Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

Những phong tục ngày tết nguyên đán ở Việt Nam có gì đặc biệt, vào ngày tết người ta thường hay kiêng kỵ những vấn đề gì, để cả năm được vui vẻ, hạnh phúc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những phong tục ngày tết nguyên đán ở Việt Nam có gì đặc biệt, vào ngày tết người ta thường hay kiêng kỵ những vấn đề gì, để cả năm được vui vẻ, hạnh phúc.

1. Tục chơi hoa ngày Tết:

Mỗi dịp Tết đến xuân về. Chúng là lại hân hoan chào đón một măt mới âm lịch. Nhưng ai cũng không quên phong tục ngày tết cổ truyền của Việt Nam không thiếu tục lệ chơi hoa. Đối với người niềm Nam thì chơi hoa mai, người miền Bắc thì chuộng hoa đào ( đào nhật tân, đào bích, đào trắng, đào phai,...)

Nếu như người Nhật từ hào về bonsai thì người Việt Nam lại tự hào về thú chơi hoa. Những loài hoa quý như hoa thủy tiên, hoa quỳnh, ... là những loài hoa được giới thượng lưu xếp vào các loại hoa Tết cao cấp. Ngày nay, thú chơi hoa cũng không thay đổi nhiều, thêm vào đó còn du nhập thêm vào nhiều loại hoa khác nữa là hoa lan, hoa cúc, hoa tulip,...

2. Tục tiễn ông Công ông Táo lên chầu trời.

Tương truyền từ ngày xưa đến nay, mỗi gia đình đều có một ông Công, ông Táo (xem thêm: Truyền thuyết về ông Công ông Táo). Trong phong tục ngày tết nguyên đán, ông Công được xem là thần đất giữ nhà và biểu tượng của ông là cây nêu ngày Tết. Ông Táo còn được dân gian gọi là ông Bếp, là vị thần trông coi việc bếp núc, giữ lửa, hơi ấm cho gia đình. Mỗi cỗ bếp có 3 ông vua bếp, được nắn bằng đất sét, uốn cong chụm đầu vào nhau tạo thành thế kiềng 3 chân.

Việc tiễn đưa ông Công, ông Táo về trời là một phong tục tâm linh đẹp và ý nghĩa. Bao giờ trong ngày lễ ông Táo cũng đều có tục thả cá chép làm phương tiện cho ông. Đây cũng là một mặt trong đời sống tâm linh của người dân vùng sông nước.

Cứ vào ngày 23 tháng Chạp ( tức là ngày 23 tháng 12 âm lịch) thì các gia đình sẽ tiễn ông Táo về chầu trời, để bẩm báo tình hình  một năm qua dưới hạ giới. Và sau đó, vào ngày 7 tháng Giêng ( ngày 7 tháng 1 âm lịch) các gia đình lại làm lễ rước ông Táo về lại với căn bếp của nhà mình.

Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

3. Tục đi chợ Tết, xin chữ về thờ.

Đi chợ Tết của ngày xưa là thường, mua lá dong, mua thịt, bánh kẹo hoa quả, về làm bánh chưng, và các món ăn phục vụ trong ngày Tết. Ngoài ra, người ta còn không quên xin chữ của những thầy đồ về để thờ. Nguyên nhân là do, ngày xưa người biết chữ không nhiều, nên mới có phong tục xin chữ về thờ để con cháu đời sau được học hành, làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức. Các thầy đồ cho chữ là những người có chức tức, học vị trong làng. Những chữ Nho thường được nhiều người xin như chữ Tâm, Phúc, Đức, Thọ,... Ngoài ra, người ta còn xem bói vào ngày đầu năm mới để biết những vận hạn, sao chiếu mệnh trong năm tới. Hoặc xem tử vi năm mới để biết những diễn biến về công danh, sự nghiệp, tình yêu, gia đình,...

Ngày nay, phong tục cho chữ đang được phục hồi bằng việc viết chữ thư pháp, đây là một nét đẹp mà văn hóa dân tộc cần gìn giữ và phát huy. Đây là phong tục Tết Việt Nam cần được lưu giữ và phát huy nhất là đối với giới trẻ.

4. Tục gói bánh chưng bánh giầy (bánh tét)

Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho trời. Bánh tét hình tròn, tượng trưng cho đất. Để gói được bánh chưng, bánh tét, phải là những người có bàn tay khéo léo mới gói được, nếu không bánh sẽ bị nứt, không vuông vắn đều đặn khi luộc. Đến những ngày cuối năm, việc cả gia đình quây quần bên nồi bánh chưng rực lửa là một khoảnh khắc đẹp đẽ và ấm cúng mà ai ai cũng muốn lưu giữ.

Đối với người Việt Nam, không ai là không biết về truyền thuyết bánh chưng bánh giầy, phong tục ngày tết nguyên đán còn được lưu trữ từ thời vua thứ 18. Bánh chưng bánh giầy được gói cùng với nhận thị mỡ, đậu xanh,.. Những đặc trưng về những phong tục  ngày Tết cổ truyền Việt Nam được gói gọn trong câu thơ sau:

 “ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, chòm pháo bánh chưng xanh”

Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

5. Lau dọn nhà cửa vào dịp cuối năm

Vào cuối năm, các gia đình đều dọn rửa, sửa sang lại nhà cửa và trưng bình những đồ vật. Công việc này có ý nghĩa để chuẩn bị “tống cựu nghênh tân” . Với phong tục ngày tết của người Việt Nam thì việc này có ý nghĩa là tiễn đưa những cái cũ và đón những cái mới. Vào dịp cuối nào, mọi người đều xem ai nợ nần cái gì thì phải trả, không để nợ 2 năm mà trở thành “cả đời nợ nần”.

6. Đón giao thừa

Chứng kiến thời khắc trời đất chuyển giao, từ năm cũ sang năm mới, từ mua đông lạnh lẽo sang mùa xuân ấm áp. Đón giao thừa và cúng giao thừa là việc cúng ngoài trời, có thể cũng cỗ mặn hoặc cúng hoa quả. Mân hoa quả thờ cúng vào ngày Tết gồm những loại sau: chuối, bưởi, cam quýt, sung. Người miền Nam thờ trái theo ngôn ngữ nên thường chọn những loại quả : mãng cầu (cầu), dừa ( vừa), đu đủ (đủ), xoài (xài), sung (sung túc) hoặc dứa ( thơm) có ý nghĩa rằng: cầu – vừa – đủ - xài – sung hoặc cầu – vừa – đủ - xài – thơm.

7. Xông đất ngày mồng 1

Xông đất hay nhiều nơi còn gọi là xông nhà, đập đất, đạp đất là một phong tục ngày Tết ở Việt Nam . Xông đất là người đầu tiên đến nhà mình vào ngày mồng một năm mới. Có nhiều gia chủ chọn tuổi xông đất vào ngày đầu năm, hoặc có thể là một người ngẫu nhiên đến nhà mình vào ngày đầu năm mới.  Thông thường, khi chọn người xông đất đầu năm thì gia chủ nên chọn những người vui vẻ, hợp tuổi, hợp mệnh với gia chủ, tính tình phóng khoáng,.. để xông đất đầu năm.

Trên đây là những phong tục ngày tết cổ truyền Việt Nam đặc trưng nhất, được lưu giữ vào trong tâm khảm mỗi người Việt Nam. Tết là thời gian đoàn tụ, đoàn viên cùng gia đình sau một năm vất vả vì cuộc sống, công việc, cũng là thời gian nghỉ ngơi, thư giãn thăm người quen, anh em bạn bè cũng như là dịp mọi người thể hiện lễ nghi của mình với người trên.

: Những câu chúc mừng năm mới Những lời chúc mừng năm mới hay Tết 2017
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

Nhìn mí mắt phán chuyện tình yêu

Muốn biết mức độ trung thực của đối phương trong tình yêu, cách tốt nhất là xem mí mắt của họ.
Nhìn mí mắt phán chuyện tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi: 

nhin-mi-mat-phan-chuyen-tinh-yeu

A. Mắt một mí

B. Bên một bên hai

C. Mắt hai mí

D. Mắt nhiều hơn hai mí

E. Mắt sụp mí

Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn mí mắt phán chuyện tình yêu

Tình duyên của người tuổi Tỵ nhóm máu AB

Người tuổi Tỵ (1953, 1965, 1977, 1989) thuộc nhóm máu AB thường có vẻ ngoài ưa nhìn cùng sự thông minh nên họ thu hút được sự chú ý của nhiều người khác giới.
Tình duyên của người tuổi Tỵ nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tỵ (1953, 1965, 1977, 1989) thuộc nhóm máu AB thường có vẻ ngoài ưa nhìn cùng sự thông minh nên họ thu hút được sự chú ý của nhiều người khác giới.

Trong công việc hay trong cuộc sống, để tạo dựng các mối quan hệ họ luôn dành thời gian để tìm hiểu kỹ. Trong tình yêu, sự thận trọng lại càng thể hiện rõ hơn. Những phút xao xuyến hay những ánh nhìn đầu tiên không đủ để tạo dựng tình yêu.

Tuy nhiên điều đáng tiếc là không ít người trong số họ do quan niệm của bản thân đã không nhận thấy được giá trị đích thực của mái ấm gia đình. Với họ, đó có thể chỉ là sự gò bó với những phiền phức và khoảng trời riêng mà họ luôn ao ước là không có được. Chính vì không đặt nhiều kỳ vọng vào hôn nhân nên họ ít khi thực tâm muốn tạo dựng cuộc sống gia đình. Với một số người, có khi là tiếng chuông của tuổi tác, có khi là sức ép từ người thân hay cha mẹ mà họ bằng lòng bước vào khoảng trời thiếu tự do.

Chính vì quan niệm sống như thế nên họ rất cần ở người bạn đời của mình tình yêu chân thành cùng nhiệt huyết xây dựng mái ấm gia đình. Sự hài hước và lòng cảm thông cũng là điều không thể thiếu.

(Theo 12 con giáp về tình yêu, hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Tỵ nhóm máu AB

Tướng người cao quý –

Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây: Tướng người cao quý Đại để tướng người cao quý toàn
Tướng người cao quý –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người cao quý –

Dự đoán công danh và tình yêu qua nốt ruồi ở mắt và môi

Tướng nốt ruồi trên khuôn mặt: Đuôi mắt còn được gọi là Gian Môn, chỉ về tình duyên, hôn nhân của một người.
Dự đoán công danh và tình yêu qua nốt ruồi ở mắt và môi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đuôi mắt còn được gọi là Gian Môn, chỉ về tình duyên, hôn nhân của một người. Vị trí này có nốt ruồi chứng tỏ chủ nhân tính tình phóng khoáng, có sức hấp dẫn mãnh liệt với người khác giới.


1. Nốt ruồi ở đuôi mắt – Phạm đào hoa


Đuôi mắt còn được gọi là Gian Môn, chỉ về tình duyên, hôn nhân của một người. Vị trí này có nốt ruồi chứng tỏ chủ nhân tính tình phóng khoáng, có sức hấp dẫn mãnh liệt với người khác giới.

Nếu đó là nốt ruồi cát, người này không những đào hoa, nhân duyên tốt, đi đâu cũng có người theo đuổi mà khi gặp khó khăn trong sự nghiệp cũng được quý nhân giúp đỡ.

Du doan cong danh va tinh yeu qua not ruoi o mat va moi hinh anh
 
Tuy nhiên, nếu là nốt ruồi hung, màu sắc mờ nhạt lại mang tới sự xui xẻo trong tình cảm. Bởi khi nắm bắt được giá trị bản thân, người này thường tỏ vẻ kiêu ngạo, bất cần trong chuyện tình cảm.

Khi mới bắt đầu yêu, tình cảm lứa đôi mặn nồng nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, hai bên khó dung hòa về tính cách nên lại đường ai nấy đi. Thông thường người này sẽ kết hôn khá muộn và trải qua không ít mối tình mới có thể tìm được nửa kia ưng ý.

Những tướng mặt chưa chuẩn nhưng lại dễ phát tài trong năm 2016
Dù chưa sở hữu những nét tướng phú quý, nhưng đừng buồn bởi năm 2016 bạn có nhiều cơ hội cho những ai luôn phấn đấu không ngừng nghỉ.

2. Nốt ruồi dưới miệng – Dễ thay đổi

Người có nốt ruồi ở dưới miệng (phía môi dưới) thì hay thay đổi, thích khám phá và chinh phục những điều mới lạ. Dù họ được thừa kế tài sản do tổ tiên để lại nhưng không phù hợp để đầu tư bất động sản. Bởi chỉ cần một lúc cao hứng là tiền bạc có thể “đội nón ra đi”.

Tuy nhiên, ưu điểm của người này là có tinh thần trách nhiệm, làm việc có đầu có cuối rõ ràng và rất quyết đoán. Đứng trước nhiều sự lựa chọn, ít khi thấy người này lưỡng lự, thậm chí họ đưa ra kết luận khá vội vàng.

3. Lông mày có nốt ruồi – Tự tin đến mức tự mãn

Du doan cong danh va tinh yeu qua not ruoi o mat va moi hinh anh
 
Chủ nhân của tướng nốt ruồi ở lông mày thường có phong cách tự tin, thậm chí đôi khi tự mãn, cao ngạo khiến người xung quanh khó chịu và ngại tiếp xúc. Nữ giới có nốt ruồi này gặp không ít trục trặc trong hôn nhân, nhiều khả năng sẽ rơi vào tình trạng li hôn rồi lại tái hôn.

Tuy nhiên, tài vận của người này khá, làm kinh doanh buôn bán thuận lợi, dễ phát tài. Nhưng làm gì cũng cần lưu ý, tự mãn sẽ là rào cản ngăn bạn tiến tới thành công.

4. Môi trên có nốt ruồi – Trọng tình cảm


Đời sống nội tâm của người có nốt ruồi ở môi trên khá phong phú, đôi khi đa sầu đa cảm nhưng luôn biết nghĩ cho người khác. Do đó, đi tới đâu họ cũng được hoan nghênh, yêu mến. Bên cạnh đó, người này được hưởng lộc về ăn uống, hay được mời đi dự tiệc chiêu đãi.

► Bói nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

Hoàng Nam (Theo DYXZ)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán công danh và tình yêu qua nốt ruồi ở mắt và môi

Ý nghĩa sao Thai

Sao Thai ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thai

Ý nghĩa sao Thai

Hành: Thổ

Loại: Tùy tinh

Đặc Tính: Phong lưu khoái lạc, u mê, sinh nở, dễ tin

Là một sao phụ Tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Ý Nghĩa Thai Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Sao Thai ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.

Ý Nghĩa Của sao Thai Ở Các Cung:

Sao Thai tọa thủ ở bất cứ cung nào, Thai gặp Tuần Triệt án ngữ hay gặp sát bại tinh hội họp thì cũng có nghĩa mới lọt lòng mẹ đã đau yếu quặt quẹo, hoặc sinh thiếu tháng hoặc lúc sinh gặp khó khăn, phải áp dụng phương pháp cực đoan.

Ý Nghĩa sao Thai Ở Cung Tử Tức:

Thai, Không Kiếp: Trụy thai, sẩy thai, hoặc sinh con rất khó, hoặc sinh con chết trước hay trong khi lọt lòng mẹ, hoặc sát con.

Thai, Nguyệt: Có con cầu tự mới nuôi được.

Thai, Nhật Nguyệt: Có con sinh đôi.

Thai, Quả: Giảm bớt số con.

Thai, Phục, Vượng, Tướng: Có con riêng rồi mới lấy nhau hoặc có con hoang, có con dị bào.

Ý Nghĩa sao Thai Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng ưa thích vui chơi, văn nghệ, phong lưu tài tử.

Ý Nghĩa sao Thai Ở Cung Huynh Đệ:

Có anh chị em dị bào, hoặc anh em nuôi, anh chị em song thai.

Sao Thai Khi Vào Các Hạn:

Hạn gặp sao Thai, Mộc Dục, Long Trì, Phượng Các, là hạn sinh con. Nếu sao Thai gặp Địa Kiếp là hạn khó sinh con, hoặc thai nghén có bệnh tật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thai

Mơ thấy con mình là điềm báo lành hay dữ?

Mơ thấy con cái thường phản ánh cuộc sống hiện thực hay nội tâm của mình, mơ thấy con trai mình là bạn đang rất lo lắng cho bé.
Mơ thấy con mình là điềm báo lành hay dữ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


Mo thay con minh la diem bao lanh hay du hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Theo tâm linh, mơ thấy con cái đồng tính đại diện cho hoá thân của chính mình, vì trong hiện thực không có con cái thì mơ con cái, và ngụ ý sự bất mãn với cuộc sống hoặc có suy nghĩ non nớt.

 
Mơ thấy mình ôm con cái ngụ ý tâm nguyện bản thân có thể được thực hiện.

 
Mơ thấy mình ôm con gái ngụ ý sắp có chuyện cãi vã.

 
Mơ thấy con cái gần gũi với mình ám chỉ gặp chuyện phiền não, điềm xấu.

 
Mơ thấy con cái đi ngụ ý mong muốn sâu kín muốn con cái tự lập.

 
Mơ thấy con gái của mình ngụ ý nhiều việc không vui sẽ bị những niềm vui niềm hoà thuận thay thế. Tuy nhiên nếu trong mơ vì lí do gì đi chăng nữa mà con gái không thể đạt được kỳ vọng của bạn thì ngụ ý bạn sẽ gặp phải khó khăn và bất mãn.

Mo thay con minh la diem bao lanh hay du hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Mơ thấy con trai mình ngụ ý bạn rất lo lắng cho con trẻ.

 
Gia đình có thai phụ chưa đẻ nằm mơ thấy con mình làm quan là điềm báo may mắn.
 
Mơ thấy có người tặng con cho mình là đại cát, chủ về việc thiện nguyện.

 
Nam giới đã kết hôn mơ thấy vợ sinh con trai là điềm báo sắp có cơ hội phát tài, thu nhập hậu hĩnh.

 
Nữ giới đã kết hôn mơ thấy mình sinh con trai ngụ ý cuộc sống hạnh phúc đầy đủ.
 
Mẹ mơ thấy con mình rơi xuống giếng, nghe được tiếng khóc ngụ ý những điều đau khổ khốn cùng, những mất mát lớn lao hay sự đe doạ của bệnh dịch. 
 
Nếu người mẹ này cứu được con thì những nguy hiểm, hoạn nạn trước mắt sẽ bất ngờ mất đi.
 
=> ## cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác

Lichngaytot.com
Mơ thấy trẻ con là gặp thiên thần hay gặp rắc rối?
Nếu trong giấc mơ đứa trẻ cười hoặc vui vẻ thì bạn sắp gặp may mắn, nếu đứa trẻ nói chuyện hoặc khóc thì nên thận trọng, mọi chuyện có thể
Mơ thấy trẻ con có xui xẻo không?
Trẻ em vốn được xem là những thiên thần nhỏ được mọi người yêu mến. Em bé còn là biểu tượng cho sự trong sáng, dễ bị tổn thương, không có khả năng tự bảo vệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con mình là điềm báo lành hay dữ?

Tuổi Đinh Mão 1987 hợp làm ăn với tuổi nào

Xem tuổi Đinh Mão hợp làm ăn với tuổi nào, bạn muốn biết người sinh năm 1987 hợp làm ăn với tuổi nào? Vào đầu năm 2017 thì nên chọn những người tuổi nào để kết hợp làm ăn, giúp cho công việc được hanh thông, mọi việc thuận lợi, công việc làm ăn phát đạt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tuổi Đinh Mão hợp làm ăn với tuổi nào, bạn muốn biết người sinh năm 1987 hợp làm ăn với tuổi nào? Vào đầu năm 2017 thì nên chọn những người tuổi nào để kết hợp làm ăn, giúp cho công việc được hanh thông, mọi việc thuận lợi, công việc làm ăn phát đạt.

Tuổi Đinh Mão 1987 hợp làm ăn với tuổi nào

Vài nét về tuổi Đinh Mão:

Tuổi Đinh Mão, sinh năm 1987 năm con mèo, cung mệnh Càn, mạng cốt tinh Hỏa.

Tính tình người tuổi Đinh Mão: Tính tình khôn khéo, trung thực. Trời phú cho đức tính hào hoa, lịch thiệp, có khoa ngoại giao giỏi, và được quý nhân phù trợ giúp thăng tiến khác. Song đó cũng là điểm cốt yếu để kẻ khác lợi dụng, gây phiền nhiễu. Thẳng thắn, bộc trực không chịu nhờ vả, không thích nhờ vả người khác.

Nghề thích hợp với người tuổi Đinh Mão: Thiên hướng về binh nghiệp, luật pháp, sẽ phát huy hết sở trường.

Tuổi Đinh Mão nên kết hợp làm ăn với các tuổi:

Tuổi Đinh Mão nên chọn kết hợp làm ăn với những người có mệnh Mộc ( Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu) thì làm ăn phát đạt.

Nếu người sinh năm 1987 kết hợp làm ăn với những người mệnh Hỏa gồm các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi thì hai bên đều dựa vào nhau, có lợi cùng chịu, có họa cùng chia.

Người tuổi Đinh Mão hợp làm ăn với tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ( thuộc mệnh Kim) thì người tuổi Đinh Mão sẽ có điều kiện để phát triển.

Với những người mệnh Thổ ( Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi) thì người tuổi Đinh Mùi khi kết hợp làm ăn phải là cấp dưới hoặc trợ lí cho người mệnh Thổ thì công việc mới thuận buồm xuôi gió.

Tuổi Đinh Mão không nên kết hợp làm ăn với các tuổi:

Không nên kết hợp làm ăn với các tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu thuộc mệnh Thủy thì công việc làm ăn phần nhiều bị thua thiệt, tốt nhất là nên tránh thì hơn.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Đinh Mão

Màu hợp với tuổi Đinh Mão: Đỏ, hồng, tím, xanh lục

Hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Đinh Mão: Phương vị tài thần cho nam giới là đặt bàn làm việc nhìn hướng chính Đông, nữ giới đặt bàn làm việc nhìn hướng chính Tây.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Xem tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Đinh Mão 1987 hợp làm ăn với tuổi nào

Hướng dẫn tư thế bái Phật đúng chuẩn

Cùng ## theo dõi tư thế bái Phật đúng chuẩn.
Hướng dẫn tư thế bái Phật đúng chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xưa kia khi Đức Phật còn tại thế, mỗi lần may mắn gặp Ngài, các đệ tử từ quan vua đến dân chúng đều cúi xuống ôm chân và đặt trán mình lên chân Ngài để bày tỏ lòng thành kính, tôn thờ bậc tối thượng. Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như còn tại thế, cử chỉ bái lạy Phật như vậy vẫn tồn tại cho đến ngày nay.


Lễ Phật, mỗi người có quan niệm và lời giải thích riêng, không đồng nhất và tất cả đều đúng. Tư thế bái Phật sao cho thể hiện sự tôn kính tột cùng tới bậc tối thượng là được. Tuy nhiên, dưới đây là cách bái lạy Phật phổ biến, dễ làm và đúng chuẩn, bạn có thể tham khảo trong việc thờ cúng Đức Phật.

Bước 1

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Tư thế đứng thẳng, nhẹ nhàng chắp hai lòng bàn tay, ngón tay khép sát với nhau, khuỷu tay để cong tự nhiên, tạo góc 45 độ với ngực. Khi chắp tay, tầm mắt hướng xuống dưới, tập trung vào đầu các ngón tay, để tâm thanh tịnh, loại bỏ ý nghĩ không chính đáng. Đứng trước đệm cói, hai chân tạo hình chữ bát, gót chân cách nhau khoảng 2 tấc (tương đương 6,5cm), đầu ngón chân cách nhau khoảng 8 tấc (tương đương 24cm).

Bước 2

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Bàn tay phải hướng xuống dưới và đặt vào giữa đệm cói, tay trái giữ nguyên tư thế, mở hai đầu gối, quỳ trên đệm cói.

Bước 3

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Bàn tay trái đặt về phía bên trái của đệm cói.

Bước 4

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Bàn tay phải từ vị trí trung tâm dịch chuyển sang bên phải của đệm cói sao cho hai bàn tay cách nhau 6 tấc (tương đương 20cm), đầu cúi xuống và đặt tại ví trí giữa hai bàn tay.

Bước 5

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Lật ngửa hai bàn tay (lòng bàn tay hướng lên trên, có ý nghĩa hai tay hứng chân Phật, cúi đầu hành lễ).

Bước 6

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Hai bàn tay úp sấp, lòng bàn tay vẫn đặt trên tấm đệm cói, đầu ngẩng lên, bàn tay phải dịch chuyển ra giữa tấm đệm cói.

Bước 7

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
Thu bàn tay trái rời khỏi đệm cói rồi đặt trước ngực như tư thế chắp tay. Bàn tay phải dùng lực đẩy người lên (hai đầu gối đồng thời rời khỏi đệm cói) rồi hợp lại với tay trái, tạo tư thế bái Phật.

10 bí quyết Phật dạy giúp tướng mạo từ xấu hóa đẹp
Theo kinh Phật, hành động quyết định tướng mạo, muốn đẹp đẽ hãy chăm làm điều thiện.
Ngoài ra, còn tư thế bái lạy Phật khác mang tính tượng trưng dâng hương hoa hướng Phật như sau:

Huong dan tu the bai Phat dung chuan hinh anh 2
 
1. Đầu tiên thành kính chắp hai tay, hướng tầm mắt tập trung vào đầu ngón tay giữa.

2. Sau đó gập lưng khoảng 90 độ rồi chuyển tư thế đứng thẳng người, hai tay vẫn chắp trước ngực.

3. Dùng ngón giữa, ngón áp út, ngón út của tay trái che đi ngón giữa, ngón áp út, ngón út của tay phải. Hai đầu ngón tay cái và ngón trỏ của hai bàn tay từ từ tiếp xúc với nhau, sao cho ngón trỏ và ngón cái tạo thành hình tam giác.

4. Lúc này, hai bàn tay tạo thành tư thế như hoa sen chớm nở, như dâng hoa hướng Phật, tràn đầy lòng thành kính và thể hiện sự cát tường.

5. Hai tay giữ nguyên tư thế này, đưa lên chạm Ấn đường (điểm giữa hai lông mày). Điều này thể hiện thái độ thành kính và khiêm tốn.

6. Cuối cùng, hạ hai tay xuống và chắp tay trước ngực rồi tiếp tục buông xuống.

► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn (Theo Ebaifo)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn tư thế bái Phật đúng chuẩn

Mơ thấy bạn và người yêu đứng cách xa nhau: Giữa hai người có mối tâm tình không thể hóa giải –

Mơ thấy bạn và người yêu đối mặt nhau qua một khoảng cách khá xa không phải điềm xấu báo hiệu sẽ tan vỡ tình yêu, hay có vấn đề trong chuyện tình cảm. Giấc mơ này có thể là dấu hiệu ám chỉ giữa bạn và người yêu tồn tại những khúc mắc không thể hóa g
Mơ thấy bạn và người yêu đứng cách xa nhau: Giữa hai người có mối tâm tình không thể hóa giải –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bạn và người yêu đứng cách xa nhau: Giữa hai người có mối tâm tình không thể hóa giải –

Bát Tự luận Mệnh bí kíp (1)

Đoạn Kiến Nghiệp bát tự luận mệnh bí kípĐệ nhất kỳ sinh hài tử đích huyền bí "dễ biển hai chiếc thuyền song song", trung đăng qua một người Hác tiên sinh đoạn qua đích mệnh, ngoài mệnh vi: Càn: Mậu kỷ ất đinh Tuất mùi tị hợi Đại vận nhâm tuất,lưu niên mậu thìn.
Bát Tự luận Mệnh bí kíp (1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hác tiên sinh tại mậu thìn năm xuân vì hắn đoạn đích, nguyên nói vi: "Ngươi đi năm đích hài tử năm nay sinh, năm nay ngươi hài tử sinh không được, năm nay ngươi thêm gặp hoài thai năm." Mệnh chủ hỏi, "Ngươi xem ta năm nay dưỡng xe thế nào?" Hác tiên sinh đáp: "Ngươi ngàn vạn lần đừng dưỡng xe, nếu không ngươi trừ tiền buôn bán không dưới, đến năm nay để ngươi muốn đánh lưỡng trận quan tòa sinh một bụng rồi khí." Tất cả đích đoạn ngữ không thể xui xẻo, toàn bộ ứng nghiệm.

Ước chừng tới gần 20 phong thư tìm kiếm đáp án, không có một hoàn toàn trả lời đích, đến gần đáp án đích không nhiều lắm, có thể thấy được đương kim mệnh học giới đích xoay ngang. Xem này mệnh sinh hài tử đích huyền bí, yếu điểm chính là bắt được đinh Hỏa thần vi con gái, mà không nên ấn mệnh thư trung nói đích lấy thất sát làm hài tử. Bởi vì thực thần vi con gái, thêm lâm con gái cung. Đinh mão năm mang thai, con gái tinh đinh hỏa gặp hợp, thê tinh tuất thổ gặp hợp, tỏ vẻ thê hoài thai, nhưng hợp đinh hỏa  nhâm thủy rất suy, đến mậu thìn năm mậu khắc nhâm, nhâm không thể hợp đinh, chủ lưu sản. Mà mậu thìn năm thêm mang thai vốn là thìn tuất xung chi cố, thê tinh tuất vi đinh hỏa  mộ, gặp lưu niên xung khai mộ, tỏ vẻ thê mang thai.

Như có một càn tạo:

Ất canh đinh quý

Dậu thìn mùi mão

Mùi vi tài chi nguyên thần lâm thê vị, có thể làm thê xem, mùi trung chi mộc hãy nhìn làm thê tử hoài đích hài tử, gặp không vong, tức chém làm: "Ngươi có một hài tử không chờ sinh ra tại thê bụng trung sẽ chết rồi." Quả ứng. Mậu tuất chi mệnh tại mậu thìn năm phá tài rất rõ ràng, nguyên nhân bát tự thủy mộc vi hỉ thần, thổ này kỵ thần, lưu niên đại vận thấy vượng thổ, định phá tài. Đánh lưỡng trận quan tòa là bởi vì làm một thìn xung lưỡng tuất, tuất vi kỵ thần trung ngậm thất sát chủ quan tòa, nguyên nhân thất sát không rõ thấu khắc thân, cố không vi hình sự tình quan tòa, đều là dân sự tình tranh cãi. Đều là trở mình nợ cũ quan tòa, bởi vì tuất vi mộ khố, vi ẩn dấu, đến thìn năm dẫn động, cũng ẩn dấu không được rồi. Trong đó một người quan tòa vốn cùng hắn không quan hệ, là hắn cố dùng đích tài xế nợ nhân gia đích sổ sách, tài xế mở ra hắn đích xe vừa lúc đi địa bàn của người ta, nhân gia đem xe cấp khấu rồi, nên tài xế trả nợ, mở ra rồi quan tòa. Ấn vi xe, khắc ấn người vi tài xế, đại vận nhâm tuất chi tuất vi tài xế. Lưu niên đầu tiên cùng đại vận phát sinh tác dụng, sau đó tái tác dụng vu bát tự, cho nên người thứ nhất quan tòa đó là tài xế đích quan tòa, ấn tinh nhập tuổi mộ khấu xe chi tượng.

Thứ hai kỳ, luận địa chi lục xung

Địa chi lục xung tại bát tự trung đích cách dùng phi thường phức tạp, bát tự trung xung, đại vận cùng bát tự xung, thái tuế xung cách dùng đều không giống nhau. Cụ thể nói có bảy thứ xung pháp và sử dụng: xung hung, xung vượng, xung động, xung khai, xung xuất, xung khứ, xung phá.

Hà vị xung hung? Bát tự trung đích kỵ thần tại đại vận trung xuất hiện nhảy vào mệnh trung hoặc đại vận đích kỵ thần tại chảy trung thông căn được vượng nhảy vào mệnh trung. Xung hung chi tuế vận nên phát sinh tương ứng đích hung sự tình.

Như 《 Tích Thiên Tủy 》 như nhau:

Bính giáp bính quý

Dần ngọ ngọ tị

Này tạo tòng cường, mộc hỏa vi dụng thần, hành hợi vận kỵ thần quý thủy thông căn, gia nghiệp phá tẫn mà chết. Nguyên thư trung nói kích vượng liệt hỏa đích đạo lý vốn là không xác thực đích, nguyên nhân hỏa vi hỉ thần, xung vượng hỉ thần ứng đáng rất tốt, như thế nào hội vong? Đây là bát tự trung kỵ thần thủy tại đại vận trung xuất hiện nhảy vào mệnh cục chủ hung. Thêm như Nhạc Phi:

Quý ất giáp kỷ

Mùi mão tử tị

Hành tân hợi vận tân dậu lưu niên bị hại. Trước kia đích rất nhiều giải thích cũng không đối với, kể cả ta trước kia đích giải thích. Vương Hổ Ứng sư phụ cho rằng này mệnh tòng cường, lấy thủy mộc vi dụng thần, ta hỏi tòng cường cách hành tới tân dậu lưu niên xung vượng mão mộc hỉ thần ứng càng cát, này hà hội đại hung? Sau lại nghiên cứu mới biết này nguyên nhân đại vận thấy tân quan kỵ thần không có chế hóa, hành kỵ thần vận sợ nhất kỵ thần đắc căn, tân dậu lưu niên là nên vận hung đích ứng kỳ, tức hung thần xuất hiện đích lưu niên ứng kỳ. Nếu hắn không được tân hợi vận mà đi nhâm tử vận, gặp lưu niên tân dậu vị chi xung vượng, chủ cát.

Hà vị xung vượng? Thái tuế xung bát tự trung cực vượng chi thần, như vượng hỏa trung kiêu nhược thủy, kích ngoài vượng tính chất. Xung vượng hỉ thần cát, xung vượng kỵ thần hung. Đại vận xung bát tự cực vượng chi thần không vi xung vượng, cát hung ứng xem tình huống: bát tự trung vốn có hung thần không có chế hóa, tại đại vận trung đắc căn chủ đại hung; bát tự trung vốn có hung thần được chế hóa, hung thần tại đại vận trung xuất hiện, chủ khứ hung thần đích ứng kỳ, chủ cát.

Xung vượng như nhau: càn tạo:

Đinh bính mậu đinh

Mùi ngọ ngọ tị

Bát tự tòng cường, hỉ thấy mộc hỏa thổ, kim thủy không nên. Bát tự không có kim thủy  kỵ thần, mệnh cách giác tinh khiết. Hành quý mão vận, ất hợi, bính tử lưu niên vị xung vượng dụng thần hỏa, chủ cát không chủ hung. Mặc dù ngôn quý thủy vi kỵ, gặp mậu quý hợp khứ, không thể vi hung. Này tạo cha mẹ song toàn, gia đình hoàn mỹ. Vì tỉ kiên trùng trùng nhất định khắc phụ đích đơn giản đoạn ngữ là sai lầm đích.

Hà vị xung động? Thái tuế xung bát tự trung đích vượng thần vi động, xung vận trung chi vượng thần cũng vi động. Chuyên chỉ bát tự, đại vận trung bị vây yên trạng thái đích mỗ một chữ bị xung mà phát động, ảnh hưởng mệnh cục hoặc phát sinh đáng chữ viện tượng trưng chuyện tình. Như vậy đích ví dụ hết sức thường thấy, đệ tử có thể chính mình nhóm vài lệ mà nói minh, xem như vốn kỳ đích bài tập.

Hà vị xung khai ? Chuyên chỉ hai loại tình hình, tướng hợp đích hai chữ gặp thái tuế xung ngoài mỗ một chữ vị xung khai; bát tự đại vận đích mộ khố bị thái tuế đến xung vị xung khai. Như phối ngẫu tinh hoặc phối ngẫu cung gặp hợp, thường thường vốn là xung ngoài hợp đích lưu niên vi hôn kỳ. Dụng thần tại mộ trung, thường thường vốn là xung mộ chi năm bắt đầu chuyển ngoặt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát Tự luận Mệnh bí kíp (1)

Phong thủy nữ trang –

I. Bí quyết chọn đá quý hợp mệnh Ngũ hành tương sinh, tương khắc cũng là một quy luật. Có những quy định về nhiều mặt của ngũ hành, trong đó phải kể đến màu sắc. Dùng trang sức bừa bãi, không theo màu sắc ngũ hành cho hợp với mệnh người đeo, sẽ đem l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

I. Bí quyết chọn đá quý hợp mệnh

Ngũ hành tương sinh, tương khắc cũng là một quy luật. Có những quy định về nhiều mặt của ngũ hành, trong đó phải kể đến màu sắc. Dùng trang sức bừa bãi, không theo màu sắc ngũ hành cho hợp với mệnh người đeo, sẽ đem lại những điều không may mắn cho họ. Ngược lại, nếu đeo trang sức đá có màu sắc phù hợp với mệnh thì sẽ đem lại sức khỏe, may mắn, hưng vượng cho người đeo.

1. Người mệnh THỦY nên đeo đá gì ?

Người mệnh Thủy khi mua đá quý cần lưu ý tốt nhất  cho người mệnh Thủy là BẠC và ĐÁ MÀU TRẮNG. Vì các màu sắc trên theo quy định của ngũ hành là thuộc Kim, mà Kim sinh Thủy nên khi đeo Bạc và Đá màu Trắng, người mệnh Thủy sẽ dược Tương sinh. Tốt thứ nhì cho người mệnh Thủy là sự Hoà hợp giữa người mệnh Thủy với màu sắc của viên đá. Đó là họ nên dùng các màu ĐEN, XANH NƯỚC BIỂN như saphiare, aquamarin, tactit…Thứ ba, người mệnh Thủy khắc được Hỏa ( Nước sẽ dập tắt được Lửa), tức là họ dùng được các màu mà họ chế ngự được như ĐỎ, HỒNG, TÍM.

Nên dùng: Người mệnh Thủy được đeo đá quý với các màu sắc như sau:

* Được tương sinh: Đá trắng, vàng, bạc

* Được tương hợp: Đá màu đen, màu xanh nước biển

* Chế khắc được đá các màu: Đỏ, hồng, tím

Không nên dùng: Tuyệt đối không nên dùng các màu sau:

* Đá vàng sậm, nâu đất

Vì đó là màu thuộc hành Thổ. Chặn được nước lớn ở sông, ở biển tràn vào, người ta phải đắp đê điều bằng đất, đá , cát. Thổ sẽ chế ngự được Thủy. Chính vì vậy, người mệnh Thủy không nên đeo đá có các màu thuộc Thổ, sẽ bất lợi cho họ.

2. Người mệnh HỎA nên đeo đá gì ?

Tính chất mệnh Hỏa

Đá quý loại nào cũng tỏa ra rất nhiều năng lượng tốt cho người dùng. Nhưng tốt cho người mệnh Hỏa nhất phải là đá có màu thuộc hành Mộc, tức là xanh lá cây. Vì Gỗ khi cháy sẽ thành ngọn Lửa, nghĩa là Mộc sẽ sinh Hỏa. Chính vì vậy, đá có màu xanh lá cây là màu đá lý tương số 1 mà người mệnh Hỏa nên dùng. Cũng như các mệnh khác, người mệnh Hỏa sẽ tốt nếu dùng đá quý có mà tương hợp, tức là cùng hành Hỏa với các màu đặc trưng của Hỏa là Đỏ, Hồng, Tím. Còn nếu họ thích dùng đá màu trắng thì cũng được, vì mệnh của họ chế khắc được màu của viên đá, tức là Hỏa khắc được Kim. Nung kim loại chảy ra thành nước- điều đó chỉ có Lửa mới làm được mà thôi!

Nên dùng: Người mệnh Hỏa được đeo đá quý với các màu sau:

* Được tương sinh khi họ dùng đá màu Xanh lá cây.

* Được hòa hợp nếu họ dùng đá màu Đỏ, hồng, tím.

* Chế khắc được những viên đá có màu Trắng.

Không nên dùng:

* Đá màu đen, màu xanh nước biển.

Vì đó là màu của Nước( THỦY). Khi dùng họ gặp xui, vì THỦY- HỎA giao đấu, thì phần thua sẽ thuộc về họ, bởi Nước sẽ dập tắt Lửa.

3. Người mệnh MỘC  nên đeo đá gì ?

Để người mệnh Mộc được khỏe mạnh, may mắn, tài lộc, phát đạt, thì việc chọn mua một viên đá hợp mệnh theo màu sắc ngũ hành là điều rất quan trọng. Nguời mệnh mộc nên đeo đá quý như sau: Để được tương sinh: Thủy dưỡng mộc. Màu đá tốt nhất dành cho người mệnh mộc là màu nước, bao gồm: đen, xanh nước biển, xanh da trời, xanh Lam. Để được tương hợp: Lưỡng mộc thành Lâm. Có nhiều cây là có rừng. Hòa hợp với người mệnh Mộc chính là màu Mộc, gồm: gỗ hóa thạch, xanh lá cây. Để chế khắc được viên đá: Người mệnh Mộc chế được Thổ gồm các màu vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch. Như vậy đeo viên đá có màu Thổ, người mệnh mộc được an toàn và không phải lo lắng.

Nên dùng: người mệnh Mộc được đeo đá quý có các màu sắc:

* Tương sinh: đen, xanh lam, xanh da trời, xanh nước biển

* Tương hợp: gỗ, xanh lá cây

* Chế ngự: vàng sậm, nâu đất, các loại hóa thạch

Không nên dùng:

* Tuyệt đối không nên dùng các loại đá màu của Kim như trắng và bạc.

Vì dao chặt được cây gỗ cho nên khi đeo trang sức với viên đá màu tượng trưng cho Kim sẽ không tốt cho người đeo. Ta nên tránh đá màu trắng cho người mệnh Mộc.

4. Người mệnh KIM  nên đeo đá gì ?

Người mệnh Kim nên đeo đá quý như sau:

Tốt nhất là được tương sinh:Kim là do thổ sinh ra. Đất sinh ra vàng bạc nên dùng các màu thuộc thổ như vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch như mắt hổ.

Tốt thứ nhì là được hòa hợp:Hợp với mệnh Kim là Kim. Đó là trắng (bạc kim), vàng tươi (vàng trang sức) và bạc.

Thứ ba mới đến sự chế khắc:Kim sẽ chế khắc được mộc. Chủ thể là người mệnh kim sẽ chế khắc được viên đá mình đeo có các gam màu xanh lá cây.

Tóm lại, người mệnh Kim được đeo đá quý có các màu sau:

* Tương sinh: đá vàng sậm, nâu đất, mắt hổ

* Hòa hợp: đá bạc, trắng, vàng tươi

* Chế khắc: xanh lá cây

Không nên dùng:

* Đá có màu thuộc hành Hỏa như đá đỏ, hồng, tím.

Vì Hỏa khắc Kim cho nên khi đeo đá có màu tượng trưng cho lửa sẽ gây bất lợi cho chủ nhân của nó.

5. Người mệnh THỔ nên đeo đá gì ?

Tính chất mệnh Thổ

Khi mọi vật bị đốt cháy, sẽ thành tro, bụi, đất, cát. Vậy HỎA sẽ sinh ra THỔ. Cho nên, người mệnh Thổ hãy dùng những viên đá quý có màu của Hỏa, sẽ được tương sinh. Đó là các màu: ĐỎ, HỒNG, TÍM.

Có câu:” lưỡng Thổ thành Sơn”. Nếu họ dung đá có màu VÀNG SẬM, NÂU ĐẤT, sẽ rất tốt cho họ, vì người và đá cùng mệnh có sự tương hợp với nhau. Đất đá chế ngự được nước. người mệnh Thổ sẽ chế ngự được viên đá có màu của hành Thủy là ĐEN, XANH NƯỚC BIỂN.

Nên dùng: Người mệnh Thổ sẽ dùng được những viên đá quý có màu sắc:

* Để được tương sinh: màu ĐỔ, HỒNG, TÍM (Hỏa)

* Để được hòa hợp: màu NÂU ĐẤT, VÀNG SẬM.(Thổ)

* Để chế khắc được: ĐEN, XANH NƯỚC BIỂN (Thủy)

Không nên dùng:

* Đá có màu XANH LÁ CÂY, vì đó là đá có màu cùa hành Mộc.

Cây sống trên đất, hút hết sự màu mỡ của đất, khiến đất suy kiệt. Người mệnh Thổ nếu dùng đá có màu xanh lá cây sẽ bị suy yếu về sức khỏe, khó khăn về tài chính.

 II. Chọn màu sắc đá phong thủy theo mệnh gia chủ

Màu sắc trong phong thủy chủ yếu hướng đến việc cân bằng năng lượng âm và dương để đạt đến sự hài hòa lý tưởng. Âm là sắc tối yên tĩnh hấp thu màu và dương là sắc sáng chuyển động phản ánh màu. Do vậy, màu sắc được vận dụng để tăng cường những yếu tố thuận lợi và hạn chế những điều bất lợi từ môi trường tác động vào ngôi nhà.

Theo nguyên lý ngũ hành, môi trường gồm 5 yếu tố Kim (kim loại), Mộc (cây cỏ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất) và mỗi yếu tố đều có những màu sắc đặc trưng. Kim gồm màu sáng và những sắc ánh kim; Mộc có màu xanh, màu lục; Thủy gồm màu xanh biển sẫm, màu đen; Hỏa có màu đỏ, màu tím; Thổ gồm màu nâu, vàng, cam… Tính tương sinh của ngũ hành gồm Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Tính tương khắc của ngũ hành là Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim Tương sinh, tương khắc hài hòa, hợp lý sẽ mang lại sự cân bằng trong phong thủy cũng như trong cảm nhận thông thường của chúng ta theo thuật phong thủy.

Việc lựa chọn màu theo sở thích hay chọn màu theo nguyên lý ngũ hành trong phong thủy là hai phương pháp khác nhau nhưng cùng chung một kế quả. Bạn có thể hiểu và hình dung thêm về màu sắc trong ngũ hành của thuật phong thủy .

1

Màu sắc đá phong thủydành cho người mệnh Kim

Gia chủ mệnh Kim nên sử dụng tông màu sáng và những sắc ánh kim vì màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh, ngoài ra kết hợp với các tông màu nâu, màu vàng vì đây là những màu sắc sinh vượng (Hoàng Thổ sinh Kim). Những màu này luôn đem lại niềm vui, sự may mắn cho gia chủ. Tuy nhiên gia chủphải tránh những màu sắc kiêng kỵ như màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng Hỏa khắc Kim).

2

Màu sắc đá phong thủy dành cho người mệnh Thủy

Cũng tương tự như vậy, gia chủ mệnh Thủy nên sử dụng tông màu đen, màu xanh biển sẫm, ngoài ra kết hợp với các tông màu trắng và những sắc ánh kim (Trắng bạch kim sinh Thủy). Gia chủ nên tránh dùng những màu sắc kiêng kỵ như màu vàng đất, màu nâu (Hoàng thổ khắc Thủy).

3

Màu sắc đá phong thủy dành cho người mệnh Mộc

 Gia chủ mệnh Mộc nên sử dụng tông màu xanh, ngoài ra kết hợp với tông màu đen, xanh biển sẫm (nước đen sinh Mộc). Gia chủ nên tránh dùng những tông màu trắng và sắc ánh kim (Trắng bạch kim khắc Mộc).

4

Màu sắc đá phong thủy dành cho người mệnh Hỏa

Gia chủ mệnh Hỏa nên sử dụng tông màu đỏ, hồng, tím, ngoài ra kết hợp với các màu xanh (Thanh mộc sinh Hỏa). Gia chủ nên tránh dùng những tông màu đen, màu xanh biển sẫm (nước đen khắc Hỏa).

5

Màu sắc đá phong thủy dành cho người mệnh Thổ

Gia chủ mệnh Thổ nên sử dụng tông màu vàng đất, màu nâu, ngoài ra có thể kết hợp với màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng hỏa sinh Thổ). Màu xanh là màu sắc kiêng kỵ mà gia chủ nên tránh dùng (Thanh mộc khắc Thổ).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nữ trang –

Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ (Văn khấn trong tang lễ)

Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ (Văn khấn trong tang lễ)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ý nghĩa:

Rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ

2. Cách tiến hành nghi lễ:

Chép sẵn linh vị mới phủ giấy (hoặc vải) đỏ, khi Đàm Tế ở bàn thờ tang xong, thì đốt linh vị cũ cùng với bảng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới.

Trường hợp nhà không có bàn thờ chính thờ gia tiên bậc cao hơn thì không phải làm lễ này mà yết cáo gia thần và yết cáo Tổ ở nhà thờ tổ.

3. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương

- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân

- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ

Hôm nay là ngày… tháng…. năm... tại tỉnh… huyện… xã… thôn…

Tín chủ là…………(nếu lễ gia thần) hoặc Hậu duệ tôn là…………(nếu lễ gia tiên, tự xưng hô với vị được liệt thờ cao nhất).

Quỳ trước linh vị của………… (đọc linh vị của vị thờ cao nhất), liệt chư Tiên linh.

Kính nghĩ:
Gót tiêu dao, mịt mù mù mịt, đâu hạc nội, đâu mây ngàn?

Cõi trần thế, thay đổi đổi thay, nay sương dâu, mai bãi bể.

Lá rụng về cội, phách tuy giáng, hồn lại được siêu thăng.

Nước chảy về nguồn, thác là quy, sinh chẳng qua tạm ký.

Nhân sinh do tổ, gốc phải vững, phúc quả mới mong bền;

Hiểu tử sự thân, tế như tại, nhân tâm nào dám phế.

Bày nhân: Hiển khảo (hoặc tỷ)…………(đọc linh vị bố hoặc mẹ)

Thọ chung ngày…………..tính đến nay đã:


Quý húy Đại Tường;

Đến tuần Đàm Tế.

Quá hai năm trừ phục, cáo Tiên linh;

Đủ ba tháng dư ai, theo cổ lệ.

Cầu gia thần chứng giám, cho từ đường phảng phất linh hồn;

Nguyện Tiên Tổ phù trì, để bạch triệu quy hồi phách thể.

Đến ngày giỗ chạp, con cháu nhớ tháng ngày,

làm lễ dâng hương;

Nối gót Tổ Tiên, ông cha tiếp thế thứ, theo hàng phối tế.

Lễ bạc, kính dâng gọi chút, há dám quên cây cội, nước nguồn;

Suối vàng, như thấu cho chăng, họa may tỏ trời kinh, đất nghĩa.

Xin kính mời: Hiển…………………
Hiển…………………………………
Hiển…………………………………

Cùng các vị Tiên linh Tổ bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ về hâm hưởng.

Kính cáo: Liệt vị Tôn thần, Táo Quân, Thổ Công, Thánh Sư, Tiên Sư, Ngũ tư Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho toàn gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.

Chúng con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo Tiên Tổ (Văn khấn trong tang lễ)

Điểm danh 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn

Xui rủi là điều chẳng ai mong muốn, song không may lại có 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn. Lịch ngày tốt xin có đôi lời nhắc nhở, cầu chúc bình an.
Điểm danh 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xui rủi là điều chẳng ai mong muốn, song không may lại có 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn. Lịch ngày tốt xin có đôi lời nhắc nhở, hy vọng các bạn đều được bình an.
Tháng 7 âm lịch trong năm còn được gọi là tháng cô hồn, bởi đây là khoảng thời gian mà các vong hồn nơi âm tào địa phủ được “mở cửa mả”, thoát lên dạo chơi chốn trần gian. Chính vì thế mà trong tháng này buổi tối tốt nhất không nên đi ra ngoài quá muộn, cũng cần lưu ý để không phạm phải những điều cấm kị trong tháng cô hồn.


4 con giap de gap xui xeo trong thang co hon
 
  Tuy nhiên, đôi khi phòng tránh là một chuyện, song dù làm tốt đến đâu thì 4 con giáp sau vẫn dễ gặp những điều xui xẻo, đen đủi trong tháng cô hồn, bởi phạm phải xung sát trong tháng này. Vậy đó là những con giáp, hãy cùng tìm hiểu với Lịch ngày tốt nhé.  

1. Người tuổi Tị hoặc người sinh vào tháng 8 âm lịch


tuoi ti de tai nan
 
Huyết quang đao sát, tiền tài thấu chi.   Người cầm tinh con Rắn hay những người sinh vào tháng 8 âm lịch trong tháng cô hồn cần chú ý đảm bảo an toàn cho bản thân, bởi đây là thời điểm mà bạn có thể gặp phải những tai họa bất ngờ, tai nạn hoặc bị thương tật, chảy máu, ứng với họa huyết quang. Những tai họa này khiến cho bạn thất thoát tiền của, tài lộc tổn hao.   Tốt nhất với những chuyện mình chưa quen thuộc thì chớ nên cố ý động vào kẻo mang họa vào thân, cũng nên tránh xa những nơi nhiều tà ma nhất trong tháng cô hồn. Chuyện tình cảm cũng dễ bị đào hoa dữ đeo bám, không phân biệt được đúng sai tốt xấu.   Ngoài việc chú tâm cẩn trọng giữ gìn sức khỏe, tỉnh táo trong chuyện tình cảm thì người tuổi Tị hay những người sinh vào tháng 8 âm lịch cũng có thể đeo thêm đá mặt trăng phong thủy để cầu bình an.  

2. Người tuổi Dần,  người sinh vào tháng 10 âm lịch


tuoi dan gap den dui
 

Mệt mỏi nguy khốn, sức khỏe kém an yên.   Người tuổi Dần là 1 trong 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn, ngoài ra người sinh vào tháng 10 âm lịch cũng là đối tượng cần cẩn trọng trong khoảng thời gian này. Nên chú ý nghỉ ngơi sinh hoạt điều độ, giữ gìn sức khỏe.   Bạn dễ cảm thấy mệt mỏi, khó chịu trong người, đó là dấu hiệu của bệnh tật sắp đến. Nên hạn chế thức đêm, ôm đồm công việc dẫn đến căng thẳng, quá tải vì áp lực. Cần tìm thời gian để thả lỏng tinh thần, thoải mái về thể chất. Cũng có thể mang theo mình vòng tay có hình Địa Tạng Bồ Tát để xua tan vận hung đeo bám.  

3. Người tuổi Sửu, người sinh vào tháng 7 âm lịch


tuoi suu de benh tat
 
Tai nạn xe cộ, vỡ đầu chảy máu.   Tháng cô hồn nhiều điều kiêng kị, không thể làm ngơ, đặc biệt là với người sinh tháng 7 âm, tháng cô hồn và người tuổi Dần – con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn. Trong tháng này, có việc đi đâu hay đơn giản là khi tham gia giao thông cũng cần phải đặc biệt tập trung chú ý, chỉ lơ là một chút cũng có thể gây tai nạn.   Trong công việc đừng nóng vội bốc đồng, dễ gây tai họa. Dù là đi bộ hay đi xe thì cũng phải tập trung tinh thần, tuyệt đối không phân tâm làm những chuyện khác. Nghe điện thoại khi chạy xe là điều tối kị. Để bế quan hóa sát, có thể đeo thêm vật phẩm phong thủy, tốt nhất là nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc.  

4. Người tuổi Dậu, người sinh vào tháng 4 âm lịch


tuoi dau pham thai tue
 

Thái Tuế xung sát, tiểu nhân quấy nhiễu.

Người tuổi Dậu trong năm 2017 phạm Thái Tuế nên trong tháng 7 âm lịch càng phải cẩn thận hơn. Đây cũng là con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn, trong tháng hành sự cẩn trọng là hơn, chớ làm việc xấu kẻo vận hung ám vào người.   Ngoài ra còn có người sinh tháng 4 âm lịch cũng dễ gặp nhiều điều đen đủi trong tháng cô hồn. Trong công việc nên cố gắng khiêm nhường, chớ tự cao tự đại, cũng đừng lo chuyện bao đồng, hạn chế buôn chuyện nói xấu mọi người cùng chỗ làm để tránh gây thù chuốc oán, mang họa vào thân.    Lịch ngày tốt cũng khuyên người tuổi Dậu, người sinh vào tháng 4 âm lịch nên đeo đá thạch anh đen để cản sát khí, phòng tiểu nhân, bình an đi qua tháng cô hồn.
An An

Những điều 12 con giáp cần chú ý trong tháng cô hồn Vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn Mặc tháng cô hồn xui xẻo, những con giáp này vẫn rủng rỉnh tiền tiêu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, tu vi Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn

Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn, đây là bói tình yêu thông qua lá bài Tarot để dự đoán tình yêu trong tương lai của bạn tan/hợp?

Quy tắc bói bài:

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân “Mối quan hệ sắp tới của mình sẽ ra sao?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.

Lựa chọn 1: The Empress

 
TheEmpress.png

Lựa chọn 2: The Chariot

TheChariot.png

Lựa chọn 3: The Star

TheStar.png

Xem kết quả dự đoán tình yêu trong tương lai của bạn:

 

Lựa chọn 1: The EmpressDễ đi vào vết xe đổ

Bốc được lá bài này cho thấy bạn sống phụ thuộc vào hoài niệm quá khứ. Bạn trân trọng những kỷ niệm cũ đã qua và luôn để một góc trong tim cho mối tình cũ. Vô tình gặp lại bài hát của hai người, địa điểm từng đi qua…, ngay lập tức các ký ức sẽ sống lại trong bạn. Khi ấy, bạn sẽ quên hết “gấu” ở hiện tại để chìm đắm trong quá khứ.

Mối tình trước tan vỡ, dường như nguyên nhân chính là thói quen sống dựa vào nhiều vào tình cảm của bạn. Bạn quyết định bằng cảm tính, nên đôi lúc thiếu sáng suốt và chịu nhiều tác động của người khác. Do vậy, hai bạn thường xuyên xảy ra xích mích.

Lựa chọn 2: The Chariot – Trắc trở về sau

Khi mới làm quen với người mới, hai người như cực nam châm trái dấu hút nhau mạnh mẽ, bạn tìm thấy điều mình thiếu ở đối phương và ngược lại. Người ấy giống như một thế giới bí ẩn mà bạn luôn muốn tìm hiểu. Tuy nhiên, chính sự khác biệt lớn ấy lại tạo ra xung đột, nếu thiếu sự thông cảm, cả hai sẽ dần xa cách.

Sau một thời gian dài gắn bó, cặp đôi này bắt đầu xuất hiện dấu hiệu “lười yêu”, cho dù tình cảm vẫn mặn nồng. Hơn nữa, bạn lại có suy nghĩ phụ thuộc nhiều vào duyên số, nên đôi lúc bỏ mặc người ấy. Hãy xác định nghiêm túc về mối quan hệ đó nếu bạn muốn tình yêu vĩnh cửu.

Lựa chọn 3: The Star – Tình yêu hòa hợp

Tin vui dành cho chủ nhân này là mối tình sắp tới của bạn sẽ rất hòa hợp. Hai bạn như nghệ sĩ tung hứng cực kỳ ăn ý. Nếu thiếu đi một nửa, bạn sẽ không còn là chính mình và thấy cuộc sống thiếu ý nghĩa. Vậy nên, cuộc tình mới sẽ tạo nhiều sức ảnh hưởng tới công việc, lối sống và suy nghĩ về tình cảm của bạn, nếu bạn quan tâm tới tuổi vợ chồng xem ởXem tuổi vợ chồng.

Hơn nữa, “gấu” lại biết cách mang lại điều ngọt ngào, lãng mạn để bạn thấy mình may mắn khi song hành cùng người ấy. Thậm chí, nửa kia trở thành động lực giúp bạn cố gắng vượt qua những trở ngại trong cuộc sống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói bài Tarot về tình yêu trong tương lai của bạn - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Sống chậm để yêu thương

(PPUD) Thực tập nếp sống khiêm cung, đơn giản và thanh bạch là thực tập buông xả, gỡ bỏ những dính mắc vào mong cầu của thế gian.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đà Lạt chiều lất phất mưa, không khí thật mát mẻ, êm dịu. Cầm chiếc ô trên tay, Mi chậm rãi đi từng bước dạo giữa phố chợ sầm uất. Nhìn quanh, Mi thấy hai cô chú đang loay hoay dùng bạt che hàng trứng cho khỏi ướt, chị bán bánh tráng nướng đang hì hục thổi than giữa tiết trời ẩm ướt, phía xa kia các bạn trẻ và gia đình đang ngồi trên bậc thang dùng bữa vui vẻ cùng nhau… Nhịp sống của người dân Đà Lạt có vẻ thảnh thơi hơn nhịp sống ở phố thị Sài Gòn. Mi chưa bao giờ thấy cảnh kẹt xe hay dòng người chen lấn ở bất kỳ con đường nào nơi đây.

Cuộc sống ngày càng hiện đại, người làm marketing luôn phá cách tìm hướng đi mới cho thương hiệu để thu hút sự chú ý của công chúng. Đâu đó, Mi nghe được câu khẩu hiệu của một hãng dầu gội nổi tiếng: “Sống là không chờ đợi”. Đây là một câu khẩu hiệu có ý nghĩa rất tốt khi đưa ra hình tượng những người phụ nữ thành công trên thế giới như Madonna, Marilyn Monroe và Hồ Ngọc Hà nhằm khuyến khích giới trẻ hãy cố gắng sống và làm việc hết mình để đạt được thành công. Tuy nhiên cũng có người không đồng ý vì cho rằng câu khẩu hiệu này đang cổ vũ lối sống vội vàng. Riêng Mi thì không có ý kiến khen hay chê về câu nói trên. Điều mà Mi học được từ câu nói này chính là ý nghĩa sống trọn vẹn trong từng giây phút, không để thời gian trôi qua một cách vô nghĩa.

Đôi khi vì đi quá nhanh nên Mi không nghe, thấy được tiếng hát nụ cười của những em bé, chú chim dễ thương xung quanh, không cảm nhận được mẹ đang ngồi may áo và ba đang ngồi uống trà mỗi buổi sáng tinh sương trước hiên nhà, và đặc biệt là Mi không cảm nhận được sự sống của mình đang diễn ra, hạnh phúc khi còn được hơi thở, được thân thể lành lặn, được sáu căn trọn vẹn. Nhìn lại mình và dòng người, Mi tự hỏi không biết mình đã chạy theo danh lợi, theo tiền tài, theo tình yêu, theo sự hưởng thụ bao nhiêu kiếp rồi? Mình sẽ tiếp tục chạy theo những dục lạc ấy bao nhiêu kiếp nữa? Và khi nào mình mới thoát được vòng quay của bánh xe luân hồi?


Mi luôn tự nhủ hãy sống thật chậm, trân quý từng giây phút  được làm người, được thọ trì giáo pháp, được tu tập, được yêu thương. Mai đây, khi thân này về với tứ đại, Mi sẽ không hối tiếc. Theo thời gian, vật chất, thân giả hợp sẽ tan rã, chỉ có tình thương để lại đời.

Sau bốn năm dùi mài kinh sử ở trường đại học và năm năm có được việc làm như mong muốn, đôi lúc Mi tự hào với vị trí của mình, với số tiền, với chiếc xe, với ngôi nhà, với ba mẹ, với người thương… mà mình đang có. Mi cảm thấy hân hoan với lời khen và khó chịu với lời chê. Tự hào của Mi không phải là sự biết đủ và bằng lòng với hạnh phúc hiện tại mà là cái tự hào thể hiện sự tự mãn, sự khao khát muốn có thêm, muốn đạt được nhiều thành công, kiếm được nhiều tiền hơn và đi du lịch những nơi sang trọng hơn. Mi phải chạy thật nhanh để đạt được mục tiêu, không màng đến việc gieo hạt bất thiện vương vãi xung quanh. Đến khi quả khổ trổ sinh, Mi bị vấp và rơi vào hố do mình tự đào mà không hay. Tài sản tiêu tan, công việc thất bát, người thương xa lìa, nằm trên giường bệnh, Mi mới nhận ra rằng, mọi thứ đến nhanh thì cũng ra đi nhanh.

Không còn nhân viên tên Mi nào đang công tác ở cơ quan, tiền cũng không, chức vị cũng không, đất đai cũng không, người thương cũng không và thân xác này cũng không còn linh hoạt như xưa. Chỉ có nghiệp báo là thực sự. Những đau khổ mà Mi gieo cho người khác để được lợi cho mình, những vật chất mà Mi toan tính để có được nhanh, thời gian mà Mi bỏ rơi không chăm sóc cơ thể, gia đình… tất cả đang quay lại đòi nợ.

Một khi thân này nằm xuống, tâm thức ra đi thì son phấn, đầm áo, ba mẹ, con cái, nhà cao cửa rộng… có còn gì nữa đâu. Quán chiếu được những điều ấy, Mi quyết tâm dứt trừ những nguyên nhân sanh ra khổ ải, tầm cầu con đường giải thoát bằng thiền tuệ và trì giới.

Tu là sửa, là hoàn thiện những gì mình còn thiếu sót. Mi bắt đầu học thiền đi, thiền ngồi, thiền nằm, thiền ăn cơm, thiền lạy Phật, thiền công việc, học nói lời ái ngữ, học giáo Pháp… bằng sự tỉnh thức và có chánh niệm trong từng động tác. Đi chậm để biết mình đang đi, đang còn sức khỏe, còn sự sống để sải bước, để tiếp xúc và phát khởi tình thương với đất mẹ, với muôn loài. Lạy chậm để biết mình đang lạy, đang hướng về nguồn cội tâm linh của Tam Bảo và tổ tiên. Ăn chậm để biết mình đang ăn, biết ơn công phu lao tác, biết sự hiện diện của ba mẹ đang ngồi ăn cùng. Ngồi thiền, thở chậm và sâu để biết mình đang thở, biết an định tâm vào thân, biết hít vào là cung cấp oxy nuôi sống cơ thể, biết thở ra là thải độc tố trong người. Nói chậm để biết mình đang nghĩ gì, đang nói gì để không bao giờ hối tiếc…

Mi nhớ câu chuyện của một vị vua khi được binh lính bẩm báo là có bốn hòn đá lớn bao vây, đang lăn xuống kinh thành, không đường nào trốn thoát, ông chỉ nói một câu rằng: “Hãy sống thật sâu sắc trong hiện tại”. Bốn hòn đá ấy như bốn giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử của đời người. Đã sinh thì phải tử. Đã sống thì phải bệnh. Không ai thoát được. Do đó, Mi trân quý từng giây phút có được sức khỏe, có được thân người, có được người thương xung quanh vì không biết khi nào những hòn đá ấy sẽ lăn đến và cướp đi mạng sống của mình hay người thân.

Hãy sống thật chậm, thật sâu sắc, thật dễ thương với con tim. Tâm thế nào thì thân thế ấy. Tâm chan hòa, tràn đầy tình thương thì thân sẽ vô cùng ấm áp, dễ chịu. Nghe tiếng chim hay nhìn giọt sương cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu muôn loài, yêu cuộc sống trong đó. Trái tim mà lạnh thì tội nghiệp cho lồng ngực quá. Bắc cực giá rét nên ít sự sống. Miền nhiệt đới nóng ẩm nên nhiều sinh vật sinh sôi. Muốn trồng rừng tình thương thì phải gieo nhiều hạt tình thương. Nuôi dưỡng bản thân bằng những chất liệu hướng thượng, trong sạch như tham thiền, tụng kinh, giữ gìn giới luật, thực tập chánh niệm, nghe pháp, làm từ thiện, cúng dường, giúp đỡ nhiều người…

Thực tập nếp sống khiêm cung, đơn giản và thanh bạch là thực tập buông xả, gỡ bỏ những dính mắc vào mong cầu của thế gian. Khi không còn cái gì thì Mi không cần phải lo cho cái đó nữa, không cần chạy nhanh, không cần làm việc nhanh, không cần ăn nhanh, ngủ nhanh, yêu nhanh… nữa; thay vào đó là sự thanh thản, thong dong đi giữa dòng đời, có nhiều thời gian tập trung tu tập, hun đúc tình thương và khai mở trí tuệ của tự thân. Hạnh phúc cao quý ấy còn gì bằng.

Sống chậm không có nghĩa là sống buông xuôi, không màng thời gian, không màng thế sự, thả trôi bản thân, mà sống chậm ở đây có nghĩa là sống trọn vẹn, sống tỉnh thức trong từng giây phút. Thực tập chánh niệm, nhận diện tất cả ý niệm phát sinh, Mi biết thân tâm mình sẽ được bảo vệ, không còn nảy sinh tác ý tạo nghiệp nữa, thay vào đó là những suy nghĩ, hành động thiện lành giúp tăng trưởng phước báu.

Cuộc đời ta đã bao lần hối hả

Để tuổi xuân trôi xa mãi nơi nao

Hãy yên lòng lắng lại những lao xao

Cho trái tim được bình yên ca hát.

Kia là bầu trời xanh gió mát

Kia là cánh đồng lúa bát ngát

Kia là dòng sông rộng mênh mông

Sống chậm nhé, bỏ quên đời long đong

Để tình thương đong đầy mãi trong lòng.

Tường Lam

Theo Phật Pháp Ứng Dụng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống chậm để yêu thương

Biết tuốt bản chất con người bạn qua hình dáng khuôn mặt

Người có hình dáng khuôn mặt tròn trịa và đầy đặn thường rất nhạy cảm, chu đáo và có nhu cầu “chuyện ấy” khá cao.
Biết tuốt bản chất con người bạn qua hình dáng khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người có khuôn mặt tròn trịa và đầy đặn thường rất nhạy cảm, chu đáo và có nhu cầu “chuyện ấy” khá cao.


Tướng mặt hình trái tim

Đặc điểm của mặt hình trái tim là phần trán rộng nhưng cằm nhỏ. Trán rộng cho thấy đây là người thông minh, nhạy bén, có tư duy logic, song vẫn rất “nghệ sĩ”.

Điểm trừ trong tính cách của người này là sự kiên định đến mức cứng đầu và tính cách tự cao tự đại. Bạn sẽ gặp khó khăn nếu muốn thay đổi quan điểm hay suy nghĩ của họ.

Biet tuot ban chat con nguoi ban qua hinh dang khuon mat hinh anh
 
Tướng mặt hình tròn

Tướng mặt tròn hay còn gọi là mặt hình giọt nước. Người có hình dáng khuôn mặt tròn trịa và đầy đặn thường rất nhạy cảm, chu đáo và có nhu cầu “chuyện ấy” khá cao.

Tương tự tính chất của giọt nước là linh động và biến đổi phù hợp với vật chứa nó, người có khuôn mặt tròn có khả năng thích nghi cao và nhanh trí. Trong tình yêu, họ thủy chung, chính chuyên. Do đó, nếu bạn đang tìm kiếm một mối quan hệ lâu dài và bền vững thì họ chính là sự lựa chọn lí tưởng.

Tướng mặt trái xoan

Biet tuot ban chat con nguoi ban qua hinh dang khuon mat hinh anh 2
 
Đặc điểm tướng mặt này là mặt dài và phần cằm nhỏ. Sở hữu nó, bạn biết cân bằng mọi thứ trong cuộc sống và rất giỏi ăn nói. Tất nhiên, bạn thích hợp với các công việc ngoại giao. Nhờ tài ăn nói khéo léo, bạn dễ tạo thiện cảm đối với những người xung quanh.

Ngoài ra, người có khuôn mặt trái xoan được cho là có thể trạng kém, cần phải chăm chỉ rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Thêm một bật mí thú vị khác, phụ nữ sở hữu khuôn mặt này thường là những nghệ sĩ nổi tiếng.

Tướng mặt hình chữ nhật

Đặc điểm của khuôn mặt này là dài và mỏng. Sở hữu tướng mặt hình chữ nhật, bạn có cơ thể cường tráng, khỏe mạnh. Lối suy nghĩ của bạn thực tế, cẩn thận. Nhưng bạn hơi tự cao tự đại, tạo cảm giác khó gần.

Bên cạnh đó, bạn sống lý trí, tư duy logic tốt nên không gặp khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề.

Trước khi làm bất cứ việc gì bạn luôn lập kế hoạch cụ thể. Tuy nhiên vì quá “tham công tiếc việc” nên vẫn có những việc nằm ngoài tầm kiểm soát. Điều đó khiến bạn thấy áp lực. Đừng quên tập thể dục nhiều hơn để xả stress nhé.

“Bắt mệnh” giàu nghèo, sướng khổ qua chiếc lưỡi
Xem lưỡi bắt bệnh là việc làm thường thấy. Không chỉ dừng lại ở đó, hình dáng và màu sắc lưỡi cũng tiết lộ phần nào vận mệnh của đời người.
Tướng mặt hình kim cương


Bạn sở hữu khuôn mặt hình kim cương nếu phần trán và cằm gọn nhưng hai gò má lại rộng ra. Bạn có xu hướng muốn kiểm soát mọi thứ. Trong công việc, bạn rất chú trọng đến tiểu tiết nên thường gặt hái được nhiều thành công.

Tuy cẩn trọng là vậy,  nhưng họ có thể “nổi cơn thịnh nộ” bất cứ khi nào nếu mọi chuyện không diễn ra theo ý mình.

Biet tuot ban chat con nguoi ban qua hinh dang khuon mat hinh anh 3
 
Tướng mặt hình tam giác

Khuôn mặt hình tam giác sẽ có phần trán nhỏ và rộng hơn về phía gò má và cằm. Những người trán nhỏ thường có xu hướng muốn kiểm soát mọi thứ. Do đó, họ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống.

Theo Nhân tướng học, phần trán nhỏ cho thấy sức tập trung của bạn không cao, thường bị cảm xúc chi phối. Tuy nhiên, bạn khá sáng tạo, có trí tưởng tượng phong phú, thích hợp làm trong lĩnh vực nghệ thuật.

Hơn nữa, phần khuôn mặt rộng cho thấy sự quyết đoán, cứng rắn, thích hợp với vai trò người đứng đầu.

Tướng mặt hình vuông

Dấu hiệu để nhận biết người có khuôn mặt vuông là phần trán rộng và cằm bạnh ra. Người này thường thông minh, có đầu óc phân tích tốt và khá quyết đoán.

Ngoài ra, với bản tính thích chi phối người khác, họ có thể trở thành những nhà lãnh đạo trong tương lai.

► Bạn đã biết: Xem nốt ruồi trên mặt đoán tính cách chuẩn xác?

Phùng Hiền (Theo Wordpress)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Biết tuốt bản chất con người bạn qua hình dáng khuôn mặt

Trang trí phòng tân hôn theo phong thủy –

Việc trang trí phòng tân hôn cần phải biết kết hợp hài hòa giữa phong thủy truyền thống và hiểu biết về khoa học hiện đại, để có thể tìm được vẻ đẹp lãng mạn, ấm áp, tràn đầy niềm hân hoan trong ngày cưới, tạo sự khởi đầu tốt đẹp cho cuộc sống hôn nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ân.

trang-tri-phong-tan-hon

Giường tân hôn: Bên trái giường ngủ trong phòng tân hôn là hướng Thanh Long, nếu kê giường ở sát tường hoặc gần tường ngụ ý dễ sinh con trai. Bên phải giường ngủ là hướng Bạch Hổ, không được kê đồ quá chật chội, nếu không dễ khiến vợ chồng mâu thuẫn, bất hòa.

– Không đặt thiết bị âm thanh bên phải giường ngủ để tránh chuyện hiểu lầm, cãi cọ lẫn nhau.
– Không đặt ti vi trước giường cưới, để tránh bị suy nhược thần kinh.
– Không nên treo ảnh cưới quá lớn trên đầu giường cưới, để tránh cảm giác bị vật nặng đè lên phần đầu…

Khăn trải giường: Nên chọn loại khăn có chất liệu bằng cotton mềm mại, thoải mái, hút ẩm tốt. Hiện nay có nhiều chủng loại, hơn nữa màu sắc, hoa văn cũng rất đẹp mắt, nên có thể tha hồ lựa chọn sao cho phù hợp với kiểu dáng và kích thước giường ngủ là được.

Điều cần chú ý là chọn mua loại khăn sao cho phù hợp với những đồ nội thất khác trong phòng: rèm cửa sổ, khăn trải bàn, màn và những vật dụng khác để tạo sự hài hòa và xinh xắn.

Chăn: Nên chọn vỏ chăn làm bằng tơ lụa là tốt nhất vì mềm mại, đẹp và sang trọng, có thể chọn loại có hoa văn được thêu, in hoặc dệt lên chăn, với những hình hoa văn mang ý nghĩa tốt đẹp như: nhị long vờn ngọc, hỉ tước đăng mai, đôi chim long phụng cùng nhìn về phía mặt trời… Lõi chăn chọn loại có đặc tính hút ẩm tốt, làm bằng vải sợi bông là lựa chọn hàng đầu.

Gối: Về chất liệu tốt nhất vẫn nên chọn vải cotton. Màu sắc kiểu dáng cũng có thể chọn theo sở thích và căn cứ vào sự hài hòa với các đồ khác trong phòng để chọn mua loại gối phù hợp nhất. Gối thường có bộ đôi, còn có gối liền, mua gối cho phòng tân hôn tốt nhất nên chọn gối liền vì nó ngụ ý hai vợ chồng sẽ mãi mãi bên nhau.

Nến: Khi trang trí phòng cho cặp uyên ương, một vài ngọn nến sẽ đem lại hiệu quả bất ngờ. Chọn loại nến cốc hình bông hồng sẽ khiến căn phòng đẹp hơn, lung linh hơn và đặt chúng trước giường ngủ sẽ đem đến cảm giác dịu dàng, đầy bí ẩn, làm cho căn phòng mang một vẻ đẹp hết sức tinh tế, giúp cảm xúc được thăng hoa.

Hoa: Phòng ngủ của cô dâu chú rể có thể trang trí bằng một lọ hoa bách hợp. Hoa bách hợp có hình dáng và màu sắc đẹp, sang trọng, tên của nó còn mang một ý nghĩa rất hay, đó là lời chúc phúc cho hai vợ chồng luôn yêu thương nhau, trăm năm hạnh phúc.

Đồ trang trí khác: Đặt viên pha lê hình con giáp trên tủ ở đầu giường có tác dụng giúp cho tình cảm vợ chồng luôn hòa thuận, nhưng không được chọn hai con giáp tương khắc với nhau.

Nến, đèn và ảnh của đôi tình nhân trong phòng tân hôn tượng trưng cho tình cảm vợ chồng thắm thiết, gắn bó, bền chặt. Có thể trang trí thêm một vài đồ vật nhỏ trên giường cũng giúp tạo cảm giác thoải mái, tự nhiên, giúp cho căn phòng tràn đầy sức sống, như: gối ôm có màu trang nhã, một chú cún nhồi bông…

Về màu sắc: Không nên dùng màu hồng để sơn tường, cũng không nên chọn đồ gia dụng hoặc rèm cửa màu hồng, vì màu hồng dễ gây chứng suy nhược thần kinh, khiến tinh thần dễ bị kích động, hoảng loạn, dễ sinh cáu gắt. Đồng thời cũng phải tránh dùng những gam màu tối, đỏ sẫm, đen xám sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm trạng của cô dâu và chú rể trong đêm tân hôn, khiến họ cảm thấy bị ức chế.

Nền nhà không nên chọn màu tối sẫm, không bài trí nhiều đồ vật có màu đen, phòng ngủ nhiều màu đen có thể gây ảnh hưởng đến tâm trạng của chủ nhân, làm suy yếu vận thế và suy giảm tài vận.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí phòng tân hôn theo phong thủy –

Những chòm sao si tình hay nhận trái đắng trong tình yêu

Tình yêu không chỉ có ngọt ngào, say đắm mà còn lắm khổ đau, như 4 chòm sao si tình dưới đây, luôn dốc hết lòng, bỏ hết tình cho mỗi mối quan hệ.
Những chòm sao si tình hay nhận trái đắng trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu không chỉ có ngọt ngào, say đắm mà còn lắm khổ đau, có hạnh phúc cũng có tổn thương. Người càng bỏ ra nhiều càng dễ lâm vào buồn bã, như 4 chòm sao si tình dưới đây, luôn dốc hết lòng, bỏ hết tình cho mỗi mối quan hệ.


► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu và tử vi hàng ngày của bạn

Nhung chom sao si tinh hay nhan trai dang trong tinh yeu hinh anh 2
 

Kim Ngưu

 

Trong chuyện tình cảm, Kim Ngưu là chòm sao si tình, nghiêm túc và vô cùng chân thành. Khi đã quyết định bắt đầu, họ sẽ cố gắng để có kết thúc hoàn hảo, viên mãn, chấp nhận hi sinh nhiều hơn để đổi lấy cuộc vui. Họ cũng là người trọng tình trọng nghĩa nhất, ngang đời nhau rồi không thể thành người dưng.    Cũng vì như vậy mà Kim Ngưu dễ chịu tổn thương trong tình yêu. Xảy ra bất cứ chuyện gì họ cũng đứng mũi chịu sào, cố gắng nhiều hơn, nỗ lực nhiều hơn, thậm chí trả giá nhiều hơn. Dẫu bị người khác nói là ngốc nghếch nhưng Ngưu chan tình nguyện, không oán không trách.

Xử Nữ

  Đối với Xử Nữ, yêu là nghiêm túc, họ chọn đối tượng vô cùng kĩ lưỡng và coi đối tượng của mình hoàn mĩ, tuyệt vời. Không dễ dàng gì mới xác định được một người nên nắm thật chắc, giữ thật kĩ, trở thành chòm sao si tình lúc nào không hay.   Chuyên nhất với chuyện tình cảm nhưng Xử Nữ không phải lúc nào cũng gặp may mắn. Họ thường xuyên là người đau khổ hơn khi yêu vì tính cố chấp và có phần sĩ diện của mình. Thà rằng yêu khổ còn hơn là chia tay, đây chính là ý nghĩ thường trực của Xử Nữ.
 

Nhung chom sao si tinh hay nhan trai dang trong tinh yeu hinh anh 2
 
Hổ Cáp

  Lạnh lùng mà nặng lòng, chòm sao si tình Hổ Cáp chỉ lý tính lúc bình thường còn dính vào chuyện tình cảm, chắc chắn sẽ rối tinh rối mù. Hổ Cáp thận trọng nhưng lại không khống chế được bản thân trong tình yêu, nhất định sử dụng những biện pháp cực đoan nhất.   Vì thế, Hổ Cáp bị tổn thương, cực khổ yêu, đau lòng mà yêu. Có khi, chỉ do mình tự tưởng tượng ra thôi, tự huyễn hoặc thôi chứ đối phương chẳng làm gì có lỗi cả. Đúng là tự mình làm khổ mình.  

Ma Kết

  Suy nghĩ quá nhiều, quá sâu sắc cũng là một loại tổn thương mà Ma Kết chính là đại diện tiêu biểu. Không dễ dàng gì trao tình cảm cho một người nên cũng chẳng dễ dàng gì để họ từ bỏ. Yêu nhau, dù thăng trầm ra sao, vẫn cứ là quyết không buông tay.   Tình cảm vốn là thứ không nói rõ ràng được như thế đấy, cũng chẳng lý giải được. Đến người thông minh, lý trí như Ma Kết rồi cũng biến thành chòm sao si tình thôi.
Học 3 chòm sao mạnh mẽ cách trút bỏ áp lực công việc Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Học tập 4 chòm sao tốt bụng, phúc đến đời sau

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao si tình hay nhận trái đắng trong tình yêu

24 điều nên nhớ

24 điều nên nhớ. Hãy đọc chậm dãi, và ghi nhớ những điều sau đây, chính là những điều mà bạn cần ghi nhớ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy đọc chậm dãi, và ghi nhớ những điều sau đây, trong sổ tay cá nhân hay trong tiềm thức của bạn. Bạn hãy nhớ rằng…

1. Sự hiện diện của bạn là món quà của cả thế giới.

2. Bạn là duy nhất và không ai giống bạn cả.

3. Cuộc sống của bạn hoàn toàn phụ thuộc theo mong muốn của bạn.

4. Hãy biết tận hưởng trọn vẹn một ngày.

5. Hãy đếm những điều mà bạn hạnh phúc, đừng đếm những điều phiền muộn.

6. Bạn sẽ vượt qua được tất cả mọi thứ, dù có khó khăn đến đâu.

7. Có hàng tá câu hỏi và câu trả lời trong chính bạn.

8. Hãy trở nên có hiểu biết, can đảm và mạnh mẽ.

9. Đừng tự tạo những giới hạn cho chính bản thân bạn.

10. Có nhiều giấc mơ đang chờ được thực hiện.

11. Những quyết định cũng không kém phần quan trọng như những cơ hội mà bạn có.

12. Hãy vươn đến đỉnh cao của chính bạn, vươn tới ước mơ và khát vọng.

13. Không gì làm lãng phí năng lượng của bạn hơn là ngồi một chỗ và lo lắng về hàng tá chuyện.

14. Một người kiên nhẫn có thể chấp nhận một việc thậm chí còn hơn cả bản chất của sự việc đó.
15. Đừng biến bất cứ điều gì trở nên trầm trọng.

16. Hãy sống một cuộc sống thanh bình, đừng sống một cuộc đời tiếc nuối.

17. Hãy nhớ rằng một tình yêu nhỏ có thể đi cả một quãng đường dài.

18. Cũng hãy nhớ rằng nhiều thứ sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ quay trở lại.

19. Hãy nhớ rằng tình bạn là một sự đầu tư khôn ngoan.

20. Cuộc sống thật quý giá khi người ta ở bên nhau.

21. Hãy nhận ra rằng mọi thứ không bao giờ là trễ cả.

22. Hãy thực hiện những điều bình dị theo những cách phi thường nhất.

23. Hãy luôn nhớ về gia đình, luôn có những ước mơ, hy vọng và niềm hạnh phúc trong cuộc sống.

24. Thời gian luôn chuyển động và hãy ước rằng, một lúc nào đó, ta sẽ vươn tới những vì sao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 24 điều nên nhớ

Áp dụng ngay phong thủy tăng cơ hội trong công việc

Áp dụng phong thủy tăng cơ hội trong công việc không hề khó nhưng bao lâu nay chúng ta đã lãng quên và không để ý tới việc này.
Áp dụng ngay phong thủy tăng cơ hội trong công việc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Cải thiện kỹ năng và kiến thức là điều quan trọng vì không chỉ để tăng vốn hiểu biết mà còn giúp cho bạn dễ đưa ra quyết định hơn, có thể thu hút các cơ hội kinh doanh tốt hơn. 
 
Trí tuệ khai thông đồng nghĩa với việc bạn sẽ có những hành vi khôn ngoan hơn trong cuộc sống. Do đó, áp dụng phong thủy được xem là một phương pháp rất hữu ích để cải thiện kỹ năng của bản thân, tuy nhiên, chúng ta lại thường bị lãng quên. 
 
Hãy nhớ rằng, đưa ra những quyết định khôn ngoan cũng là một bước quan trọng để để dẫn bạn tới thành công. Với kiến thức phong phú bạn sẽ thu hút những đối tác tiềm năng hỗ trợ bạn trong công việc, cuộc sống. Hơn nữa, bạn chỉ có thể duy trì mối quan hệ tốt đẹp này thông qua cách nói chuyện và hành vi phù hợp.

Bài viết sau chỉ cho chúng ta cách áp dụng phong thủy tăng cơ hội trong công việc. Nhưng trước tiên, bạn cần xác định vị trí hỗ trợ bạn khai thông trí tuệ: đi từ cửa chính vào, bạn rẽ trái. Góc trái của căn nhà đại diện cho khu vực kỹ năng và kiến thức. Sau đó việc chúng ta cần làm là tăng năng lượng cho khu vực này.

Ap dung ngay phong thuy tang co hoi trong cong viec hinh anh
 
 

Đồ vật phong thủy để tăng năng lượng cho khu vực kỹ năng và kiến thức:
 

Màu xanh - Đây là màu sắc của kiến thức. Vì vậy, nên chọn một số đồ vật có màu xanh ở vị trí này, ví dụ treo một chiếc khăn hay áo khoác xanh để thi thoảng bạn có thể nhìn thấy.   Sách - Đây rõ ràng là công cụ để tăng kiến thức và hiểu biết cho bạn. Bạn có thể để sách về kỹ năng hoặc kiến thức mà bạn muốn cải thiện cho công việc, cuộc sống của bạn vì sẽ có lúc bạn cần để tra cứu, tìm hiểu.   Ánh sáng - Ánh sáng luôn là đối tượng phù hợp để tăng năng lượng cho bất kỳ vị trí nào. Hãy nhớ rằng, kiến thức mang lại ánh sáng cho những tâm hồn u tối. Vì vậy có thể để nến, bóng đèn, đèn lồng,… đều rất phù hợp.   Đồ ăn – "Có thực mới vực được đạo", vì thế, nếu để tủ lạnh góc này cũng rất tốt. Có thể bạn nên tìm hiểu những thức ăn dinh dưỡng tốt cho tế bào não để bổ sung thêm cho cơ thể mình.   Đồ lưu niệm đòi hỏi khả năng tư duy - Bất cứ đồ vật tượng trưng cho khả năng tư duy như tác phẩm điêu khắc, bộ cờ vua, một cuốn sách triết học,... đều phù hợp là đổ vật để giúp bạn áp dụng phong thủy tăng cơ hội trong công việc.   Kim loại - Kim loại rất hữu ích để giúp tinh thần bạn tĩnh lặng hơn. Từ tiền xu cho đến vật trang trí bằng kim loại đều là yếu tố phong thủy rất tốt trong việc hỗ trợ bạn tăng khả năng thu nhận kiến thức.   Nước - Nước sẽ giúp bạn tăng cường dòng chảy suy nghĩ, vì vậy một bể cá nhỏ cũng đáng được lưu tâm.   Đen – Màu đen cũng như nước đều rất tốt vì vậy, bất cứ đồ vật gì màu đen có thể đặt ở trong khu vực này.   Gỗ - Gỗ giúp tăng cường suy nghĩ của bạn nên đừng quên để những vật dụng bằng gỗ ở vị trí này.
 
Màu xanh lá cây – Cũng như gỗ, những đồ vật màu xanh lá cũng là đồ vật hoàn hảo hỗ trợ cho bạn tăng khả năng tư duy.
 
Một nơi để bày tỏ lòng biết ơn - Đây là nơi lý tưởng để có thể để bàn thờ, bày tỏ lòng biết ơn tới tổ tiên, ông bà,…
 
Biểu tượng của kiến thức và kỹ năng bạn muốn có - Bạn có muốn trở thành một bác sĩ, luật sư,… hãy để những đồ vật tượng trưng cho nghề nghiệp này làm động lực cho bạn thúc đẩy đạt được mục tiêu.

Có thể bạn quan tâm tới chủ đề sau: Áp dụng phong thủy để công việc lên như diều gặp gió
 
Ap dung ngay phong thuy tang co hoi trong cong viec hinh anh 2

Bạn có thể sử dụng đồ vật phong thủy tăng cơ hội trong công việc như để sách, đèn ở vị trí phù hợp

Những điều làm giảm khả năng thu nhận kiến thức
 

Lộn xộn – nếu môi trường xung quanh lộn xộn bạn sẽ khó tập trung suy nghĩ. Vì thế, luôn giữ cho mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, dọn dẹp thường xuyên. Để áp dụng phong thủy tăng cơ hội trong công việc một cách hiệu quả, điều trước tiên là bạn luôn phải ý thức được việc để mọi thứ thật ngăn nắp, gọn gàng.
 
Những điều ngăn cản khả năng tư duy - Thuốc, rượu, bia, thuốc lá, tất cả chúng sẽ là đám mây mờ che phủ hết khả năng suy luận và suy nghĩ, vì vậy bạn không nên để những đồ vật trên vào khu vực quan trọng như thế này.   Biểu tượng của sự phán đoán xấu - Đừng để những đồ vật mang lại cho bạn những tư duy sai lệch như các tờ báo, tạp chí lá cải, đặc biệt là những bài viết nói về những lựa chọn sai lầm. Tương tự như vậy, bạn nên tránh những cuốn sách nói về vấn đề tham nhũng, trộm cắp, giết người...

Bạn có thể xem thêm bài viết sau: Những lý do theo phong thủy khiến bạn muốn mua trúc phú quý ngay lập tức 
  Kate Nguyễn

Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ Phong thủy văn phòng vượng tài vượng lộc nhờ treo tranh đúng cách Chìa khóa vàng bài trí phong thủy văn phòng thịnh phát

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Áp dụng ngay phong thủy tăng cơ hội trong công việc

Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Thiên trảm sát (thiên phong sát): Khu vực kinh doanh đối diện với 1 khe hở giữa các tòa nhà sẽ hình thành
Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thiên trảm sát (thiên phong sát): Khu vực kinh doanh đối diện với 1 khe hở giữa các tòa nhà sẽ hình thành "phong sát". Điều này khiến tài vận lên xuống thất thường.

(Ảnh minh họa)

Ở Trung Quốc, nếu thiết kế cửa hàng phạm phải "thiên phong sát", có thể treo xâu tiền gồm 6 loại tiền cổ qua các triều đại (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang) để hóa giải.

2. Hướng thủy chạy nghịch: Chỗ buôn bán trước mặt có con đường đi, từ chỗ cửa của cơ sở cao chạy xuống thấp hẳn mà chạy đi. Phong thủy gọi là “thủy long phản tẩu”, tài vận không tốt, không thích hợp mở cửa hàng.

3. Mặt đối ngõ nơi chết chóc: Trước mặt đối diện với cảnh chết chóc, sự nghiệp không có lối ra.

4. Hãn đinh bổng (đuổi nhân tài): Nếu như phía trước cửa chính hoặc cửa sổ của cửa hàng có cột đèn, hộp đèn lớn thì cửa chính đã phạm phải "hãn đinh bổng", đuổi nhân tài đi. Vì thế, khi lựa chọn cửa hàng cần lưu ý điểm này.

5. Rồng nước bò ngược: Khi vừa bước ra khỏi cửa hàng, thấy con đường lớn, hướng gần cửa thì cao sau đó thấp dần về phía trước, đó gọi là "Rồng nước bò ngược", bất lợi cho việc kinh doanh, buôn bán.

(Tổng hợp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Phản ứng của 12 chòm sao khi được hỏi “Bạn đang làm gì đó?”

Cự Giải là người trung thực và không có thói quen nghĩ nhiều. Nên khi được hỏi thì nhanh chóng trả lời chân thực nhất và trong lòng chẳng có gợn sóng nào.
Phản ứng của 12 chòm sao khi được hỏi “Bạn đang làm gì đó?”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cự Giải là người trung thực và không có thói quen nghĩ nhiều. Nên khi được hỏi thì nhanh chóng trả lời chân thực nhất và trong lòng chẳng có gợn sóng nào.


► Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất

Phan ung cua 12 chom sao khi duoc hoi Ban dang lam gi do hinh anh
 
Bạch Dương
  Bạch Dương vốn là người lương thiện, nhưng khi được hỏi những lời này thì tâm tư miên man bất định, thầm suy nghĩ: “Chắc là gặp phải chuyện gì khó khăn nên mới cần mình giúp đỡ, tuy rằng mình cũng đang bận nhưng bạn bè gặp nạn thì không thể không giúp”.

Kim Ngưu
 
Kim Ngưu là đại ích kỷ, khi được hỏi chợt chột dạ lo lắng: “Bình thường chẳng bao giờ hỏi tới mình, nay bỗng dưng lại hỏi, chắc là định vay tiền”. Và đối phương sẽ nhận được câu trả lời là: “Thực sự xin lỗi, hiện giờ mình cũng khó khăn, bạn có thể nhờ người khác”.
 
Song Tử
 
Song Tử là người sống “tình cảm”, nên bất cứ câu hỏi nào từ đối phương (người khác giới) đối với Song Tử cũng là dấu hiệu “đèn xanh”. Song Tử không coi đây là câu nói bình thường. Có thể đây chỉ là một câu hỏi đơn giản nhưng Song Tử sẽ nghĩa là người ấy có nhiều điều muốn nói sau câu nói này, có thể là thổ lộ tình cảm, chắc là đối phương đã có tình ý gì với mình, đã thầm ngưỡng mộ mình từ lâu nên hôm nay thổ lộ.
 
Cự Giải
 

Sư Tử
 
Sư Tử là người bận rộn, chẳng bao giờ có cảm giác nhàn rỗi, không ngừng phấn đấu vì sự nghiệp. Nên khi được người khác hỏi vậy họ liền nghi ngờ không biết đối phương có tình ý gì? Chẳng lẽ thấy mình rảnh rỗi nên có thể đùa cợt chăng? Tốt nhất là nên lơ đi và tiếp tục công việc của mình.
 
Xử Nữ
 
Xử Nữ là người hiểu chuyện nên khi nhận được câu hỏi như vậy thì ngay lập tức nghĩ rằng đối phương có chuyện khó nói nào đó và Xử Nữ sẽ tỏ ra quan tâm và có thể lắng nghe người ấy tâm sự hàng giờ liền.

Phan ung cua 12 chom sao khi duoc hoi Ban dang lam gi do hinh anh
 
Thiên Bình
 
Thiên Bình vui tính thường hay đùa cợt nên khi được hỏi vậy sẽ nghĩ là đối phương đùa giỡn thôi. Thiên Bình sẽ trả lời ngay mà không cần suy nghĩ. “Tớ đang làm việc, cậu muốn hỏi gì nào?”
 
Hổ Cáp
 
Hổ Cáp khá tập trung vào công việc và không có thời gian để lắng nghe câu hỏi của người khác. Nên khi được hỏi vậy thì Hổ Cáp cũng có suy nghĩ một chút nhưng ngay lập tức sẽ bỏ qua.
 
Nhân Mã
 
Nhân Mã có chút “phong tình” nên khi được hỏi sẽ nghĩ rằng đối phương có ý định trêu trọc nên sẽ nháy mắt, “đá lông nheo” và đáp lại bằng một câu trả lời đầy thâm ý nhưng lại tỏ vẻ vô cùng ngây thơ.
 
Ma Kết
Ma Kết sẽ nhìn đối phương trong một giây và nghĩ rằng chắc đối phương có cảm tình với mình nên bỗng dưng tìm tới mình, chủ động bắt chuyện, Ma Kết cảm thấy ấm lòng và tâm hồn hơi bị xao xuyến một chút.
 
Bảo Bình
 
Bảo Bình tính tình phóng khoáng, lạc quan nên chẳng suy nghĩ nhiều. Khi được hỏi thì trả lời ngay và rất thẳng thắn. 
 
Song Ngư
 
Song Ngư khá đa nghi nên khi bỗng dưng có người hỏi vậy thì sẽ nghĩ rằng người ta đang có một âm mưu nào đó. Mặc kệ đối phương có ý gì hay không họ đều chọn cho mình một giải pháp an toàn là không liên quan – “Mình không rảnh lắm”!   Minh Hà 5 cung hoàng đạo có máu Trương phi trong ngày hè Học hỏi 4 cô nàng hoàng đạo biết cách khiến chàng mê mệt Điểm tên chòm sao nữ lụy tình sinh vào tháng nào? Top 5 chòm sao kết hợp với Bảo Bình sẽ làm nên cặp đôi tuyệt đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phản ứng của 12 chòm sao khi được hỏi “Bạn đang làm gì đó?”

Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian

Các phương thức bí truyền chữa bệnh bằng bùa chú, đọc niệm, cúng khấn để chữa bệnh đến ngày nay vẫn được sử dụng. Hãy cùng tìm hiểu phương pháp chữa bệnh tâm
Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sử dụng pháp thuật chữa bệnh đã tồn tại từ lâu trong dân gian. Các phương thức bí truyền như bùa chú, đọc niệm, cúng khấn để chữa bệnh đến ngày nay, khi khoa học và y học phát triển vượt bậc vẫn được sử dụng ở không ít nơi. Cùng tìm hiểu phương pháp chữa bệnh tâm linh này qua bài viết dưới đây.


Thuc hu phuong phap dung bua thuat tri benh trong dan gian hinh anh 2
 
Các thầy mo, thầy cúng được coi là nhân vật quan trọng trong văn hóa dân gian của người Việt từ xa xưa. Họ không chỉ đảm đương công việc của một nhà tâm linh mà còn như một thầy thuốc của cộng đồng. Chỉ với một chén nước, đọc chú ngữ là người bệnh có thể thuyên giảm hay thông qua một lễ cúng với hàng loạt các nghi thức là có thể giải trừ mọi bệnh tật.   Khi Đạo giáo bắt đầu có chỗ đứng ở Việt nam thì nghi thức chữa bệnh bằng bùa chú phổ biến nhất là thắp hương, niệm bát tiên chú, lấy nước cho người bệnh uống. Hay là viết bùa, luyện ngải rồi đốt hòa với nước làm thuốc chữa bệnh. Thậm chí, dòng Đạo giáo thần tiên còn có những bài phép thuật riêng để chữa bệnh, cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh. Thực hư hầu như chưa rõ ràng nhưng sau đó bị liệt vào hàng tà giáo, cấm lưu truyền.
Bí ẩn giấc mơ về bùa chú Tìm hiểu văn hóa bùa chú trong tâm linh người Việt Khu chợ bày bán tâm linh công khai ở Tây Phi

Phật giáo không khuyến khích bùa chú, bản thân Phật giáo cũng không có bùa chú nhưng khi truyền vào dân gian, tích hợp với văn hóa bản địa cũng như đời sống tâm linh tín ngưỡng ăn sâu bắt rễ trong lòng người Việt, Phật giáo cũng xuất hiện các phương pháp chữa bệnh tâm linh.
  Đó không phải là các nghi lễ bài bản hay những bài bùa chú hiệu nghiệm như các tín ngưỡng dân gian mà chủ yếu là trì tụng, niệm kinh và hướng Phật. Điển hình là tâm lý lên chùa dâng hương lễ Phật, niệm kinh, niệm chú để mong giải trừ bệnh tật, tai ách. 
Thuc hu phuong phap dung bua thuat tri benh trong dan gian hinh anh 2
 
Giải thích cho vấn đề này, các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết chú ngữ là một loại âm thanh sóng âm mà khi cộng hưởng với cơ thể sẽ nảy sinh tác dụng chữa bệnh. Tuy nhiên, luận cứ này có phần khiên cưỡng và thiếu hợp lý vì hầu hết khi niệm chú đều phát ra tiếng và thực chất chưa phát hiện ra trường hợp con người có thể tạo ra sóng âm chữa bệnh.
  Nếu niệm chú có thể khỏi bệnh thì con người bách bệnh tiêu tan, vì thế phương pháp này chỉ có tác dụng về mặt tinh thần chứ chưa có chứng minh khoa học về mặt chữa bệnh. Cũng như vậy, niệm Phật là để tâm an, tinh thần khỏe khoắn, hướng thiện chứ không thể chữa khỏi bệnh. Các hình thức chữa bệnh bằng tâm linh hầu hết đều bị cho là mê tín dị đoan và cấm lưu hành.
 
► Xem phong thủy và những điều ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn
  Bùa ngải và bản chất của huyền thuật Người Chăm yểm kho báu trên đảo Lý Sơn Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu chài đại gia Tâm Lan
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian

Ảnh hưởng của nhà nhô, thụt, lồi lõm –

Kiến trúc hiện đại, nhất là nhà cao tầng, hầu như đều có phương vị, ô nhỏ hình dáng lồi ra và lõm vào, đều có ảnh hưởng. Lành dữ của mặt lồi Chỗ lồi ra ở phương vị nào đó của nhà, ảnh hưỏng lớn nhất có 6 điểm dưới đây: - Nhà hướng Nam, nếu hướng Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiến trúc hiện đại, nhất là nhà cao tầng, hầu như đều có phương vị, ô nhỏ hình dáng lồi ra và lõm vào, đều có ảnh hưởng.

av

Lành dữ của mặt lồi

Chỗ lồi ra ở phương vị nào đó của nhà, ảnh hưỏng lớn nhất có 6 điểm dưới đây:

– Nhà hướng Nam, nếu hướng Nam lồi ra là dữ. Gọi là Ngọ đầu.
– Phía Đông Nam của nhà lồi là lành.
– Hình của nhà ở phương vị phía Đông lồi ra là lành.
– Góc nhà Tây Bắc lõm vào – không lành.
– Hình của nhà ở phía Tây lồi ra là lành.
– Hình của nhà phía Nam lồi ra dữ.
– Hình của nhà ở phía Bắc lồi ra lành.

Lành dữ của mặt lõm

Phương vị nào đó cửa nhà có hiện tượng lõm vào, 7 điểm dưới đây ảnh hưởng nhất, cổ nhân có câu “Tường nhà 7 lõm, 7 hàng đều thực”:

– Phía Tây Bắc của đất xây nhà lõm vào, tổn thất khí quí.
– Hình nhà 4 phía đều có chỗ thiếu – đại dữ.
– Hình của nhà nếu có lõm vào cả hai hướng Nam, Bắc – dữ.
– Hình của nhà nếu có hướng Đông, Tây đều lõm vào – lành.
– Hình của nhà nếu phía Đông lõm vào – dữ.
– Hình của nhà có phía Tây lõm vào – dữ.
– Hình nhà phía Đông Nam lõm vào – dữ.

Lành dữ của góc nhọn bắn phá

Trong quan niệm truyền thống Trung Quốc, đặc biệt nhạy cảm vói góc nhọn, phong thủy học gọi là “góc nhọn bắn phá”, điều này sẽ dẫn đến bất an, nhà tan cửa nát, bệnh tật thường đến…

Vì sao có cách nói như vậy:

Trung Quốc là dân tộc tôn thờ “Tròn” và “vuông”, cho nên đại bộ phận vật kiến trúc dụng cụ, đều lấy hình “tròn” và “vuông” để làm chứng.

Hình tròn, vì nó tượng trưng cho sự đoàn viên, viên mãn, hơn nữa lại “tròn” đều, không góc, không có chỗ nào có góc nhọn bốn phía, cho nên rất được hoan nghênh.

Nguyên nhân hình “vuông” được hoan nghênh, chủ yếu là vì nó có bốn bề phẳng, vững chắc, cho người ta cảm giác vững vàng đáng tin cậy. Hình vuông tuy có góc, nhưng toàn là góc vuông, không có góc nhọn cho nên không thể gây hại như góc nhọn bắn phá.

Còn với hình tam giác, vì mỗi bên đều có góc nhọn (góc nhỏ hơn 90 độ), mà lực sát thương của góc nhọn ác liệt hơn góc tù nhiều, có thể nói, góc nhọn càng nhọn thì lực sát thương càng lớn!

Vật kiến trúc truyền thống Trung Quốc và dụng cụ vật dụng ít khi có hình tam giác, điều đó chứng minh những điểm nêu trên không phải là không có căn cứ.

Vì thế khi làm nhà, nên chú ý phụ cận chung quanh xem có góc nhọn bắn phá không.

Góc nhọn bắn phá, có nhiều loại, mà bắn phá cửa chính là dữ nhất.

Theo thuyết phong thủy học, góc nhọn bắn phá cửa chính là sẽ dẫn đến hậu quả khá lớn như bệnh tật thường xuyên, thậm chí nhà tan cửa nát…

Có thể sử dụng bốn phương pháp dưới đây để hóa giải:

– Treo đầu dã thú – đầu dã thú rất ít thấy, đó là mảnh gỗ rộng tám tấc với một thước hai chiều cao, trên đó vẽ đầu dã thú đang há mõm; Phương pháp này không phức tạp, chỉ cần đem đầu thú treo lên đối diện thẳng với góc nhọn, là có thể hóa giải, nhưng khi treo phải cẩn thận, không được đóng đinh vào mặt thú.

– Treo gương lõm – gương lõm còn gọi là gương võng tâm, gương này có thể mua đưọc ở những nơi bán đồ thờ cúng, vì rất phổ biến.

Gương lõm có cấu tạo đặc biệt, cho nên các vật qua gương nhìn thấy mọi sự vật, mọi sự trái phải, trên dưới đều ngược lại hết, sau đó phản xạ trở về, có tác dụng vừa tiêu trừ, vừa đánh nên được gọi là công cụ tốt nhất để hóa giải góc nhọn bắn phá. Phương pháp treo gương lõm rất đơn giản, chỉ cần đóng đinh treo lên tường đối chiếu với góc nhọn là được.

– Lấy tấm chắn che, đây là phương pháp rất đơn giản, chủ yếu là nhìn rõ nơi góc nhọn bắn phá, dùng tấm gỗ che chắn.

– Dùng bể cá để hóa giải, có thể đặt bể cá đối chiếu với góc nhọn như thế sẽ có hiệu quả chuyển họa thành lành. Bể cá làm bằng kính còn tấm kính hoặc nhôm gắn biên, có tác dụng phản xạ giống như gương Bát quái.

Góc nhọn là vật sắc, thuộc Kim dùng bể cá để hóa giải góc nhọn chủ yếu là Kim sinh Thủy, nguyên khí Kim sẽ bị tổn hại lớn, nói cách khác là nước trong bể cá tiêu diệt góc sắc nhọn của góc nhọn, dùng bể cá để hóa giải sự bán phá của góc nhọn, có thể yên tâm, hơn nữa lại mỹ quan mát mắt không rõ vết tích hóa giải vô hình. Dùng bể cá để hóa giải sự bán phá của góc nhọn, thì nên nuôi bao nhiêu cá là hợp phong thủy? Con số lý tưởng nhất là sáu con, trong đó năm con màu đen một con màu đỏ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ảnh hưởng của nhà nhô, thụt, lồi lõm –

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Tuất

Tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Tuất không thích hợp làm trong lĩnh vực kinh doanh, nam mệnh nên đi xa xứ để đạt được thành công. Đường tình duyên của bản
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày canh tuất không thích hợp làm trong lĩnh vực kinh doanh, nam mệnh nên đi xa xứ để đạt được thành công. Đường tình duyên của bản mệnh lận đận.

 
► Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Canh Tuat hinh anh
 
Ngày Canh Tuất trung đẳng, tọa chi Chính Quan, Thiên Ấn. Mệnh chủ nên hợp tác với người trụ ngày Tân Mão, đường đời tất gặp Kỷ Hỏa    Người sinh ngày Canh Tuất dù là nam hay nữ đều mang khí quan, điều đó có nghĩa là dù là lao động phổ thông nhưng cũng không mất đi tôn nghiêm, khiến người khác khó tiếp cận. Vậy nên, trong cuộc sống thường ngày, bản mệnh luôn ổn trọng đúng mực làm việc, tuy nhiền khó tránh khỏi có có nhiều sự nghi ngờ đối với người xung quanh.
Tìm hiểu về Huyền không phi tinh
Huyền không phi tinh lấy sự phối hợp của cửu tinh trong Lạc Thư làm chủ. Trong trường hợp khác nhau, cửu tinh sẽ xuất hiện tình huống bay thuận hoặc bay

Nam mệnh trụ ngày Canh Tuất phải đi xa xứ, du lịch nhiều mới có cơ hội phát triển, nếu làm trong lĩnh vực kinh doanh gặp nhiều trở ngại lớn. Nữ mệnh là người có nhiều mưu mẹo, tuy nhiên làm trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng khó có thể đạt thành tựu lớn.
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Tuất thấy đường tình duyên lận đận. Nữ mệnh có vẻ ngoài xinh đẹp, tài hoa, nhưng không đạt được lương duyên tốt. Nam mệnh nhận được nhiều sự trợ giúp từ vợ, tuy nhiên sức khỏe của người vợ luôn giảm sút
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Canh Tuat hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Canh Tuất thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Tý, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Sửu, Ất Dậu, Bính Dần, Bính Tý, Đinh Hợi, Đinh Mão, Mậu Tý, Mậu Ngọ, Mậu Thìn, Kỷ Hợi, Kỷ Tỵ, Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Sửu, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thân, Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Tỵ.
Tổng thống Obama: người đàn ông hội đủ thiên thời - địa lợi - nhân hòa Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Tuất

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd