Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy trong cách bày tủ giày dép –

Bài trí tủ giày dép trong ngôi nhà hợp phong thủy sẽ mang lại hòa khí và vận may cho chủ nhân ngôi nhà. Nhưng bày trí tủ dép hợp phong thủy như thế nào mới đúng. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn cách bài trí tủ giày dép hợp phong thủy. Cùng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài trí tủ giày dép trong ngôi nhà hợp phong thủy sẽ mang lại hòa khí và vận may cho chủ nhân ngôi nhà. Nhưng bày trí tủ dép hợp phong thủy như thế nào mới đúng. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn cách bài trí tủ giày dép hợp phong thủy. Cùng đọc nhé!

Nội dung

  • 1 Cách bày trí tủ giày dép hợp phong thủy
    • 1.1 Chọn loại tủ giày dép có số tầng theo ngũ hành
    • 1.2 Kê tủ giày dép tiếp xúc trực tiếp với mặt đất
    • 1.3 Không kê tủ giày dép đối diện với cửa ra vào
    • 1.4 Tránh chọn tủ có kích thước quá lớn
    • 1.5 Nên chọn tủ giày dép có màu trầm

Cách bày trí tủ giày dép hợp phong thủy

Chọn loại tủ giày dép có số tầng theo ngũ hành

Con số 5 tượng trưng cho ngũ hành giúp cân bằng âm dương, mang lại hòa khí cho ngôi nhà. Do đó, bạn nên chọn loại tủ hoặc kệ để giày dép có 5 tầng, đồng thời mỗi tầng xếp 5 đôi giày. Nếu số tầng ít hơn 5 thì không có ảnh hưởng lớn, nhưng nhiều hơn 5 lại không tốt cho gia chủ.

725-3504-1406245364

Kê tủ giày dép tiếp xúc trực tiếp với mặt đất

Trong phong thủy, giày dép thuộc hành thổ nên nếu kê tủ để chúng quá cao so với mặt đất sẽ không mang lại vận khí tốt cho người đi. Đồng thời, giày dép cũng được coi là yếu tố nền tảng. Nếu nền tảng căn bản ổn định sẽ mang lại thuận lợi cho sự nghiệp của gia chủ.

Không kê tủ giày dép đối diện với cửa ra vào

Giày dép đã qua sử dụng đều dính bụi bẩn, đất cát… nếu không được sắp xếp chỉn chu, lại để đối diện với cửa ra vào sẽ ảnh hưởng xấu tới phong thủy, có thể gây bất hòa trong gia đình.

Vị trí kê tủ thích hợp nhất là phía trong bên phải cửa chính ra vào. Nó sẽ giúp gia đình thêm hòa thuận và tiếp đón nhiều khách quý tới thăm.

xiegui8-ab774-7915-1406245364

Tránh chọn tủ có kích thước quá lớn

Theo phong thủy, nếu kích thước tủ giày dép quá cao sẽ không tốt cho tình cảm và sự nghiệp của gia chủ. Nên chọn các loại tủ có chiều cao không quá 1/3 chiều cao của căn phòng để đảm bảo phong thủy và mang lại điều tốt lành.

Nên chọn tủ giày dép có màu trầm

Màu tủ trầm sẽ không dễ lộ các vết bụi bẩn do giày dép dính lại, vừa đảm bảo mỹ quan lại hợp phong thủy. Phía trên tủ giày dép có thể bày đồ mỹ nghệ, cây hoa để mang lại nhiều vận may cho chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy trong cách bày tủ giày dép –

Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Mùi –

Quý Mùi (1943, 2003) 1. Sinh lực 000: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện mộ
Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Mùi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Mùi –

“Nguyên không” có phải là chỉ “huyền không” không? –

“Nguyên không” còn gọi là “Huyền không”, xuất hiện trong “Thanh nang ao ngữ”: “Thư và hùng, giao hội hợp nguvên không, hùng và thư, nguyên không quẻ nội thôi”; “Minh nguyên không, chỉ tại ngũ hành trung, tri thử pháp, bất nhu tầm nạp giáp”. “Thanh na

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng tự” còn viết: “Tấn thế cảnh thuần truyện thử thuật, diễn kinh lập ý xuất huyền không”.

images (2)

Tưởng Bình Giới khi chú “Giang Nam long lai Giang Bắc vọng, Giang Bắc long khứ vọng Giang Đông” đã nói: “Dương tùng khán thư hùng chi pháp, giai tòng không xứ vi chân long, cố lập kỳ danh viết đại huyền không, tuy vân lưỡng phiến, thực nhất phiến dã”.

“Nguyên không pháp giám” viết: “Nguyên không hành âm dương chi khí dã. Nguyên tắc vi thưởng bất không, không tắc vi thưởng bất nguyên, nguyên không cố tùy thời tùy địa nhi biến giả dã”; “Nguyên không tức biến dịch chi lý”.

“Thẩm thị huyền không học” cho rằng: “Thị huyền không nhị tự đại nhất chí cửu chi vi nhiên”, tức là sự biến hóa của số 1 đến số 9.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: “Nguyên không” có phải là chỉ “huyền không” không? –

Người tuổi Mão mệnh Kim

Người tuổi Mão mệnh Kim là những người sinh năm Quý Mão 1903, 1963...
Người tuổi Mão mệnh Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người tuổi Mão mệnh Kim là những người sinh năm Quý Mão 1903, 1963...

Họ là người có ý thức rõ ràng về bản thân đồng thời luôn muốn khẳng định mình. Họ cũng có sức khỏe dồi dào và tính cách kiên cường, thẳng thắn.

Họ thường không bao giờ đầu hàng trước khó khăn, thậm chí còn không muốn bộc lộ những nỗi khổ tâm của mình cho người khác biết mà chỉ âm thầm chịu đựng.

Đời sống nội tâm của họ khá sâu sắc, tình cảm phong phú nhưng thường giấu kín trong lòng. Chính kiểu tính cách đó đã tạo nên ở họ sự không ổn định trong cả tâm lý và tình cảm. Cũng chính vì lý do này mà những việc họ làm đều khó có thể kéo dài và thường phải bỏ cuộc giữa chừng.

Nếu được sao tốt tương trợ, người tuổi Mão mệnh Kim rất có thể sẽ làm được việc lớn nhờ vào tài năng và những hành động đúng đắn, kịp thời của mình.

Nếu không được sao tốt tương trợ, họ dễ rơi vào vòng nguy hiểm vì xung đột với người xung quanh.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mão mệnh Kim

Bật mí lý do nên chọn con gái tuổi Dậu làm vợ

Cần cù, kiên trì không biết mệt mỏi là những đặc điểm dễ nhận thấy của các cô nàng tuổi Dậu. Yêu một người con gái tuổi Dậu, bạn sẽ luôn được
Bật mí lý do nên chọn con gái tuổi Dậu làm vợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cần cù, kiên trì không biết mệt mỏi là những đặc điểm dễ nhận thấy của các cô nàng tuổi Dậu. Yêu con gái tuổi Dậu, bạn sẽ luôn được "phiêu lưu".


► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Bat mi ly do nen chon con gai tuoi Dau lam vo hinh anh 2
Ảnh minh họa

Cô nàng tuổi Dậu luôn dũng cảm tiến về phía trước

  Con gái tuổi Dậu trời sinh bản tính cần cù, kiên trì không biết mệt mỏi. Bởi vậy, những cô nàng này luôn có chí tiến thủ, dám dũng cảm xông lên phía trước. Yêu một cô nàng tuổi Dậu, bạn sẽ luôn được phiêu lưu, "đi tắt đón đầu" mọi xu thế.  

Con gái tuổi Dậu cực kỳ ngăn nắp và cẩn thận

  Không chỉ thế, các cô gái tuổi Dậu luôn thân thiết ôn hòa, sống ngăn nắp đâu vào đấy, biểu hiện một đức tính cực kỳ cẩn thận và rất dè dặt. Thích chính xác và ham mê điều tra nghiên cứu. Giàu lòng thương người và đức tính từ thiện mạnh mẽ. Có cá tính ngang ngạnh, rất ghét sự ỷ lại vào người khác.  

Yêu nàng tuổi Dậu, gia đình sẽ luôn gắn bó bền chặt

  Yêu một cô nàng tuổi Dậu thường được "lời" to vì họ rất trân trọng và giữ gìn tình yêu. Đặc biệt trong gia đạo vợ chồng rất gắn bó thân thiết với nhau. Khi họ ăn ở với nhau đều hy vọng được phát triển. Nhìn chung người tuổi Dậu về quan hệ hôn nhân - tình yêu họ luôn luôn ở thế có lợi.
Bat mi ly do nen chon con gai tuoi Dau lam vo hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Phụ nữ tuổi Dậu có tài ăn nói và rất thu hút người khác giới

  Phụ nữ tuổi Dậu có khả năng thu hút người khác giới bởi vẻ ngoài xinh đep, tài ăn nói khéo léo. Phụ nữ tuổi Dậu cũng là người nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn và có dáng dấp, tính khí nam nhi. Các cô gái tuổi Dậu hay chủ động đi tìm tình yêu khi cần thiết và cũng rất trầm tĩnh ít lời khi hoàn cảnh không cho phép.   Thông thường cũng có khá nhiều người tuổi Đinh Dậu hay Quý Dậu thất bại trong tình yêu hoặc tình duyên đến quá muộn màng. Trong gia đình các bà chủ tuổi Dậu là người tỏ ra thích hoạt động hướng ngoại, nhưng trong thực tế họ cũng rất đảm đang với công việc gia đình nội chợ. Họ không hay trách mắng chồng con và ngược lại họ cũng không chịu nổi ai đó trách mắng mình. Họ yêu cầu một sự bình đẳng tuyệt đối trong tình yêu và hôn nhân.   Con gái tuổi Dậu kết duyên với người tuổi Sửu, tuổi Tỵ, tuổi Thìn thường là những cặp hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Ngoài ra nếu kết hôn với các tuổi Tý, tuổi Hợi thì phần đông diễn ra có nhiều thuận lợi suôn sẻ. Còn nếu kết hôn với các tuổi khác như Mão, Thìn, Dậu, Thân... về cơ bản không hòa hợp, có nhiều trầm luân, khổ ải và không hạnh phúc.
ST.
Lấy vợ tuổi Heo, tha hồ mà giữ Chọn vợ phải chọn con gái tuổi Thân mới chuẩn Yêu người cùng tuổi, tại sao lại không nhỉ?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí lý do nên chọn con gái tuổi Dậu làm vợ

Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Chẳng cần phải mở lời, chỉ cần nhìn ánh mắt nhau thôi thì Trường Giang Nhã Phương cũng đã có thể hiểu cả thế giới của đối phương rồi.
Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chẳng cần phải mở lời, chỉ cần nhìn ánh mắt nhau thôi thì các cặp đôi Kim Ngưu Trường Giang Nhã Phương cũng đã có thể hiểu cả thế giới của đối phương rồi.


Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Câu chuyện tình yêu của cặp đôi Trường Giang Nhã Phương cùng cung, đặc biệt là cung Đất như Kim Ngưu, thường sẽ diễn ra vô cùng lặng lẽ, nhẹ nhàng và ngấm dần vào nhau từ lúc nào không hay. Mọi thứ chỉ bắt đầu từ cái nắm tay vô tình đỡ Nhã Phương cho khỏi ngã, rồi vô tình giữ thật chặt người đẹp trong tay suốt buổi ra mắt. Tình yêu cũng từ đó mà dần phát triển. Một khi hai miếng đất được nặn nhuyễn lại cùng nhau, việc tách họ ra khỏi thế giới tình yêu của hai người, có lẽ là điều bất khả.
 
Điều này cũng lý giải vì sao, dù Trường Giang, với sao Kim ở cung Song Tử, luôn tỏ ra đào hoa, hay tán tỉnh và buông lời ngọt ngào với các cô gái đẹp trên sóng truyền hình, nhưng Nhã Phương chưa từng lên tiếng ghen tuông hay tỏ ra nghi ngờ tình cảm của anh.

Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Về phía Nhã Phương, sự tái hợp với "người tình" Kang Tea Oh dù rất ngọt ngào, tràn đầy xúc cảm của Mặt Trăng Song Ngư, nhưng Trường Giang vẫn tin tưởng cô ở mọi mặt, và rất thông cảm cho người thương của mình.   Với Mặt Trời và sao Thủy trùng nhau cùng ở cung Kim Ngưu, Trường Giang và Nhã Phương vốn rất hợp nhau về tính cách, suy nghĩ và có thể chia sẻ được nhiều điều với nhau trong cuộc sống. Mặt Trăng của hai người tạo góc hòa hợp với nhau, càng khiến cặp đôi dễ thấu hiểu và đồng cảm về mặt cảm xúc trong tình yêu cũng như trong các lĩnh vực khác.
 
Sự hòa hợp đến khó tin này của cặp đôi Kim Ngưu là lí do vì sao tình cảm của hai người xuất hiện rất tự nhiên và nhanh chóng gắn bó, tạo cảm giác bền vững trong mắt công chúng cũng như giới truyền thông. Điều này cũng là minh chứng cho tình cảm thật lòng chứ không đơn giản là tạo "scandal" để PR phim như lời đồn.
Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Chuyện nhắc đến việc kết hôn sau một khoảng thời gian chưa dài yêu nhau với cặp đôi này cũng là điều dễ hiểu. Cả nét Kim Ngưu, Cự Giải, cũng như Song Ngư trong Trường Giang Nhã Phương đều thuộc những cung hoàng đạo luôn ưu tiên gia đình, sự ổn định và lâu dài trong chuyện tình cảm, cuộc sống. Chắc hẳn, chuyện cặp đôi này đến với nhau sẽ là sự kết hợp hoàn hảo trong "showbiz" nơi vốn nổi tiếng với nhiều chuyện tình cảm không bền vững.
 
Cặp đôi Trường Giang Nhã Phương ngọt ngào này có thể sẽ không mang lại nhiều tin tức nóng bỏng cho giới truyền thông cũng như các fan hâm mộ, nhưng chắc chắn sẽ mang đến cho các fan những hình ảnh giản dị, nhẹ nhàng của hạnh phúc bình dị, đáng trân quý.

ST.

Những chòm sao được quý nhân phù trợ trong 2 tháng cuối năm Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt Hoài Lâm - Chàng trai Cự Giải đa tài lại may mắn trong tình yêu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương

Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau:
Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


A – Các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?)

Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau:

Trong vật lý thiên văn, một Lỗ Trắng là một thiên thể giả định phóng ra vật chất, ngược lại với nó là một Lỗ Đen vốn hút mọi vật chất kể cả ánh sáng.

Tôi xin trình bầy từng bước quan điểm này như sau:
1 – Qua định luật vạn vật hấp dẫn cổ điển của Newton mà loài người đã biết đến sự tồn tại của hệ mặt trời bởi sự tương tác hấp dẫn của mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không thể tách rời nhau qua vài tỷ năm.
2 – Các mặt trời ở gần nhau đã tạo thành Thiên Hà (hay Ngân Hà khoảng 300 tỷ mặt trời). Vậy thì chắc chắn phải có một lực hấp dẫn nào đó đã giữ chúng tồn tại gần với nhau qua bao tỷ năm như vậy, nếu không thì chúng đã trôi nổi trong vũ trụ giống như nếu không có lực hấp dẫn giữa mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta thì hệ mặt trời của chúng ta đã không thể tồn tại tới ngày nay.
Qua sự giúp đỡ của các kính thiên văn hiện đại người ta dự đoán có vật thể bí ẩn đã hấp dẫn giữ các mặt trời lại để tạo thành Thiên Hà và vật thể bí ẩn này người ta gọi là Lỗ Đen. Từ đây chúng ta có thể suy ra trong mỗi trung tâm của mỗi Thiên Hà phải có một Lỗ Đen là một điều hợp lý.
3 – Giống như các Thiên Hà, tâm của mỗi siêu Thiên Hà cũng phải tồn tại một Lỗ Đen rất lớn để giữ các Thiên Hà không bị tản mát trong vũ trụ bao la.

Vậy thì các Lỗ Đen chỉ có một nhiệm vụ hút mọi vật, kể cả ánh sáng khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“. Nếu chỉ có các Lỗ Đen thì vũ trụ ngày nay chắc rằng chỉ còn là một mầu đen bởi vì tất cả mọi vật đều bị Lỗ Đen nuốt hết nếu chúng ta thừa nhận thời gian là vô tận.

Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta bắt buộc phải đưa ra khái niệm về Lỗ Trắng. Mặc dù người ta không thể nhìn thấy các Lỗ Đen mà chỉ dự đoán được sự tồn tại chúng qua lực tương tác của chúng với các vật xung quanh còn các Lỗ trắng thì người ta có thể nhìn thấy được chúng nhưng tại sao người ta lại chưa phát hiện được chúng trong vũ trụ?

Vậy thì Lỗ Đen và Lỗ Trắng là hai vật thể khác nhau hay không? Theo tôi chúng chỉ là một bởi vì chả có vật nào như Lỗ Đen cứ hút mãi và cũng chả có vật nào như Lỗ Trắng cứ phun mãi. Điều này có thể giải thích là khi một Lỗ Đen hút mãi tới một mức độ nào đó thì nó sẽ tới một giá trị tới hạn M và khi đó nó phải phun ra để trở về trạng thái (Lỗ Đen) bình thường của nó (các Lỗ Đen này được gọi là Lỗ Đen M). Các vật bị nó phun ra không thể bay theo chiều đó vào vũ trụ mãi được mà chúng chỉ bay tới một giới hạn nào đó thì chúng phải dừng lại bởi lực hấp dẫn của các Lỗ Đen M đã khống chế chúng (ngày nay người ta nhận thấy vũ trụ đang giãn nở ngày càng nhanh chứng tỏ tàn dư của Lỗ Trắng chưa kết thúc).

Lỗ Trắng và Lỗ Đen M của nó cũng như các vật thể bị Lỗ Đen M này khống chế đã tạo thành một Vũ Trụ Nhỏ (bởi vì ai mà biết được trong Vũ Trụ có bao nhiêu Lỗ Đen M?) tồn tại với thời gian vô tận.
Từ mô hình Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi đã suy luận rằng Thái Cực chỉ là một khái niệm để mô tả tại thời điểm khi mà Lỗ Đen M bắt đầu trở thành Lỗ Trắng. Còn Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Đông Phương của cái Vũ Trụ Nhỏ này, trong đó Âm và Dương là nói đến cặp phạm trù đối lập, theo cách hiểu đơn giản nhất.

B – Tiên đề Âm Dương

Người ta có thể ứng dụng các tiên đề Âm và Dương để giải thích các khái niệm cơ bản trong cái Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi tạm thời phân chúng thành 3 dạng : Đơn tính, lưỡng tính và vô tính.

1 - Đơn tính (có nghĩa là chỉ cần một trong 2 phạm trù đối lập của Âm và Dương có thể sinh sản được).
Đây chính là các trường hợp mà Âm và Dương đại diện cho các cặp phạm trù đối lập có thể chuyển hóa cho nhau mà trong thực tế người ta đã biến khối lượng thành năng lượng (bom nguyên tử) và năng lượng biến thành khối lượng theo đúng phương trình năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein:
E = mc² ( trong đó E là năng lượng , m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng).

Nếu ta quy ước gọi khối lượng (m) mang phạm trù Dương thì năng lượng (E) sẽ mang phạm trù Âm

Hiện giờ qua cỗ máy Large Hadron Collider (Máy gia tốc hạt lớn - gọi tắt là LHC) các nhà Vật Lý đang đi tìm “Hạt của Chúa” (tức một dạng “hạt” cụ thể mà các nhà Vật Lý gọi là hạt Higgs) đã đóng vai trò trong việc chuyển năng lượng thành khối lượng.

Ngay cả khái niệm bên phải và bên trái cũng có thể xếp vào loại này bởi vì nếu một người khi đi mãi về phía tay phải thì sau khi đi vòng quanh quanh trái đất, người đó dĩ nhiên sẽ tới bên trái của đối tượng làm mốc xuất phát lúc trước.

Tương tự như bên trên và bên dưới cũng có tính chất này nếu chúng ta thừa nhận mọi điểm trên mặt đất đều có một trục từ trường ảo như trục từ trường bắc nam của trái đất. Nếu như vậy thì bất kỳ vật nào đi lên phía trên mãi mãi rồi sẽ phải trở về mặt đất ở một điểm bên đối diện của trái đất và rồi nó nó đi theo trục của trái đất tại điểm đó sẽ đến bên dưới của đối tượng làm mốc mà từ đó nó đã bắt đầu đi lên phía trên.

Lỗ Đen và Lỗ Trắng cũng là một cặp phạm trù đối lập của Âm và Dương. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau, đó chính là cuộc đời của các Vũ Trụ Nhỏ đang tồn tại mà ngày nay chúng ta vẫn đang nhìn thấy bằng mắt thường.

2 – Lưỡng tính (có nghĩa là phải có sự kết hợp cả hai phạm trù đối lập của Âm và Dương mới sinh sản được).
Đây chính là các trường hợp Âm và Dương được áp dụng cho các cặp phạm trù đối lập không thể chuyển hóa được cho nhau mà chúng muốn tồn tại và phát triển phải có sự tác động của cả hai phạm trù đối lập này. Một trong các ví dụ hiển nhiên là con người hay động vật. Âm và Dương ở đây được đại diện cho giống đực và giống cái. Chính có sự tác động giữa hai đối tượng này mà con người và động vật mới có thể tồn tại tới ngày nay.

Âm và Dương còn có thể đại diện cho cả động vật và thực vật bởi vì phải có sự tác động của cả 2 đối tượng này thì chúng mới có thể cùng tồn tại và phát triển tới ngày nay (xem giải thích ở dưới).

3 - Vô tính (có nghĩa đây là các dạng phạm trù đối lập của Âm và Dương không có khả năng sinh sản) :

Đây là các trường hợp mà Âm và Dương không thể chuyển hóa và tác động được với nhau. Một trong các ví dụ này là các khái niệm như đen và trắng; tốt và xấu; ……

C – Tiên đề Ngũ Hành
Ngũ hành là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ và Kim. Chúng có các tính chất tương sinh như Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và rồi Thủy lại sinh cho Mộc… .Và tính chất tương khắc như Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy và rồi Thủy lại khắc Hỏa….. Người ta đã ứng dụng các tiên đề này để mô tả gần như mọi quy luật phát triển của thế giới tự nhiên đều tuân theo quy luật của một vòng tròn khép kín.

1 - Các ví dụ về quy luật của vòng tròn khép kín :
a - Chu kỳ Sinh Thành Lão Tử của con người và động thực vật (chúng đều được sinh ra, trưởng thành, suy yếu, chết rồi lại được đầu thai để sinh ra…).
b - Chu kỳ của động vật và thực vật (động vật ăn rau, hoa quả, thu O2 và thải ra phân, khí CO2 , còn thực vật thì ngược lại. Rõ ràng chúng đã tạo ra quy luật của một vòng tròn khép kín).
c - Chu kỳ của nước biển nóng do mặt trời chiếu đã bốc hơi lên cao, được gió thổi vào đất liền, khi tới độ cao đủ lạnh, hơi nước ngưng tụ thành nước rơi xuống chẩy thành các dòng sông ra biển và rồi chúng lại bốc hơi…..

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương

Trời đất 24 hướng - bạn có biết? (phần 1)

Để coi hướng đất trời một cách tốt và chuẩn xác nhất, người xưa chia 8 hướng cơ bản làm 3 hướng, tổng cộng có cả thảy 24 hướng. Trời đất 24 hướng bạn đã biết?
Trời đất 24 hướng - bạn có biết? (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông thường, ta chỉ biết 8 hướng (Bắc, Nam, Đông, Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam, Đông Nam). Thực ra đây chỉ là 8 hướng cơ bản. Để coi hướng đất trời một cách tốt nhất, chuẩn xác nhất, người xưa còn chia mỗi hướng cơ bản làm 3 hướng, tổng cộng có cả thảy 24 hướng.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online và xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác

Troi dat 24 huong - ban co biet (phan 1) hinh anh
 

Hướng Bắc – Nhâm


337°6 – 352°5. Hành Thủy. Khí trời đất rất mạnh. Là hướng quyền quý trong 24 hướng. Hợp với người có quyền thế và phẩm chất ưu tú. Lợi cho việc kinh doanh lớn và bôn ba hải ngoại. Có thể đóng góp tích cực cho công nghiệp quốc phòng, khoa học – nghệ thuật và thể dục thể thao quốc gia.
 

Hướng Bắc – Tý

352º6 – 7º5. Hành Thủy. Đối diện với hướng chính Nam thuộc Hỏa, được cả âm lẫn dương. Vì thế còn gọi là cung hướng tôn quý. Thuộc quẻ Khảm. Hợp với ngôi mở mang đất nước, khai sáng triều đại và người có ý tưởng lớn, tinh thần quyết đoán. 
 

Hướng Bắc – Quý

7º6 – 22º5. Hành Thủy, ghé hành Thổ (núi). Hợp với chủ nhân là con trai giữa (trung nam) và con gái út (quý nữ). Lợi cho việc quân, ích cho doanh nghiệp lớn. Khí trời đất tốt cho sinh nở, trai tài, gái sắc.


Hướng Đông Bắc – Sửu


22º6 – 37º5. Hành Thổ (núi). Thuộc Cấn. Hợp với cung hướng Tây Bắc thuộc Đoài và Kim âm, nên thuận cả dương lẫn âm và hợp nhân tình. Do vậy cũng hợp cả với chủ nhân là con gái út (quý nữ). Lợi cho các công ty kinh doanh khoáng sản, đá quý, lâm thổ sản, dược liệu.
 
Đồng tính chất với 3 địa chi Mùi, Thìn, Tuất (đều là Mộ cung), nên hướng này không những tốt cho xây dựng nhà xưởng, kho tàng mà còn có thể tôn tạo đình đền, lăng mộ, chùa tháp, tượng đài để lấy linh khí đất trời giúp cho sự phồn vinh của các thế hệ sau.
 

Hướng Đông Bắc – Cấn

37º6 – 52º5. Nằm ở giữa hướng Đông Bắc. Thuộc Cấn (thổ núi). Khí mạch dồi dào, trùng điệp. Cung thuộc Quỷ môn (cửa quỷ), cho nên sử dụng hướng này phải hết sức thận trọng. Lợi cho những người làm nghề tự do, nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà văn, người buôn bán các mặt hàng theo thời vụ. Hợp với chủ nhân là con trai giữa (trung nam) và tốt nhất là mệnh hành Thổ thì giàu sang.
 
Chú ý địa khí hướng này có thể tác động ảnh hưởng đến thận, dạ dày, tay, chân. Không nên đặt cửa ra vào hay nơi phóng uế (nhà vệ sinh, nhà tắm) trên hướng này, vì sẽ gây tổn hại sức khoẻ và thất thoát tiền của.
 

Hướng Đông Bắc – Dần

52º6 – 67º5. Hành Hỏa và Mộc. Ở vào hướng trục địa chi Dần – Thân, thiên khí cần phải được khí địa long kiềm chế bớt mới tốt cho con người. Đặc biệt ảnh hưởng đến não, thần kinh và tay chân gây nên bởi luồng thiên khí trong môi trường. Phần nhiều các tài liệu nhận định hướng này rất khó sử dụng cho việc xây dựng nhà cửa (dương trạch) và lăng mộ (âm trạch). 

 

Hướng Đông – Giáp

67º6 – 82º5. Hành Mộc. Quẻ Chấn, đại diện cho thuộc tính động, hướng ngoại và sự phát triển mạnh. Lựa chọn hướng này trong 24 hướng có thể đạt tới khả năng hoạt động lớn, liên quan đến những ý tưởng mới tốt đẹp như sự khởi đầu của không khí trong lành của mùa xuân. Rất hợp với chủ nhân cả nam và nữ sinh vào các năm 1952 (Nhâm Thìn), 1961 (Tân Sửu), 1970 (Canh Tuất), 1979 (Kỷ Mùi), 1988 (Mậu Thìn).
 

Hướng Đông – Mão

82º6 – 97º5. Nằm giữa Đông. Quẻ Chấn, đại diện cho quyền uy, danh vọng và cao sang. Tinh tú thuộc sao Mộc. Năng lượng đất trời thuộc hướng này mạnh, lành. Rất thích hợp với chủ nhân là trưởng nam. Nếu nữ thì hợp với những người sinh vào Can Giáp: 1944 (Giáp Thân), 1954 (Giáp Ngọ), 1964 (Giáp Thìn), 1974 (Giáp Dần), 1984 (Giáp Tý). Biểu tượng Rồng vàng. 
 
Chú ý, khí trời đất hướng này ảnh hưởng đến gan (can), chi dưới (chân) cho nên phải biết giữ gìn nguyên khí của con người, mà trước nhất là sự nhận thức của chủ nhân về mối liên hệ giữa các yếu tố của không gian môi trường nơi ở và làm việc với năng lượng sức khỏe và tinh thần của mình.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trời đất 24 hướng - bạn có biết? (phần 1)

Bé yêu của bạn có tên ở nhà không

Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Trước khi chọn tên khai sinh cho con, hãy chọn cho con tên ở nhà thật đáng yêu....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là mệnh, là vận mệnh của mỗi con người, tên gọi luôn gắn liền với mỗi người trong suốt cuộc đời. Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này. Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Trước khi chọn được tên khai sinh cho con, Bạn cũng có thể chọn cho con mình tên ở nhà thật đáng yêu nhé. Bạn có thể tham khảo. 

ten-o-nha

Tên ở nhà cho bé theo tên nước ngoài

Bé gái: Bella, Anna, Mina, Mimi, Lala, Nana, Moon, Suri, Chin, Cherry, Lavie, Sunny, Bo, Chip

Bé trai: Tom, Sonic, Bin, Bo, Bun, Shin, Ken, Rio, Sumo, Noel, Bobby

Tên ở nhà cho bé theo nhân vật hoạt hình, nhân vật trong phim:

Po: Chú gấu trúc mũm mĩm, dễ thương đam mê Kung Fu

Đô-rê-mon: Chú mèo máy thần kì ghiền ăn bánh rán, gắn bó với tuổi thơ nhiều thế hệ

Đô-rê-mi: Cô em gái dễ thương của Đô-rê-mon

Xuka: Cô bạn xinh xắn, học giỏi trong truyện Đô-rê-mon

Mickey: chú chuột ngộ nghĩnh

Minnie: cô chuột đỏm dáng, đáng yêu, bạn của Mickey

Pooh (đọc là “Pu”): chú gấu đáng yêu, thân ái, tốt bụng

Maruko: cô nhóc mái bằng xinh xắn, đáng yêu trong phim hoạt hình Nhật Maruko

Dumbo: Chú voi biết bay

Simba: Vua sư tử trong bộ phim cùng tên

Tên ở nhà cho bé theo các món ăn yêu thích của bố mẹ

Bún; Nem; Chả; Bánh; Kẹo; Chè; Thạch; Cà; Giò; Sushi; Bơ; Cốm; Kem; Xôi; Mứt; Bánh Gạo; Mỳ; Nui

Tên ở nhà cho bé theo các loại rau, củ, quả

Đậu; Cà; Bí; Súp Lơ; Cà Chua; Mận; Mơ; Mít; Chuối; Nho; Chôm Chôm; Su Hào; Cần Tây; Bắp Cải; Ổi; Me

Tên ở nhà cho bé theo động vật

Sò; Ngao; Sóc; Cò; Mèo; Tê Giác; Gấu; Thỏ; Gà; Vịt; Bò; Nghé; Bê; Nai; Hươu; Voi; Khỉ; Heo; Ỉn; Bống; Nhím; Chuột; Tép; Cá

Tên ở nhà cho bé theo tên người nổi tiếng

Bé trai: Tom, Brad, Beckham, Totti, Messi, Beto, Putin, Hugo

Bé gái: Angela, Boa, Victoria, Sue

Tên ở nhà cho bé theo ông bà ngày xưa hay đặt:

Tèo, Tít, Tí, Tũn, Tun, Bờm, Bông, Hĩm, Cò, Cún,...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bé yêu của bạn có tên ở nhà không

Các loại bùa hộ mệnh đơn giản mà hiệu quả

Bùa hộ mệnh là vật phòng thân phòng tránh ma quỷ, bùa hộ mệnh không hẳn là phải được “yểm” mới có tác dụng.
Các loại bùa hộ mệnh đơn giản mà hiệu quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Tự chúng ta cũng có thể làm bùa hộ mệnh cho mình, từ những thứ dễ tìm nhất mà hiệu quả mang lại cũng không thua kém gì bùa đã được “yểm".


=> Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc
  1. Chu sa: Đây là tên một vị thuốc bạn có thể mua ở hiệu thuốc Đông y, giá cũng không hề cao, tuy nhiên, giá cũng tỉ lệ thuận với chất lượng, giá càng cao thì chu sa càng tinh khiết. Chu sa có 2 loại, một loại dạng phấn bột và một loại dạng cát – chính loại cát này thường được dùng để làm bùa hộ mệnh. Dùng một chiếc túi nhỏ, bên trong có bỏ chu sa cùng 7 cây đăng tâm thảo phơi khô, 7 hạt đậu đen, tốt nhất nên để thêm vài câu chú Phật đại bi hoặc một ít gỗ đào thì thêm phần linh nghiệm. Mang túi này bên người thường xuyên làm vật hộ mệnh.
 
Cac loai bua ho menh don gian ma hieu qua hinh anh
Hoàng kim thạch

 
2. Hoàng kim thạch: Cũng là một vị thuốc Đông y giống như chu sa, được dùng làm vật hộ thân để tránh ma quỷ. Đây là một loại độc dược, rất khó mua được. Cách dùng cũng giống như chu sa.
 
3. Cây ngải cứu: Ngải cứu thường được dùng làm dược liệu châm cứu. Lá ngải cứu phơi khô rồi vò nát thành những sợi nhỏ. Nếu có việc phải ra đường lúc đêm khuya thì nên mang theo một chút ngải cứu khô này, mùi của nó sẽ có tác dụng xua tan tà khí. Bạn cũng có thể đốt một chút ngải cứu khô trong phòng để phòng trừ bệnh cảm cúm.

Cac loai bua ho menh don gian ma hieu qua hinh anh 2
Ngải cứu
 
4. Trầm hương: Loại bùa này thì không cần phải “yểm chú” nhưng giá thì cũng không rẻ chút nào. Chỉ cần lấy ra đốt là có thể xua tan mọi tà khi, tuy nhiên, nếu được “yểm chú” thì nó sẽ có hiệu quả cao hơn. Nếu đi ngoài đường về và cảm thấy khó chịu thì bạn cũng có thể vẩy một ít trầm hương trong phòng, miệng thì niệm Phật chú (chú đại bi), tinh thần sẽ thoải mái hơn rất nhiều.
 
5. Hồ lô: Trước kia người ta dùng quả bầu hồ lô bằng đồng, nhưng hiệu quả không cao bằng việc sử dụng quả bầu già. Bầu già liền cắt miệng quả rồi bỏ hết hạt ở trong ra. Tốt nhất là nên treo quả bầu này ở đầu giường, trên cửa, treo trên cửa sổ, nếu sau một thời gian, quả bầu hư hỏng thì có thể thay một quả bầu mới. Trên quả bầu có thể khắc phù chú nhưng tuyệt đối không nên khắc hình Phật, như vậy là thất lễ.

Cac loai bua ho menh don gian ma hieu qua hinh anh 3
Cây gừng
 
6. Củ gừng: Đây không chỉ là một loại gia vị trong ẩm thực mà còn là một loại dược phẩm có tác dụng gia tăng sức khỏe. Thời xưa, các vị đại phu thường dùng gừng để ra vào các khu vực có dịch bệnh khi không có khẩu trang chống độc, số người bị lây nhiễm bệnh là rất ít. Đây là một loại dược liệu có khả năng chống độc vô cùng tốt, ngay cả Khổng Tử cũng dùng rất nhiều.
 
Phương Thùy   4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống
Bốn quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống để thêm hành trang vững bước vào đời.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các loại bùa hộ mệnh đơn giản mà hiệu quả

24 lời dạy Phật giáo tạo dựng cuộc sống

Thông qua 24 lời dạy Phật giáo của Đức Đạt lai Lạt ma – lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng, ta sẽ càng hiểu và trân trọng hơn những giá trị của cuộc
24 lời dạy Phật giáo tạo dựng cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ bi và sâu sắc, thông qua 24 lời dạy Phật giáo của Đức Đạt lai Lạt ma – vị lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng, ta sẽ càng hiểu và trân trọng hơn những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

 
24 loi day Phat giao tao dung cuoc song hinh anh
 
1. Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn. Hạnh phúc đến từ hành động của chính ta.
 
2. Nếu có thể, hãy giúp người khác. Nếu không có thể thì ít nhất không nên hại ai.
 
3. Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.
 
4. Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là sự tử tế.
 
5. Hãy nhớ rằng khi không đạt được những gì bạn muốn, đôi lúc, lại là sự may mắn tuyệt vời.
 
6. Thẩm quyền tuyệt đối luôn dựa vào lý trí và sự phân tích nghiêm túc.
 
7. Chúng ta có thể sống thiếu tôn giáo và thiền định, nhưng chúng ta không thể tồn tại nếu không có tình người.
 
8. Chúng ta không bao giờ đạt được hòa bình trên thế giới, ngoại trừ chúng ta phải thực sự có hòa bình trong chính mình.
 
9. Hãy trở nên tử tế bất cứ khi nào có thể. Trên thực tế, ai cũng có thể trở nên tử tế.
 
10. Nếu bạn có sợ hãi về nỗi khổ niềm đau, bạn nên quan sát xem bạn có thể làm được gì với nó. Nếu bạn có thể, không có gì phải lo lắng về nó. Nếu bạn không thể làm được, lại càng không nên lo lắng về nó.
 
11. Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.
 
12. Tiềm năng con người vốn bằng nhau ở mỗi người. Cảm giác: “tôi không có giá trị” là sai lầm. Hoàn toàn sai lầm. Bạn đang lừa dối chính mình. Chúng ta có năng lực tư duy, do vậy, thử hỏi ta thiếu cái gì đây? Nếu ta có năng lực ý chí, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Bạn có thể nói rằng: “Bạn là chủ nhân của chính bạn”.
 
13. Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.
 
14. Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời, bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.
 
15. Khi con người còn sống, chúng ta phải nghĩ đến các thế hệ tương lai: Một môi trường sạch được xem là nhân quyền giống như bao quyền khác. Vì vậy, một phần trách nhiệm của chúng ta về người khác là đảm bảo rằng thế giới mà ta đang sống là khỏe mạnh, nếu không nói là khỏe mạnh hơn cái ta đã thấy.
 
16. Danh ngôn Tây Tạng có câu: “Bi kịch nên được sử dụng như nguồn sức mạnh”. Bất luận là khó khăn nào, kinh nghiệm đau khổ ra sao, nếu chúng ta đánh mất hy vọng thì đó là thảm họa đích thực.
 
17. Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là con người hay con vật, là để cống hiến, theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.
 
18. Cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó chứa đựng. Tương tự, người ngu không thể hiểu được trí tuệ của người khôn, dù cho có thân cận bậc thánh.
 
19. Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực ra là biểu hiện của sức mạnh.
 
20. Mỗi ngày, khi thức dậy, bạn hãy nghĩ rằng hôm nay tôi may mắn còn sống, tôi có cuộc sống con người quý giá, tôi sẽ không phí phạm cuộc sống này.
 
21. Hãy nhớ rằng im lặng, thỉnh thoảng, là câu trả lời tốt nhất.
 
22. Hạnh phúc đích thực có được từ sự biết hài lòng và hòa bình nội tại. Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi và sự diệt trừ vô minh, ích kỷ và tham lam.
 
23. Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì chúng chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều trị tâm. Khi tâm trở thành sự thực tập, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.
 
24. Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần tu viện; không cần triết học phức tạp. Bộ não và trái tim của chúng ta là chùa chiền của chúng ta; triết học là lòng tử tế.
 
Lời dạy Phật giáo của Đức Lạt ma bao chứa những giá trị của cả đạo và đời, vừa mang tinh thần Phật giáo, vừa là lời khuyên của một con người thấu hiểu nhân tình thế thái.
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Theo Lịch vạn sự


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 24 lời dạy Phật giáo tạo dựng cuộc sống

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Đại Thế Chí Bồ Tát - ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh

Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh.
Đại Thế Chí Bồ Tát - ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh bằng trí tuệ.

 

Mục Lục

  1. Danh xưng Đại Thế Chí Bồ Tát
  2. Sức mạnh của Đại Thế Chí Bồ Tát
  3. Hình tượng Đại Thế Chí Bồ Tát
  4. Ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát
  5. Đại nguyện của Đại Thế Chí Bồ Tát
  6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát

 

1. Danh xưng Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Dai The Chi Bo Tat - anh sang vo bien do hoa chung sinh hinh anh 2
 

Đại Thế Chí Bồ Tát là tên phiên phiên âm từ tiếng Phạn Mahastamaprapta, dịch ý là Đại Thế Chí hoặc Đại Tinh Tiến, gọi tắt là Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra còn những tên khác như Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Vô Biên Quang Bồ Tát. Mỗi cái tên, danh xưng đều có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với đạo hạnh và chức trách mà Ngài mang.

 

Cái tên Đại Thế Chí xuất phát từ việc Ngài dùng ánh sáng trí tuệ chiếp khắp muôn nơi để chúng sinh mười phương thoát khỏi đau khổ, đạt thành tựu Bồ Đề, có đạo hạnh chuyên tu. Đắc Đại Thế Bồ Tát có nghiêng về diễn tả đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, dùng hạnh nguyện của mình để điều phục và tiếp độ chúng sinh trong thế giới Ta bà.

 

Đại Tin Tấn hay Đại Tinh Tiến tức là vị Bồ Tát có sức tinh tiến vĩ đại, vô biên, càng ngày càng tiến lên để hóa giải mọi phiền não và giáo hóa chúng sinh, không mệt mỏi, không lùi bước, không ngại chướng khổ. Vô Biên Quang là vị Bồ Tát có ánh sáng vô biên, tỏa khắp pháp giới để chúng sinh hữu duyên thấy được ánh sáng quang minh tinh diệu vô lượng của Ngài khắp mười phương.

 

2. Sức mạnh của Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Quán Vô Lượng Thọ Kinh có ghi, Đại Thế Chí Bồ Tát lấy ánh sáng trí tuệ làm ngọn đèn soi đường cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi ác, đạt được sức mạnh vô biên, hướng tới thân tâm an lạc. Khi Ngài di chuyên, thập phương mười hướng như đang xảy ra một cơ địa chấn, trí tuệ quét sạch u mê nên có tên gọi Đại Thế Chí.

 

Ngài là một trong Tây Phương Tam Thánh, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát theo hầu Phật A Di Đà, một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ Tát. Đại Thế Chí bên phải, Quan Thế Âm bên trái, một bên đại diện cho tinh thần đại trí, một bên biểu thị cho tinh thần đại bi. Người tu hành muốn tu tập viên mãn, đạt thành tựu Phật giáo thì phải có cả hai yếu tố là tấm lòng và trí tuệ.

 

Từ bi bên trái, trí tuệ bên phải, trí tuệ dẫn đường cho từ bi để từ bi đi đúng hướng, từ bi thấm nhuần trí tuệ để trí tuệ không cứng nhắc, không trên đời mà giúp đời, cứu đời thoát khỏi u tối. Đó chính là ý nghĩa cao nhất, sự hòa hợp tốt đẹp nhất của Phật giáo. Là Phật tử, là những người hướng Phật nhất định phải hiểu được đạo lý này, đồng thời trang bị cho mình hai hạnh này, có như vậy thờ Phật mới chân chính, kính Phật mới chuyên tu.

 

Trí của Thế Chí Bồ tát là trí của ánh sáng và niềm tin, quyết tâm giáo hóa chúng sinh tránh khỏi đường mê lối lạc. Ngài là vị Bồ Tát Đẳng Giác hầu cận Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ giúp Phật hóa, tiếp dẫn chúng sinh mười phương thế giới, giáo hóa Thánh chúng tại Cực Lạc, chờ tới khi công quả viên mãn sẽ bổ xứ thành Phật.

 

Đây là vị Bồ Tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh khắp cõi, tuy đã thành Phật trong kiếp quá khứ nhưng kiếp này thừa nguyện tái lai vì lòng thương chúng sinh, hiện thân làm Bồ Tát ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, trợ duyên cho Phật A Di Đà giáo hóa và tiếp dẫn chúng sinh thoát khỏi bể khổ.

 

Bồ Tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết Bàn, tức là Quan Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai thì Đại Thế Chí sẽ thay Ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới Tây Phương, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai.

 

Đại hùng đại lực đại từ bi của Thế Chí Bồ Tát chính là tinh thần và trí tuệ cao nhất để Ngài hoàn thành nguyện cũng như trọng trách mà Phật đạo giao phó. Sức mạnh ấy thể hiện ở các phương diện dưới đây:

 

  • Đại hùng: sự mạnh mẽ, can trường dám xả thân rời xa những tham muốn hưởng lạc của thế gian. Điều này không những cần tiến tu mà còn phải có đại hùng, tu đạo Bồ Tát, kham những công hạnh, quyết dấn thân vào những việc khó khăn, quyết nhẫn nhục những điều vượt qua giới hạn bằng sức mạnh của tu tập.

 

  • Đại lực: Tuy đã thành Phật nhưng Ngài không an trụ tại cảnh giới Niết Bàn, tận hưởng pháp lạc mà tiếp tục hiện thân Bồ Tát Đẳng Giác để xả thân cứu độ chúng sinh, giáo hóa giác ngộ lầm than. Cái ác của chúng sinh có sâu dày đến đâu, ác nghiệp có cường thịnh đến đâu Thế Chí cũng không nản lòng, thệ nguyện vào những nơi tối tăm nhất, chốn ngọc nhằn nguy khó nhất để giác ngộ chúng sinh.

 

  • Đại bi: có đại bi mới làm tròn được hành nguyện giáo hóa khó nhọc đến vậy, từ bi cũng là gốc rễ ngọn nguồn của Phật giáo. Trí tuệ là đại hùng nhưng được dẫn dắt bởi đại bi, dùng trí tuệ quan sát căn tính của chúng sinh ngay cả khi mạt pháp nghiệp mỏng chướng dày nhất, kể cả khi căn lành nông cạn nhất để chúng sinh vượt khổ nạn, đạt thành tựu.

 

Trong kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật viên thông, khi Đức Phật Thích Ca hỏi về pháp môn tu hành, Đại Thế Chí Bồ Tát cho biết Ngài tu theo pháp môn niệm Phật. Nhân lành mà Ngài gặt hái được là dùng tâm niệm Phật, vô sinh pháp nhẫn, vì thế Ngài quyết dùng đại hùng đại lực đại bi mà mình có để tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sinh tịnh độ.

 

Khi niệm Phật, n hất định phải chuyên tâm, người lâm chung muốn vãng sinh thì độ niệm phải có tâm chuyên nhất. Nếu trong lòng tưởng nhớ đến Phật, thấy đường Phật hướng thì Phật cách không ca, không cần phương pháp tu nào khác mà thành được Phật. Nói cách khác, “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam ma địa, đó là bậc nhất”. Đây là điểu quan trọng nhất là người tu niệm Phật cần phải nhớ khi hành trì.

Theo phong thủy và tâm linh, Bồ Tát Đại Thế Chí là Phật bản mệnh của người tuổi Ngọ.

 

3. Hình tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Trong Tây Phương Tam Thánh, Thế Chí Bồ Tát đứng bên phải Đức Phật A Di Đà, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, hiện thân là hai cư sĩ có cách ăn mặc tương tự nhau. Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh, Quan Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.

 

Xem thêm bài viết Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng?

 

Dai The Chi Bo Tat - anh sang vo bien do hoa chung sinh hinh anh 2
 

Trên chóp mũ của Bồ Tát có hình ngôi chùa, đại diện cho trí tuệ. Thân tỏa ra màu vàng tím lấp lánh, soi chiếu thập phương để chúng sinh hữu duyên đều có thể tận mắt nhìn thấy ánh sáng của Phật pháp và tịnh diệu. Vì thế mà Bồ Tát Đại Thế Chí cũng được gọi là Bồ Tát Vô Lượng Quang.

 

Thiên quan của Ngài có 500 bảo hoa, trên mỗi bảo hoa có 500 bảo đài, mỗi bảo đài hiện lên quốc độ tịnh diệu của chư Phật thập phương. Tóc búi hình hoa sen đỏ, trên có bảo bình, trong bảo bình chứa ánh sáng trí tuệ - nguồn lực để độ hóa chúng sinh.

 

Cũng có hình tượng Bồ Tát Đại Thế Chí hiện thân là tướng người cư sỹ, nơi cổ có đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu với chúng sanh ra khỏi mê lầm tội lỗi.

 

Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai mà đức Đại Thế Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy biết bao công phu. Dùng trí của mình để độ kiếp lầm than, theo đúng tinh thần của Phật giáo.

 

Tại sao Bồ Tát lại hiện thân cư sĩ? Điều này cho thấy hạnh nguyện của Ngài gần gũi với chúng sinh, muốn chúng sinh nghe pháp, thấu hiểu pháp thì cần phải cảm thông cho chúng sinh. Chỉ khi gần gũi và trở thành bạn lành của chúng sinh thì mới có thể làm được điều này. Bồ Tát là vị cư sĩ giản dị, dễ dàng đi khắp nhân gian để tiếp xúc với mọi người.

 

Muốn cứu vớt chúng sanh về tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sanh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế tạp, hướng về tịnh độ.

 

4. Ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Ngày 13/7 âm lịch là ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát, tức ngày Bồ Tát đản sinh. Ngày này chúng Phật tử và những người hướng Phật cùng làm lễ kính ngưỡng công đức, hạnh nguyện của người. Không chỉ cúng dường, tụng niệm mà còn hướng về Phật pháp, học hỏi Phật pháp, noi gương Ngài ứng dụng vào đời sống để đạt tới lý tưởng tu hành của bản thân.

 

Ngoài ra, tích cực hành thiện, tổ chức phóng sinh, bố thí, gieo thêm căn lành, hạnh lành cho cuộc đời. Mỗi việc tốt là ngọn nguồn của một cây thiện, đâm ra trái ngọt quả lành mà con người cần phải nhân rộng, đẩy lùi xấu xa ác nghiệt, coi như hoàn thành ý nguyện của Bồ Tát Thế Chí.

 

Xem thêm bài viết Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật

 

5. Đại nguyện của Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Dưới đây là lời Bồ Tát Thế Chí nguyện hứa trước Đức Phật khi quyết đi theo con đường tiến tu, học đạo, hướng Phật và tu đạo Bồ Tát.

 

“Bạch Đức Thế Tôn! nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là:

 

Ba nghiệp thân

 

  1. Không sát hại chúng sanh

 

  1. Không trộm cắp của người

 

  1. Không tà dâm

 

Bốn nghiệp miệng
 

  1. Không nói láo xược

 

  1. Không nói thêu dệt

 

  1. Không nói hai lưỡi

 

  1. Không nói độc dữ thô tục

 

Và ba nghiệp ý

 

  1. Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục

 

  1. Không hờn giận oán cừu

 

  1. Không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu được một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai.

 

Tôi xin tiếp tục tu đạo Bồ Tát, làm việc Phật sự, khuyên bảo chúng sinh, mang lại lợi ích cho chúng sinh để mau chóng hoàn thành những hạnh nguyện tôi đã thề. Đến chừng nào Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà độ hóa chúng sinh”.

 

6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Dai The Chi Bo Tat - anh sang vo bien do hoa chung sinh hinh anh 2
 

Thế Chí Bồ Tát là vị Bồ Tát có trí tuệ và tinh thần từ bi, cứu độ chúng sinh vô biên, vô điều kiện, muốn gặp Phật phải có Phật trong tâm, muốn được Phật độ chứng phải thành tâm tụng niệm. Muốn thỉnh nguyện tới Ngài thì hướng về Phật pháp, chuyên tâm tu dưỡng và cúng dường, làm lễ công quả.

 

Thế gian còn lao khổ, Thế Chí còn miệt mài cứu độ chúng sinh tiến tới cõi Niết Bàn. Cách thỉnh nguyện tốt nhất, hiệu quả nhất chính là học tập đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, không chỉ giữ lập trường tu hành, trọn vẹn tinh thần hoằng pháp mà còn đẩy lui phiền não khổ sở. Chẳng những để bản thân giác ngộ mà còn giác ngộ những người xung quanh để cuộc sống ngày càng tốt đẹp, ngày càng an lạc.

 

Chăm làm việc thiện, thiện giả thiện báo, phóng sinh cứu độ, giữ tâm chân thành, bố thí hoạn nạn, đường tới thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát ở ngay phía trước.

 

Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật Văn Thù Bồ Tát - bậc Đại Trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh


Tâm Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại Thế Chí Bồ Tát - ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất. Mùa xuân đến mang theo tình yêu và cảm xúc dâng tràn. Hãy tham khảo bài viết sau đây bạn nhé
Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất. Mùa xuân đến mang theo tình yêu và cảm xúc dâng tràn. Xuân đến cho lòng người tràn ngập hạnh phúc, thêm tuổi mới thêm niềm vui mới.

Hãy tham khảo những vần thơ xuân hay nhất chứa đựng những câu nói hay về cuộc sống ngay sau đây bạn nhé!

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

BÀI THƠ: CHỜ XUÂN
Thơ: Trần Minh Đạo
Khoảnh khắc mùa xuân đã đến gần.
Mây bàng bạc vẫn ngủ lang thang.
Cỏ hoa lấp lửng rời đông tiết.
Chim én chưa về báo hiệu xuân.
Đất nước mang hình tia chớp lửa.
Đồng bào còn rạn dấu chia phân.
Từng cơn gió chướng đầy sinh khí.
Rạo rực nàng xuân đến thật gần.

—-

BÀI THƠ: SẮC ĐẸP MÙA XUÂN
Thơ: Dạ Thế Nhân
Xuân về tết trở lại rồi đây
Những đóa mai vàng đẹp ngất ngây
Cúc rạng tươi màu phô vẻ thắm
Đào xinh sắc rực tỏa hương đầy
Lan chờm bệ cửa khoe nụ biếc
Giữa lối hồng nhô đóa hoa gầy
Đó trạng nguyên kề bên vạn thọ
Giăng đầy khắp cả cõi trần ai.

BÀI THƠ: KHI NÀNG XUÂN ĐẾN
Thơ: Khởi Lê
Xuân về thắm đượm nét mi ai
Thục nữ đoan trang giẫm gót hài
Mắt biếc kiêu sa tình huyễn hoặc
Môi cười chớm nụ mộng liêu trai
Điểm tô luyến cúc vần thơ lạc
Thỏ thẻ bên đào khúc nhạc phai
Bướm gởi ong trao rào rạt ái
Nắng vàng ấm nhẹ lối thiên thai.
1001 bài thơ người Lính xa quê ngày Tết, xuân xa nhà

BÀI THƠ: GỌI XUÂN
Thơ: Tình Say
Xuân đã thẹn thùng trong áo mới
Mơn man hơi thở của đất trời
E ấp nụ mai vàng chớm nở
Ngại ngùng chi chưa đến Xuân ơi!

Ta đã chờ em trong nhớ thương
Đợi em treo lộc biếc xanh vườn
Xua đi giá lạnh Đông già cỗi
Ngàn hoa khoe sắc ngát thơm hương..

Chẳng thể chờ em thêm phút giây
Xuân ơi hãy đến ngay đêm nay
Cho ta thôi mỏi mòn trông ngóng
Khao khát tình xuân men đắm say.

BÀI THƠ: XUÂN VỀ
Thơ: Nguyen Huynh
Xuân về ước vọng thuở thời son
Diễm tuyệt đài trang dáng vẻ tròn
Ái mặn nồng trao tình nghĩa cỏn
Hương ngào ngạt tỏa sắc đời non
Hồi dương sức khỏe niềm vui chọn
Mãn kiếp lòng nhân bổn phận còn
Trả nợ gia đình nuôi dưỡng bón
Từ ân hiếu thảo mãi không mòn.

BÀI THƠ: RỰC RỠ XUÂN
Thơ: Cư-Nguyễn
MAI đào rực rỡ nắng vàng hong
Những chuyến thuyền hoa đợi nước ròng…
Náo nhiệt xuôi bờ vui vẻ đếm
Tưng bừng cập bãi nói cười đong
Người mua hỏi chọn vừa tâm ý
Kẻ bán hòa trao vẹn trí lòng
Tiếng gọi mời nhau rôm rả ngõ
Xuân ngời hạnh phúc thỏa chờ mong.

BÀI THƠ: CÓ PHẢI XUÂN VỀ
Thơ: Nguyễn Hồng Chinh
Xuân đã về có phải không anh?
Sao nghe đông lạnh rớt sau thềm
Bữa nay mây khoác màu vũ hội
Đỏ rực nụ đào trên áo em.
***
Xuân đã về rồi, có phải không?
Sao ta xao động nhạc tơ lòng
Ngước nhìn lên đỉnh trời xanh ngắt
Đàn én rập rờn bao ước mong
***
Xuân đã về ư? Về thật ư?
Chao ôi! năn ngói đến bây chừ
Anh đi biền biệt không lần ghé
Trên giàn thiên lý nắng tương tư
***
Xuân về rồi! Xuân đã về rồi!
Chúc mừng, nào cạn chén tri bôi
Chợt nghe bên cốc tràn hương sắc
Một cánh hoa dường sắp sửa rơi..

BÀI THƠ: XUÂN VỀ 2
Thơ: Phong Mai
Trên giàn lũ bướm lượn đùa chơi
Chắc bởi nàng Xuân đã gợi mời
Cúc ngỡ vươn mình khoe vẻ đẹp
Lan dường vẫn thẹn dấu mầu tươi
Thềm bên thiếu nữ thầm mong đợi
Ngõ cạnh chàng trai cứ ngẩn người
Nắng trải chan hoà chim rộn rã..
Sang mùa dựng tổ cũng tìm đôi./.

BÀI THƠ: XUÂN NGỜI
Thơ: Hương Lan
Lặng lẽ xuân về nắng thả chơi
Ngoài sân cánh nhạn vẫy chao mời
Bên thềm rẽ nhánh hoa vàng rực
Trước ngõ vươn cành nụ đỏ tươi
Chắc bởi tình anh chừng giã bạn
Thời nên nghĩa chị muốn bên người
Mưa phùn đổ nhẹ mây trời biến
Lũ yến theo bầy hẹn ủ đôi

BÀI THƠ: XUÂN ẤM
Thơ: Mộng Thu
Mùa xuân đã về trước ngõ
Nắng hồng lên hoa cỏ xanh tươi
Gió xuân nhẹ thổi khung trời
Mân mê nhành nụ bờ môi em cười

Tàn đông thật sự qua rồi
Chẳng còn giá lạnh tiết trời ấm lên
Xuân đã về! Xuân ở bên
Vòng tay ấm áp ta tìm lại nhau

Xuân ơi xuân có ngọt ngào?
Nhờ xuân rót mật nụ đào trổ hoa
Đón xuân vui thật chan hoà
Cùng nhau chúc phúc nhà nhà bình an.

BÀI THƠ: MÙA XUÂN TRONG EM
Thơ: Quý Phương
Em giấu xuân trong làn tóc
Thoảng bay theo gió nồng nàn
Làm cõi lòng ai ngây ngất
Quyện hương trời đất mênh mang

Em giấu xuân trong tà áo
Thướt tha trên phố chiều nay
Hoa xuân tình về nương náu
Trong tim ấp ủ bao ngày

Em giấu xuân trên môi thắm
Cười duyên tỏa nắng rạng ngời
Xuân về cho bao nắng ấm
Để em tôi cũng xinh tươi

Em giấu xuân trong mắt biếc
Ngẫn ngơ bao kẻ ngắm nhìn
Ngại ngần theo em từng bước
Nàng xuân trông thật là xinh

Em giấu tình trong tim nhỏ
Tặng anh nhịp đập yêu thương
Em đã buộc câu duyên nợ
Cùng anh đi đến cuối đường.

BÀI THƠ: SẮC ĐẸP MÙA XUÂN
Thơ: Dạ Thế Nhân
Xuân về tết trở lại rồi đây
Những đóa mai vàng đẹp ngất ngây
Cúc rạng tươi màu phô vẻ thắm
Đào xinh sắc rực tỏa hương đầy
Lan chờm bệ cửa khoe nụ biếc
Giữa lối hồng nhô đóa hoa gầy
Đó trạng nguyên kề bên vạn thọ
Giăng đầy khắp cả cõi trần ai
1001 bài thơ Đêm Giao Thừa, tâm trạng chờ đón năm mới

BÀI THƠ: TIẾNG XUÂN
Thơ: Khánh Mỹ Trần
Em có nghe xuân về xuân gọi nắng
Én chao vờn xua khoảng lặng trời cao
Hàng cây xanh gió quyện lá thì thào
Dường câu nói ước ao niềm hạnh phúc

Em có nghe xuân về xuân thúc giục
Sợi tơ tình vừa kịp lúc đan nhau
Đào mai ơi nụ duyên hãy hé màu
Mừng năm mới nở mau vườn diễm hạnh

Em nhớ không tối giao thừa viếng cảnh
Ngọn đèn soi lóng lánh hạt sương đêm
Chùa linh thiêng khói tỏa ngát hương mềm
Nhành lộc rước, bên thềm ta khấn nguyện

Cả trời xuân ngập tràn bầu khí quyển
Khúc xuân tình uyển chuyển tiếng du dương
Nàng xuân ơi em đẹp đến vô thường
Trong khoảnh khắc vấn vương hồn trỗi dậy.

BÀI THƠ: NÍU XUÂN
Thơ: Khánh Mỹ Trần
Thò tay níu lại, nhỏ xuân cười
Úi úi buông dùm… rách cụ ơi
Khổ cái già thêm đành trách phận
Buồn cho tuổi lớn chỉ than trời
Mai đào trước ngõ khoe màu thắm
Bưởi hạnh sau nhà rộ sắc tươi
Mỗi một ta ngồi hong ước tủi
Nhìn quanh chả thấy bóng ai vời.

BÀI THƠ: MỘT CHÚT MÙA XUÂN
Thơ: Sinh Hoàng
Một chút nắng vàng ươm trong gió
Một chút mùa xuân rồi đó em ơi!
Chút bâng khuâng xen lẫn bồi hồi
Anh thầm đợi xuân về ngang ngõ

Em đã hẹn mùa hoa Mai nở
Về bên anh rạng rỡ mùa xuân
Xuân này xuân nữa mấy lần xuân
Anh vẫn đợi, chút mùa xuân vẫn đợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế

Theo tử vi, phạm Thái Tuế là trường hợp tới năm bản mệnh sẽ gặp nhiều điều xấu, vận khí không thuận. Tuy nhiên, vẫn có phương pháp hóa giải phạm Thái Tuế.
Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tử vi, phạm Thái Tuế là trường hợp tới năm bản mệnh, thường được coi là gặp nhiều điều xấu, không may mắn, vận khí không thuận. Tuy nhiên, vẫn có phương pháp hóa giải phạm Thái Tuế, nên đừng quá lo lắng nhé.


Phuong phap hoa giai cho nguoi pham Thai Tue hinh anh
 
Phạm Thái Tuế là khái niệm tử vi ám chỉ năm bản mệnh của một người. Ví dụ như năm 2016 Bính Thân thì người tuổi Thân phạm Thái Tuế. Giải thích cho điều này, tử vi lý giải sao Mộc xưng là Tuế tinh, vận hành theo chu kì 12 năm một lần theo Thái Dương nên khi đi qua năm nào thì người cầm tinh tuổi đó phạm Thái Tuế. Như vậy, Thái Tuế chính là vị trí của sao Mộc   Người phạm Thái Tuế có vận mệnh không tốt lắm nhưng vấn đề nào cũng có hai mặt, dẫu hung cũng có cách hóa giải. Dưới đây là phương pháp hóa giải phạm Thái Tuế   Năm Tý: Thái Tuế ở phương Bắc    Năm Sửu: Thái Tuế ở Đông Bắc    Năm Dần: Thái Tuế ở Đông Bắc    Năm Mão: Thái Tuế ở Đông    Năm Thìn: Thái Tuế ở Đông Nam    Bát tự phạm Thái Tuế năm 2016 mang họa vào thân 4 con giáp phạm Thái Tuế năm 2016 Thần sát trọng yếu trong phong thủy nhà ở
Năm Tỵ: Thái Tuế ở Đông Nam 
  Năm Ngọ: Thái Tuế ở Nam    Năm Mùi: Thái Tuế ở Tây Nam    Năm Thân: Thái Tuế ở Tây Nam    Năm Dậu: Thái Tuế ở Tây    Năm Tuất: Thái Tuế ở Tây Bắc    Năm Hợi: Thái Tuế ở Tây Bắc 

Phuong phap hoa giai cho nguoi pham Thai Tue hinh anh
 
Hàng năm, ở phương vị Thái Tuế, nên lợi dụng để hóa giải sát khí của Thái Tuế. Ví dụ, năm 2016 là năm Thân, phương vị Thái Tuế ở Tây Nam, nên đặt phòng ngủ, phòng làm việc, bàn làm việc theo hướng này để nghênh đón cát khí, hóa giải sát khí. Khi đi công tác, kí hợp đồng, đầu tư, buôn bán, kinh doanh liên quan tới công việc cũng nên xuất hành về hướng này để tăng may, cơ hội thành công được nâng cao. 

► ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác

Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thân Hướng dẫn 5 bước cơ bản để tự xem bát tự luận số mệnh Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế

Tại sao có nhiều chuyện phải lo nghĩ?

Bộ vị Ấn đường gồm 10 bộ vị bộ phận, Nếu ở bộ vị Ấn đường xuất hiện 3 đường vân kéo dài thẳng xuống như hình chữ xuyên thì Bạn có nhiều chuyện phải lo nghĩ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ vị Ấn đường trên khuôn mặt được gọi là Tử khí tinh, vị trí của nó nằm giữa 2 lông mày trên mặt. Xét thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Ấn đường, Giao tỏa, Tả nhật, Tâm thất, Lâm trung, Tửu tôn, Tinh xá, Tần môn, Kiếp lộ, Cảng lộ, Thanh lộ. Nếu ở bộ vị Ấn đường xuất hiện 3 đường vân kéo dài thẳng xuống như hình chữ xuyên thì Bạn có nhiều chuyện phải lo nghĩ.

bo-vi-an-duong

Các bộ vị bộ phận thuộc bộ vị Ấn đường

Giao tỏa, là vị trí nắm giữ hình phạt, nhập ngục.

Nếu vị trí này bằng đầy, tư nhuận và có sắc sáng thì cả đời không gặp họa lao tù. Nếu bộ vị này thường xuyên không sáng bóng thì có nhiều chuyện buồn, nếu có khiếm khuyết thì có thề sẽ phải bỏ mạng trong lao ngục.

Tâm thất, chủ nữ công gia chánh.

Nếu vị trí này bằng đầy, sáng nhuận thì có lợi cho chăn nuôi; nếu có khiếm khuyết thì sẽ mất đất đai; nếu màu sắc không tốt thì người vợ có tính đố kỵ, không lương thiện.

Lâm trung, chủ việc tiên đạo.

Xương thịt nhô lên sáng nhuận thì tu dưỡng đạo đức cao, ngắn hoặc có khiếm khuyết thì có thể sẽ gặp tai họa.

Tinh xá, chủ hòa thượng, đạo sĩ.

Người mà vị trí này bằng đầy, tư nhuận và sáng thì về phương diện Phật học có thành tựu nhất định, có khiếm khuyết mà màu sắc không tốt thì không thể nghiên cứu Phật học.

Tần môn, chủ vị trí của tần phi trong cung.

Vị trí này mà tròn đầy nhuận sắc thì người vợ may mắn, nếu có khiếm khuyết thì người vợ gặp tai ách. 

Kiếp lộ, chủ vị trí của trộm cướp.

Xương nhô lên, tròn đầy và có màu sắc tốt thì không may khi bị trộm cắp, có nốt ruồi đen thì sẽ bị cướp, màu sắc hung ác thì sẽ bị trộm.

Thanh lộ, chủ việc xuất ngoại.

Nếu sắc trong sáng nhuận trạch thì xuất nhập bình an, màu sắc không tốt thì không nên xuất ngoại, nếu không thì sẽ có tai họa.

Cảng lộ, chủ việc xuất ngoại vì công việc.

Người mà bộ phận này có khí sắc tốt, ngay ngắn thì đi xa sẽ có phúc lộc; còn có màu không tốt thì đi xa sẽ gặp chuyện không may mắn.

Tướng Ấn đường: Cao rộng đoan chính là tốt

Một người có Ấn đường rộng bằng ngay ngắn, 2 lông mày thư thái, cánh mũi trái và cánh mũi phải cùng hướng về như thế là tướng quý hiển.

Nếu một người có Ấn đường nhỏ mà nghiêng lệch, đầu lông mày lại có sự giao thoa với nhau mà chưa nhập vào với tóc mai, chủ về gia tài bị phá tán, học vấn không thành công mà cả đời chịu cảnh cô quả, bần tiện.

Nếu giữa Ấn đường mà có xương nổi cao là tướng phú quý; nếu Ấn đường nhỏ nhọn, hẹp, người đó bần tiện, nghèo khó.

Nếu như ở vị trí Ấn đường 2 lông mày có sự giao thoa, người đó cả đời không được quý hiển, không gặp được quý nhân. Ví như trong Ấn đường xuất hiện 3 đường vân, kéo dài thẳng xuống như hình chữ “xuyên”, chủ người có nhiều chuyện phải lo nghĩ.

Sách xưa chép rằng: Ấn đường còn được gọi là Tử khí tinh, 2 đầu lông mày khoan hòa bằng ngay ngắn, nổi cao rõ ràng không có sự hỗn tạp, đó là tướng tốt. Người này không chỉ giữ gìn được tổ nghiệp mà còn có thể làm cho sự nghiệp rạng rỡ thêm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao có nhiều chuyện phải lo nghĩ?

Những vết sẹo trên mặt báo hiệu vận đen

Trong nhân tướng học, những vết sẹo trên mặt đều ám chỉ những vận số không tốt. Xem tướng sẹo đoán biết vận đen của bạn.
Những vết sẹo trên mặt báo hiệu vận đen

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong nhân tướng học, mũi được coi là chủ về tài vận và tình cảm vợ chồng, mũi có sẹo thì hay gặp rủi ro, lậu tài, đồng thời chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở, thường gặp phải người không nên yêu, tự đẩy mình vào hoàn cảnh khổ cực. 

Nhung vet seo tren mat bao hieu van den hinh anh
Ảnh minh họa

1.Cằm có sẹo

Người có sẹo ở cằm thì trong cuộc sống hay gặp tiểu nhân hoặc bị bạn bè bán đứng, nhất là người có sẹo lõm thì hay bị bạn bè làm liên lụy hoặc gây phiền toái, nếu cằm tròn đầy thì đỡ hơn chút ít.   Người có sẹo ở cằm khi về già thì vận trình đầy biến động. Đặc biệt là cằm nhọn mà không đầy thịt thì cuối đời sống trong cảnh đơn côi.   2. Trán có sẹo
 
Tuổi trẻ gặp nhiều bất lợi, sự nghiệp lên xuống thất thường. Người này tính cách có chút cực đoan, có nhiều hành động thường gây bất lợi cho người khác, nếu thêm khuôn mặt có vẻ dữ tính thì càng phải cẩn thận, nếu không may đắc tội thì sẽ không được yên thân. Phương pháp hóa giải: hàng ngày rèn luyện tố chất của mình, học cách giữ hòa khí và tránh tranh chấp với người khác.   3. Xung quanh mắt có sẹo   Mí mắt, bọng mắt hay đuôi mắt có sẹo thì ám chỉ mối quan hệ cùng người nhà không được tốt. Mí mắt có sẹo thì không thích ở nhà, dễ phát sinh mâu thuẫn cùng người nhà. Dưới mắt có sẹo thì chuyện con cái gặp nhiều khó khăn nhưng không phải là không có. Đuôi mắt có sẹo thì tình cảm thất thường, dễ xảy ra bất hòa.

Nhung vet seo tren mat bao hieu van den hinh anh
Ảnh minh họa

4. Mũi có sẹo
 
Trong nhân tướng học, mũi được coi là chủ về tài vận và tình cảm vợ chồng, mũi có sẹo thì hay gặp rủi ro, lậu tài, đồng thời chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở, thường gặp phải người không nên yêu, tự đẩy mình vào hoàn cảnh khổ cực. Bởi vậy những người này cần có thời gian để nhận thức và đánh giá con người, phải quan sát đối phương trong thời gian dài, phải xác định đối phương là người hiền lành tử tế hay độc ác nham hiểu, sau đó mới kết giao, tránh để đầu óc bị mê muội vì những lời đường mật.   5. Miệng có sẹo
 
Môi trên chủ về tình, môi dưới chủ về ham muốn tình dục. Môi trên có sẹo thì chuyện tình cảm khúc chiết, trong cuộc đời nhất định sẽ bị bỏ rơi một lần. Môi dưới có sẹo thì sinh lý yếu, ảnh hưởng tới đời sống vợ chồng hoặc quá trình sinh sản, cách tốt nhất là nên phẫu thuật thẩm mỹ.   Vết sẹo không phải từ khi sinh ra đã có mà do quá trình sinh hoạt hàng ngày bất cẩn mà tạo nên. Chỉ cần chú ý hơn, cẩn thận hơn một chút khi làm việc, đi đứng thì sẽ không có sẹo. Nếu không cẩn thận để bị sẹo thì cũng không nên quá đau buồn, có thể sử dụng các phương pháp hóa giải như phẫu thuật thẩm mỹ làm mờ sẹo. Hãy nhớ rằng: Vận mệnh nằm trong tay mình, nhân định thắng thiên.
► Xem nốt ruồi trên mặt đoán tính cách chuẩn xác

Phương Thùy
Mũi hếch, răng hô trọn đời mạt vận Quan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bại Người có tướng mặt thế nào hay gặp chuyện thị phi? Đàn ông nên thận trọng với 5 mẫu bạn gái có tướng mặt thâm hiểm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vết sẹo trên mặt báo hiệu vận đen

Chọn nhẫn đính hôn đúng phong thủy nhất –

Đối với hôn nhân, việc lựa chọn chiếc nhẫn đính hôn là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, ngoài tính thẩm mỹ, bạn nên cân nhắc về mặt phong thủy. Hỏi: Có quan niệm cho rằng nhẫn đính hôn kim cương có ba viên là không tốt về mặt phong thủy, có người gọi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với hôn nhân, việc lựa chọn chiếc nhẫn đính hôn là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, ngoài tính thẩm mỹ, bạn nên cân nhắc về mặt phong thủy.

Hỏi: Có quan niệm cho rằng nhẫn đính hôn kim cương có ba viên là không tốt về mặt phong thủy, có người gọi nó là nhẫn kỷ niệm. Trong khi đó, nhẫn đính hôn truyền thống có một viên kim cương chính, có thể có thêm các viên kim cương nhỏ hơn bên cạnh lại rất hợp phong thủy. Ngoài ra, việc chọn mua nhẫn đính hôn có thiết kế lồng vào nhau được khuyên là không nên. Xin hỏi những quan niệm này có đúng hay không?

nhan-dinh-hon

Trả lời:

Phong thủy đồ trang sức là một chủ đề phổ biến bởi vì khi được lựa chọn một cách chính xác, nó sẽ là trở thành người bảo vệ mạnh vẽ và tiếp thêm sinh lực cho năng lượng cá nhân của bạn.

Về cơ bản, các tiêu chuẩn phong thủy trang sức tốt hay xấu đều dựa trên năng lượng được tạo ra bởi những viên kim cương và các tinh thể, đá quý khác nhau trong từng bối cảnh cụ thể. Vì vậy, câu hỏi về thiết kế chiếc nhẫn đính hôn có ba viên kim cương là rất thú vị!

Nếu bạn nhìn vào lịch sử của chiếc nhẫn đính hôn sẽ thấy rằng đã có rất nhiều loại đá quý và thiết kế khác nhau được sử dụng, không chỉ riêng mình kim cương. Hầu hết đều chứa đựng ý nghĩa sâu xa và ngôn ngữ phức tạp riêng. Đá Saphia (còn gọi là Ngọc bích) được sử dụng vì hàm nghĩa lòng trung thành và sự tận tâm; đá Hồng Ngọc tượng trưng cho năng lượng của sự đam mê và đá Ngọc lục bảo có ý nghĩa là sức sống và sự may mắn.

Thực tế, kim cương được coi là “ông hoàng đá quý” vì nó là loài đá quý tự nhiên cứng và sáng nhất. Kim cương có đặc tính bảo vệ và tác dụng chữa bệnh mạnh mẽ. Do đó, nó là biểu tượng hoàn hảo để thể hiện tình yêu vĩnh cửu. Năng lượng của nó được đánh giá là kết tinh của sự thủy chung và lòng tin vào một mối quan hệ trọn vẹn.

Chiếc nhẫn truyền thống có một viên kim cương được xem là lý tưởng nhất theo phong thủy vì nó hàm nghĩa “một” và “duy nhất”. Bên cạnh đó, năng lượng chứa đựng trong một viên kim cương lớn sẽ dồi dào hơn ba viên nhỏ.

Nhẫn đính hôn gồm một viên kim cương lớn, có thể có thêm những viên nhỏ bên cạnh cũng rất tốt về mặt phong thủy. Nó biểu tượng cho cặp đôi luôn bên nhau gắn bó hạnh phúc. Trong khi đó, số 3 mang hàm nghĩa bất lợi cho tình yêu và hôn nhân.

Lưu ý khi chọn mua nhẫn đính hôn

Chọn mua nhẫn đính hôn là việc rất quan trọng. Nếu bạn chưa có kinh nghiệm và băn khoăn không biết làm thế nào để tìm thấy chiếc nhẫn hoàn hảo thì hãy tham khảo một số lời khuyên tuyệt vời sau đây:

– Xác định mức ngân sách tối đa bạn có thể chi trả cho chiếc nhẫn. Các nhân viên bán hàng thường làm cho bạn nghĩ rằng tình yêu của bạn quan trọng và phải đặt nó trên tất cả, bao gồm cả chiếc nhẫn. Vì thế, tốt hơn hết, bạn cần tự đặt ra cho mình một mục tiêu rõ ràng trước khi bước chân vào tiệm trang sức. Đẹp, phù hợp thôi chưa đủ, chiếc nhẫn còn phải vừa với túi tiền của bạn.

– Chọn nhẫn bạch kim hay vàng? Hiện đại hay truyền thống? Cầu kỳ hay đơn giản?… sẽ là những băn khoăn khiến bạn mệt mỏi. Việc chọn mua chiếc nhẫn sẽ dễ dàng hơn nếu bạn biết trước mình, có thể cả “người ấy” thích gì. Và nếu nó đơn giản thì bạn hãy tìm một chiếc nhẫn đơn giản miễn sao hợp túi tiền và làm cho người yêu bạn vui là được.

– Chọn một loại đá trang sức trong cửa hàng đã được thợ kim hoàn thiết kế sẳn theo kiểu mà bạn thích, nếu điều kiện tốt hơn bạn có thể chọn kim cương.

– Bạn có thể đặt cửa hàng thiết kế theo ý bạn. Thêm hay bớt vài viên đá chẳng hạn, chạm lộng lẫy hoặc thêm các chi tiết khác. Bạn có thể chọn màu vàng, trắng hoặc vàng, bạch kim, hoặc thậm chí titan .

– Tối đa hóa ngân sách của bạn nếu dự định của bạn là muốn mua nhẫn kim cương lớn, bạn sẽ phải cân đối lại ngân sách. Yêu cầu một viên với diện tích bề mặt lớn hơn nó sẽ không lấp lánh nhiều nhưng nó sẽ trông lớn hơn và sẽ tốn số tiền lớn. Thay vì mua một chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương, hãy tìm hiểu thêm một loại đá quý khác ít tốn kém (như thạch anh, topaz xanh, saphia) hai bên là hai viên kim cương nhỏ. Chọn bạc thay vì bạch kim cũng tốt.

– Nếu bạn muốn đi mua nhẫn thì đừng đi một mình vào cửa hàng trang sức. Vì đi một mình bạn sẽ không biết  lựa chọn thế nào vì có quá nhiều sự lựa chọn. Nếu có thể, bạn nên rủ người yêu, bạn thân hoặc mẹ của bạn đi cùng để giúp bạn lựa chọn. Như vậy bạn sẽ nhận được sự góp ý để chọn cho mình chiếc nhẫn ưng ý hơn.

– Nếu bạn suy nghĩ việc đưa người yêu đi mua sẽ mất đi yếu tố bất ngờ, thì bạn phải chắc chắn rằng cô ấy thích chiếc nhẫn đính hôn của mình tự mua. Ngày càng có nhiều cặp vợ chồng đang làm theo cách này.

– Hãy tìm hiểu thương hiệu có uy tín thông qua bạn bè và gia đình. Trước khi bạn mua, tìm hiểu những chính sách hoàn trả hoặc trao đổi dễ dàng với nhiều lý do khác.

– Và cuối cùng bạn không quên lấy giấy chứng nhận về viên kim cương hay giấy bảo hành về chiếc nhẫn đính hôn. Như giấy kiểm định GIA, màu sắc, cắt rõ ràng và carat cũng như hình dạng kích cỡ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn nhẫn đính hôn đúng phong thủy nhất –

Bảng xem giờ tốt

Thời xưa, cũng như ngày tốt, việc chọn giờ tốt (giờ hoàng đạo) rất được coi trọng.
Bảng xem giờ tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bảng dưới đây cho biết về giờ tốt của từng ngày theo lịch can chi.

Ngày Giờ Tý Giờ Sửu Giờ Dần Giờ Mão Giờ Thìn Giờ Tỵ Giờ Ngọ Giờ Mùi Giờ Thân Giờ Dậu Giờ Tuất Giờ Hợi
Dần, Thân tốt tốt xấu xấu tốt tốt xấu tốt xấu xấu tốt xấu
Mão, Dậu tốt xấu tốt tốt xấu xấu tốt tốt xấu tốt xấu xấu
Thìn, Tuất xấu xấu tốt xấu tốt tốt xấu xấu tốt tốt xấu tốt
Tỵ, Hợi xấu tốt xấu xấu tốt xấu tốt tốt xấu xấu tốt tốt
Tý, Ngọ tốt tốt xấu tốt xấu xấu tốt xấu tốt tốt xấu xấu
Sửu, Mùi xấu xấu tốt tốt xấu tốt xấu xấu tốt xấu tốt tốt

Theo Bàn về lịch vạn niên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng xem giờ tốt

Những ngày tốt cho các việc động thổ, sửa chữa nhà cửa, làm nhà, cất nóc, cưới gả –

Tháng Ngày tốt Tháng Ngày tốt Tháng Giêng Các ngày Tý Tháng Bảy Các ngày Ngọ Tháng Hai Các ngày Sửu Tháng Tám Các ngày Mùi Tháng Ba Các ngày Dần Tháng Chín Các ngày Thân Tháng Tư Các ngày Mão Tháng Mười Các ngày Dậu Tháng Năm Các ngày Thìn Tháng Mườ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem-ngay-gio-tot-gio-xung-khac-de-dam-cuoi1

Tháng

Ngày tốt

Tháng

Ngày tốt

Tháng Giêng

Các ngày Tý

Tháng Bảy

Các ngày Ngọ

Tháng Hai

Các ngày Sửu

Tháng Tám

Các ngày Mùi

Tháng Ba

Các ngày Dần

Tháng Chín

Các ngày Thân

Tháng Tư

Các ngày Mão

Tháng Mười

Các ngày Dậu

Tháng Năm

Các ngày Thìn

Tháng Mười một

Các ngày Tuất

Tháng Sáu

Các ngày Tị

Tháng Chạp

Các ngày Hợi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ngày tốt cho các việc động thổ, sửa chữa nhà cửa, làm nhà, cất nóc, cưới gả –

Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Nếu Thìn và Dậu sống chung trong một nhà, ngôi nhà của họ sẽ rất gọn gàng và có nhiều điều thú vị. Thìn và Dậu dường như đối lập nhau về bản chất. Trong khi Thìn mạnh mẽ và sôi động, có lúc bốc đồng thì Dậu rất thực tế và thậm chí bảo thủ; trong khi
Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tình duyên tháng đầu năm của 12 con giáp

Trong những ngày đầu năm mới, người tuổi Sửu lo lắng nhiều về hôn nhân còn người tuổi Mão lại gặp trục trặc khó giải quyết.
Tình duyên tháng đầu năm của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý

Bước vào tháng 1 này, tình cảm của tuổi Tý đã không còn những đau khổ như trước đây nữa. Hai bên cơ bản đã có thể tìm ra điểm tương đồng của đối phương, có vấn đề xảy ra thì đều có thể trực tiếp nói chuyện, giải quyết luôn được.

Mặc dù mối quan hệ thân thiết này có lúc thì rất nồng nhiệt, lúc thì lạnh nhạt nhưng cả hai cũng không thấy thất vọng. Những bạn còn độc thân thì tháng này vẫn cứ nên để tâm tư vào công việc là tốt nhất.

Tuổi Sửu

Năm nay tuổi Sửu đang có suy nghĩ cho cuộc sống hôn nhân gia đình, nhất là thời điểm đang vào ‘mùa cưới’ như hiện tại. Do công việc khá bận rộn nên tuổi Sửu có nguyện vọng tìm một nửa còn lại để chăm sóc cho mình.

Hôn nhân sẽ khiến tuổi Sửu thấy yên tâm hơn, nhưng những bạn còn đang độc thân thì lại không được thuận lợi như vậy.

Lòng can đảm có thừa nhưng nhiều vấn đề không phải cứ cố gẳng thì có thể giải quyết được, điều chỉnh lại tiêu chuẩn mà mình đặt ra là điều quan trọng nhất lúc này nhé.

Tình duyên của 12 con giáp đầu năm

Cơ hội ‘thoát khỏi kiếp độc thân’ của tuổi Thìn tháng này khá lớn (Ảnh minh họa)

Tuổi Dần

Bước vào thời điểm khai xuân này, sự theo đuổi của tuổi Dần với đối phương khá mãnh liệt, họ sẽ tận dụng mọi chiêu thức xã giao để tiếp cận đối phương. Nhưng ngược lại, điều này lại khiến đối phương cảm thấy tuổi Dần quá vội vàng, kết quả sẽ không được như mong đợi.

Kiến nghị tuổi Dần nên ‘thả lỏng’ để đối phương có cơ hội lựa chọn. Đồng thời tuổi Dần đã có gia đình thì tháng này là tháng có tư tưởng vui chơi khá lớn, nhưng bất luận thế nào thì cũng không nên về nhà quá muộn nhé!

Tuổi Mão

Tình cảm tháng này của tuổi Mão có chút trục trặc do bản thân không có đủ can đảm để đối mặt với những vấn đề mà từ trước đến nay chưa hề gặp phải. Ví như tình cảm với người cùng giới, tình cảm với đồng nghiệp, tình yêu kiểu chị – em… tất cả đều làm tuổi Mão cảm thấy khó chấp nhận. Có thể cần thêm thời gian để trải nghiệm và hiểu hơn về các mối quan hệ đó.

Những bạn đã có gia đình thì nhất định không nên tạo áp lực cho đối phương, biết được bí mật của đối phương cũng nên giữ im lặng mới mong duy trì được tình cảm.

Tuổi Thìn

Cơ hội ‘thoát khỏi kiếp độc thân’ của tuổi Thìn tháng này khá lớn, và cũng rất có hi vọng cho một mối tình đẹp. Dám dũng cảm nếm trải những cung bậc, loại tình cảm khác nhau thì cho dù là bị tổn thương thì tuổi Thìn cũng không cảm thấy quá đau khổ.

Những bạn đã có gia đình thì phải đối mặt với việc làm sao để hài hòa với mọi người trong nhà chồng/ nhà vợ, hay những thị phi, đàm tiếu của xã hội. Bạn nên nhớ đây là giai đoạn ảnh hưởng nhiều đến tình cảm của hai bên đấy. Và cũng cần chú ý đến cả mối quan hệ ruột thịt, mẹ chồng – nàng dâu nữa nhé.

Tuổi Tỵ

Trải nghiệm tình yêu của tuổi Tỵ tháng này khác hẳn so với các tháng trước, có thể bạn sẽ lại yêu người mà bạn nghĩ chắc-chắn-không-bao-giờ-yêu. Bạn cũng có rất nhiều cơ hội để ‘dọn dẹp’ tất cả mớ hỗn độn trong đời sống tình cảm của mình để có cái nhìn trong sáng và mới mẻ hơn về mọi thứ tình cảm xung quanh. Tuổi Tỵ cũng hiểu rõ hơn, sâu hơn về những gì mà mình thực sự muốn theo đuổi.

Với những bạn đã có gia đình thì tháng này hãy dành cho nhau một chuyến du lịch để hưởng thụ cảm giác hạnh phúc của tình yêu đã đơm hoa kết trái nhé.

Tuổi Ngọ

Tư tưởng đi du lịch của tuổi Ngọ tháng đầu năm này không tồi chút nào, chịu khó ra ngoài đi dạo biết đâu bạn lại gặp được mối lương duyên đấy. Những bạn đã có gia đình thì những ham muốn dục vọng có phần nhiều hơn, nhất là những bạn nam tuổi Ngọ thì càng không nên đến những nơi đèn hoa mờ ảo.

Đến cuối tháng, bạn phát hiện ra người mà bạn yêu thương nhất lại mang đến cho bạn sự đau thương, mà điều này lại do chính sự cưng chiều của bạn tạo nên. Tuổi Ngọ hãy nhân cơ hội này mà thức tỉnh lại bản thân nhé.

Tuổi Mùi

Vận thế tình cảm tháng này của tuổi Mùi khá tốt, con mắt càng ngày càng tinh tường hơn và bạn có thể chọn được nửa kia phù hợp với mình. Nhưng cũng không nên tạo cho bản thân quá nhiều áp lực, chỉ cần chăm sóc cho bản thân tốt thì ắt tự nhiên thu hút được người khác giới thôi.

Tuổi Mùi đã có gia đình thì sự thân mật giữa vợ chồng có thể ít đi, vì vậy có thời gian hãy chủ động mang đến cho đối phương những điều lãng mạn để hâm nóng tình cảm nhé.

Tuổi Thân

Tháng này tình cảm của người tuổi Thân gặp phải khá nhiều vấn đề, chủ yếu là do đôi bên chưa có lòng tin nhiều với đối phương. Cứ nghi đông nghi tây nên không khí hai bên khá ngột ngạt, căng thẳng.

Những bạn còn độc thân thì tháng này dũng khí, cam đảm trong chuyện tình cảm lại chưa đủ, có vẻ như vẫn còn chút tự ti. Kiến nghị bạn nên điều chỉnh suy nghĩ một chút nhưng cũng không cần bộc lộ tình cảm quá sớm. Việc điều chỉnh bản thân mới là điều quan trọng đầu tiên.

Tuổi Dậu

Tình cảm tháng này của tuổi Dậu không được như ý nguyện, có thể trong quá trình theo đuổi đối phương bạn gặp phải chút rào cản. Nói chung tuổi Dậu rất hay mất bình tĩnh khi đối diện với người mà mình đang để ý.

Những bạn đã có gia đình thì tình cảm không có thay đổi nhiều, đôi khi bạn quá muốn thúc đẩy mối quan hệ thân thiết hơn với đối phương nhưng lại khiến họ cảm thấy không thích thú. Bình thường không cần nói quá nhiều từ hoa mỹ hay những lời nói có cánh, cứ quan tâm thật lòng là đủ rồi.

Tuổi Tuất

Tuổi Tuất đã hiểu được khá nhiều vấn đề về tình cảm, không quá gò bó đối phương, bạn cũng biết được rằng lý tưởng của bản thân thì phải tự mình thực hiện. Hai bên khá hòa hợp với nhau.

Nửa tháng về sau tuổi Tuất khá nhạy cảm trong chuyện tình cảm, rất dễ lay động, bất an, thậm chí là bạn còn có thể ghen tỵ với cả những người chẳng thể mang ra so bì với bạn nữa kìa. Bạn cần ai đó cổ vũ, lấy lại tinh thấn, có khi những lời khuyên của bạn bè sẽ có lợi hơn với bạn.

Tuổi Hợi

Tháng này là tháng có rất nhiều chuyện đáng mừng trong phương diện tình cảm với người tuổi Hợi. Những bạn đã có gia đình, tin có thai sẽ khiến bạn vui mừng khôn xiết, hoặc điều bất ngờ đến khi bạn chưa kịp chuẩn bị tâm lý đón nhận.

Tuổi Hợi còn độc thân thì cũng không cần quá nóng vội, năng đi dạo hoặc du lịch nhiều hơn, biết đâu còn tìm được ý trung nhân nữa đấy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên tháng đầu năm của 12 con giáp

Mơ thấy bố mẹ chồng,vợ là điềm báo gì?

Nam giới đã kết hôn nằm mơ thấy mẹ vợ là điềm lành, những rắc rối sắp được hòa giải. Mơ thấy bố vợ thì lại phải thận trọng, sắp có tranh cãi xảy ra.
Mơ thấy bố mẹ chồng,vợ là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Giải mã giấc mơ thấy bố mẹ chồng/vợ:

giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

 
  Mơ thấy cha mẹ bạn gái ngụ ý tình yêu tốt đẹp, đã đến lúc tính chuyện kết hôn.
 
Mơ thấy cãi nhau với mẹ chồng ngụ ý mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hoà hợp.

 
Mơ thấy bị mẹ chồng gây sự cãi cọ là ngụ ý mẹ chồng rất quan tâm tới bạn.

 
Mơ thấy mẹ chồng đã qua đời là điềm lành, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
 
Mơ thấy mẹ vợ ngụ ý những tranh chấp kỳ thị sắp trôi qua, những mối quan hệ khó khăn của bạn sẽ được hoà giải.


Mơ thấy chồng thì hãy xem lại tình trạng hôn nhân của mình Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì? Mộng thấy người trong mộng là tốt hay xấu?
Người đang yêu mơ thấy mẹ vợ là điềm lành, tình cảm tốt đẹp mong muốn kết thành vợ chồng.
 
Mơ thấy bố vợ dự báo bạn sắp xảy ra tranh cãi với người thân hoặc bạn bè.

 
Mơ thấy sức khoẻ của bố vợ cát tường, khoẻ mạnh là ngụ ý quan hệ gia đình hòa thuận.

 
Mơ thấy bố vợ tương lai tới nhà ngụ ý tâm lý không tốt muốn phát sinh chuyện tình một đêm vì bạn bị tổn thương bởi chuyện gia đình khiến bạn trở nên tự ti và không muốn tranh đấu hạnh phúc của mình.


giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy bố vợ bị tai nạn xe qua đời điềm lành, bạn sắp phát tài phát lộc, có quý nhân phù trợ.

 
Mơ thấy bố vợ đập phá của hàng của cậu mình ngụ ý tranh chấp mâu thuẫn sắp xảy ra.

 
Mơ thấy bố vợ tặng bát cho mình ngụ ý bố vợ sẽ đem đến vận khí cho bạn.

 
Mơ thấy bố vợ lúc lâm chung vẫy tay về phía mình là điềm báo cát tường.

 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bố mẹ chồng,vợ là điềm báo gì?

3 con giáp nữ có xu hướng kết hôn muộn

Con gái thường rất sợ mang tiếng ế nhưng nếu nằm trong top 3 con giáp sau, rất có thể bạn sẽ kết hôn ở độ tuổi trễ hơn so với những cô nàng khác đấy.
3 con giáp nữ có xu hướng kết hôn muộn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1. Cô nàng tuổi Tuất

Cá tính khá cô lập nên chuyện tình yêu của cô nàng tuổi Tuất thường không được suôn sẻ. Khi yêu, nàng khó toàn tâm toàn ý đầu tư vào mối quan hệ của mình và khiến đối phương cảm thấy không thể nào hòa hợp. Thêm vào tính cách độc lập và xem trọng sự nghiệp nên nàng thường tập trung vào công việc và củng cố cuộc sống tự do của mình. Đây cũng là cô nàng không thích làm việc nhà và hơi “bá đạo” trước mặt người khác phái.

3-con-giap-nu-co-xu-huong-ket-hon-muon

Top 2. Cô nàng tuổi Sửu                                                                  

Cố chấp và không thích thỏa hiệp nên nàng thường xảy ra mâu thuẫn với nửa kia. Những cuộc cãi vã không cho phép nàng nhún nhường nên tình cảm luôn gặp khó khăn, khó tiến triển tốt đẹp và dễ có nguy cơ đổ vỡ. Đây cũng là kiểu người rất nghiêm túc, yêu cầu cao với bản thân và thích áp đặt người khác.

Top 3. Cô nàng tuổi Thìn

Ý chí kiên cường và trọng sự nghiệp nên cô nàng này thường tỏ ra mạnh mẽ và quá độc lập trước người khác phái, khiến đối phương e dè vì sợ yêu nàng sẽ mất đi bản lĩnh nam nhi. Khi yêu, nàng ít khi có thể dịu dàng, cũng không biết nũng nịu, tuy tỏ ra cứng cỏi nhưng lại là người thường chịu thiệt thòi trong tình cảm.

Khang Ninh (theo QQ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp nữ có xu hướng kết hôn muộn

Cách xem tướng phụ nữ qua vòng ba –

Phụ nữ có vòng 3 săn chắc, gợi cảm, tròn trịa, đầy đặn, mông không cong là một đôi mông đẹp, có tướng cách tốt theo tiêu chuẩn của thuật xem tướng. Một khuôn mặt xinh xắn, một dáng hình thon thả và vòng 3 săn chắc, gợi cảm là điều mơ ước của rất nhiề
Cách xem tướng phụ nữ qua vòng ba –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tướng phụ nữ qua vòng ba –

Bói tình duyên qua tướng mặt: Đâu là người có nhân duyên tốt đẹp?

Nhìn tướng mặt mỗi người có thể đoán biết đôi điều về tính cách, nội tâm cũng như các mối quan hệ xã giao, nhân duyên tốt hay xấu... Cùng bói tình duyên qua
Bói tình duyên qua tướng mặt: Đâu là người có nhân duyên tốt đẹp?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nhìn tướng mặt mỗi người có thể đoán biết đôi điều về tính cách, nội tâm cũng như các mối quan hệ xã giao, nhân duyên tốt hay xấu... 

► Xem bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

 

1. Hai má hồng hào

  Bói tình duyên qua tướng mặt: Nữ giới có sắc mặt hồng hào, nhất là đôi má chốc chốc ửng hồng rất vượng đào hoa, nhân duyên tốt lành, được nhiều người yêu mến.   Khi bạn tiếp xúc với cô nàng này, không chỉ ấn tượng bởi cách ăn nói dễ nghe, mà còn có những cử chỉ, hành động vô cùng tinh tế, khéo léo. Dù chỉ là lần đầu tiên gặp gỡ, bạn có cảm giác như đã thân quen từ lâu, khá yên tâm để có thể cùng nhau trải lòng về những vấn đề trong cuộc sống.

 

Boi tinh duyen qua tuong mat Dau la nguoi co nhan duyen tot dep hinh anh
 

2. Sắc môi sáng, răng trắng

  Đôi môi căng mịn, sắc môi hồng hào, sáng bóng cũng là một trong những nét đẹp thường thấy ở những cô gái có nhân duyên hữu hảo. Nếu kết hợp thêm hàm răng trắng bóng, đều đặn, không những vận đào hoa tốt và cả tài lộc, sự nghiệp đều viên mãn.   Chủ nhân của nét tướng mặt này có số đại phúc, gặp họa không chết, biến nguy nan thành cơ hội để thể hiện năng lực bản thân. Vận quý nhân của họ cũng sáng, hễ gặp khó khăn có người tới trợ giúp, dễ dàng gặt hái thành công.   
Đặc điểm nhận diện mặt phụ nữ lấy chồng đại gia Tướng phụ nữ là trợ thủ đắc lực cho sự nghiệp của người chồng Những nét tướng phụ nữ bất hạnh trong hôn nhân

3. Khuôn mặt thuôn dài

  Đặc điểm của khuôn mặt thuôn dài là phần trên tròn và nhọn dần về phần dưới, nhìn thanh tao, quý phái. Bói tình duyên qua tướng mặt cho thấy đây là khuôn mặt hưởng nhiều nhân duyên tốt đẹp.   Đa phần quý cô có khuôn mặt thuôn dài đều rất ưa nhìn nên không khó trong việc tạo thiện cảm với người đối diện. Vì thế nhân duyên khác giới của họ cực tốt, đi tới đâu cũng dễ dàng gây sự chú ý và được mọi người yêu mến. 

 

Boi tinh duyen qua tuong mat Dau la nguoi co nhan duyen tot dep hinh anh
 

4. Quanh mắt có nốt ruồi


Nếu có nốt ruồi ở quanh mắt, nhân tướng học gọi đó là nốt ruồi đào hoa, mang tới nhân duyên tốt đẹp, tình yêu và hôn nhân đều thuận lợi.    Người này thường không thích kết hôn quá sớm, dành thời gian để theo đuổi mục đích, sở thích cá nhân đồng thời quyết tâm tạo dựng đời sống vật chất dư dả trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân.   Đối tượng mà những cô nàng có nét tướng cách này mong muốn được “về chung một nhà” là các anh chàng có khiếu hài hước, luôn mang tới những bất ngờ và cảm giác mới lạ, thú vị. 

 

5. Mắt to, có thần sắc

 

Đôi mắt to lại có thần sắc, khi mọi người nhìn vào cảm thấy sự hồn nhiên, trong sáng và rất đáng tin. Bói tình duyên qua tướng mặt phụ nữ có tướng mắt như vậy thường vượng vận đào hoa, có sức hấp dẫn mạnh mẽ, dễ dàng thu hút đối tượng khác giới.   Nhìn chung, tình yêu, hôn nhân của người này đều thuận lợi, ít gặp phải sóng to gió lớn. Hễ đã yêu là nghĩ ngay tới chuyện lập gia đình, sống thủy chung một lòng, không ai phải phàn nàn về bất cứ điều gì ở họ.   Nam Anh   3 kiểu tướng mặt điển hình của người gặp xui xẻo
Chủ nhân của tướng mặt mà có hai mắt hoặc hay đầu lông mày quá gần nhau, khoảng cách giữa chúng rất nhỏ thường gây cảm giác lạnh lùng với người đối diện, đồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tình duyên qua tướng mặt: Đâu là người có nhân duyên tốt đẹp?

Top 3 con giáp phát tài nhờ khả năng kinh doanh

Do có khả năng kinh doanh thiên bẩm, đầu óc tính toán ưu việt, nhạy bén với thị trường mà những con giáp này là con giáp phát tài trong tương lai.
Top 3 con giáp phát tài nhờ khả năng kinh doanh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Luận giải tử vi trọn đời của 12 con giáp cho rằng, do có khả năng kinh doanh thiên bẩm, đầu óc tính toán ưu việt, nhạy bén với thị trường mà những con giáp này là con giáp phát tài trong tương lai.


Top 3 con giap phat tai nho kha nang kinh doanh hinh anh 2
 

Tuổi Thìn

  Trí thông minh hơn người lại có đầu óc kinh doanh nên hơn ai hết những người tuổi Thìn không bao giờ chịu thua kém ai.  Vì vậy mà họ luôn rất cố gắng để kiếm tiền nhờ vào kinh doanh.   Họ khá nhanh nhạy trong buôn bán và luôn rất bình tĩnh, không dễ bị ảnh hưởng, vì vậy mà dễ gặt hái nhiều thành tựu. Và họ luôn rất cố gắng, kiên nhẫn thực hiện mục tiêu đề ra. Vì vậy mà cuộc sống sau này rất đủ đầy, sung túc không lo gì.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Tuổi Thìn hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Top 3 con giap phat tai nho kha nang kinh doanh hinh anh 2
 

Tuổi Thân

  Nói về sự tính toán và con số thì người tuổi Thân nhạy bén nhất trong 12 con giáp. Chỉ cần nhìn thấy tiền, họ sẽ thấy vô cùng hào hứng và tràn đầy ý chí quyết tâm để nắm được nó trong tay. Cá tính này khiến họ không ngừng học tập ngay từ khi còn trẻ và tích lũy nhiều kinh nghiệm để thành công trong việc kinh doanh sau này.   Người tuổi Thân có tài tổng hợp và đánh giá tình hình kinh doanh một cách khoa học. Họ cẩn trọng trong từng đường đi nước bước nên ít khi bị thất bại hoặc thua lỗ.
Top 3 con giap phat tai nho kha nang kinh doanh hinh anh 2
 

Tuổi Dậu

  Những người tuổi Dậu là người  có phong cách quyết đoán, tự tin, họ thích sáng tạo. Đồng thời họ lại là người có năng lực thực thu, họ luôn nỗ lực không ngừng nghỉ, có chút may mắn, họ rất biết tận dụng thời cơ.   Con giáp này biết cách biến thách thức thành cơ hội cho mình. Trong hoàn cảnh cấp bách và khó khăn nhất, họ vẫn điềm tĩnh nghĩ ra cách xử lý tối ưu. Bởi lẽ họ là một trong số những người có con mắt tinh tường và sáng suốt trong lĩnh vực kinh doanh.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Bật mí lý do nên lấy con gái tuổi Dậu làm vợ

ST.
Top 5 con giáp đại phú đại quý trong năm 2017 12 con giáp kết hôn tuổi nào để trọn đời hạnh phúc? Mùa sinh phú quý cho 12 con giáp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp phát tài nhờ khả năng kinh doanh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd