi ngớ ngẫn và thậm chí sức khỏe của bạn tháng này cũng tuột giảm không phanh. Tuy nhiên cũng đừng nên chán nản vì thách thức này chỉ là tạm thời, cố gắng vượt qua tháng này để đón nhận một tháng tốt đẹp hơn. Bạn nên cẩn thận và cố gắng nhẫn nhịn, dành thời gian để chuẩn bị lên kế hoạch tốt hơn, bạn nên nghĩ ngơi chuẩn bị nền tảng và hành động vững chắc khi vận may đến.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt 5 phần tử chùa ở phía Đông trên bàn làm việc để xua tan những tiêu cực.
TUỔI THÌN (Tốt )
(Sinh năm 1940, 1952, 1964, 1976, 1988, 2000)
Vận may tháng này đang mỉm cười với người tuổi Thìn, với nhiều phước lành và có sự giúp đỡ của quý nhân, bạn sẽ nhận nhiều nguồn lợi bất ngờ, ngay khi bạn rơi vào tình huống vô vọng, thì cũng có bàn tay vô hình kỳ diệu xóa đi tất cả trở ngại trên con đường đi của bạn. Có rất nhiều cơ hội cho bạn trong kinh doanh cũng như vấn đề tình cảm. Tận dụng cơ hội may mắn cùng với sự giúp đỡ từ đồng nghiệp sẽ đưa bạn bước lên địa vị khác hơn và sự thăng tiến trong sự nghiệp.
Vật khí tốt trong tháng: Tăng cường sự may mắn bằng cách đặt lục tinh cầu phía Đông bàn làm việc của bạn trong tháng này
TUỔI TỴ (Tốt)
(Sinh năm 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001)
Tháng này các ngôi sao may mắn mĩm cười với người tuổi Rắn đem lại sự vinh quang, với tất cả những quyết định đúng được đưa ra. Tất cả mọi vấn đề đều đi theo chiều hướng tốt. Bạn sẽ được giúp đỡ và truyền đạt kinh nghiệm từ lão tiền bối, đó là điều tuyệt vời cho bạn. Hãy sẳn sàng cho mục tiêu và kế hoạch phía trước, sự thành công đang chờ đợi bạn. Bạn đang tân hưởng hạnh phúc và sống có ý nghĩa với những người thân yêu bên cạnh bạn.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt các con giáp Khỉ, Trâu, Gà trên bàn làm việc để tăng cường mối quan hệ bạn bè thêm khăng khít, đồng thời kích hoạt mam mắn trong biểu đồ của bạn
TUỔI NGỌ (Trung bình)
(Sinh năm 1942, 1954, 1966, 1978, 1990, 2002)
Người tuổi Ngọ tháng này hết sức cẩn thận khi có sự xuất hiện của ngôi sao bạo lực, bệnh tật trong biểu đồ của bạn làm tăng nguy cơ cướp bóc hoặc bị thương tích hay tai nạn cũng như sức khỏe bị suy giảm, tuy nhiên bạn sẽ nhận được lộc nhỏ trong tháng này, nên tránh đi xa, hay chơi những môn thể thao mang tính mạnh bạo sẽ nguy hiểm đến sức khỏe có thể gây ra chấn thương không đáng kể. Sự nghiệp trong giai đoạn này như thách thức bạn, cần cố gắng bình tĩnh để vượt qua giai đoạn này. Tránh căng thẳng mà ảnh hưởng đến sức khỏe.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt tượng tê giác và voi bên chum nước trên bàn làm việc để bảo vệ bạn khỏi các vấn đề tiêu cực.
TUỔI MÙI (Xuất sắc)
(Sinh năm 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003)
Thời gian này thật là một điều tuyệt vời cho người tuổi Mùi, từ may mắn về các mối quan hệ trở nên tốt đẹp, đến sự nghiệp kinh doanh, thu nhập cũng từ đó mà tăng lên một cách đáng kể, tất cả nhờ sự kết hợp của sao Hồ Tú kích hoạt may mắn này. Và không cần phải nói thời gian này thật tuyệt vời để xây dựng các mối quan hệ trong kinh doanh cũng như tình cảm riêng tư và những người trong gia đình. Trong sự nghiệp kinh doanh người tuổi Mùi sẽ có thêm nhiều sáng tạo và phát triển những ý tưởng mới được tiến hành một cách dễ dàng. Bên cạnh những bạn làm trong ngành công nghiệp cần phải thay đổi đường lối tư duy mới như vậy mới bền vững và phát triển lâu dài được. Những học sinh, sinh viên hay các nhà nghiên cứu sẽ vượt qua các kỳ thi, và thành công sẽ đến với bạn. Tuổi Mùi trẻ tuổi thì đây là tháng để tìm cho mình ý trung nhân tâm đầu ý hợp.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt đôi vịt uyên ương trên lá sen trong phòng ngủ phía Tây Nam để kích hoạt thêm sự yêu thương lãng mạn.
TUỔI THÂN (Xuất sắc)
(Sinh năm 1944, 1956, 1968, 1980, 1992, 2004)
Một tháng phải nói là thật tuyệt vời cho người tuổi Thân, bởi có sự tập hợp từ tất cả các sao may mắn trong biểu đồ tình yêu của bạn, tạo ra một thời gian tuyệt vời để thúc đẩy và nuôi dưỡng các mối quan hệ. Hơn nữa, bạn có thể tận hưởng được sự tuyệt vời may mắn từ sao hồ tú mang lại đó là sẽ gặp may mắn trong sự nghiệp kinh doanh, hay công việc được diễn ra tốt đẹp, thời gian này để danh cho người tuổi Khỉ sáng tạo và học hỏi nhiều kinh nghiệm để tự hoàn thiện bản thân. Hoàn thành các dự án một cách dễ dàng mà từ tháng trước còn tồn động lại, bạn sẽ có những kế hoạch mới, và tiến hành nó với tất cả niềm đam mê của mình. Hãy tận dụng tất cả vận may của mình để tiến hành các dự định đã đặt ra. Tháng này bạn sẽ nhận được những phần thưởng xuất sắc. Hãy tận hưởng một tháng với tất cả may mắn tuyệt vời để củng cố lại các mối quan hệ từ đối tác cũng như người thân trong gia đình.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt tượng rùa rồng trên bàn làm việc phía Tây Nam để tăng cường vận may cho bạn
TUỔI DẬU (Thận trọng)
(Sinh năm 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005)
Tháng này gặp sao Ngũ hoàng trong biều đồ của bạn làm cho năng lượng của bạn càng suy yếu gây ra nhiều bất hạnh cũng như nhiều việc cần suy nghĩ và giải quyết làm cho tinh thần bạn trở nên căng thẳng và bất an. Bạn luôn ở trong trạng thái cảnh giác cao độ làm cho tinh thần trở nên mệt mỏi. Bạn phải đối diện với nguy cơ mất đi hợp đồng lớn hay rơi vào tình huống bất khả kháng. Tháng này nên cẩn thận khi di chuyển, xe cộ. Tóm lại một tháng đầy thách thức cho người tuổi Dậu, bạn cần tỉnh táo và tập trung cao độ đề phòng tất cả những người xung quanh bạn, cẩn thận lời ăn tiếng nói để không rơi và tình thế “há miệng mắc quai”
Vật khí tốt trong tháng: Đặt tượng Phật di lặc trong phòng khách nhằm bảo vệ bạn khỏi vấn đề căng thẳng, luôn tỉnh táo và sáng suốt để vượt qua khó khăn
TUỔI TUẤT (Xuất sắc)
(Sinh năm 1946, 1958, 1970, 1982, 1994, 2006)
Một tháng tuyệt vời cho người tuổi Tuất vì có sự ngự trị của sao tốt lành trong biểu đồ của bạn. Bạn không chỉ gặp may mắn trong sự nghiệp mà còn may mắn trong cuộc sống. Thành công trong tháng này không lớn nhưng đem lại cho bạn một sự tự hào, cột mốc quan trọng để thúc đẩy động lực cho bạn. Đây là thời gian để bạn chứng tỏ năng lực của mình với lãnh đạo, và vị trí cao hơn sẽ được mời gọi bạn. Người tuổi Tuất sẽ gặp may mắn hơn trong các mối quan hệ đồng nghiệp, tạo nên không khí sôi động hơn ở nơi làm việc. Các mối quan hệ đối tác tiềm năng cũng trở nên tốt đẹp hơn, sẽ là nền tảng cho sự thành công của bạn trong tương lai gần. Hãy là chính mình, luôn học hỏi phát huy hết khả năng thì thành công sẽ tiếp nói thành công bạn nhé. Người tuổi Tuất trẻ tuổi sẽ có cơ hổi gặp ý trung nhân và có cơ hội se duyên.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt quả cầu đỏ trên bàn làm việc phía Tây Bắc để kích hoạt may mắn cho bạn. Đặt đôi vịt uyên ương để nâng cao tình yêu lãng mạn
TUỔI HỢI (Xuất sắc)
(Sinh năm 1947, 1959, 1971, 1983, 1995, 2007)
May mắn trở lại cho người tuổi Hợi trong tháng này vì có sự ngự trị của sao thịnh vượng trong nhà bạn. Cuộc sống và công việc sẽ cực kỳ may mắn và đầy hứa hẹn cho người tuổi Hợi. Hãy làm việc chăm chỉ và không ngừng phấn đầu cùng với sự nổ lực hết mình thành công sẽ đến với bạn, đừng quan tâm đến những người khác xung quanh bạn nghĩ gì. Hãy tận dụng tất cả những điều tuyệt vời và may mắn trong tháng này mà thưởng thức những gì bạn muốn làm. Tình yêu lãng mạn bằng việc sẽ đi đâu đó vài ngày và tự thưởng cho mình bạn nhé. Các mối quan hệ cũng dần tốt đẹp.Những công việc làm từ tháng trước sẽ cho kết quả trong tháng này với tất cả những thuận lợi và phần thưởng xứng đáng dành cho bạn.
Vật khí tốt trong tháng: Đặt thuyền rồng chở đầy vàng trên bàn làm việc để kích thích sự may mắn và tăng cường hơn nữa sự thành công cho bạn
Tháng 7
Tài lộc có nhiều khởi sắc rõ rệt, thu nhập từ bên ngoài tăng lên. Tuy nhiên, họ cũng cần chú ý chi tiêu hợp lý, quản lý tài chính cẩn thận kẻo gặp phải khó khăn về vốn. Trong tháng này, người tuổi Mão nên gác lại mọi vấn đề để tập trung vào công việc của bản thân, tránh để ý đến chuyện người khác kẻo tranh chấp xảy ra.
Tháng 8
Tháng Dậu, vận thế của người tuổi Mão có chiều hướng đi xuống. Người này gặp phải khá nhiều bất lợi trong kinh doanh, tình thế không mấy tốt đẹp. Họ cần phân biệt rõ người tốt, kẻ xấu, chớ nên chỉ nhìn vào vẻ bên ngoài kẻo phải chịu nhiều thiệt thòi. Tài lộc tháng này của người tuổi Mão lên xuống thất thường. Họ phải hết sức thận trọng quản lý tài chính, không được đầu tư vào những lĩnh vực mình chưa chắc chắn. Khi làm bất cứ việc gì, họ cũng cần đặt ra nguyên tắc "không biết không làm", nếu có khúc mắc thì hỏi ý kiến cấp trên.
Tháng 9
Vận thế trong tháng Tuất của người tuổi Mão có xu hướng tốt lên. Tuy nhiên, do có sao dữ chiếu mệnh nên tài lộc của người này cũng không được tốt lắm. Họ vẫn gặp phải những rắc rối trong công việc và cuộc sống hằng ngày, thậm chí có những chuyện liên quan đến tranh chấp. Song, nếu bình tĩnh xử lý mọi việc, người này sẽ vượt qua được mọi khó khăn, thử thách. Họ nên hành động theo những kế hoạch đã định sẵn để tránh rủi ro.
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Tháng 10
Tháng Hợi, vận thế của người tuổi Mão thay đổi hoàn toàn so với những tháng trước. Do có sao tốt chiếu mệnh, tài lộc của họ phát triển mạnh. Mọi trở ngại bấy lâu được giải quyết ổn thỏa. Trong tháng này, người tuổi Mão nên giữ vững ý chí tiến thủ, làm việc có tinh thần trách nhiệm cao và luôn cố gắng hết mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ, mọi thành công sẽ đến với họ.
Tháng 11
Tháng Tý, tài lộc của người tuổi Mão lại có chiều hướng xấu đi, nhiều chuyện không như ý muốn diễn ra khiến họ luôn căng thẳng. Điều quan trọng cho họ thời gian này là phải hết sức bình tĩnh xử lý mọi việc, chớ nên nản lòng, thụ động kẻo khó khăn ngày càng ập đến nhiều hơn.
Tháng 12
Vận thế tuổi Mão trong tháng Sửu có chiều hướng tốt lên. Sự nghiệp cũng tiến triển tốt đẹp, công việc thuận lợi và có nhiều khởi sắc. Lúc này, họ cần nỗ lực hết mình trong mọi hoàn cảnh. Cho dù có trở ngại, họ nên gắng sức vượt qua để gặt hái được thành công nhất định. Họ đầu tư vào lĩnh vực nào cũng có hiệu quả, thu nhập dồi dào, mọi việc như ý.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Tuổi Sửu
Sức lực của các bạn tuổi Sửu trong tháng 5 này chủ yếu tập trung vào học hành, công việc. Tuy bận rộn nhưng bạn vẫn dành nhiều thời gian và tâm huyết cho gia đình. Mọi nỗ lực và đóng góp của bạn giúp các thành viên trong nhà luôn cảm thấy hài lòng, bầu không khí ngập tràn niềm vui và sung túc.
![]() |
Tuổi Mèo
Nhìn chung vận khí của các bạn tuổi Mèo trong năm nay luôn ổn định. Đặc biệt trong tháng 5 này, vận thế gia đình của bạn cực thịnh vượng. Do bản thân tuổi Mèo rất xem trọng gia đình, luôn cố gắng giữ gìn sự hòa thuận, hạnh phúc của những người thân. Bạn sẽ có một tháng thoải mái, không vướng bận lo âu.
Tuổi Tuất
Những gì các bạn tuổi Tuất dành cho gia đình thường không nhỏ, đặc biệt là bạn rất quan tâm đến không khí của các thành viên trong nhà, vì vậy luôn hết lòng vun đắp và nuôi dưỡng tình cảm. Tháng 5 này, vận thế gia đình của bạn rất tốt, nhiều tin vui tốt lành đến nhà.
Tuổi Tý
Các bạn tuổi Tý vốn đã có mệnh tốt, lại quý trọng cuộc sống gia đình, nên dù thỉnh thoảng có mâu thuẫn xung đột, bạn vẫn là người cố gắng hòa giải và duy trì sự hòa thuận trong nhà. Tháng 5 này sẽ là thời cơ để bạn củng cố sự gắn bó, êm ấm cho gia đình, cuộc sống tràn đầy hạnh phúc và khỏe mạnh.
Khang Ninh (theo QQ)
| ► Mời bạn đọc: Tiểu sử nhà tiên tri Vanga và những lời tiên tri của Vanga đáng sợ nhất lịch sử |
![]() |
Trấn trạch
Theo kinh nghiệm dân gian, việc trấn trạch cho nhà ở hoặc cơ quan, công sở sẽ giúp ngôi nhà đó được vững vàng, người sống và làm việc trong nhà được an lành, thịnh vượng. Trước đây, khi nhà ở đều xây trên nền đất, khi làm thủ tục dọn vào nhà mới, các "thầy cúng" thường lấy các mẩu vàng găm (hoặc đá phong thủy) nhỏ, hoặc 8 đồng xu chôn tại 4 góc nhà. Điều này mang ý nghĩa mong cầu tiền tài vào tứ phương, đồng thời còn giúp xua đi tà khí để được cát tường. Ngày nay, việc trấn trạch này thường được gia chủ tiến hành trước khi lát gạch cho sàn nhà. Nếu bạn dọn đến một căn nhà đã hoàn thiện, không cần sửa lại sàn bạn cũng hãy bỏ vàng găm và tiền xu vào trong một cái lọ nhỏ rồi đặt ở một góc nhà hay góc cửa. Thủ thuật này cũng mang ý nghĩa tài lộc tương tự như khi bạn trấn trạch ngôi nhà mới. Ngoài ra, nhiều người còn đặt vài mẩu vàng găm vào trong bát hương địa tài, vì vàng găm thuộc Thổ, sẽ giúp mang lại tài lộc cho gia chủ. Nếu có điều kiện hơn, gia chủ có thể thay vàng găm bằng đá thạch anh trắng, mặc dù có ý nghĩa tương đương nhưng thạch anh trắng có công năng cao hơn, vì nó có từ tính thuộc loại mạnh nhất và ổn định nhất trong các loại đá phong thủy. Ngoài ra, việc dùng thạch anh trong nhà còn giúp ổn định từ trường, điều tiết các loại chướng khí và giúp mang lại sự ổn định cũng như tài lộc cho gia chủ.
![]() |
| Nhà cửa lâu ngày không ở hoặc ít khi sử dụng thường có nhiều chướng khí bất lợi, vì thế khi dọn đến ở hoặc có nhà ít sử dụng, bạn hãy dùng các phương pháp giúp đem lại dương khí cho nhà. Ảnh: motthegioi |
Thắp nến (đèn cầy)
Cách đơn giản nhất để xua đuổi khí xấu chính là thắp nến. Hãy đặt một cây nến ở góc Đông Nam trong nhà sau đó quan sát ngọn lửa. Cần chú ý, khi đốt nến bạn phải đóng kín các cửa để tránh gió làm tắt nến hoặc ảnh hưởng đến việc quan sát. Trường hợp ngọn lửa lập lòe chứ không cháy đều và đứng ngọn nghĩa là ngôi nhà này đã để không quá lâu, độ ẩm quá cao và nhiều nấm mốc, khí xấu, rất độc hại, không tốt cho sức khỏe và tâm trí của gia chủ. Việc đốt nến không chỉ giúp bạn xác định được tình trạng của ngôi nhà mà còn giúp kiểm soát được khí lưu trong nhà, tăng cường "dương khí".
Xông nhà bằng thảo mộc
Xông nhà cũng là giải pháp hữu hiệu giúp xua đi các chướng khí tích tụ lâu ngày trong nhà và thậm chí, đuổi được các loại côn trùng có hại. Vật liệu để xông nhà là hỗn hợp các loại bao gồm rễ cây, hương liệu, bột trầm hương và cả nhang thơm. Sau khi mua đủ các loại nguyên liệu này, hãy cho chúng vào một cái nồi đất và châm lửa đốt để khói bay ra khắp nhà. Hãy xông theo nguyên tắc từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài. Cần lưu ý, những góc tường ẩm ướt do ngấm nước mưa nhiều hãy xông thật kỹ. Đồng thời, khi xông, bạn hãy bật tất cả đèn điện trong nhà lên, vừa để có đủ ánh sáng quan sát hiện trạng hư hại (nếu có), lại vừa giúp tăng nhiệt khí, dương khí. Trường hợp nhà chưa có điện hoặc đang bị cúp điện, bạn có thể nhóm bếp than rồi đặt một chậu cây xanh vào góc phía Nam hoặc Đông trong nhà, điều này sẽ giúp tăng cường dương khí.
Treo chuông gió (phong linh)
Sau khi đã làm vượng dương khí bằng các giải pháp trên, bạn hãy dùng phong linh (chuông gió) treo ở một số nơi trong nhà. Chuông gió là một công cụ tuyệt vời giúp dẫn dắt khí luân chuyển trong nhà. Thông thường, chuông gió hay được treo ở các cửa ra vào hoặc cửa sổ. Loại chuông gió dùng trong trường hợp này làm bằng kim loại, phát ra âm thanh lớn, ứng với cung Thương của ngũ âm cổ. Theo phong thủy, chuông gió kim loại thuộc hành Kim, có ý nghĩa tiền tài theo gió vào trong nhà. Ngoài ra, người xưa còn cho rằng, âm thanh vui tai và vang xa của kim khí có khả năng xua đuổi tà ma, dịch bệnh, giúp mang lại điềm lành và báo hiệu về người mới cư ngụ, dương khí đã đến với vùng đất này.
(Theo giadinhnet)
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
| ► Theo dõi Tử vi hàng tháng của bạn được cập nhật liên tục tại Lịch ngày tốt |
![]() |
| ► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
Cửa hai căn hộ chung cư không được đối diện nhau
Tại nhiều tòa nhà chung cư, việc hai căn hộ ở hai bên hành lang có cửa đối diện nhau xảy ra khá phổ. Theo quan niệm của phong thủy, hai cửa chính đối diện nhau sẽ dẫn đến việc khí trường của hai căn nhà pha tạp lẫn lộn, khiến cho khí trường trong mỗi căn nhà không thể trong sạch, dễ dẫn đến những điều phiền phức, tranh chấp.
Để hóa giải việc này, có thể bài trí thêm hình đầu sư tử (hoặc đầu hổ) trên lớp cửa chống trộm ở cửa chính của mỗi căn hộ. Đây cũng là lí do tại sao bên ngoài cửa chính của các công trình kiến trúc cổ của Trung Quốc chúng ta thường thấy có hai bức tượng sư tử đặt ở hai bên.
Cửa chính căn hộ ở vị trí đối diện với cầu thang bộ
Nếu cửa chính của căn hộ nằm đối diện với cầu thang bộ đi lên là phạm vào thế “Phá diện sát”, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của những người sống trong căn hộ. Để hóa giải điều này, nên nâng bậc cửa cao thêm 3cm, lưu ý là bo tròn hai mép của bậc cửa, không nên tạo góc vuông, nhọn.
Nếu cửa chính căn hộ đối diện với cầu thang bộ đi xuống thì sẽ không tụ tài. Để hóa giải điều này, bạn có thể gắn một chiếc gương cầu lõm bên ngoài cửa, giúp hấp thụ tài khí.

Cửa chính căn hộ chung cư đối diện với góc tường
Nếu căn hộ của bạn nằm ở vị trí lối rẽ của hành lang, khi mở cửa căn hộ ra sẽ nhìn thấy ngay góc tường thì sẽ không tốt. Cửa trực xung với góc tường là phạm vào thế “Hỏa hình sát”, dễ gây tai họa cho người sinh sống trong căn hộ. Để hóa giải vấn đề này, bạn có thể bài trí hình tượng Tì hưu bên trong cửa.
Bên ngoài cửa chính căn hộ là cầu thang bộ hoặc cầu thang máy
Nếu căn hộ của bạn ở thế mở cửa ra là nhìn thấy ngay cầu thang bộ hoặc cầu thang máy nghĩa là phạm vào thế “Khai khẩu sát”. Trên thực tế, cửa chính căn hộ quá gần với cầu thang là điều không lý tưởng. Bởi căn hộ là nơi để ở chứ không phải nơi kinh doanh nên tốt nhất cần có một khoảng cách nhất định giữa với cầu thang, đồng thời tránh được những tiếng ồn do người đi lại ở cầu thang truyền vào nhà. Tuy nhiên, không phải cứ mở cửa ra nhìn thấy cầu thang ở bất kỳ hướng nào cũng đều không tốt, có một số hướng nếu có cầu thang cũng không ảnh hưởng gì.
Để hóa giải thế “Khai khẩu sát”, bạn có thể dán lên cửa một bức tranh về con kì lân hoặc chôn xuống bên trong bậc cửa xâu tiền đồng lục đế (sáu đồng tiền đồng).
I – Thiên địa nhân
Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất.
Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người.
Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên.
Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên.
Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu.
II – Thiên nguyên
Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý.
1 – Ngũ hợp của thiên can
Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục.
Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận.
2 – Tính chất của ngũ hợp
Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính.
Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa.
Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự.
Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn.
Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình.
5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp.
3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục
Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ.
Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim.
Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy.
Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc.
Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa.
Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân.
4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ
Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa.
a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục.
b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học).
Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can.
5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận
a – Ngũ hợp chỉ có 2 can
1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này).
2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác).
3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác).
4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác.
5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn.
b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên
Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật.
1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ.
2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau.
Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới).
Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau).
III - Địa nguyên
Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân.
Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)).
Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148).
1 - Lục hợp của địa chi
Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục.
Ngọ...........Mùi..................Thổ cục.
Dần...........Hợi..................Mộc cục.
Mão...........Tuất.................Hỏa cục.
Thìn..........Dậu..................Kim cục.
Tị............Thân.................Thủy cục.
Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ.
2 – Tam hợp của địa chi
Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục.
Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục.
Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục.
Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục.
Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị....
3 - Các bán hợp của địa chi
Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục.
Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục.
Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục.
Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục.
Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị.
Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục).
4 – Tam hội của địa chi
Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục.
Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục.
Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục.
Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục.
Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo.
Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ).
5 - Lục xung của địa chi
Tý....với..Ngọ...là tương xung
Mão........Dậu................
Dần........Thân...............
Tị...........Hợi................
Thìn.......Tuất...............
Sửu.........Mùi................
Trong đó:
Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa.
Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc.
Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc.
Trong đó:
Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi.
6 – Tương hại của địa chi
a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý
b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu
c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần
d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão
e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân
f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu
Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp :
Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ).
Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ).....
Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần.
7 – Tương hình của địa chi
Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến.
Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến.
Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên .
Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau.
8 - Tự hình của địa chi
Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “.
9 - Tứ hình của địa chi
Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả.
10 - Tứ trự hình của địa chi
Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi.
(Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.)
11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ
Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh.
a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn.
Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận).
Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn).
b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá).
c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục.
12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận
a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn.
b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận.
c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ.
f – Địa chi tranh hợp thật :
1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục.
2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục.
Giải thích :
Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông.
Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục).
3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155).
4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165).
Giải thích :
Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?)
13 - Thiên Khắc Địa Xung
A - Thiên khắc địa xung
Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX):
1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ.
2 – TKĐX có chi là Thổ.
3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau.
TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung.
B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc
1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như :
Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ
Bính...............Canh.............Đinh............Tân
Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý
Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất
Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh.
2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như:
Tý.....khắc....Ngọ
Dậu..............Mão
Hợi...............Tị
Thân..............Dần
Thìn..............Tý
3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như :
Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất
Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn
Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi
Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu
Tý...................Thìn.
Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều.
Ví dụ :
1 - Trụ Giáp Tý TKĐK với trụ Mậu Ngọ bởi vì trụ Giáp Tý có Giáp khắc Mậu và Tý khắc Ngọ.
2 - Trụ Giáp Ngọ TKĐX với trụ Mậu Tý bởi vì trụ Giáp Ngọ chỉ có Giáp khắc Mậu còn Ngọ chỉ xung Tý.
3 - Trụ Giáp Thìn TKĐX với Mậu Tuất bởi vì trụ Giáp Thìn chỉ có Giáp khắc Mậu còn Thìn chỉ xung Tuất.
14 – Thời gian của các trụ trong tứ trụ mang vận hạn
Trụ năm mang vận hạn từ khi mới sinh đến tròn 15 tuổi.
Trụ tháng mang vận hạn từ 15 tuổi đến tròn 30 tuổi.
Trụ ngày mang vận hạn từ 30 tuổi đến tròn 45 tuổi.
Trụ giờ mang vận hạn từ 45 tuổi tới tròn 65 tuổi.
Từ 65 tuổi trở đi trụ năm mang vận hạn (hay là ở cả 4 trụ ?).
Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì điểm hạn của tất cả các lực xung hay khắc vào trụ này đều phải tăng gấp đôi, trừ can chủ khắc của nó ở lưu niên nhược ở tuế vận.
Xem các giả thiết từ số 166/ tới 168/ ở chương 14.
IV - Nhân nguyên
Địa chi tàng chứa từ 1 đến 3 can, các can tàng này được gọi là Nhân nguyên (các nguyên nhân của người). Các can tàng này chính là 10 thần, là các thần nắm sự việc,.... chúng đại diện cho các yếu tố chủ quan của người có tứ trụ. Do vậy chúng ta rất khó dự đoán được các yếu tố này khi nào sẽ phát sinh và biểu hiện ra bên ngoài. Thiên can đã lộ ra trong tứ trụ (can năm, can tháng và can giờ) cũng có các đặc tính như vậy nhưng vì nó đã lộ ra ngoài nên dễ nhận biết được để dự đoán.
1 – Các can tàng trong địa chi
Quý....................tàng trong Tý...........Kỷ, Tân và Quý.....tàng trong Sửu
Giáp, Bính và Mậu ..............Dần..........Ất....................................Mão
Mậu, Quý và Ất..................Thìn.........Bính, Canh và Mậu................Tị
Đinh và Kỷ.........................Ngọ..........Kỷ, Ất và Đinh.....................Mùi
Canh, Nhâm và Mậu...........Thân.........Tân...................................Dậu
Mậu, Đinh và Tân................Tuất.........Nhâm và Giáp........................Hợi
Chú ý : Can tàng có cùng hành với hành của địa chi mà nó tàng được gọi là can tàng bản khí hay chính khí (bởi vì nó có lực mạnh hơn các lực của các can tàng khác trong địa chi đó) còn các can tàng khác trong địa chi này (nếu có) được gọi là can tàng phụ.
Ví dụ 1 : Tị tàng chứa các can Bính, Mậu và Canh trong đó Bính là can tàng mang bản khí hay khí chính (tức là hành Hỏa là hành chính của Tị), vì vậy Bính có lực mạnh hơn lực của Mậu và Canh chỉ mang hành là tạp khí hay khí phụ là Thổ và Kim. Mậu và Canh được gọi là can tàng phụ.
Ví dụ 2 : Dậu chỉ có chứa 1 can tàng Tân là bản khí, không có tạp khí.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Quán Thế Âm Bồ Tát là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật, nhưng còn nguyện lẫn lộn ở cõi ta bà để cứu độ chúng sinh. Người ta cũng gọi Ngài là Quan Âm Phật, Quan Âm Bồ Tát, Quan Âm Như Lai, Quan Thế Âm, Quan Âm Nam Hải, Phổ Đà Phật Tổ, v.v...
Quyền pháp năng lực của Ngài cao siêu.
Quyển kinh nói về Ngài, mà hiện nay phái Bắc Tôn (Trung Hoa, Cao Ly, Nhật Bổn, Việt Nam) còn truyền tụng là quyển “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”. Theo lời kinh Phổ Môn bất cứ là hạng nào trong chúng sanh, bất cứ là ở vào tình cảnh nào, lúc nào, hễ cầu đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài thì đặng cứu ngay. Ngài dùng huyền diệu cứu vớt chúng sanh không biết muôn ức nào mà kể.

Nếu cầu Ngài với danh hiệu thuộc về một phân thân nào của Ngài thì Ngài xuất hiện y theo phân thân ấy để cứu độ. Kinh Phổ môn có biên rành 12 điều đại nguyện của Ngài.
Theo kinh truyện để lại, Ngài phân thân giáng trần 33 kiếp, khi thì mượn xác nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì ở vào cảnh quyền quý cao sang, khi thì vào hàng bần cùng cơ khổ, khi thì sanh làm đạo sĩ, khi thì làm tỳ khưu, v.v...
Hiện nay đời còn truyền tụng hai kiếp giáng trần làm phụ nhơn của Ngài là: kiếp thứ mười làm bà Thị Kính, kiếp chót làm bà Diệu Thiện. Sau khi thoát kiếp chót này Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn (Nam Hải).
Trước kia Đức Quan Âm Bồ Tát tu đã đặng tám kiếp rồi. Qua tới kiếp thứ chín Ngài phân thân nam nhi đi tu chứng bực tỳ khưu. Khi kiếp thứ chín của Ngài gần mãn thì Đức Thích Ca giáng xuống thử lòng. Đấng Thế Tôn hiện ra một người con gái tới lần khân ép nài vị tỳ khưu kia kết duyên với mình. Vị này mới thốt rằng: “Có chăng họa may là kiếp sau, chớ kiếp này vì lời thề nguyện tu trì thì không thể nào đặng”. Vì lời hứa ấy mà sau khi mãn kiếp thứ chín rồi vị tỳ khưu kia phải giáng trần đầu thai làm thiếu nữ, suốt đời phải chịu trăm điều cay đắng về vấn đề tình duyên để thử lòng Ngài coi ra sao.
Vâng lệnh của Đức Phật Tổ chơn linh vị Bồ Tát kia bèn giáng trần đầu thai làm con gái nhà họ Sùng là Sùng Ông, một nhà giàu có ở xứ Cao Ly lại là nhà từ tâm chưởng đức. Hai ông bà tuổi đã cao mà không con nên đi cầu tự và sanh ra nàng Thị Kính, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang. Hai ông bà mừng được chút gái để có người hôm sớm trong lúc tuổi già. Khi nàng đã đúng tuần cập kê thì gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà quyền quý trâm anh cậy mai đến nói. Vợ chồng Sùng Ông thấy phải đôi vừa lứa bèn chịu gả con gái mình.
Đến ngày nạp thái vu quy nàng Thị Kính buồn tủi muôn phần! Buồn là vì thấy mình là con một, một khi đã xuất giá rồi thì bề nhà sau trước quạnh hiu, lấy ai mà thần tỉnh mộ khang thế cho mình! Tủi là lỡ sanh làm con gái thì đúng tuổi phải xuất giá tòng phu rủi may phải chịu và ơn sanh thành không sao trả đặng! Cha mẹ nghe nàng than thở làm vậy bèn kiếm lời khuyên giải và nói rằng: "Cha mẹ sanh con là gái, thì khôn lớn có nơi có chốn làm đẹp mặt nở mày mẹ cha đó là đủ rồi". Con chẳng nên lo điều chi khác nữa! Vả lại nhà bên chồng con cũng gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện. Nghe vậy nàng mới an lòng chiều ý muốn của cha mẹ. Từ khi về nhà chồng, nàng giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong êm ngoài ấm, ai nấy đều khen.
Một ngày kia nàng đương ngồi may, chàng Thiện Sĩ sau khi đọc sách mỏi mệt mới ra gần chổ nàng may mà nằm nghỉ, luôn dịp ngủ quên. Từ khi về nhà chồng đến giờ nàng chưa có dịp nhìn chàng cho chính đính. Nay có cơ hội đưa đến nàng, nhơn lúc chàng ngon giấc mà nhìn kỹ mặt đức lang quân. Chợt thấy dưới cầm chàng có mọc một sợi râu và biết coi tướng ít nhiều, nàng thấy quả là sợi râu bất lợi! Nhơn cầm sẵn cái kéo trong tay nàng mới đưa kéo ra cắt lấy. Đương lúc ấy, chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ cầm kéo đưa ngay cổ mình, vụt la hoảng lên rằng: “Vợ tôi muốn giết tôi.” Trong nhà vỡ lở, cha mẹ gia tướng chạy đến gạn hỏi. Nàng tình thật cứ nói ngay, không ngờ cha mẹ chồng quá ư nghiêm khắc bắt tội nàng có ngoại tình và mưu giết chồng. Nhơn cớ ấy cha mẹ chồng buộc chàng Thiện Sĩ làm tờ để vợ và mời vợ chồng Sùng Ông đến lãnh con về. Vợ chồng Sùng Ông hơ hãi tới nơi mới tường tự sự. Hai ông bà kêu con ra hỏi, rầy la than trách một hồi rồi lãnh con về.
Lúc ấy Thiện Sĩ lòng như dao cắt, tưởng là việc đáng bỏ qua không dè đến nỗi rẽ thúy chia loan thì chàng ăn năn vô ngần, châu rơi lã chã. Khi nàng Thị Kính lạy từ công cô và chàng ra về, vì sợ uy cha mẹ chàng chẳng dám hở môi nói bào chữa nàng một lời nào.
Về nhà, nàng Thị Kính buồn bã muôn phần. Một là buồn cho số phận long đong, tình duyên trắc trở; hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não trong lòng.
Vì nàng là một người đàn bà chân chính may rủi một chồng mà thôi, nàng khăng khăng không chịu “ôm cầm thuyền ai”. Nàng than rằng nếu có anh em đông thì nàng cũng đành nhắm mắt cho rồi để khỏi mang tiếng nhơ. Nhưng vì nàng là con một, nàng không nỡ hủy mình, sợ e thất hiếu, mà ở như vậy thật rất khổ tâm cho nên nàng quyết chí xuất gia, noi gương Phật Tổ, tu hành cho đắc đạo rồi trở về độ lại mẹ cha.
Một hôm, nàng lén cải trang nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi. Hay tin cha mẹ nghi nàng vì buồn tình xưa mà sanh nhẹ dạ theo người và sai người đi kiếm cùng nơi mà không gặp.
Từ khi nàng lìa gia đình ra đi thì nàng có ý tìm một cảnh chùa để gởi thân. Đến ngôi chùa được chọn nàng gặp giờ sư cụ đang thuyết pháp. Nàng trộm xem tướng mạo thì thấy rõ đó là một bậc chơn tu, đạo pháp khá lớn. Nàng bèn xin thọ pháp quy y. Sư cụ ban đầu rất nghi ngờ nàng, bèn ngọn hỏi ngành tra vì sợ e trang thiếu niên kia sau này bán đồ nhi phế mà đắc tội với Phật Trời. Nàng thì một mực nói mình là một thư sanh, con nhà quyền quý, lòng chán công danh nên vào nương nhờ cửa Phật để gột rửa lòng phàm.

Thấy chí quả quyết của vị thiếu niên, sư ông mới vui nhận cho làm đệ tử và ban pháp danh là Kính Tâm.
Vì sãi Kính Tâm là nữ trá hình cho nên dung mạo khôi ngô kiều mị, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhất là nàng Thị Mầu, con của một vị phú ông trưởng giả vùng ấy. Mượn cớ ra vô trong chùa, nàng Thị Mầu lắm khi đưa tình trêu ghẹo sãi Kính Tâm, nhưng nàng vẫn trơ trơ như không hay không biết. Thất vọng, Thị Mầu mới quay lại tư tình với đứa ở của nàng. Khi thai đã gần già, khí sắc nàng đổi, làng xã thấy thế mới đòi phú ông và nàng ra hỏi.
Chịu đòn không kham, Thị Mầu túng phải cung xưng. Trong khẩu cung Thị Mầu quả quyết rằng mình có tư tình với sãi Kính Tâm nên mới ra cớ đỗi và xin làng rộng lượng cho sãi Kính Tâm hoàn tục kết duyên với mình.
Trống mõ inh ỏi, cửa thiền xưa nay êm lặng phút chốc trở nên huyên náo, sóng dậy ba đào. Người nhà làng đến chùa đòi sư ông và sãi Kính Tâm ra nghe dạy việc.
Thầy trò cùng dắt nhau đi. Đến nơi mới hay tự sự! Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao nói thiệt. Trò một mực kêu oan chớ không nói điều chi thêm nữa. Hương đảng đông đủ tra hỏi sãi nhỏ đủ điều, khi dọa, khi khuyên nhủ rằng: Nếu nói thật thì làng cũng chứng cho để lập gia thất. Kẻ thì mai mỉa: Sãi kia tu có trót đời không? Rốt cuộc vì không chịu xưng tội tình và một mực kêu oan cho nên sãi Kính Tâm phải bị đem ra tra tấn.
Đứng trước cảnh thịt nát máu rơi và thấy trò bất tỉnh, sư ông mới động mối từ tâm đứng ra xin bảo lãnh cho trò để sau này về nhà khuyên nhủ dạy răn.
Thấy thế hương đảng cũng niệm tình ưng thuận cho sư tiểu cùng về. Đến chùa, Sư ông dạy tiểu ra ở ngoài tam quan để tránh tiếng không tốt cho chùa.
Thời gian qua, Thị Mầu đến ngày mãn nguyệt khai hoa, hạ sanh đặng một mụn con trai. Nàng bèn bồng hài nhi đến cửa tam quan bỏ đó rồi về, nói rằng: “Con của ngươi, đem trả cho ngươi.” Sãi Kính Tâm đương tụng kinh nghe đứa nhỏ bị bỏ dưới đất giãy giụa khóc la, động mối từ tâm người bèn ra ẵm đứa bé vào, mướn vú nuôi bên tự. Mẹ vò nuôi con nhện lắt lẻo qua ngày.
Hết thời trì kinh thì sãi Kính Tâm lại phải giữ gìn bồng bế đứa trẻ. Nghe vậy, sư cụ mới vời sãi Kính Tâm vào mà trách rằng: “Trước kia con nói rằng con bị hàm oan, mà nay như thế thì chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa là ai?”
Sãi Kính Tâm bèn bạch rằng: “Bạch sư phụ, khi xưa sư phụ có dạy đệ tử rằng cứu đặng một người, phước đức hà sa. Đệ tử vâng lời thầy mới cứu mạng đứa trẻ này, chớ kỳ trung con không có ý chi hết.”
Tuy vậy sãi Kính Tâm cũng không đặng phép vô ra trong chùa để tránh tiếng cho chùa.
Đứa trẻ khi đặng hai, ba tuổi đã có vẻ thông minh và giống sãi Kính Tâm như hệt. Khi hài nhi đúng ba tuổi thì sãi Kính Tâm đến ngày phải theo Phật. Biết trước giờ phân ly, sãi Kính Tâm mới viết hai bức thơ gởi lại, một kính gởi cho sư cụ, còn một bức thì gởi cho cha mẹ ruột. Khi sãi Kính Tâm tắt hơi thì đứa nhỏ y như lời cha dặn đem bức thơ vào dâng cho sư cụ.
Xem thơ xong, sư ông rất ngậm ngùi, bèn phái vài vị ni cô ra coi tẩm liệm. Khám xét xong thì mới hay sãi Kính Tâm là nhi nữ trá hình.
Tin ấy truyền ra hương lân nhóm lại đòi cha con Thị Mầu đến buộc tội cáo gian và phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho sãi Kính Tâm. Bằng chứng sờ sờ phú ông phải chịu, Thị Mầu xấu hổ muôn phần bèn quyên sinh để trốn khổ nhục.
Đến ngày an táng sãi Kính Tâm thì thiên hạ đồng thấy Phật hiện trên mây rước hồn sãi Kính Tâm là nàng Thị Kính. Hai vợ chồng Sùng Ông và Thiện Sĩ đặng thơ và hay tin đau đớn này đồng có đến dự. Sau cuộc tống táng vợ xưa Thiện Sĩ ăn năn lỗi trước bèn phát nguyện tu hành.
Tục truyền rằng Thiện Sĩ sau đắc quả thành con chim ngậm xâu chuỗi bồ đề, đậu một bên Đức Phật Quan Âm, Đức Phật Quan Âm cũng độ luôn con của Thị Mầu đắc quả hầu gần bên Ngài.
Ngày nay, người xứ ta và người Tàu khi họa tượng Phật Quan Âm thì thường họa một bà đội mũ ni xanh hoặc đen, ngồi trên tòa sen hoặc thạch bàn, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Ấy là con của Thị Mầu.
Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hòa Lan tên là De Groot thì trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.
Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ bên phương Tây có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự. Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).
Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng DIệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây... Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.

Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn. Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.
Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ. Nhà văn Toan Ánh trong quyển "Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam Quyển Hạ" cho rằng: Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh.
Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài thành, nhà vua gặp một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như tuyết. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, nhà vua đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu trông trăng nên còn gọi là Tết Trông Trăng.

Trong đêm 15 tháng 8 âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.

Còn thưởng trăng vốn bắt nguồn từ việc cúng trăng. Đến đời Đường, thú ngắm trăng dịp Trung thu trở nên thịnh hành, thể hiện nhiều trong thơ ca thời này. Nhưng đến đời Tống, lễ hội ngắm trăng mới chính thức trở thành Tết Trung thu. Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng (bánh nướng, bánh dẻo) trong dịp Tết Trung thu cũng bắt đầu từ thời này.
Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.

Trong ngày Tết Trung Thu người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh của các bà các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya.
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này.
Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.

Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v. Người Trung Hoa không có phong tục này.
Ngọc Linh tổng hợp
![]() |
![]() |
| ► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Tháng 9, cơ hội bứt phá trong sự nghiệp dành cho con giáp nào?
Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp, cho nên tại những vị trí này, Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì không kiếp, và cũng như các đàn anh, Thiên Không chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng.
Người có THIÊN KHÔNG hãm địa thủ mệnh thì tính tình gian xảo, qủy quyệt, chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc gì ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì cũng tự hại mình mà thôi.
Người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành gian hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của THIÊN KHÔNG là chúng ta có thể ví người Thiên Không là người “nhị trùng bản ngã”. Trong con người THIÊN KHÔNG có một người thiện, một người ác, có chính, có tà…Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận đương số là anh hùng, nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gian hùng nếu có thêm Thiên Không đồng thủ mệnh.
Cái bản ngã thứ nhì của THIÊN KHÔNG hiểu theo triết lý nhà Phật thì THIÊN KHÔNG còn có ý nghĩa “sắc sắc không không” Cho nên, người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có những ý nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người THIÊN KHÔNG là sự dằn vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của THIÊN KHÔNG, một thiện một ác, một chánh một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co đương số suốt cả cuộc đời: Mệnh tọa Thiên Không định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ còn tùy thuộc vào những sao phối hợp mà chúng ta đề cập sao đây.
Sự cân nhắc thận trọng với lá số THIÊN KHÔNG lại càng nên thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng cho sắc đẹp, nghệ thật và nhất là nữ phái. Có nhiều sách cho rằng THIÊN KHÔNG thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ, cũng là những người có khả năng quyến rũ người khác phái bằng những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của người viết, chúng ta phải phân biệt hai trường hợp.
Đối với nam mệnh, THIÊN KHÔNG là biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên nam phái có TH + ĐH ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những ưu điểm trời phú cho mình như nhân dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền thế..v.v…Nói chung là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan Phủ… thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách trắng trợn.
Đối với phái nữ, Đào Hoa là biểu tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn THIÊN KHÔNG là lửa trên trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này là người có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa:
Sự duyên dáng từ cử chỉ đến cách ăn nói của người đàn bà, và cũng là ý nghĩa của duyên phận. Chúng ta thường thấy những người đàn bà có sắc đẹp bên ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp dẫn nào qua tính tình hay nội tâm. Họ cũng như cành hoa hữu sắc vô hương, và phải chăng vì vậy mà Đào Hoa ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ nam phái.
Và tương tự, chúng ta nên thận trọng trong việc giải đoán với sao Hồng Loan, cùng ý nghĩa như Đào Hoa. Mệnh có Thiên Không + Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật, và khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng. Hai chữ “không hồng” với quan niện triết lý của nhà Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần?
Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có Thiên Không thủ mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v…Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người THIÊN KHÔNG thủ Mệnh là mẫu người Bán Thiên Triết Sỉ = Lưng Trời Gãy Cánh.
Người có cách Tham Vũ Đồng Hành là người làm nên sự nghiệp từ thương trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại đau thương rồi mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh, có người gãy đổ trên đường tình ái… Và cho đến việc tu hành cũng không phải là con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.
Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc tính lưng trời gãy cánh khi THIÊN KHÔNG nhập hạn. Một tay chọc trời khuấy nước như Hạng Võ mà hạn gặp THIÊN KHÔNG cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn bên dòng Ô Giang. Hạn gặp Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu tính chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu thì chung cuộc cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán.
Những tác hại của THIÊN KHÔNG sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu vì cung mệnh của họ vốn đã là “không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Những người có Nhật Nguyệt thủ mệnh cũng không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt lại càng sáng tỏ trong bầu trời không gợn áng mây che.
Cuối cùng, một đặc điểm oái oăm khác của mẫu người Thiên Không là cho dù hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp, có quyền cao chức trọng, thì cũng nên hiểu rằng chung cuộc của mình rồi cũng hai bàn tay trắng mà thôi.
Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng không phải chỉ những chính tinh mới quyết định số mệnh của một con người, mà đôi lúc những phụ tinh lại là những khúc quanh rất quan trọng của đời người.
Phong thủy cũng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống vợ chồng. Nhà xây ở hướng ngũ quỷ sẽ hay làm vợ chồng cãi vã, là mầm mống gây ra tan vỡ hạnh phúc gia đình.
Theo bát quái, mỗi người có 4 hướng tốt và 4 hướng xấu.
4 hướng tốt là: Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị.
4 hướng xấu là: Họa Hại, Ngũ Quỷ, Lục Sát, Tuyệt Mạng.
Ngũ Quỷ là hướng bị chiếu bởi sao Liêm Trinh, rất xấu trong hôn nhân. Bởi vậy bạn nên tránh làm nhà quay sang hướng này, hoặc ít nhất tránh cửa chính của bạn quay sang hướng này. Trong trường hợp không thể thay đổi hướng, có thể dùng những biện pháp, vật phẩm phong thủy để hóa giải, giảm trừ tác dụng xấu do hướng Ngũ Quỷ gây ra.

Để xác định các hướng tốt xấu phải dựa vào bát trạch, dưới đây là hướng Ngũ Quỷ ứng với năm sinh để bạn tham khảo!
– Người sinh năm 1915, 1924, 1933,1942, 1951, 1960, 1969, 1978, 1987, 1996…: hướng Ngũ Quỷ là hướng Tây-Nam.
– Người sinh năm 1917, 1926, 1935, 1944, 1953, 1962, 1971, 1980, 1989, 1998… : hướng Ngũ Quỷ là hướng Đông-Nam.
– Người sinh năm 1919, 1928, 1937, 1946, 1955, 1964, 1973, 1982, 1991…: hướng Ngũ Quỷ là hướng Tây.
– Người sinh năm 1918, 1927, 1936, 1945, 1954, 1963, 1972, 1981, 1990, 1999… : hướng Ngũ Quỷ là hướng Đông-Bắc.
– Người sinh năm 1916, 1925, 1934, 1943, 1952, 1961, 1970, 1979, 1988, 1997…: hướng Ngũ Quỷ là hướng Tây-Bắc.
– Người sinh năm 1920, 1929, 1938, 1947, 1956, 1965, 1974, 1983, 1992…: hướng Ngũ Quỷ là hướng Bắc.
– Người sinh năm 1922, 1931, 1940, 1949, 1958, 1967, 1976, 1985, 1994…: hướng Ngũ Quỷ là hướng Đông.
– Người sinh năm 1921, 1930, 1939, 1948, 1957, 1966, 1975, 1984, 1993…: hướng Ngũ Quỷ là hướng Nam.
![]() |
Phạm Hương - con giáp kém may mắn nhất Miss Universe 2015| ► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Đám cưới đã được dự tính và lên kế hoạch trước ít nhất là sáu tháng trở lên. Tuy nhiên, gần đến ngày cưới thì gia đình cô dâu hoặc gia đình chú rể lại có người thân đau ốm nặng. Hoặc khi đám cưới đã được chuẩn bị gần xong thì cũng là lúc có người thân vừa qua đời, hoặc đang trong tình trạng nguy kịch, hầu hết các gia đình chọn hình thức cưới chạy tang. Cưới chạy tang thực chất là hình thức cưới tránh tang, tức là tổ chức hoàn tất đám cưới trước khi phát tang.
Sở dĩ có chuyện cưới chạy tang là do có phong tuc tap quan để tang 3 năm khi người mất là ông, bà, cha, mẹ hoặc một khoảng thời gian nhất định đối với những người thân trong gia đình. Trong suốt thời gian này, giađình không được tổ chức lễ cưới, ít hội họp, tiệc tùng để tỏ lòng thương tiếc đối với người đã khuất. Vì vậy, để tránh lỡ làng hôn sự đã được dày công chuẩn bị, các đám cưới được nhanh chóng tiến hành. Lúc này gia đình hai bên sẽ phải nhanh chóng chuẩn bị hôn lễ cho cô dâu chú rể trước ngày đã ấn định để tránh “ưu-hỷ trùng phùng”.
Cô dâu, chú rể khi chuẩn bị cưới chạy tang
Trường hợp cưới chạy tang khó khăn nhất là khi hai gia đình ở xa. Việc phát tang không thể đình lại quá lâu, nên không kịp thời gian tổ chức lễ cưới chu đáo ở cả hai nhà. Điều này cũng ít nhiều khiến cặp đôi, nhất là cô dâu có tâm lý tủi thân. Hôn lễ là chuyện cả đời người chỉ có một lần, mà lại không thể tổ chức long trọng như ý muốn. Hơn nữa, áp lực về thời gian khi tất cả đều chuẩn bị gấp gáp, những cảm xúc buồn vui đan xen lẫn lộn, khi nhân lực trong gia đình không thể tập trung để hỗ trợ vì còn vướng bận chuyện tổ chức tang lễ… cũng tạo ra gánh nặng tâm lý đối với cô dâu và chú rể.
Trong trường hợp này, việc ra một kế hoạch rõ ràng, tập trung thực hiện và nếu có thể, liên hệ với những bạn bè thân thiết nhất để được hỗ trợ là điều cô dâu chú rể nên thực hiện. Không nên quá căng thẳng hay áp lực vì những sơ suất gặp phải trong đám cưới, vì cuộc sống lâu dài sau khi kết hôn mới là điều quan trọng mà bạn cần hướng đến.
Cưới chạy tang vẫn phải đảm bảo các nghi lễ trong phong tục cưới hỏi Việt Nam.

Trong phong tục cưới hỏi Việt Nam, đám cưới không chỉ là ngày vui của đôi trai gái, mà còn là hỷ sự, là ngày vui chung được cả đại gia đình đón đợi. Tuy nhiên cuộc sống thường xảy ra rất nhiều những tình huống không thể lường trước được. Một trong những tình huống không mong muốn trong thời gian chuẩn bị cho đám cưới là việc gia đình hai bên có người đột ngột qua đời hoặc vì lý do đau yếu khó qua khỏi. Nhưng vì đám cưới đã được chuẩn bị không thể dời lại, hay vì cặp trai gái và gia đình cũng không muốn để hết mãn tang mới cử hành hôn lễ. Lúc này hai gia đình sẽ gấp rút chuẩn bị mọi thứ cho đám cưới. Cưới chạy tang thường tổ chức đơn giản, gọn lẹ, tránh cầu kỳ phô trương, có thể bỏ bớt các lễ nghi nhưng về cơ bản vẫn phải giữ đúng trong phong tục cưới hỏi Việt Nam.
Cưới chạy tang thường tổ chức đơn giản, gọn lẹ, tránh cầu kỳ phô trương
Tránh “ưu - hỷ trùng phùng”
Đám cưới đã được dự tính và lên kế hoạch trước ít nhất là sáu tháng trở lên. Tuy nhiên, gần đến ngày cưới thì gia đình cô dâu hoặc gia đình chú rể lại có người thân đau ốm nặng, được dự xác định là sắp qua đời. Lúc này gia đình hai bên sẽ phải nhanh chóng chuẩn bị hôn lễ cho cô dâu chú rể trước ngày đã ấn định để tránh “ưu-hỷ trùng phùng”. Bởi trong phong tục cưới hỏi Việt Nam, nếu nhà có tang, nhất là đám tang của những người ruột thịt thì cô dâu chú rể phải hoãn đám cưới từ một đến ba năm.
Nếu nhà có tang, thì cô dâu chú rể phải hoãn đám cưới từ một đến ba năm
Tổ chức đám cưới khi nhà vừa có đám tang người thân ruột thịt
Nếu nhà có đám tang của người thân như ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt vừa qua đời, nhưng vì rất nhiều lý do không thể hoãn lại đám cưới. Ví như việc hai bạn đã thu xếp công việc và có những kế hoạch sau đám cưới không thể dời lại, hai bạn đã lỡ “ăn cơm trước kẻng”, hay trong một vài năm tới sẽ không có ngày hợp tuổi để hai bạn tổ chức hôn lễ… Vậy làm thế nào để tổ chức một đám cưới có tính chất chạy tang nhưng vẫn phải đảm bảo đúng theo phong tục cưới hỏi Việt Nam?.
Nghi thức cưới bên gia đình có tang sẽ đơn giản bớt các thủ tục nghi lễ và cũng tránh cầu kỳ, rầm rộNếu gia đình nhà gái có đám tang thì mọi nghi lễ ăn hỏi sẽ được tổ chức đơn giản và chỉ đãi tiệc vào ngày cưới, khách khứa cũng sẽ bị giới hạn. Bố mẹ cô dâu và những người có tang sẽ không đưa cô dâu sang nhà chồng trong ngày rước dâu mà nhờ tới những người đại diện. Ngược lại, nếu nhà trai có đám hiếu thì số lượng đoàn rước sang nhà gái cũng bị rút gọn. Những nghi lễ cơ bản vẫn phải được tiến hành đúng các nghi lễ theo phong tục cưới hỏi Việt Nam. Tuy nhiên nếu gia đình bên nào có người mới qua đời thì nghi thức cưới bên gia đình đó sẽ đơn giản bớt các thủ tục nghi lễ và cũng tránh cầu kỳ, rầm rộ.
Tổ chức đám cưới khi nhà vừa có đám tang của những người họ hàng xa
Lúc trước “cưới chạy tang” thường dùng để chỉ những đám cưới “chạy” trước khi nhà có đám hiếu, thì giờ đây nó dùng để chỉ cả những đám cưới khi gia đình có đám hiếu mới diễn ra. Tuy việc tổ chức đám cưới khi gia đình vừa có đám hiếu của một người họ hàng xa đã có phần bớt khắt khe hơn. Đám cưới vẫn sẽ tiến hành phong tục cưới hỏi Việt Nam theo đúng dự tính ban đầu. Nhưng trong đám cưới nên hạn chế mời những người có quan hệ gần với người vừa qua đời tham dự hôn lễ. Sau đám cưới, đôi vợ chồng mới nên đến thăm hỏi gia đình nhà có tang và tỏ lòng thành kính với người mới qua đời.
Sau đám cưới, vợ chồng mới nên đến thăm hỏi gia đình nhà có tang và tỏ lòng thành kính với người mới qua đời
Tổ chức đám cưới khi nhà hàng xóm có đám hiếu
Bạn muốn tổ chức một đám cưới thật rầm rộ, hoành tráng để kỷ niệm ngày vui đáng nhớ nhất trong đời. Nhưng không may ngày cưới của bạn lại là ngày nhà hàng xóm có đám hiếu. Đây là điều mà tất cả mọi người đều không mong muốn. Trong trường hợp này, bạn vẫn có thể tiến hành hôn sự theo đúng phong tục cưới hỏi Việt Nam, nhưng hãy hạn chế tối đa sự phô trương trong đám cưới. Không bật nhạc, loa đài ầm ĩ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười sẽ gây khó xử cho cả gia đình hai bên và các quan khách đến dự lễ cưới hay phúng viếng đám tang.
Một số kiêng kỵ trong đám cưới chạy tang
Tổ chức lễ cưới khi gia đình còn tang cần hạn chế về quy mô và giới hạn số lượng khách mời. Khi mở tiệc đãi khách, gia đình chỉ mời những người đặc biệt thân thiết. Khi tổ chức lễ thành hôn trên hội trường, bố mẹ của một trong hai nhân vật chính của nhà có tang sẽ không được lên trên sân khấu hay phát biểu trong lễ cưới như kịch bản thường thấy. Vì đại diện của một bên gia đình không thể xuất hiện nên để cân đối, bên đại diện còn lại cũng không lên sân khấu mà chỉ có cô dâu chú rể thực hiện nghi lễ kết hôn trong sự chứng kiến của người thân, bạn bè. Tuy nhiên, hiện nay, suy nghĩ kiêng kỵ cũng dần thoáng hơn và việc tổ chức đám cưới khi nhà đang có tang cũng vì thế mà không khắt khe như cũ. Với cô dâu chú rể gặp đám tang là người ruột thịt, cách giải quyết có thể vẫn giữ nguyên lịch trình tổ chức cưới, nhưng cũng phải làm nhanh gọn. Khi mở tiệc đãi khách tại khách sạn không được mời khách tới dự đám cưới rộng rãi, chỉ mời những người đặc biệt thân thiết. Khi tổ chức lễ thành hôn trên hội trường, bố mẹ của một trong hai nhân vật chính của nhà có tang sẽ không được lên trên sân khấu hay phát biểu trong lễ cưới như kịch bản thường thấy.Vì đại diện của một bên gia đình không thể xuất hiện để cân đối, bên đại diện còn lại cũng không lên sân khấu mà chỉ có cô dâu chú rể thực hiện nghi lễ kết hôn trong sự chứng kiến của người thân, bạn bè.Nếu đôi uyên ương không có quan hệ ruột thịt với người quá cố, trong lễ cưới của họ, những người thân ruột thịt với người mới mất sẽ tránh tới tham dự.
Phong thủy có tác dụng mang tính quyết định tới vận thế của mỗi người. Theo phong thủy học, mỗi phương vị đại diện cho một vận thế khác nhau, vì vậy, nếu biết cách bài trí các vật phong thủy hoặc chú trọng tới bố cục của phương vị đó, bạn có thể làm vượng vận thế của mình.
Sự nghiệp
Đặt bể cá ở hướng chính Bắc để thúc đẩy vận thế sự nghiệp.
Hướng chính Bắc đại diện cho vận thế sự nghiệp, thuộc Thủy hành, màu sắc may mắn là xanh lam và đen. Ở vị trí này, các vật thuộc Thủy sẽ có tác dụng hỗ trợ rất lớn đối với sự nghiệp của người trong nhà, như bể cá, tranh non nước,... Bạn cũng có thể đặt các vật trang trí bằng kim loại màu đen, do Kim có thể sinh Thủy.
Danh tiếng
Hướng chính Nam đại diện cho vận thế danh tiếng, thuộc Hỏa hành, màu sắc may mắn là màu đỏ. Hướng chính Nam thích hợp treo các tranh phượng hoàng, hồng hạc gọi mặt trời… Các vật màu đỏ như thảm màu đỏ, đồ gỗ màu đỏ đều thích hợp đặt ở đây. Nếu đặt thêm đèn chiếu sáng ở vị trí này, thanh danh của bạn sẽ được nâng cao.
Sức khỏe
Hướng chính Đông có liên quan tới sức khỏe của người trong nhà. Vị trí này đặt các loại cây cành lá xum xuê có thể thúc đẩy sức khỏe và tuổi thọ của người trong nhà. Các vật trang trí thuộc Thủy như tranh sơn thủy cũng rất thích hợp, do Thủy có thể nuôi Mộc.
Con cháu
Hướng chính Tây có liên quan tới vận thế con cháu, ngũ hành thuộc Kim, thích hợp với màu trắng, vàng kim, bạc. Các vật điêu khắc kim loại; chuông gió kim loại gồm 6 cột, bên trong rỗng; tivi và loa đài đều thích hợp đặt ở khu vực này. Do Thổ có thể sinh Kim, nên đặt bình hoa màu trắng hoặc thủy tinh ở đây có tác dụng thúc đẩy việc sinh con, sinh cháu.
Học hành (Văn Xương)
Bình hoa sứ đặt ở phía Đông Bắc có tác dụng hỗ trợ cho việc thi cử, học hành của con trẻ.
Nếu như trẻ trong nhà đang tới kì thi, tốt nhất nên chú ý tới bố cục phía Đông Bắc. Khu vực này thuộc Thổ, thích hợp các màu vàng hoặc màu đất. Các vật thuộc Thổ như bình hoa sứ đều có thể làm tăng năng lượng cho khu vực. Có thể thay bình hoa sứ bằng thủy tinh.
Quý nhân
Làm vượng năng lượng phía Tây Bắc của phòng khách, có tác dụng làm tăng vận thế quý nhân và các mối quan hệ xã hội. Khu vực này thuộc Kim, thích hợp đặt các vật trang trí màu trắng, vàng kim, bạc... như vật điêu khắc kim loại, đèn chùm màu trắng... Treo dây thừng xuyên 6 đồng tiền cổ hoặc chuông gió kim loại 6 cột rỗng ở vị trí này cũng là ý kiến không tồi.
Tiền tài
Các loại cây lá tròn như cây kim tiền đặt ở phía Đông Nam phòng khách có tác dụng chiêu tài.
Phía Đông Nam của phòng khách là tài vị của gia đình, ngũ hành thuộc Mộc, thích hợp màu xanh lục, nên có thể đặt các vật thuộc Thổ ở đây để nâng cao tác dụng chiêu tài, trong đó các loại cây xanh lá tròn là thích hợp nhất.
Tình duyên
ếu như muốn tăng vận thế tình duyên và hôn nhân, phía Tây Nam phòng khách cần được chú trọng. Phía này thuộc Thổ, việc thúc đẩy năng lượng hướng này cũng giống như hướng Đông Bắc, đặt các đèn treo để tăng thêm năng lượng, thúc đẩy mối quan hệ hòa hợp của vợ chồng. Thủy tinh thiên nhiên và ảnh toàn gia đình cũng có tác dụng tương tự.
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Doanh nhân tuổi Tỵ là người khá đa nghi cho dù bề ngoài họ vẫn tỏ ra tin tưởng vào đối phương. Đôi khi, để đạt được mục đích, họ có thể bất chấp mọi thủ đoạn. Vốn thông minh nên nếu gặp sự cố trong làm ăn, họ rút kinh nghiệm rất nhanh và ít khi gặp thất bại đến lần thứ hai. Tuy vậy, họ cũng là người cực đoan, bảo thủ. Trong quan hệ xã hội và quan hệ làm ăn, họ luôn có tư tưởng chiếm hữu và đặt ra yêu cầu rất cao đối với người khác. Khi có chuyện bất hòa với ai đó, họ tỏ ra thản nhiên và lạnh lùng, mặc dù trong lòng rất giận dữ. Họ cũng không dễ dàng bỏ qua lỗi lầm của người khác.
Doanh nhân tuổi Tỵ không hợp với người Dần, tuổi Ngọ. Người tuổi Thân và tuổi Hợi cũng không hợp với những doanh nhân cầm tinh con rắn.
(Diễn Đàn Doanh Nghiệp)
1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết
1- Sinh bất phùng thời :
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )
2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :
- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )
- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)
- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3- Đời là bể khổ : Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...
4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”
Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :
– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?
6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)