Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lý do tháng hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày

Mỗi tháng Dương lịch đều có từ 30 đến 31 ngày, nhưng tháng Hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày nếu là năm nhuận, là do giữ nguyên cách tính lịch của người La Mã trước kia.
Lý do tháng hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lịch La Mã ban đầu ban hành bởi Romulus, vị hoàng đế đầu tiên của thành Rome. Lịch do ông ta ban hành dựa vào chu kỳ của mặt trăng, tức là tương tự như âm lịch của người phương Đông, tuy nhiên chỉ có 10 tháng. 10 tháng của lịch này bắt đầu từ tháng ba và kết thúc vào cuối tháng mười hai (lưu ý rằng cách đánh số tháng 1, 2, 3, ... là do cách dịch của người Việt Nam, còn trong nguyên bản của lịch La Mã cũng như cách dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới thì mỗi tháng có tên riêng).

Như vậy một năm chỉ có 10 tháng, tức là có một khoảng thời gian kéo dài hai chu kỳ Trăng không được đưa vào lịch, vì Romulus cho rằng đây là thời gian mùa đông không có ý nghĩa gì với việc làm nông nghiệp nên không cần có quy ước.

Khoảng thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, hoàng đế Numa Pompilius là người quyết định đưa thêm hai tháng nữa vào lịch cho đủ 12 chu kỳ Trăng. Mỗi tháng có 28 ngày, làm cho lịch kéo dài đủ 12 chu kỳ Trăng, tổng cộng là 354 ngày. Tuy vậy, Pompilius cho rằng số 28 là con số không may mắn nên sau đó quyết định cho tháng một thêm một ngày thành 29 ngày, còn tháng hai không hiểu vì lý do gì vẫn giữ nguyên chỉ có 28 ngày.

Lịch đặt theo chu kỳ của mặt trăng dần bộc lộ điểm yếu, nó không phản ánh đúng chu kỳ biến đổi thời tiết các mùa, vì chu kỳ này gắn liền với chuyển động của trái đất quanh mặt trời. Vì thế, người La Mã lại quyết định cứ hai năm thì đưa vào thêm một tháng nhuận kéo dài 27 ngày sau ngày 23 tháng hai (những năm đó tháng hai chỉ có 23 ngày).

Việc thay đổi như trên làm việc tính lịch trở nên rắc rối. Đến khoảng năm 45 trước Công nguyên, Julius Caesar quyết định thay đổi hệ thống tính lịch này. Ông giữ nguyên 12 tháng nhưng thêm ngày vào các tháng để 12 tháng đó trùng với chu kỳ của mặt trời (chu kỳ vị trí của mặt trời trên bầu trời, chứ không phải chu kỳ trái đất chuyển động quanh mặt trời vì thời đó người ta không biết trái đất có quỹ đạo quanh mặt trời).

Caesar cũng đặt quy định cứ 4 năm một lần thì tháng hai lại được cộng thêm một ngày cho phù hợp với chu kỳ của mặt trời được tính ra khi đó là 365,25 ngày, điều này về cơ bản khá gần với chu kỳ thật của trái đất quanh mặt trời, hiện nay chúng ta biết là 365,2425 ngày.

Có nguồn tài liệu ghi rằng ban đầu theo cách tính lịch của Caesar, tháng hai có 29 ngày và mỗi 4 năm nó được thêm một ngày thành 30 ngày, tức là không có chênh lệch lớn với các tháng khác. Tuy vậy sau này khi các tháng đặt tên lại, ngày thứ hai chín của tháng hai được chuyển sang tháng tám do tháng này đặt theo tên của Augustus (Hoàng đế sáng lập đế chế La Mã), để cho tháng đó có độ dài tương đương với tháng bảy (July)- tên của Julius Caesar.

Dương lịch mà con người sử dụng ngày nay chính là lịch La Mã được hoàn thiện thêm. Cách chia các tháng vẫn giữ nguyên để tôn trọng lịch sử và đó là lí do tháng hai có ít ngày hơn các tháng khác. Về cơ bản đây chỉ là một qui ước, không gây ảnh hưởng gì tới việc sử dụng thời gian của loài người.

Trích từ: VNEXPRESS
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý do tháng hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày

Con đường sự nghiệp của người tuổi Dần

Cuộc đời của người tuổi Dần thường gian nan, phải đối đầu với không ít khó khăn, nguy hiểm. Tuy nhiên, họ cũng gặp khá nhiều may mắn, cơ hội lớn giữa lúc nguy
Con đường sự nghiệp của người tuổi Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời của người tuổi Dần thường gian nan, phải đối đầu với không ít khó khăn, nguy hiểm. Tuy nhiên, họ cũng gặp khá nhiều may mắn, cơ hội lớn giữa lúc nguy khốn nhất nên họ hoàn toàn có thể biến hung thành cát.

 

Tuoi Ty (1)
 

Nhiều người trong số họ coi trọng tinh thần hơn vật chất. Đặc biệt trong lúc khó khăn thì tình cảm chứ không phải tiền bạc chính là động lực giúp họ xóa tan mọi ưu phiền. Người tuổi Dần ít khi phải bận tâm đến vấn đề kinh tế vì phần lớn họ là người có của ăn của để.

Người tuổi Dần sống có lý tưởng và luôn tự hào về những thứ mà mình theo đuổi. Họ biết cách cân nhắc, hành động sao cho không làm tổn hại đến nhân cách của mình lại vừa giúp họ có thể tự đắc với tất cả mọi người.

Họ là mẫu người thẳng thắn, dám nghĩ, dám nói, dám làm, biết cân nhắc trước khi hành động. Vì vậy, cho dù có lâm vào tình cảnh nguy hiểm thì họ cũng sẽ ứng phó kịp thời và nhanh chóng vượt qua.

Người tuổi Dần rất yêu công việc, họ coi đó là một phần không thể thiếu của cuộc đời. Họ làm việc bằng tất cả sự đam mê chứ không phải chỉ riêng mục đích kiếm tiền. Cho dù làm bất cứ việc gì, chỉ cần phát huy được hết tài năng, sức lực của mình là họ sẽ cảm thấy vui vẻ, thỏa mãn. Họ không bao giờ hài lòng với những thành quả ngẫu nhiên đạt được, bởi với họ tất cả mọi thành công đều phải được trả giá bằng sức lực, sự đầu tư và trải nghiệm.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Dần

Xem tướng nốt ruồi trên mặt nữ –

Thông thường ai cũng có nốt ruồi. Nốt ruồi có màu vàng lạt hay màu nâu v.v. Nốt ruồi phải thật đen hoặc thật đỏ mới tốt. Nốt ruồi đỏ còn gọi là nốt ruồi son. Sau đây là vị trí và ý nghĩa của một số nốt ruồi trên khuôn mặt phụ nữ để các bạn tham khảo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem-not-ruoi-tren-mat-phu-nu0

1- Số làm mệnh phụ.
2- Thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ.
3- Hại cha mẹ.
4- Không người phục dịch.
5- Có từ hai đời chồng, sanh con ít.
6- Hại người thân.
7, 15, 19, 27, 37- Hại chồng.
8- Chết xa nhà.
9- Bị chồng phụ tình bỏ rơi.
10- Sanh khó.
11- Có tài lộc.
12- Chồng thường xa nhà.
13, 17- Vượng phu ích tử.
14- Số có “thiên la địa võng” giăng coi chừng tù tội.
16- Tay làm hàm nhai.
18- Được nhờ con.
20- Sống thọ.
21- Bị cướp giật nhiều lần.
22- Gặp nhiều việc tốt.
23- Tính lăn loàn.
24- Sanh ít con.
25- Mới sinh ra thường hay bệnh.
26- Mọi việc thất bại.
28- Số sát phu, tình duyên lận đận.
29- Hiếu thảo với cha mẹ, hay giúp đỡ anh chị em.
30- Biết nhường nhịn chồng con.
31- Có tư tưởng tự tử.
32- Hay ganh tỵ với kẻ khác.
33, 41- Đề phòng tai nạn đường sông nước.
34- Có số sinh đôi, sinh ba.
35- Có hư thai.
36- Tai tiếng thị phi.
38- Đày đọa đầy tớ vì ghen tuông.
39- Gặp tai nạn tại nhà.
40- Hay bệnh hoạn.
42- Sát Phu.
43- Khôn vặt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi trên mặt nữ –

Phong thái đi đứng của tướng đàn ông có số làm quan

Nhìn nhanh một vài tư thế đi đứng của các anh chàng dưới đây, quý cô sẽ biết tướng đàn ông có số làm quan để
Phong thái đi đứng của tướng đàn ông có số làm quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– "trao thân gửi phận" suốt cuộc đời.


=> Xem tướng người đoán vận mệnh chuẩn xác.

1. Hai chân đứng thẳng, tách biệt và hai tay chống nạnh


Xem tướng đàn ông có số làm quan, những anh chàng có dáng đứng mà hai chân thẳng, tách biệt nhau, hai tay chống nạnh thường tự tin, lòng tự trọng cao và có tài làm lãnh đạo thiên bẩm.

Phong thai di dung cua tuong dan ong co so lam quan hinh anh
 

Nếu hai chân đứng rộng gần như bằng hai vai, chứng tỏ độ tự tin càng lớn. Đồng thời, người này tạo cảm giác lúc nào cũng ở thế chủ động, chiếm ưu thế trước người khác.

Nếu có thêm đặc điểm là mũi bàn chân thường nhấn mạnh xuống dưới đất, không còn hoài nghi gì nữa, đây chính là tướng đàn ông có số làm quan, nắm trong tay quyền lực lớn, khó ai ngăn cản nổi.

 

5 bộ phận càng BÉO thì càng có PHÚC
Theo nhân tướng học, người có phúc khí là người có tướng mạo đẹp đẽ, không quá gầy yếu nhưng cũng không được quá béo phì. Thế nhưng, có 5 bộ

 

2. Tư thế đứng ưỡn ngực, hóp bụng, mắt nhìn thẳng


Chỉ cần nhìn thế đứng như này, bạn có thể đoán ngay ra đây là tuýp đàn ông tự tin, rất chú tâm tới vẻ bề ngoài, để ý tới suy nghĩ của người khác về mình. Đặc biệt, họ luôn muốn tạo dựng hình ảnh điềm đạm, tự tin và thành đạt trước mặt mọi người.

Phong thai di dung cua tuong dan ong co so lam quan hinh anh 2
 

Chính vì tác phong làm việc chuyên nghiệp và phóng khoáng đó mà họ dễ dàng gặt hái được thành công cả sự nghiệp và tình yêu. Đường công danh, quan lộc của chàng trai này cũng thênh thang, rộng mở, sau này sẽ là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho nửa kia.

Ngoài ra, tư thế này thường xuất hiện khi bạn đang trong trạng thái vui vẻ hoặc hạ quyết tâm để làm được điều gì đó lớn lao.

3. Tư thế đứng với một chân thẳng, một chân hơi trùng

Tướng đàn ông như này thường tạo ấn tượng ban đầu không được tốt, cảm giác khó gần. Người này có lòng tự trọng cao, chính kiến cá nhân mạnh nhưng lại rất giỏi giấu cảm xúc của mình. Hiếm khi bạn thấy họ ở hai thái cực của một sự việc: quá vui hoặc quá buồn.

Phong thai di dung cua tuong dan ong co so lam quan hinh anh 3
 

Người này sẽ tư duy và hành động theo những nguyên tắc nhất định, chẳng mấy khi họ tự mình phá vỡ những nguyên tắc ấy. Chính vì thế, trong mắt mọi người, đây là một “quân tử”, nói lời giữ lời, không bao giờ thất hứa.

Cũng chính những cá tính đó đã tạo nên thành công trên con đường quan lộc cho họ. Nếu được “nâng khăn sửa túi” cho chàng, quý cô sẽ được hưởng cuộc sống nhàn hạ, sung sướng.

An Nhiên 

 

Con giáp sinh ra để mang may mắn cho cha mẹ
– Nhờ hồng phúc của những con giáp này, đường công danh, sự nghiệp, tài vận và quan vận của cha mẹ như được chắp thôi đôi cánh, ngày càng

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thái đi đứng của tướng đàn ông có số làm quan

Luận về Thiên Hình

Thiên Hình chủ hình khắc, từ tụng, tranh đoạt. Trên mặt hình khắc sao này không nên đóng ở các cung thuộc về lục thân (sáu người thân) như phụ mẫu, tử tức, phối ngẫu.
Luận về Thiên Hình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với nữ mạng, Thiên Hình tại Mệnh cũng đưa đến hình khắc. Nó không hợp với những loại sao sát kị dễ gây ra tai nạn.

Kình Dương hóa khí là hình, bởi vậy không nên đứng cùng Thiên Hình nữa, khiến cho tranh chấp, từ tụng, khẩu thiệt gay gắt hơn. Thiên Hình cũng không hợp với những sao hao (Đại Tiểu Hao) tạo nên phá bại tốn kém, phá hoại.

Ở trên là mặt xấu của nó, và sau đây là những tính tốt đẹp của Thiên Hình. Thiên Hình bản chất dũng mãnh sát phạt có uy quyền. Hình nghĩa chữ là lưỡi kiếm. Thiên Hình thuộc hỏa, đắc địa tại các cung Dần Thân Mão Dậu.


Mệnh đóng Dần được Thiên Hình phò trợ cho một chủ tinh đắc địa nào đó, được hình dáng như con cọp ngậm kiếm (vì Dần cung là cọp) dễ phát về võ công. Rồi Thân và Mão Dậu cũng tạo oai hách.


Hình đi cùng với các sao Tướng Quân, Quốc Ấn, Phục Binh gọi gộp là cách Binh Hình Tướng Ấn, cách này làm ra con người uy dũng có khả năng võ nghiệp, luật pháp, chính trị.


Hình gặp Lộc Riêu học ngành giải phẫu hợp. Hình sợ Tuần Triệt vì Hình đang ở thế đắc cách mà bị Tuần Triệt khác nào như thanh gươm bị bẻ gẫy. Hình đứng với Khốc Hư đắc địa càng thuận lợi hơn.


Các sách tử vi Trung Quốc nói: ở tình trạng Liêm Tham đứng cùng mà có Thiên Hình thì tính kỷ luật của Thiên Hình có thể chế giảm bớt tính rông rỡ của Liêm Tham.

 Trong khi lý luận Việt thì Liêm Tham có Hóa Kị sẽ đỡ hẳn phần xấu. Thái Dương Thiên Lương được Thiên Hình Mão Dậu vào ngành pháp luật ra tranh thương sẽ đắc lực. Thiên Hình không bị Sát Kị và đứng đúng chỗ biến thành phấn đấu và kỷ luật.

Hãy đọc những câu phú về Thiên Hình:

- Thiên Hình Thất Sát cương táo nhi cô
(Mệnh có Thất Sát tọa thủ đắc địa gặp Thiên Hình càng nóng nảy sát phạt nên ít bạn bè, khó ở với vợ con)

- Thiên Hình Dần Thân Mão Dậu anh hùng

- Thiên Hình thủ, hôn lại chi nhân, Kị Đà lâm bất nhất khiếm hòa
(Thiên Hình đóng hãm cung đầu óc thiếu minh mẫn thêm Kị Đà ưa gây gỗ)

- Triệu Tử phù Hán thị ư Hình Quyền Tướng Ấn
(Triệu Tử Long một dũng tướng đời Hán, Mệnh có Hình Quyền Tướng Ấn)

- Hình Sát hội Long thần định giáng
(Mệnh Thất Sát, Thiên Hình đắc địa vẻ người oai nghiêm)

- Hình Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng tượng, phùng Đế cách Giáp Kỷ nhân vũ uy chấn động
(Hình Hổ đóng Dần như cọp ngậm kiếm lại đứng với Tử Phủ thì người tuổi Giáp Kỷ thành công rạng rỡ võ nghiệp)

- Hình Hỏa Kị phần Thiên Mã
(Hình Hỏa Kị gặp Thiên Mã thì đốt cháy Thiên Mã, hạn gặp phải xấu)
- Hình Riêu phận gái long đong
Nếu chẳng hại chồng thì cũng phản phu.

- Ngộ Hình gặp Quí dám đâu
Cũng là Tử Phủ một màu chính chuyên
(Số nữ có Quí Hình Tử Phủ đoan chính vượng phu)

- Hình Đào Sát đáng chê cung Phối
Hoặc Tài Điền Tử Tức long đong

- Thiên Hình Dương Nhẫn Ngọ vì
Lại thêm Thất Sát có khi ngục tù

- Phù Hình Không Kiếp khá chê
Kẻ thù người oán phải dè mình thay

- Hình lâm Quan lộc cư Đông
Quan binh chức trọng ơn cùng quân vương
(Thiên Hình ở Quan Lộc tại Mão)

- Hình Riêu Tấu Vũ một đoàn
Làm nghề thợ mộc khôn ngoan ai tầy
(câu phú này không biết xuất xứ)

- Hình Riêu số gái long đong
Nếu không kế thất lộn chồng mà thôi.

- Phu cung Riêu Sát Hình Dương
Hội giao Linh Hỏa gái toan giết chồng
(Phu cung có Riêu Sát, Hình, Dương (Nhận) hãm địa, sát phu, phản phu)

- Cung Giải mà gặp Khôi Hình
Số người mắc phải pháp đình đau thương

- Phục Binh Thái Tuế Thiên Hình
Cùng người tranh cạnh tâm tình chẳng vui
(Những sao trên đóng vào Thiên Di)

- Hình Riêu Cơ Tấu Vũ cùng
Khéo nghề thuyền thợ vững đường sinh nhai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Thiên Hình

Đẩu số cốt tủy phú chú giải

Tác Giả: Vũ Tài Lục
Đẩu số cốt tủy phú chú giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tiên minh cách cuộc
Thứ khán ác tinh
Yêu tri nhất thế chi vinh khô
Định khán ngũ hành chi cung vị
Đệ nhất thị khán thân mạng
Tài tam tế khảo thiên di
Phân đối cung chi thể dụng
ĐỊnh tam hợp chi nguyên lưu
Mạng vô chính diệu yểu chiết cô bần
Cát hữu hung tinh mỹ ngọc hà điếm
Ký đắc căn cơ kiên cố
Tu tri hợp cuộc tương sinh
Kiên cố tắc phú quý diên thọ
Tương sinh tắc tài quan chiêu trước
Mệnh hảo thân hảo hạn hảo đáo lão vinh xương
Mệnh suy thân suy hạn suy, chung thân khất cái
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
Giáp Nhật giáp Nguyệt thuỳ năng ngộ
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện
Giáp Kình giáp Đà vi khất cái
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
Liêm Trinh hãm, hà tiện cô hàn
Thái Âm vượng, nhất sinh khoái lạc
Tiền bần hậu phú Vũ Tham đồng thân mạng chi cung
Tiền phú hậu bần chỉ vị vận hạn phùng Kiếp Sát
Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ tài quan chi vị
Sinh lai bần tiện, Kiếp Không lâm tài Phúc chi hương
Văn Khúc Văn Xương vi nhân đa học đa năng
Tả Phụ Hữu Bật bình tính khắc khoan khắc hậu
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi vi y lộc chi thần
Vi sĩ vi quan, định chủ hanh thông chi triệu
Miêu nhi bất tú, Khoa danh hãm ở hung thần
Phát bất chủ tài, Lộc chủ triền ư nhược địa (Tý Ngọ Thân Dậu là nhược địa của Hoá Lộc)
Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh xương
Tử Phủ đồng cung, chung thân phúc hậu
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu, vị chí công khanh
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim ý tử
Khoa Quyền Lộc củng, danh dự chiêu chương
Vũ Khúc miếu viên, uy danh hách dịch
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá
Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung
Bính Tân nhân ngộ phúc hưng long
Cự Cơ đồng cung, công khanh chi vị
Tham Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh, tôn cư bát toạ
Tham Lang Hoả tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại
Tử Phủ triều viên, thực lộc vạn chung
Khoa Quyền đối củng, dược tam cấp ư Vũ Môn (cá hoá rồng)
Nhật Nguyệt tịch minh, tá cửu trùng kim điện
Phủ Tứơng đồng lai hội mạng cung, toàn gia thực lộc
Tam hợp minh châu sinh vượng địa, ổn bộ thiềm cung
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí
Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung trung, định thị phương bá công
Nhật Nguyệt Sửu Mùi mạng trung phùng
Tam phương vô cát phước nan hưng
Nhược hoàn cát hoá phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng
Thiên Lương Thiêm Mã hãm, phiêu đãng vô nghi
Liêm Trinh, sát bất gia, uy danh viễn bá
NHật chiếu Lôi môn, phú quý vinh hoa
Nguyệt lãng Thiên môn tiến tước phong hầu
Dần phùng Phủ Tướng, vị đăng nhất phẩm chi vinh
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát toạ chi quý
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển
Khúc ngộ Lương tinh vị chí đài cương
Khoa Lộc tuần phùng, Chu Bột hân nhiên nhập tướng
Văn tinh ám củng, Giả Nghị doãn hỷ đăng khoa
Kình Dương Hoả Tinh, uy quyền xuất chúng
Đồng hành Tham Vũ uy áp biên di
Lý Quảng nan phong, Kình Dương phùng ư Lực Sĩ
Nhan Hồi yểu chiết, Văn Xương hãm ư Thiên Thương
Tử Vũ tài năng, Cự tú, Đồng Lương xung thả hợp
Dần Thân tối hỷ Đồng Lương hội
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cụ Môn
Lộc đảo Mã đảo, kỵ Thái Tuế chi hợp Kiếp Không
Vận suy hạn suy hỷ Tử Vi chi giải hung ác
Cô bần đa hữu thọ
Phú quý uc yểu vong
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu truy lâu chi ách
Quan Phù Thái Tuế, Công Dã hữu luy tiết chi ưu
Hạn chí Thiên La Địa Võng, Khuất Nguyên nịch thủy chi vong
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không, Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm chỉ táng mạng yểu niên
Mạng Không, hạn Không vô cát tấu, công danh tắng đắng
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết xứ
Mạng trung ngộ Kiếp cáp như lãng lý hành thuyền
Hạng Vũ anh hùng, hạn ngộ Thiên Không nhi táng quốc
Thạch Sùng cự phú, hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia
Lữ Hậu chuyên quyền, lưỡng phùng Thiên Lộc, Thiên Mã
Dương Phi hảo sắc, tam hợp Văn Khúc Văn Xương
Thiên Lương ngộ Mã, nữ mạng tiện nhi thả dâm
Văn Khúc giáp Trì, nam mạng quý nhi thả hiền
Cực cư Mão Dậu, đa vi thoát tục chi tăng
Trinh cư Mão Dậu, định thị công tư tại bối
Tả Phủ đồng cung, tôn cư vạn thặng
Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai
Đặng Thông ngã tử, vận hành Đại Háo (Hao) chi hương
Phu Tử tuyệt lương hán đáo Thiên Thương chi nội
Linh Xương La Vũ, hạn chí đầu hà
Cự Hoả Kình Dương, chung thân ải tử
Mạng lý phùng Không, bất phiêu lưu tất chủ tất khổ
Mã đầu đới kiếm, phi yểu chiết tắc chủ hình thương
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc
Xương Tham cư mạng, phấn cốt thoái chi
Triều đẩu ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa
Đan Trì Quế TRì tảo loại thanh vân chi chí
Hợp Lộc củng Lộc đôi kim ngọc
Tước lộc cao thiên ý cẩm bào
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa
Phụ Bật ngộ tài quan, y phi trước tử
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tính
Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh
Vũ Khúc nhân cung đa xảo nghệ
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân
Khôi tinh lâm mạng, vị liệt tam thai
Vũ Khúc cư Càn, Tuất Hợi thượng
Tối pha Thái Âm phùng Tham Lang
Hoá Lộc hoàn vị hảo
Hưu tướng mộ trung tàng
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc
Minh Lộc Ám Lộc cẩm thượng thêu hoa
Toạ thủ là minh nhị hợp là ám
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân
Phú nhi bất thật hữu hư danh
Xương Khúc Phá Quân phùng
Hình khắc đa lao lục
Tham Vũ mộ trung cư
Tam Thập tài phát phúc
(Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân
Vận quá tam thập phương diên thọ)
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối
Đinh nhân hoá cát chủ đại quý
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa
Tân nhân hoá cát lộc tranh vanh
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối, nãi vị thất huy
Thân Mạng định yếu tinh cầu, khủng sai phân số
Âm chất diên niên tăng bách phúc
Chí ư hãm địa bất tao thương
Mạng thật, hạn kiên, cảo điền đắc vũ
Mạng suy, hạn nhược, nộn thảo tao sương
Luận mạng tất suy tính thiện ác
Cự Phá Kình Dương tính tất cương
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo
Hoả Kiếp Không Tham tính bất thường
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp, khúc toàn cố quý
Dương Đà Thất Sát tương tạp, hỗ kiến tắc thượng
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung
Hoả Tinh Linh tinh chuyên tác hoạ
Kiếp Không Thương Sứ hoạ trùng trùng
Cự Môn Kỵ tinh giai bất cát
Vận thân, mạng, hạn kỵ tương phùng
Cánh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ
Quản giao tai bệnh nhi tương công
Thất Sát thủ thân chung thị yểu
Tham Lang nhập mạng tất vi xương
Tâm hảo Mệnh vi diệc chủ thọ
Tâm độc mạng hậu diệc yểu vương
Kim nhân mạng hữu thiên kim quý
Vận khứ chi thì khởi cửu trường
Số nội bao tàng đa thiểu lý
Học giả tu đương tử tế tường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đẩu số cốt tủy phú chú giải

CÁCH ĂN NHẬU, CÁC SAO ĂN NHẬU

Thiên Trù: háo ăn, háo nhậu, thích ăn ngon, thường mời bạn bè đánh chén, lấy ăn nhậu làm lạc thú ở đời. Thiên Trù bao ha...
CÁCH ĂN NHẬU, CÁC SAO ĂN NHẬU

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Trù: háo ăn, háo nhậu, thích ăn ngon, thường mời bạn bè đánh chén, lấy ăn nhậu làm lạc thú ở đời. Thiên Trù bao hàm vị giác, khứu giác bén nhạy và bao tử tốt. Sự thích ăn và hảo ăn đưa đến hậu quả là có lộc để ăn, được người biếu xén, mời ăn, mời nhậu.
Hóa Lộc: Hóa Lộc đi cùng với Thiên Trù có nghĩa là sành ăn, biết thưởng thức món ăn ngon. Kẻ ăn trở nên sành điệu hơn.
Tấu Thư: có nghĩa tinh vi, tế nhị trong mọi cảm giác, cảm xúc, ngôn ngữ, thái độ. Nếu đi chung với Thiên Trù thì đồng nghĩa với Hóa Lộc, tiên niệm sự tế nhị của ẩm thực, có khứu giác linh mẫn, phân biệt được một cách tinh vi các loại rượu ngon, kén ăn nhậu.
Lực Sỹ: sức khỏe tốt, ăn nhiều.
Thiên Tướng: chỉ sự thích ăn ngon mặc đẹp thông thường.
Tang Môn, Bạch Hổ hãm địa (ở Dần, Mão, Tỵ và Ngọ): đối với nam giới, chỉ nết xấu của thói nhậu, hay say sưa vì nhậu quá nhiều. Nếu Tang Hổ ở Mệnh hẳn là đệ tử của Lưu Linh.

Hậu quả của việc ăn nhậu:
Thiên Trù: càng về già, có bệnh về ăn nhậu như đau bao tử, đau gan, đau ruột. Nếu có hung, sát tinh đi kèm thì bệnh lý càng chắc chắn và nặng.
Thiên Đồng hãm địa (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngọ và Dậu ): chỉ sự trục trặc trong bộ phận tiêu hóa nếu ở vị trí hãm địa và nhất là đi chung với Thiên Trù. Thiên Đồng chỉ bệnh chuyền lao, tức là hết bao tử bị bệnh thì đến gan, mật hay ruột. Nếu gặp hung tinh và nếu đóng ở cung Tật thì bệnh tương đối khó chữa.
Đại Hao, Tiểu Hao: chỉ bệnh về bộ máy tiêu hóa, đặc biệt là sự trúng thực, thổ tả, tiêu chảy đồng thời chỉ một loại bệnh kinh niên. Đi với Thiên Trù chỉ việc dùng tiền vào ăn nhậu, ít khi dành dụm được.



















 

cách hùng biện, các sao ngôn ngữ


1. Các sao hùng biện đơn thủ Lưu Hà: chỉ sự lưu loát về ngôn ngữ, sự ham thích nói chuyện, khả năng trình bày suôn sẻ, mạch lạc, trôi chảy, sự diễn đạt tư tưởng phong phú, khiếu lý luận linh mẫn, luận cứ vững chắc, hiệu lực thuyết phục cao. Đóng ở cung Thủy, Lưu Hà có điều kiện phát huy hết các đặc tính trên. Đây cũng là sao của người đa ngôn.
Bạch Hổ: chỉ khả năng xét đoán và lý luận giỏi, đồng thời cũng chỉ năng khiếu hoạt động chính trị. Các đặc tính này sẽ sâu sắc khi Bạch Hổ đắc địa (Dần, Thân, Mão và Dậu). Bạch Hổ nặng về sự hùng hồn và khích động, sức quyến rũ, lôi cuốn thiên hạ bằng lời nói gây phấn khởi, cổ võ, thúc dục đi đến hành động.
Thiên Khốc, Thiên Hư: Đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư chỉ văn tài lỗi lạc, lời nói đanh thép hùng hồn và năng khiếu hoạt động chính trị. Nếu hãm địa, Khốc Hư chỉ sự sai ngoa về lời nói, sự thiếu chín chắn trong ngôn ngữ.
Thái Tuế: lanh lợi, khéo mồm, nói nhiều, chủ về sự tranh biện, lý luận, đối nại, có thể là để tranh thắng tạm thời, không chắc gì những luận cứ đưa ra được chính xác.
Tấu Thư: chỉ sự tinh tế, khôn khéo, tế nhị của mọi năng khiếu về mặt cảm giác, cảm xúc cũng như ngôn ngữ. Tấu Thư chủ sự khéo nói, nói ngọt, nghe lọt tai, không đụng chạm, không mích lòng.
Văn Xương, Văn Khúc: không trực tiếp có nghĩa hùng biện, bắt nguồn từ sự phong phú của tình cảm. Sự hùng biện của Xương Khúc không những do động lực nội tâm thúc đẩy mà còn do sự thủ đắc văn hóa, sự học rộng, biết nhiều. Người có Xương Khúc nói ra những điều mình nghĩ, từ đó, thu hút người khác bằng sự thực tâm, chân thành, tha thiết thực tình.
Hóa Khoa: phát sinh thuần túy từ học vấn mà ra. Người có Hóa Khoa có nhãn quan rộng rãi và thâm sâu về nhiều vấn đề, có khả năng hiểu biết và trình bày vấn đề một cách uyên bác, mạch lạc, hệ thống, theo đúng phương pháp sư phạm.
Cự Môn: Đắc địa, là sao hùng biện, nói lên cả năng khiếu nghiên cứu các vấn đề chính trị, pháp lý cũng như tài lãnh đạo và vận động quần chúng, thủ đoạn tổ chức và hoạt động. Những đức tính này càng sâu sắc hơn nếu Cự Môn ở Tý Ngọ có Hóa Lộc đồng cung hoặc Tuần, Triệt án ngữ hay Đại Tiểu Hao đồng cung.

2. Những sao hùng biện phối trí Lưu Hà, Bạch Hổ: tài hùng biện vừa lưu loát vừa hùng hồn.
Lưu Hà, Thái Tuế: khả năng ngôn ngữ hết sức dồi dào, nói hoài không dứt.
Lưu Hà, Tấu Thư: tài hùng biện vừa lưu loát, vừa khéo léo, ngọt dịu. Tư tưởng và lời nói vừa phong phú, vừa tế nhị, thâm thúy.
Tấu Thư, Hóa Khoa: tài hùng biện vừa cao thâm, vừa khôn khéo.
Hóa Khoa, Xương Khúc: tài hùng biện sắc sảo nhờ văn học và nội tâm dồi dào, trình bày mạch lạc, hệ thống, cao siêu, chân thành, tha thiết, nặng về lối thuyết phục bằng tình cảm và kiến thức thông thái.
Lưu Hà, Tấu Thư, Hóa Khoa, Xương Khúc: tài hùng biện đạt mức cao độ, có thể đến hệ cấp quốc tế, dùng lời nói làm lay chuyển lập trường thiên hạ, làm chủ tể đám đông bằng khoa ngôn ngữ đặc sắc. Đây là hạng người hết sức lợi hại vì lời nói, có khả năng làm đảo lộn trật tự cũ, đả phá hay bệnh vực lập trường quốc gia một cách thành công. Nếu có thêm chính tinh tốt đồng cung, nhất định đây là bậc kỳ tài về hùng biện, danh lưu hậu thế nhờ tài năng ngôn ngữ xuất chúng. Nếu thiếu chính tinh hiển đạt thì ảnh hưởng nhỏ hơn, thu hẹp hơn nhưng năng khiếu không hề suy giảm.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CÁCH ĂN NHẬU, CÁC SAO ĂN NHẬU

Con giáp thiện lương nhận đại phúc đại quý

Khi con người làm việc thiện có nghĩa là tích đức cho bản thân, từ đó phú quý dần dần kéo . Sau đây là top 5 con giáp thiện lương nhận đại
Con giáp thiện lương nhận đại phúc đại quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi con người làm việc thiện có nghĩa là tích đức cho bản thân, từ đó phú quý dần dần kéo đến cải thiện vận thế, công danh sự nghiệp hanh thông. Sau đây là top 5 con giáp thiện lương nhận đại phúc đại quý, liệu bạn có là một trong những con giáp đó?


Con giap thien luong nhan dai phuc dai quy hinh anh
 
Tuổi Thìn

Con giap thien luong nhan dai phuc dai quy hinh anh 2
 
Người tuổi Thìn có nội tâm tinh tế, đồng cảm sâu sắc với nhiều mảnh đời khác nhau. Khi gặp người có hoàn cảnh khó khăn, họ sẽ cố gắng trong khả năng của bản thân để giúp đỡ. Mệnh chủ năm Thìn vốn "ngoài lạnh trong nóng", họ sẽ âm thầm giúp đỡ, làm việc thiện. Chính vì vậy, mệnh của người năm Thìn thường tốt, nhiều điều may mắn đến với họ, phú quý dần dần kéo đến khả năng thành công là rất lớn.   Biết cách chọn địa thế tốt để việc làm ăn phất như vũ bão
Phong thủy văn phòng tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của công ty, mà ảnh hưởng lớn nhất về phong thủy chính là địa chỉ, đắc địa

Tuổi Dần

Con giap thien luong nhan dai phuc dai quy hinh anh 3
 
Lá số tử vi của người tuổi Dần rất tốt. Trụ năm Dần có tấm lòng chính nghĩa, sẵn sàng bảo vệ người yếu thế. Khi gặp chuyện bất bình, họ sẵn sàng dũng cảm đứng ra thể hiện thái độ của bản thân. Mặc dù, tính cách này có phần dễ xúc động, tuy nhiên lại rất khí khái, không so đo được mất. Bề ngoài của mệnh chủ hơi thô lỗ, nhưng nội tâm lại rất dịu dàng. Nhờ quan điểm sống này mà vận thế của họ rất tốt, tài vận hưng vượng.   Tuổi Mão

Con giap thien luong nhan dai phuc dai quy hinh anh 4
 
Người sinh năm Mão vốn thiện lương, nhiệt tình, ôn hòa, nên luôn là người đứng ra giải quyết các mâu thuẫn. Nội tâm đơn thuần của họ không chấp nhận được cảnh người khác bị tổn thương cho dù bản thân gặp bất lợi. Sự thiên lương của bát trụ năm Mão ảnh hưởng đến vận thế của họ, luôn có quý nhân phù trợ, nhân sinh hanh thông thuận lợi.   Tuổi Tuất

Con giap thien luong nhan dai phuc dai quy hinh anh 5
 
Mệnh chủ năm Tuất trung thành, phúc hậu, thà bản thân gặp khí khăn cũng không muốn phiền người khác. Họ luôn tháo vát nhanh nhạy, thường dành thời gian rảnh rỗi để làm việc từ thiện: thăm viện dưỡng lão, trại trẻ mồ côi,…Hành thiện chính là tích đức, vậy nên phúc báo sẽ nhanh chóng đến với người tuổi Tuất, hóa giải khó khăn trong cuộc đời, đại cát đại lợi.   Tuổi Ngọ

Con giap thien luong nhan dai phuc dai quy hinh anh 6
 
Người có niên sinh trụ Ngọ nhiệt tình, tràn trề sức sống, vui vẻ khi giúp đỡ người khác mà không cầu hồi báo. Thế nên, vậy may luôn chiếu cố đến họ, khiến cho cuộc đời phúc duyên dồi dào, đại phú đại quý.
Chi Nguyễn

Xem Clip để biết hiểu rõ Nghiệt duyên và Chữ duyên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp thiện lương nhận đại phúc đại quý

Cách làm đẹp sân nhà –

Các gia đình sống trong nhà mái bằng thường có sân riêng, làm đẹp sân cũng là một phần quan trọng trong trang trí nhà cửa. Trong sân có thể trồng cây xanh và hoa tươi, cũng có thể đào ao chứa nước, làm đẹp về mặt không gian hoặc trên bề mặt phẳng, v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ừa giảm bớt được tạp âm và không khí ô nhiễm, lại có thể tăng thêm hương vị cho cuộc sống.

ngoai-that-lam-dep-hien-nha-va-san-vuon_02

Trong những sân tương đối rộng nên xây vài bồn hoa, trong bồn có thể trồng đủ loại hoa cỏ mà bạn yêu thích. Dưới chân tường, có thể thiết kế những bồn hoa dài chạy dọc, trong đó trồng những loại cây dây leo. Bên cạnh bồn có thể trồng thêm các cây như chuối cảnh, hoa mào gà, hồng xuyên, hoa kim ngân, cúc bát nguyệt, hoa tường vi, thạch trúc hoặc cây cỏ kim ngưu… tạo thành bức bình phong lập thể đẹp mắt với nhiều tầng trang trí. Nếu điều kiện cho phép, có thể xây những bồn nước hoặc hòn non bộ nhỏ trong sân, xung quanh xây thêm vài bồn hoa đỗ quyên.

Đối với các sân rộng có thể trồng các cây ăn quả như đào, mơ, lê, táo, nho… ở nhiều vị trí khác nhau cũng có thể trồng thêm các cây cho hoa như nhật hồng, quê hoa…, khung cảnh sân vưòn sẽ càng thêm phần thanh tịnh, nho nhã và mới lạ.

Với các nhà có sân hơi chật, nếu vẫn muốn bốn mùa có hoa lá thì nên trồng bên cửa sổ hoặc dưới góc tường một gốc mai hay một bụi hải đương. Chỉ cần đợi đến dịp đầu xuân là đã có thể thỏa thích ngắm nhìn những bông hoa vàng nhỏ xinh hay những đóa hồng như áng mây chiều. Vào mùa xuân trồng dưới chân tường các loại cây thân leo, chúng sẽ bám vào tường, về mùa hè sẽ có tác dụng chắn ánh nắng mặt trời chiếu thẳng lên tường, nhờ đó nhiệt độ trong nhà được giảm xuống đáng kể. Không chỉ có thế, với những bức tường bám đầy dây leo như vậy, cảnh sắc thiên nhiên trong sân vườn và trong nhà bạn sẽ đẹp hơn, độc đáo hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách làm đẹp sân nhà –

Luận về sao Thất Sát

Thất Sát trong hệ Nam đẩu, thuộc âm hỏa âm kim còn gọi là hỏa hoa chi kim, như sắt nung đỏ bắn ra những hoa lửa, chủ về sinh sát, tính chất của một thượng tướng. Hỏa hoa bắn tung ra ngoài, nhưng âm kim lại nội liễm cho nên tâm tính vừa âm trầm vừa dễ giận dữ.
Luận về sao Thất Sát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)

Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.

Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.

Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)

Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.

Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.

Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.

Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đừng luẩn quẩn văn vẻ làm gì. Nửa văn nửa vũ, thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.

Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệ giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.

Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiên ma bách triết mới thành công.

Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”

Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.

Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.

Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rất cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.


Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.


Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.


So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.

Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:

Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh

Bình sinh tác sự quả thông minh

Chí cao khí đại vô nam nữ

Bất miễn hình phu lịch khổ tân

(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)

Thất Sát cô tinh Tham tú phùng

Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí

Nữ mệnh đắc thử tính bất lương

Chi hảo cô phòng vi tì thiếp

(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)

Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng

Ác sát gia chi dâm sảo dung

Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ

Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông


(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)

Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hủ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.

Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)

Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?

Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?

Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.

Nếu đem hai câu viết ở mục Chú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?

Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.

Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hàng lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.

Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.


Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:

Thất Sát lâm Thân chung thị yểu

Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc


Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.


Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:


- Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân

(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)


- Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư

(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)


- Sát Phá hỉ trợ Kình Dương

(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)


- Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật

(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)

- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)

- Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong

(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)


- Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân

(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)


- Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong

(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)


- Sát Kình tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn

(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)


- Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong

(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)


- Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ

(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)


- Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai

(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)


- Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)


- Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân

(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)


- Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)


- Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư

(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)

- Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)


- Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân

Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành

(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)

- Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn

(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)


- Mấy người thủy ách, hỏa tai

Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham


(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)


- Dần Thân Sát Kị trùng gia

Thương chiêu đá mạ thật là gian truân

(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)


- Sinh con điếc lác ngẩn ngơ

Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không


- Sát phùng Phù Hổ hay đâu

Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung


- Sát tinh chiếu ở cung Đoài

Vì người tham của Phật đài họa toa

(Câu này không rõ nghĩa lắm)


- Ngôi cao chức trọng công hầu

Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung


- Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát

Tính cang kiên tài cán đảm đương

Được thêm Kỷ Ất sinh nhân

Anh hùng trí dũng mười phần khá khen


- Sát Kình ở tại Ngọ cung

Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời

Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế

Bậc anh hùng địa vị thênh thênh


- Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi

Sát Phá Tham lại hội Văn Xương

Ấy là góa bụa đáng thương

Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình


- Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân

(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)


- Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân

(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)


- Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương

(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)


- Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết

(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)


- Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược

(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)


- Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá

Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi

Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì


- Thìn Tuất Thất Sát xem qua

Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Thất Sát

Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Việc thờ Thần của người Việt từ xưa đã có sự chọn lọc theo quan điểm ai có công với dân với nước thì thờ. Tất nhiên không ngoại lệ các trường hợp chết vào giờ “thiêng” có ảnh hưởng đến cuộc sống của một địa phương nào đó. Tuy nhiên các trường hợp này ít được sùng bái rộng rãi, được sắc phong cũng như ít được bảo tồn, thường chỉ có các miếu nhỏ, đống đất có dầu tích và nén nhang do từ tâm ở các vùng Trung, Nam, Bắc.
Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.

Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay!
  Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh.   Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay.   Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi:   “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng).   Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương  (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong…   Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ.   Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”…   Như vậy, trong vòng 5-7 km, các  xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh.   Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi…   Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương.   Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.

Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân.
  Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định.   … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”…   Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi:   … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội”
Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng.   Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc.   Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi:   Nam Hải thần phong thiên hữu sắc   Cần môn ba tố địa giai binh   Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc,   Cầu môn nổi sóng đất anh linh.   Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ…   Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ…   Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”.   Tạm dịch:   - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển.   - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi.   Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng.   Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt,   Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam,   Ngàn thu thơm nức hương lan,   Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương…   Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng,   So bể, trời hình tượng cao sâu   Sáng soi khắp chốn đâu đâu,   Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia   Trăm họ nức âu ca cổ vũ,   Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm.   Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên,   Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài,   Đang vui lúc lòng trời yên thuận,   Quốc gia đều hoà khí xuân phong.   Sau vì nhất quốc tam công,   Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô.   Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng,   Bóng tà dương soi rạng bể Nam.   Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn,   Chúa tôi một dạ những toan phục hồi.   Giang sơn Tống dẫu mười còn một,   Có lẽ đâu chịu mất ngay đi.   Ngoài thì tướng sĩ phù trì,   Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn.   Người son phán mà gan vàng đá   Việc binh nhung vững dạ kiên tâm.   Thần dân báo đáp quân ân,   Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ.   Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống,   Hẳn không dung những giống bất nhân.   Lại khuyên võ tướng mưu thần,   Gắng công vì nước đền ơn sinh thành…   Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh,   Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên   Mới hay thành bại do thiên,   Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay.   Cuộc thế sự hết bày trò rối,   Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan…   Lênh đênh trên biển liều thân,   Quyết lòng thu thập quan quân phục thù,   Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng,   giãi gan cùng trời trắng bề trong.   Ôi thôi thả lá giữa dòng,   Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi.   Ấy mấy biết người trời khác giá,   Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh.   Chí thành Phật cũng chứng minh.   Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi   Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết,   Chùa La Sơn Nam Việt là đây.   Ung dung ở chốn am mây   Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi…   Độ bốn vị đều nên Thần phúc,   Hoá chân thân bốn khúc trầm hương.   Gió đưa thoảng ngát một phương,   Hào quang trước mắt ngư phường khô hay.   Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển,   Rước lên thờ kính tiến khói hương.   Nhờ ơn từ đấy mấy làng   Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen.   Đua cầu phúc lập đền tế lễ   Độ cho người sông bể biết bao   Kể chi giông tố ba đào   Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên…   Công hộ quốc thơm ghi Nam sử,   Lễ suy tôn khởi sự Đông – A   Mẫu về chắc giáng điện toà   Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường.   Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết.   Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi:   “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”…   “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”.   Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công.   … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo…   Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”.   Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công.   Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ…   Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh),  “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn…   Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể.   Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào.   Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh.   Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay.   Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại.   Tạm dịch:   Đền Thần mới sửa bên sông Trệ   Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung   Hoặc câu:   Âu ca một hội Xuân sau trước,   Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng.   Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công.   Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương.   Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào.   Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh.   Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ.   Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân:   “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”.   (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành).
Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục thờ và nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định

Các lễ hội ngày 15 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Lê Xá

Vào ngày 15 tháng 3 âm lịch có diễn ra các lễ hội: Hội Làng Phụng công, Hội Chùa Trông, Hội Làng Đông Hồ, Hội Đền Đô, Hội Làng Liên Bạt,Hội Thả Diều,Hội Làng Lê Xá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 15 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Lê Xá

Các lễ hội ngày 15 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Lê Xá

1. Hội Làng Lê Xá

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: thôn Lê Xá, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn hai vị Đào Kì và Phương Dung (tướng của hai Bà Trưng).

Nội dung: mở đầu hội là phần tế lễ gồm có: lễ rước, lễ tế thành hoàng làng. Tiếp sau phần tế lễ là phần hội, có: thi đánh chạc (hay còn gọi là trò chơi biện thừng), ca trù, hát quan họ, thi bắt vịt, chơi chọi gà.

2. Hội Thả Diều

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: làng Bá Giang, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Nguyễn Cả - một danh nhân của làng, nguyên là tướng giỏi của Đinh Tiên Hoàng.

Nội dung: Mở đầu lễ hội là lễ rước bánh giầy để tưởng nhớ Thần nhân.

Vào ngày hội thi, đầu cuộc thi là lễ trình diều. Mọi người tham gia đều mang diều tới trình trước Miếu. Diều dự thì có thể dài tới 3m nếu nhỏ thì 1m. Trong gió có nồm nam của buổi chiều quê, mấy chục cánh diều bay lên xen lẫn là tiếng sau vi vu, người thì ở trên bờ đê người dưới sân đình, đứng ở trong làng có thể ngắm dc diều bay.

Các giải nhất, nhì, ba trao cho những người có diều bay cao, không chao đảo và có tiếng sáo hay nhất. Người trúng giải đem lễ về để tạ Thần, hội kết thúc.

3. Hội Làng Liên Bạt

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức thánh Đệ Nhất (Đặng Sĩ), đức thánh Đệ Nhị (Đặng Xã), đức thánh Đệ Tam (Đặng Lang).

Nội dung: Trong hội làng, mở đầu là các hoạt động tế lễ. Tiếp đó là phần trình diễn kiệu bay, kiệu quay, rước văn đề cao tinh thần hiếu học, quý trọng chi thức văn hóa.

4. Hội Đền Đô

Thời gian: tổ chức từ ngày 15 tới ngày 19 tháng 3 âm lịch (chính hội là ngày 16 tháng 3).

Địa điểm: làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn 8 vị vua nhà Lý.

Nội dung: Lễ hội có lễ trình Thánh, rước kiệu long trọng từ chùa Kim Đài đến đền Đô. Đi đầu đám rước gồm có 1 đoàn tướng võ cởi trần, đóng khố, tay cầm chùy đồng và hàng trăm quân sĩ đi theo. Tiếp đến là 100 người khiêng kiệu mặc áo đỏ mũ đen. Đi đầu là kiệu của nữ tướng có 18 nữ tướng đi theo sau rồi đến kiệu của Bát Đế, mỗi kiệu có 1 con ngựa và 16 nam tướng mặc áo đỏ. Sau cùng đoàn rước là các vị sắc phục lễ hội, hương lão và dân làng dự hội, cờ lọng khắp một vùng, tiếng trống vang trời.

Phần hội có các trò chơi dân gian như: chọi gà, thả chim bồ câu, thi đấu vật, hát quan họ và nhiều trò vui khác.

5. Hội Làng Đông Hồ

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng, tổ nghề.

Nội dung: Hội làng mở ra hàng năm nhằm suy tôn Đức Thành Hoàng Làng và Ông Tổ nghề. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như: tế thần, thi mã. Ngoài ra còn có phần trưng bày và bán tranh dân gian Đông Hồ trong sân đình là nơi thu hút rất đông đảo các du khách trong và ngoài vùng đến tham quan. Dựng một cầu bằng tranh trong đình tượng trưng cho sự giao lưu và hòa hợp.

6. Hội Chùa Trông

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 tới ngày mùng 1 tháng 4 âm lịch.

Địa điểm: Thôn Hán Lý, Hưng Long, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn thờ Phật và suy tôn đức Thánh Nguyễn Minh Không và Đường Cát Đại vương (một vị tướng của Khúc Thừa Dụ có công đánh giặc ở thế kỉ thứ 10) và Lý Chiêu Hoàng (vua cuối cùng của Triều Lý).

Nội dung: lễ hội chùa Trông là lễ hội chung của hai làng. Sau khi chia tách mỗi làng có một đình. trong ngày hội tế ba vị gồm thành hoàng làng và một thiền sư.

Phần lễ có: Lễ rước xuất Đông nhập Tây. Đoàn rước bao gồm: Kiệu bát hương, kiệu Đức Thánh, hai kiệu Thành Hoàng, kiệu Thánh Mẫu. từ ngày 26 tới ngày 30 tháng 3 là tổ chức lễ đức Thánh và Thành Hoàng Làng. Sáng ngày mùng 1 tháng 4, đoàn rước tiến hành rước Thành Hoàng Làng về các đình và kết thúc hội. Song song với phần lễ là phần hội: có các trò chơi vui dân gian và văn nghệ truyền thống.

7. Hội Làng Phụng công

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Quỳnh Hội, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn côn ơn lớn lao của hai vị Bùi Đa và Hoàng Soi, là hai thủ lĩnh của nghĩa quân nông dân ở thế kỉ 18.

Nội dung: Mở đầu là hoạt động dâng hương tế lễ Tế Thành Hoàng. Tiếp đó là là tổ chức phần kéo chữ diễn lại cuộc luyện binh của nghĩa quân vật, võ, múa sơ tử.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 15 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Lê Xá

Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn - Hải Phòng

Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 13 km về phía Tây nam, tại Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn có nhiều lễ hội
Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Vị tiểu quốc bất học vô nhân, lễ nghĩa hà túc thâm trách.
Mẫn An Nam vô cô xích tử, phong nhận nhẫn sử hoành la”.

Hai Câu thơ nổi tiếng nói về bối cảnh mà Trạng nguyên Trần Tất Văn đã dốc hết tâm lực, trí tuệ, sự hiểu biết, tài ngoại giao ứng đối của mình cho việc soạn bài biểu nhân danh “Sơn hà xã tắc” gửi triều đình nhà Minh. Ngày nay người dân thờ trạng nguyên Trần Tất Văn tại Đền thờ cùng tên: Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn. Nay đền thờ này nằm tại xã Thái Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Từ đó vào ngày mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 8 âm đền thờ trạng nguyên sẽ tổ chức lễ hội rước trạng nguyên.

Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 13 km về phía Tây nam, bằng các loại phương tiện giao thông như ô tô, xe máy, xe đạp có thể dễ dàng đến với di tích bằng đường bộ qua quận Kiến An.

Trạng nguyên Trần Tất Văn sinh ra trong một gia đình họ Trần – dòng dõi nhà nho ở thời hậu Lê (1428-1527) tại làng Nguyệt Áng, xã Thái Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Do xuất thân là dòng dõi quý tộc, được thừa hưởng tư chất thông minh và được học hành đầy đủ nên ngay từ nhỏ Trần Tất Văn đã nổi tiếng về hiếu học, chăm ngoan. Ông là Trạng nguyên duy nhất của huyện An Lão dưới thời phong kiến, đồng thời đứng thứ 30 trong tổng số 47 Trạng nguyên của cả nước.

Khi làm quan dưới triều nhà Mạc, thấu hiểu được tấm lòng và tình cảm của người dân quê hương, ông đã bỏ tiền hưng công xây dựng trên mảnh đất hương hoả của gia đình ông một ngôi chùa để người dân ở đây có điều kiện sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng, tu thiện, tích đức. Người dân làng Nguyệt Áng truyền tụng rằng chùa quan Trạng tên chữ là Vĩnh Khoái Tự có quy mô rất rộng rãi, khang trang nằm trên một gò đất cao ráo, rộng tới 1/2 mẫu Bắc bộ.

Sau khi quan Trạng qua đời, nhân dân địa phương đã dựng ngôi đền để thờ phụng tưởng nhớ ơn đức của quan Trạng. Đền được xây dựng nằm gần sát toà phật điện. Đền quay cùng hướng với ngôi chùa nhìn về phía Tây Bắc, cách nơi linh địa này không xa phía trước là dòng sông Đa Độ uốn khúc chảy qua và đằng sau là dãy núi sừng sững trụ vững với thời gian.

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1948), các công trình kiến trúc đền, chùa quan Trạng cũng như các công trình văn hoá tín ngưỡng khác của địa phương Nguyệt Áng đã phải tiêu thổ kháng chiến. Mặc dù ở Nguyệt Áng đã trải qua bao lần san lấp mặt bằng để phục vụ sản xuất nông nghiệp, song đến nay, khu đất linh địa, đất xây đền, chùa quan Trạng ngày xưa vẫn còn gần như nguyên vẹn.

Với vị trí thuận lợi, Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn sẽ là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn của người dân trong và ngoài thành phố.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn - Hải Phòng

Dâng sao giải hạn và cách hóa giải

Dâng sao giải hạn có thể thực hiện rải rác trong năm, ở chùa hay ở nhà. Việc dâng sao cần tiến hành cả với sao xấu và tốt.
Dâng sao giải hạn và cách hóa giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao hạn được dùng khá phổ biến trong lịch pháp Phật giáo để phối với ngày hoặc định cát hung. Có 9 ngôi sao (gồm Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức, Thổ tú, La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô) dùng phối năm xem vận mệnh con người. 

Người xưa cho rằng có mối liên hệ giữa thiên thể (9 sao) với con người. Người đời sau cho thêm nhiều quan điểm rắc rối khác vào nên dễ bị đánh đồng với mê tín. Cần có cái nhìn biện chứng hơn về phương pháp này.

Quan niệm về sao

Cùng một tuổi, cùng một năm nam giới và phụ nữ có sao khác nhau, luân phiên theo 9 sao. Trong năm nếu gặp sao tốt, xấu hay trung bình sẽ gặp những chuyện tương ứng với sao đó. Cát hung (tốt xấu) của các sao như sau:

Sao tốt: Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức

Trung bình: Thổ tú

Sao xấu: La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô

Cụ thể:

- Sao La hầu (Kim, xấu): Chủ về buồn rầu. Nam dễ kiện tụng chốn quan trường; nữ dễ đau buồn, lo lắng. Đây còn là sao về khẩu thiệt thị phi, hay mang đến nỗi buồn, tai nạn, tang sự, kiện tụng, thị phi, bệnh mắt, nữ gặp hạn huyết quang, sản nghịch...

- Sao Thái bạch (Kim, xấu): Chủ về mọi chuyện không như ý. Sao đại kỵ với nữ giới, nam giới đỡ hơn một chút. Cần đề phòng kẻ tiểu nhân phá rối. Kết hôn cẩn thận bệnh phần bụng. Sao Thái Bạch xấu hơn sao La hầu. Song người quyền quý gặp sao này có lợi, thêm đinh thêm khẩu. 

- Sao Vân hớn (Hỏa, xấu): Còn gọi là tai tinh, chủ về bệnh tật. Phụ nữ gặp phải sao này có nhiều tai ương, có nạn huyết quang; nam giới gặp kiện tụng thị phi, gia đạo bất an, mọi việc cần thận trọng.

- Sao Kế đô (Thổ, xấu): Chủ về tai họa, người âm phá rối. Đại kỵ cho cả nam và nữ, nhưng nữ bị nặng hơn, thường mang lại sự buồn khổ, chán nản, thờ ơ. Trong nhà có chuyện buồn nên đi xa làm ăn. Lục súc bất lợi, phụ nữ có khẩu thiệt, thị phi. Nam giới gặp sao này chiếu mạng dễ bị phụ nữ hại. Phụ nữ gặp sao này chiếu mạng mà đang có thai thì lại may mắn.

- Sao Thổ tú (Thổ, trung bình): Chủ về việc liên quan đến quan trường. Đi lại không gặp may, dễ bị tiểu nhân phá. Gặp sao này chiếu mạng thì hay có nỗi buồn man mác, không có chủ định vững vàng, hay hoài nghi công việc làm ăn, không hăng hái, song không gặp tai họa gì. Thường 6 tháng đầu năm bình thường, 6 tháng cuối năm mới thuận lợi.

- Sao Thủy diệu (Thủy, tốt): Chủ về tài vận và phúc lộc. Nam giới gặp phúc lộc, rất may mắn, đi xa có lợi, thêm đinh; phụ nữ thì bất lợi hơn, chủ về khẩu thiệt thị phi, tuy tai họa không lớn, đi xa tránh qua sông qua đò.

- Sao Thái dương (Hỏa, tốt): Chủ về an khang, thịnh vượng, có lợi cho nam giới; nữ giới có chút tai ương. Gặp sao Thái dương sẽ làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức, gặp may mắn trong công việc, dễ nổi danh, tiền đồ sáng sủa. Đi xa có lợi, người quyền quý gặp sao này càng lợi thêm.

- Sao Thái âm (Thủy, tốt): Chủ về mọi chuyện như ý. Cầu danh lợi đều được, nên đi xa, gặp người trên có lợi. Phụ nữ gặp sao này sẽ được vui vẻ, hạnh phúc, có tiền tài, dễ đạt được các ước mơ, nhưng sinh nở bất lợi. Nam giới đi lại hanh thông, gặp sao này được bạn nữ giúp đỡ, nhất là về tiền bạc.

- Sao Mộc đức (Mộc, tốt): Sao Mộc đức chiếu mạng sẽ gặp nhiều may mắn trong công việc, có bạn mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhân giúp đỡ, hôn nhân hòa hợp. Phụ nữ có hạn huyết quang. Nam giới đề phòng bệnh mắt. Gia đạo có chút bất hòa, nhưng nhân khẩu bình an không đáng ngại.

Quan niệm về hạn

Ngoài quan niệm về sao, còn có quan niệm về hạn, theo đó có các hạn sau:

- Hạn Huỳnh tuyền: Có chứng đau đầu, chóng mặt.

- Hạn Tam kheo: Đề phòng đau chân tay, chứng phong thấp, hay lo buồn cho người thân yêu. Tránh tụ tập chỗ đông người để tránh rủi ro.

- Hạn Ngũ mộ: Hao tài, bất an. Không cho ai ngủ nhờ trong nhà vì sẽ có tai bay vạ gió.

- Hạn Thiên tinh: Đề phòng ngộ độc. Mang thai cấm kiễng chân với đồ trên cao, kẻo ngã trụy thai.

- Hạn Toán tận: Hao tài. Đi đường không mang theo nhiều tiền của, không góp vốn làm ăn.

- Hạn Thiên la: Đề phòng cảnh phu thê ly cách, cần biết nhẫn nhịn trong nhà.

- Hạn Địa võng: Kỵ đi với người khác lúc trời tối. Không cho người khác ngủ nhờ.

- Hạn Diêm vương: Đau ốm lâu, nhưng làm ăn thuận lợi, được tài lộc dồi dào, vui vẻ.

Ngày giờ giải sao

Theo người xưa, dù sao tốt hay xấu đều cần hóa giải. Song hầu hết các chùa hiện nay chỉ làm lễ giải một số sao xấu như Thái Bạch, La hầu, Kế đô. Cách giải rất đơn giản là chọn giờ để tiến hành hóa giải sao xấu hay đón nhận sao tốt, cụ thể như sau:

Sao Ngày âm lịch Giờ
Vân hớn 29 Tỵ (9-11)
Kế đô 18 Mùi (13-15)
Thổ tú 19 Thân (15-17)
Thái bạch 15 Dậu (17-19)
La hầu 8 Tuất (19-21)
Mộc đức 25 Mão (5-7)
Thái âm 26 Thìn (7-9)
Thái dương 27 Ngọ (11-13)
Thủy diệu 21 Hợi (21-23)

Đây là những ngày giờ theo "quy định" sách cổ, chưa có lý giải thực sự hợp lý. Dẫn đến nhiều nơi làm cũng không theo lịch, chú trọng vào ngày rằm theo quan niệm “lễ cả năm không bằng rằm tháng giêng”, hoặc ngày nào thuận tiện cho nhà chùa.

Cách giải sao hạn

Vào ngày sao hạn chiếu mệnh, cần thắp đèn thắp nến, cầu xin bình an, tăng thêm phúc thọ. Đầu năm có hạn nên đến chùa, các tháng sau có thể làm ở nhà.

Tuy nhiên, cách làm đơn giản hơn nữa là áp dụng khoa học phong thủy, khá hiệu quả lại không sa đà vào nghi lễ khó kiểm chứng. Muốn biết chi tiết từng người, cần có năm, tháng, ngày giờ, địa điểm sinh, từ đó thấy rõ chu kỳ 9 sao và có hướng hóa giải theo ngũ hành.

Nguyên tắc là sao xấu thuộc ngũ hành nào tiết giảm đi, còn sao tốt thì chọn ngũ hành tương ứng, hoặc sinh ra ngũ hành đó. Cụ thể:

- Sao La hầu, Thái bạch (ngũ hành là Kim): Dùng Thủy tiết, đeo trang sức đá quý màu đen như: đá núi lửa, thạch anh đen, thạch anh tóc đen...

- Sao Vân hớn (ngũ hành là Hỏa): Dùng Thổ tiết, đeo trang sức đá quý màu vàng như thạch anh tóc vàng, lưu ly, hổ phách, thạch anh vàng...

- Sao Kế đô, Thổ tú (ngũ hành là Thổ): Dùng Kim tiết, như đeo trang sức đá quý màu trắng: mã não trắng, thạch anh trắng, kim cương, xà cừ...

- Sao Thủy diệu tốt, nhưng bất lợi cho nữ (ngũ hành là Thủy): Dùng Mộc tiết, như đeo trang sức màu xanh: phỉ thúy, ngọc lục bảo, thạch anh linh, khổng tước...

Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị - ĐHXD


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dâng sao giải hạn và cách hóa giải

Vật phẩm phong thủy tình duyên –

Vật phẩm phong thủy mang lại tình duyên Hoa mẫu đơn Năm khai nguyên nhà Đường, thiên hạ rất thanh bình, nghe đâu năm đó ở Trường An, hoa mẫu đơn nở rộ, khi Đường Huyền Tông thưởng thức hoa mẫu đơn ở trong nội điện muốn cao hứng ngâm vịnh một bài thơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vật phẩm phong thủy mang lại tình duyên

vật phẩm phong thủy tình duyên

Hoa mẫu đơn

Năm khai nguyên nhà Đường, thiên hạ rất thanh bình, nghe đâu năm đó ở Trường An, hoa mẫu đơn nở rộ, khi Đường Huyền Tông thưởng thức hoa mẫu đơn ở trong nội điện muốn cao hứng ngâm vịnh một bài thơ về hoa mẫu đơn, nhưng nhà vua chưa biết nên ngâm bài thơ nào, lúc đó Trần Tu ở bên cạnh liền tâu rằng: Nên ngâm bài thơ của Lý Chính Phong, trong bài này có câu:

Thiên hương tại nhiễm y
Quốc sắc triều hàm tửu.
(Hương trời nhuốm màu áo, sắc nước say cả triều)

Về sau người ta dùng từ “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời) để hình dung hoa mẫu đơn. Nhưng Âu Dương Tu lại có cách phác họa khác là: “Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn” (chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ).

Dường như mẫu đơn càng đẹp hơn, quý hơn nhờ được hai nhà thơ tôn vinh, còn người đời coi mẫu đơn là biểu tượng của phú quý, trong các dịp khai trương, người ta hay tặng nhau tượng hoặc tranh mẫu đơn để chúc nhau phú quý.

Hoa Mẫu Đơn được mệnh danh là bà chúa của các loài hoa. Loài hoa này thể hiện vẻ đẹp sang trọng, quý phái, sức hấp dẫn nồng nàn, cảm xúc của sức trẻ toát ra mạnh mẽ. Tinh hoa nó toát ra đem lại vẻ đẹp, sức quyến rũ và may mắn trong tình yêu.Nên đặt tượng hoặc tranh hoa mẫu đơn tại cung tình duyên (Tây-nam) trong phòng ngủ của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy tình duyên –

Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT
Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NHẬN XÉT:

Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT. NHẬT NGUYỆT tại Sửu ví như buổi bình minh Âm dần tàng, Dương bắt đầu sáng. Tại Mùi dương sắp tàn âm sắp vượng. Trong nầy có chứa đựng cách DƯƠNG LƯƠNG nhưng LƯƠNG ở đây không may mắn lắm. Nhưng Dương Lương tại Sửu vẫn còn hy vọng đẹp. Nhưng nói chung tùy thuộc Hung, Cát tinh kết luận mà thôi.
Bộ NHẬT NGUYỆT khi xấu là ÂM DƯƠNG điên đảo, ÂM DƯƠNG điên đảo là sao? Là phụ nữ có khi lấn quyền nam giới.

 LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU


BÌNH MINH và HOÀNG HÔN:
ÂM DƯƠNG tại Sửu.
Hình ảnh. Đây là nơi giao hòa của Âm và Dương tại Sửu thiên về âm tàn, dương sắp thịnh, buổi bình minh đang đến hoặc sắp đến, lợi cho DƯƠNG hơn là ÂM. Tức là lợi cho nam hơn là nữ. Lợi cho hành bản MỆNH thiên về Hỏa như Thổ, Mộc. Vì THÁI DƯƠNG thuộc hành Hỏa. Lợi cho sự công khai hơn âm thầm. Lợi cho công việc thiên về ban ngày hơn ban đêm…
ÂM ƯƠNG tại Mùi. 
Là cảnh chiều tà, là hoàng hôn buông xuống. Dương tàn Âm sắp thịnh hứa hẹn một đêm dài, đêm vui hay đêm buồn tùy từng trường hợp hợp ta mới biết được. Lợi Âm hơn Dương, lợi nữ hơn nam, lợi cho hành Thủy hoặc tương sinh như Kim, Thổ. Vì THÁI ÂM thuộc hành thủy. Lợi cho sự âm thầm hơn là công khai. Lợi cho công việc thiên về ban đêm hơn ban ngày…
ÂM DƯƠNG HÒA HỢP.
Đây là cảnh Âm Dương giao hòa của trời và trăng, của ngày và đêm, của trai và gái nếu như không có Hung Kỵ Hình tinh cảnh ‘bình minh’ báo hiệu một ngày lành (THIÊN LƯƠNG) và ‘hoàng hôn’ báo hiệu một đêm an vui bắt đầu. Chúng ta thường chúc nhau một ngày may mắn là đây. (Dương Lương: một ngày may mắn, một ngày tốt lành).


NGÀY VÀ ĐÊM:
Vất vả từ sáng sớm đến nửa đêm, một nắng hai sương. Buôn bán cả ngày lẩn đêm
Ngày chẳng yên đêm chẳng vui... tuỳ thuộc hung cát tinh để quyết đoán.
Tốt là ngày đêm yên vui. Xấu là khổ, buồn, cực cả ngày lẫn đêm. Đêm còn nghe tiếng khóc.
Có người công việc làm ban ngày đêm về nghĩ ngơi. Có người công việc khi đêm xuống, nhưng cũng có người đi từ khi (hoặc làm từ khi) còn sơm tinh mơ và trở về hoặc thôi làm khi đêm đã xuống. Thấy được cái cảnh một nắng 2 sương (sương mai và sương đêm). Nhưng cũng có thể là niềm vui như có nhiều thu nhập lớn, đáng buồn có người vất vả thì nhiều hưởng chẳng bao nhiêu.
Bộ ÂM DƯƠNG cho thấy cái cảnh suốt ngày, suốt đêm có thể là cảnh đầu tắt mặt tối (nắng trên đầu đã tắt, mặt tối sầm lại) cảnh suốt ngày ăn chơi đàn đúm, cờ bạc rượu chè, cảnh các chiến binh phải suốt ngày canh gác chiến đấu…. tùy hình ảnh ta nhìn thấy sao ta được quyền mô tả vậy. Nó học hành viết lách suốt đêm ngày, đó là hình ảnh đẹp.


NGÀY và THÁNG:
* Ngày tháng trôi qua, vui buồn, vinh nhục… Đây là yếu tố giúp ta đoán được thời gian. Thái Âm còn chủ tháng, THÁI DƯƠNG chủ ngày . Nếu có THÁI TUẾ chủ năm ta có bộ tam Thái. Từ những yếu tố nầy trình độ cao hơn ta có thể đoán được bao nhiêu năm tháng hạnh phúc hay tai họa, đau ốm bao nhiêu lâu thì khỏi… Chỉ cần bạn nhớ cho ngày và tháng là tốt rồi. Như: Những ngày tháng qua đi khi ta còn ngồi lại… Ngày và Đêm là những đề tài muôn thuở được khai thác nhiều, như thương như tiếc những ngày tháng trôi qua mà chẳng làm được chuyện gì có ích cho gia đình hay xã hội. Để khi cái chết cận kề thấy tiếc nuối.
Chính những người có bộ Âm Dương (không phân biệt Âm Dương Sửu Mùi, Âm Dương Tỵ Dậu, Âm Dương Thìn Tuất, Âm Dương Mão Hợi) dễ cảm xúc về ngày tháng, về đêm và ngày, về cái vất vả của ngày, cái buồn vương về đêm. Như: Thương ai về ngõ tối. Sương rơi ướt đôi môi. Thương ai buồn kiếp người. Lạnh lùng ánh sao rơi. Thương ai về ngõ tối. Bao nhiêu lá rơi rơi. Thương ai cười không nói. Ngập ngừng lá hôn vai.
Buồn kiếp người: Tang Kiếp. Lạnh lùng ánh sao rơi (LINH TINH khi xấu là vì sao rụng, là chiếc lá rơi rơi). Cười không nói là THIÊN LƯƠNG nông cạn, nói cũng chẳng ích gì thâm sâu để làm chi. Kẻ bán người mua thế đủ rồi. Đó là hình ảnh buồn do TCS vẽ ra trong đầu, hoặc chính là hình ảnh thấy trong vô thức lá số TỬ VI của ông ta. THÁI ÂM + TANG KIẾP+ LINH. Người đàn bà của TCS. Và thương ai là bộ HÀ TƯỚNG QUÂN nằm ở đó.
Khi ta dùng đến ngày… tháng … năm … tức là lúc ta có việc quan trọng mới dùng đến ngày tháng năm. Ví dụ ngày…tháng… năm Kỷ Dậu. Em ơi! Từ mặt trận P.T. anh viết vội thư này gởi về em… Từ đây nếu hỏa khí (Hỏa Linh Kình Đà) là những ngày khói lửa chiến tranh, nếu hòa bình là những ngày vất vả vì lịnh lạc khẩn cấp không phải những ngày tháng êm đềm luôn luôn có chuyện khẩn… Nếu có KHÔNG KIẾP là ngày tháng Không May… Tùy theo cái ta nhìn thấy mô tả nó một cách trung thực khi ta có dữ liệu sơ sở. Nếu không lấy gì mô tả, có chăng là nói bậy tùy hứng mà thôi, may nhờ rủi chịu, đúng sai không biết.


NGÀY LÀNH THÁNG TỐT
Âm Dương ngộ Lương là ngày lành tháng tốt (yếu tố này áp dụng cho tất cả cách ÂM DƯƠNG có LƯƠNG) nhưng ở vị trí này THIÊN LƯƠNG không may mắn lắm (đừng hiểu lầm là lạc hãm, hóa là bất lương. Lương cần đi với Phúc là phúc duyên, đi với cơ là cơ duyên. Hạnh Phúc đâu phải chỉ cơm ăn áo mặc cần có tiếng nói trẻ con THIÊN ĐỒNG, cần có căn nhà THIÊN CƠ cơ ngơi… như vậy phải hiểu không may mắn lắm là như vậy… Bộ ÂM DƯƠNG LƯƠNG chưa hoàn chỉnh. Ý Bửu Đình nói là như vậy đấy. Nếu bất lương hay không thì có các sao KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH nó nói. Nói một cách dễ hiểu nhất.
Chính tinh là chủ từ, bàng tinh là túc từ. Tôi muốn là THAM LANG, tôi muốn ăn roi là THAM HÌNH, Tôi muốn yêu thương là TƯỚNG QUÂN, Tôi muốn phục vụ cho Bửu Đình. THAM PHỤC BINH + Bửu Đình. Quá dễ phải không. Phục vụ cho cái xấu + KHÔNG KIẾP vào. Đúng không? Bởi thế người viết đã từng viết những lá số đến 50 trang vở học trò là bình thường. Cứ tặng Đình một sổ carnet một cây bút là thấy khổ rồi, sẽ chết vì chấm TỬ VI. Đâu phải lá số nào cũng dễ nói, né qua tránh lại thiếu trung thực.
Ngày lành tháng tốt là một yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình, nhà cửa… và sinh ra đời được bộ NHẬT NGUYỆT như Sửu Mùi và các cách NHẬT NGUYỆT khác có THIÊN LƯƠNG mà không có Sát Tinh Kỵ Hình được xem như là sinh vào ngày lành tháng tốt. Từ đó có ngày Sinh Nhật, cao hơn là Đản Sinh của Phật, Giáng Sinh của Chúa. Nếu ta sinh vào những tháng ngày khói lửa mặc dù không có cách đó tại MỆNH. Sau nầy có dịp chúng ta sẽ nếm khói lửa thời chiến, khói lửa thời bình, khói lửa ngay chính trong căn nhà chúng ta. Chứ đừng nói rằng, làm gì có chiến tranh trong khi cả thế giới nói chung đang hòa bình. Chiến tranh ngay trong nhà của bạn. Với những ngày không yên đêm không vui, đó là nhẹ nhàng. Ngày hồi hộp đêm lo sợ, chết đi còn sướng hơn. Đôi khi sự thật rất cay đắng. Tốt nhất tự đoán số cho mình là hay nhất. Từ đó, nên TRIỆT đi, xóa đi những hình khắc bắt bẻ, những đòi hỏi thái quá, những ghen tị những cái mình không thể có. Mà người thân mình cũng không thể thỏa mãn cho mình được. Hiểu biết TỬ VI coi như đã đi tu rồi, mĩm cười với HÓA KỴ, vẫy tay với KÌNH DƯƠNG, sẵn sàng vui với ĐÀ LA một đoạn, HỎA TINH ta chọn nhiệt tình, LINH TINH ta chọn sáng suốt, KHÔNG KIẾP ta lấy sợ nạn mà không làm chứ đừng không ngờ gặp nạn. Như vậy là cải số với trời chứ không cãi cọ với người.
TỬ VI Ứng Dụng đem lại cho bạn niềm an vui với số phận. Và Số (THIÊN CƠ) một nơi Phận (TỬ VI) một ngã, số phận gặp nhau là số phận đã an bài. Việc làm hôm nay là việc làm trong định số của người viết. Một người có ngôi TỬ VI TẤU THƯ tại MỆNH hạn tại CƠ ĐỒNG BINH TƯỚNG.


NAM NỮ, ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ, TRAI GÁI:
Đây là vị trí cả nam lẩn nữ giao hội với nhau với THIÊN LƯƠNG là phơi bày. Quan trọng là phơi bày cái gì? Phơi bày tâm sự. Đó là hình ảnh bên anh đọc sách bên nàng quay tơ, bên sông em giặt lụa trên cầu anh đứng trông, hay bên hiên anh thơ thẩn trong song em lặng nhìn… và sau đó THIÊN LƯƠNG phơi bày tâm sự, cũng từ đó lại chọn ngày lành tháng tốt để anh đến nhà em, để trình bày (chứ không phơi bày nhé) nếu như không có bọn KỴ ĐÀ cản mũi… cứ thế khi nên vợ nên chồng phơi bày cái gì sau đó chắc bạn thừa hiểu, có điều đáng nói là Đình không bày nhưng bạn lại làm rất tốt, cái Đình bày cho lại phản đối?
Nhưng vậy cách ÂM DƯƠNG LƯƠNG có hàm ý dâm tính ở bên trong, tùy dâm tinh tụ tập nhiều hay ít để luận đoán.


GÁI TRAI và LƯƠNG THỰC, LƯƠNG TIỀN.
Khi nên vợ nên chồng vấn đề cái ăn trở nên bức thiết. Tại đây ta chỉ có lương thực chứ chưa phải là cách Đồng Lương là lương tiền (từ ruộng đồng sinh ra lương thực chuyển qua lương tiền) Vì thế bị đánh giá là kém hay như đã giải thích ở trên. Cho nên dẫu sao có THIÊN LƯƠNG là may mắn rồi. Nếu như không có nó thì sao?


GÁI TRAI và một mái nhà.
Tại đây ta chỉ thấy đôi trai gái và một mái nhà đó là THIÊN LƯƠNG (chủ nóc nhà) THÁI ÂM chủ thềm trong, THÁI DƯƠNG chủ thềm ngoài. Nóc và thềm thôi chư đâu phải là cơ ngơi như THIÊN CƠ vì thế khiếm khuyết về nhà cửa chưa hoàn chỉnh nhưng có THIÊN LƯƠNG này cũng có bóng mát cuộc đời, dù là không cao sang.


TIẾNG ĐỘNG DẬY LÊN. ÂM THANH DẬY LÊN:
THÁI ÂM chủ tiếng động. THÁI DƯƠNG chủ dậy lên, phát lên. Tiếng động phát ra có thể lời văn hay ý tốt, là tiếng nhạc tiếng đàn, lời ca tiếng hát nếu đi với XƯƠNG KHÚC và bây giờ nếu bạn còn thắc không khi có người nói: “ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực” chỉ câu này thôi là hay biết bao nhiêu. Ngần ấy thôi là thấy có công danh, có nghề nghiệp có niềm vui. Vậy thì bộ ÂM DƯƠNG rất cần gặp THANH LONG chủ tiếng nói, hoặc HỒNG LOAN ‘la to’ tiếng nói vui mừng đi với HỈ HỒNG ĐÀO nhưng có thể lời than, tiếng khóc, chưởi rủa, bôi nhọ khi đi với thị phi tinh, sầu tinh… từ đó hướng luận đoán nhiều vô số kể.
Âm Dương Lương là tiếng động phát lên bày tỏ ra, phơi bày ra. Chúng ta chưa biết rõ họ dùng tiếng động đó để làm gì, tín hiệu vui hay cầu cứu SOS. Nếu là tiếng nói. Ồ nói năng có văn hóa nhỉ, nghe được đấy. Là nhờ bởi XƯƠNG KHÚC. Nghe vui tai là đi với ĐÀO HỒNG HỈ, nghe như trăm oán nghìn sầu là đi với TANG KHỐC ĐƯỜNG LA. Sao mà nghe vô văn hóa, chưởi bới… Nhìn sao nói vậy, nghe sao viết vậy.


MỘT SAO CHỦ ẨN, MỘT SAO CHỦ HIỆN, HIDE và SHOW:
Nào chúng ta vào Tools nhấn Foder Option muốn ẩn thư mục nào ta chon hide. Đúng chưa. Biết rồi khổ lắm. Hà hà…
Ẩn là THÁI ÂM tên thiệt của y là ‘âm thầm thái quá’ và THÁI DƯƠNG là ‘công khai thái quá’. Khi cần ẩn là ẩn khi cần hiện là hiện, biến hóa vô lường. Khi ta có 2 yếu tố nầy khi vui ta hiện khi buồn ta bay. Khi nguy biến phải thoát ngay. Nếu không gặp chuyện đắng cay vô cùng.
Thoắt ẩn, thoắt hiện là bộ sao nầy. Như trong vi tính có chức năng ‘Hide’. Tốt là khi cần ẩn thì ẩn, khi cần hiện lại hiện ra. Xấu là khi cần ẩn lại hiện, khi cần hiện ra lại ẩn. Nhận xét chung vừa ẩn, vừa hiện là một yếu tố rất hay. Ví dụ: Như cô ca sĩ hát xong lui vào sân khấu (chẳng lê đứng hát hoài), như một chiến binh khi cần phục kích phải ẩn núp kín đáo, khi cần xung phong lại hiện ra (khiến địch quân khiếp vía, nếu núp nữa coi cũng kỳ).
Và đến đây bạn thấy đó không phải vô cớ Bửu Đình lại phân biệt nhóm sao ẩn hiện. Vì từ đó chúng ta đến THÁI ÂM đôi khi là sao tốt đẹp nhưng thật ra nó không lợi cho ta là bao nhiêu, trong khi ta ưa dương, ưa lộ, ưa phơi, ưa khoe. 
Vậy thì THÁI ÂM thuộc nhóm ẩn như TỬ VI THIÊN PHỦ ĐÀ TUẦN. 
THÁI DƯƠNG thuộc nhóm lộ THIÊN LƯƠNG TRIỆT KÌNH. Và xem tiếp càng về sau càng hấp dẫn lôi cuốn không chán phèo. Có thế mới là kỳ lạ.


BÓNG TỐI và̀ ÁNH SÁNG. ĐEN TỐI, MỜ ÁM và RÕ RÀNG, SÁNG SỦA:
Kẻ trong bóng tối, người ngoài ánh sáng là đây. Khi cần thì khuất vào bóng tối, khi cần xuất hiện ra ngoài ánh sáng. Cũng như khi cần tắt đèn, khi cần mở đèn. Khi có 2 yếu tố nầy cũng có thể rất nguy hiểm vì có thể làm những chuyện mờ ám, vì thế nó luôn luôn nhị hợp với một sao thủ đoạn là VŨ KHÚC. Đọc tiếp phần dưới ta sẽ rõ hơn.


ÂM THẦM VÀ CÔNG KHAI:
THÁI ÂM chủ âm thầm, lén lút, mờ ám 
THÁI DƯƠNG chủ công khai, hợp pháp, minh bạch rõ ràng
Ví dụ: Về mặt công khai đó là công ty bay (công ty hoá chất, vận tải, cửa hàng ăn uống...) nhưng dằng sau đó âm thầm mua bán (vận chuyển, trao đổi...) ma tuý (vũ khí, tiền giả...). Hoặc là nơi chứa chấp (cung cấp...) bọn khủng bô ́(gián điệp, đĩ điếm..).
Đây là bộ sao mang 2 bộ mặt khác nhau. Một bộ mặt hợp pháp, công khai một bộ mặt xã hội đen, buôn lậu, thế lực chống đối hoặc âm thầm, lén lút, mờ ám làm chuyện bất chính. Xung đột mâu thuẩn một bên mờ ám, lén lút, âm thầm và một bên công khai rõ ràng minh bạch như mặt trời với mặt trăng, như ban ngày không thể gặp ban đêm.
Nhưng dẫu sao xét cho cùng, đây cũng là một yếu tố rất hay. Có những cái ta cần âm thầm, có những cái ta cần công khai. Cái quan trọng là âm thầm cái gì? Công khai cái chi?. Đối với người, ta có thể âm thầm thương nhưng công khai la mắng, trong kinh doanh ta cũng có những cái âm thầm ngay nhân viên cũng không được tiết lộ, còn hàng hóa tất nhiên cần được công khai rồi. Trong Quân Sự, Chính Trị yếu tố nầy càng mạnh mẽ, trong âm thầm làm một đường, nhưng công khai làm một nẻo...
Đây là bộ sao phù hợp với một số người, nhưng bất bình cho một số khác. Điển hình là những người thuần dương (THÁI DƯƠNG) như THÁI DƯƠNG tại Tí Ngọ Dần Thân.
Kết luận là kết quả của Sát tinh có hay không? ĐÀO KỴ KIẾP có hay không? Có tạo ra tai họa cho người không?
Tôi âm thầm học tập nghiên cứu. Nay công khai tuyên bố là:…con vi khuẩn D35 có thể chữa bịnh cho người lãnh cảm.
Con âm thầm theo dõi người ấy lâu lắm rồi. Cô ấy là người rất tốt. Nay con công khai đến đây xin phép …
Công khai đưa người cửa trước, âm thầm rước người cửa sau…
Vầy thì cái âm thầm thuộc dạng âm mưu sợ gì? Sợ bại lộ.
Bây giờ giải thích với bạn rằng: Bộ NHẬT NGUYỆT rất khoái bộ TANG HƯ KHÁCH và rất kỵ TRIỆT đáo đầu.
Âm thầm và công khai tốt xấu tùy mục đích.
Âm thầm để một mai dương lên, vươn lên là đặc tính của bộ sao nầy. Một người có bộ Âm Dương tối tăm về già cuộc đời càng sáng sủa. Thuở trẻ thường hay chịu cảnh tối tăm.


TAI và MẮT. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY.
Các sách TỬ VI thường cho là Bộ ÂM DƯƠNG là đôi mắt, điều nầy không có gì bàn cãi. Có chăng là THÁI ÂM còn đãm nhiệm sự nghe. THÁI DƯƠNG đảm nhiệm sự thấy. 5 ngũ quan là : Tai mắt mũi miệng và tay chân. Tay chân ta có THIÊN MÃ đúng rồi, CỰ MÔN là cái miệng ăn nói. Cái mũi, trời ơi! Cái mũi là cái nghệ sỹ… chưa bao giờ đề cập hoặc đề cập một cách kín đáo khó nhận biết. Nào là: Anh nhớ mắt môi em mĩm cười… má em gầy, vai em gầy guộc từng sợi nhỏ (là cái chi?), dài tay em mấy thuở mắt xanh sao. Có ai nhớ cái mũi đâu mà nữ giới đi sửa mũi làm gì tốn tiền vậy chứ. Nhưng Vua Tự Đức viết:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tà y lại để dành hơi.
Và cũng chỉ nói cái mũi của mình thôi. Người có văn hóa đập phá cũng có văn hóa. Qua Trần Thiện Thanh là: Gương xưa còn đó nhưng bóng người nào thấy đâu. Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi… trong ‘Từ đó em buồn’
Và cái mũi là ngôi sao THAM LANG. Đập phá để ngửi (xin cám ơn vua Tự Đức)
* Là thấy tận mắt, là nghe tận tai. Những điều ấy đem đi tố cáo với người khác trở thành 'tai mắt' cho người, có khi là cho địch, có lúc lại đem loan truyền… Cũng có khi không thấy tận mắt, chẳng nghe tận tai nhưng quả quyết là tai nghe mắt thấy.
* Là tai nghe chuyện vui, mắt thấy chuyện mừng. Tai nghe những cái hay, mắt thấy những cái đẹp…
* Cũng là tai nghe mắt thấy những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện không muốn nghe phải nghe, những chuyện không muốn thấy phải nhìn.
* Cũng là tai nghe mắt thấy nhưng tai nghe không tiếp thu, mắt thấy mà không hiểu. Tốt là nghe một hiểu mười, thấy một cái hiểu nhiều cái.
* Có tai như điếc, có mắt như mù, có cũng như không. 
* Tốt là tai thính, mắt sáng. Xấu là tai điếc mắt mù. Có cả bộ môn cho Khoa Tai Mắt Múi Họng.
Theo Nguyễn Du bộ ÂM DƯƠNG là những điều trông thấy.
"Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. "
Lần nữa ta lại thấy giá trị của câu: Âm Dương hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực. Được nghe được xem và được nói về văn học nghệ thuật. 
(So sánh với cái dò xét theo dõi đáng sợ của Liêm Trinh, cái quan sát của THẤT SÁT, xem xét của THIÊN TƯỚNG và THÁI DƯƠNG dương mắt ngó nhưng một hôm THÁI DƯƠNG dương mắt ngó xong rồi cãi nhưng nó không nằm tại đây).


SỐNG DỞ CHẾT DỞ, DỞ SỐNG DỞ CHẾT, ÂM DƯƠNG bàng hoàng:
* Khi xấu bộ sao nầy rơi vào trạng thái dở sống dở chết. Âm chẳng ra người âm, dương chẳng ra người dương, sống cuộc đời thực vật. Cũng như mọi bộ sao khác
Bộ ÂM DƯƠNG cư Sửu cần gặp và kị gặp
CẦN GẶP:
TAM MINH(ĐÀO HỒNG HỈ) xem mục “Tiếng động dậy lên”
“Mệnh cư ĐÀO, HỈ hướng TỬ, DƯƠNG (THÁI DƯƠNG) phú quí khả kì. 
Thân hữu HỒNG, ĐÀO, THAI TOẠ nhi công danh khả tất”
Tức MỆNH có TỬ VI hay THÁI DƯƠNG đi với ĐÀO Vui, Hỉ Mừng phú quý lạ kỳ (Dĩ nhiên không gặp thêm Hung tinh). Thân có 4 sao ĐÀO HỒNG THAI TỌA tất có công danh (ngồi cao la lớn không có công danh sao được)
XƯƠNG KHÚC: mới đắc lực, phú quí vinh hoa. Phú viết: ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực.” hoặc Phú quý vinh hoa. Cũng như bộ TỬ PHỦ cần Tả Hữu bộ sao hành động cần người giúp đỡ. Bộ ÂM DƯƠNG đa phương tiện (Multidial) cần đi với bộ Nghệ Thuật XƯƠNG KHÚC .
BÁT TOẠ: Xuất nhập nơi quyền quí. Hợp cách.
“BÁT TOẠ hướng THÁI DƯƠNG thị tụng ư cung cấm’. Hình ảnh người đàn ông ngồi trên đài cao. Đặc biệt sao THÁI DƯƠNG rất ái mộ sao nầy.
KHOA LỘC: “NHẬT NGUYỆT KHOA LỘC Sửu cung định thị công danh. QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG. văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”. Đi với KHOA LỘC tất thị có công danh (ở đây không thể có đủ bộ 3 sao KHOA QUYỀN LỘC 
TUẦN KHÔNG: “NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”. Vì Tuần chủ tập trung vào, thu hút vào, nhân vật quan trọng vì văn tài XƯƠNG KHÚC, và bộ QUÍ ÂN chủ ân thưởng vẽ vang. Để giải thích câu phú này cả một loạt tiểu mục để minh chứng. Nếu Âm Dương đắc cách là tiếng nói của một nhân vật quan trọng có văn tài rất vẽ vang, tập trung (tuần) mà nghe.
LỘC TỒN: “THÁI ÂM, VŨ KHÚC, LỘC TỒN đồng. TẢ HỮU tương phùng phú quí ông”
Tức THÁI ÂM + LỘC TỒN + TẢ HỮU, hoặc VŨ KHÚC đi với TỒN TẢ HỮU. Có LỘC TỒN không còn lo lắng bộ KÌNH ĐÀ phức tạp xuất hiện. Bộ LỘC TỒN TẢ HỮU đi với sao nào cũng hay trừ trường hợp đi với SÁT PHÁ, CỰ.
THÁI TUẾ : Tam thái cách. Thái sư, Thái phó, Thái bảo… mơ hồ khó đạt được cần có KHOA LỘC. Làm thái sư phụ dễ gặp. 
KỊ GẶP:
TAM ÁM (DIÊU ĐÀ KỊ). Tai nghe mắt thấy bị ám rồi còn nghe thấy chi nữa. Nếu MỆNH có bộ NHẬT NGUYỆT hạn đến bộ tam Ám là xui nhất. Đây là 2 bộ sao kỵ nhau nhất.
HAO TINH: Phi lễ thành hôn (đối với nam)
“Âm phùng Hao tú một phương. Thành hôn chẳng lọ là đường cưới xin.” Vì khi có HAO tức THÁI ÂM ngộ ĐÀ hay ngộ KÌNH
ĐÀ LA: Mệnh cung kị NGUYỆT ngộ ĐÀ LA có tính loạn dâm. Âm ám chủ bị nữ lôi kéo.
KÌNH ĐÀ : Đa khắc thân. Nhân ly tài tán. Vì hình thành các bộ ÂM KÌNH, DƯƠNG KÌNH ÂM ĐÀ, ÂM KÌNH tức âm thầm hay công khai chống đối 2 giới nam và cả nữ trong gia đình (đa khắc thân: khắc nhiều người thân). Từ đó vui thì sống, buồn thì đi (nhân ly tài tán là thế).
KÌNH DƯƠNG :”TUẦN TRIỆT bất khả LỘC TỒN tư cơ phá bại. DƯƠNG NHẪN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”. KÌNH ở đây còn chủ phải chống đỡ với nhưng nguy cơ âm thầm trong thân thể của mình (chứ tui không chống ai hết)
“THÁI ÂM ngộ DƯƠNG ĐÀ tất chủ nhân ly tài tán
DƯƠNG NHẨN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”
VIỆT LINH HÌNH: Phòng sấm sét, búa đao.
TRIÊT: Tất cả đều lộ ra hết, y như cặp trai gái nằm phơi bày lồ lộ. Cái lộ đó càng cay đắng hơn nếu như có chén thuốc đắng HÓA KỴ bên cạnh, nếu như thuốc độc không ngại gì mà không uống.
Tất cả Âm Mưu, tất cả sự thầm kín sẽ bị phơi bày (THIÊN LƯƠNG) công khai (hoặc đưa ra ánh sáng THÁI DƯƠNG). Xấu tốt do hung, cát tinh mà thôi. Tụ tập nhiều hay ít. Biết bao nhiêu người bị chết… cháy vì cách nầy. Như đã nói cách này không được hoàn chỉnh… vì thiếu một ngôi sao THIÊN ĐỒNG thâm sâu, ngôi sao THIÊN CƠ tính toán kỹ. Vì thế ta ít khi gặp lá số Âm Dương tốt. Nếu không có gì xấu xa khi bị lộ (mà rất dễ lộ. sao TRIỆT cứ chu kỳ 5 năm đến thăm Sửu Mùi một lần, có lúc rủ thêm Kỵ thế là họa đến) không làm điều xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng có khi quảng cáo cho mình. Ờ cái đó là âm mưu à! Cái đó là âm thầm giúp đỡ mà thôi. Tại anh ghét anh nói vậy thôi.
Dĩ nhiên những âm thầm nguy hiểm (Kỵ Kiếp) chưa kịp tạo ra có khi bị bóp chết trong trứng nước là vì thế.
Ở đây người viết cần giải thích thêm. Ý người viết nói tại đây có bộ KỴ KIẾP, tức tại bản cung, tam hợp cung hội họp. Nếu có bộ này nằm ở cung xung chiếu mang ý khác. Bản cung có Kỵ cung xung chiếu có KIẾP mang ý khác và ngược lại, bản cung có Kiếp xung chiếu có KỴ tất phải mang ký khác. Ví dụ nội Kỵ ngoại Kiếp: Tại anh ăn hiếp (tức là KIẾP) tui, nên tui mới ghét (kỵ) anh. Vi dụ: Nội Kiếp ngoại Kỵ: Ê mày dám chê (vì Kỵ xung) tao hả? Tao sẽ ức hiếp mày bằng thích. Giải thích rất bình dân, thực tế như vậy không biết bạn có hiểu kịp không? Hay bạn ưa nghe mơ hồ: cần phân biệt thế xung và hợp, nói như vậy 10 người chỉ có 1 người lanh trí hiểu.
KHÔNG KIẾP:
“NHẬT NGUYỆT sát hội nam đa gian đạo nữ đa dâm”
Không cần giải thích bạn cũng hiểu. Đôi trai gái trời ơi này.
GIÁP HAY RẤT DỄ GẶP:
Tại vị trí Sửu Mùi thường dễ gặp các bộ sao đôi hợp chiếu và dễ gặp các cách giáp như: Long Phượng (kề cận quý nhân), Thai Tọa (công danh, nhàn hạ), Quang Quí (ân thưởng vẽ vang). Hay nhất là giáp XƯƠNG KHÚC (ví như tay trái xem sách, tay phải chơi đàn, 2 cung phụ mẫu huynh đệ là giới văn nghệ sỹ). Có câu:
“XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Trì là tên riêng của Âm Dương, Quế trì là THÁI ÂM, đan trì là THÁI DƯƠNG.


MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN .
Ghi lại đây một số câu phú có liên quan, quan điểm một số nhận xét của người xưa.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi. ÂM DƯƠNG hổn hợp tự giảm quang huy kị phùng sát tinh, nhược lai văn diệu, diệc kiến QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”
Tự giảm quang huy. Đình không đồng ý. Đã giải thích ở đầu bài ở Sửu lợi cho THÁI DƯƠNG ở Mùi lợi cho THÁI ÂM. Văn tài nguỵ lý cũng không đồng ý vì các bàng tinh sẽ đánh giá công việc ấy như HƯ PHÁ, PHI LIÊM.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”
“Mấy người bất hiển công danh. Vì chưng NHẬT NGUYỆT đồng tranh Sửu Mùi”
Ngày xưa KHHB tranh luận câu này. Người cho bất hiển, người cho là phỉ hiển (Thỏa mãn toại nguyện). Xét cho cùng quá võ đoán, vớ vẩn chỉ bộ Âm Dương chưa đủ điều kiện ắt có và đủ như trong toán học. Thấy tốt ta mới kết luận tốt, xấu ta kết luận xấu. Đó là việc làm của các bàng tinh.
Kể các câu phú dưới đây thuộc loại võ đoán.
“NHẬT NGUYỆT Mệnh, Thân cư Sửu Mùi tam phương vô cát phản vi hung”.
“NHẬT NGUYỆT đồng lâm quan cư hầu bá”
“THIÊN LƯƠNG, THÁI ÂM tác phiêu bồng chi khách.”

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Lật tẩy chiêu trốn tặng quà 8/3 cho bạn gái

Khi đã không muốn thì có bắt các chàng tặng quà 8/3 cho bạn gái cũng không được, các chàng cũng tìm mọi lý do để trốn tránh mà bạn không thể trách cứ được đâu!
Lật tẩy chiêu trốn tặng quà 8/3 cho bạn gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một khi đã không muốn thì có bắt các chàng tặng quà 8/3 cho bạn gái cũng không được. Các chàng trong 12 cung hoàng đạo cũng tìm mọi lý do để trốn tránh mà bạn không thể trách cứ được đâu!



 

Bạch Dương

Thật là thiệt thòi cho những bạn nữ có người yêu là chàng trai Bạch Dương. Vì quà cáp vào những ngày này đối với họ chỉ là bày vẽ, tốn kém, không mang ý nghĩa thiết thực và họ sẽ nói thẳng với bạn là chẳng cần thiết phải tặng quà vào hôm nay.

 

Kim Ngưu


Anh chàng Kim Ngưu lắm mưu nhiều mẹo sẽ giả vờ ốm nặng để không phải ra khỏi nhà và cũng chẳng ai nỡ đòi quà người bệnh cả. Đây chính là chiêu trò trốn tặng quà 8/3 cho bạn gái của Sửu nhi đấy.

 

Song Tử

  Song Tử sẽ chẳng cần giả bổ, mà chàng ta mặc-định-quên hôm nay là 8/3. Và điều tất nhiên là bạn sẽ chẳng nhận được món quà nào đâu? Điều này có nên thông cảm hay không nhỉ?
 

 

Cự Giải

  Lý do của Cự Giải trong ngày hôm nay là chàng ta phải chở mẹ đi chơi, đi thăm họ hàng, đi làm công chuyện… và bạn chẳng có quyền gì trách cứ người yêu mình vì người ta còn lo chuyện gia đình phải không nào?

 

Sư Tử

  Một khi Sư Tử đã không muốn tặng thì bạn đừng hi vọng nhận được quà trong ngày hôm nay nhé. Và lý do thì cũng giống như Song Tử thôi, cười xòa bảo mình quên là xong.

 

Xử Nữ


 
Giả ốm là lý do của Kim Ngưu, còn Xử Nữ sẽ ốm thật cho coi. Tiết kiệm được một món quà mà Xử Nữ phải chuẩn bị công phu quá nhỉ?

 

Thiên Bình


 
Cái miệng dẻo như kẹo kéo của Thiên Bình sẽ nói ra những điều vô cùng ngọt ngào, nào là với chàng thì ngày nào cũng là 8/3, ngày nào anh chàng cũng yêu bạn, cả năm bạn là công chúa trong lòng chàng… tất nhiên, quà cáp chỉ là bày vẽ.

 

Hổ Cáp

  Với bản tính láu cá của Hổ Cáp thì tới gần ngày 8/3, cậu ấy sẽ gây sự với bạn và tới ngày 9/3 thì sẽ làm lành, như vậy là sẽ không phải tặng quà cho bạn ngày này nữa. Thật là thông minh quá đáng!

 

Nhân Mã

  Trước đó, bạn chưa từng nghe Nhân Mã thông báo về một chuyến du lịch nào hết. Tuy nhiên, thật bất ngờ vào đúng ngày đó chàng ta lại nói là có việc đột xuất, đi du lịch, hoặc phải đi công tác bất chợt. Thực ra đây chỉ là chiêu trò trốn tặng quà của chàng ta mà thôi.

 

Ma Kết


 
Lý do không thể tặng quà của Ma Kết chính là vì công việc quá bận, chàng nói với bạn là chàng phải tăng ca, làm thêm, kế hoạch phát sinh… Và sau ngày đó thì chỉ là lời xin lỗi vì quá bận mà không thể đi mua quà. Thật là khéo léo phải không?

 

Bảo Bình

  Nếu bạn quên không nhắc thì Bảo Bình sẽ … quên luôn đó. Nên muốn nhận được quà thì hãy thẳng thắng … đòi quà nhé!
 


Song Ngư



Song Ngư sẽ giả bộ tự kỉ trốn tiệt trong nhà nhân ngày 8/3. Bạn sẽ không thể nào liên lạc hay tìm thấy chàng. Vì thế bạn cũng đừng trông mong gì quà 8/3 nếu hôm đó gọi điện cho chàng mà không thấy chàng bắt máy. Rất có thể Song Ngư đã cố tình trốn rồi.
 
S.T   Bình hoa phòng ngủ chuẩn phong thủy, chị em tươi phơi phới hoa dịp 8/3 Gợi ý quà tặng 8/3 siêu độc lấy lòng 12 chòm sao nữ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lật tẩy chiêu trốn tặng quà 8/3 cho bạn gái

Lễ Phục Sinh bắt nguồn từ đâu?

Lễ Phục sinh theo đạo Thiên chúa giáo, là lễ mừng Chúa Jésus Christ sống lại sau ba ngày. Lễ này tiếp theo Tuần Thánh mà người ta tổ chức cho bữa ăn cuối cùng của Chúa Jésus với Tông đồ (ngày thứ Năm : La Cène) và ngày Chúa chết trên thập tự giá (thứ Sáu).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ Phục sinh là một ngày lễ quan trọng ở phương Tây, là ngày Chủ Nhật đầu tiên sau tiết Xuân phân khi trăng tròn. Vì sao ngày hội tôn giáo quan trọng kỷ niệm sự phục sinh của Chúa Jesus lại có nhiều yếu tố phi Cơ Đốc giáo như vậy? Từ ý nghĩa Cơ Đốc giáo mà nói, Lễ Phục sinh tuy không lớn bằng Lễ Giáng sinh nhưng ngày càng trở thành phong tục tập quán.

Theo nghiên cứu, tên gọi Lễ Phục sinh (Easter) bắt nguồn từ hai nguồn gốc lớn, và sau khi Cơ Đốc giáo thêm vào ý nghĩa phục sinh của Chúa Jesus thì hai nguồn gốc lớn này dần hợp lại làm một. Do đó, Lễ Phục sinh còn có nguồn gốc từ bên ngoài chứ không chỉ mang ý nghĩa thuần túy là ngày lễ Cơ Đốc giáo. Tiết lộ cổ xưa của Thần về Lễ Phục sinh đã bị thất lạc, và ngày nay, nhờ phá giải bí ẩn về Lễ Phục sinh ở phương Tây mà chúng ta có thể hiểu được hàm nghĩa hai chữ “Phục sinh”.

Lễ Phục sinh bắt nguồn từ Lễ Vượt qua của Do Thái giáo

Hơn 3.000 năm trước, Thiên Chúa Jehovah đã triển hiện Thần tích cho người Do Thái để Pha-ra-ông Ai Cập thả những người Do Thái ra khỏi Ai Cập. Pha-ra-ông Ai Cập đã nhiều lần thất tín bội nghĩa, do đó Thiên Chúa cuối cùng đã quyết định trừng phạt Pha-ra-ông. Lễ Vượt qua (Passover) là kỷ niệm đêm trước ngày Moses thống lĩnh người Do Thái thoát khỏi Ai Cập, khi ấy thiên sứ đã giết chết tất cả con trưởng ở Ai Cập, sau đó vượt qua các ngôi nhà của người Israel được bôi máu cừu và cứu các gia đình người Israel.

Lễ Vượt qua đã trở thành ngày lễ quan trọng nhất của Do Thái giáo. Trước và sau tiết Xuân phân, người Israel cổ đại đã quan sát mặt trăng mới ở Jerusalem sau khi mặt trời lặn, cũng chính là ngày đầu tiên của tháng Nisan. Kể từ ngày này, ngày thứ 14 chính là Lễ Vượt qua cổ đại. Đa số người Do Thái ngày nay lấy ngày 15 tháng Nisan để ăn mừng Lễ Vượt qua.

Để chuẩn bị Lễ Vượt qua, trong 10 ngày đầu tiên tháng Nisan, người ta chọn một con cừu không tỳ vết để làm cừu tế Lễ Vượt qua, sau đó nuôi trong nhà đến ngày thứ 14 rồi mới giết mổ.

Đêm trước Lễ Vượt qua, trong 10 ngày đầu tháng Nisan từ năm 30-33 SCN, ngày mà người ta đưa cừu vào nhà, Chúa Jesus đã cưỡi lừa vào Jerusalem. Ngài đã bị đưa đến Pilate để thẩm phán và không tìm thấy tội, nhưng lại đáp ứng yêu cầu của cừu không tỳ vết. Vào Lễ Vượt qua ngày 14 tháng Giêng, Chúa Jesus đã bị đóng đinh lên thập tự giá. Khoảng 3 giờ chiều, Chúa Jesus nói: “Thưa cha, con đem linh hồn con giao trong tay cha.” Nói rồi tắt thở, đây chính là thời gian mổ cừu trong Lễ Vượt qua.

Trước khi Chúa Jesus gặp nạn, Bữa tối Cuối cùng (Last Supper) chính là bữa tối trong Lễ Vượt qua giữa Chúa Jesus và các tông đồ. Theo định nghĩa của người Do Thái đối với ngày này, ngày hôm sau bắt đầu từ khi mặt trời lặn; do đó, Chúa Jesus được coi là đã chết vào ngày Lễ Vượt qua.

Giáo hội Cơ Đốc và Do Thái giáo cũng bất đồng khi nhìn nhận vấn đề này. Đại bộ phận Giáo hội Cơ Đốc cho rằng Chúa Jesus bị sát hại vào ngày thứ Sáu, do đó kỷ niệm “Lễ Vượt qua” của họ là vào ngày thứ Sáu, còn Chúa Jesus phục sinh vào ngày Chủ Nhật, do đó Lễ Phục sinh và Lễ Vượt qua được cử hành đồng thời. Tuy nhiên vào mỗi năm, Lễ Vượt qua có thể không rơi vào ngày thứ Sáu, vì thế lễ mừng của đại bộ phận Giáo hội Cơ Đốc rất ít khi trùng khớp với lễ mừng của người Do Thái.

Năm 325 SCN, Hoàng đế La Mã Constantine I đã tổ chức hội nghị đầu tiên xác định Lễ Phục sinh là vào ngày Chủ Nhật, và bởi vì Chủ Nhật được Giáo hội coi là ngày nghỉ ngơi, nên Lễ Phục sinh cũng mang đặc trưng ngày trăng tròn sau Xuân phân của “Lễ Vượt qua”. Cứ sau ngày 21 tháng 3 hàng năm (ngày Xuân phân), thì lại xuất hiện một ngày Chủ Nhật đầu tiên sau trăng tròn được lấy làm Lễ Phục sinh.

Từ xưa tới nay, phương pháp tính ngày Lễ Phục sinh đều rất phức tạp; chữ La-tinh Computus là chuyên chỉ phương pháp tính Lễ Phục sinh. Thế nhưng Giáo hội La Mã và Giáo hội Chính thống giáo Đông phương lại có cách tính hơi khác nhau, khiến Lễ Phục sinh Tây phương có thể xuất hiện tại các ngày khác nhau.

Năm 1997, Hiệp hội Giáo hội Phổ thế Quốc tế đã tổ chức hội nghị tại Syria và kiến nghị cải cách phương thức tính Lễ Phục sinh, đồng thời đề nghị thống nhất Lễ Phục sinh tại hai Giáo hội Đông, Tây; thế nhưng tới nay, tuyệt đại đa số các quốc gia vẫn không tuân theo. Lai lịch Lễ Phục sinh và điển cố tôn giáo về sự phục sinh của Chúa Jesus là gắn kết chặt chẽ với nhau.

Lễ Phục sinh nguyên là ngày hội mừng Xuân thời cổ đại

Theo Wikipedia, chữ “Easter” trong tiếng Anh và tiếng Đức nguyên là chỉ “hội Xuân” của dị giáo cổ đại, tức ngày hội mừng Xuân trong thời gian Xuân phân. Bởi vì sau Xuân phân, đêm bắt đầu ngắn đi, quang minh đã chiến thắng hắc ám; sau khi trăng tròn, ban ngày đến tràn ngập ánh sáng khiến người ta liên tưởng đêm đen đã bị ánh mặt trời xua tan.

Ngày lễ này bắt nguồn từ nữ thần Ái tình, Sinh dục và Chiến tranh Ishtar của Babylon cổ đại, sau đó Ishtar trở thành nữ thần Bình minh và mùa Xuân Eastre của Tây Âu. Chứng cứ thứ nhất là hai cái tên này đọc rất giống nhau; chứng cứ thứ hai là hàm nghĩa của Eastre là phương Đông (East), bởi vì mặt trời mọc lên ở phương Đông.

Theo cuốn «Hai Babylon», chữ “Easter” là âm dịch từ “Istres” của người Chaldea (thuộc vùng Lưỡng Hà), và không có quan hệ với Cơ Đốc giáo. Nghe nói đây chính là “Ashtart”, tức nữ thần Sinh dục và Chiến tranh của người Babylon cổ đại.


Trứng Phục sinh

Những vật phẩm có liên quan với Lễ Phục sinh là thỏ Phục sinh và trứng Phục sinh. Theo truyền thuyết, trứng Phục sinh chính là trứng thỏ, thế nhưng trên thực tế, thỏ không đẻ trứng; do đó, trứng Phục sinh đều là trứng gà, và có người thích vẽ hình mặt quỷ hoặc hoa văn lên trứng. Những phong tục dân gian này cũng không bắt nguồn từ Cơ Đốc giáo.

TẠI SAO LỄ PHỤC SINH KHÔNG VÀO MỘT NGÀY NHẤT ÐỊNH TRONG NĂM?

Từ thế kỷ thứ 2 trở đi đã có những cuộc tranh luận gay gắt nhằm xác định đúng ngày Chúa sống lại. Nhưng rút cuộc cũng không đi đến kết luận thống nhất.

Nhưng từ thế kỷ thứ 8, tín hữu có thói quen xác định ngày lễ Phục sinh dựa vào ngày Xuân phân (21/3) và tuần trăng. Cách tính như sau: Lấy ngày 21/3 làm khởi điểm, lễ Phục sinh sẽ là ngày Chúa Nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn kế đó. Như thế, năm nào ngày trăng tròn vào đúng ngày thứ Bẩy 21/3 thì năm đó lễ Phucï sinh sẽ đến sớm nhất so với các năm khác, tức là đến vào ngày Chúa Nhật 22 tháng 3. Nhưng nếu ngày trăng tròn rơi vào ngày 20 tháng 3 thì lại không được kể, mà phải đợi đến ngày trăng tròn kế tiếp, tức là ngày 18 tháng 4 (29 ngày sau). Nhưng nếu ngày 18/4 lại rơi vào ngày Chúa Nhật thì lễ Phục sinh năm đó sẽ đến trễ nhất so với các năm khác, tức sẽ là ngày 25/4.

Mỗi năm, lễ phục sinh sẽ rơi vào một ngày nào đó không cố định trong khoảng từ tháng 3 đến tháng 5. Năm nay, nếu như ở Tây phương, lễ phục sinh diễn ra vào ngày 31.3 thì ở phương Đông sẽ là ngày 1.5.

Theo đó, mỗi năm lễ Phục sinh sẽ nhằm vào một ngày nào đó trong khoảng từ 22/3 đến 25/4. Cách tính này đã được Công đồng Nicea vào năm 325 chính thức chấp nhận.

Phong tục và lễ nghi

Một tuần lễ trước lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Thánh, tính từ ngày Chúa nhật Lễ Lá (hay Chúa nhật Thương Khó) cho đến hết ngày Thứ bảy Tuần Thánh (hay Canh thức Vượt Qua). Trong tuần này, các giáo hội Kitô giáo tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô, cử hành những mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng ở trần gian. Đối với Kitô hữu, mọi cử hành phụng vụ trong tuần này đều nói lên thái độ đau buồn, nhưng với tâm tình biết ơn vì Chúa đã thương trở nên con người để chịu đau khổ và chịu chết cho nhân loại tội lỗi.

Tại nhiều quốc gia Tây Phương, Lễ Phục Sinh bao gồm chủ nhật và thứ hai là ngày nghỉ lễ chính thức. Tại châu Âu, như tại Đức, thêm ngày thứ Sáu Tuần Thánh cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, vào ngày này, những nơi vui chơi, rạp hát, tiệm buôn đều đóng cửa để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.

Theo một phong tục cổ từ những người Ai Cập, Ba Tư (Perse) vào ngày Xuân phân (21/03), bắt đầu một năm mới, bạn bè thường trao đổi cho nhau các quả trứng có tô điểm màu sắc, vì coi đó như là điều tốt lành, vì từ trứng xuất hiện lên sự sống.


Biểu tượng thần thánh Thỏ Phục sinh

Thỏ phục sinh Thỏ là biểu tượng của sự đẻ sai, màu mỡ phồn thịnh, vì thế chú thỏ béo thường được sử dụng như linh vật của ngày lễ quan trọng này.Các chuyện thần thoại hay trong dân gian đều có chuyện vui giúp đời như con thỏ là con vật hiền lành không làm hại sinh vật nào. Thỏ không có khả năng tấn công hoặc gây nguy hại cho các loài động vật khác, nhưng lại thường xuyên bị những con như sói, báo, chim ưng, cú... uy hiếp. Chính vì vậy, thỏ thường xuyên phải vểnh tai để chú ý xem bốn phía chung quanh có động tĩnh gì không, nhằm đề phòng bất trắc. Trong hoàn cảnh khắp nơi là kẻ địch như vậy, nên đôi tai của thỏ đặc biệt to dài nghe rất thính để chạy trốn.

Nữ thần ái tình Hy Lạp "Liebesgưttin Aphrodite" cho đến Nữ Thổ Thần Nhật Nhĩ Nam "Erdgưttin Holda" đều yêu chuộng thỏ. Ở Byzanz Tây Ban Nha các nhà biểu tượng học xem biểu tượng con thỏ là một Thiên sứ... Thỏ phục sinh xuất hiện từ năm 1678 do một giáo sư y khoa Von Georg Franck ở Franckenau dạy đại học Heidelberg công nhận thỏ là biểu tượng của sự sinh nở phong phú.

Nguồn Internet



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Phục Sinh bắt nguồn từ đâu?

Điều gì ở sao nữ hấp dẫn cánh đàn ông???

Mỗi người phụ nữ có một nét hấp dẫn riêng, người thì trong sáng, người thì quyến rũ, người lại đầy tự tin, cá tính. Điều gì ở sao nữ khiến cho phái mạnh chết
Điều gì ở sao nữ hấp dẫn cánh đàn ông???

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  mê chết mệt?


Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
Dieu gi o sao nu hap dan canh dan ong hinh anh goc
 
► Xem thêm: Tính cách 12 chòm sao và trắc nghiệm vui những điều liên quan đến bạn

Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điều gì ở sao nữ hấp dẫn cánh đàn ông???

Cách chọn nơi đặt hũ gạo và tủ lạnh theo thuật phong thủy

Trong bếp có hai vật dụng chính là hũ gạo và tủ lạnh, cần bài trí như thế nào để tránh được những điều không tốt do những vật dụng này gây ra?
Cách chọn nơi đặt hũ gạo và tủ lạnh theo thuật phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hũ gạo:

Lương thực chính của người phương Đông là gạo, đặc biệt là người phía Nam, với họ bữa ăn không thể thiếu gạo để thổi cơm, vì vậy nhà nào cũng có hũ gạo để đựng gạo, hũ gạo là đồ dùng không thể thiếu trong nhà bếp của mỗi gia đình.

Là vật dụng quan trọng như vậy, cuối cùng nó sẽ được đặt chỗ nào trong bếp? Đặt hũ đựng gạo ở phương vị “thổ” đương vượng là có lý, vì rằng:

(1) Gạo của thóc lúa là thứ được cấy trồng từ đất.

(2) Người xưa cất giữ lúa gạo trong hang động dưới đất,

Nói tóm lại hũ gạo nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của bếp và để sát mặt đất (tất nhiên phải chú ý đến chống ẩm) không phù hợp đặt hướng Đông và để cao.

Ngoài ra theo tập quán truyền thống của phương Đông là cất giữ thóc gạo ở chỗ kín vì vậy hũ gạo nên đặt chỗ kín đáo, nên đặt nó ở trong chum chôn dưới đất.


Tủ lạnh

Tủ lạnh cũng như hũ gạo là những công cụ không thể thiếu được trong nhà bếp mỗi gia đình, nay xin nói về những điều cấm kỵ khi đặt tủ lạnh.

Tủ lạnh dùng để cất giữ đồ ăn thức uống hàng ngày cho mỗi gia đình, ngày nay ở thành phố tủ lạnh rất phổ biến vì vậy mọi người đều muốn biết tủ lạnh nên để vị trí nào trong nhà bếp là thích hợp?

Về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, đến nay vẫn chưa có ý kiến chung. Có 1 số người cho rằng tủ lạnh nên đặt tại hướng dữ, vì rằng tủ lạnh đã lạnh lại còn nặng, đặt nó ở hướng dữ là để chấn áp các sao dữ. Tuy nhiên, có 1 số người lại có ý kiến ngược lại, rằng tủ lạnh nên đặt ở hướng lành!

Ý kiến thứ 2 được xem là hợp lý:

(1) Tủ lạnh là chỗ bảo quản thức ăn đồ uống cho cả nhà nếu đặt nó ở hướng dữ là không thích hợp.

(2) Tủ lạnh là may móc nó vận hành liên tục cả 24h trong ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ, kích động nó đi gây rối vì thế đặt tủ lạnh ở hướng dữ không thích hợp. trong phong thủy học có nói rằng: “Phương vị dữ phù hợp với yên tĩnh chứ không phù hợp với chấn động” cũng chính là nguyên nhân giải thích ở trên.

 
Nguồn: Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn nơi đặt hũ gạo và tủ lạnh theo thuật phong thủy

Họa từ miệng mà ra, 3 con giáp rất dễ vướng họa thị phi

Những chú Rồng có cách nói năng không kiêng nể bất cứ ai, dễ làm tổn thương tinh thần người khác. Chính vì thế, đây cũng là con giáp dễ vướng họa thị phi.
Họa từ miệng mà ra, 3 con giáp rất dễ vướng họa thị phi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chỉ cần một phút bốc đồng hay không kiểm soát được cơn giận dữ, những con giáp dưới đây sẽ tự rước họa thị phi vào mình khi nói ra những điều khó nghe.

  Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật? 5 con giáp có sự nghiệp thành công rực rỡ nửa cuối năm 2016 Bí kíp bỏ túi để 12 con giáp đỗ đầu mọi kỳ thi
1. Tuổi Sửu
 
Hoa tu mieng ma ra, 3 con giap rat de vuong hoa thi phi hinh anh
 
Thường ngày, người tuổi Sửu khá điềm tĩnh, ôn hòa, không mấy khi thấy họ nổi đóa hay tức giận vô cớ. Nhưng một khi ai đó động chạm đến lợi ích cá nhân hoặc vi phạm nguyên tắc sống nào đó, họ sẽ nổi cơn thịnh nộ, trông cũng dữ dằn và đáng sợ như thường.   Chính lúc không giữ được bình tĩnh, cơn giận át mất lý trí, con giáp này sẽ nói ra những điều không nên nói, thậm chí quá đáng hoặc có tính xúc phạm người khác. Họa từ miệng mà ra, khó tránh khẩu thiệt thị phi, tự mình hạ thấp uy tín bản thân.    3 con giáp sinh ra đã mang mệnh phú quý hơn người Ngưỡng mộ với cuộc sống hôn nhân hạnh phúc của 3 cặp con giáp Ngó qua những con giáp vượng đào hoa vận nhất
2. Tuổi Thìn
 
Hoa tu mieng ma ra, 3 con giap rat de vuong hoa thi phi hinh anh 2
 
Kiêu căng, ngạo mạn dường như đã trở thành bản chất của người tuổi Thìn. Với họ, việc được cầm tinh loài cao quý là Rồng thì chẳng còn diễm phúc nào bằng. Điều đó rất đáng tự hào, thậm chí khiến họ tự kiêu ở khắp mọi nơi.   Đa phần người tuổi Thìn tài năng xuất chúng, làm việc có đầu có cuối, hiếm khi bỏ dở giữa chừng. Vì thế, trong tập thể họ cũng có chỗ đứng nhất định. Tuy nhiên, đôi khi vì tự hào quá đáng về bản thân mà biến thành tự kiêu, khiến mọi người xung quanh cảm thấy khó chịu.   Thêm nữa, những chú Rồng có cách nói năng không kiêng nể bất cứ ai, dễ làm tổn thương tinh thần người khác. Chính vì thế, đây cũng là con giáp dễ vướng họa thị phi, bị kẻ tiểu nhân quấy phá không ít.   3. Tuổi Tỵ  
Hoa tu mieng ma ra, 3 con giap rat de vuong hoa thi phi hinh anh 3
 
Người tuổi Tỵ thông minh, lanh lợi, khả năng phán đoán vấn đề chính xác, nên đa phần thuộc tuýp con người của công việc. Họ làm việc cật lực, không ngại khó ngại khổ để mong ngày thành danh, nổi tiếng khắp thiên hạ.    Nhưng nhược điểm của con giáp này chính là quá nhạy cảm. Vì thông minh, hiểu biết rộng rãi nhưng lại nhạy cảm, sợ bị thất bại nên khi đứng trước một tình huống cấp bách, họ lại do dự, lưỡng lự. Đôi khi tự họ để tuột khỏi tay cơ hội hiếm có, rồi lại tự trách bản thân, thấy mình kém cỏi.   Những lúc tinh thần xuống dốc như vậy, nếu có ai lỡ lời hoặc động chạm tới họ thì chẳng khác nào “dây vào tổ kiến lửa”. Không những người ấy sẽ nhận được hàng tá câu nói khích bác, mỉa mai khó chịu mà cả quãng thời gian dài sau đó, người tuổi Tỵ chẳng bao giờ đoái hoài đến.   Họa từ miệng mà ra. Bởi thế, những ai nói năng khiêm nhường, biết kiềm chế cảm xúc bản thân mới là người thành công, chẳng lo sợ bị vướng thị phi rắc rối.   Ngọc Điệp
Những con giáp vận đỏ như son sau tiết Tiểu Mãn
Trong năm 2016, tiết Tiểu Mãn bắt đầu vào ngày 20/5 (14 âm lịch). Thời điểm này thường có lượng mưa lớn, cây cối phát triển xanh tươi. Theo đó, vận khí của

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Họa từ miệng mà ra, 3 con giáp rất dễ vướng họa thị phi

Những con giáp thiếu cảm giác an toàn là những ai

Nhìn người tuổi Mùi bề ngoài vui vẻ hát ca thế thôi, nhưng thực chất con giáp thiếu cảm giác an toàn này sống bi quan, hay lo lắng.
Những con giáp thiếu cảm giác an toàn là những ai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nhìn người tuổi Mùi bề ngoài vui vẻ hát ca thế thôi, nhưng thực chất con giáp này có lối suy nghĩ khá bi quan, lúc nào cũng tìm kiếm cảm giác an toàn trong cuộc sống dù không bị bất cứ điều hung hiểm nào ảnh hưởng.

 
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem

Con giáp đào hoa nhất tháng 7, sợ gì kiếp FA đeo bám Người tuổi nào dễ bỏ lỡ hạnh phúc của chính mình? 3 con giáp tính tình thay đổi như thời tiết
1. Tuổi Tỵ   Dù sở hữu trí tuệ minh mẫn, năng lực ghi nhớ thế giới ngoại quan rất tốt, tưởng chừng như người tuổi Tỵ luôn cảm thấy an toàn, tự tin trong cuộc sống. Ấy vậy mà không phải thế đâu nhé.   Vì họ nhớ quá lâu, quá dai, không bỏ sót bất cứ chuyện vui chuyện buồn nào. Vì cuộc sống đa sắc màu, vui thì nhanh quên đấy mà buồn cứ mãi bám theo.    Hơn nữa, người tuổi Tỵ lại có cái nhìn khá phiến diện trong tình yêu. Một khi đã chạm phải vết thương lòng, họ sống co lại trong cái vỏ ốc, cái thế giới của riêng mình. Bởi thế, lúc nào con giáp này cũng có cảm giác thiếu an toàn, khép mình lại với cuộc sống xung quanh.  
Nhung con giap thieu cam giac an toan la nhung ai hinh anh
 
2. Tuổi Mùi   Nhìn người tuổi Mùi bề ngoài vui vẻ hát ca thế thôi, nhưng thực chất con giáp này có lối suy nghĩ khá bi quan, lúc nào cũng tìm kiếm cảm giác an toàn trong cuộc sống dù không bị bất cứ điều hung hiểm nào ảnh hưởng.   Cẩn thận, tỉ mỉ là đức tính tốt, nhưng quá cẩn trọng tới mức làm gì cũng phải tự tay làm mới yên tâm như tuổi Mùi, e rằng họ chỉ rước thêm áp lực và chuyện muộn phiền vào mình mà thôi. Cuộc sống luôn chuyển động, phải quẳng gánh lo đi mà vui sống thì đời sống tinh thần mới thực sự an yên.   Khi chưa thể buông bỏ, người tuổi Mùi còn nhiều nỗi lo lắng, muộn phiền, dường như liên tục kiếm tìm cảm giác an toàn đâu đó ngoài kia, sao mà xa vời, mông lung, khó nắm bắt đến thế.

Điểm mặt những con giáp dễ bị coi là tiểu nhân Thế giới của những con giáp không thể sống thiếu điện thoại Nếu buồn bã, hãy gặp những con giáp này là vui ngay
 
Nhung con giap thieu cam giac an toan la nhung ai hinh anh 2
 
3. Tuổi Hợi   Bản tính người tuổi Hợi là lương thiện, thơ ngây và hết sức lãng mạn. Nhưng thực tại phũ phàng lại dễ khiến con giáp này gục ngã. Sau mỗi lần vấp ngã như thế, thay vì dũng cảm đối mặt, họ lại tỏ ra sợ hãi, không muốn khơi lại nỗi đau tinh thần.    Vì thế, thái độ nhìn cuộc sống, nhìn người của người tuổi Hợi ngày càng bi quan. Họ có khuynh hướng sống khép mình hơn, ngại mở lòng, ngại tiếp xúc một cách chân thành với mọi người xung quanh.    Thế mới nói đây cũng là một trong những con giáp thiếu cảm giác an toàn. Vì thiếu nên họ e sợ, không tự tin thể hiện mình trước đám đông. Cứ mãi như vậy, tinh thần cầu tiến của họ sẽ giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng rất xấu tới tiền đồ phát triển sự nghiệp sau này.   Ngọc Diệp  Những con giáp đừng hỏi “Tại sao yêu nhau không đến được với nhau”
Yêu nhau thì dễ nhưng có lấy được nhau hay không lại là điều không hề đơn giản. Những con giáp dưới đây cũng không ngoại lệ.
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp thiếu cảm giác an toàn là những ai

Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Người tuổi Ngọ tính cách tự tin sôi nổi. Tình yêu hôn nhân của họ ra sao? Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào, nên kết đôi với con giáp nào để hạnh phúc mĩ mãn?
Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Người tuổi Ngọ rất tự tin, thích thể hiện khả năng của bản thân. Họ đặc biệt ghét sự gò bó. Với người tuổi Ngọ, tự do chính là tín ngưỡng của họ.
 
Những người này luôn muốn trở thành người nổi bật giữa đám đông, tuy nhiên đó cũng là lý do khiến họ đôi khi trở nên vô tâm, thờ ơ với cảm nhận của người khác. Người sinh năm Ngựa ưa tư duy, đứng trước 1 sự việc, họ luôn bình tĩnh suy xét và có thể đưa ra phán đoán chuẩn xác nhất.
 
Vậy tình yêu của người tuổi Ngọ như thế nào? Đời sống hôn nhân của họ ra sao? Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé.
 

Theo tử vi, tuổi Ngọ và tuổi Mùi Lục hợp, do đó, người bạn đời lý tưởng nhất của người tuổi Ngọ chính là những người sinh năm Mùi. Ngoài ra, tuổi Mùi với tuổi Dần, tuổi Tuất theo tử vi là Tam Hợp, kết hôn với những con giáp này, người tuổi Mùi cũng sẽ có được hôn nhân hạnh phúc.

  Tuổi Ngọ và tuổi Tý tương xung, đây là 1 trong những cặp đôi đối chọi nhất trong 12 con gi. Tốt nhất không nên kết hôn với người tuổi này, bởi 2 con giáp trên đều thuộc hành dương, ngũ hành Thủy và Hỏa. Nếu muốn, cần phải tiến hành hóa giải xung đột giữa Tý và Ngọ.
 
Tuổi Ngọ và tuổi Sửu tương hại, 2 người cùng tuổi Ngọ sẽ tương hình, để tránh đổ vỡ hôn nhân, đừng nên chọn bạn đời là 2 con giáp này.
Tuoi Ngo hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh 2
 

 

Nữ tuổi Ngọ hợp nam tuổi nào?
 

Nữ tuổi Ngọ + Nam tuổi Mùi = Lục hợp
 

Đây là 1 cặp đôi trời sinh. Hai người này đều có mong muốn gây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc ấm no, tính cách tuy có phần trái ngược nhưng lại có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Đời sống hôn nhân của 2 con giáp này vô cùng hòa hợp, giàu sang phú quý.
 
Người xưa có câu, lấy vợ tuổi Ngọ cả họ được nhờ. Đàn ông tuổi Mùi tính cách hướng nội, còn cô gái tuổi Ngọ lại sôi nổi, nhiệt tình. Tuy vậy, sự chu đáo ấm áp của người chồng luôn khiến người vợ có cảm giác của 1 gia đình, dù đi đâu cũng luôn nhớ về căn nhà nhỏ. Còn sự vui tươi, lạc quan của người vợ là ngọn lửa thắp sáng trái tim người chồng, cho người chồng thêm động lực phấn đấu vì mục tiêu chung. Hai người tâm ý tương thông, cùng chung tay vun đắp vì hạnh phúc bền vững lâu dài.
 

Nữ tuổi Ngọ + Nam tuổi Dần = Tam hợp
 

Hai con giáp này rất hợp nhau về tính cách, họ đều là người hướng ngoại, vui vẻ và phóng khoáng. Tham vọng xây dựng sự nghiệp bản thân vô cùng lớn nhưng không vì thế mà xao nhãng chuyện gia đình. Mỗi người đều thấy hạnh phúc vì được thỏa mãn mọi nhu cầu về tình cảm mà không mất đi sự độc lập, tự do và cá tính của mình. Theo tử vi 12 con giáp, đây là cặp đôi gắn bó khăng khít, hạnh phúc dài lâu.
 
Có chung một mục tiêu theo đuổi, họ sẵn sàng bàn bạc và phân công công việc, trách nhiệm của từng người sao cho gia đình trong ấm ngoài êm. Nếu đến với nhau, họ sẽ có thể phát huy sở trường của mình một cách tốt nhất, lại có người luôn ở bên thấu hiểu và ủng hộ, cuộc sống ngày càng thăng hoa hạnh phúc.
 

Nữ tuổi Ngọ + Nam tuổi Tuất = Tam hợp
 

Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào? Cô gái tuổi Ngọ nên chọn bạn đời là người tuổi Tuất, sẽ có được cuộc sống ổn định và hài hòa. Những cô nàng sinh năm này bản tính lạc quan yêu đời, rất được các chàng trai tuổi Tuất yêu mến và tin tưởng, cả hai thấu hiểu và thông cảm cho nhau, giúp đỡ, tương trợ cho nhau vượt qua những khó khăn, trở ngại đường đời.
 
Cô gái tuổi Ngọ thông minh, sắc sảo, chàng trai tuổi Tuất chân thành, lương thiện, đây là cặp đôi hạnh phúc bách niên giai lão. Sự phóng khoáng, sôi nổi của cả hai sẽ tạo nên cuộc sống hôn nhân tràn ngập niềm vui và sức sống.

 
Tuoi Ngo hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh 2
 

Nam tuổi Ngọ hợp nữ tuổi nào?
 

Nam tuổi Ngọ + Nữ tuổi Mùi = Lục hợp
 

Người tuổi Ngọ yêu mãnh liệt mà hạ nhiệt cũng nhanh. Nhưng gặp được cô gái tuổi Mùi, sự nhẹ nhàng chín chắn của người này sẽ là sợi lạt mềm buộc chặt, khiến chàng trai tuổi Ngọ không thể rời xa. Hai người này có rất nhiều điểm chung, có thể phối hợp ăn ý với nhau trong mọi chuyện. Sự hoạt bát, năng nổ của họ nếu kết hợp với nhau sẽ tạo nên sự bùng nổ của thành công, giúp cả 2 cùng tiến nhanh về mục tiêu chung đã chọn.
 
Nam tuổi Ngọ và nữ tuổi Mùi xứng danh là cặp đôi hoàn hảo. Tính cách tương đồng, tâm ý tương thông, họ ở bên nhau tạo nên 1 bức tranh gia đình hạnh phúc mỹ mãn, khiến bao người ngưỡng mộ.
 

Nam tuổi Ngọ + Nữ tuổi Tuất = Tam hợp
 

Bạn có biết chinh phục người tuổi Ngọ? Với người tuổi Ngọ, bạn cần cố gắng để phối hợp thật nhịp nhàng, ăn ý với họ trong mọi việc. Cô gái tuổi Tuất thông minh lanh lợi, sắc sảo hơn người sẽ là hậu phương vững chắc, hỗ trợ người chồng trên con đường phát triển sự nghiệp. Đây là người con gái mà đàn ông tuổi Ngọ không nên bỏ lỡ.
 
Tính cách hai người bổ trợ cho nhau, họ không ngần ngại chỉ cho người kia điểm còn thiếu sót, đồng thời không ngừng động viên, hỗ trợ cho đối phương hoàn thiện bản thân. Sự tận tâm, chu đáo của 2 con giáp này khiến cuộc sống gia đình hạnh phúc đủ đầy, bền vững lâu dài.

 

Nam tuổi Ngọ + Nữ tuổi Dần = Tam hợp
 

Hai con giáp này nếu kết đôi sẽ hạnh phúc dài lâu, bách niên giai lão, phúc lộc mãn đường. Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào? Cô gái tuổi Dần mạnh mẽ, sôi nổi, là người bạn đời phù hợp với đàn ông tuổi Ngọ. Sự phóng khoáng lạc quan, bừng bừng sức sống khiến tình yêu của họ cũng rực rỡ muôn màu.   Hai con giáp này kết hợp với nhau sẽ hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Chẳng những gia đình hạnh phúc mà sự nghiệp cũng phát triển, họ thỏa mãn vì được làm điều mình thích, cũng luôn hướng về gia đình vì cảm giác ấm áp không gì sánh được. Dù đi đâu làm gì, trái tim của cả hai vẫn luôn hướng về nhau.    Hy Vũ 

Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Ngọ Người tuổi Ngọ nên hợp tác làm ăn với tuổi nào? Cô gái tuổi Ngọ có gì đặc sắc mà chàng nào cũng muốn lấy làm vợ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Ngọ hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Xem tướng dáng đi –

Dáng đi của bạn nói lên được cuộc sống của bạn vinh nhục sung sướng ra sao. Các bạn hãy cùng coi bói qua tướng đi với mình nhé: 1. Coi bói qua tướng đi hình chữ (V) hai đầu bàn chân bét ra, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc
Xem tướng dáng đi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng dáng đi –

Nhà đón sinh khí từ lối đi hợp phong thủy

Lối vào cửa chính được coi là con đường dẫn sinh khí. Vì thế nếu con đường này được bài trí hợp lý sẽ khiến ngôi nhà tràn đầy năng lượng sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, một cửa ngõ lưu thông khí tốt sẽ mang đến nhiều điều tốt lành cho ngôi nhà, và lối đi chính là cầu nối để đưa nguồn năng lượng tích cực vào trong nhà. Vì thế, trước hết hãy giữ gìn cổng, cửa nhà luôn sạch sẽ, nếu thường xuyên sơn mới và giữ gìn được màu sơn tươi sáng như lúc mới xây thì càng tốt.

Bố trí lối vào nhà hợp phong thủy
Bố trí lối vào nhà hợp phong thủy mang lại vận may, tài lộc. Ảnh minh họa

Hãy tích cực mở cửa, mở cổng mỗi ngày, thay vì đóng cảnh cửa im ỉm, vì điều đó sẽ làm cho ngôi nhà thêm lạnh lẽo, u ám, đồng thời kìm hãm sự thăng tiến, phát triển tiền tài sự nghiệp của bạn. Một ngôi nhà sáng sủa, thông thoáng không chỉ đem lại sức khỏe cho các thành viên trong gia đình mà còn mang đến vận may về tiền tài.

Cho dù ngôi nhà của bạn có lối vào rộng rãi hay chỉ là những bậc tam cấp từ đường, cổng, hoặc từ sân vào nhà… bạn cũng cần ghi nhớ những nguyên tắc sau:

- Lối vào nhà không nên là một đường thẳng để tránh tà khí, thậm chí sinh khí dồn vào nhà quá mạnh cũng đều không tốt. Lối vào nên có độ uốn lượn nhẹ nhàng. Với những ngôi nhà phố không có không gian để tạo lối đi uốn lượn thì bạn hãy đặt một vài hòn đá hai bên theo hình zích zắc… hoặc đặt một vài chậu cây để giảm bớt tốc độ của dòng khí.

- Nếu được, hãy làm lối đi rộng rãi, sáng sủa và bằng phẳng để hấp dẫn sinh khí. Nếu nhà chật không có lối đi thì bạn hãy làm bậc tam cấp không quá dốc. Với những lối vào quá hẹp thì không nên đặt chậu hoa, cây cảnh hai bên.

- Nếu trồng cây cối, chậu hoa...ở lối vào nhà nên cắt tỉa lá thường xuyên, cây cối um tùm sẽ là vật cản sinh khí vào nhà. Nếu đặt một số đá trang trí thì không đặtnhững tảng đá quá dày…

- Lối vào nhà phải có bề ngang bằng nhau, nếu rộng trước cửa chính mà hẹp phía cổng thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển nghề nghiệp và giới hạn về tài chính.

- Lối vào nhà là những bậc cấp thì tốt hơn là trong cao, ngoài thấp. Trong trường hợp nhà thấp hơn mặt đường người chủ sẽ vất vả, khó vươn lên như ý muốn… cần phải đặt ngọn đèn phía sau nhà để “nâng” ngôi nhà lên cao. Ngược lại nhà quá cao so với đường, lối lên quá dốc, thì phải trồng những chậu hoa hai bên để giữ sinh khí lại, hoặc đặt vài ngọn đèn phía ngoài đường để phản hồi sinh khí.

(Theo Báo Xây dựng)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà đón sinh khí từ lối đi hợp phong thủy

Sự thật ít biết về bốn người vợ yêu của Lưu Bị

Cả đời Lưu Bị gặp và kết duyên với rất nhiều phụ nữ, nhưng duyên vợ chồng rất trắc trở, nhiều người ra đi từ khi còn quá trẻ. Theo ghi chép trong sử sách, thê thất của ông gồm có Mi phu nhân, Tôn phu nhân, Ngô phu nhân, Cam phu nhân. Người hi sinh quên mình, người xuất thân cao quý dòng dõi quý tộc nhưng có người lại là quả phụ... Vậy trong số đó, ai mới là hiền thê đích thực của ông?
Sự thật ít biết về bốn người vợ yêu của Lưu Bị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong các phu nhân của Lưu Bị, My phu nhân là người đáng thương nhất. Kiến An nguyên niên, Lã Bố đột kích Hạ Phi, toàn bộ gia quyến và tài sản của Lưu Bị đều thuộc về Lã Bố, khoảng thời gian đó Lưu Bị vô cùng chán chường, sống vất vưởng ở Hải Tây, Quảng Lăng (nay là Giang Tô). Tại đây có phú ông tên My Trúc đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ Lưu Bị. Ông ta đã quyên góp tiền bạc giúp đỡ Lưu Bị nuôi quân, thậm chí còn gả em gái cho Lưu Bị. Trong lúc khốn cùng, lại nhận được sự trợ giúp to lớn, Lưu Bị đã lấy em gái My Trúc và lập làm chính thất.

Năm 208, Tào Tháo mang đại quân đánh chiếm Kinh Châu. Lưu Bị thua trận bỏ chạy. Em họ Tào Tháo là Tào Thuần dẫn quân truy kích đến Đương Dương, Tràng Bản, bắt được gia quyến Lưu Bị, trong đó có My phu nhân và Cam phu nhân.

Triệu Tử Long đơn thương độc mã đánh trận Tràng Bản cứu được A Đẩu. My phu nhân đã nhảy xuống giếng tự vẫn để khỏi vướng chân Triệu Tử Long. Tuy đây chỉ là tình tiết trong tiểu thuyết “Tam quốc chí”, mà không tìm thấy ghi chép trong lịch sử, nhưng điều này có thể chứng minh được tấm lòng chung thành và sự hi sinh cao cả không chút tính toán của người phụ nữ này dành cho Lưu Bị.

Cam phu nhân không phải chính thất mà còn đứng dưới My phu nhân. Cam phu nhân được mô tả là người có nhan sắc như ngọc, tính tình hiếu đức, hiểu đạo nghĩa. Bà lấy Lưu Bị và theo chồng vào sinh ra tử, bôn ba khắp nơi. Trong suốt 15 năm, luôn âm thầm thay Lưu Bị lo liệu việc nhà, tạo hậu phương vững chắc, giúp chồng xây đại nghiệp. Tuy không được nhắc đến nhiều, nhưng bà chính là vị hiền thê có công lớn nhất của Lưu Bị.

Chính Gia Cát Lượng từng dùng 8 chữ “Lữ hành tu nhân, thục thận kỳ thân” viết trong “Tấu Sơ” dành cho Cam phu nhân, tức làm việc gì cũng luôn giữ đúng lễ giáo, hợp quy định, luôn thận trọng và hiền thục. Chính vì thế, có thể lý giải được việc Triệu Tử Long đã liều mạng để cứu My phu nhân, Cam phu nhân và hậu chủ A Đẩu ở Đương Đương, Trường Bản, bởi vì một người hi sinh âm thầm không tính toán như My phu nhân và một Cam phu nhân đức hạnh thì có chết vài lần cũng đáng.

Năm 209, Cam phu nhân mắc bệnh qua đời. Tình cảm của Lưu Bị dành cho Cam phu nhân cũng rất thâm sâu. Chương Vũ năm thứ hai, tức năm 222 ông đã truy phong thụy hiệu cho bà là “ Hoàng Ân phu nhân”. Chữ "Ân" này để bày tỏ lòng tiếc thương và nỗi nhớ khôn nguôi về người vợ hiền đã cùng ông đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, nếm mật nằm gai mà chưa ngày nào được hưởng trái ngọt. Sau này khi con trai Lưu Thiện nối ngôi đã truy tôn cho mẹ là Chiêu Liệt hoàng hậu.
Sau khi Cam phu nhân qua đời, Lưu Bị lấy Tôn Thượng Hương em gái Tôn Quyền. Tôn phu nhân là người đa tài, hoạt bát, cương trực, mạnh mẽ như một nữ hán tử, mà không chút ủy mị, hiền dịu của một công chúa lá ngọc cành vàng.

Xung quanh Tôn phu nhân lúc nào cũng có hàng trăm thị tỳ được trang bị đầy đủ vũ khí theo hầu và bảo vệ. Bà đã biến khuê phòng thành chiến trường, còn mình đóng vai nữ tướng oai phong lẫm liệt. Sau 2 năm, quan hệ giữa nước Ngô và Thục căng thẳng, bà bỏ về nước Ngô, duyên vợ chồng từ đây đoạn tuyệt, trong sử sách cũng không thấy ghi chép gì nữa.

Tôn phu nhân bỏ đi, năm 214, Lưu Bị lấy một quả phụ, lúc này Ngô phu nhân đã 33 tuổi. Ngô phu nhân vốn là trẻ mồ côi, nhưng thầy bói nói bà có tướng đại phúc đại quý, sau này sẽ làm hoàng hậu. Chính vì thế Lưu Yên đã cưới cho con trai thứ ba của mình là Lưu Mạo. Sau này Lưu Mạo chết trẻ, Ngô phu nhân thành góa phụ. Quần thần khuyên Lưu Bị nên lấy Ngô thị vì vừa xinh đẹp lại nết na.

Kiến An năm thứ 24, Ngô phu nhân được lập là Hán Trung Vương vương hậu. Chương Vũ nguyên niên năm 221 được lập làm hoàng hậu, Kiến Hưng nguyên niên năm 223 được sắc phong là hoàng thái hậu. Đây cũng là vị hoàng hậu duy nhất được sắc phong khi còn sống.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự thật ít biết về bốn người vợ yêu của Lưu Bị

Xem khí sắc của các bộ vị đoán định vận mệnh

Mỗi bộ vị đại diện cho một năm tuổi, thông qua quan sát khí sắc trên các bộ vị ứng với tuổi có thể đoán định được vận mệnh của từng năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc đời con người, vận số qua các năm được gọi là lưu niên. Hàng trăm bộ vị trên mặt, trong đó mỗi bộ vị đại diện cho một năm. Lấy tuổi của con người làm căn cứ, thông qua quan sát khí sắc trên các bộ vị ứng với tuổi của người đó có thể đoán định được vận mệnh của từng năm.

bo-vi-khuon-mat

Muốn biết vận hạn, vận khí qua các năm, đầu tiên phải phân biệt rõ nam bên trái, nữ bên phải, tức là nam phải xem ở bên trái, nữ phải xem ở bên phải.

Từ 1 - 2 tuổi vận hành đến thiên luân, 3 - 4 tuổi vận hành đến Thiên hành, 5 - 7 tuổi vận hành đến Thiên quách, 8 - 9 tuổi vận hành đến Thiên luân, Thượng đình, 10-11 tuổi vận lành đến Nhân luân, 12 - 14 tuổi vận hành đến Địa luân, 15 tuổi vận hành đến Hỏa tinh, 16 tuổi vận hành đến Thiên trung, 17 tuổi vận hành đến Nhật giác, 18 tuổi vận hành đến Nguyệt giác,

19 tuổi vận hành đến Thiên đình, 20-21 tuổi vận hành đến Phù cốt, 22 tuổi vận hành đến Tư không.

23 - 24 tuổi vận hành đến Biên thành, 25 tuổi vận hành đến Trung chính, 26 tuổi vận hành đến Khâu lăng, 27 tuổi vận hành đến Chủng mộ, 28 tuổi vận hành đến Ấn đường.

29 - 30 tuổi vận hành đến Sơn lâm, 31-32 tuổi vận hành đến Lăng vân, 33 tuổi vận hành đến Phiền hà, 34 tuổi vận hành đến Thái hà, 35 tuổi vận hành đến Thái dương, 36 tuổi vận hành đến Thái âm, 37 tuổi vận hành đến Trung dương, 38 tuổi vận hành đến Trung âm, 39 tuổi vận hành đến Thiếu dương, 40 tuổi vận hành đến Thiếu âm.

41 tuổi vận hành đến Sơn căn, 42 tuổi vận hành đến Tinh xá, 43 tuổi vận hành đến Quang hy. 44 tuổi vận hành đến Niên thượng, 45 tuổi vận hành đến Thọ thượng, 46 - 47 tuổi vận hành đến 2 gò má, 48 tuổi vận hành đến Chuẩn đầu, 49 tuổi vận hành đến Lan đài, 50 tuổi vận hành đến Đình úy. 51 tuổi vận hành đến Nhân trung, 52 - 53 tuổi vận hành đến Tiên khố, 54 tuổi vận hành đến Thực thương, 55 tuổi vận hành đến Lộc thương,

56 - 57 tuổi vận hành đến Pháp lệnh, 58 - 59 tuổi vận hành đến Hổ nhĩ. 60 tuổi vận hành đến Thủy tinh, 61 tuổi vận hành đến Thừa tương. 62 - 63 tuổi vận hành đến Địa khố. 64 tuổi vận hành đến Bì trì, 65 tuổi vận hành đến Nga áp. 66 - 67 tuổi vận hành đến Kim lâu. 68 - 69 tuổi vận hành đến Quy lai,

70 tuổi vận hành đến Tụng công. 71 tuổi vận hành đến Địa các, 72 - 73 tuổi vận hành đến Nô bộc. 74 - 75 tuổi vận hành đến Tai cốt, 76 - 77 tuổi vận hành đến cung Tý. 78-79 tuổi vận hành đến cung Sửu, 80 - 81 tuổi vận hành đến cung Dần, 82 - 83 tuổi vận hành đến cung Mão, 84 - 85 tuổi vận hành đến cung Thìn,

86 - 87 tuổi vận hành đến cung Tỵ, 88 - 89 tuổi vận hành đến cung Ngọ, 90 - 91 tuổi  vận hành đến cung Mùi. 92 - 93 tuổi vận hành đến cung Thân. 94 - 95 tuổi vận hành đến cung Dậu, 96 - 97 tuổi vận hành đến cung Tuất, 98 - 99 tuổi vận hành đến cung Hợi. Sau khi qua 100 tuổi sẽ trở lại vòng quay ban đầu.

Nốt ruồi và đường vân trên mặt mà có khuyết hãm là điểm báo tai họa lớn. Điềm tốt xấu của vận khí và sự sáng tối của khí sắc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trên mặt xuất hiện khí sắc phá bại thì sinh mệnh người đó sẽ gặp nguy hiểm. Thần khí và sắc mặt có mối quan hệ tương khắc với nhau, như thế xương và thịt không gắn kết mà phân tán, người này chủ về cô quả cả đời. Nhưng nếu được vận hành đến bộ vị có khí sắc tốt, có thế thuận theo thời vận, khí sắc cũng rất tốt, Ngũ nhạc Tứ độc đều triều hướng về bộ vị trung ương, như thế người này như cưỡi mây bay, vượt xa vạn dặm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem khí sắc của các bộ vị đoán định vận mệnh
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd