Thói quen này xuất hiện ở cả nữ giới và nam giới - nó mang ý nghĩa không tốt. Nếu nam giới có thói quen rung đùi, anh ta khó có thể trở nên giàu có, thành đạt. Phái nữ hay rung đùi thường gặp khó khăn trong vấn đề tình cảm.
2.Khạc nhổ bừa bãi
Người xưa quan niệm rằng, miệng có nhiều nước bọt là vận khí tốt. Nhổ nước bọt tức là nhổ đi “tài chính”, tiền bạc và may mắn.
3.Thường xuyên chớp mắt
Cuộc sống của người này không khá giả. Mọi người cho rằng, những người hay chớp mắt gặp gỡ và làm thân với người khác đa phần vì vật chất hơn tình cảm.
4.Thói quen cắn môi dưới
Điều này đại diện cho sự thiếu chân thành. Đôi khi, người hay cắn môi thường bị quy chụp là kẻ nói dối, không thật lòng.
5.Không ngừng khụt khịt mũi
Người này không tự tin. Họ khó có thể diễn đạt hết những gì bản thân muốn nói. Vì vậy, họ hay bị nghi là không trung thực mặc dù thực tế, có thể họ không phải người như vậy.
6.Thường nhón chân khi đi bộ
Khi đi bộ, bạn nên để cả bàn chân chạm đất. Theo nghiên cứu, người thích nhón chân khi đi bộ thường khó tính và sức khỏe không được tốt. Họ khó thành công và gặp nhiều rắc rối trong công việc. Tuổi thọ của những người này thường không cao.
7.Chóp chép miệng
Khá nhiều người có thói quen chóp chép như đang nhai gì đó trong miệng. Họ làm điều này khi cảm thấy lo lắng, bất an hoặc nghi ngờ về suy nghĩ của người khác. Đây cũng là một thói quen gây ảnh hưởng đến may mắn của bạn.
Thông thường ai cũng hay có nốt ruồi và nốt ruồi cũng nói lên vận mệnh của mỗi người. Nếu có nốt ruồi đen trên mặt thì thường là Cát ít, Hung họa nhiều. Hãy xem những luận giải cụ thể về nốt ruồi đen trên khuôn mặt:
Vị trí không giống nhau thì phú quý cũng khác nhau
Viên trung có nốt ruồi đen sẽ phú quý, trường thọ, nếu nốt ruồi đen ở chỗ sát phía trên của Viên trung sẽ đặc biệt phú quý. Trên trán có 7 nốt ruồi đen thì đại quý. Người mà phần chính giữa trán gần đường chân tóc có nốt ruồi đen sẽ phương hại chồng, ở giữa trán có nốt ruồi đen sẽ phương hại vợ, vị trí Tư không có nốt ruồi đen sẽ phương hại cha mẹ. Nếu phần chính giữa 2 lông mày có nốt ruồi thì sẽ phú quý. Viền tai có nốt ruồi thì thông minh, nếu ở trong tai thì trường thọ, ở xoáy tai thì phát tài. Nốt ruồi ở trên huyền mắt chủ là đạo tặc.
Nốt ruồi ở giữa 2 mắt sẽ khắc hại, dưới vị trí này thì có thể phải bỏ mạng nơi chiến trường, mọc ở trên mắt sẽ khổ cực, mọc ở giữa lông mày sẽ phú quý, mọc ở trên mắt sẽ cát lợi. Nốt ruồi ở trên mũi thì cần đề phòng tai họa liền quan đến dao. Nốt ruồi trên sống mũi sẽ trắc trở không thuận lợi. Nốt ruồi ở phần lõm dưới mũi thì thuận lợi trong chuyện hôn nhân. Nốt ruồi ở cạnh miệng rất khó tích luỹ tiền tài.
Nốt ruồi mọc trong miệng có ăn có mặc. Nốt ruồi ở trên đầu lưỡi sẽ nói những lời không có thực, ở dưới môi thì phá tài, ở mép môi sẽ mất chức quan. Nốt ruồi mọc ở phần lõm xuống dưới môi chủ về đoản mệnh, mọc ở vị trí tả tương sẽ mất tiền của. Mọc ở trên trán phương hại cha mẹ, mọc ở vị trí Xích dương có thể sẽ phải bỏ mạng ở nơi đất khách.
Nốt ruồi ở vị trí khác nhau cát hung đã định
Nốt ruồi mọc ở vị trí Phụ giác sẽ gặp họa binh đao, mọc ở vị trí Biên địa có thể sẽ phải bỏ mạng nơi phương xa. Mọc ở trên Phụ giác sẽ phải sống cảnh nghèo khó, bần cùng, mọc ở vị trí Sơn lâm sẽ bị côn trùng đốt. Mọc ở vị trí Hổ giác có thể sẽ mất mạng do mâu thuẫn, mọc ở vị trí Kiếp môn chủ đoản mệnh. Mọc ở vị trí Thanh lộ sẽ bị ngoại thương.
Mọc ở vị trí Thái dương thì vợ chồng đều cát lợi. Mọc ở đuôi mắt vận mệnh cũng chẳng thể dài lâu. Mọc ở vị trí Thiên tỉnh chủ đoản mệnh. Mọc ở vị trí Lâm trung phải cẩn trọng trong hành vi. Mọc ở vị trí Phu tọa sẽ khắc hại chồng, mọc ở vị trí Thế tọa sẽ khắc hại vợ. Mọc ở vị trí Trưởng nam sẽ khắc con trưởng, mọc ở vị trí Trung nam sẽ khắc con thứ.
Mọc ở vị trí Kim quỹ sẽ phá bại, mọc ở vị trí Thượng mộ sẽ không có chức quan. Mọc ở vị trí Học đường sẽ không có học thức. Mọc ở vị trí Mệnh môn sẽ gặp hỏa hoạn. Mọc ở vị trí Bộc sử sẽ bần tiện. Mọc ở vị trí Anh môn và Tiểu sử sẽ bần cùng cả đời. Mọc ở vị trí Chi đường sẽ khắc vợ, mọc ở vị trí Ngoại trạch sẽ lang thang khắp nơi. Mọc ở vị trí Nô tỳ sẽ phương hại đến người hầu.
Mọc ở vị trí Khanh tiệm chủ đoản mệnh. Mọc ở vị trí Pha trì sẽ gặp họa liên quan đến nước mà khó giữ được tính mạng. Mọc ở vị trí Hạ mỗ sẽ bị khắc hại. Mọc ở vị trí Tam dương sẽ mưu hại người khác. Mọc ở Đạo bộ là người gian tà, trộm cắp. Mọc ở vị trí Lưỡng trù sẽ thiếu đồ ăn, mọc ở vị trí Tổ trạch sẽ chuyển nhà. Mọc ở vị trí Đại hải sẽ gặp lũ lụt, mọc ở vị trí Niên thượng sẽ bần khốn. Mọc ở cằm sẽ ít điền trạch. Mọc ở vị trí Gia tín sẽ phá bại trong nhà.
Luận về lốm đốm trên mặt: Phần lớn là không cát lợi
Nếu trên mặt nam có đốm chấm như trứng chim thì người này cuộc sống khó khăn, thích kiếm lợi nhỏ. Nếu nữ có đốm chấm như này sẽ thương hại chồng, khắc con mà đoản mệnh, không cát lợi. Nếu đốm chấm giống hạt đậu thì gian tà, thích kiếm lợi nhỏ, nếu nam có đốm chấm này sẽ hại vợ khắc con, kết hôn nhiều lần, nếu nữ có đốm chấm này thì kết quả cũng tương tự.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Trước khi xem ngày tốt trong tháng cần phải đổi lịch âm dương từ ngày dương sang ngày can chi, Có thể tra cứu trên Lịch Vạn Niên, Lịch Vạn Sự
1. Tránh các ngày Nguyệt Kỵ
Là những ngày: mồng 5, 14, 23 hàng tháng. Theo phong thủy phi tinh, tổng các số trong 3 ngày trên là 5,5 tượng trưng cho sao Ngũ Hoàng Thổ ở trung cung rất tối kỵ cho mọi việc.
2. Trách những ngày tam Nương
Là những ngày: thượng tuần là ngày mùng 3, mùng 7. Trung tuần là ngày 13, 18. Hạ tuần là ngày 22, 27
Chọn ngày không nên làm những việc lớn
- Ngày có can chi trùng với can chi tuổi của người xem. Ví dụ tuổi Đinh Tỵ không nên dung ngày Đinh Tỵ
- Ngày trùng với can tuồi của người cần xem, còn chi xung với chi tuổi. Ví dụ tuổi Đinh Tỵ không nên dùng ngày Đinh Hợi (Chính xung rất độc)
- Ngày có can xung với can tuổi của người cần xem, còn chi trùng với chi tuổi hoặc chi xung với chi tuổi. Ví dụ tuổi Đinh Tỵ không nên dung ngày Quý Tỵ hoặc Quý Hợi.
Các ngày sát chủ cũng không nên làm các việc lớn ( tháng Giêng, ngày Tỵ)_(Tháng 2, ngày Tý)_(Tháng 3, ngày Mùi)_(Tháng 4 ngày Mão)_(Tháng 5, ngày Thân)_(Tháng 6, ngày Tuất)_(Tháng 7, ngày Hợi)_(Tháng 8, ngày Sửu)_(Tháng 9, ngày Ngọ)_(Tháng 10, ngày Sửu)_(Tháng 9, ngày Ngọ)_(Tháng 10, ngày Dậu)_(Tháng 11, ngày Dần)_(Tháng 12, ngày Thìn)
3. Những yếu tố để chọn ngày tốt khi xem ngày tốt xấu
- Ngày Can sinh Chi (Đại Cát): có vai trò rất quan trọng khi tiến hành đại sự: Đinh Sửu, Bính Tuất, Ất Tỵ, Đinh Mùi, Giáp Ngọ, Mậu Thân, Canh Tý, Nhâm Dần, Kỷ Dậu, Tân Hợi, Quý Mão, Bính Thìn.
- Ngày chi sinh Can ( Tiểu Cát): cũng là ngày tốt: Giáp Tý, Bính Dần, Đinh Mão, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Canh Thìn, Tân Sửu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Mậu Ngọ.
+ Từ Lập Xuân đến trước Lập Hạ: Nhâm Dần, Quý Mão.
+ Từ Lập Hạ đến trước Lập Thu: Ất Tý, Giáp Ngọ.
+ Từ Lập Thu đến trước Lập Đông: Mậu Thân , Kỷ Dậu.
+ Từ Lập Đông đến trước Lập Xuân: Canh Tý, Tân Hợi.
4. Ngày theo Lục Diệu
Tháng 1,7: Ngày 1 là Tốc Hỉ: Tốt vừa, sáng tốt, chiều xấu, cần làm nhanh.
Tháng 2,8: Ngày 1 là Lưu Liên: Hung, mọi việc khó thành.
Tháng 3,9: Ngày 1 Tiểu Cát: Cát, mọi việc tốt,ít trở ngại.
Tháng 4,10 : Ngày 1 là Không Vong: Hung, mọi việc bất thành.
Tháng 5,11: Ngày 1 là Đại An: Cát, mọi việc đều yên tâm.
Tháng 6,12: Ngày 1 là Xich Khẩu: Hung, Đề phòng miệng lưỡi cãi vãi.
Rồi theo thứ tự 1 Đại An, 2 Lưu liên, 3 Tốc Hỉ, 4 Xích Khẩu, 5 Tiểu Cát, 6 Không Vong tiếp theo các ngày trong tháng.
Theo lịch sách cổ truyền chứng minh là đúng, hễ vào tuổi nào gặp nạn tam tai không những không làm nhà mà cưới gả cũng là chuyện xấu. Nên các bạn cố gắng vào những năm hung niên nói trên dù muốn dù không cũng đỡ đi được phần nào.
Sáu hào của quẻ Càn đều là long (rồng): tiềm long (rồng lận), kiến long (rồng hiện), thích long (rồng cảnh giác), diệu long (rồng vọt nhảy), phi long (rồng bay), cang long (rồng kiêu căng), biểu thị 6 thời kì trải qua của rồng từ dưới đất bay lên trời. Trên thực tế tất cả mọi sự vật đều không phải là bản thân của "sự vật" mà chẳng qua là mọi quá trình biến đổi mà thôi.
Quẻ Càn trình bày, chính là quá trình biến đổi từ "tiềm long" đến "cang long". Cũng giống như chúng ta ngồi trong một toa tàu, bị đưa đi qua từng ga một, đây là quá trình chúng ta tiến dần đến nơi định đến.
Quá trình thiên biến vạn hóa này là dùng thời gian để biểu thị, không có thời gian thì sự biến hóa cũng mất ý nghĩa. Không có biến hóa, thời gian cũng sẽ ngừng lại. Vì vậy, chúng ta hiểu thời gian là khoảng trống giữa các sự vật trước sau xảy ra.
Quá trình vận hành của tự nhiên, luôn phải qua mấy giai đoạn như sau: tiềm tàng ấp ủ sức sống; nảy mầm mọc ra: trưởng thành khó khăn, lớn lên mạnh mẽ; nở hoa kết trái, hoa rơi là rụng. Sau đó, trở lại ban đầu, bắt đầu lập lại, tuần hoàn không ngừng. Đây chính là quy luật vận hành của giới tự nhiên.
Quy luật của tự nhiên: lớn nhất, trung dung nhất, ngay thẳng nhất, có công năng to lớn nhất là tạo đặt nền móng, hanh thông (thuận lợi), tốt lành và kiên trinh quay trở lại tử đầu, đến vô cùng vô tận là điển hình hành vi của loài người đến "chí cao vô thượng" (cao nhất không có gì vượt qua).
Chúng ta nên bắt chước quy tắc này, hiểu rõ đạo trời từ không đến có, từ được đến mất, như thế trong sự nghiệp mới có thể nắm chắc thời cơ biết tiến biết lui.
Tác giả của "Kinh Dịch" từ quy tắc của đạo trời hiểu rõ được quy tắc xử thế của người quân tử. Cho rằng người quân tử trong phát triển sự nghiệp cũng có 6 thời kì:
Thời kì ẩn náu của "tiềm long vật dụng" (rồng ẩn không phát huy tác dụng)
Thời kì hiển hiện của "kiến long tại điền" (rồng xuất hiện tại ruộng).
Thời kì trưởng thành của "chung nhật kiền kiền" (suốt ngày hiện rõ tư thái luôn luôn tự cường).
Thời kì lớn mạnh của "hoặc diệu tại uyên" (hoặc vọt lên hoặc lặn xuống).
Thời kì cực thịnh của "phi long tại thiên" (Rồng bay trên trời).
Thời kì suy bại của "cang long hữu hối" (bay lên tột đỉnh, có hối hận).
Khi ở thời kì ẩn náu, người quân tử phải nên giác ngộ, không để phát ra lực lượng mà cần kiên định niềm tin, nín lặng chờ đợi thời cơ, không được manh động.
Khi ở thời kì hiển hiện, người quân tử nên lấy điều thành tín (chân thành tin tưởng) làm gốc kết hợp với sức lực tiếp gần quần chúng, như vậy mới có thể giành được chỗ đứng.
Khi ở thời kì trưởng thành, người quân tử nên phải có hành vi mạnh mẽ, luôn luôn tự cường, làm phong phú, đầy đủ lực lượng. Đồng thời càng cần phải biết cảnh giác và biết sợ để tránh nguy hiểm dẫn đến bị tổn thất và hủy hoại.
Khi ở thời kì lớn mạnh, người quân tử nên củng cố cơ sớ đoàn kết quân chúng, thận trọng nắm chắc thời cơ có lợi nhất, hành động một lần là thành công.
Khi ở thời kì cực thịnh, người quân tử cần phải giữ nguyện ước ban đầu thực thi hoài bão, chọn người hiền tài giao công việc, tạo phúc cho quần chúng, làm cho từng người có được vị trí của họ và từng người đều thu được lợi ích của họ.
Khi ở thời kì suy bại, người quân tử phải bình tĩnh đối xử, từng giờ từng phút phải cảnh giác, không được hấp tấp vội vàng, phải đề phòng và ngăn ngừa kiêu ngạo, thuận theo lẽ tự nhiên tùy cơ ứng biến, cứng rắn kết hợp mềm dẻo, tiến thoái hợp thời. Kiên trì giữ trong sáng tránh tà ác.
Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy "Kinh Dịch" không chỉ là diễn giải đạo Trời, Đất mà còn giảng giải đạo làm người nữa.
Đạo là để dùng cho người, cho nơi dùng, xét đến cũng là giảng đạo làm người. Mỗi người trong cuộc đấu tranh sinh tồn biến đổi, đều muốn có một năng lực phân rõ khoảng cách của thời gian, không có năng lực này sẽ không thể nắm chắc một cách chính xác thời thế, dẫn đến bỏ lỡ mất thời cơ.
Những điều mà "Kinh Dịch" dạy chúng ta chính là năng lực này, gợi ý cho chúng ta bồi dưỡng năng lực này ra sao. Quẻ Càn dùng 6 tình huống của Rồng (long) biểu thị rõ người quân tử tiến thủ nên tung ra những cử động như thế nào trong từng thời kì khác nhau để đạt thành công.
Ý nghĩa của việc học tập "Kinh Dịch" là ở chỗ:
1. Làm cho chúng ta có thể biết chính xác mình đang trong thời kì lịch sử hoặc giai đoạn phát triển như thế nào?
2. Giúp chúng ta đưa ra các chiến thuật, chiến lược tương ứng.
3. Điều chỉnh phương hướng hoặc phương thức tư duy vốn có của chúng ta.
Trên thực tế, bất cứ sự vật nào đều tồn tại 6 tình huống như thế. Chỉ có điều là người ta không rõ ràng hoặc không rõ ràng lắm. Nếu chúng ta có thể hiểu một cách sâu sắc ý nghĩa của quẻ Càn thì bất kể gặp tình huống sự việc gì đều có thể bình tĩnh xử lí. Nhìn rõ phát triển tương lai của sự việc, xác định được địa vị của mình. Vì thế, quẻ Càn không chỉ là chỉ một sự việc, một cá nhân riêng lẻ, nó thích hợp với tất cả mọi sự việc và mọi người. Nó là một loại triết học.
Lễ hội Đền Hùng – Nét đẹp truyền thống văn hóa Việt
Từ bao lâu nay, Giỗ Tổ Hùng Vương hay lễ hội Đền Hùng 10/3 âm lịch đã trở thành một ngày lễ truyền thống, một ngày Giỗ trọng đại mà mọi người con đất Việt
Từ bao lâu nay, Giỗ Tổ Hùng Vương hay lễ hội Đền Hùng đã trở thành một ngày lễ truyền thống, một ngày Giỗ trọng đại mà tất cả mọi người con đất Việt đều ghi nhớ trong lòng. Dù đi xa đến đâu, dù ở phương trời nào, người dân Việt Nam đều nhớ ngày Giỗ Tổ, một lòng hướng về quê hương đất nước.Ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng Vương, hay còn được biết đến với tên gọi khác là “Lễ hội đền Hùng”. Đây là ngày lễ trọng đại của dân tộc, là ngày mà tất cả mọi người con đất Việt đều hướng về cội nguồn, nhớ ơn các vua Hùng đã có công dựng nước, ghi công biết bao thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu để bảo vệ bờ cõi biên cương đất Mẹ, để ngày nay con cháu được hưởng cảnh thái bình. Lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc Việt Nam cũng bắt đầu từ những ngày tháng xa xưa ấy. Dòng máu chảy qua bao thế hệ vẫn còn mãi, tạo nên một đất nước Việt Nam với bề dày truyền thống và văn hóa, tạo nên những con người Việt Nam trọng tình trọng nghĩa, giàu lòng yêu nước.
Lễ hội đền Hùng là một trong những nét đẹp văn hóa của dân tộc
Lịch sử tổ chức Lễ hội Đền Hùng
Thời kì Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc, ghi dấu ấn to lớn về công cuộc dựng nước và giữ nước của tổ tiên. Chính từ thời kì này, truyền thống yêu nước cùng nền tảng văn hóa Việt đã được xây dựng, hình thành nên một đất nước anh hùng, chưa bao giờ cúi đầu khuất phục bất cứ một thế lực ngoại xâm nào. Đây cũng chính là niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn dân tộc của mọi người dân đất Việt. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương đã được công nhận là một trong những ngày Quốc lễ của Việt Nam, với lễ hội Đền Hùng được con cháu hàng năm long trọng tổ chức, thể hiện rõ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, biểu trưng cho tinh thần văn hóa Việt Nam. Theo dòng lịch sử, từ xa xưa lễ hội Đền Hùng đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức người dân Việt Nam. Trên bản ngọc phả từ đời Trần lưu tại Đền Hùng, được đời vua Lê Thánh Tông và Lê Kính Tông sao chép đóng dấu, có viết rằng: “…Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi…” Dân gian truyền lại, việc cúng Tổ được cử hành vào ngày 12 tháng 3 âm lịch hàng năm. Con cháu ở xa về làm giỗ thường tổ chức sớm 1 ngày, tức ngày 11 tháng 3 âm lịch. Đến đời nhà Nguyễn, nhà vua định lệ 5 năm mở hội lớn 1 lần (vài các năm thứ 5 và thứ 10 của các thập kỉ). Vào dịp này, quan lại triều đình sẽ về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và vị chủ tế người địa phương. Theo lệ, việc cúng tế diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, kể từ đó, ngày tổ chức giổ Tổ, mở lễ hội Đền Hùng được ấn định là ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Lễ giỗ Tổ Hùng Vương là một trong những ngày Quốc lễ của Việt Nam
Trình tự tổ chức lễ hội Đền Hùng
Cũng như mọi lễ hội khác ở Bắc Bộ, lễ hội Đền Hùng cũng được tổ chức thành 2 phần: phần Lễ và phần Hội. Phần tế lễ được cử hành vô cùng trọng thể, theo trình tự của Quốc lễ. Lễ vật dâng cúng lên các vua Hùng được gọi là “Lễ tam sinh” (gồm 1 lợn, 1 dê và 1 bò), ngoài ra còn có bánh chưng, bánh dày, bánh trôi bánh chay và xôi ngũ sắc, nhạc khí biểu diễn trong lễ hội là trống đồng cổ. Một hồi trống đồng vang lên báo hiệu buổi lễ bắt đầu, các vị chức sắc lần lượt vào tế lễ theo sự điều khiển của vị chủ tế vào. Tiếp theo là các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh khu vực Đền Hùng vào dâng hương tế tổ. Sau cùng tới nhân dân vào du khách hành hương cùng vào tế lễ trong các đền thờ để tưởng niệm các vua Hùng. Phần Lễ kết thúc thì đến phần Hội. Cứ tới gần ngày lễ hội đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương là các làng xung quanh lại chuẩn bị thi kiệu. Từ trước đó vài ngày, thanh niên các làng đã tập trung đưa cỗ kiệu của làng mình đến dự thi. Tới ngày lễ hội, các kiệu sẽ được rước về Đền Hùng. Sự xuất hiện của các đám rước linh đình với các cỗ kiệu được trang trí lộng lẫy và những người khiêng kiệu nổi bật với màu áo dân tộc khiến cho lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn.
Cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của năm nay thì đến kì hội sang năm sẽ được đại diện tất cả các cỗ kiệu khác, rước lên đền Thượng để cử hành quốc lễ. Vì thế mà các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy đều được dân làng chuẩn bị công phu và chu đáo từ nhiều tháng trước. Dân làng không cho đó là vất vả, bởi với họ, cỗ kiệu là vật thể hiện lòng thành kính với vua cha, kiệu đoạt giải nhất là niềm tự hào và vinh dự lớn lao không gì tả xiết. Họ cho rằng làm vậy sẽ được các vua Hùng cùng chư vị thần linh phù hộ cho dân làng được nhiều may mắn, nhân khang vật thịnh. Đó là đời sống tâm linh, và truyền thống văn hóa lâu đời được gìn giữ thông qua hình thức sinh hoạt văn hóa, thể hiện tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm và cộng mệnh sâu sắc. Hy Vũ
Chính thức: Lịch nghỉ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2017Bạn biết gì về lễ hội đền Hùng?Linh thiêng không khí ngày Quốc lễ - Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 Âm lịch Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Mỹ Ngân (##)
Tra cứu mức độ hợp khắc trong tình yêu của 12 con giáp
Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã.
Tuổi nào tương hợp - tương khắc, bổ khuyết cho nhau? Các bạn có thể tham khảo bảng tra dưới đây để biết mối tương quan giữa các con giáp nhé.
Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã. Qua bảng dưới đây, các bạn 12 con giáp sẽ biết được đối tượng tương khắc với mình và tránh ghép đôi cùng nhau hoặc tìm cách hóa giải tương khắc nhé.
Tuy nhiên bảng này chỉ tra theo tương hợp tương khắc giữa Chi của con giáp, Nên vấn đề hợp khắc chỉ có tính tương đối, nếu xem tuổi vợ chồng hoặc xem bói tình yêu thì cũng chỉ nói lên một phần rất nhỏ trong quan hệ của hai người. Các bạn có thể dùng để tham khảo nhanh nhé
Ngày 14 tháng 2 là ngày Valentine - ngày lễ tình yêu. Tuy nhiên, ngoài ngày Valentine (14/2) đó, còn có 2 Ngày lễ tình yêu nữa là ngày 14/3 và 14/4
Ai cũng biết ngày 14 tháng 2 theo dương lịch là ngày Valentine - ngày Lễ Tình Yêu. Tuy nhiên, ngoài ngày Valentine (14/2) đó, còn có thêm 2 Ngày lễ tình yêu nữa, đó là Valentine trắng và Valentine đen.
Valentine Đỏ (14/2)
Valentine Đỏ hay còn có tên gọi là Ngày lễ Tình yêu - là ngày dành cho tất cả những cặp đôi đang yêu nhau trên toàn thế giới. Truyện kể rằng, ở một xứ sở xa xôi, có một vị hoàng đế độc tài muốn ngăn cấm chuyện nam nữ yêu nhau. Nhưng dù ông ta có ngăn cấm bằng mọi cách thì những người yêu nhau vẫn đến với nhau. Cảm động trước những tình cảm chân thành này, giám mục Valentine đã hi sinh sự sống của mình để cùng những cặp tình nhân đến với Thiên đường. Và ngày lễ Tình yêu ra đời! Valentine Đỏ là dịp để những người yêu nhau bày tỏ tình cảm của mình với nửa còn lại. Trong ngày này, những người yêu nhau thường bày tỏ tình cảm của mình bằng nhiều cách như: Tặng socola, hoa hồng đỏ, hay nhắn gửi những lời yêu thương qua các tấm thiệp bé xinh.Valentine Trắng (14/3)
Valentine Trắng hay White Valentine, White Day, diễn ra sau Valentine đúng 1 tháng, vào ngày 14/3, là dịp để những bạn nam đáp lễ các bạn nữ hoặc là ngược lại. Valentine Trắng có nguồn gốc từ Nhật Bản, câu chuyện khá nhẹ nhàng, mộc mạc nhưng vô cùng dễ thương. Vào năm 1965 tại Nhật, một chàng trai bán kẹo dẻo muốn đáp trả lại tình cảm của cô gái thầm thương trộm nhớ mình hôm Valentine Đỏ (14/2) nên đã làm tặng nàng một hộp kẹo thật lớn, trắng như tuyết. Từ đó mọi người coi đây là sự tích ngày Valentine Trắng – ngày “đáp lễ” lại người yêu mình. Dường như ngày Valentine Đỏ (14/2) ngọt ngào vẫn chưa đủ với những con tim đang yêu, vậy nên, nhiều bạn trẻ tại Nhật đã lấy thêm ngày Valentine Trắng để tỏ tình cảm với người thương yêu của mình. Sau ngày Valentine Đỏ tròn đúng 1 tháng, nhiều bạn trẻ sẽ đáp lại người thương yêu những món quà mà họ nhận được trong ngày 14/2.
So tuổi vợ chồng, lựa nhân duyên tốt Hôn nhân là chuyện lớn của đời người. Trước khi quyết định gắn bó suốt đời với nhau, đôi trai gái không chỉ cần có tình yêu, sự hòa hợp của đôi bên cha mẹ màMặc dù ngày Valentine Trắng không phổ biến như Lễ tình nhân 14/2 nhưng trong ngày này vẫn có nhiều người tặng quà cho một nửa của mình. Điều đặc biệt, trong ngày Valentine Trắng, bánh quy, kẹo và socola trắng được ưa chuộng thay vì những loại socola thông thường. Những người trẻ tuổi tin rằng, nếu một ai đó tặng bạn bánh quy vào ngày này thì điều đó có nghĩa là người đó yêu bạn, kẹo có nghĩa là người đó thích bạn còn nếu là socola trắng thì có nghĩa là “Chúng ta hãy làm người yêu nhé!”. Bên cạnh đồ ăn, những món quà khác cũng được lựa chọn như đồ trang sức, túi xách, giày, khăn, thú nhồi bông. Ở Mỹ một số chàng trai còn tặng cả đồ lót cho bạn gái của mình.Valentine Đen (14/4)
Thoạt đầu, lúc mới nghe, hẳn là bạn thấy thật kỳ lạ phải không, màu đen thường khiến người ta nghĩ đến những điều không tốt và không may mắn, tuy nhiên thực tế lại không như bạn nghĩ đâu! Ngày lễ tình yêu Valentine Đen (hay Black Valentine, Black day) vẫn được các bạn trẻ Hàn Quốc kỷ niệm mỗi dịp 14/4. Vào ngày 14/4 hàng năm, những FA-ers ở Hàn Quốc lại tụ họp với nhau, họ thường mặc trang phục màu đen, cùng nhau thưởng thức món mì Jachang (mì đen) truyền thống và chia sẻ với nhau về những lý do vì sao lại ế đến lúc này. Tuy nhiên, đối với những ai tôn thờ chủ nghĩa độc thân thì ngày Valentine Đen này lại chính là cơ hội để họ dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động vui chơi, giải trí thú vị. Mặc lên những bộ trang phục đẹp nhất, cùng nhóm bạn thân dạo phố, thư giãn cùng các dịch vụ tại spa, đi mua sắm hoặc ăn uống.
► Mời các bạn: Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không
Xem tướng số biết người tuyệt đối không nên làm bạn
Trên đời này,ai cũng có bạn bè song phải biết chọn bạn mà chơi kẻo gặp người xấu. Cùng xem tướng số để biết người như thế nào thì không nên lại gần kết bạn nhé.
Trên đời này, chẳng ai mà sống không có bạn bè. Nhưng phải biết chọn bạn mà chơi kẻo gặp phải người xấu. Cùng xem tướng số để biết người như thế nào thì không nên lại gần kết bạn nhé.Trong cuộc sống, hàng ngày chúng ta phải nói chuyện, tiếp xúc, làm việc với rất nhiều người. Có nhiều khi, nếu nhìn nhầm người thì hậu quả nhận về là vô cùng tệ hại. Nếu kết bạn với người xấu thì mọi chuyện còn tồi tệ hơn gấp nhiều lần, cuộc sống, vận mệnh của chúng ta có thể xoay chuyển sang một hướng hoàn toàn khác.Làm bạn, hợp tác kinh doanh, nói chuyện yêu đương với người không tốt sẽ khiến cho cả tinh thần và cơ thể mỏi mệt, cuộc đời như đi xuống dốc. Người không cùng chí hướng thì khó có thể đi cùng nhau, vậy phải làm sao mới có thể tìm được người bạn đích thực, tránh xa những kẻ bụng dạ tiểu nhân hay có mưu đồ xấu. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ tiết lộ với các bạn cách xem tướng số để biết được ai là người không nên làm bạn.
Vành tai nhỏ, nhọn, không có dái tai
Trong nhân tướng học, đây là tướng người bụng dạ hẹp hòi, suy nghĩ tiểu nhân, trong cuộc sống hàng ngày dễ xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn với người khác. Bản thân người này khá kén chọn, kĩ tính, luôn có thói quen “vạch lá tìm sâu” nên trong mắt họ, chẳng ai là không có khuyết điểm, tất nhiên cũng chẳng ai là người tốt đẹp.
“Đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành”, họ keo kiệt với người khác và chính bản thân mình. Ngoài ra, lòng dạ nhỏ nhen nên chỉ chuyện bé bằng con kiến dưới con mắt họ cũng thành chuyện cực kì to lớn, nếu là chuyện xấu thì trở thành chuyện đại kị, không thể chấp nhận được. Vì lẽ đó mà đi chợ mua rau thôi họ cũng có thể cãi cọ với người bán hàng, luôn nghĩ rằng mình là người thiệt thòi, quyết không để người khác bắt nạt mình. Người này hay áp đặt suy nghĩ của bản thân lên người khác, dùng tiêu chuẩn của mình để yêu cầu đối phương đáp ứng. Họ không có nhiều bạn bè, cũng chẳng được nhiều người yêu quý.
Mời bạn đọc thêm: 8 nét tướng của kẻ gian tà nịnh hót cần tránh xa.
Hai đầu lông mày quá gần nhau
Nếu gặp một người mà khoảng cách giữa hai đường lông mày nếu không đủ rộng bằng 1 ngón tay thì bạn nên cẩn trọng khi tiếp xúc, cũng đừng vội vàng kết bạn chuyện trò. Họ thường suy nghĩ tiêu cực, chuyện tệ một thì vào tay họ trở nên tệ gấp chục lần. Cách suy nghĩ hạn hẹp khiến họ không thể nhìn thoáng ra, tự trói buộc mình trong suy nghĩ của bản thân.
Xem tướng số thì người có tướng mặt như thế này thường hay so đo tính toán, lúc nào cũng sợ mình bị thiệt thòi hơn người khác. Dù trong cuộc sống hay trong công việc, họ cũng khó lấy được lòng người khác, bởi lẽ chẳng ai muốn dây dưa với một người nhỏ nhen, luôn vơ hết cái lợi về mình, đẩy phần khó cho người khác.
Có thể bạn quan tâm:8 kiểu người gây hiệu ứng tiêu cực, càng tránh xa càng tốt.Chính vì thế mà người có hai đầu lông mày quá gần nhau sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Nếu không chịu thay đổi tính khí của mình thì có lẽ cả đời này sẽ phải chịu cảnh cô độc, không người bầu bạn. Có thể đeo bên mình dây chuyền có mặt hồ ly để vượng nhân duyên, đón quý nhân.
Ấn đường nhỏ hẹp, có nốt ruồi
Xem tướng khuôn mặt, đây là người không có lòng khoan dung, khó có thể dung thứ cho người khác. Tính tình nóng nảy, bộp chộp, dễ bị kích động, họ không thể chịu được khi người khác nói không tốt về mình, dù đó chỉ là lời góp ý khéo léo có thiện ý. Ai động vào điểm này của họ sẽ bị ghi thù khắc oán, họ sẽ tìm cách ngày nào đó trả lại mối thù.
Đặc biệt, nếu biết được người khác nói xấu về mình thì họ sẽ tức giận vô cùng, tới mức tìm thẳng tới người đó để đối chất thật giả đúng sai. Từ đó về sau, người ấy sẽ nằm trong danh sách đen những người không thể không báo thù. Họ khiến cho người khác e sợ và không dám lại gần, sợ rằng một hành động nhỏ nào của mình khiến họ phật lòng cũng sẽ đem lại tai họa lớn. Tuy nhiên, nếu ngũ quan của người này thoáng đạt, đẹp đẽ thì thói xấu này sẽ giảm bớt nhiều lần, không đến mức khiến cho người người xa lánh nữa.An An
Xem tướng mắt đoán định vận mệnh cuộc đời chuẩn xácSoi mặt biết tướng phụ nữ phá tài Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Cách hóa giải phong thủy hữu hiệu cho nhà ở (văn phòng)
Phong thủy Nhà ở (văn phòng) là một vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống của chúng ta, một căn nhà tốt về mặt phong thủy đảm bảo cho gia đình được êm ấm hạnh phúc, tiền bạc làm ra tích lũy được, con cái ngoan hiền hiếu thảo. Trái lại một căn nhà có khuyết điểm về phong thủy thường mang lại nhiều trở ngại và bất ổn trong cuộc sống. Khi mua nhà hay thuê nhà ai ai cũng mong muốn có được một căn nhà hoàn chỉnh về phong thủy.
Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau: - Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt. - Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời. Vì thế khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và khoa phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn. Phương cách hóa giải phong thuỷ thì nhiều và đa dạng phong phú. Thế nhưng để chọn lựa phương cách hóa giải phong thuỷ phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà chúng ta cần phải nghiên cứu từng bước một. Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm Phong thủy căn nhà: Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn. Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt đủ rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một điều sai lạc vô cùng. Một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà vượng Sơn vượng Hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác, đất nghiêng trủng, hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm sai vị trí các Cung (Linh Thần hoặc Chính Thần) thì cũng không tốt. Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không. Khi xem phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ quên đặc điểm khác (Phong thuỷ Hình Thế và Phong thuỷ Lý Khí tương hợp). Tìm biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà. Có thể tạm phân loại các khuyết điểm về phong thủy như sau : - Hình thể nhà và đất : Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm. - Những tác hại xấu do bên ngoài: như là ngã ba đâm vào, đòn dông, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở. - Âm dương (Linh & Chính): Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm: Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng. - Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí các công nămg không đúng phương vị (Cung) hoặc như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà. - Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống. - Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Thế nhưng nếu bố trí nghịch vị thì cần phải có sự hóa giải đúng mức và kịp thời. Ví dụ như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay cửa bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra ngay sát cửa, phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc. Nhu cầu hạnh phúc của gia đình: Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu. Ví dụ : Một gia đình lớn tuổi nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu có hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như là rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc. Trái lại vợ chồng son trẻ có làm ăn ở nhà, không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác. Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người. Trở lại ví dụ đầu tiên, nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi. Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình như sau : Tiền tài, hạnh phúc – sức khỏe, tuổi thọ – con cái (Phú - Quý - Gia Đạo). Tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình để chọn lựa những biểu tượng hóa giải thích hợp. Phương cách hoá giải phong thủy: Có nhiều phương cách hóa giải thế nhưng trước khi quyết định chọn lựa một phương cách hóa giải thích hợp cần phải quan tâm đến 2 điểm: 1) Khi dùng hóa giải tại cung nào nên chú ý đến ngũ hành của cung đó, để sử dụng các biểu tượng phong thủy thích hợp với hành của cung đó. Ví dụ khi muốn thay đổi hay phát triển công việc, thì công việc đầu tiên phải tăng cường cung Tài Lộc căn nhà, cung đó thuộc hành gì?, do Sao nào quản?. Do vậy những vật dụng tăng cường cung này phải tương sinh với Cung đó. 2) Khi hóa giải một khuyết điểm của căn nhà nên sử dụng đúng mức biện pháp hóa giải, để tránh những ảnh hưởng phụ do hóa giải quá độ gây ra. Ví dụ: khi hóa giải một phòng tắm xấu ở giữa nhà (trung cung) có thể che kiếng là đủ, chứ không nên vừa dùng kiếng, lại thêm cây kiểng hay dùng súng đại bác để bắn tiêu khuyết điểm này. Ngoài hai yếu tố trên, chúng ta cũng không phải dễ dàng để chọn lựa một biểu tượng thích hợp vì rằng có nhiều biểu tượng hóa giải có cùng tác dụng thì biết chọn biểu tượng nào. Vì thế một biểu tượng hoàn hảo nhất để hóa giải phong thủy phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây: * Hợp Phong Thủy: Ðây là tiêu chuẩn quan yếu đầu tiên, cần phải đạt được. Trong trường hợp có nhiều biểu tượng có cùng tác dụng thì biết chọn lựa thứ nào. Ví dụ: để hóa giải một cái đòn dông đâm vào cửa chính chúng ta có thể dùng nhiều phương pháp như: trụ phun nước, dời cửa chính,... nhưng chúng ta chỉ nên chọn lựa một biểu tượng thích hợp nhất mà thôi. Do vậy trước khi quyết định chúng ta phải dựa đến tiêu chuẩn thứ hai. * Hợp nhu cầu hạnh phúc gia đình: Như trên đã nói, đối với người lớn tuổi mong muốn bình an dĩ hòa vi quý thì nên chọn lựa những biểu tượng nhẹ nhàng, không gây tác hại cho người khác mà cũng có thể đạt mục đích yêu cầu của mình. Trở lại ví dụ trên, chúng ta có thể chọn lựa biện pháp trụ phun nước. Thay vì chúng ta chọn những biểu tượng công phá có thể gây hại cho người khác và cho chính mình mà thôi. Trường hợp có nhiều biểu tượng đạt được hai tiêu chuẩn trên thì biết chọn biểu tượng nào. Chúng ta nên chọn biểu tượng phù hợp với tiêu chuẩn thứ ba. * Hợp thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa gia đình: Ngoài những biểu tượng căn bản chúng ta cũng có thể sáng tạo những biểu tượng khác đạt được mục đích trên lại phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, hay địa vị gia chủ trong xã hội nữa. Ví dụ : ở khu vực kinh doanh người Mỹ có khi chúng ta dùng những vật dụng đầy thẩm mỹ khác chẳng hạn. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Cưới Hỏi / Giỗ Tết Tế Lễ / Giao Thiệp /Đạo Hiếu / Lễ Tang / Sinh Dưỡng / Chọn Ngày Giờ
Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc ta, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Một cuộc cách mạng có thể thay đổi chính thể nhanh chóng, tiếp theo sau hàng loạt hệ thống pháp luật được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội, nhưng dai dẳng hơn và có quy luật riêng của nó, không dễ gì một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp tuân theo. Vì tục hay thì nhiều người bắt chước nhau làm, tục dở nhiều người cũng sẽ bắt chước nhau bỏ dần.
Bản thân các phong tục cũng nằm trong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang và sẽ tiếp diễn mãi giữa cái cũ và cái mới. Ngay như quan niệm về thẩm mỹ cũng luôn biến đổi. Ví dụ, cái búi tóc của nam giới rõ ràng là lạc hậu song cũng phải qua quá trình đấu tranh lâu dài mới mất đi, nhưng bộ răng đen của nữ giới ngày xưa được ca tụng là đẹp, là duyên dáng, mấy năm sau Cách mạng Tháng Tám chẳng ai bắt buộc gò ép mà tự nhiên biến mất nhường chỗ cho hàm răng trắng.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới hiện nay, không phải chỉ đơn thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan mà phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục vào nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu tiến hoá. Có những phong tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống thời xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta cũng cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại và tương lai, hoặc tìm những phong tục hay để bổ kết mà loại trừ dần những cái dở.
Tất nhiên, bản chất mỗi cá nhân cũng phải sống, giao tiếp, hoà nhập với cộng đồng xã hội, những kiểu cách rởm, trái với phong tục, bản sắc dân tộc, trái với con mắt của đông đảo quần chúng sẽ tự đào thải và bị loại trừ dần. Suy rộng ra phong tục cũng vậy, phục hồi và phát huy thuần phong tục, chắc chắn sẽ được mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ, hoan nghênh; phục hồi làm sống lại những đồi phong bại tục sẽ bị xã hội lên án.
Những nội dung trình bày dưới dạng hỏi đáp trong cuốn sách này chỉ nhằm giải đáp phần nào xuất xứ của các phong tục đã tồn tại ở nước ta, để các bạn tham khảo, tự phân tích, cái nào hay nên theo, cái nào dở nên bỏ, cái nào còn hạn chế những xét thấy chưa thể bỏ ngay thì tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà châm chước vận dụng cho thích hợp...
Bản thân tác giả cũng mong góp được một phần nhỏ trong cuộc đấu tranh nói trên. Rất mong nhận được sự thông cảm, ủng hộ cũng như sự góp ý chân tình của đông đảo bạn đọc gần xa.
Xem tướng người giàu có qua 9 đường vân tay dễ có tiền bạc do Nhân Trắc Học thống kê được và bạn có xác suất 70% là người lắm tiền nhiều của bởi các lý do
Nhân Trắc Học đã tổng kết được 9 đường vân tay có thể giúp bạn nhận biết được ai là người dễ có tiền bạc vào nhà. Tất nhiên đây là thống kê bởi vậy nó là xác suất cao cho những ai nằm trong những đường vân tay lắm tiền nhiều của này chứ không phải là toàn bộ.
Chẳng hạn nếu bạn có vân tài vận tốt, thì 70% bạn sẽ có cơ hội được nhiều tiền bạc trong cuộc sống bởi bạn có khiếu kinh doanh thương trường mà nên. Vậy hãy xem hết toàn bộ 9 đường vân tiền tài sau và hy vọng mình nằm trong số tướng người giàu có nhé.
Xem Vân tay Tài vận
Vân Tài vận chính là đường vân nằm ngay dưới ngón tay đeo nhẫn kéo dài theo phương thẳng đứng xuống phía lòng bàn tay.
Người có đường vân tay Tài vận thường có tài kinh doanh buôn bán thiên bẩm, nếu làm trong lĩnh vực này thì tiền tài nhiều như nước, dồi dào mãi không cạn. Ngoài ra, người này cũng giỏi về các giao dịch tài chính khác.
Xem Vân tay hình sao
Nếu trên bàn tay có vân hình sao nằm ngay gò Thủy Tinh (bên dưới ngón tay út) là dấu hiệu phát tài bất ngờ, dù là nguồn chính tài hay phụ tài đều tăng đột biến. Ngoài ra, con cái của người này cũng có tài vận tốt, cuộc sống sung túc, giàu có. Theo đó, người này được hưởng phúc lộc con cháu khi về già.
Xem Vân tay hình chữ 井 (Tỉnh)
Ngay trên gò Mộc Tinh (dưới ngón tay trỏ) có vân hình chữ Tỉnh hoặc chữ 十 (Thập)… cho biết chủ nhân của bàn tay này có sức ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp, do đó gặt hái được nhiều thành công, tài phúc trong cuộc đời.
Xem Vân tay hình chữ 田 (Điền)
Nếu xem chỉ tay thấy đường Sự nghiệp và cạnh đường Sinh mệnh có vân hình chữ Điền là dấu hiệu cho thấy mệnh chủ thích hợp với những ngành nghề như bất động sản, khoáng sản hoặc làm luật sư, chuyên gia tư vấn, chuyên viên đào tạo…cũng dễ phát tài phát lộc, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.
Xem Vân tay Hào trạch
Vân Hào trạch hay còn gọi là vân Kim phòng tử, nằm phía dưới ngón tay đeo nhẫn. Người có đường vân này có số may mắn về tài lộc, dễ phát đại tại, nhiều cơ hội kiếm tiền, dễ kinh doanh xuyên ngành, sở hữu công ty hoặc tập đoàn lớn…
Xem Vân tay đen
Thoạt nhìn vân đen này giống như nốt ruồi đen, tuy nhiên nó có kích thước lớn hơn nhiều so với nốt ruồi. Người có vân đen dễ phát tài phát lộc, số mệnh cũng giàu sang phú quý. Tuy nhiên, khi nắm bàn tay một cách tự nhiên, vân đen này phải nằm gọn trong lòng bàn tay, nếu lộ ra ngoài sẽ không tốt.
Xem Vân tay Công ấn
Sở dĩ có tên là vân Công ấn vì nó có hình dạng như chiếc ấn tròn dùng để đóng dấu trong công việc. Người có vân Công ấn ở bàn tay (vị trí ngay dưới ngón tay cái) rất thích hợp làm công việc trong cơ quan chính phủ hoặc những việc có liên quan, tiếp xúc với bộ máy cấp cao của nhà nước. Theo đó, người này có cuộc sống giàu sang, phần lớn đều là đại gia và khá nhiều vợ.
Xem Vân tay Ngộ quý
Vân Ngộ quý có nghĩa là gặp được quý nhân phù trợ. Trên bàn tay, đường vân này bắt đầu từ vị trí giao giữa Càn Cung và đường chỉ tay Sự nghiệp.
Người có vân Ngộ quý thường giỏi giao tiếp, cuộc sống gia đình hòa thuận, nhân duyên tốt, dễ gặp được người tương trợ, giúp sức cho sự nghiệp nên tiền đồ sáng lạng, công thành danh toại, dễ phát tài phát lộc.
Xem Vân tayTổ vệ
Vân Tổ vệ hay còn gọi là Tổ tí, nằm ở vị trí nối giữa Khảm cung và đường chỉ tay Sự nghiệp, có nghĩa là được tổ tiên che chở, hậu thuẫn. Đa phần người có vân này đều được thừa hưởng sản nghiệp của tổ tiên để lại nên dễ dàng thành đạt và giàu có.
Câu chuyện về Khổng Tử kén rể tuy những ghi chép này không được hoàn chỉnh lắm, nhưng xem ra cũng vô cùng kỳ lạ và hấp dẫn. Người ta lấy chuyện kết hôn để rước hỉ lâm môn, cầu cho bệnh tật tiêu tán nhưng Khổng Tử ngược đời muốn dùng việc hôn nhân của ái nữ để thể hiện thái độ, cố ý chọn một phạm nhân đang ngồi trong ngục để làm rể quý.
Công Dã Trường rốt cuộc là ai mà có thể lọt được vào mắt xanh của Khổng Phu Tử? Vì sao với thân phận của một phạm nhân trong bỗng chốc có thể đến Khổng Phủ và ngồi lên long kiệu để rước dâu? Đáng tiếc là trong sử sách có rất ít ghi chép về Công Dã Trường, nhưng có một điểm thống nhất chung là môn đệ của Khổng Tử. Còn những thông tin khác như quốc tịch, quê quán và các thông tin liên quan khác về anh ta vẫn còn đang tranh cãi.
Có một tương truyền tương đối phổ biến về Công Dã Trường đó là anh ta có thể nghe hiểu và chuyển dịch được tiếng chim hót. Những tương truyền này thịnh hành từ thời Nam Bắc triều đến thời Đường. Theo tương truyền thì đây cũng chính là nguyên nhân khiến anh ta phải ngồi tù.
Nghe tin Công Dã Trường thông thạo điểu ngữ, quốc vương Lỗ quốc cho rằng đó là tà ma mê hoặc quần chúng bèn hạ lệnh nhốt vào trong ngục. Một hôm có đám chim bay đến gần hót, Công Dã Trường nghe và dịch biết được Tề quốc đang xuất binh lấn chiếm biên cương nước Lỗ. Tề vương phái người đi điều tra thì quả đúng như thế. Công Dã Trường được minh oan và được ban thưởng một chức quan.
Cũng có câu chuyện khác tương đối là thịnh hành về khả năng này của Công Dã Trường. Khi cùng Khổng Tử chu du liệt quốc, trên đường từ Vệ quốc trở về Lỗ quốc, khi đến biên giới hai nước anh ta nghe được lũ chim đang rủ nhau đi ăn thịt người chết ở dưới khe xanh.
Một lúc sau thì gặp một bà lão khóc lóc ven đường hỏi ra mới biết con trai bà đi từ hôm qua giờ chưa thấy về cũng đoán là có thể đã chết nhưng không biết chết ở chỗ nào. Công Dã Trường bèn nói lúc nãy nghe đàn chim hót rủ nhau đến khe núi để ăn thịt người, sợ rằng đấy là con trai của cụ.
Bà lão đến bên khe sâu thì quả nhiên thấy thi thể của con trai ở đó. Sự việc được báo quan, quan viên cho rằng chính Công Dã Trường là người đã giết con trai bà cụ nên đã bắt giam vào ngục. Anh ta bị giam trong ngục 60 ngày. Một hôm tình cờ nghe được chim nói chuyện với nhau về chiếc xe bò bị lật ở bên hồ Bạch Liên, kê đổ đầy mặt đất, sừng con trâu kéo bị gẫy, và thêm nhiều lần kể chuyện về tiếng con vật nói chuyện nên cuối cùng chứng minh được rằng mình là người thật sự hiểu được tiếng chim nên đã được thả.
Hai câu chuyện trên chỉ là tương truyền trong dân gian còn thực hư thế nào cũng khó mà xác minh được. Nhưng việc Công Dã Trường đang ngồi tù mà được Khổng Tử chọn làm rể quý thì chắc chắn phải có nguyên do.
Nếu nói đến tiêu chuẩn kén rể thì với người được tôn xưng Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời) thì Khổng Tử có quá nhiều đệ tử ưu tú, nhưng Công Dã Trường hiển nhiên không nằm trong danh sách đó. Nếu theo logic thông thường, khi chọn rể hiền luôn cần phải chọn người ưu tú nhất. Việc Khổng Tử chọn Công Dã Trường làm rể đương nhiên không phải vì anh ta là người có thể hiểu được tiếng chim. Bởi với bản lĩnh đó chắc chắn không thể qua được ải Khổng Tử.
Việc ông đã chọn Công Dã Trường làm rể quý tức ông có lý do của mình. Chắc chắn Công Dã Trường cũng có bản lĩnh và ưu điểm riêng, ngoài học tài, đức hạnh thì tuổi tác, tướng mạo, gia cảnh, nhân phẩm và tính cách đều là những nhân tố để Khổng Tử cân nhắc.
Hơn nữa việc thời loạn thế lạm dụng việc bắt bớ làm hình phạt đã khiến số người bị oan uổng không ít. Việc chọn một phạm nhân để làm rể trong Khổng phủ có lẽ là cách Khổng Tử muốn thể hiện thái độ bất mãn của mình đối với sự băng hoại của lễ giáo đương thời.
Thêm việc Khổng Tử chọn Nam Dung (Nam Cung Thích tự là Tử Dung) là rể cũng có thể đoán được rằng tiêu chuẩn quan trọng nhất để Khổng Tử chọn làm rể quý chính là tính cách trung hậu, thật thà, nói năng nho nhã và luôn coi trọng đạo đức. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Người tuổi Thân và người tuổi Hợi tuy có tính cách khác nhau nhưng họ lại tìm được những điểm tương đồng và có thể cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc nếu như tuổi Hợi biết tỏ ra rộng lượng. Thân và Hợi có nhiều niềm vui khi ở bên nhau bởi cả hai
Con giáp nhiều tiền nhất tháng 8: Vận thế sự nghiệp tăng, tài vận hanh thông, vượng vận quý nhân...giúp những con giáp này kiếm được bội tiền trong tháng 8.
Vận thế sự nghiệp tăng, tài vận hanh thông, vượng vận quý nhân… là một trong những yếu tố giúp những con giáp này kiếm được bội tiền trong tháng 8.
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi đoán biết vận mệnh chuẩn xác
1. Người tuổi Thìn So với tháng 7, tháng này vận thế của người cầm tinh con Rồng khởi sắc, tài vận hanh thông, mang đến nhiều cơ hội kiếm tiền nên tình hình tài chính ổn định, lúc nào trong túi cũng rủng rỉnh tiền bạc.
Ảnh minh họa
Với những ai có ý định kinh doanh hoặc đầu tư vào hạng mục mới, cần phải hết sức thận trọng, tránh tiền mất tật mang. Tốt nhất trong thánh này người tuổi Thìn thu thập thông tin, xin ý kiến tư vấn của người có kinh nghiệm và lên kế hoạch cụ thể. Sang tháng 9 tới bạn có thể tiến hành một cách thuận lợi. 2. Người tuổi Dần Trong tháng 8, người cầm tinh con Hổ gặp nhiều may mắn, đặc biệt đi tới đâu, làm gì cũng có người giúp đỡ, mọi việc đều thuận lợi. Đặc biệt là vấn đề tài chính. Nguồn chính tài tăng, tài phụ dồi dào giúp người tuổi Dần có thể chi tiêu thoải mái mà không phải đắn đo vấn đề “viêm màng túi”. 3. Người tuổi Ngọ
Ảnh minh họa
Xét về tổng thể, trong tháng 8 vận thế của người tuổi Ngọ hanh thông, gặp nhiều may mắn về tiền bạc, đặc biệt có cơ hội trúng thưởng hoặc nhận được khoản thu bất ngờ. Không chỉ rủng rỉnh tiền tiêu, công việc và sự nghiệp của người tuổi Ngọ cũng thuận buồm xuôi gió. 4. Người tuổi Dậu Mặc dù chưa thực sự trưởng thành về tư tưởng và hoàn thiện năng lực cá nhân nhưng với vận thế khởi sắc, tài vận lí tưởng, tháng 8 này người tuổi Dậu sẽ có cơ hội kiếm bội tiền. Điều quan trọng là bạn phải chớp lấy thời cơ, làm việc quyết đoán, nếu do dự sẽ hỏng chuyện. 5. Người tuổi Sửu
Ảnh minh họa
Sau bao nỗ lực cố gắng và làm việc chăm chỉ, nghiêm túc, người cầm tinh con Trâu sẽ được thỏa mãn khi thu về nguồn tài chính dồi dào trong tháng 8. Tuy nhiên, nếu không có kế hoạch chi tiêu hợp lí, người tuổi Sửu khó có thể tích lũy đủ tiền để thực hiện các dự định hay kế hoạch kinh doanh sắp tới. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Có nhiều phụ nữ đẹp, họ có các vị trí nốt ruồi khác nhau và họ cũng không thể biết chúng xuất hiện lúc nào. Theo những nhà bói toán cho biết thì Con người khi sinh ra tới khi lớn lên tới những thời điểm thích hợp mà những nốt ruồi sẽ mang theo vận mệ
Con người chúng ta ai cũng yêu cái đẹp, ngày nay giới trẻ càng trở nên coi trọng phục trang và diện mạo bên ngoài. Phẫu thuật thẩm mỹ cũng trở thành một khái niệm phổ biến và phẫu thuật thẩm mĩ sẽ ảnh hưởng tới vận trình ra sao? Diện tướng của một người đại diện cho cả con đường trưởng thành sau này vậy chỉ thay đổi một chút trên khuôn mặt thì vận trình cũng sẽ biến đổi. Hôm nay chúng ta hãy cùng bàn bạc về chuyện chỉnh hình đôi mắt trên khuôn mặt sẽ có thay đổi thế nào.
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
Tra cứu Mệnh và Cung từ 1924 đến 2043. Qua bảng tra cứu bạn có thể biết Năm 2013 mệnh gì cung gì. Bạn vào bảng, nhìn vào hàng năm: 2013, nếu là nữ thì Cung Khảm thuộc Thủy, nam thì cung Khôn thuộc Thổ. Còn mệnh chung là mệnh Thủy. NĂM TUỔI CUNG HÀNH
Qua bảng tra cứu bạn có thể biết Năm 2013 mệnh gì cung gì. Bạn vào bảng, nhìn vào hàng năm: 2013, nếu là nữ thì Cung Khảm thuộc Thủy, nam thì cung Khôn thuộc Thổ. Còn mệnh chung là mệnh Thủy.
Tốt xấu theo hướng khí hậu Ví dụ như hướng nam và lân cận nam (đông nam và tây nam) là những hướng tốt đối với điều kiện khí hậu Việt Nam, bởi đón được gió mát và nguồn ánh sáng ổn định, không khí ấm áp. Trong khi đó, các hướng tây, tây bắc thì gặp nắng gắt vào buổi chiều; hướng đông thì chói vào buổi sáng và chịu thêm gió lạnh từ hướng đông bắc. Hướng bắc nằm giữa hai hướng tây bắc (nắng chiều) và đông bắc (gió lạnh) nên cũng không tốt lắm. Bởi thế, “làm nhà hướng nam” là một trong những kinh nghiệm xây dựng dân gian để đón được gió mát, tránh được gió lạnh.
Ngoài việc ứng phó với môi trường thiên nhiên, con người cũng phải ứng xử với môi trường xã hội. Vì thế, nhà cần quay mặt (hoặc cửa, lối vào một không gian nào đó) ra những vị trí thuận lợi cho việc giao tiếp.Cha ông ta dạy nhất cận thị – nhị cận giang – tam cận lộ là nói lên những lợi điểm khi mua đất cất nhà, từ xưa đến nay vẫn không khác nhau bao nhiêu khi xét giá trị một bất động sản.Như vậy, khi xem xét một ngôi nhà có hợp hướng hay không, ta phải xem xét trên cơ sở phân tích và tổng hợp cả bốn loại hướng, chứ không đơn giản là “nghe thầy nói hợp hướng đông bắc“ thì cố tìm bằng được nhà hướng đông bắc, xem nhẹ các yếu tố khí hậu, giao tiếp và phương vị.Cần phân tích trước tiên xem bốn loại hướng trên tốt xấu bao nhiêu phần, khả năng khắc phục nhiều hay ít, có ảnh hưởng gì đến môi trường, con người, kết cấu xây dựng hay không.
Tốt xấu theo hướng phương vị
Là hướng của một vùng, một vật (hay người) ta xét so với một điểm gốc nào đó.Ví dụ nói “trước mặt thoáng đãng, sau lưng có chỗ dựa, tả long hữu hổ“ là ý nói đến hướng xung quanh của một chủ thể ta xét.Khi chủ thể di chuyển, thay đổi, quay về đâu thì trước sau phải trái thay đổi theo.Cùng một dãy nhà (tức là nhìn ra cùng một hướng) và cùng buôn bán giống nhau, nhưng có nhà thuận lợi có nhà khó khăn là vì mỗi nhà bên trong và bên ngoài, trước sau phải trái có phương vị khác nhau.
Tốt xấu theo hướng mệnh trạch
Có thể tham khảo các sách về Dịch học và văn hóa truyền thống phương Đông để dễ dàng tìm ta cung mệnh của mỗi người tương ứng với các phương hướng cát hung.Dịch học phương Đông quy định có 8 mệnh cung tương ứng với 8 hướng trong tự nhiên theo 8 quẻ của bát quái, phân thành hai nhóm là nhóm đông tứ mệnh và tây tứ mệnh.Nguyên tắc chung là người theo nhóm Đông tứ mệnh thì ở nhà Đông tứ trạch, người theo nhóm Tây tứ mệnh ở nhà Tây tứ trạch. Khi đi sâu vào từng hướng cụ thể, sẽ có thêm các phân tích ngũ hành sinh khắc để xác định hướng hợp và không hợp.
Hướng cổng nhà theo tuổi đúng phong thủy
Có nhiều người quan niệm chỉ cần chọn hướng nhà còn hướng cửa thì không quan trọng. Đây là quan niệm không đúng. Bởi vì trong phong thủy mỗi chi tiết của ngôi nhà đều mang một yếu tố riêng của nó.
Cách bố trí cổng của ngôi nhà cũng rất quan trọng vì nó giúp che chắn bảo vệ ngôi nhà với các trường khí xấu bên ngoài. Hướng cổng cũng cần bố trí đúng hướng của gia chủ. Việc bố trí cổng tránh ngã ba đường, tránh dẫn lỗi trục xung với cửa chính.
Dưới đây là một số hướng cổng tốt theo phong thủy học:
1. Cổng vào trong các hướng Tý, Dậu, Mão, Tân, Sửu. áp dựng với Nhà hướng Tý 2. Nhà hướng Quý: cổng vào trong các hướng Quý, Ất, Tân, Càng, Cấn. 3. Nhà hướng Sửu: cổng vào trong các hướng Sửu, Tuất, Thìn, Tị, Hợi. 4. Nhà hướng Cấn: cổng vào trong các hướng Cấn, Càn, Tốn, Nhâm, Tuất. 5. Nhà hướng Dần: cổng vào trong các hướng Dần, Hợi, Tý, Tị, Mão. 6. Nhà hướng Giáp: cổng vào trong các hướng Giáp, Nhâm, Bính, Quý, Ất. 7. Nhà hướng Mão: cổng vào trong các hướng Mão, Tí, Ngọ, Sửu, Thìn. 8. Nhà hướng Ất: cổng vào trong các hướng Ất, Quý, Cấn, Đinh, Tốn. 9. Nhà hướng Thìn: cổng vào trong các hướng Thìn, Sửu, Mùi, Dần, Tị. 10. Nhà hướng Tốn: cổng vào trong các hướng Tốn, Cấn, Khôn, Thân, Bính. 11. Nhà hướng Tỵ: cổng vào trong các hướng Tỵ, Dần, Thân, Dậu, Tý. 12. Nhà hướng Bính: cổng vào trong các hướng Bính, Giáp, Ất, Canh, Tỵ. 13. Nhà hướng Ngọ: cổng vào trong các hướng Mão, Thìn, Ngọ, Dậu, Bính. 14. Nhà hướng Đinh: cổng vào trong các hướng Ất, Bính, Đinh, Tân, Tốn. 15. Nhà hướng Mùi: cổng vào trong các hướng Mùi, Tị, Thìn, Tuất. 16. Nhà hướng Khôn: cổng vào trong các hướng Khôn, Tốn, Càn, Bính, Canh. 17. Nhà hướng Thân: cổng vào trong các hướng Thân, Tị, Hợi, Ngọ, Dậu. 18. Nhà hướng Canh: cổng vào trong các hướng Canh, Bính, Đinh, Nhâm, Tốn. 19. Nhà hướng Dậu: cổng vào trong các hướng Dậu, Ngọ, Đinh, Mùi, Canh. 20. Nhà hướng Tân: cổng vào trong các hướng Canh, Tân, Quý, Dậu. 21. Nhà hướng Tuất: cổng vào trong các hướng Sửu, Mùi, Tuất, Hợi, Thân. 22. Nhà hướng Càn: cổng vào trong các hướng Càn, Khôn, Cấn, Canh, Nhâm. 23. Nhà hướng Hợi: cổng vào trong các hướng Hợi, Thân, Dần, Dậu, Càn. 24. Nhà hướng Nhâm: cổng vào trong các hướng Nhâm, Giáp, Canh, Tân, Quý.
Tuyển tập những Danh ngôn về Cô đơn hay nhất. Có thể bạn đang buồn cô đơn khi nhớ người yêu cũ, bạn trai, bạn gái. Hãy chia sẻ những câu nói hay, câu danh ngôn hay nhất về tình yêu, cuộc đời cực hot.
Tuyển tập những Danh ngôn về Cô đơn hay nhất
Ở đâu đó có người đang mơ về nụ cười của bạn, ở đâu đó có người cảm thấy sự có mặt của bạn là đáng giá, vì vậy khi bạn đang cô đơn, buồn rầu và ủ rũ, hãy nhớ ràng có ai đó, ở đâu đó đang nghĩ về bạn.
Somewhere there’s someone who dreams of your smile, somewhere there’s someone who finds your presence worthwhile, so when you are lonely, sad and blue, remember there is someone, somewhere thinking of you.
Khuyết danh
—-
Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn người khác ở bên ngoài, mà để xem ai đủ quan tâm phá vỡ chúng.
Sometimes you put walls up not to keep people out, but to see who cares enough to break them down.
Khuyết danh
—-
Tôi sống với sự cô đơn đau đớn trong tuổi trẻ nhưng lại ngọt ngào trong những năm tháng trưởng thành.
I live in that solitude which is painful in youth, but delicious in the years of maturity.
Albert Einstein
Khi nghĩ về những người bạn đồng hành đã rời ta, chúng ta cảm thấy cô đơn gấp đôi.
When thinking about companions gone, we feel ourselves doubly alone.
Walter Scott
Anh đứng trên mặt trăng, chẳng còn gì để làm, nhìn thiên đường cô độc, nhưng anh thà ở bên em.
I’m standing on the moon, with nothing left to do, with a lonely view of heaven, but I’d rather be with you.
Khuyết danh
Sức nặng của thế giới là tình yêu. Dưới gánh nặng của sự cô độc, dưới gánh nặng của sự bất mãn.
The weight of the world is love. Under the burden of solitude, under the burden of dissatisfaction.
Allen Ginsberg
Tất cả chúng ta đều làm được nhiều điều cùng nhau, nhưng chúng ta đều chết trong cô độc.
We are all so much together, but we are all dying of loneliness.
Albert Schweitzer
Cô độc thì đáng sợ đấy, nhưng không đáng sợ bằng việc cảm thấy cô đơn trong một mối quan hệ.
Being alone is scary, but not as scary as feeling alone in a relationship.
Amelia Earhart
Hãy ôm lấy nỗi cô đơn và yêu quý nó. Hãy chịu đựng nỗi đau nó mang đến và cố hát vang với nó. Vì những người gần bạn cũng xa xôi…
Embrace your solitude and love it. Endure the pain it causes, and try to sing out with it. For those near to you are distant…
Rainer Maria Rilke
Vấn đề không thực sự là cô độc, mà là cô đơn. Một người có thể cô đơn giữa đám đông, không phải sao?
The trouble is not really in being alone, it’s being lonely. One can be lonely in the midst of a crowd, don’t you think?
Christine Feehan
Kỹ năng lắng nghe là phương thuốc tốt nhất cho sự cô đơn, tính ba hoa và bệnh viêm thanh quản.
Skillful listening is the best remedy for loneliness, loquaciousness, and laryngitis.
William Arthur Ward
Về cơ bản, chúng ta cô đơn không thể diễn tả được, đặc biệt trong những điều gần gũi nhất và quan trọng nhất.
We are unutterably alone essentially, especially in the things most intimate and most important.
Rainer Maria Rilke
Sự nghèo khó khốn cùng nhất là nỗi cô đơn và cảm giác không được yêu thương.
The most terrible poverty is loneliness and the feeling of being unloved.
Tất cả những gì tôi biết là tôi sẽ lại cô đơn. Không gì khủng khiếp hơn cô đơn giữa đồng loại.
All I know is that I shall be alone again. There is nothing more terrible than to be alone among human beings.
Stefan Zweig
Không gì làm chúng ta cô đơn hơn những bí mật của mình. Nothing makes us so lonely as our secrets. Paul Tournier
Mục tiêu của hôn nhân không phải để tạo ra sự tương đồng nhanh chóng bằng cách xé bỏ mọi biên giới; ngược lại, một cuộc hôn nhân tốt là khi mỗi người để đối phương bảo vệ cho sự cô độc của mình, và vì vậy họ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất. Sự hợp nhất hai người là không thể, và khi nó dường như tồn tại, nó là sự đồng thuận bủa vây cướp đi tự do và sự phát triển đầy đủ nhất của một hoặc cả hai người. Nhưng một khi họ nhận ra rằng thậm chí giữa những người gẫn gũi nhất cũng có khoảng cách vô hạn, cuộc sống kỳ diệu bên nhau sẽ nảy nở, nếu họ yêu được khoảng cách giữa cả hai vì nó cho họ khả năng có thể luôn thấy nhau trọn vẹn trên nền trời bát ngát. The point of marriage is not to create a quick commonality by tearing down all boundaries; on the contrary, a good marriage is one in which each partner appoints the other to be the guardian of his solitude, and thus they show each other the greatest possible trust. A merging of two people is an impossibility, and where it seems to exist, it is a hemming-in, a mutual consent that robs one party or both parties of their fullest freedom and development. But once the realization is accepted that even between the closest people infinite distances exist, a marvelous living side-by-side can grow up for them, if they succeed in loving the expanse between them, which gives them the possibility of always seeing each other as a whole and before an immense sky. Rainer Maria Rilke
Con người ngay từ khi sinh ra đã cô độc. Chết đi cũng trong cô độc. Dù có cố lẩn tránh nỗi cô đơn, nó vẫn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày. Ta balo trên đất Á – Rosie Nguyễn
Khi được ai đó kể cho bạn nghe câu chuyện vô cùng hài hước, bạn sẽ phản ứng ra sao? tiếng cười của bạn như thế nào? Hãy cùng đọc bài viết sau để xem tướng cười có ý nghĩa gì nhé! Tướng cười của bạn nói lên điều gì? Cười “ha ha” một cách tẻ nhạt Bạn l
Quẻ Quan Âm thứ 85 Quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố đoán rằng có thể đi đến đích cuối cùng, những sự việc đang muốn làm, hãy yên tâm thực hiện.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 91 được xây dựng trên điển cố: Tam Anh chiến Lã Bố hay anh hùng đánh Lã Bố.
Quẻ trung bình thuộc cung Dậu. Hiện trạng giờ đây giống như phía trước là một con đường rộng lớn, có thể tự tin đi đến đích cuối cùng, không cần phải lo lắng. Những sự việc đang muốn làm, hãy yên tâm mà thực hiện.
Thử quái tiền đồ hiển đạt chi tượng. Phàm sự thông thái đại cát dã.
Điển cố quẻ Quan Âm: Tam Anh Chiến Lã Bố
Câu chuyện này có nguồn gốc từ tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa“.
“Tam anh” là chỉ ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi.
Cuối thời Đông Hán, thiên hạ đại loạn. Quan Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác nắm giữ triều chính, chuyên quyền bạo ngược. Quan lại các nơi rất bất mãn, đều muốn dấy quân đánh Đổng Trác. Tào Tháo dùng mưu kế dâng đao để giết Đổng Trác nhưng không thành, bèn trốn khỏi Lạc Dương, chiêu binh mãi mã, lại viết hịch gửi các quận kêu gọi đánh Đổng Trác. Sau khi bài hịch phát ra, chư hầu các lộ đều lần lượt dấy binh hưởng ứng, nhanh chóng tập hợp được binh mã của mười tám lộ. Mọi người suy tôn Viên Thiệu làm minh chủ, tiến đánh đến Lạc Dương.
Đống Trác nghe được tin, lập tức triệu tập Lý Nho, Lã Bố để bàn bạc, quyết định tiến hành truy bắt.
Trong doanh trại của Viên Thiệu chia làm tám lộ chư hầu gồm Vương Khuông, Kiều Mạo, Bào Tín, Viên Di, Khống Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công Tôn Tán, đến cửa ải Hố Lao đón địch. Tào Tháo dẫn quân đến cứu viện. Tám lộ chư hầu đều khởi binh, Thái thú Hà Nội là Vương Khuông dẫn quân đến trước tiên. Lã Bố mang ba nghìn ngựa chiến được trang bị giáp sắt, chạy như bay đến nghênh chiến. Lã Bố là con nuôi của Đổng Trác, mấy lần đại chiến, chư hầu các lộ không ai có thể địch nối.
Lúc này, ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đang đầu quân dưới trướng của quan Thái thú Bắc Bình là Công Tôn Tán. Một hôm, Lã Bố lại dẫn quân khiêu chiến, chư hầu các lộ đều xông ra. Công Tôn Tán lên trước, đánh với Lã Bố chưa được mấy hiệp đã thất bại. Lã Bố thúc ngựa xích thố đuổi theo. Con ngựa đó một ngày có thể đi được nghìn dặm, chạy nhanh như gió, trong nháy mắt đã đuổi kịp, Lã Bố nâng cây kích nhằm phía sau Công Tôn Tán đâm tới. Trong lúc gay cấn, chỉ thấy có một vị tướng ở bên cạnh, mắt trợn tròn, râu vểnh ngược, vung bát xà mâu, phi ngựa quát lớn: “Tên đầy tớ của ba họ chớ có chạy! Có Trương Phi người đất Yên ở đây!” Lã Bố nhìn thấy, liền bỏ qua Công Tôn Tán để đánh Trương Phi. Trương Phi phấn chấn tinh thần, say sưa giao chiến với Lã Bố. Đánh nhau liên tiếp hơn năm mươi hiệp, vẫn không phân thắng bại. Quan Vũ thấy vậy, vỗ ngựa một cái, múa cây đao Thanh long yển nguyệt nặng tám mươi hai cân, đến đánh giáp công với Lã Bố, ba người dàn hình chữ đinh giao chiến, đánh đến ba mươi hiệp vẫn không đánh ngã được Lã Bố. Lưu Bị bèn múa song kiếm, thúc con ngựa bờm vàng đến trợ giúp. Ba người vây Lã Bố lại, đánh nhau loạn xạ, khiến cho người ngựa hai bên nhìn đến ngây người. Lã Bố cuối cùng không địch lại nổi ba người, dần dần chỉ tìm cách che chắn chống cự, đâm dứ một kích, tìm chỗ trống xông ra khỏi trận, kéo lê cây kích, phi ngựa chạy về. Ba người Lưu Bị sao có thể buông tha, bèn thúc ngựa đuổi theo. Quân sĩ phía sau hò reo vang động, đồng loạt xông lên tấn công. Quân của Lã Bố thất bại chạy về cửa ai Hổ Lao. Ba người Lưu, Quan, Trương đuổi theo Lã Bố đến dưới cửa ải, thấy trên cửa ải gió tây lay động chiếc lọng màu xanh, Trương Phi nói lớn: “Đây chắc chắn là Đổng Trác! Đuổi theo Lã Bố thì có gì hay? Chi bằng đến đây bắt tên giặc họ Đổng, diệt cỏ tận gốc!” Ròi thúc ngựa tiến lên để bắt Đồng Trác. Nào ngờ trên cửa ải gỗ đá ào ào ném xuống, tên bay như châu chấu, chẳng có cách nào đành phải lui quân.
Sau đó, nội bộ mười tám lộ chư hầu chia rẽ. Quan Tư đò Vương Sung sai Điêu Thuyền dùng mỹ nhân kế, mua chuộc Lã Bố giết được Đống Trác, bắt đầu hình thành cục diện hỗn chiến cát cứ quân phiệt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Mơ thấy tặng quà: Khiếm khuyết trong quan hệ giao tiếp –
Tặng vật gì? Tặng cho ai? Điều này có thể cho thấy một quan hệ cân bằng đang được suy xét trong mơ, biểu đạt ý muốn cân bằng quan hệ, hoặc tượng trưng cho sự khiếm khuyết trong các mối quan hệ. Tặng quà trong trường hợp nào? Món quà có liên quan đến
Về mặt tính cách, sự ngay thẳng, bộc trực của Mão dễ làm cho Dậu bực bội. Trong khi đó, sự kiêu căng, tự phụ của Dậu khiến Mão phải nổi nóng. Mão nhún nhường trong khi Dậu tự mãn, cho rằng mình biết tất cả. Những xung đột này khiến quan hệ của 2 ngư
Xét theo vòng tử vi, Dậu và Mão ở vào vị trí xung khắc, con giáp này bị ảnh hưởng bởi âm tính từ những mũi tên độc của con giáp kia. Do đó, cả hai sẽ phô bày tất cả những điều xấu nhất của nhau. Tính dè dặt cố hữu của Mão trở thành thái độ thờ ơ, khinh miệt. Trong khi đó, sự khoe khoang, kiêu căng của Dậu ngày càng trở nên khó chịu, đáng ghét.Nếu hai người này không sống với nhau, hoặc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau thì họ có thể là bạn tốt. Nhưng khi đã kết hôn, họ rất dễ bất hòa và coi thường nhau. Tệ hại hơn, cuộc sống hôn nhân giữa Mão và Dậu có thể chỉ còn là quan hệ tầm thường.Dậu thuộc hành Kim, Mão thuộc hành Mộc. Kim và Mộc tương khắc. Trong mối quan hệ này, Dậu đóng vai trò kiểm soát và điều khiển Mão, hay ít ra cũng cố gắng để được như thế. Vấn đề là Mão có chấp nhận vị trí lãnh đạo của Dậu hay không. Căn cứ vào vòng tử vi thì điều này khó có thể xảy ra. Là con giáp âm, Dậu không khẳng định được vai trò và uy tín của mình trong việc thống trị Mão – cũng thuộc âm.Biện pháp hóa giảiĐể cải thiện mối quan hệ này, cả hai cần phải được tăng cường năng lượng một cách đúng đắn dựa vào đặc điểm của ngũ hành. Cụ thể là, người tuổi Dậu nên đeo đồ trang sức bằng vàng, người tuổi Mão nên sử dụng nhiều màu xanh lá cây. Ngoài ra, cả nam và nữ đều sẽ gặp may mắn khi đeo ngọc. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Thư (##)
Người tuổi Thìn có năng lực thì có thể tự mình làm nên sự nghiệp, hợp tác cùng người khác thì có thể lại sinh ra mâu thuẫn, quan hệ nhanh chóng tan vỡ, mỗi
Rồng là biểu tượng của sự vương giả, có thể nói người tuổi Thìn cũng thích hợp với lĩnh vực kinh doanh nhưng họ thường không tiếp nhận ý kiến của người khác.
Bởi vậy, người tuổi Thìn có năng lực thì có thể tự mình làm nên sự nghiệp, hợp tác cùng người khác thì có thể lại sinh ra mâu thuẫn, quan hệ nhanh chóng tan vỡ, mỗi người một ngả.Người tuổi Thìn có lòng hiếu thắng, thích sự ồn ào náo nhiệt, quan trọng vẻ bề ngoài, nếu người tuổi Thìn có ý định kinh doanh thì chỉ cần đối phương chậm trễ một chút thì đã làm người tuổi Thìn phát điên lên rồi.Người tuổi Thìn nên hợp tác kinh doanh với tuổi nào?Với tuổi Tý: Có thể hợp tác nhưng người tuổi Thìn phải làm chủ thì sự nghiệp mới có thể phát triển.
Với tuổi Sửu: Hợp tác không ăn ý, cả hai đều muốn bản thân mình làm chủ mà không hề có ý định nhún nhường hay tinh thần cùng hợp tác. Nếu hai bên tôn trọng ý kiến của nhau thì thực chất cũng chỉ là “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, cuối cùng sự hợp tác vẫn không mang lại kết quả gì.Với tuổi Dần: Hợp tác cực tốt, đôi bên cùng nhau hỗ trợ để cùng phát triển, cả hai cùng là người có năng lực.Với tuổi Mão: Người tuổi Mão với người tuổi Thìn hợp tác khá ăn ý, Mão sẽ chịu trách nhiệm thực hiện còn Thìn sẽ đảm nhận việc đưa ra quyết định. Khả năng đạt thành công là rất lớn.Với tuổi Thìn: Tốt nhất là không nên hợp tác vì cả đôi bên đều chăm chăm lợi ích cho riêng mình mà thôi.Với tuổi Tị: Có thể hợp tác nhưng người tuổi Tị phải tích cực phát huy năng lực của chính mình, đôi khi phải tự lập, tự quyết, nếu không sẽ bị người tuổi Thìn lấn át.Với tuổi Ngọ: Có thể tiến hành hợp tác trong khoảng thời gian ngắn với những việc nhỏ. Nếu hợp tác trong thời gian dài thì nguy cơ mâu thuẫn khá cao.Với tuổi Mùi: Có thể hợp tác, song không phải lĩnh vực nào cũng có thể hợp tác, nếu hợp tác trong lĩnh vực nghệ thuật là tốt nhất.
Với tuổi Thân: Người tuổi Thìn nếu hợp tác với người tuổi Thân thì sẽ gặt hái được nhiều thành công hớn, hai người kết hợp cùng nhau sẽ làm tăng thêm sức mạnh, vĩnh viễn không bao giờ thất bại.Với tuổi Dậu: Có thể tiến hành hợp tác song nên để người tuổi Thìn nắm vị trí quản lý, người tuổi Dậu có thể trợ giúp trong quá trình kinh doanh.Với tuổi Tuất: Không nên hợp tác, người tuổi Tuất dường như có khả năng đọc được mọi suy nghĩ của người tuổi Thìn, nên người tuổi Thìn cảm thấy không an tâm để đầu cơ.Với tuổi Hợi: Nếu người tuổi Hợi khiêm tốn một chút thì có thể hợp tác thành công.
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn
Phương ThùyNgười tuổi Dần nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?Người tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?Người tuổi Thân nên hợp tác làm ăn với tuổi nào? Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)