Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem vận mệnh, cá tính, sự nghiệp cuộc đời qua hình dáng bàn tay

Xem bói, xem tướng tay là một thuật xem tướng xa xưa, mức độ phức tạp của nó dường như có thể tương đương với tướng mặt. Độ to nhỏ, dày mỏng của bàn tay, độ
Xem vận mệnh, cá tính, sự nghiệp cuộc đời qua hình dáng bàn tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Xem bói, xem tướng tay là một thuật xem tướng xa xưa, mức độ phức tạp của nó dường như có thể tương đương với tướng mặt. Độ to nhỏ, dày mỏng của bàn tay, độ dài ngắn, to nhỏ của nắm tay tương quan giữa các ngón tay, đường vân tay đều liên quan đến nhiều học thuyết mệnh lý.



Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 2
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 3
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 4
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 5
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 6
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 7
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 8
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 9
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 10
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 11
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 12
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 13
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 14
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 15
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 16
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 17
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 18
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 19
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 20
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 21
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 22
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 23
 
Xem van menh, ca tinh, su nghiep cuoc doi qua hinh dang ban tay hinh anh goc 24
 
► Xem đường chỉ tay đoán biết vận mệnh chính xác

Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem vận mệnh, cá tính, sự nghiệp cuộc đời qua hình dáng bàn tay

Đặt biểu tượng dê trong nhà ở hút vận may Tết Ất Mùi

Trong phong thủy, dê là biểu tượng của sự may mắn, cát tường và tránh thị phi hàng đầu. Năm Ất Mùi, gia chủ hãy cùng lựa chọn những đồ vật hình con dê trong trang trí nhà ở để mọi việc tốt lành xuyên suốt cả năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Bài trí tượng dê

Năm mới Ất Mùi, tượng dê được coi là linh vật đại diện cho tài lộc, may mắn cho mọi người. Bên cạnh đó, tượng dê còn là biểu tượng của tính thuần hậu, ôn hòa nhưng cũng không kém phần nhanh trí.

phong thủy nhà ở 

vật phong thủy 
Tượng dê làm bằng gỗ đang là sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường
bởi nó vừa có hương thơm tự nhiên lại vừa có ý nghĩa phong thủy

phong thủy phòng khách 

Phong thủy cho rằng, bộ Tam Dương Khai Thái bao gồm ba linh vật dê đứng trên đỉnh núi đá có hàm ý biểu tượng cho công việc phát triển, thuận lợi, tài lộc đến bất ngờ, hợp tuổi tác. Vật phẩm này dùng để trang trí nhà hay bàn làm việc rất đẹp.

2. Bài trí đĩa trang trí

Dê là con vật giàu tình cảm, mềm mỏng, hiền lành. Từ trước tới nay, dê được con người rất yêu quý và coi là biểu tượng cho những điều may mắn, tốt lành. Dùng đĩa tròn khắc nổi hình con dê để trang trí nhà cửa sẽ mang lại sự nổi bật, sang trọng cho ngôi nhà ngày Tết.

biểu tượng phong thủy nhà ở 

trang trí nhà theo phong thủy 
Chiếc đĩa hình dê độc đáo như một bức tranh sinh động về cuộc sống thôn quê

3. Treo tranh hình con dê

Trong ngôi nhà, tranh treo tường là vật phẩm trang trí không thể thiếu. Chúng giúp không gian nhà thêm sống động và tạo được hiệu quả trang trí bắt mắt. Tết này, gia chủ hãy chọn những bức tranh treo tường với hình ảnh linh vật của năm để trang trí cho căn nhà. Thông thường tranh vẽ dê rất phong phú về màu sắc, chất liệu, chủ đề và ý nghĩa. Tùy theo thiết kế và diện tích của căn phòng, chủ nhà có thể chia thành những bức tranh nhỏ đặt kề bên nhau tạo ra hiệu quả độc đáo hoặc chọn khổ bức tranh lớn giúp căn phòng trông thoáng rộng hơn.

thiết kế nhà ở hợp phong thủy 

hướng nhà 
Với màu sắc tươi sáng, bức tranh nghệ thuật đem lại không gian
ngày Tết tươi sáng, vui vẻ

4. Mua sắm cốc uống nước

Dịp Tết Ất Mùi này, ngôi nhà của bạn sẽ có điểm nhấn với mẫu cốc được thiết kế độc đáo, lạ mắt. Việc uống nước hàng ngày của bạn sẽ trở nên thú vị hơn rất nhiều với chiếc cốc hình con dê siêu lạ này. Mẫu cốc dễ thương có 3 màu sắc để bạn lựa chọn: nâu vàng, trắng và đen.

vật phong thủy năm 2015 

phong thủy nhà ở năm ất mùi 

phong thủy phòng bếp 

5. Làm mô hình đầu dê handmade từ bìa cứng

Năm nay, dê là linh vật đem lại cát tường, may mắn cho mọi nhà nên bản thân mô hình đầu dê cũng là một món đồ trang trí rất được yêu thích. Bạn hoàn toàn có thể làm được những mô hình đầu dê như thế này từ những tấm bìa cứng với một chút khéo léo và sáng tạo. Các mô hình trang trí đầu dê có thể dùng cho rất nhiều không gian, từ phòng ngủ cho đến phòng khách rất tiết kiệm lại phù hợp xu hướng trang trí nhà dịp Tết Ất Mùi.

nội thất phong thủy 

vật phẩm phong thủy 

6. Ấm trà hình con dê

Giữa ấm trà và tạo hình con dê đã có một sự kết hợp độc đáo, hoàn hảo và sành điệu. Xu hướng năm 2015 - năm Ất Mùi cho thấy, nhiều người săn tìm những sản phẩm ấm trà hình con dê đang. Không chỉ đẹp, lạ mắt, độc đáo mà ấm trà hình dê còn mang tới điềm lành, may mắn cho gia đình bạn. Hơn nữa, ấm trà hình dê còn đem lại những khoảnh khoắc thưởng thức trà thật ý nghĩa và thú vị trong ngày Tết sum vầy.

bài trí vật hình dê trong nhà ở 

đặt vật hình dê trong nhà ở 

7. Đèn trang trí

Tương tự như các thiết bị nội thất khác, đèn trang trí giúp cho ngôi nhà của bạn đẹp hơn, lộng lẫy và sang trọng hơn. Năm Ất Mùi, bạn hãy làm đẹp cho ngôi nhà của mình bằng cách chọn mua những chiếc đèn bàn trang trí hình dê ngộ nghĩnh như thế này nhé.

phong thủy căn hộ 

 

8. Bài trí cây cảnh hình con dê

Trong dịp Tết Ất Mùi này, khá nhiều người ưa chuộng và tìm mua cây cảnh hình con dê. Không chỉ là món đồ trang trí độc đáo, đẹp mắt mà cây cảnh uốn hình con dê  còn mang lại an lành, may mắn cho cả gia đình trong năm 2015.

cây cảnh hợp phong thủy nhà ở 

9. Dùng đồng hồ hình con dê

Ngày nay đồng hồ không chỉ để xem giờ mà còn là một vật trang trí hiệu quả cho ngôi nhà của bạn. Việc lựa chọn và treo chiếc đồng hồ hình linh vật dê trong nhà với một chút khéo léo sẽ tạo nên điểm nhấn rất tinh tế cho không gian sống quanh nó.

đồng hồ hình dê hợp phong thủy 

(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt biểu tượng dê trong nhà ở hút vận may Tết Ất Mùi

Những giấc mơ điềm báo may mắn, phát tài

Ai ngủ cũng nằm mơ, và mỗi giấc mơ đèu mang những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Nhưng 5 giấc mơ sau đây chính là điềm báo cho việc bạn sẽ có một tương lai sáng lạn và cực kì giàu có đấy! Bạn có tò mò không?
Những giấc mơ điềm báo may mắn, phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Ai ngủ cũng nằm mơ, và mỗi giấc mơ đèu mang những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Nhưng 5 giấc mơ sau đây chính là điềm báo cho việc bạn sẽ có một tương lai sáng lạn và cực kì giàu có đấy! Bạn có tò mò không?

1. Mơ gặp cấp trên hoặc sếp một cách thân thiết

Giải mã giấc mơ nhận thấy những giấc mơ này chính là phát triển vượt bậc trong sự nghiệp, vận may tốt hơn người. Có người nói, mơ việc quan hệ tốt với đồng nghiệp có được tính không? Tuy nhiên, theo phân tích, dù rằng đây cũng là một việc tốt nhưng sự tăng vọt về mặt tiền bạc cũng không khả quan cho lắm.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

2. Mơ thấy điềm lành nơi công sở

Bao gồm những nơi như chỗ làm việc, công ty, văn phòng hoặc nơi gặp đồng nghiệp có xuất hiện cầu vồng, mây ngũ sắc, thần tài, tỳ hưu, con dơi, con cóc. Nếu phụ nữ mơ thấy con công, phượng, lân, đàn ông gặp mãnh thú (mà trong mơ không hề sợ hãi) đều là những dấu hiệu cho thấy sự may mắn về tiền bạc.

3. Mơ gặp đồ vật kim loại

Bất luận là bạn có tin hay không, rất nhiều người mơ thấy tìm được kho báu trong mơ và thật sự có được may mắn bất ngờ. Năm 2013 đã từng có một việc chấn động, chính là những nhà khảo cổ học đã khai quật được 1000 tấn vàng trong ngôi mộ của vua Ấn Độ từ thế kỉ 19. Điều đặc biệt là, sự việc này đã được tiên tri chỉ qua những giấc mơ. Vì vậy, dù trong mơ bạn chỉ nhặt được một đồng xu nhỏ, tài vận của bạn cũng rất khá đấy.

4. Mơ thấy đi vào ngôi nhà xa lạ nhặt được món đồ đắt tiền

Giấc mơ này có thể đem lại sự thăng tiến cho người mơ thấy nó. Bạn dễ dàng có cơ hội trở thành sếp hoặc có những hồi đáp tốt đẹp.

5. Mơ việc giết hại thú dữ

Khi bạn mơ thấy mình giết hại thú dữ, chắc chắn rằng bạn sẽ dễ dàng lập nghiệp và thành công trong công việc sắp tới.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những giấc mơ điềm báo may mắn, phát tài

Xem tướng. Dáng ngồi bộc lộ khả năng ‘chăn gối’ của nàng –

Nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng tư thế ngồi cũng phần nào thể hiện tính cách và đặc điểm của chị em trong chuyện ‘chăn gối’. Ngồi bắt chéo chân Những phụ nữ ngồi kiểu này thường là mẫu người tự tin, cho mình là trung tâm vũ trụ. Với cá tính
Xem tướng. Dáng ngồi bộc lộ khả năng ‘chăn gối’ của nàng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng. Dáng ngồi bộc lộ khả năng ‘chăn gối’ của nàng –

Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Bài viết của tác giả Ân Quang về vấn đề chế hóa và chiết tự trong tử vi. Đây là một bài phân thích rất hay!
Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của Ân Quang

“Xem Tử Vi thì phải biết Sinh Khắc Chế Hóa, và phải là người thâm nho mới thấu triệt ý nghĩa”.

Ngày tôi còn bé thường nghe các cụ nói thế. Nghe vậy thì biết vậy, chứ thực ra tôi chẳng hiểu mấy về câu nói này.

Khi vừa biết viết gọn quốc ngữ, tôi liền được cụ tôi hướng dẫn lập thành lá số Tử Vi cho những người đến nhờ cụ xem giùm. Lúc ấy, tôi sung sướng nghĩ rằng lấy một lá số Tử Vi là việc làm không mấy khó khăn.

Tôi thầm nghĩ rằng, có lẽ ngày xưa cần người thâm nho chỉ để đọc các sách chữ Hán dạy về cách lập thành, và cách đoán số Tử Vi. Nếu nay, cứ tìm được các bộ sách chân truyền từ xưa, rồi dịch ra Việt ngữ thì Tử Vi không còn gì là bí hiểm, không còn là độc quyền của các cụ già thâm nho. Chỉ việc giở sách ra là có thể lập thành một lá số Tử Vi, rồi quy nạp, dựa vào các bộ sao, suy đoán các cách phú quý, bần tiện, thọ yểu, hạn rủi, vận may v.v…

Thời gian trôi qua, càng nghiên cứu Tử Vi, tôi càng cảm thấy rằng đó không phải là một việc làm giản dị như trước kia tôi lầm tưởng.

Ngoài việc phân định sự Miếu, Vượng, Hãm địa của các sao, ngoài sự Sinh Khắc Ngũ Hành, ngoài việc phối hợp Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái, ngoài việc quy nạp độ 500, 700 cách đoán số, (cho nhiều nhất là 1000 cách, trong các bài phú) lại còn phải hiểu hình tính, ý nghĩa các vị sao mà Chế Hóa, vì có những sao gặp nhau mà không thuộc về cách nào ghi trong các sách Tử Vi. Thí dụ như Hỏa Tinh cư Ngọ thì đắc địa, gặp Kình Dương cư Ngọ hãm địa thì sao? Thái Dương cư Tuất hãm địa gặp Kình Dương cư Tuất nhập miếu thì sao? Không thể áp dụng tinh thần máy móc, cộng hai vị sao lại rồi chia hai, lấy trung bình. Tốt vừa vừa hay xấu in ít?

Trong những trường hợp này, sự Chế Hóa, tinh thần diễn dịch đóng một vai trò rất quan trọng.

Nếu chỉ áp dụng tinh thần công thức một cách máy móc, thì sẽ gặp rất nhiều công thức này chống ngược lại công thức khác.

Sách ghi là: “Tử Phá mộ cung, bất trung, bất hiếu”, sách lại cũng nói là “Khôi Việt, Quan Phúc” chủ thông minh, thanh cao, nhân hậu, v.v… Vậy thì Tử Phá cư Mùi gặp Khôi Việt, Quan Phúc là thế nào? Bất trung bất hiếu vừa vừa hay là thanh cao nhân hậu in ít??

Một vị chính tinh dù là hung ác mà được quần thần, cố vấn, tham mưu đều thanh cao, nhân hậu thì có thể trở thành nhà cải cách, cách mạng tuy hành động có hơi cứng rắn, đi khác với thông lệ, vượt qua dư luận. Nhưng vị chính tinh ấy vẫn được bộ tham mưu đưa về những chiều hướng xây dựng.

Nói đến “Liêm Tham Tỵ Hợi” thì người nghiên cứu Tử Vi, có thể nghĩ đến công thức Liêm Trinh cộng với Tham Lang ở Tý, Hợi ra quan môn, hình ngục. Thế nhưng, Liêm Tham Tỵ Hợi cung Quan Lộc ở đó Mệnh, Quan, Tài, Di, được các quyền tinh, quý tinh, phúc tinh giao hội đủ bộ, thì ảnh hưởng sẽ chuyển ngược lại, không phải là người ta xử phạt mình mà lại là mình xử phạt, cầm cân nảy mực xét xử người khác (Đây là ngày giờ sinh của một ông Biện Lý trẻ tuổi, trong thân quyến của tôi, để quý vị chiêm nghiệm. Tuổi Đinh Sửu, tháng chạp ngày 28, cuối giờ Tý, đêm 27 rạng 28, giờ Tý tính vào ngày 28).

Không thể căn cứ vào bộ sao tốt rồi đoán rằng mọi sự phải tốt, không thể căn cứ vào một bộ sao xấu rồi đoán rằng việc gì cũng phải xấu. Cũng không thể quan niệm rằng lấy cái tốt, cộng với cái xấu, hòa lẫn, chia hai, ra cái trung bình.

Sinh Khắc, Chế Hóa là lời nhắc nhở từ căn bản vỡ lòng của những người nghiên cứu Tử Vi, mà các sách Tử Vi chỉ trình bày được phần Sinh Khắc Ngũ Hành, và bỏ lơ đi cái phần Chế Hóa, chỉ trình bày các công thức dưới những hình thức có vẻ Khoa học. Đến khi áp dụng công thức thì người nghiên cứu vô cùng hoang mang trước những công thức này chống công thức kia.

“Mệnh Đào mà ngộ Thiên Diêu
Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào”

Phú đoán chỉ nói lên một khía cạnh có thể có, chứ không phải là một công thức máy móc.

Mệnh tại Mão được Thái Dương, Thiên Lương, Quan Phúc, nữ Mệnh được như vậy thì sách lại nói đến không biết bao nhiêu đức tính tốt như là thanh cao, phúc hậu, thủy chung, nhân từ v.v… lại có Đào Diêu ở đấy thì công thức lại nói là ngoại tình. Vậy thì là thế nào? Thủy chung nửa vời hay là ngoại tình in ít?

Chính tinh đã thủy chung lại được củng cố thêm bởi các phúc tinh, quý tinh, thì một vài sao Đào Diêu không thể tạo ảnh hưởng ngược lại được. Đó chỉ là dấu hiệu của một vài mối tính do người ngoài đem đến, ngỏ ý, v.v… nhưng đương số vẫn vững lòng trung trinh.

Mục đích của bài này không phải là thảo luận hay trình bày tất cả những trường hợp Chế Hóa. Chúng tôi chỉ muốn trình bày rằng, nếu hoàn toàn Việt ngữ hóa Tử Vi nếu vứt bỏ hai chữ Chế Hóa thì Tử Vi chỉ còn là một mớ công thức lộn xộn.

Sinh Khắc, Chế Hóa, bốn chữ “đầu môi chót lưỡi” thường được giới Tử Vi Dịch Lý xưa kia nhắc nhở. Thiết tưởng, cũng không nên vì một lý do gì mà bỏ đi chữ Chế Hóa, hoặc thay thế bằng một chữ nào khác mà mất đi cái thâm thúy của cổ nhân, và người hậu học có thể bị đi lạc đường.

Muốn Chế Hóa thì phải suy diễn. Mà muốn suy diễn theo Tử Vi, thì phải trở về với quan niệm Sinh Khắc, Ngũ Hành, Âm Dương, Bát Quái về vũ trụ, về nhân sinh, của người xưa. Gần hơn hết là phải hiểu ý nghĩa các vị sao.
Tên các vị sao không phải đặt theo hứng khởi, ngẫu nhiên. Có thể nói là tên mỗi vị sao kéo theo cả một vũ trụ quan, một nhân sinh quan. Tên mỗi vị sao lại có nhiều nghĩa khác nhau, liên hệ đến cách phát âm đó. Thí dụ như Thiên Việt là văn tinh, quý tinh, thế mà: “Hỏa Linh Hình Việt” lại là kiếm đao búa Trời, ngụ ý sét đánh, thì chữ Việt đây còn có nghĩa là cái gì rơi đổ xuống, chữ Việt (với bộ Kim bên cạnh) lại có nghĩa là cái búa lớn.

Như chữ Mộ là cái mồ, ngụ ý chôn vùi, lấp, bế tắc, trở ngại. Thế mà:

Mộ phùng Hóa Lộc mấy ai
Thực người có của tận tay chào mời”

Thì chữ Mộ này lại là mến.

Lại như sao Thiên Y là thuốc men mà lại cũng là biểu tượng của y là áo (ngụ ý chức tước y lộc).

Như sao Hóa Quyền ngụ ý về quyền uy, mà lại là biểu tượng của gò má (lưỡng quyền) lại có khi là quyền biến, thay đổi.

“Lưỡng Hao, Cự, Vũ, Hóa, Quyền
Chiếu sao trấn thủ một biên phương ngoài”

Cự là cách xa. Vũ viết như chữ Vũ là Võ, lại còn có nghĩa là vết chân, nối gót, như bộ vũ là làm nốt công việc của người trước.

Đó là một vài khía cạnh Chiết Tự trong Tử Vi, mà xưa kia các cụ thường áp dụng để có một cái nhìn sâu xa hơn.

Có Cự Môn, hoặc là có Vũ Khúc cũng có thể đi xa, được đi theo sự tự chọn hoặc là bị đổi đi, tùy theo ý nghĩa các sao kết hợp thành bộ. Chứ nào phải riệng một Lưu Thiên Mã gặp Thiên Mã cố định mới là đi. Đâu phải chỉ có con ngựa mới đi. Rồng (Long) cũng có thể bay lên hoặc bay đi vùng vẫy. Hổ cũng có thể đi tung hoành.

Trong Tử Vi có những tên gọi không phải là Sao. Chúng tôi sẽ có một bài khác nói về điểm này.

Thiên Mã là Khí Dịch Mã, tạo nên sự biến chuyển. Còn tùy các sao khác mà luận. Có khi chỉ là sự biến chuyển tốt hơn, xấu hơn, nhưng thay đổi tại chỗ mà thôi.

Như Linh Tinh, trong trường hợp tốt thì Linh là quyền lệnh (Hỏa Linh tương ngộ, đa trấn chư bang). Khi xấu thì Linh lại là rụng rơi, hoặc cô đơn, cô khổ (Hỏa Linh hãm ư tử tức, đáo lão vô như khốc). Hỏa Tinh, Linh Tinh trong một số trường hợp còn là tinh ma, yêu quái, linh hồn v.v… dĩ nhiên là còn phải xét thêm các sao khác mà luận.

Thí dụ như:

“Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh
Bào thai những giống yêu tinh quỷ sầu”

Hoặc là ở Điền Trạch:

“Hồng, Diêu, Hoa Cái tốt sao
Khốc Hư, Linh Hỏa, có yêu quái gì”

Lại còn cách:

Tuế-Kỵ-Diêu-Linh-Khốc” là có oan hồn theo quấy phá, nếu được chính tinh tốt, phúc tinh phò trợ thì cũng có khi là mình được một vong linh nào đó theo phò hộ.

Trên đây không phải là những công thức Toán học Tử Vi, mà chỉ là những tinh lực, những khí vận, có thể biến chuyển như vậy. Người nghiên cứu không thể câu chấp, mà cần có cái nhìn rộng thêm về ảnh hưởng tương quan của các vị sao khác mà trình bày hết.

Có khoa học nào gom lại trong một hai cuốn sách mà được đầy đủ?

Chúng tôi chỉ xin trình bày để quý bạn mới làm quen với Tử Vi có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Khoa này, cũng là có thêm một khái niệm về sự Chế Hóa, Chiết Tự.

Người xưa chiết tự Tử Vi là như vậy. Chứ không phải chiết tự để đoán tên người như câu chuyện “Ông Thầy Tử Vi Ba Trợn” mà cụ Hoàng Hạc đã có lần kể trong mục “1001 chuyện Tử Vi”.

Đến đây chắc có bạn đọc thắc mắc, một Linh Tinh nhiều nghĩa như vậy thì người xưa viết chứ Linh như thế nào?

Chúng tôi đã sưu tầm nhiều lá số Tử Vi bằng chữ Hán xưa kia, viết cũng như luận, rất sâu sắc, đứng đắn. Chúng tôi cũng sưu tầm một số sách Tử Vi từ Đài Loan thì chữ Linh ấy được viết với bộ Hào, với bộ Nữ và với bộ Kim một bên. Nhất là một số sách Tử Vi Đài Loan thì hiện nay dùng bộ Kim để viết chữ Linh.

Tại sao lại có tình trạng lạ như vậy?

Xin thưa, đó không phải là một sự rắc rối, lộn xộn.

Ngôn ngữ là do sự cảm xúc, giao cảm giữa con người và vũ trụ, vạn vật xung quanh mà tạo thành.

Văn tự chỉ là một cách để đánh dấu, ghi lại ngôn ngữ.

Khi đã có quá nhiều điểm tế nhị trong cùng một mối giao cảm thì dùng cách đánh dấu ghi dấu tượng trưng, rồi suy diễn sau. Do đó, viết chữ Linh nào cũng được, miến là hiểu hết những khía cạnh tế nhị liên quan đến cái cách phát âm ấy. Vì thế mà giới Tử Vi Trung Hoa (Đài Loan hiện nay) viết chữ Linh với bộ Kim bên cạnh, chỉ có nghĩa là cái chuông nhỏ, không xấu, không tốt, vô thưởng vô phạt, rồi người nghiên cứu sẽ vô tư kết hợp các sao khác mà suy diễn ý nghĩa tốt xấu, không thiên vị, cứu xét cả những điểm tế nhị có liên quan đến âm thanh Linh.

Mỗi khoa học đều xuất phát từ một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Khi nghiên cứu Tử Vi, chúng ta cần trở lại với cái nhân sinh quan vào thời phát sinh ra Tử Vi. Chúng ta cần hiểu cái quan niệm của thời đó mà Chiết Tự, Chế Hóa.

Không thể nào đem cái nhân sinh quan này áp dụng vào khoa học nọ. Cũng như không thể cầm một chai thuốc Tây, và nói rằng thuốc này trị về Hỏa vượng.

Khi Chiết Tự, khi Chế Hóa thì cần theo cái nhân sinh quan của thời đại phát sinh ra Tử Vi.

Thí dụ: Sao Bác Sĩ, nghĩa đen là kẻ sĩ học rộng, ngụ ý là thông minh và được trọng vọng (Thời đó chữ Sĩ, kẻ Sĩ được trọng vọng nhiều). Chứ nào có phải nói về tâm hồn nghệ sĩ, hay là ông Bác Sĩ. Do đó, không thể nào luận rằng các sao Thiên Y, Hóa Khoa, Bác Sĩ, họp lại thành ra bộ sao “Y Khoa Bác Sĩ”

Và cũng không thể áp dụng công thức sao Tuế Phá đi với Kình Dương là răng yểu, răng hô, lại thấy có Thiên Y, Hóa Khoa rồi luận ra đó là vị Nho Sĩ chuyên chữa răng vẩu, răng hô!

Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Mơ thấy hạt lúa mì: Tượng trưng bội thu và tài vận –

Hạt lúa mì trong mơ là đại diện cho sự bội thu và tài vận.Nông dân mơ thấy hạt lúa mì sinh trưởng tốt tươi, dự báo mùa thu hoạch bội thu.Nếu mơ thấy mình gặt lúa mì, dự báo bạn có tài vận, sắp sửa giàu to.Nếu mơ thấy lúa mì chín vàng, cho thấy tài vậ
Mơ thấy hạt lúa mì: Tượng trưng bội thu và tài vận –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hạt lúa mì: Tượng trưng bội thu và tài vận –

4 chòm sao lười biếng nhất quả đất

Cuộc sống hiện đại, mọi việc đều được tự động hóa nên 4 chòm sao lười biếng dưới đây càng có cơ hội không động tay động chân vào việc gì, cả ngày ì ạch.
4 chòm sao lười biếng nhất quả đất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống hiện đại, mọi việc đều được tự động hóa nên 4 chòm sao lười biếng dưới đây càng có cơ hội không động tay động chân vào việc gì, cả ngày ì ạch, đến việc cá nhân còn ngại làm.


4 chom sao luoi bieng nhat qua dat hinh anh 2
 

Thủy Bình (Bảo Bình)

  Thủy Bình là chòm sao lười biếng vì họ còn bận mải mê với những suy nghĩ trên mây trên gió. Phương châm sống của Bình nhi là “có thể ngồi thì không đứng, có thể nằm thì không ngồi”. Chòm sao này hạn chế tối đa những chuyện không nhất thiết phải làm, không quá quan trọng thì lười được bao nhiêu là lười bấy nhiêu. Người ngơ ngơ ngác ngác thế này, muốn họ chăm chỉ cũng khó. 

Có thể Bình nhi quan tâm: Bắt đâu hoàn hảo dành riêng cho Thủy Bình 

Nhân Mã

  Nhân Mã chính xác là chòm sao vô tâm, không để ý tới chuyện gì khác, lười để ý đến mọi sự vụ. Siêu cấp lười biếng, siêu cấp vô tâm, nếu không phải chuyện trực tiếp liên quan tới họ thì đừng mong Mã Mã để vào đầu. Hơn nữa, chòm sao này còn hoàn toàn miễn dịch với mọi lời nhắc nhở hay ý kiến từ bên ngoài, họ không quan tâm đâu. Sự thú vị ở một nàng Nhân Mã liệu bạn có tìm thấy?
4 chom sao luoi bieng nhat qua dat hinh anh 2
 

Sư Tử

Trời sinh Sư Tử đã là chòm sao đại lười, nhân sinh quan rất biếng nhác, không bao giờ đển bản thân phải vất vả. Có thể ngủ là ngủ, có thể ăn là ăn, có thể đi chơi liền đi ngay, không do dự. Làm việc thì chú trọng sự đơn giản, ít phiền toái, đến cả chuyện tình cảm cũng như vậy, một chút suy nghĩ cũng lười. 
 
Mách nước cho Sư Tử phát triển sự nghiệp

Song Tử

  Thích nhàn hạ là đặc điểm nổi trội nhất trong tính cách của Song Tử, ham hưởng lạc, không thích chuyện bao đồng, cũng không bôn ba vì cái này cái kia bao giờ. Họ lúc nào cũng như hoa hoa công tử, phong lưu, phóng khoáng, lượn lờ khắp nơi tìm thú vui chứ ít khi muốn đầu tắt mặt tối.

Nữ Bảo Bình nam Song Tử - ai bảo không thể có bạn thân khác giới
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao lười biếng nhất quả đất

Ấm lòng khi nằm mơ thấy sữa

Dòng sữa ấm áp thường gắn liền với hình ảnh người mẹ. Bầu sữa mẹ không chỉ mang lại nguồn dinh dưỡng dồi dào mà còn mang lại cả tình thương bao la dành cho con.
Ấm lòng khi nằm mơ thấy sữa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Tham khảo thêm: Giải mã nằm mơ thấy cámơ thấy ma

Am long khi nam mo thay sua hinh anh
Ảnh minh họa

Chiêm bao thấy sữa là biểu thị cho người có khuynh hướng giống mẹ về ngoại hình và tính cách cũng như tình yêu của mẹ.

 

Ngoài ra, điều này còn thể hiện lòng tốt, lòng trắc ẩn của người nằm mơ với mọi người xung quanh.

 

Chiêm bao thấy mình đang uống sữa là tượng trưng cho hạnh phúc gia đình và thể hiện tinh thần đang rất thỏai mái. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gợi ý đến nhu cầu muốn củng cố mối quan hệ một cách bền vững của bạn với người khác.

 

Chiêm bao thấy mình làm tràn hoặc đổ sữa là điềm báo bạn đang mất niềm tin vào cuộc sống, bạn đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt, và uy tín của bạn đang bị giảm sút trầm trọng. Bên cạnh đó, giấc mơ này cũng ám chỉ rằng một vài người bạn thân sẽ khiến bạn thất vọng và chán nản, nhưng đừng quá lo lắng, điều này chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn thôi.

 

Mơ thấy sữa nóng ám chỉ rằng bạn sẽ trải qua một giai đoạn cam go, phải vượt qua rất nhiều chông gai trước khi thực hiện được giấc mơ giàu sang.

Mơ thấy sữa chua hoặc bẩn, báo trước những rắc rối nhỏ khiến bạn buồn phiền và đau khổ nhiều.

Mơ thấy bạn đang tắm trong sữa ám chỉ phạm vi ổn định, đáng tin cậy và bạn bè vui vẻ.

Mơ thấy bạn đang làm nghẽn sữa, ám chỉ rằng có thể bạn cảm thấy căng thẳng trong mối quan hệ nào đó.

 

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ấm lòng khi nằm mơ thấy sữa

Con giáp nam tính tỉ lệ thuận với thời gian

Những con giáp nam tính bao gồm đàn ông tuổi Mùi, tuổi Ngọ...
Con giáp nam tính tỉ lệ thuận với thời gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Theo dòng chảy của thời gian, mức độ nam tính, cuốn hút của những con giáp nam này tăng lên theo cấp số nhân.


1. Đàn ông tuổi Mùi

Ai cũng dễ nhận thấy rằng, đa phần đàn ông tuổi Mùi tính tình ôn hòa, điềm tĩnh. Bên cạnh đó, năng lực làm việc cũng như khả năng xử lý tình huống bất ngờ của con giáp này ngày càng “chín” dần theo thời gian. Chính vì thế, khi bước vào tuổi trung niên, đời sống vật chất và tinh thần của người này phong phú vô cùng, yên tâm hưởng thụ cuộc sống.

Cũng theo dòng chảy thời gian, sức cuốn hút và nam tính của con trai tuổi Mùi cũng được tăng lên trông thấy. Không chỉ dừng lại ở đời sống vật chất dư dả, vốn kiến thức mà họ tích lũy được không thể dùng đơn vị nào để định lượng được.

Con giap nam tinh ti le thuan voi thoi gian hinh anh
 
2. Đàn ông tuổi Dậu


Không khó để nhận ra một điều, tuổi thành đạt của đàn ông tuổi Dậu đa phần sẽ là sau tuổi 35. Đây chính là thời điểm phù hợp để họ trưởng thành về mọi mặt trong cuộc sống. Công danh, sự nghiệp phát đạt, đời sống tình cảm, hôn nhân bền vững.

Chính những điều đó đã làm nên sức hút khó cưỡng của đàn ông tuổi Dậu. Đi tới đâu, họ cũng được mọi người, đặc biệt là nữ giới yêu mến. Do đó, cuộc sống ngày càng có xu hướng thuận lợi, gặp nhiều may mắn.

Con giap nam tinh ti le thuan voi thoi gian hinh anh 2
 
3. Đàn ông tuổi Thìn


Cuộc đời của đàn ông tuổi Thìn cũng trải qua không ít thăng trầm. Nhưng kết quả cuối cùng khiến họ cũng thở phào nhẹ nhõm, bởi bao công sức trước đây được đền đáp xứng đáng. Đời sống vật chất ổn định, công danh sự nghiệp song toàn, hôn nhân cũng hài hòa, yên ấm.

Thế mới nói, sức hút và độ nam tính của đàn ông tuổi Thìn tỷ lệ thuận với thời gian. Dòng chảy thời gian không làm mờ đi tất cả, nó chỉ là bước đệm cho con giáp này “chín” về mọi mặt trong cuộc sống mà thôi. Đây đích thị là một trong những con giáp nam tính vượt thời gian.

Con giap nam tinh ti le thuan voi thoi gian hinh anh 3
 
4. Đàn ông tuổi Ngọ

Không thể phủ nhận, đàn ông tuổi Ngọ làm việc bảo thủ nhưng vẫn khá nhiệt tình, vì lợi ích chung của tập thế chứ không phải tư lợi cá nhân. Họ quyết đoán, mạnh mẽ và tự tin nên một khi đã hạ quyết tâm là làm cho bằng được. Tỉ lệ thành công trong sự nghiệp rất cao.

Bước vào tuổi trung niên, theo độ dài của thời gian, “độ chín” về tính cách, trải nghiệm cuộc sống của con giáp này cũng tăng lên trông thấy. Chính về thế mà đàn ông tuổi Ngọ đi tới đâu cũng được phái đẹp dành tình cảm yêu mến và sự ưu ái vô cùng.

=> Xem thêm: Tử vi trọn đời các con giáp chuẩn xác theo Lịch âm

Việt Hoàng

Chàng trai tuổi nào còn dịu dàng hơn cả nữ giới?
– Thật không thể tin nổi khi chàng trai tuổi Dần lại lọt danh sách con giáp nam dịu dàng hơn nữ giới.

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nam tính tỉ lệ thuận với thời gian

Cao thủ kiếm tiền trong 12 chòm sao nữ –

Bạn thắc mắc trong 12 cung hoàng đạo cung hoàng đạo nữ nào kiếm tiền nhiều nhất? Bạn từng nghe nói đâu đó rằng: Vị trí đầu bảng thuộc về các cô nàng Bạch Dương, tiếp theo là Bò Cạp và Kim Ngưu. Liệu có phải thế không? Để kiếm chứng củ thể hãy cùng đọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn thắc mắc trong 12 cung hoàng đạo cung hoàng đạo nữ nào kiếm tiền nhiều nhất? Bạn từng nghe nói đâu đó rằng: Vị trí đầu bảng thuộc về các cô nàng Bạch Dương, tiếp theo là Bò Cạp và Kim Ngưu. Liệu có phải thế không? Để kiếm chứng củ thể hãy cùng đọ bài viết cao thủ kiếm tiền trong 12 chòm sao nữ để xem mình có nằm trong tốp được gọi là cao thủ kiếm tiền không nhé!

Nội dung

  • 1 Cung hoàng đạo nữ kiếm được nhiều tiền nhất
    • 1.1 Ngôi đầu bảng: Bạch Dương
    • 1.2 Ngôi thứ bảng: Bò Cạp
    • 1.3 Vị trí thứ 3: Kim Ngưu

Cung hoàng đạo nữ kiếm được nhiều tiền nhất

Ngôi đầu bảng: Bạch Dương

Tính cách hướng ngoại, vui vẻ, lạc quan và khá nhanh nhạy trong cách nắm bắt và phân tích thông tin đã giúp những nàng Bạch Dương không bỏ sót bất cứ cơ hội kiếm tiền nào. Đó là lý do khiến khối tài sản của chòm sao này ngày một tăng lên nhanh chóng.

bach-duong-9220-1398645676

Bạch Dương rất quyết đoán và đưa ra những phán đoán hợp lý trong mọi tình huống. Dù đầu tư có mạo hiểm tới đâu bạn cũng không lo sợ, tiền dù đã mất nhưng bạn coi đó như là chi phí cho bài học đắt giá để rút kinh nghiệm cho những cố gắng kế tiếp.

Ngôi thứ bảng: Bò Cạp

Một trong những cao thủ kiếm tiền phải kể đến những cô nàng có tài năng lãnh đạo thiên bẩm, Bò Cạp. Hơn thế, chòm sao này lại chiếm được đông đảm cảm tình và sự ủng hộ của mọi người nhờ tính cách hòa đồng và biết đặt mình vào vị trí người khác để nhìn nhận vấn đề.

bo-cap-5416-1398645676

Một trong những tuyệt chiêu khiến Bò Cạp kiếm bội tiền, đó là dùng trí tuệ, đầu óc sắc lạnh và sự điềm tĩnh trong những tình huống cấp bách để khiến tiền đẻ ra tiền chứ không phải phí công dùng sức lực cơ bắp. Vậy nên, nhìn vẻ ngoài những cô nàng này lúc nào cũng khá thong dong, điềm tĩnh nhưng bên trong lại ẩn chứa một nội lực rất lớn.

Vị trí thứ 3: Kim Ngưu

Độ nhạy bén trong lĩnh vực tài chính của những nàng Kim Ngưu khá cao. Có thể nói, trong đầu của chòm sao này, lúc nào tiền bạc cũng là mối quan tâm hàng đầu. Bạn đã biết quản lý vấn đề chi tiêu tài chính của mình một cách hợp lý ngay từ khi còn rất nhỏ. Khi trưởng thành và có thể độc lập làm việc, số tiền bạn tiết kiệm được nhờ vào đầu óc tính toán và chi tiêu hợp lý là không hề nhỏ.

kim-nguu-3014-1398645676

Kim Ngưu luôn biết cân nhắc thiệt hơn trước khi quyết định có nên chi một khoản tiền lớn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân hay không. Nhưng các nàng này lại khá hào phóng trong việc mua quà tặng hoặc giúp đỡ tiền bạc cho những người thân trong gia đình và cả bạn bè thân thiết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cao thủ kiếm tiền trong 12 chòm sao nữ –

Nốt ruồi ở ngón chân mang ý nghĩa gì?

Mỗi nốt ruồi ở ngón chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấu, cũng có những nốt ruồi ở ngón chân không mang ý nghĩa gì cả. Bài viết dưới đây Phong thủy số giới thiệu tới bạn những ý nghĩa mà nốt ruồi ở vị trí ngón chân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi vị trí nốt ruồi trên cơ thể mang một ý nghĩa khác nhau có ảnh hưởng tới cuộc đời hay vận mệnh của bạn. Có thể là một điềm báo xấu hoặc tốt đối với vận mệnh của bạn. Mỗi nốt ruồi ở ngón chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấu, cũng có những nốt ruồi ở ngón chân không mang ý nghĩa gì cả. Bài viết dưới đây Phong thủy số giới thiệu tới bạn những ý nghĩa mà nốt ruồi ở vị trí ngón chân.

Nốt ruồi ở ngón chân mang ý nghĩa gì?

Nốt ruồi ở ngón chân cái:

Ngón chân cái là ngón tượng trưng cho quyền lực, vì thế đối với những người có nốt ruồi ở ngón chân cái là những người có tố chất lãnh đạo, có khả năng quán xuyết tất cả mọi việc. Những người này có thể đảm nhận được những vai trò cao sự nghiệp và được nhiều người mến phục. Những người có nốt ruồi ở ngón chân cái bên phải hay bên trái đều là người có tố chất lãnh đạo, là người có quyền thế.

Nốt ruồi ở ngón chân út và ngón áp út:

Những người có nốt ruồi ở vị trí này nên cẩn thận với bệnh thận, thiếu dương khí hay vị váng đầu, chóng mặt, hay bị tê liệt hay chân, những người có nốt ruồi ở vị trí này không phù hợp với các công việc cần trí nhớ tốt.

Nốt ruồi trên ngón chân thứ hai:

Với những người có nốt ruồi ở ngón chân thứ hai thường hay bị đau đầu, giấc ngủ không sâu. Phương diện tình cảm, hôn nhân cũng không được như ý.

Nốt ruồi trên ngón chân khác:

Những vị trí nốt ruồi trên ngón chân khác đều mang ý nghĩa là người này phải đi xa, cuộc sống tha phương cầu thực, khá chật vật. Kể cả đến lúc qua đời cũng có thể không thề về nơi chôn rau cắt rối mà phải nằm lại nơi đất khách quê người.

Nốt ruồi ở kẽ ngón chân:

Với những người có nốt ruồi ở kẽ ngón chân thường là người có của, có tiền đồ, cuộc sống khá sung túc.

Trên đây là những ý nghĩa của vị trí nốt ruồi ở ngón chân, cũng như vị trí nốt ruồi ở kẽ ngón chân. Để xem thêm những bài viết liên quan khác, bạn có thể tham khảo thêm những bài viết dưới đây:

+ Bí ẩn nốt ruồi sau gáy phụ nữ

+ Nốt ruồi trên môi có ý nghĩa gì?

+ Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu

+ Nốt ruồi ở vai phải có ý nghĩa gì?

Key liên quan: nốt ruồi ở ngón chân cái, nốt ruồi ở ngón chân cái bên phải, nốt ruồi trên ngón chân, nốt ruồi ở kẽ ngón chân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở ngón chân mang ý nghĩa gì?

Rước tài lộc vào ngôi nhà cũ kĩ

Một ngôi nhà cũ kĩ, không tuân thủ những quy tắc phong thủy sẽ khó thu hút nhiều tài lộc. Nhưng nếu biết tận dụng những mẹo nhỏ dưới đây, bạn sẽ thấy điều
Rước tài lộc vào ngôi nhà cũ kĩ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngôi nhà cũ kĩ, không tuân thủ những quy tắc phong thủy sẽ khó thu hút nhiều tài lộc. Tuy nhiên, nếu gia chủ biết tận dụng những mẹo nhỏ dưới đây, bạn sẽ thấy điều ngược lại.
 

1. Sử dụng đồng xu may mắn

Theo quan điểm từ xa xưa, đồng xu là biểu tượng của sự may mắn và giàu có, nhà giàu mới có tiền xu tiêu xài.
 
Do đó, để thay đổi phong thủy và cầu tài lộc cho ngôi nhà cũ, bạn nên lấy 3 đồng xu buộc lại với nhau bằng một dây ruy băng đỏ. Tiền xu thường có lỗ ở giữa nên dễ dàng xâu chuỗi lại với nhau. Tiếp đó, nên treo chuỗi tiền xu này trước cửa nhà để tạo biểu tượng mang lại nhiều may mắn về tiền bạc, tài lộc.
 
2. Mang cây dương xỉ hoặc cây lá kim vào nhà
 
Theo quan điểm phong thủy nhà ở, cây dương xỉ hoặc các loại cây lá kim có vai trò hút nguồn năng lượng tích cực vào ngôi nhà, kích thích sự phát triển thịnh vượng về nguồn tài lộc cho chủ nhân ngôi nhà. 
 
Theo đó, bạn nên trồng một chậu dương xỉ hoặc cây lá kim bất kì. Nhưng lưu ý, nên chôn 9 đồng tiền xu dưới cây. Sau đó, đặt chậu cây này ở góc trái phía xa nhất của ngôi nhà. Khi cây phát triển mạnh, xanh tốt um tùm là lúc tài vượng đến gõ cửa ngôi nhà bạn.
 
3. Lưu thông nguồn nước

Ruoc tai loc vao ngoi nha cu ki hinh anh
Ảnh minh họa

Từ xưa tới nay, nước luôn là biểu tượng của sự giàu có và may mắn. Nếu biết tận dụng không gian trong nhà làm đài phun nước hoặc bể cá nhỏ sẽ có tác dụng kích thích tiền tài, mang lại vượng khí cho ngôi nhà và mọi thành viên cư ngụ trong đó. 
 
Ngoài ra, nên lưu ý nguồn nước trong nhà phải được lưu thông, tránh ứ đọng hoặc tắc nghẽn. Bởi điều đó có nghĩa tiền bạc cứ tụ đọng một chỗ, không phát triển được.
 
4. Phối hợp hài hòa về màu sắc
 
Nếu muốn rước tài lộc cho ngôi nhà cũ kĩ của mình, bạn nên nghĩ đến việc thay đổi màu sơn tường hoặc các món đồ nội thất. Các màu xanh da trời và đen mang ý nghĩa của sự giàu có. Ngoài ra, những màu trắng, vàng, bạc cũng thể hiện mong muốn cầu tài lộc, có được cuộc sống giàu sang, đủ đầy. Gia chủ có thể kết hợp hài hòa những gam màu đó để tạo sự may mắn trong phong thủy.
 
5. Không ngồi quay lưng lại cửa ra vào
 
Nếu phòng khách nhà bạn đang có chiếc bàn hoặc ghế có hướng quay lưng lại với cửa ra vào, chứng tỏ nguồn tài lộc chỉ đi ra mà không thể đi vào ngôi nhà của bạn. Vị trí tốt nhất là ngồi quay lưng vào một bức tường hoặc góc xa cánh cửa. Có như vậy gia chủ mới có thể rước nguồn năng lượng tích cực cũng như kích thích tài lộc đi vào ngôi nhà của mình.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rước tài lộc vào ngôi nhà cũ kĩ

Người tuổi Tỵ và tuổi Tuất có hợp nhau không

Người tuổi Tỵ và Tuất có mối quan hệ khá phức tạp nhưng họ hoàn toàn có thể dung hòa được. Cả 2 con giáp đều hay lo lắng.
Người tuổi Tỵ và tuổi Tuất có hợp nhau không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tỵ và Tuất có mối quan hệ khá phức tạp nhưng họ hoàn toàn có thể dung hòa được. Cả 2 con giáp đều hay lo lắng và cảm thấy bất an.

Nhờ có mối quan hệ chung này mà cả Tỵ và Tuất đều có thêm sức mạnh, nghị lực và trở thành chỗ dựa vững chắc của bạn bè, đồng nghiệp. Cả 2 không có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng không quá xung khắc. Người tuổi Tuất tốt tính và hay chiều người khác nhưng đa sầu đa cảm. Trong khi đó, người tuổi Tỵ rất cuốn hút, hấp dẫn nhưng có phần sống khép mình, thích sự yên tĩnh, ổn định hơn là sự ồn ào, náo nhiệt.

 
Khi trở thành đôi uyên ương, Tỵ và Tuất sẽ được tận hưởng cảm giác thoải mái, an toàn khi bên nhau. Mối quan hệ của họ khá bền chặt. Tuy có một số điểm khác nhau nhưng họ biết cách dung hòa. Người tuổi Tỵ rất hay ghen và có tính sở hữu trong tình yêu. Còn người tuổi Tuất thì rất trung thành và tận tâm. Bởi vậy, Tuất sẽ không khiến Tỵ phải nổi máu ghen tuông. Khi Tuất lo âu hoặc cảm thấy bất an thì Tỵ sẽ là người động viên, tiếp thêm nghị lực. Khi họ sống chung, ngôi nhà tình yêu sẽ luôn ấm cúng và thoải mái.

Nếu làm ăn với nhau, Tỵ và Tuất sẽ tạo thành tập thể vững mạnh và liên tục đi lên. Cả 2 đều giỏi giao tiếp. Người tuổi Tuất phân biệt phải trái rất rõ ràng, còn Tỵ rất thông minh. Tỵ dùng cả logic và trực giác để phán đoán công việc. Bởi vậy, rất ít khi Tỵ mắc sai lầm trong kinh doanh. Hơn thế nữa, tuổi này còn gặp nhiều may mắn với chuyện kiếm tiền. Khi Tỵ đóng vai trò là người tiên phong chuyện làm ăn của họ sẽ không ngừng phát triển.

(Theo Zing)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Tỵ và tuổi Tuất có hợp nhau không

Xem tính cách theo giờ sinh

Người với người sinh ra đã có bề ngoài và tính cách bất đồng. Cùng Lịch Ngày Tốt tìm hiểu về tính cách theo giờ sinh để biết thêm thông tin nhé.
Xem tính cách theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người với người sinh ra đã có bề ngoài và tính cách bất đồng. Bởi sự bất đồng đó mới có xã hội đa dạng, phân biệt được giữa người này với người kia. Sự khác nhau của con người với con người ngoài yếu tố di truyền, môi trường, hoàn cảnh thì giờ sinh cũng có góp phần quan trọng. Cùng Lịch Ngày Tốt tìm hiểu về tính cách theo giờ sinh để biết thêm thông tin nhé.

Gio sinh quyet dinh  ngoai hinh, tinh cach cua mot nguoi nhu the nao hinh anh
 
Một người từ lúc sinh ra, có giờ sinh khác nhau đã quyết định tính cách khác nhau, kéo theo đó là số mệnh khác nhau, ngoại hình khác nhau. Tính cách theo giờ sinh có ảnh hưởng lớn tới những bước phát triển tiếp theo. Cùng với ngày sinh, tháng sinh, năm sinh thì giờ sinh hợp thành bát tự - lá số tử vi trọn đời, định sẵn từ khi chào đời, không thể thay đổi, chỉ có thể định hướng.   Như vậy, người có giờ sinh giống nhau thì sao? Về cơ bản, những người trùng giờ sinh sẽ có một số đặc trưng về tính cách, ngoại hình tương tự nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau về ngày tháng năm sinh, về gen di truyền, về ngoại cảnh môi trường sẽ tác động khiến sự khác nhau ở những con người này nhiều hơn sự giống nhau.  

Giờ Thân (15h-17h), giờ Dậu (17h-19h)

  Giờ Thân và giờ Dậu là lúc mặt trời ngả về hướng Tây, ngày sắp kết thúc, thuộc ngũ hành Kim. Người sinh vào giờ này thì dáng hình tương xứng, cân đối, khuôn mặt trắng trẻo tươi tắn, lông mày cao, mắt sâu. Tính cách quyết đoán cương nghị, sôi nổi nhiệt tình, biết rõ lễ nghĩa liêm sỉ. Nhưng xét về khuyết điểm thì hữu dũng vô mưu, quá nóng vội nên thường làm hỏng việc, không mưu thành việc lớn, thiếu điềm tĩnh, tự chủ.  

Giờ Dần (3h-5h), giờ Mão (5h-7h)

  Dần, Mão thuộc ngũ hành Mộc, chính là thời khắc ánh bình minh của một ngày mới vừa ló rạng, tràn ngập phấn chấn, mới mẻ. Người sinh ra vào thời khắc này bất luận là nam hay nữ đều có phong thái tú lệ, dáng người cao thon, xương dài, chân tay nhẵn nhụi, đặc biệt là có mái tóc óng ả, dày mượt khiến nhiều người phải cất lời khen ngợi.    Tính cách theo giờ sinh phán đoán rằng, người sinh giờ Dần, giờ Mão có lòng trắc ẩn và tinh thần bác ái, tính tình chất phác, không giả tạo. Khuyết điểm của người này là có lúc thiếu công bằng, sinh lòng ghen tị trùng trùng nên hay so đo, tính toán với người khác, không được rộng rãi.
Tham khảo thêm bài viết: Luận giải vận số của người tuổi Mão theo giờ sinh cùng tất cả vận trình của 12 con giáp trên trang lịch Ngày Tốt.
 

Giờ Hợi (21h-23h), giờ Tý (23h-1h)

  Tý, Hợi thuộc ngũ hành Thủy, màn đêm thăm thẳm bộc lộ, chính là thời khắc Thủy vượng nhất. Người sinh ra vào giờ này thì khuôn mặt có sắc thái đen, trong đôi mắt lộ ra ánh sáng trí tuệ, là người túc trí đa mưu. Lời nói cử chỉ thanh nhã, ôn hòa, khiến người khác khi tiếp xúc phải trải qua cảm giác đắn đo, suy nghĩ, dò xét. 
Gio sinh quyet dinh  ngoai hinh, tinh cach cua mot nguoi nhu the nao hinh anh
 
Khuyết điểm của người sinh giờ Tý, Hợi là do dự. thiếu quyết đoán, nhiều khi vô tâm đến vô thường, không quan tâm chú ý tới thời cuộc, đứng bên ngoài lề xã hội, buông bỏ tất cả.  

Giờ Tị (9h- 11h), giờ Ngọ (11h-13h)

  Tị, Ngọ thuộc ngũ hành Hỏa, là buổi ban ngày giữa trưa. Người sinh vào những giờ này thường có bàn chân nhỏ mà dài, lông mày rậm, tai nhỏ. Bởi sinh ra lúc Hỏa vượng nên tính tình chất phác, thật thà, nhiệt tình, làm người khiêm tốn, cung kính, biết trên biết dưới. Khuyết điểm của người này là làm việc không có đầu có đuôi, thường xuyên bỏ dở giữa chừng nên chưa đi tới kết quả như mong muốn.  

Giờ Sửu (1h-3h), giờ Thìn (7h- 9h), giờ Mùi (13h- 15h), giờ Tuất (19h- 21h)

  Sửu, Thìn, Mùi, Tuất thuộc ngũ hành Thổ, những người sinh vào các giờ này phần nhiều có dáng người tròn đầy, eo lớn, mũi nở, lông mày thanh tú, mắt đẹp. Tính cách theo giờ sinh báo rằng họ có chữ tín, trung thành, chí hiếu lại rộng lượng, là người quân tử điển hình.    Đây là loại người nói được làm được, không hứa suông, không nói xong để đấy. Khuyết điểm lớn nhất của họ là hướng nội và quá trầm tĩnh, đầu óc có lúc rất cố chấp, bảo thủ, không chịu tiếp thu cái mới cũng không chịu khắc phục những điểm còn thiếu sót của bản thân nên khiến người khác khó chịu, khó làm việc chung. Ngoài tính cách và ngoại hình, tử vi còn xác định mối quan hệ giữa tình yêu, hôn nhân và giờ sinh. Điều này cho thấy, yếu tố giờ sinh có ảnh hưởng cực kì quan trọng đối với cuộc đời của một người.

Giờ sinh hưởng trọn phúc khí của 12 con giáp Xem giờ sinh đoán tính cách cực chuẩn Coi số mệnh sướng khổ qua giờ sinh theo mùa

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tính cách theo giờ sinh

Xem bói Tình duyên trên bàn tay của bạn

Tình yêu và duyên số luôn là thứ hấp dẫn và đầy bí ẩn với mỗi chúng ta trong cuộc sống, thông qua xem bói đường tình duyên trên lòng bàn tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Tình yêu và duyên số luôn là thứ hấp dẫn và đầy bí ẩn với mỗi chúng ta trong cuộc sống, thông qua xem bói đường tình duyên trên lòng bàn tay sẽ giúp bạn giải đáp phần nào những thắc mắc ấy.Trong lòng bàn tay mọi người ai cũng có đường tình duyên vậy nhận biết đường tình duyên như thế nào: "Đường tình duyên" có điểm bắt đầu từ cạnh của bàn tay phía dưới ngón út, chạy trên lòng bàn tay và lý tưởng nhất là kết thúc giữa ngón trỏ và ngón giữa.

  dot-ngon-tay

Đường  hôn nhân kỳ duyên:

Đường  hôn nhân gần sát đường  tứ đạo   là cưới  sớm  trước  tuổi  26.

Đường hôn nhân xa đường tứ đạo  là gả cưới  chận  sau 35 tuổi thành gia thất.

Hai đường hôn nhân đi song song vừa thô vừa cạn không  hiện sâu càng gả cưới chậm  đi nhiều. Nếu  có ba đường nằm ấp hàng nhau đường nằm gần tứ đạo   nhất  là đường kết hôn đầu.

Đường  hôn nhân tàn gia.

Đường  hôn nhân  bị đường  phá tâm chặt ngang nghĩa là bị  người ta dùng bạo lực can thiệp  vào cuộc hôn nhân đang tiến hành. Sau khi kết hôn sẽ tán gia bại sản. Hay gặp bất trắc.

Đường lương duyên  bất loạn.

Đường hông nhân có hình như đuôi cây tên, tình đầu bẽ bàng, hoặc tiến đến hôn nhân bị dang dở, vì hoàn cảnh không hợp. Kết quả không bao giờ thành  hôn được.

Đường   hôn  nhân  có ba đường  chỉ nhỏ nằm  trong thế  tam giác,  trên  đường  chỉ lại có  những đường nhỏ chắc ngang là tâm  hồn lúc nào cũng  bấn  loạn,  nên hôn nhân bất hòa.

Đường  hôn nhân,  đường  liền nhỏ và ngắn  lại, lai có đường  chắn  ngang, đường   dưới  dài ấy là cuộc hôn nhân đầu tiên thất bại nhưng cuối cùng vẫn kết quả mỹ mãn.

Đường lương duyên ngang trái.

Đuôi đường  hôn nhân  như rễ  quạt là thất  tình hay ngang trái. Nếu  đường  hôn nhân  mà ngoằn ngoèo là vì tình mà tự sát hay gặp tai nạn chết chóc bất ngờ.

Cuối đường hôn nhân có một hình tròn như quả cầu vợ hay chồng  sẽ gặp tai nạn bất ngờ. Nhưng nếu trên quả cầu tự nhiên có lông  thì sẽ tốt đẹp  vô cùng.

Dầu đường  hôn nhân  có quả cầu mà đường  chỉ vòng xuống  qua khỏi  đường   tứ đạo, lúc kết hôn gặp chuyện không mấy tốt đẹp.

Đường lương duyên ngoại tình 

Đường hôn nhân nhỏ lại lấm chấm nhiều đường là yêu đương không chuyên nhất, sẽ đi tìm người mới luôn. Đường  hôn nhân có đường lại cản đầu là sau khi kết hôn sẽ bất hòa tai hại.

Đường  hông nhân cản trở.

Đường  hôn nhân  có hai đường nằm song song mà tách  rời tứ đạo  khá xa, và đường   tứ đạo  ngắn ngủi thô cạn  và đường  hôn nhân  dài mà đi lên thì sẽ gặp người  có nghệ  thuật  hay sang cả, cảm tình tốt đẹp  và hạnh phúc lắm. Nếu đường lọt vào kẻ  tay có nghĩa là trước  tốt sau xấu.

Đường mạng đạo  gặp đường phá tâm chặt ngang với lại đường tâm đạo  và đường mạng  đạo rời nhau thì có nghĩa là cuộc hôn nhân bị người ta phá hoại.

Đường lương duyên tan vỡ.

Đường  hôn nhân đứt đoạn, đường này đè lên đường  kia. Cuộc hôn nhân không thể tiến hành được, sẽ gặp nhiều  trở ngại  trong lúc tiến hành hôn lễ. Hay sau khi kết hôn xong sẽ đi đến ly dị nếu gặp đường lý tài  ở bên trên nữa thì chắc chắn cuộc hôn nhân này không bao giờ thành  tựu.

Đường lương duyên đa thê.

Đường hôn nhân có thêm  hai đường   rất rõ và đi song song với nhau lại thêm hai đường lý tài bên trên, người ấy được  nhiều  người yêu, cưới vợ hoặc gả chồng song vẫn  có bé hay lẽ. Kết hôn sớm. Trên sự nghiệp, thích hợp trong giới chính trị và lý tài – và được  nhiều  người  mến  chuộng.

Đường lương duyên  bất hòa.

Đường lương duyên cong queo là phu thê bất hòa, trong gia đình khó bề êm đẹp. Đường hôn nhân có mọc  lông  như đuôi tên tua tủa ra hai bên, vợ bị bịnh ngặt nghèo.

Đường  hôn nhân ngược  đầu lên thật cao là cưới  hay gả nhằm  nơi giàu  có nếu  đường   chỉ thổ là cuộc hôn nhân khó thành. Nếu đường chỉ đi suốt kẽ tay kết hôn song sẽ bại  sản phá

tài.

Đường lương duyên lang chạ.

Đường  hôn nhân  đứt đoạn mà nôi tiếp  nhau đôi ba đường   là gả hay cưới nhằm chỗ không  đàng hoàng.

Đường hôn nhân ngoằn ngèo như hai con rắn quấn nhau, là vợ  hay chồng đều có ngoại tình cả, và cũng  là triệu  chứng  tiến hành  cuộc  hôn nhân  khó khăn,  hoặc  bệnh  và tai họa.

Đường  hôn nhân dài, đi xuống  tới lòng bàn tay là vợ hay chồng  cực  kỳ xung khắc  nếu  là nam thì có năm  bảy vợ,  gái thì có hai ba chồng.  Nếu đường  chỉ ấy đứt đoạn  thì sẽ nhẹ  hơn một nửa.

Đường lương duyên xung khắc.

Đường  hôn nhân  có kim tinh lại  thêm  lục  tú là sẽ cưới  hay gả nhằm   người  có kỹ thuật  và nghệ thuật, đường chỉ càng rõ càng  hiệu  nghiệm.

Đuôi  đường  hông  nhân  có chữ thập  là cưới  hay gả nhằm  chỗ giàu  có  được hưởng gia tài, nếu không chữ thập  mà là đánh  chéo  thì sau khi kết hôn một trong hai người  chết  bất đắc kỳ tử.

Đường hôn nhân dài và đi xuống suốt đường mạng đạo là vợ chồng  khắc  và đi tới chỗ xa nhau.

Đường lương duyên ly dị.

Đường  tâm đạo  và mạng đạo rời xa nhau là vợ chồng ly dị nhưng nếu bàn tay của cả vợ lẫn chồng đều như thế thì trái lại chồng  vợ sẽ thuận hòa, nhưng đến trung niên không khỏi tai nạn  và bệnh hoạn,  kết hôn trễ, lòng tự nhủ rất nặng,  nếu có đường thấu văn nối liền thì nhẹ đi một nửa.

Đường lương duyên  bội tình.

Đường  bội tình nằm trên đường tâm đạo thì cả vợ lẫn chồng  đều phản bội nhau. Nếu trên đường tứ đạo  thì khi chưa thành hôn khó gặp được  tình yêu chân chính, nếu nằm trên đường mạng  đạo thì hãy coi chừng bạn hay người ở bất   trung. Nhược  bằng bị đường dạ xoa ngang thì đường  bội thình không linh nghiệm.

Đường lương duyên  háo sắc.

Đường hôn nhân mọc nhánh, trên nhánh lại mọc nữa là người háo sắc, vợ ngoại tình có con, huyết thống hỗn tạp nếu thấy đường dạ xoa, thất bại về tình, kết hôn rồi cũng phân ly, khó có hạnh phúc lắm, nếu nhánh rời là không linh nghiệm.

Đường lương duyên  sát phu.

Đầu đường  hôn nhân  như cây chĩa ba là cực   kỳ đa dâm, loạn luân, trai thì giết vợ, gái thì hai chồng, vì hôn nhân mà gặp nhiều  điều bất hạnh  nếu là độc thân, nghèo  khổ hay đi tu thì giảm đi được một nửa.

Xem bói tình duyên trên lòng bàn tay chỉ mang tính chất tham khảo ,duyên phận còn phụ thuộc vào chính mỗi bản thân con người đấy, chúc các bạn luôn làm chủ được duyên số của mình!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói Tình duyên trên bàn tay của bạn

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Suy ngẫm 6 điều Phật dạy về tình yêu thương trên đời

Phật dạy về tình yêu thương trên đời: Con người có lòng tham vô đáy, ai nấy đều sống thật nhanh, thật gấp để đi tìm và chinh phục những thứ xa vời.
Suy ngẫm 6 điều Phật dạy về tình yêu thương trên đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Đời là bể khổ, mọi thứ trên đời chỉ là phù du, hạnh phúc đến rồi đi như cơn gió thoảng qua, điều còn lưu lại nơi trần thế mãi là tình yêu thương bao la, hơi ấm của tình người.


► Mời các bạn đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Suy ngam 6 dieu Phat day ve tinh yeu thuong tren doi hinh anh
 
1. “Nếu thật sự yêu bản thân mình, bạn sẽ không bao giờ làm tổn thương người khác”


Bước đầu tiên trong hành trình tìm kiếm tình yêu thật sự là bạn cần tự yêu lấy bản thân mình. Khi đó, bạn tạo ra nền tảng vững chắc cho mối quan hệ lâu dài, trải lòng với nửa kia để họ có thể hiểu bạn một cách sâu sắc.

Khi biết yêu bản thân, bạn dễ dàng cảm nhận được tình yêu thương của những người xung quanh dành cho mình. Bởi vì, tất cả chúng ta đều có sự gắn kết vô hình, về mặt tâm linh, chúng ta là một.

2. “Sự yên bình đến từ tâm của mỗi người. Bạn không cần phải đi tìm đâu xa”

Điều gì đó hoặc ai đó đem đến sự bình yên và tình yêu mà bạn đang tìm kiếm, ý kiến này không hoàn toàn đúng.

Đời là bể khổ, mọi thứ trên đời chỉ là phù du, hạnh phúc đến rồi đi như một cơn gió thoảng qua. Hạnh phúc thật sự là do chính bạn cảm nhận. Bạn không cần phải tìm kiếm xa xôi, sự yên bình luôn ở trong tâm ta, chỉ cần ta cảm thấy hạnh phúc là đủ.

Suy ngam 6 dieu Phat day ve tinh yeu thuong tren doi hinh anh 2
 
3. “Hãy yêu cả thế giới như tình yêu của người mẹ dành cho con mình”


Phật dạy, tình yêu thương không giới hạn trong số bạn bè, người thân, nó còn là tình người, tình nhân loại.

Đa phần trong chúng ta cho rằng gia đình là điều duy nhất mà mỗi người cần dành thời gian và nỗ lực để vun vén, chăm sóc. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta coi cả thế giới như là gia đình của mình? Khi đó, mỗi người sẽ mở rộng lòng mình, trao đi sự yêu thương và luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, thế giới sẽ thực sự khác biệt và trở nên tươi đẹp hơn bao giờ hết.

4.  “Nói lời tốt đẹp, cuộc đời sáng tươi. Lời lẽ cay độc, ác nghiệp để đời”


Những lời nói tưởng như vô ý nhưng lại khiến mọi người xung quanh tổn thương, thậm chí có thể gây ra sự đổ vỡ trong các mối quan hệ. Hà cớ chi phải dùng lời cay độc để lưu ác nghiệp cho đời sau. “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, hãy nói lời tốt đẹp để cuộc đời mãi sáng tươi.

3 không trong xuân Bính Thân cho cả năm an khang
Lại một xuân mới sắp đến, đón xuân tu thân đối với người trung tuổi là rất tốt. Nhưng dưỡng sinh thế nào cho hợp? ## đưa ra 3
5. “Thù hận không thể kết thúc nếu tiếp tục hận thù. Nó chỉ kết thúc khi tình yêu xuất hiện”


Bạn đã từng bị người khác làm tổn thương? Bạn có phản ứng gì? Ghi hận trong lòng và tìm cơ hội “trả đũa” hay lựa chọn tha thứ?

Tha thứ không chỉ giúp duy trì mối quan hệ mà còn khiến đối phương hiểu rằng luôn có một cách khả thi để giải quyết vấn đề, nó phụ thuộc vào sự lựa chọn của bạn.

6. “Hạnh phúc không bao giờ đến với người không biết quý trọng những gì mình có”


Con người có lòng tham vô đáy, ai nấy đều sống thật nhanh, thật gấp để đi tìm và chinh phục những thứ xa vời, mông lung mà không biết quý trọng những gì mình đang có, đang hiện hữu ở hiện tại.

Hạnh phúc đâu xa vời như vậy, nó sẽ sớm gõ cửa nhà bạn nếu bạn thực sự biết trân trọng những gì mình có.

Những lời Phật dạy về tình yêu thương trên đời không ở đâu xa, trong chính bản thân mỗi người, hãy suy ngẫm và làm theo để cuộc đời ngày càng tươi sáng, thế giới thêm hòa bình, thịnh vượng.

Phùng Hiền

Xem thêm video: Phước ai người nấy hưởng


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Suy ngẫm 6 điều Phật dạy về tình yêu thương trên đời

Hình xăm chó sói đẹp –

Hình xăm chó sói: Một sự trung thành cùng đồng loại , một sự đoàn kết để có một sức mạnh mà không gì có thể sánh bằng,sói còn đc biết dến như 1 chiến binh , gan da và ko sợ hãi trước tình huống gì . Người có hình xăm chó sói thường nói lên họ rất coi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hình xăm chó sói:

Một sự trung thành cùng đồng loại , một sự đoàn kết để có một sức mạnh mà không gì có thể sánh bằng,sói còn đc biết dến như 1 chiến binh , gan da và ko sợ hãi trước tình huống gì . Người có hình xăm chó sói thường nói lên họ rất coi trọng anh em của mình và sẵn sàng hi sinh mình trong bất cứ trường hợp nào

hinh-xam-cho-soi-1

hinh-xam-cho-soi-2

Tattoo chó sói trên vai gợi cảm của thiếu nữ . Ở con gái thường chọn hình xăm chó sói hiền lành nhưng ẩn giấu cái j đó rất thầm kín

hinh-xam-cho-soi-7

hinh-xam-cho-soi-8

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình xăm chó sói đẹp –

Sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp này may mắn đủ đường

Sau Tết Đoan Ngọ này, có 3 con giáp được quý nhân phò trợ, chẳng những hoạn lộ thênh thang mà tài vận còn rất mực hanh thông, làm đâu trúng đó, phúc lộc đầy nhà
Sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp này may mắn đủ đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 con giáp, có những người rất hay gặp may mắn. .   Tết Đoan Ngọ được cho là một trong những ngày Cửu độc, không tốt cho sức khỏe con người, thậm chí có thể gặp nhiều điều bất lợi. Nhưng có những con giáp lại rất may mắn, bởi sau dịp Tết Đoan Ngọ này, họ có nhiều cơ hội đến với mình, may mắn đủ đường, quý nhân tương trợ, chẳng những sự nghiệp thăng tiến mà tiền bạc cũng rủng rỉnh trong tay.   Bạn có biết trong 12 con giáp, ai là người có vận số tốt đẹp đó không? Xem bói tử vi thì con giáp nào là người có vận trình tăng tiến, phúc lộc đầy nhà ngay sau Tết Đoan Ngọ này? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ bật mí cho các bạn bí mật này, cùng theo dõi nhé.
 

Sau Tet Doan Ngo, 3 con giap nay duoc quy nhan dan loi, may man du duong hinh anh
 

Tuổi Hợi

 

Người tuổi Hợi đầu óc tư duy logic, là người lý trí và trầm tĩnh. Đây cũng là người trời sinh có duyên với Thần Tài. Sau Tết Đoan Ngọ, con giáp cũng là người may mắn vô cùng khi phúc khí thịnh vượng, tài lộc dồi dào, chuyện vui đến không dứt.   Bạn làm gì cũng suôn sẻ hanh thông, thuận buồm xuôi gió. Được quý nhân giúp đỡ, công việc của người tuổi Hợi nhẹ bước lên mây, dường như mọi thứ đều được sắp xếp sẵn, chỉ chờ con giáp này đến là tiến hành như nước chảy mây trôi. Chuyện đã định là tất thành, mọi kế hoạch đều diễn ra đúng như dự kiến, tài lộc đầy nhà, tiền bạc đầy kho.   Trong nhà cũng có nhiều niềm vui hân hoan hạnh phúc, “gia hòa vạn sự hưng”. Gia đình êm ấm nên càng khiến bạn có tinh thần làm việc, chuyện kinh doanh thuận buồm xuôi gió, lợi nhuận thu về không tồi. Con giáp này quả là gặp đủ chuyện may sau dịp Tết Đoan Ngọ.

Bạn đã biết cách Cúng Tết Đoan Ngọ 2017 thế nào để sự nghiệp, tài lộc, tình duyên thịnh vượng chưa?
 

Sau Tet Doan Ngo, 3 con giap nay duoc quy nhan dan loi, may man du duong hinh anh 2
 

Tuổi Sửu

  Người tuổi Sửu bản tính hồn hậu chất phác, là người thật thà lương thiện, lại chăm chỉ đảm đang. Họ là người trầm ổn và phóng khoáng. Đừng nhìn bình thường họ không mấy khi phát biểu ý kiến, kì thực trong chuyện đối nhân xử thế hay giải quyết công việc, họ đều có tầm nhìn xa trông rộng, khéo léo thông minh.   Trong công việc, họ thể hiện năng lực khá tốt, làm việc nghiêm túc chỉn chu, luôn có trách nhiệm với những việc mình làm. Dù khó khăn vất vả tới đâu, khi đã xác định đó là việc mình cần làm, phải làm thì người tuổi Sửu sẽ cố gắng hết mức, một mình chịu đựng không một lời oán thán. Tinh thần và ý chí của con giáp này được đánh giá rất cao nơi công sở cũng như ngoài xã hội, trời định sẽ đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.   Sau Tết Đoan Ngọ, vận trình của con giáp này ngày càng tăng tiến, sự nghiệp từng bước lên cao, chuyện tăng lương thăng chức cũng không còn quá xa vời. Được quý nhân nâng đỡ, tài vận của người tuổi Sửu khá hanh thông, thu nhập đều đều, ngày càng tăng tiến. Có quyền lực, có địa vị, có tiền tài, người tuổi Sửu khiến bao người ngưỡng mộ và coi đó là tấm gương để học tập, phấn đấu cho tương lai sau này.

Bạn đã biết Người tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào chưa?
 

Sau Tet Doan Ngo, 3 con giap nay duoc quy nhan dan loi, may man du duong hinh anh 3
 

Tuổi Thân

  Người tuổi Thân tính cách hướng ngoại, là người sôi nổi, hoạt bát, có duyên ăn nói và có tài xã giao. Về tài lộc, họ thường gặp nhiều điều may mắn bất ngờ, thi thoảng lại nhận được cục tiền từ trên trời rơi xuống, dễ dàng nắm bắt cơ hội kiếm tiền ngay trong tầm tay.
Mời bạn đọc thêm: Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Thân.
 
Sau dịp Tết Đoan Ngọ, người tuổi Thân có điềm báo tài lộc khắp nơi, sự nghiệp cũng được quý nhân nâng đỡ nên nhẹ bước lên mây, thăng tiến vù vù. Hoạn lộ thênh thang, con giáp này có cơ hội trở thành người lãnh đạo, thăng quan phát tài, tiền bạc quyền chức đều nắm trong tay. Người làm kinh doanh có cơ hội hợp tác làm ăn lớn, khả năng thành công cực kì cao.   Tiền bạc đổ về như suối, người tuổi Thân có số giàu sang. Sau Tết Đoan Ngọ là thời điểm thích hợp để con giáp này tính tới chuyện đầu tư sinh lời, mở rộng quy mô kinh doanh, tăng thêm các lĩnh vực khác để có thêm nhiều nguồn lợi nhuận hơn nữa. Thời cơ không có nhiều, hãy nhanh nhạy nắm bắt và phát huy khả năng của mình hết sức có thể, gây dựng sự nghiệp, tạo dựng tương lai tươi sáng.   Hy Vũ

Trước và sau Tết Đoan Ngọ, con giáp nào mừng đón hỷ sự lâm môn Cúng Tết Đoan Ngọ vào giờ nào, buổi nào là đúng và tốt nhất? Cách sắm lễ và bài văn khấn cúng Tết Đoan Ngọ đúng chuẩn nhất

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp này may mắn đủ đường

Nhìn lướt nói lên điều gì?

Trong giao tiếp, khi đối phương không nhìn cố định vào một chỗ mà muốn dùng ánh mắt thách thức nhìn lướt qua mọi người thì chắc là địa vị xã hội của
Nhìn lướt nói lên điều gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhìn lướt là chỉ ánh mắt lướt qua xung quanh rất nhanh. Trên một ý nghĩa nào đó, khi muốn đánh giá người xung quanh, chúng ta cũng thường nhìn lướt.

(Ảnh chỉ có tính chất minh họa)

Nhìn lướt có thể có các hàm ý tâm lý sau:

Chiếm ưu thế: người đó khá cao. Sử dụng kiểu nhìn này, một mặt người đó muốn chứng tỏ thân phận, học thức, kinh tế của mình là cao hơn người khác, mặt khác dùng ánh mắt đó là để duy trì cảm giác ưu thế của mình, đồng thời gây áp lực tâm lý với đối phương.

Tìm kiếm sự ủng hộ: Người có tính cách hướng nội hoặc tính cách nhu nhược thường hay dùng cách nhìn này để tìm kiếm sự ủng hộ, đồng tình của người xung quanh. Họ không muốn đối phương hiểu được tâm trạng của mình nhưng cũng không biết dùng biện pháp bảo vệ nào khác, cho nên mới không dừng ánh mắt tại một chỗ.

Nắn gân đối phương: Trong giao tiếp, khi đối phương nhìn lướt bạn nhiều lần thì nhiều khả năng người này đang dò đoán ý nghĩa và cách nhìn của bạn đối với họ. Rất có thể là họ hy vọng sẽ phát hiện được điều gì đó để có hành vi thích hợp ứng xử lại.

(Theo Nhân học)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn lướt nói lên điều gì?

Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thân

Một vài lưu ý trong cách đặt tên cho người tuổi Thân dưới đây sẽ giúp bạn chọn được tên ưng ý cho con cái mình.
Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Các chữ thuộc bộ Kim, Dậu, Đoài, Mãnh, Điểu, Nguyệt không phù hợp khi dùng để đặt tên cho người tuổi Thân, bởi những chữ đó đều chỉ phương Tây (thuộc hành Kim). Theo ngũ hành, Thân thuộc hành Kim; nếu dùng những chữ thuộc các bộ trên để đặt tên cho người tuổi Thân sẽ khiến Kim tụ lại quá nhiều, dễ dẫn đến hình khắc và những điều không tốt. Theo đó, những chữ cần tránh gồm: Quân, Cẩm, Ngân, Xuyến, Minh, Nhuệ, Phong, Cương, Chung, Ích, Mạnh, Thịnh, Bàn…

Khỉ thích phá hoại các loại ngũ cốc trên đồng ruộng. Vì vậy, những chữ thuộc bộ Hòa, Mạch, Tắc, Mễ, Điền, Cốc như: Do, Giới, Thân, Nam, Đương, Phan, Khoa, Thu, Đạo, Chủng, Tùng, Tú, Bỉnh, Đường, Tinh, Lương, Lượng… không nên dùng để đặt tên cho người tuổi Thân.

Dần và Thân xung nhau, Thân và Hợi (Trư) thuộc lục hại. Do vậy, khi chọn tên cho người tuổi Thân, bạn cần tránh những chữ có liên quan tới các con giáp trên. Vì dụ như: Dần, Xứ, Hổ, Báo, Lư, Hiệu, Hợi, Tượng, Gia, Duyên, Hào, Mạo…

Những chữ thuộc bộ Khẩu cũng nên tránh ví dụ như: Huynh, Cát, Hòa... vì mang ý nghĩa bị kìm hãm. Các chữ như Quân, Tướng, Đao, Lực cũng nên tránh khi đặt tên cho người tuổi Thân.

Theo Bách khoa thư 12 con giáp

 
 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thân

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton. Alexander Hamilton (11/1/1757 – 12/7/1804) là một trong những Nhà Khai quốc của Hoa kỳ
Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton. Alexander Hamilton (11/1/1757 – 12/7/1804) là một trong những Nhà Khai quốc của Hoa kỳ. Ông là một trong những người lãnh đạo trong Hội nghị Lập hiến Hoa Kỳ năm 1787, đồng thời cũng là người thiết lập hệ thống tài chính – ngân hàng Mỹ, trở thành Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên khi ông mới 32 tuổi.

Sự nghiệp chính trị của Hamilton có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Mỹ. Ông là một trong những người thành lập Đảng Liên bang, một đảng phái chính trị đầu tiên của Mỹ, tiền thân của đảng Cộng hòa sau này.

Tác phẩm xuất sắc nhất của Hamilton, Người liên bang – The Federalist Papers, được viết chung với James Madison, chứa đựng những tư tưởng lớn lao làm nền tảng, giải thích rõ ràng về ý nghĩa và mục đích của Hiến pháp Hoa Kỳ, lột tả chính xác bản chất của chính quyền khi gắn nó với bản chất của con người và những quyền lợi cá nhân. Tác phẩm được coi sánh ngang với những danh tác chính trị của nhân loại như Nền cộng hoà – Republic của Plato, Khoa học chính trị – Politics của Aristotle, Uy quyền tối cao – Leviathan của Thomas Hobbes.

Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Nghệ thuật đọc là lướt qua một cách khôn ngoan.

The art of reading is to skip judiciously.

Có sự nhiệt huyết rõ ràng đối với tự do, khiến bản tính con người vượt lên trên chính nó, trong những hành động can đảm và anh hùng.

There is a certain enthusiasm in liberty, that makes human nature rise above itself, in acts of bravery and heroism.

Khi thanh kiếm đã được rút ra, cơn cuồng nộ của con người không có giới hạn kiềm chế.

When the sword is once drawn, the passions of men observe no bounds of moderation.

Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước.

There are seasons in every country when noise and impudence pass current for worth; and in popular commotions especially, the clamors of interested and factious men are often mistaken for patriotism.

Trao tất cả quyền lực cho số đông, họ sẽ đàn áp số ít. Trao tất cả quyền lực cho số ít, họ sẽ đàn áp số đông.

Give all the power to the many, they will oppress the few. Give all the power to the few, they will oppress the many.

Tôi cho rằng nghĩa vụ đầu tiên của xã hội là công lý.

I think the first duty of society is justice.

Tôi không bao giờ chờ đợi thấy được công việc hoàn hảo từ người không hoàn hảo.

I never expect to see a perfect work from imperfect man.

Người không đứng lên vì điều gì không sụp đổ vì điều gì.

Those who stand for nothing fall for anything.

Giọng của nhân dân được coi là giọng của Chúa; và, cho dù câu cách ngôn này được lặp lại và tin tưởng rộng rãi tới như thế nào, nó không đúng với sự thật. Nhân dân hỗn loạn và thay đổi, họ hiếm khi phán đoán hay quyết định đúng.

The voice of the people has been said to be the voice of God; and, however generally this maxim has been quoted and believed, it is not true to fact. The people are turbulent and changing, they seldom judge or determine right.

Một quốc gia ưa chuộng sự hổ thẹn hơn là nguy hiểm đã chuẩn bị để đón kẻ thống trị, và đáng như thế.

A nation which can prefer disgrace to danger is prepared for a master, and deserves one.

Lời nói dữ dội hiếm khi hữu dụng. Sự kiên quyết thực sự tốt cho mọi thứ. Vẻ khệnh khạng chẳng tốt cho điều gì cả.

Hard words are very rarely useful. Real firmness is good for every thing. Strut is good for nothing.

Thứ quyền lực chi phối sinh kế của một người là thứ quyền lực chi phối ý chí của anh ta.

Power over a man’s subsistence is power over his will.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton

Lá số tử vi trung tín nghĩa khí Đức Quan Công

Lá số tử vi Tuổi Mậu Ngọ, Thân Mệnh đồng cung tại Tý, ông là người được coi như có sứ mạng phải đả phá kình chống tất cả những gì thời buổi đó tạo ra cho là chính nghĩa để giành quyền (Thái Tuế, Hữu Bật, Kình ở Ngọ)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào đầu thế kỷ III, vua nhà Hậu Hán nhu nhược bất lực trước các hoạn quan chuyên quyền. Trên khắp lãnh thổ những nhóm này đảng nọ nổi lên chống đối lôi kéo rất nhiều nhân vật xuất hiện với nhiều cá tính đặc biệt và cuộc sống cũng khá phức tạp.

Có những ông vua như Lưu Bị làm cách mạng từ thuở hàn vi, rồi lên làm vua cho đến khi nhắm mắt qua đời vãn còn ôm hận; Tôn Quyền thì cứ bình thản hưởng công nghiệp cha anh không tham sân si, hơn nữa, còn Tào Tháo đầy thủ đoạn không thèm làm vua mà quyền hành còn hơn vị Hoàng Đế. Có những nhân sĩ như Khổng Minh, Bàng Thống, Từ Thứ ngồi trong thảo lư bấm tay biết được việc thiên hạ. Thôi Châu Bình, Tư Mã Huy trái lại gác bỏ ngoài tai chuyện phú quý, tìm cuộc sống với trời cao đất rộng.

Có những bậc tư lệnh như Chu Du, Tư Mã Ý, Khương Duy hành binh đầy đủ tài thao lược còn có cả nhwngc viên thượng tướng sức dịch muôn người mà vô mưu như Trương Phi, Lữ Bố, còn biết bao nhân vật không kém tài ba trong việc bình thiên hạ… trong đó còn có một người, nhân vật này có thể nói hầu hết dân Hán kính thờ như một vị thần vì có những đức tính của một đại trượng phu. Ông là nghĩa đệ vua Chiêu Liệt với chức vị Hán Thọ Đình Hầu, người đời nay ngưỡng mộ thường nhắc đến huy danh là Quan Thánh Đế Quân tức là Quan Công hiệu Vân Trường.

 Ông tuổi Mậu Ngọ, sanh ngày 13 tháng 5 giờ Ngọ.

Lá số tử vi Tuổi Mậu Ngọ, Thân Mệnh đồng cung tại Tý, ông là người được coi như có sứ mạng phải đả phá kình chống tất cả những gì thời buổi đó tạo ra cho là chính nghĩa để giành quyền (Thái Tuế, Hữu Bật, Kình ở Ngọ) nghĩa là ông chỉ có biết nhà Hán là chính thống, rồi sau đến nghĩa huynh là Lưu Huyền Đức là dòng giống nhà Hán phải lập lại nghiệp Đế trên đất nước.

 Phá Quân chi phối đời ông rất nghiêm luật (khắc nhập), ông đứng ở vị trí bất mãn mà ông rất coi thường đối phương, có lẽ sau này ông thọ nạn ở Mạch Thành cũng vì cái tánh quá kiêu khinh (Phá Quân Thân Mệnh ở Tý: Thủy; Thiên Di ở Ngọ: Hỏa cả vị trí lẫn sao). Ông có biết đâu cái chính nghĩa người đời đã cướp được ở trên cái thế hư phá, ông cố khăng khăng chống đỡ để không đi đến đâu, rồi ra họ sẽ tranh đấu với cả cái thế mạnh bạo (Liêm Tướng, Thái Tuế, Hữu Bật, Kình Hổ, Long Cái nhất là Khoa, Tài, Thọ, đủ mánh khóe để mà thắng).

 Phá Quân ở Tý là người thông minh, tự đắc mà có tài thao lược, can đảm, dũng mãnh, thêm Tả Phù, Thiên Mã là những gì người đời phải nể phải trọng là thực tài thực lực thiên phú; chứ Phá Quân bị Tuần, Triệt là xuất thân phải gặp mọi bề khó khăn, đâu có được chau dồi học hỏi cũng chẳng thâu thái được là bao.

 Phá Quân ở Tý là người chỉ nhìn nhận cái chính khí khi mình đã thấy và vạch ra lối để đi, không cần biết trên đầu có ai, ví có đưa đến chỗ chết cũng coi thường như cụ Phan Châu Trinh bất khuất tù đày. Quan Vân Trường khi thất thủ Hạ Bì, vì kẹt có nhị vị phu nhân của Huyền Đức phải tạm hàng Tào, nhưng ông đặt ra ba điều kiện buộc người thắng phải thỏa mãn đầy đủ, nết không ông chỉ có cái chết để đền bù tình tri kỷ của Lưu Bị. Đó có phải Phá Quân cũng biết tùy thời tòng quyền, nhưng thua mà vẫn đưa điều kiện cho kẻ thắng (cũng là một cách bất khuất). Sự việc này nó có liên quan đến sự việc ngày sau trên con đường nhỏ Hoa Dung ông tha chết cho Tào Tháo để trả lại cái nghĩa kẻ địch đã đãi mình lúc trước, mặc dầu ông đã ký kết tờ cam đoan cùng quân sư Gia Cát, nếu tha Tháo phải đền mạng. Ngay cả với kẻ địch khi đã thọ ơn người phải lấy nghĩa đền bù, cũng là tư cách của Phá Quân ở Tý. Khác với lúc nhậm trấn Kinh Châu lâm vào thế bí, thôi đành chịu chết, nhất quyết không hàng Tôn Quyền, đó là kí phách cao cả của Phá Quân ở Tý.

 Còn nói về trung thành thì ông được kể là người trung thành số một, chỉ biết có vua Chiêu Liệt vừa là nghĩa huynh, người đã cùng ông và nghĩa đệ Trương Phi giữ lại cho nhà Hán phần ba đất nước. Nghĩa huynh nói sao, xin tuân theo không bao giờ từ chối và khi đã nhân sự ủy thác là chỉ còn một sống một chết. Như lần nhận sự phó thác phò nhị tẩu ở thành Từ Châu lúc chia tay cùng Lưu Bị, biết bao biến chuyển do mưu mẹo Tào Tháo bày ra quyến rũ làm cho tình nghĩa giữa ông và Lưu Bị phải lìa nhau như để ông và hai vị phu nhân ở chung một nhà rồi ngọc ngà tiền bạc, gái đẹp hầu non đưa đến. Khi được biết Lưu Bị ở Hà Bắc với Viên Thiệu là ông nhất quyết ra đi cho bằng được, bất chấp ngàn dặm ngăn cách phò hai chị chi đến nơi trùng phùng cùng Lưu Bị. Đó cũng à một việc rất khó tránh của thế nhân trước bã vinh hoa phú quý, nhất là mỹ nữ thường hay làm cho anh hùng thành trí đoản.

 Tiếc rằng Phá Quân ở đây chỉ là một nghĩa sĩ ở trong hoàn cảnh mình Thất Sát (Thân) Tham Lang (Thìn) rất sáng tỏ. Tả Phù, Thiên Mã chỉ nổi bật cái thiên tài cá nhân, không đủ tư thế phò tá Phá Quân nên việc lớn. Phải chăng là vị trí ở Tý đã ngăn cản ông (tuổi Ngọ) thành thân, chỉ thành nhân với tư cách là Phá Quân cư Tý. Nếu có đủ bộ sát tinh đắc địa cũng chưa chắc nên việc, chỉ một giai đoạn nào mà thôi vì Thái Tuế của đối phương đã nghênh ngang một cõi, dầu mắc Kình Dương, Lực Sĩ, chưa hẳn đã hoàn toàn, họ cũng giữ được phần đất để thành cái thế tham phân.

 Sống trong thời buổi ấy, người hiểu Quan Vân Trường rõ hơn ai hết có lẽ là Tào Tháo, bằng một lời thán phục đầy thủ đoạn và xác thực nhất trước mặt tất cả thuộc hạ lúc tiễn đưa Vân Trường đi kiếm Huyền Đức:

 “Người như Vân Trường tiền tài bất động kỳ tâm, tước lộc cũng không thể đổi ý thay lòng, không quên chủ cũ, đi ở phân minh, quả là một đại trượng phu đời nay vậy”. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi trung tín nghĩa khí Đức Quan Công

Dùng phong thủy để lựa chọn nội thất trong nhà

Lựa chọn vật liệu cho những đồ trang trí trong nhà cũng là một điều quan trọng trong phong thủy. Tác dụng của từng loại vật liệu ấy như thế nào? Những thông tin dưới đây sẽ cho bạn biết cụ thể về điều đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đồ trang trí bằng vải

Đồ vải trang trí trong nhà bao gồm rèm, đệm ghế, đệm dựa, khăn, gối chăn, gối sofa… Trang trí ngôi nhà bằng vải mất ít tiền lại tiện lợi.

Tùy từng người mà việc trang trí bằng với chất liệu này có thể tạo ra phong cách riêng, tạo cho ngôi nhà có một cảm giác ấm áp hoặc tươi mát hoặc trang nhã… vừa mang tính thẩm mỹ vừa mang tính thực dụng cao.

Đồ mây



 

Đồ mây được làm một cách tinh tế, kiểu dáng đa dạng với phong cách độc đáo, được nhiều người ưa thích. Đồ mây gia dụng bao gồm ghế mây, bàn mây, giường mây, sô pha, bình phong mây… Đồ mây trang trí bao gồm lẵng mây, lẵng hoa, giá hoa mây và đèn lồng.

Nguyên liệu của đồ mây gia dụng và đồ mây trang trí đến từ tự nhiên nên luôn tạo cho con người cảm giác thư thái, yên bình.

Đồ sắt

Đồ sắt trang trí giản dị, chú trọng sự kết hợp của hiện đại và cổ điển. Đồ sắt trang trí trong nhà gồm có ghế, giá hoa, tủ giày, tủ để đồ, cửa phòng chống trộm, lan can cầu thang và móc treo...

Những đồ sắt trang trí mang tính thực dụng và cả tính nghệ thuật. Trong nhà nếu có nhiều góc khuyết, góc chết đều có thể trang trí bằng đồ sắt, tạo ra một không gian phong phú.

Đá




 

Hiện nay, có nhiều loại đá được bài trí trong nhà, đá trở thành đồ trang trí tinh tế và cao quý. Đá thiên nhiên thường gặp nhiều nhất là pha lê, mã não. Pha lê có nhiều màu sắc khác nhau như tím, hồng, trắng… vừa có thể làm đồ trang sức vừa có thể gia công thành đồ dùng như cốc chén, đĩa bát, cầu pha lê hoặc các đồ vật khác.

Hoa khô


Hoa khô ngày càng được nhiều người ưa thích. Các loại lá, cành, hoa, quả, cỏ… thông qua xử lý công nghiệp như tẩy nước, sấy khô, nhuộm màu và phun thơm… không những vừa giữ được hình thái tự nhiên của hoa tươi vừa mang dáng vẻ, màu sắc, hương thơm đặc biệt. Nếu dùng trang trí trong nhà sẽ mang lại phong cách mới mẻ, hiện đại.

Cây màu xanh





 

So với các đồ trang trí khác thì cây xanh mang lại nhiều sinh khí hơn cho ngôi nhà của bạn. Tuy nhiên, khi trang trí không gian bằng cây cảnh phải chú ý đến màu của các loại cây, hoa và nhiều yếu tố khác.

(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dùng phong thủy để lựa chọn nội thất trong nhà

Chùa Hương - Ngôi chùa linh thiêng cầu bình an

Tới lễ hội chùa Hương, chúng ta như lạc vào cõi Tiên khi ngồi thuyền trên dòng suối Yến uốn lượn mềm mại. Chùa Hương là ngôi chùa linh thiêng theo tâm linh,
Chùa Hương - Ngôi chùa linh thiêng cầu bình an

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những ngày đầu năm mới, hàng triệu người dân khắp tứ phương lại nô nức hành trình linh thiêng về miền đất Phật, nơi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ứng hiện tu hành. Trong suốt những ngày hội là sự thành kính, hoan hỷ của các bậc cao niên, sự nồng nhiệt của tuổi trẻ cùng du khách trong và ngoài nước khắp nơi tụ về.

  Tới thăm Chùa Hương, chúng ta như lạc vào cõi Tiên khi ngồi thuyền trên dòng suối Yến uốn lượn mềm mại, vãng cảnh non xanh núi biếc. Tới đâu cũng thấy các dấu tích lịch sử vẫn còn in trên các triền núi, các hang động, lẫn cả vào thiên nhiên đầy thơ mộng, huyền diệu. Người và cảnh hòa quyện vào nhau càng tạo nên nét riêng rất thơ của Hương Sơn. 
 
   

 

1. Chùa Hương là một quần thể di tích tâm linh.
 

Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Ðức, Hà Nội không chỉ là danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà còn là quần thể kiến trúc văn hóa tâm linh cổ kính của người Việt Nam. 
 
Chùa Hương gắn liền với biết bao huyền thoại, truyền thuyết linh thiêng. Nơi đây là một quần thể văn hóa Phật giáo, tập hợp nhiều hang động, chùa chiền, đình đền… Nơi thờ Phật, thờ thánh thần, thờ mẫu, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. 
 
Trước đây, các bậc Thiền sư đã về đây dựng thảo am, mở chùa – động thờ Phật để truyền bá đạo Phật. Ngày nay, chùa Hương đã trở thành một Sơn môn lớn quy tụ một hệ thống 18 các đền chùa hang động nằm ở 4 thôn: Yến Vỹ, Hội Xá, Đục Khê, Phú Yên. Các chùa động ở đây phần lớn được xây dựng vào thế kỷ XV, XVIII, XIX với địa thế đẹp khi dựa lưng vào sườn núi hoặc nằm dưới thung lũng.     Lễ Chùa Hương luôn gắn liền với lễ hội truyền thống Quán Thế Âm Bồ Tát, là lễ hội văn hóa dân gian mang đậm nét văn hóa tâm linh của người Việt. Hàng năm, Lễ hội được tổ chức vào ngày 18 – 19 tháng Hai âm lịch. Đêm 18 rạng sáng 19 là đêm quan trọng nhất, linh thiêng nhất và cũng đông vui nhất ở Động Hương Tích. 
 
Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát có thể hóa hiện nhiều ứng hóa thân, là hiện thân của lòng từ bi – đoạn trừ khổ đau, đem lại an lạc cho chúng sinh. Sự hiện thị của nàng công chúa Ba – Phật Bà Chùa Hương đã nhắc nhở mọi người lấy tâm đức, hiếu nghĩa làm trọng, lấy sự hy sinh quên mình đem lại hạnh phúc, an lạc cho mọi người.       
 

2. Sự kết hợp tín ngưỡng và vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ.
 

Chùa Hương đã gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba: Theo truyền thuyết vào thế kỷ đầu tiên, chính nơi đây công chúa Diệu Thiện, tục gọi là Chúa Ba là ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm đã vào đây tu hành 9 năm, sau đó đắc đạo thành Phật đi cứu độ chúng sinh.   Chùa Hương mang đậm màu sắc tín ngưỡng dân gian — đạo Phật với nền văn hóa nông nghiệp (ao bèo, con trâu, đàn lợn, nong tằm, né kén…) và phảng phất cả văn hóa phồn thực (bầu sữa mẹ, núi Cô, núi Cậu…). Du khách đến chùa Hương để mong cầu những điều tốt lành như cầu của, cầu con, cầu bình an...
 
 
 

Theo các nhà nghiên cứu dãy núi đá vôi Hương Sơn đã có từ cách đây khoảng hơn 200 triệu năm. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở hang Sũng Sàm, Hang Luôn (thuộc quần thể thắng cảnh Hương Sơn) những chứng tích của người xưa cách ngày nay trên một vạn năm.
  Thêm vào đó, những khu rừng nguyên sinh với những thảm động, thực vật phong phú và quý hiếm, tạo nên môi trường sinh thái độc đáo, đa dạng sinh học. Chùa Hương càng nên thơ với những dòng suối quanh co, uốn lượn, bồng bềnh như mái tóc người thiếu nữ. 
 
Trong bức tranh đẹp đẽ ấy, con người đóng vai trò là nhân tố chủ đạo. Họ có mặt ở đây từ rất sớm và chính sức sáng tạo lao động của họ đã làm cho thiên nhiên vùng Hương Sơn trở nên trường cửu. 

HaTra

Đầu năm trẩy hội chùa Hương, hành trình về cõi Phật Chùa Hương - Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay...

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hương - Ngôi chùa linh thiêng cầu bình an

Phong thủy phòng khách cần chú ý những gì?(phần 1) –

Phong thuỷ phòng khách là khâu quan trọng nhất trong phong thuỷ dương trạch (nhà ở ). Sự hung cát của trạch vận tổng thể trong một gia đình bất luận là thuận hay nghịch của sự nghiệp thăng đi, cao thấp của vận số, tốt xấu của tài vận, sâu nông của du

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

yên phận vợ chồng, vận thế học hành, thi cứ, sức khoẻ của con cái có bình thường hay không đều được quyết định bởi phong thủy của phòng khách. Như vậy đủ thấy phong thuỷ phòng khách là hạt nhân của phong thuỷ nhà ở, tính chất quan trọng về phong thuỷ của các phòng khác trong nhà không thể sánh với nó. Vậy chúng ta phải chú ý những vấn đề gì về phong thuỷ phòng khách?

1352690746-phong-khach-9

(1) Hướng

Vị trí phòng khách tốt nhất là ở kề sát cửa chính nửa phía trước của nhà, như vậy mới thuận tiện thu nạp khí từ cửa vào. Nếu như phải đi qua một đoạn hành lang rồi mới đến phòng khách thì hành lang đó phải luôn sạch sẽ và đủ ánh sáng, như vậy mới không cản trở khí vào phòng khách. Nếu là nhà tầng mà hẹp thì phòng khách nên nằm ở tầng dưới.

(2) Bố cục

Hình dạng phòng khách tốt nhất là hình vuông hoặc hình chữ nhật, ghế ngồi không được đặt ở góc nhà và cũng khồng được đặt thẳng dưới xà nhà. Nếu góc phòng nhọn thì có thể đặt ở dó một chậu cây cảnh hoặc một loại đồ dùng phù hợp nào đó để hoá giải. Nếu phòng khách hình chữ L thì có thể sử dụng đồ dùng như tủ để ngăn ra thành hai phòng hình vuông độc lập nhau.

(3) Điều chỉnh đồ trang trí

Các đồ vật sắc nhọn như dao, keo, hỏa khí, giấy khen, tiêu bản động vật v.v… đều không nên treo trên tường, vì những thứ đó đều có thế sinh ra âm khí, từ âm khí này có thể dẫn đến những hành vi cãi lộn hoặc bạo lực trong gia đình. Tương tự, đèn trang trí củng không nên dùng loại có góc cạnh.

(4) Phong thuỷ bài trí

Bài trí ở phòng khách như thế nào chủ yếu phụ thuộc vào thấm mỹ quan và phương thức sinh hoạt của gia chủ. Bất kỳ một vật may mắn nào khi trưng bầy đều phải dựa vào hướng quẻ bản mệnh của chủ nhà để xác định vị trí tốt.

(5) Màu sắc

Màu chủ đạo của phòng khách là nhân tố chủ yếu của phong thủy bài trí, vấn đề quan trọng nhất là bố cục và sự cân bằng năng lượng đạt được từ sự sinh khắc ngũ hành. Ví dụ, phòng khách nếu ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của nhà thì nên dùng màu vàng; hướng Đông Nam hoặc chính Đông thì dùng màu xanh lá cây; hướng Bắc dùng màu xanh da trời; hướng Nam dùng màu đỏ; hướng Tây Bắc hoặc Tây dùng màu trắng, màu bạc hoặc màu kim ngân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng khách cần chú ý những gì?(phần 1) –

Chữ ký người nổi tiếng và nguyên tắc phong thủy thú vị

Theo phong thủy, người mệnh Mộc kỵ với hình tròn và sắc nhọn. Vì thế, các nét nên cao, rộng, chữ ký dài thoáng. Người mệnh Hỏa cần sử dụng nhiều nét nhọn, sắc, không theo quy tắc cụ thể;

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người tin rằng, nét chữ ký tay, trong đó bao gồm cả điểm bắt đầu và điểm kết thúc, theo phong thủy sẽ quyết định phần lớn đến vận mệnh tương lại của chủ nhân. Vậy nên, không ít người, đặc biệt là những doanh nhân, người có công danh sự nghiệp, đều lựa chọn rất kỹ mẫu chữ ký hợp nhất với mình.

Dưới đây là chữ ký của một số người nổi tiếng trong nước và nước ngoài:

Chữ ký đơn giản, khá tròn trịa của Bill Gates - nhà sáng lập tập đoàn công nghệ Microsoft. Ông sinh năm 1955, mệnh Kim, khá đúng với nguyên tắc nêu trên khi chữ ký có ký tự gần như những hình tròn. 

Cùng năm sinh với Bill Gates, Steve Jobs - tác giả của những chiếc điện thoại iPhone huyền thoại hãng Apple. Chữ ký của ông khá nắn nót và chỉn chu. 

Chữ ký cầu kỳ, đẹp mắt của Tổng thống Mỹ Barack Obama - tổng thống thứ 44 của quốc gia này. Ông sinh năm 1961, là người mệnh Thổ. Chữ ký của ông tương đối hợp với nguyên tắc khi các chữ cái đều rất chắc chắn, rõ ràng. 

Chữ ký của 'hoàng tử' Facebook Mark Zuckerberg khá đơn giản. Anh sinh năm 1984, thuộc mệnh Kim. 

Chữ ký của tỷ phú người Mỹ Warren Buffett chỉn chu, cẩn thận. Ông sinh năm 1930, thuộc mệnh Thổ. 

Chữ ký của 'cha đẻ' hàng loạt ngôi sao hoạt hình của hãng Walt Disney, đi kèm hình chú chuột Mickey dễ thương. Ông sinh năm 1901, là người mệnh Thổ. 

Ông hoàng bóng đá Diego Maradona thường đi kèm số 10 trong ngoặc đơn, biểu thị số áo đã trở nên huyền thoại của ông. Maradona sinh năm 1960, mệnh Thổ. Chữ ký của ông được cho là không đúng với phong thủy, bởi những người mệnh này cần có chữ ký tư thế ổn định, chắc chắn. 

Nhà văn J.K. Rowling, tác giả của bộ truyện giả tưởng Harry Potter từng làm mê say nhiều thế hệ độc giả nhí. Bà sinh năm 1965, mệnh Hỏa. Chữ ký của bà khá hợp với phong thủy với những nét nét nhọn và bất quy tắc. 

Chủ tịch Tập đoàn FPT - ông Trương Gia Bình sinh năm 1956, thuộc mệnh Hỏa. Chữ ký của vị Chủ tịch FPT được đánh giá là hợp phong thủy khi cũng có nhiều nét nhọn và không theo quy tắc. 

Ông Phạm Nhật Vượng - Chủ tịch Tập đoàn Vingroup, ông cũng là tỷ phú Việt Nam đầu tiên lọt vào danh sách tỷ phú thế giới của Forbes. Ông sinh năm 1968, là người mệnh Thổ. 

Ông Đoàn Nguyên Đức - Chủ tịch tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai. Không chỉ là doanh nhân, ông còn nổi tiếng với vai trò ông bầu làng bóng đá với câu lạc bộ mang tên tập đoàn. Ông sinh năm 1962, người thuộc mệnh Kim. Chữ ký của ông, theo nguyên tắc phong thủy nói trên, thì khá trái ngược. Tuy vậy, con đường sự nghiệp của bầu Đức vẫn rất suôn sẻ và đáng nể. 

Ông Trần Đình Long - chủ tịch tập đoàn Hòa Phát. Ông sinh năm 1961, người thuộc mệnh Thổ. 

Theo phong thủy, người mệnh Mộc kỵ với hình tròn và sắc nhọn. Vì thế, các nét nên cao, rộng, chữ ký dài thoáng. Người mệnh Hỏa cần sử dụng nhiều nét nhọn, sắc, không theo quy tắc cụ thể; kỵ với hình bán nguyệt và lượn sóng. Người có mệnh Thổ chữ ký hợp nhất là có hình chữ nhật nằm dài hoặc hình vuông, chữ cần có tư thế ổn định, chắc chắn; kỵ với hình chữ nhật đứng cao.

Người mệnh Kim chữ ký nên có hình tròn làm chủ đạo (có hình tương tự hình tròn và các nét nên uốn lượn tròn); kỵ nhất với các đường gấp khúc, sắc nhọn. Người mệnh Thủy chữ ký cần có hình lượn sóng, hình tròn, hoặc hình bán nguyệt; kỵ với các loại hình vuông góc.

Nguồn: Báo Thanh Tra/Ngôi Sao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chữ ký người nổi tiếng và nguyên tắc phong thủy thú vị

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd