Độ dài ngón út bật mí tính tình chủ nhân
![]() |
| A | B | C |
Mộc Trà (theo Rocket)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
![]() |
| A | B | C |
Mộc Trà (theo Rocket)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
![]() |
| Cắm hoa ngày Tết |
QUÝ MÙI DƯƠNG LIỄU MỘC
Trong tử vi Quý Mùi là dê vùng ngoại ô, cá tính thẳng thắn, ngoài cương trong nhu, linh hoạt nhanh nhẹn.
Dương liễu Mộc thướt tha dịu dàng ở sườn đê, mềm mại ở trong vườn, lá liễu mảnh mai, cành liễu buông rủ.
Mộc tự khố, sinh vượng thì đẹp, kỵ Canh Tuất Thoa xuyến Kim, Ất Mùi Sa trung Kim.

Quý Mùi Mộc là Chính ấn. Ngưòi bẩm thụ được nó có tài kinh bang tế thế, có phúc hưởng vinh hoa phú quý. Vào mùa hạ, dương liễu tốt tươi, ngưòi sinh vào mùa hạ chủ về phú quý. Nếu sinh không đúng mùa chủ về bần cùng, yểu thọ.
Ưa Bính Thìn, Đinh Ty Sa trung Thổ, gặp Cấn sơn thì nương tựa. Gặp Dần Mão, phương Đông đắc địa. Tân Sửu có sơn, cát lợi. Ưa nhất Kỷ Mão Thành đầu Thổ, không ưa Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ.
Thủy gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trưòng lưu Thủy, Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, đều cát lợi.
Mộc này tự có Hỏa, nếu lại gặp Hỏa khác e rằng thương hại đến tuổi thọ.
Ất Tỵ Phúc đăng Hỏa có gió, gió thổi gãy cành, chủ về hung tai.
Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, gió càng lớn, phạm phải chủ về yểu thọ.
Bính Dần, Đinh Mão Lư trung Hỏa, chủ về cát lợi.
Gặp Mậu Tý Tích lịch Hỏa cần thêm Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ, chủ về quý.
Không ưa Sửu xung.
Không ưa gặp Kim, duy Canh Tuâ’t, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim có thể thành công.
Gặp Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc chủ về phú quý.
Các trụ khác nếu như có Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc, người này ắt nghèo hèn. Nhưng nếu như sinh vào mùa xuân và mùa hạ không nghèo hèn mà gọi là Hoa hồng liễu lục cách.
Nếu như Mộc này sinh vào 3 tháng mùa xuân, mà thời trụ được 1 Kim Giá Tý, Tân Tỵ là cát lợi nhất, gọi là Dương liễu đà Kim cách.
Mộc tự khô, sinh vượng sẽ luận là quý cách.
Ưa nhất Bính Ngọ, Đinh Tỵ Sa trung Thổ làm nền tảng, nếu như lại có Mâu Tý Tích lịch Hỏa chủ về sang quý.
Mộc này tự thân mang Hỏa, nếu như lại gặp Hỏa khác chủ về yểu thọ.
Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, mang gió, gió thổi gãy cành, chủ về điềm hung.
Gặp Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, chủ về sang quý.
Thủy gặp Tỉnh tuyền Thủy, Trường lưu Thủy, Đại khê Thủy, Giản hạ Thủy đều chủ về cát lợi, sẽ có thành tựu, có thể nương nhờ cả đời.
Nếu như gặp Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc, lại gặp Kim khắc, chủ về nghèo hèn.
Nếu như sinh vào mùa xuân hoặc mùa hạ không luận là nghèo hèn mà goi là Hoa hồng liễu lục cách.
Nêu như Mộc này sinh vào 3 tháng mùa xuân, thòi trụ được 1 Kim, ví dụ như Tân Hợi Thoa xuyến Kim, Giáp Tý Hải trung Kim, Quý Mão Kim bạc Kim, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, gọi là Dương liễu đà Kim cách.
Quý lộc tại Tý, Quý quý tại Tỵ, Địa chi của các trụ khác gặp nó đều cát lợi.
Mùi mã tại Tỵ, Địa chi của các trụ khác có Tỵ, phạm Mã thần, cuối đời phá bại.
Gặp năm Mùi, năm Sửu, trong nhà không yên. Nếu bản thân không bị thương hại cũng chủ về người nhà muôn sự nguy khó.
Địá chi của các trụ khác không ưa lại có Sửu, Tuất, phạm phải chủ về bảo thủ cô chấp, tự đề cao bản thân thái quá, mệnh nữ khắc chồng.
Bạn đòi không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm ngưòi sinh năm
Bính, Đinh.
Địa chi của các trụ khác gặp Mùi, vợ chồng duyên bạc. Nếu như tọa thòi chi, nên theo tôn giáo. Địa chi của các trụ khác gặp Sửu, con cái duyên bạc.
Nhật chi gặp Mùi, khắc chết vợ hoặc chồng, không chỉ khắc 2 ngưòi.
Nêu như thấy ngũ trụ của đối phương là sinh năm nào đó, nhật chi lại có Mùi nên cự hôn hoặc nhanh chóng tìm phương pháp hóa giải hợp lý, cho dù “Mùi” không tọa ở nhật chi cũng luận tương tự.
Hướng kê giường tuổi Giáp Dần 1974
– Năm sinh dương lịch: 1974
– Năm sinh âm lịch: Giáp Dần
– Quẻ mệnh: Cấn Thổ
– Ngũ hành: Đại Khe Thủy (Nước khe lớn)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);
– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);

Phòng ngủ:
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Thủy, Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Trắng, Xám, đây là màu đại diện cho hành Kim, rất tốt cho người hành Thủy.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Theo truyền miệng dân gian, cho đến nay trải qua các thời đại con người vẫn luôn tin vào sự may mắn về tài lộc và công danh do linh vật phong thủy mang lại. Và trong các linh vật phong thủy ngày nay, Tỳ Hưu là một linh vật được nhiều người yêu thích và tin tưởng vào sự may mắn mà nó mang lại. Theo truyền thuyết, Tỳ Hưu là một loại mãnh thú rất dũng mãnh, nhưng lại mang đến những điều thiện, tốt lành cho loại người. Tỳ Hưu phong thủy rất được ưa chuộng, nhưng Tỳ Hưu là gì, nguồn gốc của Tỳ Hưu ra sao, và tác dụng của Tỳ Hưu thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu vầ linh vật Tỳ Hưu phong thủy này nhé!

Nội dung
Tỳ Hưu cũng như Kì lân là một trong 9 con của Rồng được phân ra đực cái. Con đực là Tỳ, con cái là Hưu. Sách Thanh bại loại sao của Từ Kha đời Thanh miêu tả: “Tỳ Hưu, hình tự hổ, hoặc viết tự hùng, mao sắc hôi bạch, Liêu Đông nhân vị chi bạch hùng. Hùng giả viết Tỳ, thư giả viết hưu” (Tỳ hưu có hình dáng như con hổ, có người bảo như con gấu, lông màu tro, người Liêu Đông gọi nó là gấu trắng. Con đực là Tỳ, con cái là Hưu).
Tỳ hưu trong văn hóa Trung Hoa có hai loại. Loại thứ nhất có hai sừng, là loài mãnh thú, có tác dụng xua đuổi tà ma, từng nằm trong số sáu loài mãnh thú (Tỳ, Hưu, Hổ, Bưu, Bi, Hùng) theo Hoàng Đế đánh nhau trong cuộc chiên thần thoại với Xuy Vưu trên cánh đồng Trác Lộc. Loại thứ hai chỉ có một sừng, bẩm sinh không có hậu môn, lại thích ăn vàng bạc mà không tiêu hóa, giống như “thần giữ của”, “thần tài” nên được mọi người trang trí trong nhà biểu thị ý nghĩa cầu tài lộc.

Tỳ Hưu là linh vật không có hậu môn, nếu chẳng may bạn mua một con Tỳ Hưu có hậu môn thì lý do rất đơn giản duyên của bạn và sự giàu có chưa đến. Bởi lẽ người bán hàng thỉnh thoảng vẫn đục một lỗ nhỏ ở vị trí hậu môn của con Tỳ Hưu và trộn chung vào số những con Tỳ Hưu khác. Họ không chỉ khiếm khuyết ấy cho người mua bao giờ, để chứng minh rằng không phải cứ ai muốn giàu là được giàu. Như vậy, nếu người bào mua phải Tỳ Hưu có hậu môn thì bạn làm ăn khá giả nhưng bạn không giữ được của.
Tỳ Hưu có sừng (loại này có sừng dài nhất trong các loại hình dáng Tỳ Hưu), có cánh, mông nhỏng cao, thuôn là những đặc điểm về hình dáng mà con Tỳ Hưu có tác dụng giúp bạn phát triển về sự nghiệp công danh.
Muốn cầu sức khỏe, bình an thì tuyệt nhất và tròn trịa nhất đó là con Tỳ Hưu phải có chòm râu càng dài càng tốt, có cái bụng to và mông tròn căng, có sừng (không cần sừng dài như công danh, nhưng phải có sừng) và có cánh.
Tương truyền, thời vua Minh Thái Tổ khi lập nghiệp gặp lúc ngân khố cạn kiệt, vua rất lo lắng. Trong giấc mơ vàng, vua thấy có con vật đầu lân mình to, chân to lại có sừng trên đầu xuất hiện ở khu vực phía trước cung điện nuốt nhanh những thỏi vàng ròng sáng chói mang vào trong cung vua. Theo thầy phong thủy tính toán, khu vực xuất hiện con vật ấy là cung tài và đất ấy là đất linh, như vậy, theo đó giấc mơ đã ứng với việc trời đất muốn giúp nhà vua lập nghiệp lớn. Sau đó vua Minh Thái Tổ cho xây một cổng thành to trên trục Bắc Nam, đường dẫn vào Tử Cấm thành, ngay tại cung tài ấy. Con linh vật ấy có mặt giống con lân đực nhưng lại có râu, mình to, mông to như mông bò, đuôi dài, có chùm lông đuôi rậm. Con vật này không ăn thức ăn bình thường mà chỉ ăn vàng, bạc, đặc biệt nó không có hậu môn, do vậy vàng bạc nó ăn vào không bị thoát đi đâu, cho dù no căng bụng.
Sau khi có linh vật ấy, ngân khố nhà Minh ngày càng đầy. Sau đó, vua cho tạc tượng con linh vật trên bằng ngọc phỉ thúy và đặt trên lầu cao của khu “Tài môn”. Từ đấy, nhà Minh ngày càng mở rộng địa giới và trở thành triều đại giàu có. Khi nhà Mãn Thanh lên ngôi vua, họ vẫn rất tin vào sự mầu nhiệm của con vật linh kia và đặt tên cho nó là con Kỳ Hưu hay cũng gọi là Tỳ Hưu. Nhà Thanh cho tạc nhiều tượng con Tỳ Hưu đặt tại cung vua và hoàng hậu. Các cung công chúa, hoàng tử đều không được đặt con Tỳ Hưu. Các quan càng không được dùng cho nhà mình, bởi quan không được giàu hơn vua.
Thời ấy, ai dùng thứ gì giống vua dùng là phạm thượng. Nhưng với sự linh nghiệm của con vật này khiến các quan lại lén lút tạc tượng con Tỳ Hưu đặt trong phòng kín, ngay cung tài nhà mình để “dẫn tiền vào nhà”. Muốn tạc tượng phải gọi thợ điêu khắc và thế là thợ điêu khắc cũng tự tạc cho mình một con để trong buồng kín, cầu tài. Cứ thế, các đời sau, con, cháu thợ khắc ngọc cũng biết sự linh nghiệm ấy mà tạc tượng Tỳ Hưu để trong nhà, cầu may.
– Tỳ Hưu màu đen có tác dụng chiêu tài, phát lộc.

– Tỳ Hưu màu trắng, vàng có tác dụng bảo trợ sức khỏe, phát tài phát lộc.
– Tỳ Hưu màu xanh có tác dụng may mắn trong công danh.

– Tỳ Hưu màu tím, hồng có tác dụng mang đến hạnh phúc gia đình.
Nếu có điều kiện bạn có thể thỉnh bộ 4 ông Tỳ Hưu hoặc 3 ông để có được đầy đủ tác dụng mà Tỳ Hưu mang lại cho gia đình. Mặt khác, Tỳ Hưu vừa là linh vật phong thủy số 1 về tài lộc, Tỳ Hưu còn có tác dụng hóa giải khí xấu, trừ vận xấu ngoài ra nếu bạn dùng
– Hai ông Tỳ Hưu sẽ có tác dụng hóa giải sao phi tinh ngũ hoàng đại sát (Ví dụ: năm 2012 nhà cửa chính là Đông Nam thì phạm ngũ hoàng đại sát làm cho gia đình bất hòa, trong gia đình có người ốm đau, bệnh tật, công việc làm ăn không thuận lợi)
– Ba ông Tỳ Hưu sẽ có tác dụng hóa giải tam sát (sát Bắc, sát Nam, sát Tây, sát Đông ) khi phạm tam sát sẽ khiến gia đình, công việc, sức khỏe, làm ăn sa sút …
Về tác dụng của Tỳ Hưu trong phong thủy thì có nhiều tác dụng:
Tỳ Hưu màu đen thì có tác dụng chiêu tài, phát lộc. Tỳ Hưu màu trắng thì có tác dụng bảo trợ sức khỏe. Tỳ Hưu màu xanh thì có tác dụng may mắn trong công danh.
Tỳ Hưu còn có tác dụng trấn nhà để tránh tà khí, ta đặt Tỳ Hưu đã được “khai quang” ở các hướng tốt trong nhà như : Sanh khí, Thiên y, Diên niên, Phục vị. Nhất là hướng “sanh khí”, thì Tỳ Hưu có thể làm cho vận mệnh các thành viên trong gia đình chuyển biến tốt, vận mệnh tốt được nâng cao, đuổi tà khí đi và có tác dụng trấn nhà, vì vậy Tỳ Hưu đã trở thành thần bảo vệ cho gia đình, bảo vệ sự bình yên cho ngôi nhà của ta.
Như nhiều tài lộc, nhất là ở các sòng bạc tại HK ta đều thấy họ chưng Tỳ Hưu, nhưng được bảo vệ rất kỹ, vì sợ mất trộm, sẽ gây ra nhiều điều xúi quẩy cho họ. Tỳ hưu ngoài việc có tác dụng chiêu tài lộc không liêm chính như trên, Tỳ Hưu cũng còn có tác dụng chiêu tài lộc liêm chính, nên những người kinh doanh cũng đặt Tỳ Hưu ở nhà và ở công ty…
Tỳ Hưu khi đặt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính, hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương. Tất nhiên khi đặt bất cứ vật phẩm phong thủy nào, điều cần phải nhớ là: Xem ngày giờ tốt để đặt.

Ngũ hoàng đại sát là một sát tinh trong phong thủy, khi nó vào nhà thì tác dụng của nó thật vô cùng đáng sợ : Mang đến những điều bất lợi cho những thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.
Nếu ở phương vị Ngũ hoàng đại sát bay đến, ta đặt hai con Tỳ Hưu phía sau cửa chính, đầu Tỳ Hưu hướng về phía trước, thì có thể hóa giải sát khí của Ngũ hoàng đại sát.
– Chọn một ngày đẹp.
– Đặt Tỳ Hưu quay về phía Thần Tài.
– Đứng phía sau Tỳ Hưu hai bàn tay chắp vào hình dấu +, mắt nhắm vào và cầu ước điều mình muốn, phải thật thành tâm thì mới linh.4, Sau khi ước, quay Tỳ Hưu lại phía mình.
– Lấy khăn bông thấm một chút nước chè điểm ( chấm ) vào mắt Tỳ Hưu, điểm mắt trái trước sau đó điểm mắt phải, lặp lai 3 lần.
– Tay trái giữ chắc Tỳ Hưu, dùng ngón cái tay phải xoa đầu Tỳ Hưu, xoa từ phía trước ra phía sau, lặp lại 3 lần.
– Thả lỏng tai, tháo dây vải đỏ ở cổ Tỳ Hưu để Tỳ Hưu bắt đầu đi ăn tiền.
– Khai quang đã hoàn tất.
Không được đặt Tỳ Hưu xông chính môn ( từ ngoài quay vào trong nhà ) mà phải đặt đầu Tỳ Hưu quay ra ngoài.
Không quay Tỳ Hưu vào gương, vì gương có quang sát, Tỳ Hưu rất kỵ.
Không đặt đối với giường ngủ, vì như thế xẽ không có lợi cho chính mình.
– Bát hương không đuợc cho đát cát vào, mà phải cho gạo đỏ, gạo đen, gạo chân châu.
– Đồ thắp hương không được cho Lê, Dâu Tây còn các thứ khác không kỵ.
– Phụ nữ đén tháng, có thai không được thắp hương, sờ mó Tỳ Hưu (Tỳ Hưu kỵ huyết sát, quang sát, thai sát)
– Không nên thường xuyên lau chùi Tỳ Hưu, mổi năm chỉ lau chùi 4 lần: âm lịch 6/2, 2/6. 14/7, 12/9.
– Không được tuỳ tiện thay đổi vị trí, không nên sờ mó vào mồm và phần đầu Tỳ Hưu, nếu muốn thay đổi vị trí Tỳ Hưu trước tiên phải dùng vải đỏ che phần đầu Tỳ Hưu rồi mới chuyển.
Tỳ Hưu sau khi mua về phải bịt mắt lại, đợi tới ngày khai quang mới mở ra. Ngày khai quang cần chuẩn bị các thứ sau :
– Thất bảo thạch ( 7 viên đá quý )
– Gạo ngũ cốc tạp.
– Sợi ngũ sắc.
– Sợi ngũ đế
– Linh Đang.
– Một tờ giấy đỏ, bên trên tờ giấy viết bài chú.
Lần lượt đổ ba món đầu tiên vào bụng Tỳ Hưu, sau đó treo sợi ngũ đế và Linh đang lên trên Tỳ Hưu, rồi chuẩn bị “niệm“.
*Kim quang nhất khí, Tỳ Hưu cao tường, tiến tài tiến quý, lợi lộ hanh thông.
*Kim quang nhị khí. Tỳ Hưu phúc giáng, phúc lộc mãn đình,phúc tinh cao chiếu.
*Kim quang tam khí,Tỳ Hưu điểm hóa, nam nạp bách phúc, nữ nạp thiên tường càn, cát lợi nguyên hanh.
Niệm chú xong đặt bài chú vào bụng Tỳ Hưu, như thế Tỳ Hưu dã có linh khí. Chờ sau khi hương chấy hết là có thể đặt Tỳ Hưu ở quầy thu ngân, hoặc phòng khách, ở cửa hoặc huyền quan, điều quan trọng nhất là đầu Tỳ Hưu phải quay ra cửa chính hoặc cửa sổ.
Thờ Tỳ Hưu mỗi ngày phải đốt một khoanh hương vòng đểTỳ Hưu vấn (ngửi), hoặc đặt bên cạnhTỳ Hưu một ly nước cũng được. Như thế Tỳ Hưu mới có sức đi kiếm tiến cho chủ nhân.
– Dùng dây đỏ đeo ngọc bôi Tỳ Hưu trên cổ hoặc cổ tay.
– Dùng nước mưa và nước sông tắm cho cơ thể nó.
– Tỳ Hưu rất được QUAN ÂM “cưng“, cho nên thắp hương khai quang trước mặt QUAN ÂM rất tốt ( tốt nhất mỗi tháng nên đặt Tỳ Hưu trước QUAN ÂM thắp hương càu nguyện.)
– Không nên sờ vào miệng Tỳ Hưu, miệng để hút tiền tài, không nên sờ vào mắt, mắt để tìm châu báu.
Ngày nay, Tỳ Hưu vẫn luôn hiện hữu trong nhân gian, là linh vật mang lại nhiều điều may mắn trong cuộc sống cả về tài lộc, về sức khỏe, công danh cho người sở hữu. Ngày nay Tỳ Hưu được chế tác thành rất nhiều kiểu dáng như nhẫn đeo tay, vòng đeo cổ…được làm từ nhiều loại chất liệu khác nhau. Khi sử dụng chúng ta cũng nên chú ý những điều kiêng kị cũng như những lưu ý khi sử dụng Tỳ Hưu mà chúng tôi đã đề cập phía trên để linh vật này phát huy được tối đa tác dụng.
![]() |
| Lỗ mũi hếch | Lỗ mũi bình thường |
Mộc Trà (theo Lol)
1 Hội Chùa Láng
Thời gian: tổ chức vào ngày 5 tới ngày 7 tháng 3 âm lịch (chính hội là ngày 7).
Địa điểm: phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Thiền Sư Từ Đạo Hạnh.
Nội dung: xưa kia hội chùa Láng là một hội lớn và hấp dẫn nhất phía Tây thành Thăng Long. Trong phần lễ, ngày đầu mở hội là lễ rước bát hương Thánh lên chùa Nền, thăm lại nơi sinh ra Thánh. Ngày thứ 2 là lễ rước bát Hương Thánh tới chùa Tam Huyền thăm cha.
Đến ngày thứ 3 là lễ rước lớn và diễn tích lại cuôc đấu Thần (đấu với sư Đại Điên - chùa Duệ) tới chùa Hoa Lăng (cầu Giấy) thăm mẹ, rồi hoàn cung. Phần hội có trò đánh đu, đấu vật, đánh cờ, hát tuồng, hát chèo, hát thờ.
2. Hội Chùa Thầy
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 5 tới ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch. (ngày 7 tháng 3 âm lịch là chính hội).
Địa điểm: xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội).
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn pháp sư Từ Đạo Hạnh, ông tổ nghệ thuật múa rối nước Việt Nam.
Nội dung: Lễ hội mở đầu bằng lễ cúng Phật và chạy đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo, với sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc. Trong các ngày diễn ra lễ còn có rất nhiều trò chơi, đặc biệt du khách còn được xem nghệ thuật múa rối nước Việt Nam đặc sắc. Có nhiều tích diễn trò chơi rối nước như: Thạch sanh, Tấm Cám hay cac sinh hoạt dân dã như đi cày, chăn vịt, đấu vật.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Cổ dài và linh hoạt: Người này dễ bị nhụt chí.
Cổ thẳng và gầy: Là người thích đi nói xấu người khác. Cổ cứng, gầy và lộ gân: Người này luôn muốn đổ lỗi cho người khác. Cổ dài và gầy: Là người có tính đua đòi. Cổ béo: Là người tham vọng nhưng lại cực kỳ mềm yếu và ham ăn. Cổ ngắn và to: Là người có quyền lực, song lại độc ác và rất xấu tính. Cổ nghiêng về phía bên trái và bên phải: Người này có vấn đề về thần kinh. Cổ hướng về phía trước, bên trái và bên phải: Là người phụ bạc.
Nhìn thấu tâm can phụ nữ qua nốt ruồi ở cổ![]() |
| Ảnh minh họa |
| ► Bói nốt ruồi đoán tính cách chuẩn xác |
Một bài viết copy sưu tầm về Tứ Hóa của các cao thủ trao đổi trên tuvilyso.org như AlexPhong, WhiteBear, HoangNhiMai,..
Đây là bài viết tóm tắt được lấy trong sách của tứ hóa, về những bước đơn sơ nhất của Tứ Hóa Phi Tinh, post lên cho những bạn chưa có sách nắm được một số ý.
Ở đây, trong bài viết này nhắc chủ yếu nhất là Khâm Thiên Môn, một chi phái quan trọng.
- Xét về Nam Phái, chú trọng nhất là tình của các sao. Tứ Hóa năm sinh, đại vận, hay lưu niên cũng được dùng, nhưng không lấy làm chính.
- Xét về Tứ Hóa Phái lại lấy Tứ Hóa làm dụng thần. Thứ nhất là để xét cách cục Nguyên Thủy. Thứ hai là để xem vận, trong đó gồm 3 mặt "bản dịch", "giao dịch", "biến dịch", gọi là Phi Cung Hóa Tượng để luận đoán cát hung.
- Ta đã biết, đẩu số là học thuyết liên quan đến Dịch lý Hà Lạc, "dịch" có thể hiểu là Nhật Nguyệt, Âm Dương. Thì Âm Dương tương tác tạo ra cát hung.
- Tứ hóa Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ xuất phát từ Hà Đồ. Lấy Lộc Kỵ là trung tâm, giống như Âm Dương vậy. Còn Quyền Khoa chỉ là quá trình. Nhiều lúc có Lộc mà Xấu, có Kỵ mà lại tốt. Nhiều khi lại Lộc còn hung hơn Kỵ
- Mọi vật đều có tượng của đó. Cao, thấp, béo, lùn, dài, ngắn....là "hình tượng". Cũng như vậy Mệnh lý dùng hợp sinh chế hóa, thể dụng gọi là " hóa tượng". Theo Khâm Thiên Môn thì Tứ hóa phi tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ nhập cung là "thùy tượng".
- Khâm Thiên Môn dùng "thùy tượng" để chỉ nguồn cơn họa phúc, dấu hiệu, định hướng nên tránh,..
- Hiểu theo nghĩa cơ bản, Lộc là "lành", Quyền là "biến đổi", Khoa là "yên", Kỵ là "lỗi lầm". Nhưng thực tế, đã là tượng thì có sự biến đổi, nên phải hiểu biến đổi theo tam dịch, "bản dịch", "giao dịch", "biến dịch".
- Theo Khâm Thiên Môn, tối đa chỉ có Song Lộc, Song Kỵ, Lộc Kỵ, chứ không có Tam Lộc, Tam Kỵ, hay Tam Lộc Kỵ, vì chỉ có thành cặp, thì mới có đối đãi, có cát hung.
+ Kỵ thì ảnh hưởng tại cung nó đóng, và tương tác cả đối cung. Song Kỵ thì càng xấu hơn.
+ Song lộc, nếu mà Lộc tiên thiên, với Lộc hậu thiên có thể trở thành xấu, do Lộc quá nặng, sinh ra hao tổn.Nhưng cũng có lúc lại tốt, lại thành song lộc thật. Chỉ có 2 lộc hậu thiên đồng cung thì ổn định hơn.
- Tứ Hóa cần xem xét tiên thiên, hoặc hậu thiên. Xem về xung chiếu nhau, xem cái gì hóa ra, nếu thêm tự hóa thì càng phức tạp hơn.
- Chỉ cần Tứ Hóa bị nhập vào cung thì cung sẽ động. Lộc, Quyền, Khoa thì luận "chiếu". Riêng Kỵ thì luận "xung", ý chỉ hai cung đối nhau.
-----
Tượng có bản của tứ hóa phi tinh
Hoá Lộc:
Là sự khởi đầu, Nó tượng trưng cho sự bắt đầu cái mới. Chính vì lẽ đó, nó là "duyên"khởi, cung vị nào có Hóa Lộc, thì cung vị đó là nơi duyên tụ.
Ví dụ: 1) Hóa Lộc năm sinh ở cung Thiên Di thì Thiên Di sẽ là khởi nguồn cho "duyên", hay tốt hơn là lập nghiệp ở đất khách quê người sẽ tốt
2) Mệnh Tham Lang Hóa Lộc năm sinh. Thì phải xem Tham Lang ở đây thế nào, tuy Mệnh đều là nơi duyên tụ. Tham Lang tạo Phúc, hay tạo nghiệp
Tạo phúc thì Tham Lang phát huy Hóa Lộc nên tính tài hoa, nghệ thuật. Tạo nghiệp thì hay dụng đào hoa.
Hóa Quyền
Thể hiện tính tự lập, bền bỉ, hành động.
Về người: chủ hành động, tự lập, nghiêm nghị, nhưng hơi cô độc.
Về việc: chủ hành động, khai sáng
Về vật: chủ về lớn, hay thay đổi về phương diện vật chất.
Về số lượng: tăng thêm.
Hoá Khoa
Là sự nối tiếp nhân duyên trong vũ trụ, Hóa Khoa là xu hướng "quay về" khởi niệm cũ. Khác với Hóa Lộc, là khởi niệm cho cái mới
Về người: điềm tĩnh, danh dự, bình hòa, không vội cũng không gấp.
Về việc: ổn định, tích lũy, công tác kế hoạch.
Về vật: thương hiệu nổi tiếng, trang nhã, có phẩm chất trên phương diện tinh thần
Về số lượng: trung bình
Hóa Kỵ
Sau khi đã diễn biến quá trình: Lộc Quyền Khoa, đương nhiên phải có hồi kết của nó, chính là Hóa Kỵ.
Về người: tâm địa không xấu, lập dị, cố chấp.
Về việc: vô duyên, bất lợi, không thuận lợi`
Về vật: đồ cũ, đồ xấu tệ
Về số lượng: ít
--------
Căn cứ trên phương diện lấy Cung vị làm Tượng để luận đoán mà phân loại, thì Tử Vi Đẩu Số có hai Đại pháp môn: "Tam hợp pháp" và "Tứ Hóa pháp" (hay còn gọi là Tứ tượng pháp).
"Tam hợp pháp" là lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hợp", thêm vào cung Thiên di làm "Tứ chính" hợp thành "Tam phương Tứ chính". Theo địa chi tam hợp mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu Số.
"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hội", nhưng "Tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu, tức là lấy cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di và cung Điền trạch làm "Tứ chính", khác với "tam hợp pháp" ở chỗ là, Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các Sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán việc.
Tam hợp pháp gặp trường hợp cung vị không có chính diệu, thì mượn chính diệu của đối cung để dùng.
Tứ hóa pháp gặp trường hợp ở cung vị không có chính diệu, lại không mượn chính diệu ở xung cung để dùng, vì nguyên do nó dùng tượng ở can của Cung.
Ngoài ra, Tam hợp pháp theo thuyết Ngũ hành, chú trọng Tinh đẩu, cho nên tinh diệu mới có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm". Còn Tứ hóa pháp thì phối hợp với Quẻ và Lý Số, chú trọng Tượng Số, cho nên Tinh diệu không có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm".
Nói về sự biến hóa của Tử Vi Đẩu Số, ngoại trừ các lưu phái chính như đã nói trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn như tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, quái tượng, thậm chí cả đến số mục hay mầu sắc của các sao... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ, không kém sự phân loại của khoa học hiện đại, khiến cho người học đời sau, có lẽ phải mất tinh lực của cả đời người, mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa Tử Vi Đẩu Số.
Theo Tử vi Đẩu số - Tứ Hóa phái (Bắc phái), cung quan trọng dùng để xem sự cố tai ách bất ngờ, đương nhiên phải láy bốn cung Mệnh viên - Thiên di - Tử nữ - Điền trạch làm chủ, vì bốn cung này là cung tứ Chính.
Cung Tứ Chính là chủ về các sự tình di động, dời chuyển, dịch mã, bất ngờ, tai ách. Do đó, muốn luận đoán tình trạng có ý thức thay đổi và tai ách bất ngờ có xảy ra hay không, thì phải dùng bốn cung tứ Chính này để khảo xét.
Còn có một phương pháp đơn giản khác dùng để luận đoán "tai ách bất ngờ", đó là lấy cung vị Quan lộc của cung Thiên di (tức cung Phu thê), nếu can cung Quan lộc này hóa Kị nhập các cung Huynh đệ, cung Nô bộc, cung Mệnh, thì có thể đoán định có tai nạn bất ngờ.
Nếu can cung Quan lộc của cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Tài bạch, cung Phúc đức thì đoán định không có tai nạn xảy ra.
------
Trong tử vi đẩu số phi tinh, khi ta sử dụng thiên can của các cung để an tứ hóa, có thể thấy 12.4 = 48 loại tứ hóa chạy trong các cung. Tuy vậy, khởi là Hóa Lộc, Diệt là hóa Kỵ, và Lộc theo Kỵ mà đi. Tùy vào dáng điệu của hóa Kỵ, ta có rất nhiều loại hóa Kỵ sau đây:
-----
Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.
Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.
Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.
Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.
Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.
Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.
Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.
Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.
-----
Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.
Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.
Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.
Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.
------
Về lá số của bà Từ Dũ: sinh ngày 19/05/Canh Ngọ (20/06/1810), giờ Dần.
Lá số bà Từ Dũ cũng là một ví dụ kinh điển. Lá số này giải quyết được những vấn đề như:
1. Thế nào là quý?, phải chăng cứ có lục sát tinh là không còn quý.
2. Thế nào là họa, phải chăng cứ có cát tinh là hết họa.
3. Cung trọng điểm, mặc dù đó là bàng cung như cung Tử Tức.

Lá số này, tinh hoa không hội tụ ở mệnh như Nam Phương Hoàng Hậu, mà hội tụ ở cung Tử Tức. Lịch sử cho biết bà là mẹ vua Tự Đức, vua số 4 của triều đại nhà Nguyễn. Sau khi con trai lên ngôi thì bà mới có "giá" và được tôn vinh.
Cung tử tức có Tham Vũ giáp Nhật Nguyệt, tam hóa liên châu, tọa Khôi hướng Việt, có Quang Quý giáp Thai Tọa. Đầy đủ cát hóa và lục quý. Một lần nữa thể hiện sức mạnh giáp cung của trục sửu mùi. Nhưng ngoài ra, ngũ sát tinh Không Kiếp Kình Đà Linh hội tụ đầy đủ, thêm Thiên Hình. Cho nên cung tử tức đầy đủ Cát, Quý và Sát. Tại vị trí Đế Vượng, năng lượng của cung tử tức cực hạn không gì ngăn cản nổi.
Đến đây có hai làn ý kiến:
1. Phải đầy đủ cả quý và sát thì cái sự Quý mới trọn vẹn là Quý.
2. Quý là quý, và sát là tai họa rình rập. Ta biết về sau vua Tự Đức bị đậu mùa nên vô sinh, trong hoàng cung mà em nào có bầu thì coi như chọn cái chết không cần xét xử. Nhưng ngoài ra, thì bà Từ Dũ và vua Tự Đức đều khá viên mãn không gặp đại họa hay bạo bệnh gì như Nam Phương Hoàng Hậu.
Có thể nói cung tử tức là cung trọng điểm của lá số, kể cả về đời thực cũng như mệnh lý. Hay nữa là vòng đại vận theo chiều sớm qua cung tử tức. Mà cung tử tức là bàng cung của tử vi (tuy nhiên nó thuộc tứ chính mệnh di tử điền).
Có khả năng lá số của bà Từ Dũ được fake từ nhỏ để lấy vua, vì thời phong kiến khi mà chưa có cuộc khởi nghĩa của giai cấp công nông xảy ra thì u ám lắm, mê tín lắm, hoàng cung vẫn dựa vào mệnh lý để chọn vợ cho vua. Khả năng ông Bộ Trưởng bố bà Từ Dũ thuê thợ giỏi fake lá số cho con gái cũng có khả năng. Thế nhưng sau này lá số khá ứng hợp, thì cũng có thể đây là lá số thực của bà Từ Dũ. Kỳ lạ hơn, mùa thu năm Kỷ Sửu bà sinh vua Tự Đức, thái tuế nhập quái ứng cung tử tức của bà ởi Sửu tức là chân mệnh thiên tử.
Mệnh sinh cục, âm dương thuận lý. Mệnh thân có Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tướng Quân Đẩu Quân Quốc Ấn, Long Phượng Tả Hữu, Xương Khúc Lộc Khoa Kỵ. Thân có Lộc Mã. Phu có Cự Nhật Lộc Thanh Long Lưu Hà, Long Phượng Hổ Cái. Thì bản thân là người tài năng, và có số vượng phu lấy vua cũng đúng. Quan trọng là đại vận sớm đi qua những cung này.
Năm 38 tuổi, Đinh Mùi, vua Thiệu Trị qua đời. Năm Đinh nhập Cự Môn hóa Kỵ cung phu nguyên thủy. Lưu niên nhập điền trạch, số phận đã gọi, không thể không trả lời. Cha mất chồng mất với nhà thường dân là chuyện buồn nhưng với thái tử và mẹ thái tử là chuyện thăng tiến. Thái tử thì lên ngôi, còn mẹ thái tử vốn chỉ là phi thì bây giờ thành Hoàng Thái Hậu. Những cung phi khác khi tiên hoàng còn sống có thể kêu ồm ộp như con ếch hàng đêm, chứ bây giờ không dám ho he nửa câu. Cho nên với mẹ con bà thì đây là cát vận. Với bà Từ Dũ thì từ đây không còn ai trên mình nữa.
Năm 74 tuổi, Quý Mùi, vua Tự Đức qua đời. Lại năm mùi nữa lưu niên tới cung điền, nhưng lần này năm Quý Hóa Kỵ nhập tử tức nên con bà qua đời. Kể từ đây vận nước rối ren, thời huy hoàng của bà cũng hết. Cung trọng điểm là tử tức, con chết thì mẹ cũng mất điểm tựa.
Năm 93 tuổi, Nhâm Dần. Đại tiểu vận trùng phùng tại cung Thân. Đại vận Giáp Thân làm Thái Dương hóa Kỵ. Lưu niên Nhâm Dần làm Vũ Khúc hóa Kỵ tạo thành thế tam Kỵ ép cung trọng điểm nên Thái Hoàng Thái Hậu tắt nắng. Tháng 4 có Liêm Phá Kình Không Hồng Loan, ngày 5 nhập cung Tử Tức có Hình Kiếp, hoàn thành miếng ghép cuối cùng của bức tranh Từ Dũ.
Cuộc đời bà theo đúng vòng Trường Sinh, Sinh ở tỵ xuất thân là con gái Bộ Trưởng, tiền đề để bước vào hoàng cung, Vượng ở sửu nên đời lên hương từ đại vận này theo lộc con trai, Mộ ở cung dậu nên tới đại vận này con trai tắt nắng, và tuyệt ở cung thân cho nên bà mất ở cung thân.
Có thể nói đây là một lá số có thể dùng làm SGK cho tử vi. Qua lá số này có thể gạt bỏ những hồ nghi cho phương pháp thùy tượng của Nam phái.
Dưới góc độ Nam phái, lá số này không những cho thấy tác dụng hiển nhiên của vòng Trường Sinh mà còn cho thấy người xem Nam phái hiện nay cần thay đổi nhận thức về Sát tinh. Sát tinh một khi đi cùng Quý tinh thì không còn mang nghĩa "xấu" theo cách hiểu thông thường nữa. Nói cách khác chỉ có Quý tinh mới có thể ngự được Sát tinh. Dưới áo hoàng bào lấp ló thanh trường kiếm. Nhưng thanh kiếm đó là Thượng Phương Bảo Kiếm chứ không phải con dao cắt cổ cả nhà đại gia gỗ của sát thủ Bình Phước.
------
Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.
Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.
Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.
Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.
------
Theo Tử vi Đẩu số - Tứ Hóa phái (Bắc phái), cung quan trọng dùng để xem sự cố tai ách bất ngờ, đương nhiên phải láy bốn cung Mệnh viên - Thiên di - Tử nữ - Điền trạch làm chủ, vì bốn cung này là cung tứ Chính.
Cung Tứ Chính là chủ về các sự tình di động, dời chuyển, dịch mã, bất ngờ, tai ách. Do đó, muốn luận đoán tình trạng có ý thức thay đổi và tai ách bất ngờ có xảy ra hay không, thì phải dùng bốn cung tứ Chính này để khảo xét.
Còn có một phương pháp đơn giản khác dùng để luận đoán "tai ách bất ngờ", đó là lấy cung vị Quan lộc của cung Thiên di (tức cung Phu thê), nếu can cung Quan lộc này hóa Kị nhập các cung Huynh đệ, cung Nô bộc, cung Mệnh, thì có thể đoán định có tai nạn bất ngờ.
Nếu can cung Quan lộc của cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Tài bạch, cung Phúc đức thì đoán định không có tai nạn xảy ra.
Nếu can cung Quan lộc của cung Thiên di hóa Kị nhập cung Phụ mẫu xuất xung cung Tật ách, hoặc nhập cung Quan lộc hóa xuất xung cung Phu thê, thì tai ách tất xảy ra, phần nhiều là rất nặng.
Xem can cung Phu thê hóa Kị nhập vào cung nào, đây chính là Nguyệt lệnh của số tai ách.
Ngoài ra, can cung Thiên di của Lưu niên Hóa Kị xung cung Mệnh nguyên cục, hoặc can cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Quan lộc nguyên cục, hoặc can cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Điền trạch nguyên cục, thảy đều có tai ách. Phép luận giải này, cứ mỗi 12 năm thì có một lần, cho nên phải lấy Đại vận để phân biệt.
Xem xét lúc cung Thiên di của Lưu niên, can cung Thiên di lưu niên Hóa Kị xung cung Mệnh nguyên cục, hay Hóa Kị xung cung Quan lộc nguyên cục, hay Hóa Kị xung cung Điền trạch nguyên cục, sao Hóa Kị này, đồng thời cũng phải ở một trong các cung Mệnh - Di - Tử - Điền của Đại vận, hay đồng thời xung một trong các cung Mệnh - Di - Tử - Điền của Đại vận. So sánh các trường hợp trên, thì xung cung mệnh nặng hơn cung Điền trạch.
Trường hợp can cung Thiên di Hóa Kị xuất xung cung Quan lộc của Đại vận tuy sẽ xảy ra, nhưng tai ách không nghiêm trọng.
Tóm lại, những tổn hại bất ngờ, đều có liên quan đến các cung Mệnh viên - Thiên Di - Điền trạch - Tử nữ.
Đối với trường hợp bệnh tật phát đột ngột, hoặc bệnh ngầm đột nhiên trở nặng và thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, thì phải xem xét tới tuyến Nô - Huynh.
Can cung Tật ách khiến Hóa Kị nhập cung Mệnh, thường thường chủ về bệnh tật bẩm sinh (tiên thiên) hay di truyền, rất khó có khả năng trị tận gốc.
Can cung Tật ách khiến Hóa Kị nhập cung Phúc đức, chủ về mắc bệnh tinh thần, ví dụ như bệnh tâm thần phân liệt do di truyền, chứng hưng phấn - trầm cảm, hoặc bệnh tâm thần do tổn thương thực thể (phần nhiều là do tổn thương não bộ).
Can cung Thiên di khiến Hóa Kị nhập cung Tử nữ và xung cung Điền trạch, là ý tượng: trong cuộc đời dễ xảy ra sự cố tai nạn giao thông nghiêm trọng. Vì vậy, lúc cung Thiên di đại vận khiến cho Hóa Kị nhập cung Tử nữ và xung cung Điền trạch của Đại vận, là chủ về trong đại vận này sẽ xảy ra tai nạn giao thông.
Can cung Điền trạch khiến Hóa Kị nhập cung Thiên di và xung cung Mệnh, cũng chủ về trong cuộc đời dễ xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng. Vì vậy, lúc Can cung Điền trạch của Đại vận khiến Hóa Kị nhập cung Thiên di Đại vận và xung cung Mệnh đại vận, là chủ về trong Đại vận này dễ xảy ra tai nạn giao thông, hoặc tổn hại.
Khi ứng dụng vào thực tế trải nghiệm đối với từng cung của đại vận, phải quan tâm đến ý tượng: có bị tổn hại do nhân tố bên ngoài gây ra hay không.
Can cung Điền trạch khiến Hóa Kị nhập cung Phụ mẫu và xung cung Tật ách, hoặc nhập cung Tật ách và xung cung Phụ mẫu, cũng chủ về gặp sự cố tai nạn giao thông, hoặc phải chịu tổn hại do nhân tố bên ngoài mạng lại.
Ngoài ra, lúc cung Thiên di lưu niên tự Hóa Kị, hoặc cung Mệnh lưu niên tự Hóa Kị, như vậy trong Lưu niên này phải đặc biệt cẩn thận đề phòng xảy ra sự cố tai nạn giao thông. "Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai", can cung Điền trạch khiến Hóa Kị nhập cung Phụ mẫu, ngoài nội dung đã thuật ở trên, còn chủ về nguy cơ phá sản, hoặc "phá tài" một cách nghiêm trọng.
Cần chú ý đề phòng.
...
Một, làm sao bắt đầu học tập " Phi tinh tứ hóa tử vi đẩu số "?
Đầu tiên, cũng y bình thường phương pháp trước tiên cần hiểu năm thuật cơ sở ( tức Thiên can, địa chi, âm dương, Ngũ hành, xung, hợp cùng quái vị vân vân ) sau đó lại từ sắp xếp mệnh bàn học lên, lại quen thuộc tinh hệ và cách cục (mười bốn chủ tinh cùng phụ tinh chính), đón lấy mới tiến vào tứ hóa phi tinh nhập môn.
Hai, ở sắp xếp mệnh bàn thì cần chú ý cái gì?
1. Sắp xếp mệnh bàn thì chỉ cần sắp xếp ra mười bốn chủ tinh, sáu Cát tinh, sáu sát tinh, lộc tồn, Thiên Mã, thiên diêu, thiên hình, Thiên Mã, âm sát cùng sinh niên tứ hóa ( cần chú ý Canh can tứ hóa là dùng thiên đồng hóa kỵ ).
2. Đại nạn là từ mệnh cung khởi vận.
3. Hết thảy tinh hệ đều không cần miếu vượng hãm các loại, ngoại trừ Thái Dương Thái Âm.
Ba, "Phi tinh tứ hóa tử vi đẩu số " nội dung trọng điểm?
Này thuật bên trong dung rất nhiều, mà bình thường dùng để suy luận mệnh người thì ứng dụng chủ yếu lý luận cơ cấu có: Lập thái cực, thể dụng (âm dương), tam tài, tứ tượng, cung vị chuyển hoán, cung vị trọng điệp, lộc kỵ tinh kỳ phổ, âm dương hợp mà số sinh, thiên nhân hợp nhất, tứ hóa phi tinh quỹ tích vân vân.
Bốn, "Phi tinh tứ hóa tử vi đẩu số " nội dung trọng điểm có tác dụng gì?
1. Lập thái cực: Tức cái gọi là lập tiêu điểm, là dùng để khi chúng ta luận một sự kiện, thì lấy cái gì làm tiêu điểm hoặc cung vị nào sẽ dùng.
2. Thể dụng: Ý tứ chủ yếu là phân ra đối ứng sự hạng, tức là nói sự kiện phân ra "Chủ " cùng "Khách", nói cách khác phân "Âm dương ".
3. Tam tài: Tức là thiên địa nhân, là dùng để phân ra sự kiện "Ứng số " hoặc "Định số " cùng lấy tượng.
4. Tứ tượng: Tức là tứ hóa tinh,là đẩu số dụng thần, là dùng để xâu chuỗi quan hệ giữa các cungn vị.
5. Cung vị chuyển hoán: Hiểu rõ cung vị hình thành, đột phá hạn chế 12 cung tạo thành thiên biến vạn hóa hàm ý.
6. Cung vị trọng điệp: Dựa vào quan hệ tương hỗ giữa các cung vị mà lấy tượng
7. Lộc kỵ tinh kỳ phổ: Sáng tỏ tứ hóa phi tinh đặc thù tác dụng.
8. Âm dương hợp mà số sinh / thiên nhân hợp nhất: Là dùng để phán đoán tính chắc chắn / tính cục thể của sự kiện.
9. Tứ hóa phi tinh quỹ tích: Là khâu thâm sâu và quan trọng nhất trong tứ hóa phi tinh, diễn giải lý luận, cơ cấu và nguyên tắc của tứ hóa.
Các trọng điểm kể trên, cũng không thể đơn độc ứng dụng, thiếu một thứ cũng không được, đó là xâu chuỗi với nhau, hoàn hoàn liên kết mà thành một bộ nắm giữ dịch số, dịch lý cùng hà lạc lý số chi "Tứ hóa phi tinh lý luận cơ cấu" tinh hoa.
Năm, mệnh bàn nguyên lý là lấy lý, khí, số, tượng phân tích nhân sinh chuyển vận; từ đẩu số mà suy luận, Thiên can biểu thị không gian, địa chi biểu thị thời gian, Thiên can địa chi hội hợp, thêm vào 12 cung vị, đại biểu thiên địa nhân tam tài, thiên lấy quan tượng, địa lấy danh số, nhân lấy thẩm khí, tức là thiên thùy tượng mà tỏ cát hung, nhân vì thế có vận trình chuyển hợp, tức là thời không nhân duyên biến hóa, dẫn dắt bản thân khởi tâm động niệm, do đó có cát hung chi hiển tượng.
Ba, " lý, tượng, khí, số ( là đẩu số triết lý, cũng có thể nói là đấu số vận dụng lý lẽ hoặc trình tự, nói tóm lại, liền như chúng ta sở học toán học công thức, khi muốn giải đáp một vấn đề thì, thiết yếu y công thức trình tự mà nhập, như vậy mới có thể thu được chính xác kết quả hoặc đáp án. Phía dưới liền thuyết minh "nội hàm" và "quy tắc":
(một) nội hàm:
1. Lý: "Lý" chính là "Đạo lý", đem "Lý" ký thác "Đạo" bên trong; "Đạo" đó là âm dương vậy. Âm dương hợp thành cũng gọi là thái cực, cho nên Tử Vi Đẩu Số vận dụng "Lý", gắn liền với Âm Dương trong đó, để quan sát biến hóa của cung, tinh, tượng, để giải thích vũ trụ vạn sự vạn vật.
2. Tượng: "Tượng", chính là hiện tượng hoặc dấu hiệu, tức biểu thùy hiện ra một số dấu hiệu của sự vật. Theo "Dịch lý" mà nói chính là tứ tượng. Tứ tượng, thái dương thái âm thiếu dương thiếu âm vậy. Tử Vi Đẩu Số mà nói, "Tượng", tức là tứ hóa tượng, chính là chỉ lộc quyền khoa kỵ tứ hóa phi tinh rơi vào mệnh bàn chi thùy tượng.
3. Khí: "Khí" chính là tượng hóa một loại lưu hành hoặc động thái, bởi vì do quá trình "bản dịch", "giao dịch" cùng "biến dịch", sẽ hiện ra hoặc sinh ra biến hóa cát hung khác nhau.
4. Số: "Số" chỉ chính là "Không gian" cùng "Thời gian", trong đẩu số gọi là đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật các loại.
(hai) qui tắc:
Tử Vi Đẩu Số " lý, tượng, khí, số ( diễn dịch qui tắc, đại thể trước tiên lấy tứ hóa phi tinh ở mệnh bàn khởi điểm quan sát thùy "Tượng", mà "Tượng" sau khi trải qua "thiên can huyền độ phi hóa", hình thành bản dịch, giao dịch cùng biến dịch các loại âm dương biến hóa, hiện ra cát hung tựu tại "Khí", trải qua hành vận không gian trưng nghiệm, ứng với địa chi thời gian - là "Số", lấy "Lý" xâu chuỗi thành MỘT. MỘT này, là kết quả, đáp án.
Bốn, theo qui tắc trên, "Khí" và "Số" chính là ứng với hành vận, hành vận hay chính là đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, cho nên học Tử Vi Đẩu Số nhất định phải trước tiên hiểu được nội hàm của "Lập cực" và "Tượng", chờ sau khi thông hiểu toàn thể, lại tuần tự học tập"Khí" (quan sát cát hung) cùng "Số" (ứng thời), thì "Lý" sẽ lại nội hàm trong đó. Nói cách khác, thể theo phương thức học tập như này, có thể tránh khỏi tự loạn lý tự, dẫn tới kết quả là "dục tốc bất đạt".
...
Hóa Kị+Tự hóa Kỵ ở cung tử tức, có nghĩa là có cơ hội để "Đào Hoa" nhưng cơ hội này sẽ biến mất sớm.
Hóa Lộc+ Tự hóa Lộc ở cung tử tức, nghĩa là Lộc xuất. Khi đó Lộc xuất sẽ chảy tới cung có hóa kị nguyên thủy, theo nguyên tắc Lộc tùy Kị Lai.
Hóa Kị+Tự hóa Kỵ ở cung tử tức, có nghĩa là có cơ hội để "Đào Hoa" nhưng cơ hội này sẽ biến mất sớm.
Hóa Lộc+ Tự hóa Lộc ở cung tử tức, nghĩa là Lộc xuất. Khi đó Lộc xuất sẽ chảy tới cung có hóa kị nguyên thủy, theo nguyên tắc Lộc tùy Kị Lai.

...
Kết hợp ý nghĩ cung vị và các ý nghĩa phi hóa trong tài liệu được dịch của cuốn tứ hóa và tam họp Trung châu thì hiểu được chứ có gì đâu. Tôi thì chưa hiểu vì đầu đất và không có thời gian để đào vào đó. NTT có thể chia xẻ cái gì đó để hiểu nhanh hơn được thì tốt quá. Đỡ phải đọc, nghiền ngẫm, so sánh, đúc kết quy luật.
Cái hình hôm trước có ba tầng, tầng dưới cùng có mũi tên đỏ bắn sang cung đối, sau đó không thấy đi ngược lên các tầng trên, theo hướng nào, nên vẫn khó hiểu quá.
...
Em xin bổ sung thêm có gì sai anh chỉ bảo thêm cho em: lưu quan phúc để dùng tài thiên hợp sức chế tài địa.
Có vài chỗ chưa hiểu với lí thuyết chế hoá sát tinh mong anh giải đáp cho:
- vai trò của khôi việt với quang quý như thế nào với không kiếp?
- vài trò của thai toạ với quan phúc như nào với hoả linh?
- cách an của thai toạ nữa?
Bản chất hóa học của Không Kiếp là nitroglycerine loại chất lỏng nhớt không màu, khi gặp Hỏa Linh sẽ nổ với tốc độ truyền nổ là 7700 m/s.
Khôi Việt là anh chàng kỹ sư, Quang Quý là thông minh. Khôi Việt Quang Quý là chàng kỹ sư đến từ Harvard có thể dùng thuốc nổ để phá núi mở đường hay đào hầm thông cống, chứ để nitroglycerine vào tay mấy anh hàng chợ, các anh ấy lần sờ như sờ rốn Ngọc Trinh thì nó nổ cái bum không báo trước. Vì nitroglycerine rất nhạy với tác động vật lý.
4 C3H5(ONO2)3(
)
12 CO2(g) + 10 H2O(g) + 6 N2(g) + O2(g)
Phản ứng oxy hóa xảy ra tức thời. Nguyên tử carbon đạt số oxy hóa cao nhất là +4, nguyên tử nitrogen từ +5 nhận điện tử về 0, nguyên tử oxygen từ -2 cho điện tử về 0. Nitrogen trong chất nổ đóng vai trò là chất oxy hóa mạnh, mạnh hơn cả oxygen không khí. Bằng chứng là N+5 còn đẩy ngược khí oxy ra khỏi hợp chất. Từ 4 mol lỏng nổ đánh bum ra 29 mol khí, cho nên sức nổ gấp 1.5 lần TNT.
Tứ hóa thiên can chính là tinh túy của tử vi đẩu số, nếu như vận dụng chính xác thì tài năng tăng tiến vạn dặm, nếu không biết vận dụng thì chỉ là nói nhảm.
Tại thiên bàn mà nói, Tứ hóa được an theo thiên can của năm, ví dụ sinh năm Canh Thân thì Thái Dương Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Quyền, Thái Âm Hóa Khoa, Thiên Đồng Hóa Kị. Tại đại vận 10 năm, Tứ hóa được dựa theo thiên can của cung để an tứ hóa.
Khía cạnh lưu niên tứ Hóa, theo lưu niên nơi chi cung hoạt động như lưu niên mệnh cung, dùng thiên can để an tứ hóa.
Llưu nguyệt tứ Hóa, từ lưu niên mệnh cung khởi đi, đếm nghịch theo tháng sinh, đếm thuận theo giờ an tháng giêng, sau đó dùng ngũ hổ độn để an tứ hóa. Tương tự với Lưu Nhật và Lưu thời hạn.
Cung can tứ Hóa pháp: Phương pháp trung tâm của Tử Vi Lý Số "cung can tứ Hóa pháp", dựa vào vị trí đi vào đi ra của các sao tứ hóa mà ta luận cát hung.
Bây giờ phương pháp này có thể sử dụng tại thiên bàn, lưu vận và lưu niên, nhưng khi dùng với lưu niên phải lấy cung tuổi của năm tiểu hạn để lập tứ hóa 12 cung.
Có khác một điểm phải chú ý chính là, này phương pháp đó có thể thấy được sự cát hung nhưng chỉ là tương đối. Mệnh cung Phi Hóa:
Phi Hóa cơ bản gồm có sao tự Hóa, Hóa nhập, Hóa xuất. Như:
Tứ Hóa nhập mệnh cung, Quan Lộc, tài bạch, Cung Điền Trạch như Hóa nhập. Như: Hóa Lộc nhập nhập tứ cung vị chủ kiếm tiền. Hóa Quyền nhập nhập tứ cung chủ có thực Quyền. Hóa Khoa nhập nhập tứ cung chủ có quý nhân hiện. Hóa Kị nhập nhập tứ cung chủ giữ tiền.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch như Hóa nhập, chủ đầu tư, nhưng kiếm tiền ít,lao lực Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Quan Lộc như Hóa nhập, chủ đầu tư, nhưng không nhất định kiếm tiền. Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch như Hóa nhập, chủ giữ tiền, tiết kiệm.
Tứ Hóa nhập anh em, phu, tử, tật, thiên, nô, phúc, phụ... cung vị như Hóa xuất.
Hóa Lộc nhập nhập cung vị như Hóa xuất, giữ tiền không được. Hóa Quyền nhập nhập cung vị như Hóa xuất, chủ hỉ tranh Quyền, biến thành có tranh chấp. Hóa Khoa nhập nhập cung vị như Hóa xuất, chủ quý nhân không hiện. Hóa Kị nhập nhập cung vị như Hóa xuất, chủ tổn hại tài. Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tử nữ cung như Hóa xuất, chủ đầu tư, nhưng không nhất định kiếm tiền. Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập thiên di như Hóa xuất, chủ tại ngoại kiếm tiền nan, không thuận.
Phi Hóa chú ý tam phương tứ chính.
Tam phương: Quan Lộc, tài bạch, thiên di cung. Tứ chính: mệnh cung hợp tam phương đồng đều tam phương tứ chính. Mệnh cung, tử nữ cung, thiên di cung, Cung Điền Trạch, cũng đồng đều tứ chính vị. Tứ chính vị: đại biểu dịch mã, biến hoạt động. Thiên di cung Hóa Kị nhập tử nữ, như dịch mã, trùng với Cung Điền Trạch chủ xuất quốc, ra ngoài.
Mệnh cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:
Mệnh cung tự Hóa Lộc nhân duyên tốt đẹp, cá tính ganh đua độc lập, trí tuệ cũng ganh đua cao.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung có huynh đệ, cùng với huynh đệ ganh đua có duyên phận, kháo huynh đệ hướng đến hỗ trợ thành công.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập phu thê cung hôn nhân duyên tảo, dị tính chất bạn bè ganh đua đa.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung có tử nữ, đông tử nữ, nên quý tử.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch kiếm tiền dễ, dựa vào chính mình nỗ lực kiếm tiền, thả biến thành có nghiêng về tài vận.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập tật ách cung như nhân ganh đua nhạc quan, biến thành có tính trơ.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập thiên di cung người ở bên ngoài duyên tốt đẹp, quý nhiều người, kiếm tiền gặp dịp đa, tại ngoại đắc ý.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung tại ngoại bạn bè đa, giao tế ứng thù cũng đa, bạn bè bang hỗ trợ đại.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung công tác khinh tông tiền lương cao, sang nghiệp ganh đua có thể kiếm tiền.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch gia đình hoàn cảnh tốt đẹp, bố trí hào hoa, thả có tổ nghiệp.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung đa hưởng thụ, già vận tốt, phúc trạch tốt đẹp.
Mệnh cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung có dài bối duyên, thưởng tứ, đề bạt.
Mệnh cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:
Mệnh cung tự Hóa Quyền cá tính khả năng, hỉ chưởng Quyền, thông minh có khả năng.
Mệnh cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung có huynh đệ, hỗ trợ như tranh Quyền, ý kiến ganh đua đa.
Mệnh cung Hóa Quyền nhập phu thê cung hỗ trợ như tranh Quyền, ý kiến ganh đua đa.
Mệnh cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung tử nữ đa, cá tính ganh đua khả năng, cái ống nữ ganh đua nghiêm.
Mệnh cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch chưởng tài, chủ sang nghiệp, thích hợp việc buôn bán.
Mệnh cung Hóa Quyền nhập tật ách cung niên thiếu đa tai, điều da, hoa đào đa, tham sắc dục khả năng.
Mệnh cung Hóa Kị nhập thiên di cung tại ngoại không thuận, biến hóa tính chất đại, đa tố ít thành.
Mệnh cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung như sự nghiệp quan tâm bận rộn, công tác thời gian đa, đoạt được ít.
Mệnh cung Hóa Kị nhập nô bộc cung bạn bè tương xử không tốt, không cách nào bang hỗ trợ.
Mệnh cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch giữ tiền nô, tổ nghiệp không phong, gia nội lăng loạn.
Mệnh cung Hóa Kị nhập phúc đức cung phúc đức yếu kém, hưởng thụ ít, lao lục.
Mệnh cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung phụ mẫu duyên bạc, thân đa tai, khiếm tốt đẹp.
Thiên di cung Phi Hóa:
Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:
Thiên di cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: tại ngoại kiếm tiền, chính có thể hưởng thụ.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: tại ngoại có thể được huynh đệ hướng đến hỗ trợ kiếm tiền, cũng có thể bang hỗ trợ huynh đệ.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập phu thê cung: tại ngoại sự nghiệp đắc ý, có thể được đáo phối ngẫu hướng đến hỗ trợ.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã nghi ra ngoài, xuất quốc.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại tài vận.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập tật ách cung: tại ngoại như ý, thể xác và tinh thần khoái trá, nhân duyên tốt đẹp.
Thiên di cung tự Hóa Lộc: tại ngoại đắc ý, kiếm tiền dễ, tự kiếm tự hoa, tại ngoại thời gian dài.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: tại ngoại bạn bè đa, nhân duyên tốt đẹp, giao tế quảng, có thể được bạn bè hướng đến hỗ trợ.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: tại ngoại kiếm tiền gặp dịp đa.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: chủ biến hoạt động, dịch mã, nghi xuất ngoại.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: tại ngoại tài vận tốt đẹp, bằng lòngkhả hưởng thụ.
Thiên di cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: tại ngoại có dài bối quý nhân, ít quan tâm.
Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:
Thiên di cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: nhân duyên tốt đẹp, tại ngoại có quý nhân.
Thiên di cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: tại ngoại có huynh đệ bang hỗ trợ.
Thiên di cung Hóa Khoa nhập phu thê cung: tại ngoại sự nghiệp bình thuận, làm cho phối ngẫu vô buồn phiền ở nhà.
Thiên di cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã hoạt động là dấu hiệu, nhưng thuận lợi.
Thiên di cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại tài vận bình thuận.
Thiên di cung Hóa Khoa nhập tật ách cung: nhân duyên tốt đẹp, có quý nhân.
Mệnh cung Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại không thuận, biến hóa tính chất đại, đa tố ít thành.
Mệnh cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: như sự nghiệp quan tâm bận rộn, công tác thời gian đa, đoạt được ít.
Mệnh cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: bạn bè tương xử không tốt, không cách nào bang hỗ trợ.
Mệnh cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: giữ tiền nô, tổ nghiệp không phong, gia nội lăng loạn.
Mệnh cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: phúc đức yếu kém, hưởng thụ ít, lao lục.
Mệnh cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: phụ mẫu duyên bạc, thân đa tai, khiếm tốt đẹp.
Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:
Thiên di cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: tại ngoại đắc ý, dục chưởng Quyền, biến thành có tranh chấp.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: tại ngoại anh em bạn bè đa, giao tế cổ tay tốt đẹp.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập phu thê cung: tại ngoại đắc ý, phối ngẫu chưởng Quyền, biến thành có ý định kiến.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã, hoạt động là dấu hiệu ganh đua tiểu.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại như tài bận rộn.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập tật ách cung: tại ngoại như ý, Quyền năng lực, dục vọng cao, biến thành có phân tranh.
Thiên di cung tự Hóa Quyền: tại ngoại dục chưởng Quyền, hỉ bảng hiện, biến thành đắc tội tiểu nhân, thả cá tính khả năng.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: tại ngoại anh em bạn bè đa, giao tế cổ tay tốt đẹp.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: sang nghiệp có xung kính, trách nhiệm tâm trọng, nhậm chức biến thành thụ thủ trưởng thưởng thức.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: chủ biến hoạt động, dịch mã, hoạt động là dấu hiệu ganh đua tiểu.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: tại ngoại tài tốt đẹp, hưởng thụ ganh đua hải phái.
Thiên di cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: tại ngoại có dài bối, quý nhân thích giờ bang hỗ trợ.
Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Kị:
Thiên di cung Hóa Kị nhập mệnh cung: người ở bên ngoài duyên không tốt, có ý định ngoại hướng đến tai, không thuận.
Thiên di cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: tại ngoại anh em bạn bè đa tổn hại, giao tế cổ tay yếu kém.
Thiên di cung Hóa Kị nhập phu thê cung: tại ngoại không thuận, thay phối ngẫu tăng ma phiền, thả sự nghiệp không thuận.
Thiên di cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã, ganh đua không thuận.
Thiên di cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại cầu tài không như ý.
Thiên di cung Hóa Kị nhập tật ách cung: tại ngoại không thuận, ảnh hưởng thể xác và tinh thần.
Thiên di cung tự Hóa Kị: xuất ngoại không thuận, thường có tranh chấp, nhân duyên khiếm tốt đẹp, cá tính ganh đua cổ quái.
Thiên di cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: tại ngoại tổn hại và anh em bạn bè, tăng ma phiền, thả anh em bạn bè không giúp được gì.
Thiên di cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: tại ngoại đa tố ít thành, hành sự không thuận.
Thiên di cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: chủ biến hoạt động, dịch mã, ganh đua không thuận.
Thiên di cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: tại ngoại không như ý, phúc trạch yếu kém, lao lục.
Thiên di cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: tại ngoại hành sự không thuận, nhượng phụ mẫu quan tâm.
Cung Tài Bạch Phi Hóa
Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Lộc:
Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập mệnh cung: dựa vào chính mình năng lực kiếm tiền.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: kiếm tiền sau khi bang hỗ trợ huynh đệ.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập phu thê cung: kiếm tiền sau khi, có thể âm phối ngẫu.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập tử nữ cung: hợp khỏa sự nghiệp có thể kiếm tiền, có thể tử nữ ganh đua có tiền.
Cung Tài Bạch tự Hóa Lộc: chính kiếm tiền, chính hoa, tiền lai được dễ, hoa được khinh tông.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập tật ách cung: kiếm tiền ganh đua khinh tông, khoái trá.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập thiên di cung: tại ngoại đắc ý, xuất ngoại kiếm tiền gặp dịp đa.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập nô bộc cung: kháo bạn bè bang hỗ trợ kiếm tiền có thể gặp gỡ tư hỗ trợ bạn bè.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: tài do sự nghiệp thượng lưu kiếm lai.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: đầu tư không nhúc nhích sản cung nghiệp.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập phúc đức cung: kiếm liễu tiền, chính có phúc hưởng thụ.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: có dài bối quý nhân tương trợ, có thể hiếu kính phụ mẫu.Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Quyền:Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập mệnh cung: dựa vào chính mình, đối tài là dục vọng đại, có tiền nghĩ tái tăng.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: kiếm tiền sau khi, bang hỗ trợ huynh đệ có thể tài Quyền rơi vào huynh đệ trong tay.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập tử nữ cung: đầu tư kiếm tiền tái tăng tư.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập phu thê cung: tài Quyền rơi vào phối ngẫu trong tay.Cung Tài Bạch tự Hóa Quyền: tiền tài dục vọng cao, thả tự chưởng tài Quyền, độc tư tốt đẹp.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập tật ách cung: kiếm tiền ganh đua bận rộn, lao tâm.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập thiên di cung: tại ngoại hoạt động năng lực khả năng, kiếm tiền gặp dịp đa.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập nô bộc cung: bằng lòngkhả cùng với bạn bè hợp khỏa đầu tư, nhưng tài tiền nắm giữ tại bạn bè trong tay.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: đầu tư kiếm tiền hậu, nghĩ tái tăng tư.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: đầu tư không nhúc nhích sản, kiếm tiền tái đầu tư, đầu tư dục khả năng.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập phúc đức cung: hưởng thụ ganh đua hải phái.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: cần tiền giờ, có thể được đáo dài bối bang hỗ trợ.
Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Khoa:Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập mệnh cung: tiền kiếm nhiều ít, toán nhiều ít, không hoạt động mạnh rất, theo đó ngộ mà an.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: lượng nhập như xuất, bang hỗ trợ huynh đệ.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập phu thê cung: tiền tài vững vàng, phối ngẫu như quý nhân một trong.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập tử nữ cung: hợp khỏa sự nghiệp bình thuận, kiếm tiền nhiều ít toán nhiều ít, bất kể ganh đua.Cung Tài Bạch tự Hóa Khoa: tài nguồn gốc bình thuận, vô phong ba.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập tật ách cung: kiếm tiền ganh đua khinh tông, bình thuận.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập thiên di cung: tại ngoại cầu tài bình thuận, quý nhân hiện.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập nô bộc cung: bạn bè sẽ không tổn hại đáo chính là tiền tài.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập Quan Lộc cung: sự nghiệp đầu phí, tài năng lực vững vàng.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: tài cầm lại gia dụng, bình thuận tiết kiệm, lượng nhập như xuất.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập phúc đức cung: lượng nhập như xuất hướng đến hưởng thụ.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: kiếm tiền bình thuận, sẽ không nhượng phụ mẫu thương thần.Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Kị:
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập mệnh cung: giữ tiền, kiếm tiền không dễ dàng nhưng tiết kiệm.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập huynh đệ cung: vì huynh đệ việc phá tài, có thể tài rơi vào huynh đệ trong tay.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập phu thê cung: vì phối ngẫu việc mà phá tài có thể kiếm là tiền rơi vào phối ngẫu trong tay.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tử nữ cung: đầu tư không nhất định kiếm tiền, tử nữ tiêu vặt rất ít.
Cung Tài Bạch tự Hóa Kị: tự kiếm tự hoa, nhưng kiếm tiền ganh đua khổ cực.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tật ách cung: kiếm tiền lao lục chúc kháo thể hiện ra năng lực lao hoạt động người.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại không thuận, kiếm tiền nan, đầu tư tổn hại thất, hoa tiền ganh đua lận.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập nô bộc cung: vì bạn bè tổn hại tài.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: đầu tư sự nghiệp, không nhất định kiếm tiền.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: giữ tiền không đổi, thả tiền tài không tụ.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập phúc đức cung: mặc kệ kiếm tiền cùng với phủ, quân quan trọng hưởng thụ, thị phi ganh đua đa.
Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: chu chuyển ganh đua gặp gỡ không được, khủng vì tài thương thân.
Quan Lộc cung Phi Hóa:
Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: dựa vào chính mình năng lực kiếm tiền, sự nghiệp làm được ganh đua bình thuận.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: sự nghiệp kháo huynh đệ giúp việc, hợp khỏa sự nghiệp kiếm tiền.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập phu thê cung: sự nghiệp có thể được đáo phối ngẫu là bang hỗ trợ, thả bình thuận kiếm tiền.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: bằng lòngkhả kinh doanh hợp khỏa sự nghiệp, thích hợp ngu nhạc sự nghiệp.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: kiếm liễu tiền tái đầu tư, tư kim đủ.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập tật ách cung: công tác ganh đua khinh tông, khoái trá.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập thiên di cung: tại ngoại có quý nhân, sự nghiệp tại ngoại đắc ý.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: đồng sự tương xử hòa hợp, cùng với bạn bè hợp tư sự nghiệp kiếm tiền.
Quan Lộc cung tự Hóa Lộc: có sang nghiệp năng lực, chính kiếm tiền chính hoa.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: kinh doanh không nhúc nhích sinh sản ý.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: sự nghiệp gặp gỡ kiếm tiền, cũng có thể hưởng thụ.
Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: sự nghiệp có thể được phụ mẫu chi trì, nhậm chức ganh đua địa vị cao.
Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: như sự nghiệp bận rộn, tự chưởng Quyền, sang nghiệp năng lực khả năng.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: hợp khỏa đầu tư kiếm tiền, kinh doanh Quyền tại huynh đệ trong tay.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập phu thê cung: sự nghiệp vì phối ngẫu hướng đến hỗ trợ kiếm tiền, kinh doanh Quyền tại phối ngẫu trong tay.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: kiếm tiền dục vọng đại.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền dục vọng đại, tái đầu tư.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập tật ách cung: trách nhiệm cảm trọng, ganh đua lao tâm.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập thiên di cung: tại ngoại sự nghiệp đắc ý, kiếm tiền gặp dịp đa.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: bạn bè chưởng sự nghiệp kinh doanh Quyền, đầu tư sự nghiệp kiếm tiền.
Quan Lộc cung tự Hóa Quyền: đối sự nghiệp ganh đua có sang nghiệp năng lực, sự nghiệp tâm trọng.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: doanh không nhúc nhích sinh sản ý, nhưng dục vọng cao.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: sự nghiệp kiếm tiền, thả bài tràng đại.
Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: sự nghiệp có thể được phụ mẫu dài bối chi trì, Quyền tại dài bối trong tay.
Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: sự nghiệp bình thuận, thích hợp nhậm chức trên dưới ban như nghi.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: hợp khỏa đầu tư sự nghiệp bình thuận, đây đó vô tình kiến, vô khẩu thiệt hướng đến tranh.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập phu thê cung: sự nghiệp vững vàng, phối ngẫu mong muốn không nên vì sự nghiệp thái lao luy.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: đầu tư sự nghiệp bình thuận.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền bình thuận, phong ba tiểu.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập tật ách cung: công tác khinh tông, thấy bình thản.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập thiên di cung: sự nghiệp tại ngoại có quý nhân tương trợ, bình thuận.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập nô bộc cung: cùng với đồng sự tương xử hòa hợp, sự nghiệp bình thuận.
Quan Lộc cung tự Hóa Khoa: sự nghiệp ganh đua bình thuận.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: kinh doanh không nhúc nhích sinh sản ý vững vàng.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập phúc đức cung: tài vững vàng, vô đại phong ba.
Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: phụ mẫu dài bối như sự nghiệp thượng lưu là quý nhân, nhậm chức tắc bình thuận.
Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Kị:
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập mệnh cung: sự nghiệp không thuận, lao tâm lao lực, thường nghĩ biến đổi công tác, biến động công hành động.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: đầu tư sự nghiệp không thuận, đây đó ganh đua đa ý kiến phân tranh.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập phu thê cung: phối ngẫu tại sự nghiệp thượng lưu bang không hơn mang. Sự nghiệp biến hóa đại.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: sự nghiệp biến hóa đại, hợp khỏa bất lợi.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền ganh đua nan, đầu tư thu về mạn, tư kim không đủ.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập tật ách cung: trách nhiệm cảm trọng, nhưng ganh đua lao lục, thả sự nghiệp không thuận.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại công tác thường biến hoạt động có thể không thuận.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: vì sự nghiệp liên quan hệ, nhượng bạn bè quan tâm.
Quan Lộc cung tự Hóa Kị: sự nghiệp ganh đua không thuận, kiếm tiền ganh đua nan.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: kinh doanh không nhúc nhích sản, nhưng kiếm được ít. Thả ganh đua lao lục.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: sự nghiệp kinh doanh không giỏi, phá tài, phúc trạch yếu kém.
Quan Lộc cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: sự nghiệp không chiếm được dài bối hướng đến hỗ trợ.
Phu thê cung Phi Hóa:
Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:
Phu thê cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: phu thê duyên tốt, cảm tình tốt đẹp.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, gặp gỡ chiếu cố anh em bạn bè.
Phu thê cung tự Hóa Lộc: phối ngẫu nhân duyên tốt đẹp, cá tính theo đó hòa.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ có duyên, đối tử nữ tốt.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: phu thê cảm tình tốt đẹp, thả đối chính hướng đến tiền tài có bang hỗ trợ.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập tật ách cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, quan tâm của ngươi thân, có ái tâm.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập thiên di cung: phu thê duyên tảo, cảm tình tốt đẹp, bang hỗ trợ kiếm tiền.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, gặp gỡ chiếu cố anh em bạn bè.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu đối sự nghiệp có bang hỗ trợ, thả phối ngẫu người ở bên ngoài duyên tốt đẹp.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu cùng với bạn bè tốt đẹp, thả phù thê cảm tình tốt, sinh hoạt mĩ mãn.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: phối ngẫu chính có việc nghiệp, có thể bang hỗ trợ tiền tài, có thể hưởng thụ.
Phu thê cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu duyên tốt đẹp, tương xử dung 冾.
Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:
Phu thê cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, tương xử hòa hợp.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: phối ngẫu đối chính là anh em bạn bè theo đó hòa.
Phu thê cung tự Hóa Khoa: phối ngẫu nhân duyên tốt đẹp, tốt mặt mũi, cá tính theo đó hòa, gia thế thanh minh.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: đối tử nữ ganh đua có ái tâm.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: phu thê cảm tình tốt đẹp, một tiền giờ hoàn gặp gỡ giúp ngươi điều độ.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập tật ách cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, có ái tâm, quan tâm thân.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập thiên di cung: phối ngẫu như quý nhân bang thủ, làm cho tại ngoại ganh đua bình thuận.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập nô bộc cung: phối ngẫu đối chính là anh em bạn bè theo đó hòa.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu người ở bên ngoài duyên tốt đẹp, bình thuận, đối sự nghiệp có bang hỗ trợ.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu cùng với chính hắn là bạn bè tương xử hòa hợp, gia đình sinh hoạt mĩ mãn.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập phúc đức cung: phối ngẫu chính hướng đến công tác vững vàng, lượng nhập như xuất.
Phu thê cung Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu tương xử dung 冾, gia đình hoàn cảnh tốt đẹp.
Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:
Phu thê cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: phu thê duyên tốt, nhưng ý kiến đa.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, nhưng là hiểu ý kiến ganh đua đa.
Phu thê cung tự Hóa Quyền: phối ngẫu cá tính khả năng, gặp gỡ quản đối phương.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: hỉ cái ống nữ và chính là huynh đệ, đối điền trạch dục vọng cao.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: phối ngẫu chưởng tài Quyền, đối chính hướng đến tài có thể thích giờ bang hỗ trợ.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập tật ách cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, khả năng chế tính chất quan tâm của ngươi thân, hoa đào cũng đa.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập thiên di cung: ganh đua gặp gỡ quản, thường tại ngoại giao tế ứng thù.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, nhưng ý kiến đa.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu tại ngoại chưởng Quyền, để tránh khỏi đắc tội với người. Thả chính chưởng kinh doanh Quyền.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu ganh đua gặp gỡ quản chính hắn là bạn bè, thả tại gia cũng vậy dục chưởng Quyền.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: phối ngẫu chưởng chính chuyện nghiệp Quyền, có thể bang hỗ trợ tiền tài, có hưởng thụ.
Phu thê cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu ý kiến đa, nhưng duyên phận tốt đẹp.
Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Kị:
Phu thê cung Hóa Kị nhập mệnh cung: phu thê tương xử không hòa hợp, đa câu oán hận.
Phu thê cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: phối ngẫu cùng với anh em bạn bè vô ấn tượng tốt, vô duyên.
Phu thê cung tự Hóa Kị: phu thê duyên bạc, nhân duyên bất hảo.
Phu thê cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: phối ngẫu đối tử nữ không tốt, có thể bất công, tại gia không thói quen.
Phu thê cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: phu thê vì tài khởi tranh chấp, thả phù thê cảm tình bất hảo.
Phu thê cung Hóa Kị nhập tật ách cung: phu thê cảm tình không tốt, tính chất sinh hoạt không phối hợp, hoa đào đa.
Phu thê cung Hóa Kị nhập thiên di cung: phối ngẫu tại ngoại không giúp được gì, thả phù thê duyên bạc, cá tính bất hòa.
Phu thê cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: phối ngẫu cùng với anh em bạn bè vô ấn tượng tốt, vô duyên.
Phu thê cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu tại ngoại không thuận, đối việc của mình nghiệp một bang hỗ trợ.
Phu thê cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu cùng với chính hắn là bạn bè tương xử không tốt, bạn bè ít. Phu thê cảm tình khiếm tốt đẹp.
Phu thê cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: phối ngẫu sự nghiệp không thuận có thể như gia đình chủ phụ.
Phu thê cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu bất hòa, làm cho chính tinh thần yếu kém, thả phối ngẫu keo kiệt.
Tật ách cung Phi Hóa
Tật ách cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:
Tật ách cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: có người duyên, nhạc quan, thân tốt đẹp.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ có duyên, cảm tình tốt đẹp.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập phu thê cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, đông ái thê ( phu ) tử, tính chất sinh hoạt đa.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên tốt đẹp, đông tử nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, một tiết chế.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: tài vận tốt đẹp, tiền kiếm được khinh tông, ganh đua có dài bối quý nhân hỗ trợ.
Tật ách cung tự Hóa Lộc: như nhân nhạc quan, bất kể ganh đua.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập thiên di cung: người ở bên ngoài duyên tốt đẹp, bạn bè đa, hỉ ngoạn nhạc.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: cùng với bạn bè duyên tốt đẹp, bạn bè đa, thả hoa đào ganh đua đa.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: công tác khinh tông khoái trá, đồng sự gian tương xử sự hòa thuận.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: có tài vận, thân tốt đẹp, tại gia bình thuận.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: nhân duyên tốt đẹp, phúc trạch tốt, thả thân tốt đẹp.
Tật ách cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: cùng với dài bối có duyên phận, quý nhiều người, tại ngoại đắc ý.
Tật ách cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:
Tật ách cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: cá tính khả năng, niên thiếu đa tai.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ gặp gỡ có ý định kiến, gặp gỡ quản huynh đệ.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập phu thê cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, tham sắc dục đa, nhưng ganh đua gặp gỡ quản phối ngẫu, thường có ý định kiến.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên tốt đẹp, cái ống nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, một tiết chế.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền ganh đua bận rộn, tiền là dục vọng đại, ganh đua lao tâm.
Tật ách cung tự Hóa Quyền: cá tính khả năng thả cổ quái, trưởng thành sớm.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập thiên di cung: tại ngoại bận rộn, nhân duyên tốt đẹp, cùng với bạn bè ganh đua có ý định kiến.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: cùng với bạn bè duyên tốt đẹp, nghĩ giao càng nhiều là bạn bè.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: công tác ganh đua lao tâm, trách nhiệm cảm trọng, quản bộ chúc đồng sự.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: tài dục vọng cao, tại gia chưởng Quyền.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: nhân duyên tốt, năng lực khả năng, nhưng lao lục lao tâm, thả đa tai.
Tật ách cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: có dài bối thích giờ bang hỗ trợ, tại ngoại thường có ý định kiến tranh chấp.
Tật ách cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:
Tật ách cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: nhân duyên tốt đẹp, nhạc quan, thể xác và tinh thần khoái trá.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ cảm tình gặp gỡ, thích bằng lòngkhả mà chỉ.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập phu thê cung: cùng với phối ngẫu cảm tình bất hòa hài.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên tốt đẹp, đông tử nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, nhưng có tiết chế.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: tiền tài bình thuận, lượng nhập như xuất.
Tật ách cung tự Hóa Khoa: thân tốt đẹp, phong độ tốt, bệnh có lương y.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập thiên di cung: người ở bên ngoài duyên tốt đẹp cùng với bạn bè gặp gỡ thích bằng lòngkhả mà chỉ, tại ngoại bình an.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập nô bộc cung: trạch bạn bè mà giao, vô tổn hại bạn bè.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập Quan Lộc cung: công tác khinh tông, đồng sự tương xử dung 冾.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: tại gia bình thuận, tiền tài lượng nhập như xuất.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập phúc đức cung: nhân duyên tốt đẹp, thân cũng tốt đẹp, có quý nhân.
Tật ách cung Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: cùng với dài bối tương xử hòa hợp, có dài bối quý nhân, tại ngoại bình thuận.
Tật ách cung vì Hóa phi sao -- Hóa Kị:
Tật ách cung Hóa Kị nhập mệnh cung: thân yếu kém, cùng với bạn bè gặp gỡ tổn hại hại đáo chính thân.
Tật ách cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ duyên phận mỏng, cảm tình không tốt.
Tật ách cung Hóa Kị nhập phu thê cung: cùng với phối ngẫu cảm tình mỏng, sinh hoạt bất hòa hài.
Tật ách cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên bạc, cái ống nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, nhưng có tiết chế.
Tật ách cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: tiền tài không thuận, như tài lao lục mà thương thân.
Tật ách cung tự Hóa Kị: thể hiện ra nhược thả ganh đua đa bệnh, lao lục, trưởng thành sớm.
Tật ách cung Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại không thuận, cùng với bạn bè gặp gỡ tổn hại và thân, thả ganh đua đa tai.
Tật ách cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: cùng với bạn bè duyên bạc, vì bạn bè mà tổn hại hại thân.
Tật ách cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: công tác không thuận, lao tâm lao lực, đồng sự tương xử không hòa hợp.
Tật ách cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: tiền tài không thuận, thân khiếm tốt đẹp, lao lục.
Tật ách cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: thể hiện ra nhược đa bệnh, nhân duyên không tốt, phúc trạch yếu kém.
Tật ách cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: cùng với dài bối tương xử không tốt, thân cũng không tốt. Tại ngoại không như ý.
Cái khác huynh đệ cung, tử nữ cung, nô bộc cung, Cung Điền Trạch, phúc đức cung, phụ mẫu cung Phi Hóa, tự hành biến thông.
Cách sử dụng tứ hóa phi tinh:
Trừ tứ hóa (của?) của cung vị cố định trên lá số, thì lá số có thể linh hoạt vận dụng.
Như cung huynh đệ của bản mệnh, cũng là cung điền trạch của tài bạch, có thể suy ra sự chu chuyển của tiền bạc có hay khôngHuynh đệ cung Hóa Kị nhập phúc đức cung trùng với tài cung: mượn không được tiền, hướng bạn bè tiền tài chu chuyển, có khó khăn.
Cung Tài Bạch-Hóa Kị nhập nô bộc cung trùng với huynh đệ cung: mượn không được tiền, hướng bạn bè tiền tài chu chuyển có khó khăn.
Huynh đệ cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch trùng với phúc đức cung: trùng với trước mượn không được tiền, trùng với sau khi bằng lòngkhả mượn đáo.
Tật ách cung trừ nhìn bản thân trạng huống ở ngoài, hoàn hãy nhìn sự nghiệp doanh vận là trạng thái, bởi vì, tật ách cung cũng Quan Lộc cung là Cung Điền Trạch.
Tấn ách cung-Hóa Kị nhập phúc đức cung xung với Cung Tài Bạch: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.
Tật ách cung Hóa Kị nhập phu thê cung xung với Quan Lộc cung: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.
Tật ách cung Hóa Kị nhập thiên di cung xung với mệnh: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.
Tật ách cung Hóa Kị nhập mệnh cung xung với thiên di cung: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.
Tật ách cung tứ Hóa, Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung, Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch, Hóa Khoa nhập thiên di cung: quân chủ sự nghiệp kiếm tiền.
Nô bộc cung cũng phúc đức cung là Cung Điền Trạch, như Hóa Kị nhập tử nữ cung, trùng với chính là Cung Điền Trạch, tắc gặp gỡ tổn hại chính là tài cách.
Phụ mẫu cung cũng phu thê cung là Cung Điền Trạch: như cha mẫu cung Hóa Kị nhập tử nữ cung lai trùng với chính là điền trạch, phu thê là điền trạch trùng với chính là Cung Điền Trạch, biểu thị chủ phu thê bất hòa, tại gia đãi không được, thả hướng thái thái quan trọng tiền ganh đua nan.
Phụ mẫu cung Hóa Kị nhập thiên di cung trùng với Cung Điền Trạch: chủ phu thê duyên bạc, kết hôn muộn.
Phụ mẫu cung Hóa Kị nhập tử nữ cung trùng với Cung Điền Trạch, bảng phu thê là điền trạch trùng với chính là điền trạch, chủ bổn gia cùng với nhà mẹ đẻ bất hòa, cũng họ Chủ Phụ mẫu cùng với chính vô duyên.
Phu thê cung đúng là tật ách cung là Cung Điền Trạch, phu thê cung Hóa Kị nhân phụ mẫu cung trùng với tật ách cung, chủ phu thê duyên bạc.
Cung Tài Bạch nô bộc cung là điền trạch, Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tử nữ cung trùng với Cung Điền Trạch, chủ tài không tụ, cùng với bạn bè đầu tư hợp khỏa, tiền gặp gỡ bị lấy đi.
Phúc đức cung như huynh đệ là Cung Điền Trạch, phúc đức cung Hóa Kị nhập nô bộc cung trùng với huynh đệ cung, chủ anh em bạn bè vô duyên, cũng chủ không thể cân gặp gỡ.
Phúc đức cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung trùng với nô bộc cung: chủ anh em bạn bè vô duyên, không thể cân gặp gỡ có thể trước thời gian tiêu gặp gỡ.
Nô bộc cung như phúc đức cung là Cung Điền Trạch, nô bộc cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch trùng với phúc đức cung: chủ cùng với tài có liên quan, cũng không có thể tham gia tiêu gặp gỡ có thể trùng với trước, không nên cân gặp gỡ, trùng với sau khi tắc bằng lòngkhả.
Thiên di cung như Cung Điền Trạch là Cung Điền Trạch, vì Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập thiên di cung trùng với mệnh cung, chủ biến hoạt động gặp gỡ dọn nhà, tài sản dựa vào chính mình tránh.
Tử nữ cung như nô bộc cung là Quan Lộc cung, nhìn hợp khỏa đầu tư.
Tử nữ cung Hóa Kị nhập thiên di cung trùng với mệnh, cùng với bạn bè không thể hợp khỏa, chủ đối chính bản thân bất lợi.
Tử nữ cung Hóa Kị nhập phúc đức cung trùng với Cung Tài Bạch, chủ bạn bè bản thân bất lợi.
Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập có thể trùng với mệnh: chủ cùng với duyên phận có liên quan.
Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập Quan Lộc có thể trùng với Quan Lộc: chủ cùng với sự nghiệp có liên quan ( sự nghiệp không thuận ).
Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch có thể trùng với Cung Tài Bạch: chủ cùng với tài có liên quan, có tổn hại tài.
(Nguồn: sưu tầm)
![]() |
Bếp là nơi nấu nướng nên ngũ hành thuộc Hỏa. Nếu đặt bếp ở phía Bắc căn nhà (hành Thủy) thì Thủy – Hỏa bù trừ, cả nhà bình an.
Vị trí đặt bếp phía Đông hoặc Đông Nam ngôi nhà cũng rất có lợi. Vì hai hướng đó ngũ hành thuộc Mộc. Thiết kế đẹp thì Mộc Hỏa thông thuận, gia chủ thường xuyên được quý nhân phù trợ.
Riêng hướng Đông Nam là đặc biệt lý tưởng bởi bốn mùa ánh sáng chan hòa, mùa đông không lạnh, mùa hè không nóng. Sáng sớm có ánh nắng ban mai chiếu rọi có thể khử trùng, ngăn ngừa nấm mốc sinh sôi trong bếp. Trưa thì lại khuất, râm mát nên hoa quả tươi ngon, lâu thối rữa.
Vị trí đặt bếp hướng Đông Bắc của ngôi nhà cũng rất tốt. Bởi vị trí này thuộc hành Thổ, mà Thủy – Thổ tương sinh.
Kị đặt bếp ở hướng Nam ngôi nhà vì đây thuộc hành Hỏa, bếp cũng hành hỏa, Hỏa tập trung quá nhiều không tốt cho gia chủ. Hướng Tây và Tây Bắc ngôi nhà cũng không thích hợp để đặt bếp bởi hai hướng đó thuộc hành Kim, Hỏa – Kim tương khắc, gia đình lục đục.
Hướng Tây Nam thuộc hành Thổ vốn tương sinh với Hỏa nhưng lưu thông không khí không tốt nên không nên đặt bếp. Bếp thường ẩm ướt do dùng nhiều nước mà phía Tây Nam mùa hè có gió Nam thổi tới sẽ khiến khói bếp, mùi đồ ăn và hơi nước bay mù mịt trong nhà, làm cả ngôi nhà ẩm thấp, ngột ngạt, mất vệ sinh.
Sách Khai vận cho ngôi nhà theo phong thủy

| ► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Tướng mặt đàn ông tiền không có lại còn phúc phận khốn khó
Nhân duyên tốt đẹp thể hiện ở đâu trên khuôn mặt?
Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm
Tuổi Hợi
Cuộc sống yên bình và tình yêu ấm áp với những niềm vui giản dị là điều mà những cô gái tuổi Hợi mong muốn nên họ luôn biết tự điều chỉnh cảm xúc của mình. Bởi với cô, tranh cãi thắng thua đều là vô nghĩa, thứ mất đi sẽ còn nhiều hơn thứ có được, vì thế những cô nàng sinh năm Hợi không bao giờ cáu gắt hay thể hiện thái độ bực bội trước một ai.
Với người yêu của mình, họ luôn thể hiện sự quan tâm và tình yêu một cách ngọt ngào thông qua cách cô ân cần lắng nghe "ai đó" tâm sự, cả ánh mắt trìu mến và những cử chỉ yêu thương cũng đủ để nói lên sự dịu dàng của các cô gái tuổi Hợi.
Cô nàng được ví như một mặt hồ mùa Thu nhẹ nhàng khiến người khác giới phải "thổn thức". (Ảnh: Internet)
Tuổi Sửu
Không phải tự nhiên mà những cô gái tuổi Sửu được mọi người yêu mến về tính cách dịu dàng của mình, bởi ở họ luôn toát ra vẻ thanh lịch, nét trầm tĩnh nhưng luôn biết cách lắng nghe người khác.
Khi yêu, nữ tuổi Sửu càng thể hiện sự đằm thắm và khéo léo vốn có của mình, chẳng bao giờ gây chuyện hay cãi cọ với người yêu. Dù đang cảm thấy mệt mỏi như thế nào, chỉ cần được ở bên cô nàng và đón nhận sự dịu dàng mà họ đem lại, "ai đó" sẽ cảm thấy nhẹ nhõm và thoải mái vô cùng!
Dịu dàng là sự quyến rũ của các cô nàng tuổi Sửu. (Ảnh: Internet)
Tuổi Mùi
Không chỉ dịu dàng mà nữ giới tuổi Mùi còn rất hiền lành lương thiện. Không bao giờ tranh giành, đấu đá với ai khiến cho tâm hồn của các cô gái tuổi Mùi luôn trong sáng và ngọt ngào. Đối với tình yêu cũng thế!
Các cô năng sinh vào năm con dê không thích sự to tiếng cãi vã, nếu phải tranh luận, họ sẽ dùng cách thật nhẹ nhàng để giải thích, họ rất sợ làm đối phương đau lòng. Đối với những cô gái tuổi Mùi, họ không hề cảm thấy đó là sự yếu đuối mà trái lại, họ chỉ đơn giản hóa mọi thứ và cho đó duyên phận để hai người ở bên nhau, cùng chia sẻ ngọt bùi.
Nữ tuổi Mùi dịu dàng và lương thiện chẳng bao giờ làm người yêu buồn lòng. (Ảnh: Internet)
Những bạn gái có tính cách dịu dàng, nữ tính luôn khiến các chàng trai hạnh phúc, không chỉ vì họ luôn được quan tâm, chăm sóc tận tình mà cảm giác được sống trong sự ngọt ngào như những viên kẹo đường.
Dòng năng lượng luân chuyển uốn khúc và thong thả sẽ tốt hơn dòng năng lượng luân chuyển thẳng và nhanh. Nếu sự luân chuyển của dòng năng lượng bị cản trở, dồn nén sẽ ảnh hưởng không tốt tới gia chủ.
Để có được sự hòa hợp trong đời sống tình cảm cũng như trong quan hệ hôn nhân, nên làm cho năng lượng âm - dương được cân bằng. Điều này nhằm giúp các thành viên trong gia đình cảm thấy thoải mái và khỏe mạnh trong môi trường mà mình đang sống.
![]() |
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Nhìn chung, khi phong thủy của ngôi nhà không có sự cân bằng năng lượng âm - dương, cuộc sống của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng và họ hầu như khó có thể có các mối quan hệ tốt đẹp.
Tạo sự hài hòa năng lượng âm - dương:
- Không nên bài trí quá nhiều biểu tượng mang năng lượng âm trong nhà. Tránh việc lạm dụng tông màu âm (xanh, đen) trong trang trí.
- Không nên sử dụng quá nhiều tranh ảnh tối màu và loại ánh sáng mờ nhạt trong nhà.
Cần chú ý, trong những căn phòng lạnh lẽo, vắng lặng, không có vật nuôi hoặc không có âm nhạc thì năng lượng âm sẽ chế ngự và lấn át năng lượng dương.
(Theo Phong thủy tình yêu)
![]() |
| Vào những năm 60 của thế kỷ trước, chùa Kim Liên bị đốt trơ trụi |
![]() |
| Nhà mẫu thuộc chùa Kim Liên khánh thành từ tháng 2 (âm lịch). |
![]() |
| Đây là một ngôi chùa rất linh thiêng |
![]() |
| Cụ Khuê (84 tuổi, người thôn Kim Ngưu) kể về những lần gặp ông mãng xà. |
Xông đất mang an lành
Ngay sau thời khắc Giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.
Gia chủ sẽ căn cứ vào sự thành đạt, tài cán, đức độ, sức khỏe... của người xông đất để đoán vận hạn cho mình. Tục xông đất thể hiện khát vọng về sự thịnh vượng, an khang và người xông đất như một dấu hiệu để người ta giải đoán trước hậu vận của năm đó.
![]() |
| Quan niệm người xông đất đầu năm sẽ mang lại may mắn cho gia chủ trong suốt một năm vẫn được giữ gìn. |
Với người Việt, tục xông đất ở các vùng gần như giống nhau. Khách đến xông đất phải đến vào sáng sớm ngày mùng 1 mang theo quà biếu như hoa quả, bánh mứt và tiền lì xì cho người già, trẻ con trong nhà.
Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết khoảng 5-10 phút chứ không ai ở lâu, như vậy thì mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy, thông suốt. Cứ đến dịp cuối năm, hầu như ai cũng có ý tìm chọn trong họ hàng hay láng giềng những người tốt tính và làm ăn phát tài, có cuộc sống suôn sẻ để “xông đất” nhà mình. Tục xông đất đầu năm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, thể hiện mong muốn hướng tới những điều tốt lành của người dân Việt.
Có một số gia đình lại chọn cách xông đất sau giờ Giao thừa, thường để người thân trong gia đình tự xông lấy. Người ta chọn một người dễ vía ra khỏi nhà trước thời khắc đón Giao thừa rồi đi lễ tại đình chùa, sau đó xin hương hái lộc. Lúc trở về nhà đã bước sang năm mới, người này tự “xông nhà”, mang sự tốt lành quanh năm về cho gia đình theo quan niệm của ông bà xưa. Với kiểu xông nhà, xông đất như vậy tránh được việc phải nhờ người khác.
Ngày nay, đối với những người làm kinh doanh, việc chọn “ngày lành tháng tốt” để bắt đầu công việc, chọn người hợp tuổi để khai trương, xông đất đầu năm không còn là chuyện quá hiếm. Giới doanh nhân tâm niệm ngày đầu “xuất quân” suôn sẻ sẽ đem lại một năm làm ăn may mắn.
Chọn tuổi xông đất
Bất cứ ai cũng muốn được người tử tế, tốt tính đến xông đất nhà mình. Vì thế, người ta thường để ý tìm người hợp tuổi với mình để dặn trước nhờ xông đất.
Thông thường nên chọn người xông nhà hợp với tuổi chủ nhà, có thể là tam hợp hoặc nhị hợp.
Chẳng hạn như: Chủ nhà tuổi Tý thì nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu để xông nhà. Chủ nhà tuổi Sửu nên chọn người tuổi Tỵ, Dậu, Tý. Chủ nhà tuổi Dần nên chọn người tuổi Ngọ, Tuất, Hợi. Chủ nhà tuổi Mão nên chọn người tuổi Mùi, Hợi, Tuất. Chủ nhà tuổi Thìn nên chọn người tuổi Tý, Thân, Dậu. Chủ nhà tuổi Tỵ nên chọn người tuổi Sửu, Dậu, Thân. Chủ nhà tuổi Ngọ nên chọn người tuổi Dần, Tuất, Mùi. Chủ nhà tuổi Mùi - nên chọn người tuổi Mão, Hợi, Ngọ. Chủ nhà tuổi Thân nên chọn người tuổi Tý, Thìn, Tỵ. Chủ nhà tuổi Dậu nên chọn người tuổi Sửu, Tỵ, Thìn. Chủ nhà tuổi Tuất nên chọn người tuổi Dần, Ngọ, Mão. Chủ nhà tuổi Hợi nên chọn người tuổi Mão, Mùi, Dần để xông nhà.
Mặc dù đã chọn tuổi nhưng người được nhờ xông đất, xông nhà người khác cũng e ngại. Vì cái vía của mình có may mắn, có đem lại tốt lành cho gia chủ hay không, việc đó phải chờ đến hết cả năm mới biết được. Thế nên việc nhờ người xông đất cũng không phải chuyện dễ dàng.
Thế mới hay, xông đất vẫn là một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ. Trong mùi hương trầm thoang thoảng ấm cúng, người đến xông đất cùng gia chủ rót tách trà ngon, mời nhau chiếc bánh ngọt hay uống một ly rượu vang, rồi cùng cầu chúc những điều tốt đẹp cho nhau trong năm mới… Thật là một khung cảnh ấm cúng trong những ngày đầu năm mới này!
(Theo Laodong.com.vn)
Chuyện kể rằng trên cây cầu trong ngôi thành nọ có một người hành khất. Ông ta không biết kéo đàn, cũng không biết hát, thậm chí còn chẳng biết viết ra cảnh ngộ bi thảm của mình lên giấy, rải xuống đất để mong nhận sự thương xót của khách qua lại.
Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm dựa vào thành cầu, co ro rúc mặt vào trong đầu gối, bên cạnh đôi chân gày gò để một cái bát mẻ cũ kỹ. May mà người qua lại chiếc cầu rất đông, thi thoảng cũng có người đem vài đồng bạc lẻ vứt vào trong bát.
Khi đêm đến, người hành khất sẽ trở về chỗ trú ngụ của ông – một cái vườn rau ở ngoại ô, bị bỏ hoang đã lâu. Một hàng rào xiêu vẹo bao lấy vườn rau bỏ hoang, bên trong có một túp lều nát, người hành khất già đã lánh rét ở đó được mấy mùa đông lạnh giá.
Trong vườn rau còn có một miệng giếng khô, bên giếng có một gốc cây già. Gió mùa đông bắc ùa về, thành phố đón trận tuyết đầu tiên của mùa đông. Người trên cầu thưa thớt hẳn đi, lão hành khất đang định sẽ về nghỉ, bỗng từ đâu chạy tới một con chó nhỏ.
Con chó bị lạnh tới nỗi run lên từng chập, trõ mõm hít hít cái bát sứt của người ăn mày, thì ra là vì đêm hôm trước ông đã dùng cái bát này để thức ăn. Lão hành khất trong lòng thương xót, liền lấy trong người ra một chiếc bánh bao, khẽ khàng bỏ vào trong bát.
Con chó nhỏ ngước lên nhìn ông hồi lâu, như thể cảm động lắm, rồi gục mặt vào bát ăn lấy ăn để. Người ăn mày mang con chó về “nhà” của mình, từ đó người chó quấn quít không rời. Con chó rất thông minh, hễ đói là biết ngoạm cái bát chạy nhắng quanh chủ đòi ăn. Những người đi qua nhìn thấy thế rất ngạc nhiên thích thú, liền thi nhau ném tiền vào trong bát.
Người ăn mày phát hiện ra đây là cơ hội lớn, liền huấn luyện cho con chó. Qua một thời gian, nó đã biết đứng bằng hai chân sau, ngoạm bát xin ăn nhảy tới nhảy lui trước mặt những người qua đường. Vậy là người ăn mày lại càng thu được nhiều tiền thêm.
Người ăn mày bỗng dưng ” phát tài”, liền lấy tiền đi đánh xổ số. Thật là nằm mơ cũng không tưởng được vận số ông lại tốt đến vậy, không lâu sau ông trúng giải độc đắc. Cứ như là số mệnh vậy. Người ăn mày mua lại vườn rau bỏ hoang, rồi từ mảnh đất đó xây lên một ngôi nhà lộng lẫy, nhưng ông vẫn giữ lại túp lều nát, miệng giếng khô cùng gốc cây già và nếp hàng rào lưa thưa ngày nào ở vườn sau khu nhà mình.
Trong phòng của người ăn mày bày biện đầy những đồ xa xỉ, ông bỗng chốc mê mẩn việc sưu tầm đồ cổ, thích cung phụng những mỹ nhân chân dài, lại càng thích ánh mắt kinh ngạc, ngưỡng mộ của mọi người khi ông rút trong túi ra cả xập tiền lớn.
“Quý ngài ăn mày” bắt đầu đi gặp gỡ giới thượng lưu, dĩ nhiên lúc nào ông cũng mang theo con chó nhỏ của mình. Các bà mệnh phụ ra sức ủng hộ nhiệt liệt quí ông ăn chơi mạnh tay này, và dĩ nhiên chẳng ai biết xuất thân ông ra sao. Điều duy nhất làm cho “quý ngài ăn mày” cảm thấy khó xử chính là chú chó nhỏ, bởi những người thượng lưu khác đều nuôi những con chó giống quý, thuần chủng kia!
Cho tới một hôm, con chó con bướng bỉnh của ông cắn rách tai một con chó cái giống quí, ngay giữa bữa tiệc. Chủ nhân con chó nổi trận lôi đình, làm cho ngài ăn mày cảm thấy lòng tự tôn của mình bị tổn thương nghiêm trọng.
Về tới nhà, ông lạnh lùng mang con chó ra vườn sau, cạnh cái giếng cũ. Sau đó cho nó vào một chiếc thùng gỗ, buộc vào một sợi dây thừng dài và thả xuống cái giếng khô. Người ăn mày quyết tâm giết chết con chó, giống như tiêu diệt hoàn toàn cái quá khứ khốn khổ vẫn ám ảnh ông ta.
Từ đó, bên cạnh người hành khất thiếu đi con chó nhỏ trung thành, ông ta có thể thoải mái một mình đi gặp các cô em phục vụ dễ thương ở quán rượu, hoặc đi dự những bữa tiệc thượng lưu xa hoa.May mà dù thế nào ông cũng không quên mỗi ngày thả xuống giếng vài miếng thịt, vì tiếng sủa của con chó cho ông biết rằng người bạn ngày khốn khó xưa kia vẫn còn sống.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, người hành khất ngược lại cảm thấy không hề vui vẻ, chó nhỏ đi rồi, bạn bè quý tộc của ông ta cũng không hề nhiều hơn, vả lại có một hôm, nhằm lúc ông uống rượu say lướt khướt, đã buột miệng để lộ ra cái thân phận thấp hèn ngày xưa. Lũ người kia bỗng chốc chế nhạo và quay mặt lạnh nhạt với ông ta.
Người ăn mày cuối cùng hiểu ra rằng, trên đời này chỉ có chú chó nhỏ đã từng trải qua hoạn nạn với mình mới là người bạn chân chính nhất. Thế mà ông nỡ vứt nó xuống dưới giếng khô.Người ăn mày chạy thật mau đến bên giếng, thả cái cũi gỗ xuống. Nhưng chó con chỉ đi quanh cái thùng gỗ mà không dám nhảy vào trong.Người ăn mày chạy đi tìm một cái dây to, một đầu cột vào gốc cây, tự mình trèo xuống đáy giếng cứu chó con. Giếng rất sâu, nhưng ông không sợ hãi chút nào. Đáy giếng tối om om, lại bốc lên mùi thum thủm, ông vội cắp con chó rồi trèo lên.Chó con chẳng hề oán trách chủ mình, vui mừng liếm mặt người chủ lâu ngày mới gặp lại. Bác sỹ giỏi nhất trong thành cũng không thể trị nổi bệnh của chó nhỏ. Người hành khất vì muốn bù đắp lỗi lầm của mình, mỗi ngày đều cho nó đồ ăn ngon nhất, đi đâu cũng dắt theo. Con chó nhỏ vui lắm, lúc lắc cái đuôi nhỏ, nhưng đầu nó chỉ có thể quay nhìn đằng sau, đôi mắt lúc nào cũng ngước nhìn trời cao.
Người ăn mày mang chó nhỏ đi khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, ông cầm tiền bỏ vào tân tay những người hành khất khác. Thấy những người ấy cảm kích cầm tiền của mình, ông cảm thấy thật là mãn nguyện. Rồi ông bắt đầu có dự định mới, ông báo cho những người ăn mày trong cả thành tới nhà ông lĩnh tiền.
Tin tức truyền đi rất nhanh, đội ngũ ăn mày tới lĩnh tiền càng lúc càng đông. Những người được tiền rồi dùng mọi lời lẽ hoa mỹ nhất trên đời để tán tụng ông, khiến ông hưng phấn khôn tả. Đài truyền hình tới, bản tin buổi tối cũng có phóng sự nói về ông.
Ngày thứ hai, mọi người như nước thủy triều xông tới nhà ông, có những người chẳng phải ăn mày cũng gia nhập vào đội quân lĩnh tiền. Người hành khất cứ chìm đắm trong cảm giác vinh dự vui sướng, ngày nào cũng bận rộn chạy qua chạy lại giữa ngân hàng và nhà mình.
Cho đến một hôm, ngân hàng báo cho ông biết tiền trong tài khoản đã hết, ông đành phải nói với hàng dài những người xếp hàng rằng : Hết tiền để phát mất rồi!
Đám người xếp hàng lập tức biến thành một đoàn hỗn loạn.
Chúng bắt đầu mắng chửi : ” Đồ ti tiện!” “Sao đến lượt tao lại không phát nữa!” ” Dạy cho nó một bài học!”.
Bọn chúng xông vào nhà ông, ném gạch tới tấp làm vỡ hết cửa sổ. Ông chốt cửa nhà lại, nhưng cũng sắp bị đám người xô đổ đến nơi rồi.
Sợ quá, ông chạy ra vườn sau. Trông thấy sợi dây thừng còn buộc bên miệng giếng, ông vội vã leo xuống. Lúc sắp xuống tới đáy giếng, bất ngờ đầu dây thừng buộc ở miệng giếng bị rơi ra, người hành khất cùng sợi dây vẫn nắm chắc trong tay rơi xuống đáy giếng tối om.
Cảnh sát mất rất nhiều công sức mới giải tán được đám người hung hãn, nhưng ngôi nhà gần như đã biến thành một bãi hoang tàn, những thứ có thể lấy được, người ta đều cướp đi hết.
Thời gian mỗi ngày một qua đi, người ăn mày chỉ đành trú lại ở đáy giếng vừa tối vừa lạnh, ông ta ngóc mặt lên gào với trời, với trăng, chẳng ai nghe thấy. Chó con mỗi ngày chạy đi khắp nơi kiếm thức ăn ném xuống giếng, lúc thì là chiếc bánh bao đã mốc meo, khi thì miếng xương đã biến mùi. Chó con kiếm thức ăn rất khó khăn, vì đầu nó chỉ có thể nhìn ngược đằng sau.
Không làm thế nào được, nó chỉ biết nằm dài ra mà hít hà dưới đất, vớ được miếng thịt hỏng hay gì đó là ngóc dậy chạy về miệng giếng khô ngay. Có một lần, chó con còn vứt xuống cả xác một con mèo chết.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, chó con thậm chí còn không để dành thức ăn cho bản thân, người nó gầy chỉ còn da bọc xương, thế rồi nó yếu đến mức sức lực để đi cũng không còn. Người ăn mày ngày nào cũng gào thét khản cả cổ, chẳng có ai tới cứu ông ta.
Vài ngày liên tiếp chó con không thả đồ ăn xuống nữa, người ăn mày không biết con chó đã xảy chuyện gì. Ông đau đáu nhìn lên mảnh trời hình tròn nhỏ bé trên miệng giếng, biết rằng mình sắp chết.
Một buổi sớm, những tiếng người nói chuyện rầm rì trên miệng giếng đánh thức người hành khất khỏi cơn mê sảng, ông thu hết chút sức tàn hô lên một tiếng.
Ông được mọi người dùng dây thừng đưa lên, ánh sáng mặt trời chói lọi làm ông không mở nổi mắt. Mọi người săm soi người đàn ông lem luốc hôi thối trước mặt:“Nếu không phải thấy có xác con chó con chết ở miệng giếng này, thì chẳng có ai nghe được tiếng kêu của ông.”
Người ăn mày nhìn cái xác gầy guộc của chó nhỏ, nước mắt rơi ướt cả bộ lông dính đầy đất bẩn của nó.
Theo Bài Học Cuộc Sống
ra tích lũy được, con cái ngoan hiền hiếu thảo.
Trái lại một căn nhà có khuyết điểm về phong thủy thường mang lại nhiều trở ngại và bất ổn trong cuộc sống. Khi mua nhà hay thuê nhà ai ai cũng mong muốn có được một căn nhà hoàn chỉnh về phong thủy.
![]() |
| (Hình minh họa) |
Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau:
- Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt.
- Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời.
Vì thế, khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và thuật phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phương cách hóa giải cũng có rất nhiều và đa dạng phong phú. Tuy nhiên, chọn lựa phương cách hóa giải phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà cần phải nghiên cứu từng bước một.
1. Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm căn nhà
Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn.
Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt đủ rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một suy nghĩ sai lầm bởi một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà đúng hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm ngay giữa nhà thì cũng không tốt.
Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không. Khi xét phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ qua đặc điểm khác.
Nhận biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà. Có thể tạm phân loại các khuyết điểm về phong thủy như sau:
- Âm dương: Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm. Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng.
- Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống.
- Hình thể nhà và đất: Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm.
- Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Những trường hợp như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa, phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc...đều gây ra những ảnh hưởng không tốt cho gia chủ.
- Những tác hại xấu do bên ngoài như ngã ba đâm vào, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở.
- Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí không đúng phương cách như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà.
2. Nhu cầu hạnh phúc của gia đình
Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu.
- Với gia đình của người lớn tuổi, nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu muốn hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc để bài trí trong nhà.
- Trái lại, vợ chồng son trẻ không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác.
- Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người.
Nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi. Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình bao gồm các nhóm yếu tố sau:
1. Tiền tài
2. Hạnh phúc
3. Sức khỏe - tuổi thọ
4. Con cái
Do đó, cần tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình mình mà lựa chọn những biểu tượng hóa giải thích hợp.
(Theo Diaoconline)
| (Ảnh minh họa) |
Đặc điểm của loại bàn chân này là nhỏ, dài, thẳng, da mềm và trơn, gan bàn chân lõm rõ nét. Người có bàn chân này có tư chất thông minh, học vấn cao. Họ cũng là người trung hậu, dễ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp.
Đặc điểm của loại bàn chân này là vuông mà rộng, xung quanh dày, chỗ lõm ở gan bàn chân hiện lên rõ rệt và phải tương xứng với thân hình. Người có bàn chân này có tính cách đôn hậu, được bàn bè tin cậy, thường gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Bàn chân ngắn, thô cứng, to ngang, gan bàn chân không lộ rõ thì chủ nhân thường xuất thân bần hàn, cuộc đời gặp nhiều sóng gió, vất vả trên con đường mưu sinh.
Đặc điểm của bàn chân này là to, mỏng, da chân khô, có nhiều nếp nhăn, không có gan bàn chân. Người có bàn chân này kém thông minh, cuộc sống nhiều trắc trở, làm không đủ ăn.
Đây là bàn chân của người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, phản ứng nhanh nhẹn và linh hoạt. Họ là người có năng khiếu về mặt nghệ thuật và dễ gặt hái được nhiều thành công hơn nếu đi theo con đường này. Họ là người có đời sống nội tâm khá sâu sắc và có trái tim yêu rất nồng nhiệt, tuy nhiên họ ít khi bộc lộ tình cảm ra bên ngoài, thường che giấu cảm xúc thực nên đời sống của họ cô độc. Đây cũng là người có sức khỏe kém, dễ bị bệnh.
Chủ nhân của đôi bàn chân này là người giỏi giao tiếp và tận tụy với công việc. Họ sống chính nghĩa và thực tế, hay giúp đỡ người khác, có tính nhẫn nại, chịu được cực khổ, tuy nhiên lại thiếu tính quyết đoán. Nếu là nữ giới thì người này có tính tình cởi mở và thân thiện, còn nếu là nam thì sống khá kín đáo và trầm tính.
Đây là người có tính cách ổn định, giao tiếp tốt, có tài lãnh đạo và khả năng chi phối người khác. Họ có cách nhìn nhận phân minh, yêu ghét rõ ràng, biết tiếp thu ý kiến người khác. Trong công việc, họ là người khá linh hoạt và nhanh nhạy, có thể phát huy hết khả năng của mình.
(Theo Nhân tướng học toàn thư)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
Như chúng ta đã biết, Thiên Cơ là sao thứ nhất của Nam Đẩu, thuộc âm mộc. Trong Đẩu Số, sao Thiên Cơ được ví là mưu sĩ hoặc quân sư. Vì vậy nó không cần "bách quan triều củng", nhưng cần hội hợp các sao mang tính chất thông minh, tài nghệ; như Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Tài, Long Trì, Phượng Các, Bác Sĩ. Nó rất sợ Hóa Kị, hoặc gặp Thiên Hư, Âm Sát. Nó cũng ưa Văn Xương, Văn Khúc chia ra ở hai bên giáp cung; nhưng không ưa Hỏa Tinh và Linh Tinh giáp cung khống chế. Trường hợp trước là làm tăng tính thông minh mẫn tiệp của Thiên Cơ; trường hợp sau thì khiến Thiên Cơ tâm tư bất định, nhiều vất vả, lo lắng, mà thiếu hiệu quả thực tế.
Do Thiên Cơ có tính chất của mưu thần, nên nó thích dựa dẫm quyền quý. Ở cung hai cung Thân hoặc Dần, được Tử Vi, Tham Lang và Thiên Phủ giáp cung, trong các tình hình thông thường thì có lợi đối với Thiên Cơ. Nó cũng ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt đồng cung hoặc đối chiếu, trường hợp này gọi là "cuộc đời gần gũi bậc quyền quý".

Nếu Thiên Cơ gặp Cự Môn được Thái Dương miếu vượng chiếu xạ, thì gọi là "Thiên Khuyết" (cổng trời). Nếu Thiên Cơ tương xung với "Thiên Khuyết", thì giống như mưu thần được trọng dụng, có thể lên triều diện kiến thiên tử, cũng chủ về người đắc chí, có thể thi thố ở đời.
Cho nên luận đoán đại cương về sao Thiên Cơ, trước tiên cần phải xem mức độ thông minh, cơ trí, mẫn tiệp của nó, sau đó xem nó có được gần gũi bậc quyền quý không, có cơ hội thi thố ở đời không.
Trong "tứ hóa", Thiên Cơ rất ưa Hóa Quyền, biểu thị có thể thi thố ở đời; nó cũng ưa Hóa Khoa, biểu thị tính thông minh mẫn tiệp, hơn nữa còn theo chính đạo; Hóa Lộc thì hơi yếu, chỉ là người thông minh mưu trí và quyền biến trong lãnh vực kinh doanh làm ăn bình thường. Nếu Hóa Kị mà gặp "động tinh", sao sát và sao không thì có thể thành tính tình gian tà, kì quái.
Trong lưu niên hoặc đại vận mà gặp Thiên Cơ, khác với bản mệnh gặp Thiên Cơ, vì bản mệnh là chủ về bản chất của một người, còn vận hạn chỉ biểu thị những điều có thể gặp phải của một người, cho nên chẳng có tính chất mưu thần quân sư, mà chỉ biểu thị một thứ biến hóa thay đổi. Vì vậy không cần các sao khoa văn hội hợp, khi có những các sao này hội hợp, cũng không thể trong thời gian một năm hay hoặc một vận mà đột nhiên khiến người ta biến thành thông minh được.
Nhưng tính chất dựa vào quyền thế để phát huy tài năng bản thân vẫn còn. Vì vậy Lưu Khôi, Lưu Việt có giá trị rất quan trọng đối với Thiên Cơ ở cung mệnh của vận hạn. Nếu Lưu Khôi, Lưu Việt ở tam phương tứ chính xung khởi Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, trong vận hạn này sẽ chủ về tài trí của mệnh tạo được phát huy, và nhờ được phát huy mà xảy ra biến đổi.
Thiên Cơ của vận hạn cũng ưa Hóa Quyền, là cũng vì lí do này; Hóa Lộc cũng quan trọng, chủ về trong vận hạn sẽ nhờ thay đổi mà được tài lộc; Hóa Khoa thì không quan trọng gì, bởi vì chỉ đại biếu cho danh dự nhất thời, chẳng dính dáng đến bản chât Thiên Cơ.
Trong Đẩu Số, có một số các sao gây ảnh hưởng xấu đối với Thiên Cơ như Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hư, Âm Sát, Phá Toái, sao không, Hàm Trì, Đại Pỉao.
Kình Dương thì dễ sinh tranh chấp; Đà La dễ khiến kế hoạch bị trì hoãn, kéo dài, thậm chí vì vậy mà xảy ra sai lầm; Hỏa Tinh, Linh Tinh thì dễ khiến lo nghĩ nhiều vì vậy mà mất cơ hội; Thiên Hình thì khiến lúc mưu cầu thay đổi sẽ xảy ra trở ngại; sao không thì dễ khiến sự biên động thay đổi của mệnh tạo thành không tưởng; các tạp diệu 'Thiên Hư, Âm Sát thì dễ khiến người ta có lối suy nghĩ bất chính, trong vận hạn sẽ chủ về không tưởng hoặc âm mưu luồn lách.
Trong 12 tinh hệ, Thiên Cơ luôn đồng cung hoặc đối nhau với Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lưong. Có thể thấy ba sao này có ảnh hưởng quan trọng đối với Thiên Cơ:
Trong các tình hình thông thường, Thiên Cơ rất ưa trường hợp "Thiên Cơ, Cự Môn" ở cung Mão. Còn trong tình hình Thiên Co độc tọa, nó rất ghét ở hai cung Tị và Hợi.
Thiên Cơ thủ mệnh, là người linh động
Theo cổ thư Thiên Cơ được xếp là sao thứ nhất của Nam Đẩu, thuộc âm mộc, hóa khí là "thiện tình" (sao khéo léo). Tính chất của Thiên Cơ về cơ bản là chủ động. Tính "động" của nó chẳng chủ về biến động thay đổi trong cuộc đời, mà có liên quan đến phương diện hoạt động tinh thần, hoặc chủ về sự linh động trong phương cách làm việc bằng trí óc.
Cố nhân đánh giá Thiên Cơ không cao. Chỉ khi nào hội hợp với Thiên Lương, mà còn phải gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì mới thành cách cục "quan văn thì thanh cao hiển đạt, quan võ thì trung lương". Nhưng đánh giá này chủ yếu là vì Thiên Lương. Bởi vì Thiên Lương là sao "thanh cao hiển đạt mà trung lương".
Ngoại trừ cách cục kể trên, Thiên Cơ chủ vê' tổ nghiệp lụn bại, phải tự lập thân, sống ở tha hương; nữ mệnh thì "tuy phú quý nhưng khó tránh dâm dật", gặp sát tinh thì lại là "mệnh dâm tiện xướng kĩ, nô tì, hay làm nhị phòng, nếu không sẽ hình phu khắc tử." Các thuyết kế trên của cổ nhân không có chỗ nào đúng.
Ngày nay đánh giá Thiên Cơ không tệ như cổ nhân. Nguyên nhân là vì hoàn cảnh xã hội xưa và nay khác nhau. Thời cổ đại xem trọng tính tình đôn hậu, không xem trọng ngưòi giỏi ứng biến; xem trọng bảo thủ, không xem trọng cải cách, do đó cổ nhân không đề cao tính chất cơ trí, khéo léo, linh hoạt, có thể đổi mới, chịu động não trong công việc của Thiên Cơ.
Trong Tử vi, có cách cục "Cơ Nguyệt Đồng Lương", tức là Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, hội hợp với ba sao Thái Âm, Thiên Đổng, Thiên Lương. Cổ quyết nói: "Cơ Nguyệt Đổng Tương tác lại nhân", cũng chính là nói, người có mệnh cục loại này giỏi việc cầm bút, hay dùng kế đắc nhân tâm, cho nên thích hợp với công việc của một lại nhân ở phủ huyện thời xưa. Nhưng "lại" thì không bằng "quan", bởi vì "lại" chỉ là người dưới quyền của quan dương sai, do đó có thể biết, cổ nhân đánh giá Thiên Cơ là người không được quang minh chính đại như người làm quan.
Trong xã hội ngày nay, đầu óc càng linh động càng dễ có chỗ đứng trong xã hội. Vì vậy người có Thiên Cơ thủ mệnh có thể được đánh giá khá cao. Điều cần chú ý nhất là, nhờ động não nhanh nên người có Thiên Cơ thủ mệnh dễ thích ứng với thời đại kĩ thuật, không thể xem thường.
Sáu tình hình của Thiên Cơ tọa mệnh
Phàm Thiên Cơ độc tọa cung mệnh, nhất định phải nghiên cứu cẩn thận cung độ của nó.
Tổng cộng có sáu tình huống xuất hiện "Thiên Cơ độc tọa", đó là các cung Tí, Ngọ, Sửu, Mùi, Tị, Hợi. Đại khái có thể chia làm ba nhóm.
- Ở cung Tí, cung Ngọ, Thiên Cơ nhập miếu.Tình hình này, người có Thiên Cơ tọa mệnh có tính linh động và năng lực phân tích rất mạnh. Theo kinh nghiệm của 'Vương Đinh Chi, mệnh cách này phần nhiều là kĩ sư, bác sĩ, luật sư, có thể thấy mệnh cục loại này không phải tệ.
- Nếu muốn phân biệt tỉ mỉ, cần phải xem các sao khác, có khuynh hướng làm mạnh thêm một phương diện nào đó của Thiên Cơ. Ví dụ như, Thiên Cơ mạnh tính linh động thì có thể là luật sư mà không phải là kĩ sư. Vì vậy về đại thể, dựa vào mệnh cục có thể nhìn ra khuynh hướng nghề nghiệp của một người. Có điều, nếu các sao hội hợp quá xấu, thì người này có thể chỉ là một nhân viên bán hàng, hay chào hàng.
- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Thiên Cơ 'lạc hãm", nên tính linh động sẽ giảm nhiều, chỉ có thể phát huy năng lực phân tích, rất nên gặp hai sao chủ về thông minh là Văn Xương, Văn Khúc, như vậy sẽ làm mạnh thêm năng lực phân tích, nhờ vậy có biểu hiện tốt về sự nghiệp Nếu gặp các sao có tính chất làm yếu đi năng lực phân tích như Hóa Kị v.v... thế là linh động thì thiếu, mà phân tích thì lại không rõ nên không thể định là thượng cách được.
- Thiên Cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi, là bình cung, tính linh động và năng lực phân tích sẽ không bằng người "nhập miếu", nhưng tốt hơn người 'lạc hãm". Đáng tiếc là đối cung có Thái Âm, sẽ hấp dẫn Thiên Cơ khiến cho người có mệnh cục loại này hao phí tính linh động trong chuyện theo đuổi người khác giới, năng lực phân tích của họ cũng dùng để phân tích tâm lí của đối tượng, thường tỏ ra cực kì dịu dàng quan tâm chăm sóc, nếu không được thì sẽ thực hiện mưu mẹo. Cho nên cổ thư nói: "Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, chủ về tham lam, xa rời quê hương, gian giảo nặng."
Cùng một sao nhưng ở cung vị khác nhau có thể phát sinh biến hóa đa đoan, vì vậy khi phân tích bản chất của Thiên Cơ, bạn đọc cần lưu ý nhiều.
Thiên Cơ và Cự Môn đồng cung, rất sợ đào hoa
Người có Thiên Cơ thủ mệnh rất sợ gặp Cự Môn, bởi vì Cự Môn là "ám tính" chủ về điều tiếng thị phi. Thiên Cơ bị Cự Môn che lấp, năng lực phân tích sẽ giảm rất nhiều.
Người có mệnh cục loại này nhất định là cung mệnh rơi vào hai cung Mão hoặc Dậu. Mão và Dậu là cung vượng của Thiên Cơ sức mạnh không phải yếu, vì vậy sau khi năng lực phân tích của nó bị Cự Môn làm yếu đi, chỉ còn lại tính linh động để phát huy.
Có tính linh động mà không có năng lực phân tích, nam mệnh sẽ dễ biến thành học nhiều mà không có thực chất, đứng núi này trông núi nọ; nữ mệnh thì dễ bị dụ dỗ, không giữ gia đạo. Nếu các sức mạnh xấu này làm mạnh thêm khuynh hướng hiếu động của Thiên Cơ, theo quan điểm của xã hội cổ đại, thì không phải là người có phúc. Cho nên cổ thư nói: "Cự Môn hãm Thiên Cơ là phá cách chủ về nam thì sở khanh, nữ thì dâm dật."
Nhưng xét từ quan điểm xã hội hiện đại, người có "Thiên Cơ, Cự Môn" tọa mệnh không đến nổi xấu như cổ nhân nói. Bởi vì xã hội trước kia việc dựng vợ gả thường đều thông qua ngưòi mai mối, cho nên người phối ngẫu chưa chắc hợp ý, ngày nay tự do yêu đương, người có mệnh cục loại này chỉ cần kết hôn muộn một chút, chờ gặp người tâm đầu ý hợp mới kết hôn, thì không đến nỗi có sóng gió, trắc trở xuất hiện trong hôn nhân.
Đồng thời, trong xã hội hiện đại việc mưu sinh rất chú trọng đầu óc linh hoạt, cho nên dù năng lực phân tích có yếu đi một chút về căn bản vẫn không ảnh hưởng nhiều đến sự thành tựu về sự nghiệp và địa vị xã hội.
Còn nói về nữ mệnh, ngày nay phụ nữ không lo việc nhà cũng đã thành chuyện bình thường, chỉ cần ra ngoài làm việc, kiếm tiền phụ giúp gia đình, chồng cũng sẽ không nói gì, do đó khuyết điểm của mệnh cục này đã giảm bớt rất nhiều.
Nhưng mệnh cục loại này lại không ưa gặp đào hoa, chỉ cần có hai ba sao đào hoa hội hợp, tất sẽ xem trọng dục tình; nếu là nữ mệnh sẽ dễ có khuynh hướng trụy lạc chốn phong trần.
Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh, có ba biến cục
Còn có một loại cách cục Thiên Cơ tọa mệnh khác, đó là Thiên Cơ và Thiên Lương đồng cung. Trong cổ thư có ba câu bình giải về cách cục này, như sau: "Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung ở Thìn hoặc Tuất, chủ về có nghề cao tùy thân."; "Thiên Cơ, Thiên Lương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thêm sao cát, chủ về phú quý tốt lành."; "Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh thêm các sao hình, kị, thiên về làm tăng nhân, đạo sĩ."
Từ ba câu bình giải trên có thể thấy, cách cục Thiên Cơ và Thiên Lương thủ mệnh có biến hóa rất lớn. Muốn phân tích, phải xem trong hai sao, sao nào mạnh hơn. Nếu Thiên Cơ mạnh hơn, là mệnh có nghề cao tùy thân. Ngược lại, nêu Thiên Lương mạnh hơn, gặp sao cát, thì phú quý cát tường; gặp các sao hình, kị, thì sức mạnh của Thiên Cơ sẽ phát huy triệt để, cho nên có khuynh hướng nương thân ở "cửa không".
Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gọi là "Thiên La, Địa Võng", tính linh động của Thiên Cơ sẽ bị ảnh hưởng, do đó chỉ có thể phát huy năng lực phân tích, chủ về là người giỏi suy nghĩ, khảo cứu, rất nhiều kĩ sư và giáo sư có mệnh cục loại này. Có thể thấy mệnh cục loại này tuyệt đối không tệ. Cổ nhân nói "có nghề cao tùy thân", hiện đại có thể nói là "có học vấn chuyên môn".
Nhưng tính chất của Thiên Lương lại có thể gây ảnh hưởng khiến Thiên Cơ biên thành tâm địa hiền từ, trầm mặc, ít nói, phẩm chất thanh cao. Cho nên dù mệnh cục hơi kém, là thợ thuyền, mệnh tạo ắt cũng thích tìm tòi về kĩ thuật, có lúc cũng có tâm đắc. Còn một đặc điểm nữa là, không chịu mang điều tâm đắc ra truyền cho người khác, ngay cả đồ đệ cũng không chịu truyền thụ, cho nên tuy tâm địa thiện lương nhưng vẫn thường dễ chuốc oán. Nếu gặp các sao hình, kị, Thiên Cơ hoàn toàn bị kềm chế, sức mạnh của Thiên Lương sẽ phát huy cực độ, mệnh tạo sẽ thiên về "huyền học", thích nghiền ngẫm các vấn đề triết lí, nên cổ nhân nói "thiên về làm tăng nhân, đạo sĩ". Thực ra ở thời hiện đại, cũng không hằn là mệnh của triết gia, và không nhất định sẽ xuất gia. Thiên Cơ và Thiên Lương phối hợp, hai sao đã yếu, rất kị gặp sát tình, nếu không sẽ dễ xử sự hồ đồ, tâm hồn trống rỗng.
![]() |
![]() |
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Cách mượn tuổi làm nhà khi bạn có dự định xây nhà mới mà năm đó bạn không hợp tuổi, cần phải đi mượn tuổi người khác để làm nhà.
Mượn tuổi làm nhà như thế nào cho đúng?
Mượn tuổi làm nhà thực chất rất khó, và cũng nhiều câu hỏi xoay quanh việc tại sao phụ nữ lại không được chú trọng trong việc “nhà cửa” để tìm hiểu kỹ hơn về việc xem tuổi làm nhà và trong câu hỏi mượn tuổi làm nhà thế nào cho đúng, các chuyên gia sẽ lý giải rõ hơn về vấn đề này.
*Làm nhà xem tuổi đàn ông
Theo phong thủy thì trong việc "khai môn lập hướng" tính phong thủy cho một ngôi nhà người ta ít khi lấy tuổi đàn bà mà coi tuổi người đàn ông như một tiền đề để định cát hung. Thực tế, xét cho cùng cũng bởi thuyết Âm dương Ngũ hành với nguyên lí Âm thuận tòng dương. Đối với một gia đình hai vợ chồng thì lý thuyết này coi người chồng là dương, vợ tính là âm. Bởi vậy người xưa mới có câu "lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông".
Trong một đại gia đình, các thành viên có quan hệ huyết thống, vai trò người cha, người ông được xem như gốc rễ của cái cây phả hệ. Thuyết Âm dương Ngũ hành coi người đứng đầu như ông, cha trong gia đình như một chủ thể đại diện. Còn các vai vế khác trong gia đình như vợ, con, cháu... nằm trong mối quan hệ phụ thuộc. Có thể hiểu rằng người đứng đầu trong gia đình (ông, cha) thuộc tính dương được ví như chiếc đầu tàu kéo theo những toa thành viên còn lại trong gia đình đi theo. Lý thuyết này không thay đổi cho dù ở bất cứ thời đại nào, dù là chế độ chính trị khác nhau.
Dân gian còn quan niệm, đối với nhà nhiều thế hệ, dù lấy tuổi đàn ông làm nhà nhưng vẫn chú trọng lấy tuổi cao nhất. Điều này thể hiện sự sống lâu nên nhà sẽ bền vững.
*Mượn tuổi lớn hơn gia chủ thì càng tốt
Hiện nay còn duy trì quan niệm nếu không được tuổi làm nhà thì mượn tuổi tốt theo cửu trạch. Người này sẽ khấn hộ trước bàn thờ thần linh khi động thổ. Cách làm này chưa chính xác. Bởi nếu đã quan niệm thần linh thiêng liêng, nhìn được trăm sự thì việc mượn tuổi lại biến thành hành động lừa dối. Vì thế, về nguyên lý là chưa phù hợp. Còn để đúng tuổi người mượn thì cần có sự mua bán theo khế ước thực sự. Khi làm nhà xong bán lại theo khế ước cho chủ cũ. Tuy nhiên, người tốt, hay làm phúc đức thì năm tháng nào cũng tốt nên có thể làm nhà bất cứ thời điểm nào. Còn người xấu thì ngày tốt cũng là vận hạn.
Ở quan điểm khác, nếu mảnh đất không hợp với tuổi gia chủ thì có thể nhờ người thân hoặc bạn bè đứng tên sổ đỏ để làm nhà. Tuy nhiên, đây là cách làm chưa đúng. Bởi học thuyết phong thủy ra đời cách đây đã mấy nghìn năm và có nhiều ứng dụng trong thực tiễn.
Các giấy tờ quyền sở hữu đất đai, sổ đỏ sổ hồng như ngày nay là hoàn toàn xa lạ với đời sống con người ở thời kỳ đó. Vì thế, khi nghiên cứu phong thủy nên loại bỏ các vấn đề liên quan tới hành chính. Không có các yếu tố về hồ sơ hành chính hay sự sở hữu, phong thủy vẫn tồn tại độc lập và ảnh hưởng khách quan tới các cá nhân trong ngôi nhà mà ta sinh sống.
Xét cho cùng, môn phong thủy là nghiên cứu sự tương tác của môi trường tới đời sống và sinh hoạt của con người. Sự tương tác này là tương tác thực sự và trực tiếp tới những cá nhân trong địa bàn cư trú. Thực chất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể giải quyết được những vấn đề phong thủy. Các yếu tố phong thủy chỉ tác động đến người trực tiếp ở trong căn nhà. Quan niệm "thay tên, đổi chủ" trên giấy tờ để mong hóa giải được những bất lợi về mặt phong thủy là sai lầm".
Trong thực tế nếu trong năm nào đó gia chủ chưa được tuổi làm nhà thì có thể mượn tuổi người thân hoặc bạn bè hợp tuổi đứng ra động thổ giúp. Người mượn tuổi nên là nam giới, nếu tuổi tác lớn hơn gia chủ thì càng tốt. Một điều cần chú ý là gia đình không có tang chế và điều quan trọng nữa đó là tuổi không phạm vào các hạn Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Quan điểm về mượn tuổi làm nhà của các Trường Phái:
+ Quan điểm của Duy Vật: Chúng ta đang sống trong vũ trụ, mọi sự vật, sự việc đều chịu sự tác động, chi phối của trường khí vũ trụ. Khí trường vũ trụ năm đó tác động lên nhà của bạn thì chính bạn chịu tác động của tương hỗ của khí đó. Còn người cho mượn tuổi không bị ảnh hưởng của trường khí đó và việc mượn tuổi để làm nhà sẽ chỉ là biện pháp trấn an tâm lý?
+ Quan điểm của Duy Tâm: Người cho mượn tuổi thay mặt chủ nhà thì các Thần Linh trong khu đất đấy sẽ chứng kiến việc người cho mượn tuổi xây nhà, khi đó Thần Linh sẽ giúp đỡ hay quở trách người cho mượn tuổi mà sẽ không ảnh hưởng đến chủ nhà. Vì vậy, nên mượn tuổi của người trong nhà hay trong nội tộc càng gần càng tốt.
+ Quan điểm của Dịch Học: Động thổ để xây nhà mới như là việc khai mở huyệt đạo. Nên lựa chọn Trạch thời cho đúng hay phù hợp sẽ nhận được cát khí của vũ trụ hỗ trợ cho Trạch vận.
Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì khi bạn làm nhà mới sẽ rất vất vả, cuộc sống sẽ bị xáo trộn (đi thuê nhà, ở tạm…) nên cần chuẩn bị: Tâm Lý tốt ( hòa hợp, nhất trí cao trong toàn thể gia đình), bố trí công việc khoa học, chuẩn bị chu đáo… thì mọi việc sẽ trở nên tốt hơn, tránh được những vấp váp trong quá trình làm nhà.
Kinh nghiệm "mượn tuổi làm nhà"
+ Nên mượn tuổi của người thân trong nhà, trong nội tộc, gần nhà bạn có dự định xây là tốt nhất sẽ thuận tiện cho bạn về các thủ tục sau này.
+ Người cho mượn tuổi không được cho người thứ 2 cùng mượn tuổi trong thời gian mà người mượn trước chưa làm nhà xong. Vì vậy, khi mượn tuổi ai đó bạn cũng nên hỏi kỹ vấn đề này trước khi bạn có ý định nhờ để giúp mình động thổ.
+ Chỉ được phép mượn tuổi để khởi công xây nhà mới. Không mượn tuổi khi sửa nhà.
Nếu bạn dự định sửa chữa nhỏ mà không động đến đất thì chỉ cần chọn ngày tháng đẹp để làm.
Nếu bạn sửa nhà mà động đến đất thì cần xem đến năm vì khi đó động chạm đến Thần Linh.
Nếu năm bạn định sửa nhà mà không được tuổi thì nên chọn năm khác.
Hướng dẫn thủ tục mượn tuổi làm nhà
+ Chủ nhà làm giấy bán nhà tượng trưng cho người mượn tuổi;
+ Khi động thổ, người được mượn tuổi làm lễ khấn vái và động thổ ( cuốc 5 hay 7 cái tượng trưng tại hướng đẹp).
+ Trong thời gian làm lễ, gia đình chủ nhà nên tránh đi chỗ khác khi làm lễ xong có thể về và làm các công việc bình thường.
+ Khi đổ mái ( làm nóc) người được mượn tuổi cũng làm các thủ tục thay chủ nhà và gia đình chủ nhà cũng tránh đi nơi khác trong quá trình làm lễ.
+ Khi nhập trạch người được mượn tuổi làm các thủ tục cần thiết như: Dâng hương, khấn hoàn thành nhà mới.
+ Bàn giao lại nhà cho gia chủ: Chủ nhà làm giấy mua lại nhà ( với giá tượng trưng cao hơn giá bán khi động thổ).
+ Chủ nhà làm lễ nhập trạch.
Thủ tục về nhà mới(nhập trạch) khi mượn tuổi
+ Nếu là 1 gia đình có vợ chồng con cái thì đầu tiên là vợ gia chủ cầm 1 cái gương tròn đem vào nhà trước( mặt gương soi vào nhà ), kế đến là gia chủ tự tay bưng bát nhang thờ Tổ Tiên, rồi lần lượt các người trong nhà mới đem vào Bếp lửa ( tốt nhất là Bếp còn đang cháy đỏ từ nhà cũ đem tới ), chăn nệm, gạo, nước……vv…
+ Nếu nhà vắng đàn ông thì người mẹ bưng bát nhang thờ Tổ Tiên vào trước, kế đến là con cái lần lượt mang Bếp, gạo, nước…vv…..
Chuyển đồ đạc vào nhà trước, dọn đồ cúng sau.
+ Không ai được đi tay không vào nhà. Tuồi Dần không được phụ dọn. Phụ nữ có thai không được phụ dọn ( nếu muốn phụ, thì mua 1 cây chổi mới, dùng chổi quét qua 1 lượt các đồ vật thì không sao). Trong giờ tốt, gia chủ tự tay cầm tiền bạc nữ trang, tài sản quý giá cất vào tủ.
+ Lễ vật để đi Tân Gia mà người ta quý và có ý nghĩa tốt đẹp, mang lại điều lành cho gia chủ chính là: 1 nồi cơm điện ( theo quan niệm bây giờ cho tiện ), hay 1 bộ soong nồi ( bởi ngày xưa chưa có đồ điện mà ). Đây là những món quà mang ý nghĩa sung túc, no đủ, nên ta hãy đem tặng cho người thân, bạn hữu thân tình khi họ Tân Gia nhé !
Các lễ vật cúng
+ Khi cúng động thổ, quý vị hãy chuẩn bị các lễ vật sau : ngũ quả ( là 5 loại trái cây ), bông tươi, nhang đèn,1 bộ tam sên ( 1 miếng thịt luộc, 1 con tôm luộc, 1 trứng vịt luộc ), xôi thịt, 3 miếng trầu cau ( đã têm ), giấy vàng bạc, 1 dĩa muối gạo, 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước.
+ Sau khi cúng xong, đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp, nơi thờ cúng Táo Quân.
>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!
– Những ngôi nhà có phòng ngủ nằm ở vị trí Ngũ quỷ, phía Tây Nam bị tòa nhà cao tầng án ngữ hay chĩa mũi nhọn... đều chứa nhiều âm khí. Sống lâu trong đó, sức khỏe gia chủ đi xuống, vận khí giảm sút, tài lộc cũng khó mà khởi sắc.
![]() |
![]() |