Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách hóa giải nhà không đúng hướng –

- Hai căn nhà có cửa chính xung đối nhau : Theo Phong Thuỷ, nếu hai nhà có cửa chính xung đối sẽ làm cho khí nhà này xung thẳng vào cửa nhà kia nên chắc chắn sẽ có một nhà bị xấu. Để khắc phục có thể dùng gương bát quái hoặc chuông gió bằng mã n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Hai căn nhà có cửa chính xung đối nhau :

Theo Phong Thuỷ, nếu hai nhà có cửa chính xung đối sẽ làm cho khí nhà này xung thẳng vào cửa nhà kia nên chắc chắn sẽ có một nhà bị xấu. Để khắc phục có thể dùng gương bát quái hoặc chuông gió bằng mã não và thạch anh treo ở cửa. Gương trong Phong Thuỷ có tác dụng phản xạ lại luồng khí bay tới, nhưng việc sử dụng gương phải hết sức cẩn thận, không được sử dụng bừa bãi vì gương có thể phạn xạ cả cát khí..

Ngoài ra để hoá giải hung khí có thể dùng đôi tỳ hưu  , đá thạch anh để trấn ở cửa hoặc chân cầu thang để chặn hung khí

– Nhà ở có đường đâm thẳng vào nhà :

Nếu có con đường đâm thẳng vào nhà thì hung khí sẽ dội thẳng vào nhà. Ở nhà này không yên ổn dễ sinh thị phi bệnh tật, hao tổn tài lộc. Để khắc phục có thể dùng gương Bát Quái hoặc đặt hốc đá thạch anh tím, thạch anh vàng để chấn

– Nhà ở có dốc cao chạy thẳng vào nhà :

Nếu có dốc cao chạy thẳng vào nhà thì khí sẽ xung thẳng vào nhà hoặc khí đổ thẳng ra đường. Khí vận chuyển trong ngôi nhà cũng như mạch máu trong cơ thể, phải thu nạp sinh khí và xuất đi uế khí. Khí vận chuyển phải quanh co uốn lượn không được xộc thẳng vào hoặc xộc thẳng ra ngoài. Trường hợp này cần xây nhiều bậc lên xuống để giảm xung khí và treo rèm ở cửa ra vào. Dùng thêm tỳ hưu, hoặc hốc đá thạch anh chế ở vị trí dốc cao đâm vào nhà.

Hoa-giai-huong-nha-xau-cua-tuoi-Giap-Ngo-1

– Nhà có cửa chính thông với cửa hậu :

Nếu cửa chính thông với cửa hậu và cửa giữa (nếu có) thì tạp thành thế ba cửa thông nhau. Khí vào sẽ bị thất tán hết, chủ tiền tài không vượng, hao tổn tiền tài, không cầm giữ được tài lộc. Trường hợp này cần sửa lại cửa hoặc đặt bình phong chắn ở giữa để cửa chính và cửa phụ không nhìn thấy nhau nữa. Dùng cầu thạch anh đặt ở vị trí thông giữa hai cửa, dùng tượng phật hoặc khối đá phong thủy theo mệnh che chắn ở phía cửa phụ.

Nếu cửa chính bị phạm hướng xấu thì dùng hướng bếp để khắc chế, cụ thể như sau :

– Hướng cửa chính phạm Ngũ Quỷ thì đặt bếp hướng Sinh Khí
– Hướng cửa chính phạm Tuyệt Mệnh thì đặt bếp hướng Thiên Y
– Hướng cửa chính phạm Lục Sát thì đặt bếp hướng Phúc Đức
– Hướng cửa chính phạm Hoạ Hại thì đặt bếp hướng Phục Vị

Ví dụ : Người sinh năm 1957- Đinh Dậu mệnh cung Đoài, cửa chính hướng Nam là Ly phạm Ngũ Quỷ. Vậy phải đặt bếp hướng Tây Bắc để chế vì Tây Bắc là Càn được Sinh Khí sẽ hoá giải được hướng cửa chính bị phạm.

– Gương trong phòng ngủ :

Gương trong Phong Thuỷ có tác dụng phản xạ lại các luồng hung khí chiếu đến. Việc sử dụng gương phải hết sức cẩn thận không được đặt bừa bãi. Trong phòng ngủ, khi nằm không nên nhìn thấy mình trong gương. Nếu nhìn thấy thì khí bị xung sát dễ gây nên mộng mị, ảnh hưởng sức khoẻ.

– Xà nhà chắn ngang giuờng ngủ hoặc bàn thờ, bếp :

Tại các vị trí đặt xà, khí của nó tương đối mạnh và thường là sát khí. Nếu giường ngủ đặt ngay dưới xà nhà hoặc dưới chân cầu thang thì vô cùng bất lợi. Cần khắc phục bằng cách kê giường chỗ khác hoặc dùng một trần gỗ hoặc giấy căng ngang phủ lấy xà nhà. Như vậy sẽ giảm bớt tác động xấu của xà. Điều này cũng áp dụng tương tự với bếp và bàn thờ.

– Trước nhà có căn nhà đổ nát :

Nếu đối diện nhà có căn nhà hoang tàn đổ nát thì hung khí của nó sẽ tác động ngay đến nhà mình và gây ra nhiều tác động xấu. Cần treo gương Bát Quái hoặc một chuông gió đá mã não ở trước cửa để hoá giải hung khí do nhà đối diện mang lại. Có thể dùng tượng  tượng Tam Đa để hoá giải hung khí.

– Trước nhà có 1 cây to hoặc cây khô trước nhà :

Phong Thuỷ tối kỵ có cây khô trước nhà, hoặc trước nhà có một cây to, gọi là độc mộc, chủ buồn khổ cô độc. Vì vậy cần chặt hết những cây khô trước nhà và không trồng duy nhất một cây to. Nếu có cây to và chưa chặt được thì dùng một đèn sáng màu đỏ trước cửa hoặc đá thuộc Hoả nhiều màu đỏ đặt trước cửa. ( hỏa có thể đốt mộc )

– Nhà ở đối diện đường vòng hoặc giao lộ :

Nếu ở đối diện đường vòng hoặc đối diện thì khí xung sát sẽ chiếu thẳng vào nhà. Sát khí làm hao tổn nhân đinh, gây thị phi bất hoà, ly tán gia đình, sát vợ hại con. Trường hợp trên chỉ dùng làm cơ sở kinh doanh không nên ở. Trước nhà nên dùng gương Bát Quái hoặc đặt đá có năng lượng chắn. Có thể dùng tỳ hưu để trấn áp, hoá giải luồng hung khí.

– Thiên Trảm Sát :

Phong Thuỷ tối kỵ trước nhà mình có một khe hở giữa hai nhà cao tầng chiếu thẳng vào nhà gọi là “Thiên Trảm Sát” rất xấu cho ngôi nhà. Vì thế cần dùng một chuông gió treo trước nhà để hoá giải hung khí hoặc dùng một bể cá, một bình nước đặt ở trước nhà hoặc ở cửa sổ để tiết chế hung khí do Thiên Trảm Sát gây ra. Dùng các vật khí chế hoá bằng đá năng lượng cũng phát huy tác dụng rất tốt.

– Gian phòng khách bị lộ :

Nếu nhà gần đường đi lại mà người đi ngoài đường có thể nhìn thấy rõ phòng khách và những người ngồi trong nhà thì theo Phong Thuỷ điều đó rất bất lợi cho gia chủ. Gây nên chuyện thị phi, bất hoà, hao tán tài lộc. Hãy xây tường bao hoặc cổng, cửa, nếu không thể xây thì dùng mành hoặc rèm che khuất để người ngoài không thể nhìn trộm vào nhà. Dùng các vật khí trấn áp như tỳ hưu, nghê, tượng phật trong phòng khách hướng ra cửa.

– Giường ngủ hoặc bàn đọc sách gần cửa sổ :

Nếu giường ngủ hoặc bàn làm việc, bàn đọc sách gần cửa sổ thì khí bên ngoài sẽ xung thẳng vào giường hoặc bàn, ảnh hưởng đến sức khoẻ và việc học hành và công việc. Khí đến giường ngủ cần yên tĩnh, kín đáo. Khí đến bàn làm việc, bàn đọc sách tránh phân tán. Vì thế, gặp trường hợp trên nên treo rèm trước cửa sổ hoặc đóng lại không sử dụng khi ngủ hoặc làm việc. Dùng thêm các vật khí lợi cho công danh thi cử như qủa cầu thạch anh, tháp văn xương đá thạch anh màu trắng…

– Giường ngủ hoặc bếp gần nhà vệ sinh :

Trong bài trí Phong Thủy tối kỵ nhà bếp hoặc giường ngủ sát ngay nhà vệ sinh. Uế khí của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và nguồn tài lộc của gia đình. Gặp trường hợp trên nhất thiết phải di chuyển giường và bếp, hoặc phá nhà vệ sinh đi không dùng nữa. Để khắc phục phải sử dụng các vật khí hỗ trợ như đá năng lượng, cầu thạch anh …

– Bàn thờ ở trên hoặc dưới nhà vệ sinh :

Hiện nay, ở các đô thị có rất nhiều nhà cao tầng và gian thờ thường đặt trên tầng thượng. Cần chú ý không để bàn thờ mà ở tầng dưới có nhà vệ sinh. Uế khí của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thờ cúng gia tiên, gây nên nhiều điều xấu cho gia chủ. Gặp trường hợp trên cần di chuyển bàn thờ ra vị trí khác hoặc đóng nhà vệ sinh lại không sử dụng nữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà không đúng hướng –

Sơ lược về lịch sử Tử Vi Trung Hoa nói chung và Trung Châu phái nói riêng

Bài viết sơ lược về lịch sử Tử Vi Trung Hoa và Trung Châu Phái. Mời các bạn cùng đọc!
Sơ lược về lịch sử Tử Vi Trung Hoa nói chung và Trung Châu phái nói riêng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguồn: TRUNG CHÂU TỬ VI ĐẨU SỐ TAM HỢP PHÁI - NGUYỄN ANH VŨ dịch.

Tương truyền, Tử Vi Đẩu Số có nguồn gốc từ Khâm Thiên Giám của triều đại nhà Đường, ở Lạc Dương, Trung Châu.

Trung Châu là tên một vùng đất cổ, tức "Trung Thổ", "Trung Nguyên". Theo nghĩa rộng, "Trung Châu" là chỉ toàn nước Trung Hoa, còn gọi là "Thần Châu", "Hoa Hạ". Nghĩa ban đầu của "Trung Châu" là chỉ vùng đất thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, hay thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Vì vùng đất này ở giữa Cửu Châu thời cổ đại nên có tên gọi này. Phần lớn thời gian trong lịch sử, vùng đất này là trung tâm văn hóa, chính trị, và Kinh Tế của Trung Quốc. Thời cổ, Lạc Dương là vùng đất trọng yếu của Trung Châu tọa lạc ở bờ nam sông Hoàng Hà, miền tây tỉnh Hà Nam, phía Bắc dựa núi Mang Sơn, phía nam đối diện Long Môn, phía tây liền với Tần Lĩnh, phía đông là vách núi Tung sơn, ở giữa là một vùng bình nguyên. Nơi này địa hình hiểm yếu, đất đai phì nhiêu, nguồn nước dồi dào; trong lịch sử, đây là vùng đất mà các binh gia phải chiếm lấy, còn là nơi lý tưởng để lập quốc đô. Bắt đầu từ năm 770 TCN, trước sau đã có chín vương triều là Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Hậu Lương, và Hậu Đường, chọn nơi này làm kinh đô, vì vậy Lạc Dương được gọi là "Cửu Triều Cố Đô".

Vào thời Đường, thiên văn học và chiêm tinh học từ phía Tây Vực du nhập vào Trung Quốc đã thúc đẩy Tinh Mệnh Học của Trung Quốc phát triển một bước lớn, từ đó lịch pháp và bát tự sinh thần trở thành nhân tố trọng yếu trong Tinh Mệnh Học. Những hoạt động sôi nổi này chủ yếu tập trung ở Lạc Dương, Trung Châu.

Trong số các Đạo kinh truyền lại từ đời Đường có Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, Phật thuyết bắc đẩu thất tinh Diên Mệnh kinh, trong đó đã có những ghi chép tường tận về phương pháp bài bố sao mệnh chủ và sao thân chủ như trong Tử Vi Đẩu Số. Theo quan niệm của đương thời, sao mệnh chủ và sao thân chủ luôn là mấu chốt quan trọng của kiếp số nhân sinh, vì vậy Đạo Giáo có "Kì an lễ đẩu", "Kì nhương khoa nghi" (một loại nghi lễ cúng sao trong đạo giáo). Trong bắc đẩu kinh còn đề cập 12 cung, "Giáp cát trợ tinh", cho đến các cách cục hung dẫn đến các loại mệnh vận tai kiếp như trong Tử Vi Đẩu Số. Điều này cho thấy 3 cuốn kinh kể trên có liên quan mật thiết đến Tử Vi Đẩu Số sau này. Nếu các bản chú giải kinh văn thời ấy còn lưu truyền cho đến ngày nay, có lẽ chúng ta sẽ biết yếu quyết của Tử Vi Đẩu Số vào thời ấy tường tận hơn. Hiện tượng chọn Tử Vi làm sao tôn quý nhất trong 14 chủ tinh có nguồn gốc từ Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, trong đó ẩn chứa khái niệm "số" trong Huyền Học, hậu thế gọi là "Tử Vi Đẩu Số" thực sự có hàm ý uyên nguyên của nó.

Sau thời Bắc Tống, các hệ thống tinh mệnh học dần dần hoàn thiệt, Ngũ Tinh Thuật (Thất Chính Tứ Dư) và Tử Bình thuật đã phát triển thành 2 lưu phái Tinh Mệnh học lớn ở Trung Quốc. Trong đó, Ngũ Tinh thuật phái Cẩm Đường là chi phái Thất Chính Tứ Dư nổi tiếng nhất thời ấy, nguồn gốc xuất phát từ Mật Tông, tổ sư là Nhất Hạnh(CN. năm 683 - 727), người đời Đường, tên tục là Trung Trục, có sách truyền lại là Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu; truyền đến tăng Xuân ở núi Thanh Thành, Xuân truyền cho tăng Phổ Trừng ở Giang Tây, Trừng truyền cho Tứ Minh tăng Huệ Minh ở Chiết Giang, Minh truyền lại cho quốc sư nước Liêu là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật là một dòng họ quý tộc nổi tiếng đời Liêu, có rất nhiều người làm quan lớn và văn nhân học sĩ. Ba quyển Tinh Mệnh Tổng Quát là do Hàn Lâm học sĩ Gia Luật Thuẩn biên soạn. Sách sử không ghi tên ông, cho nên trong Tứ Khố đề yếu nghi là sách thác danh, nhưng trong quyển đầu ghi: "Nguyên Tự" thiên Gia Luật Thuần viết vào niên hiệu Thống Hòa thứ 2 (CN, ngày 10, tháng 9 năm 984); Văn Hồ các thư mục ghi là một bộ, không phân chia số sách; Lục Trúc Đường thư mục chia làm 5 sách, nhưng không ghi số quyển; bộ sách này thấy chép trong Vĩnh Lạc đại điển và Tứ Khố toàn thư, ngoài nhân gian không có truyền bản nào khác. Ngoài ra, bộ Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu còn được chùa Thiên Giới cất giữ một bản; vào niên hiệu Hồng Vũ thứ 6, truyền lại cho Thương Quý Đổng. Truyền bản ngày nay phần nhiều là Cẩm Đường Ngũ Tinh, Chỉ Kim Hư Thục Ngũ Tinh Thiên Cơ thất ngũ phú. Do đó có thể thấy phái Cầm Đường là một phân chi Tinh Tông quan trọng. Còn có thể khảo chứng thư tịch Tinh tông trong bộ sách Trương Quả tinh tông chép trong Tứ Khố toàn thư, và Tinh Mệnh tố nguyên do Trương Quả trước tác, thân thế Trương Quả có ghi chép trong Tân Đường truyện - Phương Kĩ truyện. So sánh đối chiếu với phương pháp đoán mệnh của Thất Chính Tứ Dư, người ta thấy có nhiều dấu vết diễn biến thành Tử Vi Đẩu Số ngày nay.

Trong suốt khoảng thời gian từ đời Tống đến đầu đời Nguyên, Tử Vi Đẩu Số hầu như im hơi lặng tiếng, người ta không tìm thấy một văn bản nào khác liên quan đến Tử Vi Đẩu Số. Hiện chỉ lưu giữ được 1 bản chép tay sách các cổ quyết của Tử Vi Đẩu Số đời Nguyên.

Đến đời Minh, giai đoạn cuối thời kì chấp chính của Chu Nguyên Chương, vị vua khai quốc triều Minh này đã hạ lệnh cấm dân gian không được học thiên văn, cho nên Tinh tông mệnh lí học dần dần bị chìm trong bóng tối, mãi đến niên hiệu Gia Tĩnh thứ 26 (CN năm 1547) mới giải trừ luật cấm học thiên văn.

Tinh tông mệnh lí học thoát khỏi lệnh cấm này, dần dần từng bước hoàn thiện hệ thống. Tên gọi "Tử Vi Đẩu Số" sớm nhất được thất trong Tục Đạo Tạng, do Trương Quốc Tường, Chính Nhất thiền sư đời thứ 50 của đạo giáo, tập thành vào thời Minh Thần Tông niên hiệu Vạn Lịch thứ 35 (1607), trong đó có 3 quyển Tử Vi Đẩu Số, không rõ tác giả, căn cứ nội dung của 3 quyển Tử Vi Đẩu Số này thì đúng là thuật "Thập Bát Phi Tinh". Đầu đời Thanh, trong Tử bộ thuật số của Tứ Khố toàn thư, tổng cộng ghi nhận được 50 loại thuật số, bao gồm cả "Thập Bát Phi Tinh" và "Tử Vi Đẩu Số". Cũng chính vì vậy mà một số học giả cho rằng Tử Vi Đẩu Số là hình thức cải cách của "Thập Bát Phi Tinh" được thu thập trong Tục Đạo Tạng.

Tuy triều Minh cấm dân gian học thiên văn, nhưng cơ cấu triều đình vẫn có một cơ quan chuyên trách về khí tượng và thiên văn, gọi là "Khâm Thiên Giám", cho nên môn học thuật này vẫn phát triển trong cung đình hoàng gia. Vì nhân tố hoàn cảnh thời đại, Đẩu Số bị khoác lên một bức màn che, làm tăng vẻ thần bí của nó. Tử vi Đẩu Số bắt nguồn từ ngũ tinh thuật, do xuất phát từ Khâm Thiên Giám đời Đường ở Lạc Dương, Trung Châu, nên còn gọi là "Khâm Thiên Giám Bí Cấp".

Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập đều đề do Trần Đoàn cuối đời Ngũ Đại sáng tác, trong dân gian thì lưu truyền thuyết Lữ Đồng Tân truyền Tử Vi Đẩu Số cho Trần Hi Di. Trần Hi Di lại mang Tử Vi Đẩu Số truyền cho các đồ đệ của mình, trong suốt mấy trăm năm, Tử Vi Đẩu Số mang hình thức bí truyền từ đời này sang đời sau, đây là một trong những nguyên nhân khiến sách Tử Vi Đẩu Số xuất hiện rất hiếm hoi.

Khoảng niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, La Hồng Tiên, một nhà kham dư gia ở Cát Thủy, Giang Tây, khắc in và lưu truyền sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Về sau Phan Hi Doãn, hiệu là Phụ Tử Tử ở Giang Tây, biên tập sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập, và hậu thích của Phan Hi Doãn là Dương Nhất Vũ ở Quan Tây, Phúc Kiến tăng bổ.

Hiện nay hai bản TVĐS này là tư liệu hàng đầu để nghiên cứu TVĐS cổ đại, nhưng đều là bản khắc vào thời kì Đồng Trị đời Thanh. Xét về nội dung thì biết được hai bản này về đại thể thì đại đồng tiểu dị, và không phải do một người biên soạn.

Vào khoảng cuối đời Minh đầu đời Thanh, toán học và Thiên Văn Học phương tây theo các giáo sữ Mục Ni Các, Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, v.v... truyền vào Trung Quốc. Theo đó, Tinh Tông mệnh lí học và Trạch Cát thuật lại hưng khởi, càng làm cho khoa Tử Bình hưng thịnh hơn. Khoa Tử Bình đồng thời cũng hấp thu tinh hoa của Tinh Tông mệnh lí học. Việc ứng dụng các thần sát cũng xuất hiện nhiều trong khoa Tử Bình, còn khoa Tử Vi Đẩu Số thì ít người biết đến, nên càng mang sắc thần bí.

Trước năm 1950, phương thức đoán mệnh ở Đài Loang phần lớn chỉ dùng khoa Tử Bình. Sau đó trên thị trường lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, do Trúc Lâm thư cục xuất bản vào năm 1958, sách đề do Hi Di Trần đoàn trước tác, ban đầu chi làm 2 tập, về sau in gộp thành một tập.

Trong khoảng thời gian từ 1947 - 1955, toàn Đài Loan không có thêm bộ TVĐS nào khác. Mãi đến giữa tháng 2, năm 1966, Phúc Châu Xuất Bản Xã mới xuất bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập, đề tác giả là Đại Tống Hoa Sơn Hi Di Trần Đồ Nam, người tăng bổ là Bạch Ngọc Thiềm. Chủ của bộ sách cổ này là Thiết Bản Đạo Nhân Trần Nhạc Kì.

Điều đáng chú ý là, sách này ở phần phàm lệ của tác giả đề rằng:" Tử Vi Đẩu Số truyền thế, chia ra hai phái Nam Bắc, sách này thuộc Bắc Phái, là chính thống chân truyền, ứng nghiệm vô song, còn Nam Phái là bản lưu truyền trong dân gian, do hậu nhân ngụy thác tên của Hi Di, không ứng nghiệm, là ngụy thư gạt người..."

Bản sách này tự xưng thuộc Bắc phái, thực ra so với bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu số Toàn Tập do Tập Văn thư cục xuất bản năm 1971, nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ khác là không có câu kể trên.

Giữa TVĐS toàn thư và TVĐS Toàn tập có nhiều chỗ khác biệt, như sau:

(1) Mệnh Chủ:

Trong TVĐS Toàn Thư lấy địa chi cung mệnh làm chủ. Còn trong TVĐS toàn tập thì lấy địa chi năm sinh làm chủ.

(2) Tứ Hóa:
Năm CAnh và năm Nhâm phương pháp an khác nhau. Trong quyển 2 TVĐS toàn thư, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Đồng Âm"; nhưng trong quyển 4 thì lại có mục cổ lệ, phương pháp an là "Nhật Vũ Đồng Tướng"; phương pháp an của năm Nhâm là "Lương Vi Phủ Vũ". Trong TVĐS toàn tập, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Âm Đồng"; phương pháp an của năm nhâm là "Lương Vi Phụ Vũ".

(3) Hỏa Tinh, Linh Tinh:

Trong quyển 2 của TVĐS toàn thư, chỉ lấy địa chi của năm sinh làm chủ, không thấy nói phải phối hợp với giờ sinh hay không; nhưng theo cổ lệ ghi trong quyển 4 thì lại thấy rất rõ ràng là không phối hợp với giờ sinh (ngoài ra, bản đầu tiên còn ghi người sinh năm Tị Dậu Sửu thì Hỏa Tinh ở cung Mão, Linh Tinh ở cung Tuất); phương pháp an trong TVĐS toàn tập là lấy địa chi năm sinh phối hợp với giờ sinh.

(4) Độ sáng của sao:

Trong quyển 2 và quyển 3 của Tử Vi Đẩu Số toàn thư có liệt kê thành 1 bảng các sao ở 12 cung có 7 cấp độ sáng: miếu, vượng, đắc địa, lợi ích, bình hòa, không đắc địa, hãm. Trong TVĐS toàn tập không có bảng liệt kê này, nhưng có "Vượng cung hãm địa cát hung chi đồ" và "Thập nhị cung Lộc Quyền Khoa Kỵ miếu vượng luận"

(5) Đại Hạn:

Trong TVĐS toàn thư, khởi đại hạn là dương nam âm nữ lấy ttru7o7co1 cung mệnh 1 cung (tức là cung phụ mẫu), đi thuận; âm nam dương nữ thì từ sau cung mệnh một cung (tức cung huynh đệ), đi nghịch. Còn trong TVĐS toàn tập, khởi đại hạn từ cung mệnh rồi mới đi thuận hay đi nghịch.

(6) Lưu niên Thái Tuế Thần Sát:

Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, lưu niên thái tuế thần sát chỉ có "Tứ Phi tinh quyết Tang Hổ Khách Phù", tức là chi an năm thần sát của "lưu niên Thái Tuế thập nhị chi Thần Sát". Trong Tử Vi Đẩu Số toàn tập, lưu niên Thái Tuế thần sát thì an 11 cát thần, 47 hung sát, tổng cộng 58 thần sát.

TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập đều có ghi phương pháp an lưu niên tam cát thần "Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần", phà phi thiên tam sát "Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù".

(7) Thiên Không và Địa Không:

Trong TVĐS toàn thư lấy địa chi giờ sinh đi nghịch và đi thuận để an Thiên Không, Địa Kiếp. Còn TVĐS toàn tập thì lấy Thiên Không của TVĐS toàn thư gọi thành Địa Không; còn lấy địa chi của năm sinh an một sao khác trước Thiên Không một cung. Do đó có thể biết, Thiên Không và Địa Kiếp của TVĐS toàn thư chính là Địa Không Địa Kiếp của TVĐS toàn tập; còn Thiên Không của TVĐS toàn tập khác với Thiên Không của TVĐS Toàn Thư.

Có một số sao thần sát trong hai cuốn đều có cách an và có giải thích (như Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc, Thiên Hư); có một số sao thần sát trong 2 cuốn đều có phương pháp an nhưng không có giải thích (như Thiên Hỉ, Tam Thai, Bát Tọa, Đài Phụ, Phong Cáo, Long Trì, Phượng Các, Tiệt Không, Tuần Không); có một số sao trong TVĐS toàn thư không có, nhưng trong TVĐS toàn tập có phương pháp an (như Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Kiếp Sát, Hoa Cái, Đào Hoa Sát, Đại Hao, Phá Toái, Địa Không).

Điều đáng ngạc nhiên là, có một số sao như Giải Thần, Thiên Vu, Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt, Âm Sát, trong TVĐS toàn thư lẫn TVĐS toàn tập đều không có, nhưng hiện nay sách TVĐS nào cũng thấy.

Hai Bộ Sách TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập có một điểm chung, đó là đều đề cập đến La Hồng Tiên. Theo truyền thuyết, vào đời Minh, La Hồng Tiên từng chỉnh lí Đẩu Số, nhưng về sau sự phát triển cũng không có chứng cứ rõ ràng. Hai bản TVĐS toàn thư và toàn tập lưu truyền trong dân gian vào khoảng cuối triều Minh đầu triều Thanh, nhưng thời bấy giờ dường như ít người xem trọng TVĐS, cho nên phát triển khá chậm, trong khi đó khoa Tử Bình lại rất thịnh hành. Lúc sách TVĐS được đưa vào Đạo Tạng, Đẩu Số vẫn im hơi lặng tiếng (xét về mặt văn bản). Mãi đến năm 1911, TVĐS tuyên vi của Quan Vân Chủ Nhân (thuộc Bắc Phái) mới tái hệ thống, chú giải, bình luận TVĐS một lần nữa.

Năm 1950, xuất hiện hai nhân vật khá quan trọng trong lịch sử phát triển TVĐS, đó là Thiết Bản Đạo Nhân và Hà Mậu Tùng (cao thủ Tam Hợp Phái). Tư tưởng của một phái muốn phát huy ảnh hưởng, thu nhận môn đồ, trước thư lập thuyết là điều bắt buộc, nhưng trong số môn đồ phải có người dương danh thiên hạ mới càng quan trọng, trong 2 người kể trên, Hà Mậu Tùng lão tiên sinh đúng là có đủ 2 điều kiện này. Đại đệ tử của ông là Tử Vân, nhờ trước thư lập thuyết, nói những điều tiền nhân chưa nói, ngày nay đã trở thành nhất đại tông sư trong giới nghiên cứu đẩu số.

Trong khoảng thập nhiên 50 của thế kỷ 20, TVĐS danh gia Lục Bân Triệu (cao thủ Tam Hợp Phái) đến Hương Cảng công khai trương bảng đoán mệnh, độ chính xác khá cao khiến ông nổi tiếng như cồn, ông còn mở lớp dạy, về sau những bài giảng của ông được xuất bản với tên Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa. Trong thời kì này còn có một người nổi danh trước Lục Bân Triệu là Trương Khai Quyển, biệt hiệu "Vô Muộn Trai Chủ", với cuốn Tử vi Đẩu Số mệnh lý nghiên cứu, được Vương Đình Chi xưng tụng là cao thủ Bắc Phái.

Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan xuất hiện một người tên là Trương Diệu Văn, đại tông sư của "Thái Phái". Vốn là tiến sĩ kinh tế học, vào khoảng những năm 1966 trở về trước ông ở Nhật Bản dạy học, tự xưng mình là truyền nhân đời thứ 13 của Minh Đăng phái (tức Thấu Phái). Năm 1967 ông trở về Đài Loan, mang TVĐS của Thấu Phái truyền bá tại Đài Loan. Phái Đẩu Số này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TVĐS ở Đài Loan giai đoạn này. Các bản dịch Đẩu Số từ tiếng Nhật sang tiếng Hán cũng dần dần xuất hiện, thời kì đầu có A Bộ Thái Sơn, về sau có Bảo Lê Minh, v.v... đều là các tác gia thuộc nhóm nghiên cứu đẩu số Đông Dương.

Đương thời, có rất nhiều bản dịch TVĐS của A Bộ Thái Sơn xuất hiện ở Đài Loan, cho nên ông khá nổi tiếng. Ông là người trong thấu phái, Đẩu Số của ông đương nhiên theo phương pháp "quá tiết khí".

Tương truyền người sáng lập Thấu Phái là một phụ nữ đời Minh tên Mai Tố Hương.

Thấu phái gọi Đẩu Số là "Tử Vi chiêm tinh thuật"; phái này thần thoại hóa các "tinh diệu", lấy bối cảnh cuộc chiến tranh giữa nhà Ân và nhà Chu thời viễn cổ, mang các nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa gán vào các tinh diệu. Đặc điểm của Thấu phái là vấn đề "quá tiết khí" khi khởi mệnh bàn. Đến khoảng giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, do giới nghiên cứu Đẩu Số ngày càng tăng và càng chuyên sâu hơn, đương thời, quan điểm này của Trương Diệu Văn bị khá nhiều học giả Đẩu Số công kích. Do đó Thấu Phái Đẩu Số lưu truyền đến ngày nay ko còn như trước kia, phần lớn đều bỏ không dùng nguyên tắc "quá tiết khí".

Khoảng giữa thập niên 70 của thế kỉ trước, TVĐS ở Đài Loan dần dần thịnh hành. Trong số các nhân vật xuất hiện vào thời kì này có một người đáng được đề cập, đó là Lương Tương Nhuận, ông là lão tiền bối trong giới nghiên cứu Tử Bình, các tác phẩm về TVĐS của ông cũng rất có giá trị, phần nhiều viết chung với bà Lương Thiên Lan.

Trước năm 1981, trong giới nghiên cứu Đẩu Số còn có ba người khác nổi tiếng khác là Lục Dị Công, Khổng Nhật Xương, Chung Trực Lâm.

Có thể nói trước thập niên 80 của thế kỉ 20, TVĐS giống như đang ở trong thời kì tiềm phục, cho đến năm 1982, TVĐS tân thuyên của Tuệ Tâm Trai Chủ ra đời, giới nghiên cứu Đẩu Số mới nổi cơn sóng gió mạnh kéo dài hơn 10 năm. Trong quá trình này, nhiều phương diện bí truyền ẩn tàng của TVĐS đã được đưa ra ánh sáng.

Người gây ảnh hưởng sớm nhất ở giai đoạn này có thể nói là Tuệ Tâm Trai Chủ, tên tuổi của bà có ấn tượng rất sâu trong phần lớn độc giả ở Đài Loan và Hương Cảng. Trước năm 1980, người học Đẩu Số phần nhiều tham dự các lớp học nhỏ là chính, nhưng từ lúc Tuệ Tâm Trai Chủ bắt đầu bàn luận Đẩu Số trên báo, giống như đã thổi vào Đẩu Số một luồng sinh khí mới. Tuệ Tâm Trai Chủ đã sử dụng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu để giải thích Đẩu Số, khiến những điều cổ truyền khó hiểu trở thành rất dung dị. Bộ sách TVĐS tân thuyên có thể nói là rất thành công, về sau bà viết thêm nhiều cuốn khác cũng đều thành công. Sự thành công của bộ sách TVĐS tân thuyên không phải là ngẫu nhiên, nó đã làm cho độc giả thời ấy có thể tự lập mệnh bàn và tự mình phân tích từng cung. Nhưng do bà dùng cách giải đoán từng cung cho dễ hiểu, nên cũng khiến người đọc dễ hiểu lầm về kĩ thuật và quy tắc luận đoán Đẩu Số. Tóm lại, đối tượng của bà là đại chúng phổ thông, vì vậy có mặt hạn chế, không đi sâu vào sự tinh tế của Đẩu Số, nhưng cũng không phải là không có tuyệt kĩ.

Từ lúc Đẩu Số bắt đầu được xem trọng, nhiều tác phẩm Đẩu Số ra đời, thuyết của các nhà trăm hoa đua nở. Một số thì giảng giải tâm pháp cổ truyền, một số thì chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, một số thì thần bí hóa, mang Đẩu số gộp chung với tôn giáo, một số khác thì tuyên bố mình được truyền bí pháp chép tay của tiên sư, v.v... Trung số này đáng chú ý có những người sau đây:

- Ngô Tình, đáng tiếc sách của ông này hầu như đã tuyệt bản, rất khó mua trên thị trường. Ông phê bình Đẩu Số cổ truyền rất nghiêm túc. Một số đặc điểm trong sách của ông như: Phần lớn các sao nhỏ trong Đẩu Số ông đều không dùng tới, Thiên Thương và Thiên Sứ theo thuyết cổ truyền có thể đoán sinh tử, ông cho rằng chỉ hù dọa người ta; thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm" cũng không dùng, v.v... Thuyết của ông toàn bộ trọng điểm nằm ở sự biến hóa của tứ hóa, cho rằng Hóa Lộc và Hóa Kị mới là nhân tốt quyết định. Đồng thời ông còn nhấn mạnh mình có "bí kíp ngàn năm bất truyền". Thuyết của ông ngày nay ảnh hưởng mạnh trong lưu phái Phi Tinh trong Bắc Phái TVĐS.

- Sở Hoàng, phải kể là người đầu tiên công khai phương pháp bày bố tinh bàn trên bàn tay, trước ông, các sách Đẩu Số phần lớn đều chỉ căn cứ vào "cổ quyết". Ông trước thư lập thuyết, chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, trong Đẩu Số còn ứng dụng một số nguyên lí đoán mệnh của Tử Bình. Trong thuyết tương sinh tương khắc, tác giả còn sáng tạo ra lí luận "Lạp Hoàn", dùng để giải thích vận tác giữa các tinh diệu với phép tắc bát tự, cũng được cho là thành một pháo.

- Chính Huyền Sơn Nhân, là người sáng lập ra thuyết "thiên địa nhân TVĐS", nói Đẩu Số là do "thần tiên" dạy cho ông. Chính Huyền Sơn Nhân viết rất nhiều sách Đẩu Số, trong đó nói nhiều về quá trình và tinh thần cầu đạo của ông. Chính Huyền Sơn Nhân mang các sao trong TVĐS liên hệ với chư vị tiên nhân ở trên trời, thần bí hóa TVĐS đến cực độ. Đồng thời, chủ trương "Cung can phi xuất tiên thiên tứ hóa tinh".

- Phan Tử Ngư trương bản đoán mệnh khá sớm, học trò rất đông, trước tác cũng không ít, phải kể là rất thịnh hành một thời. Đặc sắc trong các trước tác Đẩu Số của ông là lời đoán mệnh phán như đinh đóng cột.

- Tử Vân là học trò của Hà Mậu Tùng, một cao thủ Tử Vi Đẩu Số thời kì đầu. Năm 1987, ông xuất bản cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, làm chấn động giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan và Hương Cảng. Trong cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, Tử Vân tự thuật quá trình nghiên cứu Đẩu Số của mình, và thuyết minh quan điểm của ông về tính chất và ứng dụng của 12 cung. Trong thời gian này, sách Đẩu số liên tục được xuất bản với số lượng lớn, nhưng phần nhiều chẳng có cống hiến gì. Riêng sách của Tử Vân tiên sinh được cho là đã bổ sung những chỗ trống trong Đẩu số cổ truyền. Ngày nay trong giới nghiên cứu Đẩu Số, người được tôn là bá chủ về phương diện kĩ thuật luận đoán chính là Tử Vân tiên sinh. Nhất là vào năm 1990, trong Đẩu số luận hôn nhân, Tử Vân tiên sinh đã đưa ra thuyết "Thái Tuế nhập quái pháp" và nguyên tắc "Tương khê", đã giải quyết vấn đề kĩ thuật mà cả trăm năm nay không cách nào giải thích, nhờ vậy cũng đã giải quyết chỗ khiếm khuyết trong bộ Hiện đại Tử Vi của nhóm Liễu Vô Cư Sĩ. Thuyết này đã biết Đẩu Số thành một phương pháp chỉ ra xu thế và phương hướng của mệnh vận; từ đó Đẩu Số có cách để phân biệt những người sinh ra cùng một giờ có mệnh vận khác nhau. Đây đúng là một bước đột phá trong lịch sử phát triển TVĐS.

Vai trò của Tử Vân tiên sinh rất quan trọng trong hệ phái Tam Hợp. Về cơ bản, phương pháp luận Đẩu Số của ông cũng tương tự như Vương Đình Chi, lấy truyền thống làm chính tông, làm khung giá cho phép luận đoán, lấy bối cảnh thực tế để diễn giải, tổng hợp cổ kim, và rất chú trọng phương diện tâm lí, sinh lí, nhân tính để ứng dụng trong luận đoán.

Trước năm 1989, Tử Vân đã cho ra đời bộ Đẩu Số luận danh nhân, các sách này đã gây sự chú ý trong giới nghiên cứu Đẩu Số, va đã có uy danh. Năm 1990, trong lúc thị trường chứng khoán của Đài Loan đang từ thịnh chuyển thành suy, phong trào đầu tư vào cổ phiếu bị giảm mạnh, Tử Vân lại hoàn thành cuốn Đẩu Số luận cầu tài, sách này đưa ra phương pháp luận đoán mới, bổ sung phép đoán của tiền nhân, cho rằng, hễ tiền có được nhờ đầu cơ hay đầu tư, cần phải xem cung phúc đức. Tức là, tiền kiếm được không do sức lực hay trí lực của bản thân thì không xem ở cung tài bạch. Trong cuốn đẩu số luận hôn nhân, về phương diện lí luận và thực tế luận đoán của Đẩu Số, đều có sự phát triển mang tính đột phá.

Ngày nay, địa vị của Tử Vân trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan được xếp ngang hàng với Vương Đình Chi của Trung Châu Phái ở Hương Cảng. Học trò của ông cũng rất đông, trong số đó nổi tiếng nhất là Liễu Vô Cư Sĩ và Tuệ Canh. Ngày nay ở Đài Loan tên tuổi Liễu Vô Cư Sĩ cũng khá lớn.

Trong số những người còn lại phải kể đến Khôn Nguyên và Vu Ngoan Dã Nông, thực ra đây chỉ là một người, "Vu Ngoan Dã Nông" là biệt danh mà sau này ông ít dùng đến. Khôn Nguyên có nhiều bút danh như Hoàn Hữu Thủy Ngân, Lam Thần, Trịnh Giả Học. Trước tác Tử Vi Đẩu Số của ông có bộ Tử Vi Đường Áo khá nổi tiếng.

Kế đến là Phál Quảng Cư Sĩ và Nam Bắc Sơn Nhân, trong hai người thì Pháp Quảng Cư Sĩ trước tác nhiều hơn, ông có một bộ tùng thuy Truy Tung Chính Thống Đẩu Số, khá thịnh hành vào thời điểm đó, hơn nữa còn có tính liên tục khá mạnh, kéo dài cho đến ngày nay. Còn Nam Bắc Sơn Nhân, tên thật là Đồng Bành Niên, đương thời lấy danh nghĩa "Chính Tông Bác Phải TVĐS" để đoán mệnh, tác phẩm xuất bản không nhiều, chỉ có một quyển Chính Tông TVĐS toàn thư mà thôi.

Bắt đầu từ năm 1984, TVĐS bước vào thời đại mới, có thể quy công cho một nhóm người, trong số đó có 2 nhân vật trung tâm là Hoàng Trung Lâm, và Chu Vi. Nhờ nỗ lực của họ, Đẩu Số hiện đại hóa dần dần rõ nét, lí thuyết mệnh lí mang tính khoa học bắt đầu được xây dựng. Hoàng Trung Lâm có bút danh là Liễu Vô Cư Sĩ, vốn là một kí giả, về sau ông nghiên cứu mệnh lí và bắt đầu viết sách đẩu số vào năm 1981. Năm 1984 ông viết cuốn Tử Vi luận mệnh, làm cho ông có tiếng nói trong giới nghiên cứu đẩu số. Cuốn sách này khá thành công, sau đó trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1986 ông đã hoàn thành bộ sách quan trọng 7 quyển là Hiện đại tử vi, đây là bước đầu tiên quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Đẩu Số.

Nội dung cuốn Tử Vi luận mệnh chủ yếu là phê phán các tác phẩm của các đại sư thời đó, và từ những luận chứng của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm và kĩ thuật luận mệnh mới. Đương nhiên lúc đó các đại sư cũng phản kích dữ dội. Sau cuốn TV mệnh luận, LVCS trở thành nhân vật ưu tú mới trong giới nghiên cứu Đẩu Số. Nhờ phương pháp luận và mô thức khảo cứu hiện đại, Liễu Vô Cư Sĩ còn được coi là nhân vật trí thức phát biểu về mệnh lý truyền thống.

Bộ hiện đại tử vi ra đời từ năm 1985 đến 1986, tổng cộng gồm 7 tập. Về tác giả, ngoài Liễu Vô Cư Sĩ, còn có giáo sư Hứa Hưng Trí, thuật sĩ Tuệ Canh, Quách tiên sinh, Tượng Sơn Cư Sĩ, Phi Vân Cư Sĩ,...

Trong bộ hiện đại Tử Vi (HĐTV) có một phần gọi là "Tử Vi quảng trường", tức là phần đăng thư do độc giả gửi đến và giải đáp của các tác giả, đây cũng là một sáng kiến, và cũng là nhân tố khiến bộ sách này có sức ảnh hưởng khá lớn vào lúc đó. Bộ HĐTV mỗi tập đều có đặc sắc, nhất là tập 7, có nhiều quan niệm đáng chú ý. Điều đáng được nhắc đến là nỗ lực hiện đại hóa Đẩu Số của bộ sách này. Trong đó đưa ra quan điểm cần nhấn mạnh tính thời đại trong việc tìm hiểu bản chất của Đẩu Số. Một số vấn đề khác còn đợi sự nỗ lực của hậu học. Phương hướng của phái Hiện Đại là sử dụng logic để khảo nghiệm mệnh lý, từ đó xác nhận khả năng và chỗ hạn chế của đẩu số, đây là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa đẩu số. Vì trước đó, quan niệm của người luận mệnh đẩu số là: bất kể sự tình nào cũng đều có thể dựa vào mệnh bàn mà đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không. Nhưng trong bộ HĐTV lại phủ định nguyên tắc bành trướng này, chủ trương rằng, đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu Số mới có thể luận đoán, nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ. Đây là thành tựu lớn của bộ Hiện Đại Tử Vi, tuy chỉ hoàn thành một nửa trước. Về nửa sau liên quan đến "điều kiện ở trong mối quan hệ" thì phải đợi sư phụ của ông là Tử Vân giảng giải.

Vào tháng 3 năm 1985, trong giới nghiên cứu Đẩu Số xảy ra một sự kiện lớn, đó là sự xuất hiện của bộ sách "thiên cổ bí cấp" gọi là Hoa Sơn Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số phi tinh bí nghi, là bí truyền của Tố Tâm Lão Nhân truyền lại cho Sái Minh Hoành. Sự xuất hiện của nó tạo thành một trào lưu cực lớn về sau, ban đầu được rao bán trên tạp chí Tinh tướng với giá một vạn năm ngàn nguyên (đơn vị tiền tệ của Đài Loan), sau giá nâng lên tới ba trăm vạn nguyên.

Phi Tinh phái là một chi của Bắc phái TVĐS cũng nổi rộ lên trong thời kì này, hiện đang rất thịnh hành ở Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Đại biểu nổi tiếng hiện nay là Lương Nhược Du mà sự phụ của Lương Nhược Du là Chu Thanh Hà, một cao thủ tiền bối của Phi Tinh Phái, nội dung TVĐS của phái này sẽ được trình bày đầy đủ trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.

Có nhiều người cho rằng TVĐS Phi Tinh phái là do người cận đại phát minh. Sở dĩ có sự hiểu lầm này, là do họ cứ nghĩ rằng TVĐS phi tinh bí nghi của Sái Minh Hoành là căn nguyên Phi Tinh phái. Rất nhiều người cho rằng TVĐS của Phi Tinh phái là do Sái Minh Hoành tự sáng chế ra.

Thực ra, trước khi TVĐS phi tinh bí nghi lưu truyền rộng rãi, lí luận TVĐS của Phi Tinh phái đã xuất hiện từ lâu. Vả lại, Phi Tinh Phái cũng có nhiều phân chi, Sái Minh Hoành cũng là một chi phái trong số đó, nhưng là phái được nhiều người biết đến vào thời kì này.

Ngoại trừ các bậc tiền bối như Ông Phúc Dụ, Phương Ngoại Chân, Từ Tăng Sinh, và Lương Nhược Vọng (học trò Sái Minh Hoành)... còn có một số người ít ai biết đến ở Trung Quốc lục địa, nhưng cũng là cao thủ truyền dạy theo truyền thống Bắc Phái Phi Tinh. Ngay như ở Đài Loan, chỉ nói số đồng môn cùng lứa với Sái Minh Hoành, ít nhất cũng có năm người. Hơn nữa, Sái Minh Hoành trong quyển 1 của Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi cũng có nói, "bí nghi" là do ông tập đại thành truyền thống Phi Tinh TVĐS. Cho nên, phải nói "bí nghi" là sở học của ông được truyền thừa mới đúng. Ví dụ như "Phi Tinh chuyển yết quan quyết" trong Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi (Phan Tử Ngư gọi là "Phi Yến Quỳnh Lâm", ông được bí truyền từ TQ lục địa) đã lưu truyền rộng rãi trước khi "bí nghi" xuất hiện, rất nhiều phái xem nó là "bí bảo".

Tử Vi đẩu số của bắc phái Phi Tinh (hay còn gọi là Tứ Hóa Phái) có nhiều truyền thừa khác nhau, lí luận của các chi hệ đều đại đồng tiểu dị. Đương nhiên, trong đó cũng có xuất hiện tư duy mới. Như "Đồng bộ đoán quyết" của Phương Ngoại Nhân chính là phát hiện độc đáo, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ nội chung của nó, chúng ta sẽ phát hiện kết luận của Phương Ngoại Nhân không tách rời lí luận cơ bản của Bắc Phái Phi Tinh, Phương Ngoại Nhân cũng nói thẳng, "Đồng bộ đoán quyết" chỉ là suy luận ra từ nền tảng truyền thống, chứ không phải là phát minh nguyên lý gì.

Tử Vi Đẩu Số đang trong giai đoạn hưng khởi, sự xuất hiện một nguồn tư liệu mới đã gây thêm hứng thú cho giới nghiên cứu Đẩu Số. Truyền thống Bắc Phái Phi Tinh đặc biệt ở chỗ vận dụng tứ hóa khác với truyền thống của Tam Hợp Phái. Phái này cho rằng sau khi lập xong mệnh bàn tiên thiên, trong 12 cung đều có thiên can riêng, thiên can của cung mệnh ngoại trừ dùng để tương phối với địa chi (nạp âm) để tính toàn bày bố 14 chính tinh, nó còn được dùng để bày ra một bộ tứ hóa, như vậy mệnh bàn tiên thiên sẽ thêm một tầng biến hóa, việc luận đoán cũng theo đó mà thâm sâu hơn. Càng tinh vi hơn là, không phải chỉ có cung mệnh phi xuất một bộ tứ hóa, mà 11 cung còn lại cũng vậy.

Trước tác của các cao thủ nổi tiếng trong Bắc Phái Phi Tinh gồm có Sái Minh Hoành, Tử Dương, Từ Tăng Sinh, Phương Ngoại Nhân, Khuyến Học Trai Chủ, Lương Nhược Du,v.v... đều có cống hiến đã kể. Phương pháp luận mệnh của họ khá phức tạp, nếu có điều kiện các bạn nên tìm hiểu trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.

Cũng trong khoảng thời gian này Vương Đình Chi xuất hiện và tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu, công nhận Tử vi Đẩu Số Giảng Nghĩa của Lục Bân Triệu là truyền bản của Khâm Thiên Giám Bí Cấp, và tiết lộ nội dung bí truyền Tử Vi Tinh Quyết của môn phái Trung Châu. Ảnh hưởng của Vương Đình Chi khá lớn ở Hương Cảng, về sau lan rộng qua Đài Loan, Singapore, Bắc Mĩ, v.v... kéo dài cho đến ngày nay. Phương pháp luận mệnh của ông là nội dung chủ yếu của bộ Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tam Hợp Phái mà chúng tôi biên soạn để giới thiệu đến bạn đọc ở đây.

Nhờ sự thành công của bộ Hiện Đại Tử Vi, một số tác giả cũng bắt đầu viết sách, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh, v.v... Trong số đó, các công trình của Tuệ Canh Thuật Sĩ là có ảnh hưởng nhất. Tác phẩm của Tuệ Canh là Tử Vi Đẩu Số khai vận toàn tập, trong đó quan niệm và ứng dụng của 12 cung, cho tới tính chất các tinh diệu đều được ông giảng giải rất tinh tế. Đây là sự kiện xảy ra sau năm 1988.

Cũng trong khoảng thời gian này, có một số học giả mới cũng trước thư lập thuyết, trong đó cũng có vài người đáng chú ý, như Ngô Đông Tiều trong Đẩu số tân quan niệm, Trần Thế Hưnh trong Tử Vi Đẩu Số đạo luận, Phúc Canh trong Đẩu Số tâm lí học, Tượng Sơn Cư Sĩ trong Thiên Tinh Đẩu Số bí cấp và Thiên Tinh Đẩu Số chân cơ điển phạm. Nhưng sách này phần lớn thảo luận về đặc tính cơ bản của tinh diệu và các cách cục, cũng có thành tựu.

Trong thời gian này, Liễu Vô Cư Sĩ mang Tử Vi Đẩu Số tuyên vi và Tử Vi Đẩu Số toàn tập ra chú giải; sau đó ông còn đem hết tâm lực ra để hệ thống hóa phương pháp Đẩu Số của mình, lúc này Liễu Vô Cư Sĩ đã dần dần có những quan điểm khác với sư phụ của mình là Tử Vân. Ông đề xuất một số điều, ví dụ như: Bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và các sao cấp 2; ông còn đề xuất: phế bỏ Hóa Quyền và Hóa Khoa, tứ hóa chỉ còn Hóa Lộc và Hóa Kị; ngoài ra còn có một số nguyên tác "khoa học thích dụng tính".

Lúc này TVĐS lộ rõ sức quyến rũ của nó. Ngày nay, có thể nói TVĐS chia thành hai dòng chính:

- Một là, chủ yếu lấy tinh diệu để luận đoán, gọi chung là Tam Hợp Phái (hay Nam Phái). Trong số các chi lưu thuộc Tam Hợp Phái, thì phái Trung Châu Vương Đình Chi là có hệ thống hoàn bị nhất.
- Hai là, chủ yếu lấy "tứ hóa" để luận đoán, gọi chung là Tứ Hóa Phái (hay Bắc Phái). Trong số các chi lưu thuộc hệ phái Tứ Hóa, thì Khâm Thiên Môn là có hệ thống nghiêm cẩn nhất.

Riêng tại Trung Hoa lục địa, trào lưu nghiên cứu thuật số nói chung, TVĐS nói riêng, cũng khá rầm rộ. Các lưu phái Tử Vi Đẩu Số ở đây phần lớn đều có khuynh hướng tổn hợp hai dòng chủ lưu kể trên. Đáng kể nhất có:

- Tử Vi phái do Vũ Quảng Thịnh sáng lập, chủi trương dung hợp tinh hoa của các phái hệ, với nguyên tắc "Đơn giản và trực tiếp thâm nhập chủ đề". Lí luận đẩu số của ông rất có giá trị tham khảo.

- "Kì Môn Phái", đại biểu hiện nay là Đại Đức Sơn Nhân với bộ Tử Vi Đẩu Số tinh thành, v.v... Ông chủ trương lấy các nguyên tắc của bản môn làm nền tảng, và cũng dung hợp tinh hoa của các phái để luận đoán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sơ lược về lịch sử Tử Vi Trung Hoa nói chung và Trung Châu phái nói riêng

Tính chất tương sinh của ngũ hành biểu hiện như thế nào?

Tương sinh của ngũ hành tức là chỉ quan hệ tương hỗ sinh sôi, tương hỗ thúc đẩy trong ngũ hành. Quy luật này mà: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tương sinh của ngũ hành tức là chỉ quan hệ tương hỗ sinh sôi, tương hỗ thúc đẩy trong ngũ hành. Quy luật này mà: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tính chất tương sinh của ngũ hành biểu hiện như thế nào?

Theo các kiến thức về phong thủy mà chúng tôi tổng hợp được thì sự tương sinh của ngũ hành như sau:

Mộc sinh Hỏa: Mộc có tính ôn nóng, lửa nằm phục ở trong gỗ, khi khoan châm vào thì bật ra,nên Mộc sinh Hỏa.

Hỏa sinh ra Thổ: Hỏa nóng có thể đốt cháy Mộc, Mộc cháy thành tro, tro là bản thể của Thổ, nên Hỏa sinh ra Thổ.

Thổ sinh ra Kim: Kim nằm trong đá ở núi, do ẩm ướt mà sinh ra, tích tụ Thổ thành núi, núi tất có đá, nên Thổ sinh ra Kim.

Kim sinh ra Thủy: Khí thiếu âm, ẩm nóng mà thoát hơi nước ra ngoài, nung Kim cũng chảy thành nước, cho nên đá núi cũng thấm nước, nên Kim sinh ra Thủy.

Thủy sinh ra Mộc: Vì nước ẩm ướt mà có thể sinh ra rong rêu cây cỏ,… nên Thủy sinh ra được Mộc.

Trên đây là 5 loại ngũ hành chính, vậy trong những loại này thì được phân chia như thế nào? Bạn có thể tham khảo thêm bài viết Phương pháp xác định loại ngũ hành theo năm sinh

Hàng ngày bằng mắt thường chúng ta có thể nhìn thấy: Khi đốt cháy cây củi sinh ra lửa, lửa thiêu cháy vạn vật đều sinh ra tro đất, luyện từ trong đá mà ra kim loại, kim loại hóa lỏng chảy thành nước, nước tưởi cho cây thì cây sinh trưởng.

Những hiện tượng tự nhiên như vậy là biểu hiện bên ngoài rất sợ lược mà mắt thường ta nhìn thấy nhưng nó cũng là một nhân tố hình thành tương sinh của Ngũ hành. Khi xác định quan hệ tương sinh từ một mối liên bên trong sự vật, theo thời tiết mà phân tích thì thấy.

Mùa xuân sinh ra mua hạ, mùa hạ sinh ra mùa thu, thu sinh ra đông, đông sinh ra xuân, … cứ thế một vòng tuần hoàn lại tiếp tục, chẳng có khi nào kết thúc. Nhìn từ thứ tự vận chuyển của trời đất thì cũng có quan hệ tương sinh, trời đất có vạn vật, có sự sống, nguyên do là nhờ có nước, nước là nguồn sống trên địa cầu, có nước mới có điều kiện sống chủ yếu cho động thực vật sinh trưởng, thực vật sinh trưởng tức là có Mộc. Rừng rậm tự bốc lửa cháy rừng, hoặc người ta khoan vào cây để lấy lửa, nhiên liệu đầu tiên của loài người chủ yếu là cây cối, trong cây sinh ra lửa, do có cây tồn tại thì mới có lửa, cho nên ta nói Mộc sinh ra Hỏa.

Hỏa là nguồn nhiệt lượng trên địa cầu, địa cầu là thế giới có băng tuyết, chỉ có lửa mới hình thành được đất. Kim thạch lộ ra dưới lòng đất , là sự biến hóa của khí đất, cho nên ta nói là Thổ sinh ra Kim. Hầu như mọi vật bị thiêu cháy đều sinh ra tro hoặc thành cái hư vô, duy chỉ có kim thạch bị nhiệt luyện thì hóa lỏng chảy ra nước, cho nên nói Kim sinh Thủy. Tương sinh tóm tắt thành những câu thơ như sau:

Tương sinh quy luật ngũ hành

Nước nhiều ẩm ướt cây xanh mọc liền

(Thủy sinh Mộc – màu xanh)

Củi khô nhóm lửa đỏ lên

(Mộc sinh Hỏa – màu đỏ)

Than tro tích tụ tăng thêm thổ hoàng

(Hỏa sinh Thổ - màu vàng)

Đất mòn lộ trắng đồng gang

(Thổ sinh Kim -  màu trắng)

Luyện kim chảy nước loáng vang đen xì

(Kim sinh Thủy  - màu đen)

Xem thêm: Các học thuyết về phong thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính chất tương sinh của ngũ hành biểu hiện như thế nào?

5 quái vật ám ảnh đời sống tâm linh các tộc người

Những quái vật đáng sợ trong đời sống tâm linh của các tộc người phán ánh nỗi khiếp sợ trong sâu thẳm con người.
5 quái vật ám ảnh đời sống tâm linh các tộc người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Sâu tử thần trong sa mạc Gobi ( Mông Cổ)

5 quai vat am anh doi song tam linh cac toc nguoi hinh anh
 
Từ xa xưa, những người dân du mục ở Mông Cổ gọi chúng là Allghoi Khorkhoi hay “sâu ruột đầy máu”. Theo truyền thuyết, loài sâu này có khả năng kỳ bí là phun chất độc acid vàng gây chết người ngay lập tức khi tiếp xúc hoặc có thể tiêu diệt con mồi từ xa bằng một luồng điện siêu mạnh.
 
Việc con quái vật đáng sợ ấy có thật hay chỉ tồn tại trong truyền thuyết đến nay vẫn còn là điều gây tranh cãi.
 
2. Quái vật Ahuizotl (Mexico)

5 quai vat am anh doi song tam linh cac toc nguoi hinh anh
 
Ahuizotl là một quái vật đáng sợ trong thần thoại của người Aztec. Ahuizotl trong tiếng Mexico có nghĩa là chó nước. Theo mô tả truyền miệng của người dân địa phương, con vật này giống một con chó nhỏ có bàn tay khỉ ở cuối đuôi dùng để bắt con mồi. Truyền thuyết này bắt nguồn từ tập tục hiến tế người của tộc Aztec. 
 
3. Yêu tinh nhện Jorogumo

5 quai vat am anh doi song tam linh cac toc nguoi hinh anh
 
Trong văn hóa của Nhật Bản, điều đáng sợ nhất không phải là những con quái vật to lớn, gớm ghiếc mà nguy hiểm hơn chính là khi bị yêu tinh nhện Jorogumo quyến rũ.
 
Truyền thuyết về Jorogumo bắt đầu từ thời kỳ Edo (1603-1868) kể về một con nhện sống 400 năm và biến thành yêu tinh. Nó thường biến thành cô gái xinh đẹp trong những quán trọ hoặc nhà thờ tại các vùng hoang vắng. Sau đó, nó chơi đàn, thổi sáo để quyến rũ đàn ông vào hang ổ của nó. Những chiếc chân gớm ghiếc sẽ được giấu dưới các dải lụa hồng.   Sau khi vào đến hang, “những người đàn ông” sẽ bị giam cầm, trói bằng sợi tơ và mạng nhện, yêu tinh nhện sẽ tới, tiêm nọc độc rồi từ từ tiêu hóa con mồi.
 
4. Quỷ Abaddon trong Kitô giáo

5 quai vat am anh doi song tam linh cac toc nguoi hinh anh
 
Trong tất cả quỷ trong thần thoại của Kitô giáo, Abaddon (Kẻ hủy diệt) là quái vật ghê gớm nhất. Trong sách Khải Huyền, quỷ Abaddon được đặt tên theo một ngôi sao rơi xuống Trái Đất mở ra hố không đáy. Từ miệng hố tràn ra một đội quân lai giữa ngựa và châu chấu.
 
Những con quỷ này có hình dáng đáng sợ với răng sư tử và đuôi bọ cạp. Chúng tràn khắp Trái đất, hành hạ, tiêu diệt bất cứ ai không được rửa tội. Abaddon được biết đến như vua của đội quân này bởi nó nắm giữ sức mạnh của quỷ Satan. 
 
5. Ngạ quỷ trong tôn giáo phương Đông

5 quai vat am anh doi song tam linh cac toc nguoi hinh anh
 
Ngạ quỷ hay còn gọi là quỷ đói. Trong Phật giáo, Ấn Độ giáo hay đạo Sikh, đó là những linh hồn chết đói nhưng lại không thể ăn.   Ngạ quỷ là những kẻ khi sống trên trần thế vô cùng keo kiệt ích kỷ, lòng dạ hẹp hòi, sống ác, trong tâm còn nhiều tham sân si nên khi chết không thể siêu thoát mà bị đầy vào cõi địa ngục âm ti.   Chúng có cái bụng to tượng trưng cho lòng tham, chiếc cổ nhỏ, vẻ mặt hung dữ, quái dị. Vào ngày Rằm tháng 7 – ngày xá tội vong linh, Phật tổ cho phép chúng được ăn chén cơm còn những ngày còn lại, ngạ quỷ phải ăn cục than nóng đỏ hoặc lửa và chịu cực khổ quanh năm.   ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 quái vật ám ảnh đời sống tâm linh các tộc người

Xác định tọa và hướng của dương trạch –

Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào. Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào.

8-497a6

Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu. bạn cần lấy mặt ánh sáng của căn nhà Làm hướng. Cái gọi là mặt ánh sáng chính là lấy mặt mà nhà hay mở cửa sổ nhiều nhất làm hướng. Thường Là năm ở mặt cửa sổ sát đất, mặt ánh sáng của ngôi nhà này là hướng Bắc, vì thế ngôi nhà này là dương trạch toạ Nam hướng Bắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xác định tọa và hướng của dương trạch –

Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục

Trên đây là những sự thật khiến chúng ta phải giật mình chấn động trong lời kể sau đây của một vị hòa thường đã khai mở thiên mục, nói về lịch sử thuở xưa
Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phát hiện những bí mật kỳ diệu của thân thể con người, sự thật kinh hoàng về thuyết tiến hóa của Darwin, hay tiết lộ về những phụ thể là động vật cáo, chồn … bám lên thân thể con người ngày nay. Đó là những sự thật khiến chúng ta phải giật mình chấn động trong lời kể sau đây của một vị hòa thường đã khai mở thiên mục.

Trước hết tôi xin được giới thiệu một chút, bản thân tôi năm nay đã 46 tuổi rồi, xuất gia làm tăng đã hơn 20 năm. Quê nhà của tôi ở tỉnh Vân Nam, nhưng tôi lại xuất gia ở một ngôi chùa của Miến Điện. Quê nhà chúng tôi rất kính ngưỡng Phật Pháp, gần như từng làng từng thôn, từng nhà từng hộ đều tín Phật, nếu như có người nào đó xuất gia làm tăng, toàn bộ gia tộc của người này đều sẽ cảm thấy rất tự hào.

Theo lời kể của mẹ tôi, lúc tôi vừa mới đầy tháng, thì đã được thọ giới, trở thành đệ tử của Phật. Tôi xuất gia vào năm 1990, lúc đó tôi 25 tuổi, lúc đó đứa con trai lớn của tôi đã được 8 tuổi. Vào ngày tôi xuống tóc, người dân trong thôn tôi đều đến chúc mừng tôi, vợ của tôi cũng rất vui mừng. Chỗ chúng tôi có phong tục như thế này, phàm là những người có gia đình xuống tóc xuất gia, vợ con của họ đều sẽ được cả làng chăm sóc tốt.

Ngôi chùa mà tôi xuất gia rất nhỏ, thêm tôi vào nữa thì cũng không đến mười người. Sư phụ của tôi là một hòa thượng rất già, những lúc bình thường không hay nói chuyện, nhưng mọi người dân trong làng gần đó lại rất tôn kính ông. Dưới sự dạy dỗ của sư phụ, tôi đã bắt đầu cuộc sống tu hành. Ngôi chùa chúng tôi thuộc về Phật giáo tiểu thừa, chỉ cung phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là tổ tôn, còn những vị Phật hay Bồ Tát khác, chúng tôi hết thảy đều không thừa nhận.

Cuộc sống tu hành cơ bản chính là như vậy: trồng trọt, ăn cơm, ngồi thiền tụng Kinh, ngoài ra cũng không có nội dung gì khác nữa, nhưng những điều này đối với tôi mà nói lại rất khó khăn, bởi vì tôi vốn không biết chữ, xem không hiểu kinh Phật, vậy nên chuyện tụng Kinh này tôi chính là làm không được. Tuy nhiên, sư phụ không cưỡng cầu tôi phải biết chữ, ông nói không biết chữ có khi trái lại còn là việc tốt, xem không hiểu kinh Phật cũng không hẳn là chuyện xấu, ông chỉ yêu cầu tôi nghiêm thủ giới luật, đả tọa tham thiền, vì vậy đã miễn việc tụng Kinh. Đương nhiên, sau này tôi lại biết chữ, nhưng đó là có cơ duyên khác dẫn đến.

Phật giáo tiểu thừa chúng tôi là thông qua trì giới nhiếp tâm, từ nhiếp tâm mà nhập định, từ nhập định mà khai mở trí huệ. Cũng không biết là tại sao, các sư huynh sư đệ thậm chí bao gồm cả sư phụ của tôi trong đó, nhập định đều rất khó khăn, trong khoảng một năm, khó mà thật sự nhập định được mấy lần, nhưng tôi thì lại khác, sau khi tu hành được ba tháng, tôi liền có thể nhập định trong lúc ngồi thiền.

Tôi biết, rất nhiều cư sĩ tại gia bản thân cũng từng ngồi thiền, nhưng lại không nhất định thể nghiệm qua cảm giác của việc nhập định. Thật ra nhập định chính là như vậy, các vị ngồi xếp bằng ở đó, khi tạp niệm dần dần diệt tận, mọi người sẽ tiến nhập vào một loại cảm giác tĩnh lặng hoàn toàn không còn một niệm, trong trạng thái tĩnh lặng này, công năng cảm quan của thân thế người toàn bộ đều mất hết, bản thân cảm thấy chỉ mới qua đi có mấy phút, thậm chí là mấy giây, nhưng khi xuất định xem lại thời gian, lại là đã trôi qua mấy tiếng đồng hồ rồi. Sư phụ nói tôi sở dĩ có thể nhập định mau chóng như vậy, thật ra chính là chỗ tốt do không biết chữ mang đến.

Thời gian mùa hè năm 1991, tôi xuất gia đã được hơn 1 năm rồi. Một buổi tối nọ, dưới sự dẫn dắt của sư phụ, toàn bộ hòa thượng trong chùa chúng tôi vây thành một vòng tròn ngồi thiền trước Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca, bất giác tôi lại nhập định. Tuy nhiên, lần nhập định lần này không giống như những lần trước, lúc đó tôi tự mình cảm giác hẳn là đã nhập định được khoảng một giờ đồng hồ rồi, nhưng khi xuất định, các vị sư huynh nói với tôi rằng, tôi đã ở trước tượng Phật nhập định ròng rã suốt bảy ngày liền, hơn nữa trong bảy ngày này, phía trên đỉnh đầu của tôi cứ mãi có vầng sáng bảy màu lưu chuyển, ngày đêm không ngừng, cho dù những người bình thường dùng mắt thịt cũng có thể nhìn thấy được, nhưng vầng sáng này đến từ nơi nào, lại là điều ai cũng không nói rõ được.

Sau khi xuất định lại qua mấy ngày nữa, tôi ngẫu nhiên phát hiện, bản thân mình nhắm mắt lại cũng có thể nhìn thấy đồ vật, hơn nữa còn nhìn được rõ ràng hơn cả khi nhìn bằng con mắt. Tôi đi thỉnh giáo sư phụ rằng đây là chuyện như thế nào, ông nói tôi chính là đã khai mở thiên nhãn thần thông, là chuyện tốt. Từ đó, tôi càng cố gắng dụng tâm tu hành. Đến đầu năm 1992, có một buổi sáng sớm khi tôi bái lạy trước tượng Phật, tôi đột nhiên phát hiện Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca phát ra ánh hào quang sáng chói, đồng thời cảm thấy có một luồng nhiệt giống như lửa từ đỉnh đầu của tôi tràn vào trong thân thể, dần dần tràn ngập ra khắp toàn thân, cả con người tôi cũng đã tiến nhập vào một loại trạng thái mơ hồ, tựa hồ như thời gian đều đã ngừng lại vậy. Cảm giác đó mĩ diệu phi thường, giống như là tắm nước nóng trong mơ vậy, tôi có một loại cảm giác đột nhiên đại ngộ, đồng thời thiên nhãn thần thông của tôi đã tăng tiến thêm một bước, ngay tại lúc đó, tôi đã nhìn thấy Pháp thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trên tượng Phật. Chỉ đây thôi vẫn còn chưa hết, tôi còn nhớ lại rất nhiều sự tình của những đời trước kiếp trước.

Thì ra, trong hai kiếp trước của quá khứ, tôi đều là hòa thượng xuất gia tu hành, nhưng vì nghiệp tội đời đời kiếp kiếp tích lũy quá nhiều, chướng ngại trùng trùng, đều không tu thành Chánh Quả. Ấy vậy, mỗi lần trước lúc viên tịch, tôi đều phát thệ nguyện rằng đời sau vẫn sẽ tiếp tục tu hành, vậy nên đời này lại đi vào cửa Phật tiếp tục duyên xưa. Bởi sự tu hành trong hai đời trước, nghiệp tội của tôi đã tiêu, lại tích lũy được vô lượng công đức, vậy nên lần tu hành này đã trở nên dễ dàng vô cùng, là điều mà những người tu hành bình thường vốn không có cách nào so sánh được.

Dựa vào căn cơ cùng với hồng nguyện ba kiếp của tôi, chỉ cần ý chí kiên định, đời này tu thành Chánh Quả là chuyện nhất định. Đáng buồn thay, tôi vừa mới nhớ lại những chuyện đời trước, Pháp thân của Đức Phật liền khai thị cho tôi, Phật Tổ nói Pháp mà Ngài truyền đã không còn được nữa rồi, vốn không còn có thể độ nhân được nữa, càng không thể khiến người ta tu thành Chánh Quả, hơn nữa Phật Tổ cũng sắp buông bỏ thế gian, không còn quản chuyện của nhân gian nữa.

Khi nghe tin dữ này, lòng tôi không khỏi đau đớn, lúc đó hai hàng nước mắt chảy mãi không ngừng, tôi nói Phật Tổ buông tay cõi người, như vậy ai sẽ trông coi độ hóa cho những đệ tử tín phụng Người như chúng tôi đây? Pháp thân của Đức Phật Thích Ca nói, người này đi rồi, tự nhiên sẽ có người khác đến thay, trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, tự nhiên sẽ có con đường có thể độ hóa các con đến bờ bên kia của Niết Bàn. Nói xong, Pháp thân của Đức Phật Thích Ca liền biến mất không thấy đâu nữa. Tôi đem tình huống mà Đức Phật nói với tôi kể lại với sư phụ và những người khác, sư phụ hỏi tôi sẽ dự tính thế nào, tôi đã đắn đo suy nghĩ rất lâu, nói với sư phụ rằng tôi sẽ đi vân du, đi tìm Pháp, đi tìm con đường thông đến bờ bên kia của Niết Bàn.

Phần trên nói tôi có thiên nhãn thần thông, tôi biết rất nhiều người cảm thấy hứng thú đối với cái này, ở đây, không ngại thì nói một chút vậy. Cái được gọi là thiên nhãn (thiên mục), thật ra chính là thể tùng quả của con người, cũng chính là Nê Hoàn cung mà Đạo gia nói đến. Mỗi người đều có thể tùng quả, chỉ cần trải qua tu luyện, thông qua năng lượng gia trì, đều có thể mở được thiên nhãn, cái này không có gì là thần bí cả.

Đạo sĩ tu luyện 300 năm trong núi sâu vén mở bí mật về công năng đặc dị

Dùng thiên nhãn nhìn thế giới, hoàn toàn không phải là cùng một khái niệm với con mắt thịt này, không phải là điều mà người thường có thể tưởng tượng được. Chúng ta dùng mắt thịt để nhìn đồ vật, thì đứng ở một chỗ chỉ có thể nhìn được một phương hướng, một tầng mặt, đúng vậy không? Dùng thiên nhãn nhìn thì sao, là toàn bộ phương vị, lập thể, cho đến hết thảy tín tức. Chính là nói chỉ nhìn thoáng qua một cái thì bốn mặt tám hướng, trên dưới trái phải, từ trong đến ngoài, toàn bộ tín tức nhìn không sót cái gì cả. Ví như nhìn một người, các vị dùng mắt thịt chỉ có thể nhìn được một khía cạnh của anh ta, hơn nữa chỉ có thể nhìn được bề mặt, còn dùng thiên nhãn thì sao, mỗi một tế bào của người này tôi đều có thể nhìn được hết sức rõ ràng, ngay cả trong lòng anh ta đang nghĩ cái gì, đều có thể nhìn ra được.

Thiên nhãn thông là gì, vì sao có thể nhìn thấy trước tương lai?

Sau khi khai mở thiên nhãn, đặc biệt là sau khi nhớ lại những việc trước đây của tôi, tôi liền lại có thể biết chữ, nhưng đều là chữ phồn thể, chữ giản thể tôi cũng đọc được, những quyển sách khác, ngay cả lật cũng không cần lật, tôi đảo mắt một cái toàn bộ đều biết hết. Bây giờ những cái gọi là khoa học kỹ thuật cao, trong mắt của tôi, đều là rất đơn giản, nhìn một cái là xuyên qua toàn bộ.

Thiên nhãn trong Phật gia chia thành năm tầng thứ:

  1. Nhục nhãn thông
  2. Thiên nhãn thông
  3. Huệ nhãn thông
  4. Pháp nhãn thông
  5. Phật nhãn thông.

Khi tôi vừa mới khai mở thiên nhãn là đã ở tầng thứ nhục nhãn thông, đợi đến khi bắt đầu vân du, chính là tầng thứ Pháp nhãn thông rồi. Đến bước Pháp nhãn thông này rồi, tôi không những có thể nhìn được toàn bộ tín tức của người và động vật, mà còn có thể nhìn được lịch trình ba đời quá khứ của một sinh mệnh, có thể nhìn được nhân duyên ba đời trong quá khứ. Chỉ đáng tiếc là, tôi nhìn không được con đường tương lai của một sinh mệnh. Thật ra, cái gọi là thiên nhãn này, không phải là mê tín gì cả, ngay cả dùng đạo lý của khoa học cũng có thể hoàn toàn giải thích được.

Ví dụ như, mắt thịt của người thường chỉ có thể nhìn thấy những ánh sáng nhìn thấy được, còn những tia X , tia gamma gì đó, con người không nhìn thấy chúng được. Mà những tia sáng có lực xuyên thấu còn mạnh hơn tia gamma thì nhiều không đếm hết, có thể nói là vô hạn, hơn nữa không đâu không có. Thể tùng quả có thể nhìn thấy, cảm nhận thấy những tia sáng này, vì vậy có thể nhìn xuyên qua thân thể người, có thể nhìn thấy những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Thể tùng quả của những người bình thường là bị phong bế, thông qua tu luyện, có thể dần dần đả khai loại phong bế này, khiến nó có thể nhìn được đồ vật.

Như vậy tại sao tôi lại biết được trong lòng người khác đang suy nghĩ những gì? Lại làm sao mà biết được nhân duyên ba đời của người khác? Cái này càng đơn giản hơn.

Rất nhiều người đều đã biết, đại não của con người, có khoảng 90% là bị phong bế, căn bản là không sử dụng được. Những người đần độn, bị phong bế nhiều một chút, có thể đến 95%, những người thông minh, thì bị phong bế ít hơn một chút, có thể đại não của anh ta chỉ bị phong bế 85%. Còn có những người, não bộ bị cắt bỏ nửa bên, chỉ số thông minh gì đó một chút cũng không bị ảnh hưởng, có thể sinh hoạt bình thường.

Gặp gỡ những người vẫn may mắn sống sót dù mất một phần não
Như vậy điều này cũng làm nảy sinh một vấn đề, phần lớn đại não kia làm những gì? Tôi xin nói cho các vị rằng, đó là dùng để tồn trữ kí ức, hết thảy kí ức trong đời đời kiếp kiếp của các vị đều tồn trữ trong đó, thậm chí tín tức của toàn bộ vũ trụ này trong đó đều có cả, chỉ là bị phong bế, vậy nên các vị dùng không được mà thôi. Những tín tức này, dùng thiên nhãn mà nhìn, đều là hình ảnh rõ ràng hoàn chỉnh, hơn nữa còn có màu sắc, giống như là ti vi vậy, ngay cả âm thanh đều có cả. Trong lòng bạn nghĩ cái gì, cũng sẽ hình thành hình ảnh ở trong đại não, vậy nên người ta nghĩ cái gì, những trải nghiệm trong quá khứ hay đời trước của ai đó, thì người có thiên nhãn thần thông nhìn một cái là rõ hết.

Thiên nhãn mở rồi, ngoài việc có thể nhìn thấy những gì mà con người không thể thấy được ra, tôi còn có thể nhìn thấy một số Thần Tiên, quỷ quái và những linh thể, hơn nữa còn có thể câu thông với họ. Nhưng thông thường tôi không hiểu được họ, bởi tôi là người đã từng nghe qua Phật Pháp, không dễ lý giải được những Thần linh ở tầng thứ tương đối thấp này. Bạn chắc chắn sẽ hiếu kỳ, Thần Tiên, quỷ quái là một loại phương thức tồn tại như thế nào? Hình thức đó quá nhiều rồi, phương thức tồn tại các dạng các loại đều có, muôn màu muôn vẻ vậy, nhưng những thứ này mà so với các Đấng Giác Giả thì thật là kém xa, ngay cả so sánh cũng đều không thể nào so sánh được, vậy nên tôi cơ bản là không quan tâm đến họ.

Có người có thể biết rằng, động vật là không được phép nghe Pháp, cũng không cho phép chúng tu luyện. Tại sao lại như vậy? Bởi vì động vật không có các nhân tố thiết yếu cần phải có để tu luyện Phật Pháp, cũng chính là thân thể người. Vậy bản chất khác biệt của con người và động vật rốt cuộc là ở chỗ nào? Có hai điểm, một cái là đan điền, một cái khác chính là Nê Hoàn cung, cũng chính là thể tùng quả. Trong đan điền tồn trữ khí tiên thiên trong vũ trụ, loại khí này là siêu việt hơn cả hai khí âm dương, lại được gọi là nguyên khí, vô cùng trân quý. Còn thể tùng quả, nó chính là hình ảnh thu nhỏ của đại thiên thế giới, linh hồn của con người chính là bị phong ấn ở nơi này, bên trong có thụ ấn của Phật để lại cho con người trước khi các vị chuyển sinh vào cõi người, tại sao nói ai ai cũng đều có Phật tính, chính là nhờ vào cái thụ ấn này, đây cũng chính là nơi tồn tại bản tính lương thiện của con người. Có hai thứ như vậy, con người mới có thể tu luyện, mới xứng đáng được nghe Phật Pháp. Thân người sở dĩ trân quý như vậy, chính là trân quý ở chỗ này. Nói con người là anh linh của vạn vật, chính là bởi vì trên thân thể của con người có thụ ấn mà Phật để lại.

Động vật nó không có thể tùng quả, cũng không có đan điền, cũng chính là nó không có trang bị bản tính lương thiện, vậy nên không để nó nghe Pháp. Không tin bạn xem mẫu giải phẫu của một số động vật xem, bất luận là động vật nào, đảm bảo là không có thể tùng quả, thứ này chỉ có con người mới có. Nói đến đây, tôi nghĩ đến thuyết tiến hóa của Darwin, nói con người là khỉ dần dần tiến hóa mà thành, đây hoàn toàn là ăn nói xằng bậy. Các nhà khoa học, nhà y học hiện đại, giải thích đối với thể tùng quả là con mắt thứ ba đã bị thoái hóa của con người. Như vậy được thôi, tại sao con khỉ, tinh tinh, vượn, khỉ đầu chó cho đến hết thảy các loài động vật linh trưởng này, đều chỉ có hai con mắt vậy? Chúng sao không có ba con mắt? Hơn nữa khi người ta thử giải phẫu những con động vật này, chúng nó đều không có thể tùng quả, điều này giải thích thế nào đây?

con người
Mục đích chính của tà thuyết xằng bậy của Darwin là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, để mọi người tin rằng bản thân mình là con khỉ tiến hóa thành.

Xin nói rõ với các vị rằng, tôi thông qua thiên nhãn đã nhìn thấy được tình huống chân thật, Darwin thật ra là quỷ vương chuyển sinh vào cõi người, mục đích chính là làm loạn nhân gian, thuyết tiến hóa mà ông ta đưa ra, mục đích chính là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, để mọi người tin rằng bản thân mình là con khỉ tiến hóa thành, mà con người lại thật sự đã tin vào cái tà thuyết của Darwin, đây quả thật là điều sỉ nhục nhất cũng là điều tức cười nhất của con người. Tại sao Đức Phật Thích Ca bỏ mặc thế gian con người rồi, một trong những nguyên nhân chính là đại bộ phận con người đều đã không tin vào sự tồn tại của Thần Phật nữa, Pháp mà Phật truyền lại cũng không độ hóa nổi những loại người này, vì vậy Đức Phật cũng chỉ có thể không còn quản nữa.

Thần Phật đại trí đại huệ, đại từ đại bi, có đủ Thần thông vô thượng, nhưng cũng có vấn đề mà Thần Phật không thể giải quyết được, đó chính là nhân tâm. Nhân tâm không biến đổi, Thần Phật cũng không còn cách nào.

Người hiện đại không còn tin vào Thần Phật, cũng không muốn tu luyện Phật Pháp, nhưng động vật thì lại không phải vậy. Động vật nó không có thể tùng quả, như vậy linh hồn và đại não của nó cũng chính là không có bị phong ấn, trí huệ hoàn toàn khai mở. Các vị tự mình cảm thấy bản thân thông minh hơn động vật, thật ra các vị thua xa nó nhiều lắm, động vật nó cái gì cũng đều minh bạch, vậy nên động vật chính là trăm phương nghìn kế muốn có được thân thể người, dùng để tu luyện. Đây chính là tình huống chân thật của hôm nay, rất nhiều người trên thế giới này, các vị đừng nhìn thấy họ có hình người, cũng nói tiếng người, nhìn vào chính là con người, nhưng họ từ sớm đã không còn là người nữa, mà thật ra chính là linh hồn của động vật bám lên thân thể người.

Những người chủ động đi làm kỹ nữ, 99% có phụ thể là cáo. Chúng dùng phương thức này để lấy cắp tinh huyết của con người. Một đoạn thời gian trước, Bắc Kinh không phải đã truy ra một kỹ viện gọi là “thiên đường chốn ở nhân gian” hay sao, những người phụ nữ bán dâm trong đó, toàn bộ đều là hồ yêu phụ thể, quả thật yêu khí ngất trời. Tại sao nói rằng đến chốn ăn chơi kỹ viện sẽ giảm phúc giảm thọ đây, chính là vì bên trong cơ thể của những kỹ nữ này có quá nhiều yêu quái, họ chính là dựa vào phương thức này để ăn cắp tinh khí của con người.

Mọi người chắc biết người sống thực vật chứ, nhục thể đó vốn không có tổn thương gì, các cơ quan chức năng đều bình thường, tại sao người thực vật lại không có ý thức tư tưởng? Bởi vì linh hồn của họ sớm đã tiến nhập vào luân hồi rồi, đã không còn ở đó nữa.

  • Có những người thực vật sau bao nhiêu năm lại tỉnh dậy, tuy nhiên ký ức bị mất đi quá nhiều, trí lực cũng giảm đi rất nhiều. Phàm là những tình huống này, phần lớn đều là động vật phụ thể.
  • Có một số động vật thời gian tu luyện ngắn ngủi, đạo hạnh còn kém cũng rất vô tri, nó không biết rằng bám lên thân thể người rồi, thì chính là không xuống được nữa, hơn nữa trí huệ của nó cũng sẽ bị phong bế
  • Vì vậy nó hễ bám lên thân thể người, người thực vật đó liền tỉnh dậy, nhưng trí lực lại rớt xuống trầm trọng.

Đương nhiên, có những con động vật đã tu luyện hơn cả trăm nghìn năm, có được thần thông rất lớn, lúc này nó dẫu có lên thân thể người đi nữa cũng sẽ không xuất hiện vấn đề này, xem ra thì thấy tất cả đều rất bình thường, những người bình thường căn bản vốn không phát hiện được.

Chuyện người tu luyện kể ra đây, mục đích cũng là khuyến thiện, tu tâm dưỡng tính, đừng bị tà ác dẫn dụ thành mê mờ, tâm sáng tỏ thì mới có thể nhìn ra chân tướng mọi việc thế gian. Chân tướng này vốn là điều khiến bất kì ai cũng có thể cảm thấy kích động, nhưng mong các bạn có thể tu khẩu nghiệp, đừng phỉ báng Thần Phật để rồi tự rước họa cho bản thân, cửa địa ngục chờ đón. Tin hay không tin là do bạn quyết định, phúc họa cũng theo đó mà thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục

Chú ý trong phòng làm việc nhân viên theo phong thủy –

Công việc suôn sẻ, các kế hoạch diễn ra như ý, được sếp tin cậy… là những mong ước của hầu hết dân văn phòng. Và phong thủy tại góc làm việc của bạn cũng hỗ trợ một phần. Không ngồi quay lưng ra cửa Cửa chính hay cửa phụ đều là luồng đón khí tự nhiên
Chú ý trong phòng làm việc nhân viên theo phong thủy –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Công việc suôn sẻ, các kế hoạch diễn ra như ý, được sếp tin cậy… là những mong ước của hầu hết dân văn phòng.

phong lam viec nhan vien Chú ý trong phòng làm việc nhân viên theo phong thủy

Và phong thủy tại góc làm việc của bạn cũng hỗ trợ một phần.

Không ngồi quay lưng ra cửa

Cửa chính hay cửa phụ đều là luồng đón khí tự nhiên vào phòng, nếu lưng đối diện với các cửa sẽ khiến tinh thần bạn luôn căng thẳng, luôn có cảm giác ai đó để ý, quan sát. Về lâu dài dễ làm bạn mất tập trung vào công việc, dễ nóng giận, thậm chí mắc các bệnh thận, đau lưng. Vì vậy, vị trí ngồi mặt đối diện với cửa bao giờ cũng tốt nhất và tốt cho công việc bạn đang làm.

Không nên cắm hoa đào

Cắm hoa đào tươi hay nhựa, thậm chí là bức tranh hoa đào ngay trên bàn làm việc của bạn cũng khiến bạn gặp rắc rối tại công sở: Có thể là những phiền toái không đáng có, những lời nói ra nói vào, công việc không suôn sẻ…

Hãy đặt trên bàn làm việc một con thuyền với cánh buồm đang vươn cao… theo phong thủy mới giúp công việc xuôi chèo mát mái, tránh được điều xúi quẩy.

Màu sắc bàn làm việc hợp với mệnh

Màu sắc của bàn làm việc nếu chọn hợp với mệnh theo ngũ hành sẽ là yếu tố tương sinh trong công việc. Như người mệnh hỏa nên chọn bàn màu hồng nhạt, màu đỏ hay màu cam, màu tím; Mệnh thủy hợp với màu đen, màu xám, màu xanh biển sẫm; Mệnh kim hợp với màu trắng; Mệnh thổ màu vàng…

Ngoài ra, không nên sắp đặt quá nhiều gương trong phòng làm việc. Theo phong thủy, một chiếc gương có thể trừ được tà ma, điềm xấu… tuy nhiên nếu có một chiếc gương trước mặt và lúc nào cũng có hình ảnh của bạn trong đó dễ làm bạn thiếu quyết đoán, mất tập trung, hay lo lắng, mất ngủ, làm việc kém hiệu quả…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú ý trong phòng làm việc nhân viên theo phong thủy –

Đạo hiếu là gì ? Hiếu theo quan niệm thời xưa khác thời nay như thế nào ?

Các bạn biết chữ Hán thấy rõ: Chữ "Hiếu" là chữ viết tắt của hai chữ "Lão" ở trên (lượt bớt phần dưới) và chữ "Tử" ở dưới. "Hiếu" tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đọc bài "Đạo hiếu" của Nhất Thanh (Tr.331 cuốn "Đất lề quê thói"- NXB Đồng Tháp) cùng với một số bài nói về lễ Mừng lão,Yến lão, tôi rất nhất trí và không lặp lại, chỉ xin nói thêm vài lời.
Đạo hiếu là gì ? Hiếu theo quan niệm thời xưa khác thời nay như thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của  nhân dân ta, không thể không nói đến chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới, kể cả sinh đẻ, xây nhà dựng cửa, hội hè đình đám, việc nước, việc làng, thuần phong mỹ tục đã đành  mà trong số những phong tục đã lỗi thời, ngày nay bị xếp vào loại đồi  phong bại tục, ta cũng chắt lọc được một phần tinh hoa của đạo hiếu.

"Hiếu" là thiên kinh địa  nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong "Luân lý giáo khoa thư" các em đã hiểu: "Công cha như núi Thái  Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"... Những chân lý đó, ai không chấp nhận, song quan niệm về chữ "Hiếu" ngày nay cũng có phần khác thời xưa.

Tôi không dám lên mặt dạy đời, chỉ xin thuật lại một buổi tranh luận trong nội bộ gia đình tôi:
Trước hết tôi hỏi" "Hiếu" là gì? Cháu nhanh nhảu trả lời: "Hiếu" là  hiếu với dân, Bác Hồ khuyên" "Trung với nước, hiếu với dân". Đài báo cũng nhắc luôn: " Hiếu với chân, tức là cán bộ phải chăm lo cho dân, đừng ăn hôi lộ, đừng hách dịch với dân".


- "Việc hiếu" là gì?
- "Việc hiếu " là việc ... là việc... là việc cán bộ chăm lo cho nhân dân mà không ăn của đút, không... Đến đây cháu lúng túng. Thằng con út tôi trả lời thay:
- "Việc hiếu" là việc đưa đám  ma, vì hôm trước, đưa đám ma xong, ông hàng xóm đứng lên cảm ơn thân bằng  cố hữu đã giúp gia đình lo xong việc hiếu....

Đến đây, được chú em tôi phụ hoạ thêm:
- Cháu nói có lý đấy anh ạ! "Việc hiếu" là việc đối với người chết, cho  nên người ta thường nói "Hiếu", "Hỷ", tức là chỉ việc tang, việc cưới. Nhưng cháu ạ, việc hiếu phải ba năm chứ không phải đưa ma xong là xong đâu ! Đến  như tiến sĩ Lý Trần Quán, một người tận trung  tận hiếu  cuối triều Lê, trước khi chết còn viết đôi câu đối "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn. Thập phần chi trung vị tận" (Chữ "Hiếu" 3 năm đã xong, chữ "Trung" mười phần chưa trọn).


- Hiếu đối với người chết, còn đối với người sống thì sao? "Sự tử như sự sinh" kia mà?
- ồ, anh muốn biết con anh có hiếu hay không, xin anh hãy ráng chờ sau khi anh chết sẽ rõ. Ca dao có câu "Khi sống thì chẳng cho ăn. Đến khi chết xuống làm văn tế ruồi". Thời xưa còn thế nữa là bây giờ. Nhưng anh cũng đừng lo ruồi ăn hết phần, vì thanh niên ngày nay có biết đọc văn nữa đâu mà tế ruồi.

Đến đây lại chuyển sang mục tranh cãi giữa tôi và chú em về quan niệm chữ "Hiếu" thời xưa vàc thời nay.
- Thời nay lớp trẻ chẳng biết "Chín chữ cù lao" là cái gì. Công ơn mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn tốn bao nhiêu tâm lực, đến nay chúng nó có lớn mà chẳng có khôn.
- Tôi phàn nàn - Đã thế còn hỗn láo, bướng bỉnh...
- Đó chẳng qua là cái món nợ đồng lần, mình  nuôi con rồi nuôi cháu cũng thế. Lớp trẻ bây giờ nhiều  người nói ngược: "Sinh ra ta, nuôi ta lớn lên, đó là trách nhiệm của các ông bô bà bô". Có đứa còn trách bố mẹ: "Sao người ta ăn sung mặc sướng, được chiều chuộng. Bố mình thì "Khắt khe", "Ky bo' mà còn kể ơn huệ!" - Chú em tôi kể thêm.

Đối với những ông bố bà mẹ có những đứa con như vậy, quả thật là bất hạnh, song cũng phải khẳng định số người  đó rất ít,  vả lại khi đến tuổi trưởng thành, được tiếp thu sự giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và qua khảo nghiệm thực tế của cuộc đời, chúng sẽ thay đổi tính tình. Bố mẹ bao giờ cũng sẵn sàng tha thứ, nước mắt chảy xuôi là lẽ thường tình.

Bàn đến câu ca dao: "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư", rồi "Trứng khôn hơn vịt"... được dịp, con cả tôi xen vào:
- Con xin phép cha mẹ và chú, con cãi cha mẹ không phải trăm phần trăm con hư cả. Nếu cha mẹ nghĩ sai làm sai, con can ngăn thì đó có phải là bất hiếu đâu!

Ông chú gật gù tán thành:
- Cháu nói có lý. Câu "Con cãi cha mẹ trăm phần con hư" chỉ đúng khi đứa con còn thơ ấu, chứ khi đã trưởng thành có nhiều cô cậu còn khôn hơn cha mẹ. "Con hơn là nhà có phúc" mà ! Thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến vùn vụt, tư duy chính trị, kinh tế bây giờ cũng đổi mới mà  cánh già chúng ta thường hay thủ cựu, bảo thủ  cố chấp. Âu cũng là mâu thuẫn giữa hai thế hệ...

- Theo chú, câu tục ngữ "Có con tội sống, không có con tội chết" có đúng không?
- Đúng thời xưa nhưng không đúng  thời nay. Thời xưa có câu "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" (có 3 điều bất hiếu với cha mẹ, trong đó không có con là điều nặng nhất). Cha mẹ ông bà tuy đã qua đời nhưng không còn sống trong ta, nếu ta không có con thì sau khi ta chết, ta cũng làm tiêu tan nốt giòng máu của bao đời tổ tiên, ông cha lưu lại. Nhưng còn tội sống thì sao ? Có ít người cho rằng nuôi con chẳng qua chỉ mang thêm tội vạ. Đã vậy sao nhiều người ghét  con lại thương cháu. Có lẽ họ nghĩ rằng chon họ đã không nối được nghiệp cha ông thì hy vọng cháu mình sẽ nối.

Trong cuốn "Một nghìn lẻ một đêm" một nhà thông thái đã trả lời đám đông: "Nỗi khổ nhất và dai dẳng nhất trên đời là có đứa con hư". Nhưng còn một mặt khác, mà là mặt tích cực và phổ biến "Con khôn nở mặt mẹ cha" "Một con một của", có ai từ. Gặp nhau người ta hỏi thăm nhau: "Mấy trai máy gái rồi ?", chứ có hỏi: "Mấy của rồi ?"đâu. Còn như câu "Trẻ cậy cha, già cậy con" ngày nay liện còn đúng không ?

Nhân nhắc đến những gương hiếu kính thời xưa được nhà vua ban biển vàng như thời vua Lê Huyền Tông cách đây gần ba trăm năm (1663-1671), ban biển đỏ với  bốn chữ vàng "Hiếu hạnh khả phong" như thời vua Hàm Nghi cách đây hơn một trăm năm (1885-1888) chú em tôi thắc mắc có tính chất gợi ý: "Thời nay thiếu gì gương hiếu kinh sao từ trung ương đến địa phương chưa thấy có hình thức khen thưởng biểu dương gì ?. Trong quyển "Nhị thập tứ hiếu" có Lục Tích người quận Cửu Chân mới 6 tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong dấu quả quýt mang về cho mẹ Quận Cửu Chân là đất Thanh Hoá ngày nay. Lục Tích cũng được liệt trong số "Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu", sao trong sử sách ta, không thấy nói đến.

Ông chú vừa dứt lời, cậu con trai thứ của tôi xen ngay :
- Tưởng ai nổi danh, chứ như Lục Tích giấy quýt về cho mẹ cũng đưa vào sử sách, thì ở nước ta giấy mực đâu mà thống kê cho hết, ở một vùng cũng đến hàng ngày hàng vận người. Ngay như cháu đây, lúc nhỏ cùng đi ăn giỗ với chú ở nhà thờ họ, hẳn chí còn nhớ, lúc đó cháu mới bốn, năm tuổi, cháu còn nhớ chú xé sẵn cho cháu một tài lá chuối trước khi ăn cỗ, thế rồi phần giò, phần nêm, chả, xôi, hoa quả của cháu, cháu đều gói cả lại mang về phần mẹ, phần em, mặc dầu cháu rất thèm, cháu hơn hẳn Lục Tích chứ chú!

Nghe con nhắc lại chuyện cũ, vợ tôi nhoẻn miệng cười gật đầu tán thưởng. Tôi liếc thấy vợ tôi còn rơm rớm nước mắt vì cảm động.

Cậu con thứ của tôi, bỗng quay lại phía chú, đột ngột hỏi:
- Vua ban bằng 'Hiếu hạnh" gì gì đó có đúng đối tượng không chú ? Hay lại nghe dưới  tâu báo lên, chỉ phong cho bọn lắm tiền, khéo nịnh, để được ăn khao cho to ? Chú ạ, ngày xưa các cụ ngốc lắm" "Đức Đại thánh họ Ngu vua Thuấn" thì đúng là không khôn: hiếu với cha mẹ đã đành một nhẽ, chứ với mụ gì ghẻ cay nghiệt như kiểu mẹ con Cám, gặp phải cháu thì ăn đám chứ đừng hòng "Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt". Đời nhà ai, có người chôn con nuôi mẹ như Hán Quách Cự mà cũng được "Thơm nghìn muôn thu". Đáng lý ra triều đình phải ngiêm trị tội giết người, hơn nữa lại là tội giết hại trẻ con.

Cuối cùng chú em tôi quay sang hỏi tôi:
- Theo ý anh, thế nào là "Có hiếu", thế nào là "Bất hiếu". Giữa hai đứa con, anh chọn đứa nào, một như cháu đây: Con nhà nghèo, mới 4, 5 tuổi đã biết giành phần ngon về biếu mẹ, một là đưa giàu sang, không đúng ngày giỗ cha cũng lấy cớ bịa ra ngày giỗ, cỗ bàn linh đình để khoản đãi, cầu cạnh những kẻ cao sang, lmà ra vẻ người con chí hiếu, trong khi đó thì hắt hủi người mẹ quê mùa, lam lũ nghèo hèn như trong chuyện "Báo hiếu cha" của Nguyễn Công Hoan. Thế nào, giữa "Lục Tích nhà ta" mặc dầu có lúc còn hỗn láo bướng bỉnh và nhân vật "Chủ hãng ô tô con cọp" của Nguyễn Công Hoan, anh chọn đứa nào?

Dường như để tránh dung dưỡng cho những điều không phải, chú em tôi quay lại, nhỏ nhẹ bảo cháu:
- Cháu ạ, cháu có thể tranh luận với cha mẹ nhưng phải lễ độ, từ tốn, phải biết lựa lời, chọn lúc, tuyệt đối không được có thái độ nóng nảy, cáu gắt, hỗn láo, nhất là khi có khách, khi ra đường, giữa  công chúng, hoặc trước mặt vợ con, đừng để ông bà trên bàn thờ quở mắng bố mẹ cháu rằng không biết dạy con; đừng để vợ con cháu, em út cháu khinh nhờn bố mẹ cháu, tất nhiên cũng  khinh nhờn cả cháu. Sau này cháu sẽ rõ: có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
Từ nãy đến giờ nhà tôi chỉ ngồi nghe, bây giờ mới lên tiếng: "Nghe cha con, chú cháu nhà ông nói thì ai cũng  có lý "!
Xin mượn câu đó làm câu kết cho bài này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đạo hiếu là gì ? Hiếu theo quan niệm thời xưa khác thời nay như thế nào ?

Đặc trưng của tứ trụ

Mỗi người khi sinh ra đều có 4 thông tin là năm, tháng, ngày và giờ sinh. 4 thông tin này khi chuyển sang lịch can chi được gọi là tứ trụ . Tứ trụ này quyết định vận mệnh của người đó . Lịch Can Chi không giống với dương lịch hay âm lịch mà chúng ta vẫn thường sử dụng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


I - Tứ trụ 
Mỗi người khi sinh ra đều có 4 thông tin là năm, tháng, ngày và giờ sinh. 4 thông tin này khi chuyển sang lịch can chi được gọi là tứ trụ . Tứ trụ này quyết định vận mệnh của người đó . 
Lịch Can Chi không giống với dương lịch hay âm lịch mà chúng ta vẫn thường sử dụng, nên ở đây thống nhất mọi thông tin về lịch phải dùng dương lịch để tính toán cho tiện lợi và tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm trước đó. 

1 – Cách xác định Trụ năm - Tức năm sinh 
Theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý thì năm nay 2008 là năm Mậu Tý, năm 2009 là năm Kỷ Sửu,........ . Các năm trước đây hay sau này cứ theo bảng này tra là ra hết. Nhưng năm của lịch Can Chi thường bắt đầu vào ngày 4/2 hoặc ngày 5/2 dương lịch, khác với dương lịch bắt đầu vào ngày 1/1, và càng khác so với Âm lịch tính năm mới theo lịch mặt Trăng. Muốn xác định chính xác năm mới hay các tháng theo lịch Can Chi bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng phía dưới. Bảng này xác định tháng, ngày, giờ và chính xác tới phút bắt đầu năm mới cũng như tháng mới (lệnh tháng) của lịch Can Chi từ năm 1898 đến năm 2018 (phần này được trích ra từ cuốn sách Lịch Vạn Niên) 

Bảng xác định lệnh tháng của lịch Can Chi . 
(Từ năm 1898 đến năm 2018 theo giờ Bắc Kinh) 



……………………………………………………



(Chú ý: Bảng xác định lệnh tháng này của Trung Quốc nên nó được tính theo giờ Bắc Kinh, còn “Ngày giờ Sóc (New Moons) và Tiết khí (Minor Solar Terms) từ 1000 đến 2999“ trên Google là của Việt Nam theo giờ Hà Nội nên giờ giao lệnh ít hơn của Trung Quốc 60’. Hiện giờ tôi chưa biết xác định lệnh tháng theo giờ Bắc Kinh hay Hà Nội là đúng. Phải chăng căn cứ theo múi giờ quốc tế thì cứ ít hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì lệnh tháng phải giảm đi từng ấy tiếng, cũng như cứ nhiều hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì phải cộng thêm từng ấy tiếng theo bảng xác định lệnh tháng ở trên ?) . 

Ví dụ : Ngày 4/2 /1968 theo lịch can chi thuộc năm nào? Nó vẫn thuộc năm Đinh Mùi (1967) nhưng tới 2,08’ (1,08’ theo giờ Hà Nội) ngày 05/2/1968 nó mới thuộc năm Mậu Thân (1968).
Ví dụ : Lúc 7,59’ngày 04/2/1969 dương lịch thuộc năm nào của lịch can chi ? Đã thuộc năm Kỷ Dậu (1969), còn trước 7,59’ vẫn thuộc năm Mậu Thân (1968).
Qua đây chúng ta thấy theo lịch Can Chi thì năm mới được tính chính xác tới phút khi trái đất quay hết một vòng xung quanh mặt trời (không như chúng ta thường tính lúc 0,00’ của đêm giao thừa).

Nghĩa là chúng ta đã có một trụ đầu tiên, đó là trụ năm (tức năm sinh). 

2 – Cách xác định Trụ tháng - Tức tháng sinh (lệnh tháng) 
Theo lịch Can Chi thì tháng đầu tiên của một năm luôn luôn là tháng Dần sau đó là tháng Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Tháng trong lịch can chi được xác định khác với dương lịch. Muốn xác định chính xác tháng sinh (lệnh tháng) theo lịch can chi bắt buộc bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng ở trên.
Ví dụ : Ngày 07/10/1968 thuộc tháng nào của lịch can chi? Tra bảng ta thấy nó thuộc tháng Dậu, còn từ ngày 08/10/1968 nó mới sang tháng Tuất.

Khi đã biết địa chi của một tháng thì cách xác định can của tháng đó hoàn toàn phụ thuộc vào can của năm đó như sau:
Các năm có can là Giáp và Kỷ thì các tháng của năm đó lần lượt là : Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, ...... Đinh Hợi (tức là các can chi phải tuân theo đúng quy luật của vòng tròn đã nói ở trên).
Các năm Ất và Canh các tháng là : Mậu Dần, Kỷ Mão, .........., Kỷ Hợi.
Các năm Bính và Tân ------------- : Canh Dần,........................., Tân Hợi.
Các năm Đinh và Nhâm ----------- : Nhâm Dần, ......................, Quý Hợi.
Các năm Mậu và Quý ------------- : Giáp Dần, ........................, Ất Hợi. 

Bảng tra can tháng theo can năm



Ví dụ : Can của tháng Thìn của năm 1968 là gì? Tra theo bảng xác định lệnh tháng thì năm 1968 là năm Mậu Thân, vì vậy nó thuộc năm tra theo các can Mậu và Quý. Các tháng của nó lần lượt là : Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, ........ Do vậy tháng Thìn là Bính Thìn. 
Đến đây ta có trụ thứ hai, đó là trụ tháng. 

3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh 
Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). 

Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . 
Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . 

Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008

1889 – Bính Tý.............1929 - Ất Tị................1969 - Ất Hợi
1890 – Tân Tị...............1930 – Canh Tuất........1970 – Canh Thìn
1891 – Bính Tuất..........1931 - Ất Mão................1971 - Ất Dậu
1892 – Nhâm Thìn *......1932 – Tân Dậu *.............1972 – Tân Mão *
1893 – Đinh Dậu............1933 – Bính Dần.........1973 – Bính Thân
1894 – Nhâm Dần.........1934 – Tân Mùi............1974 – Tân Sửu
1895 – Đinh Mùi...........1935 – Bính Tý...........1975 - Bính Ngọ
1896 – Quý Sửu *........1936 – Nhâm Ngọ *..........1976 – Nhâm Tý *
1897 - Mậu Ngọ............1937 – Đinh Hợi......1977 – Đinh Tị
1898 – Quý Hợi............1938 – Nhâm Thìn.....1978 – Nhâm Tuất
1899 – Mậu Thìn...........1939 – Đinh Dậu......1979 – Đinh Mão
1900 – Quý Dậu............1940 – Quý Mão *.......1980 – Quý Dậu *
1901 - Mậu Dần............1941 - Mậu Thân......1981 – Mậu Dần
1902 – Quý Mùi............1942 – Quý Sửu.......1982 – Quý Mùi
1903 - Mậu Tý.............1943 - Mậu Ngọ.......1983 - Mậu Tý
1904 – Giáp Ngọ *.........1944 – Giáp Tý *.....1984 – Giáp Ngọ *
1905 - Kỷ Hợi.............1945 - Kỷ Tị..............1985 - Kỷ Hợi
1906 – Giáp Thìn..........1946 – Giáp Tuất.....1986 – Giáp Thìn
1907 - Kỷ Dậu.............1947 - Kỷ Mão...........1987 - Kỷ Dậu
1908 - Ất Ngọ *...........1948 - Ất Dậu *.........1988 - Ất Mão *
1909 – Canh Thân..........1949 – Canh Dần......1989 – Canh Thân
1910 - Ất Sửu.............1950 - Ất Mùi...........1990 - Ất Sửu
1911 – Canh Ngọ...........1951 – Canh Tý..........1991 – Canh Ngọ
1912 – Bính Tý *..........1952 – Bính Ngọ *....1992 – Bính Tý *
1913 – Tân Tị................1953 – Tân Hợi.......1993 – Tân Tị
1914 – Bính Tuất..........1954 – Bính Thìn.....1994 – Bính Tuất
1915 – Tân Mão..............1955 – Tân Dậu.........1995 – Tân Mão
1916 – Đinh Dậu *.........1956 – Đinh Mão *....1996 – Đinh Dậu *
1917 – Nhâm Dần...........1957 – Nhâm Thân.....1997 – Nhâm Dần
1918 – Đinh Mùi...........1958 – Đinh Sửu......1998 – Đinh Mùi
1919 – Nhâm Tý............1959 – Nhâm Ngọ......1999 – Nhâm Tý
1920 - Mậu Ngọ *..........1960 - Mậu Tý *..........2000 - Mậu Ngọ *
1921 – Quý Hợi............1961 – Quý Tị.............2001 – Quý Hợi
1922 - Mậu Thìn...........1962 - Mậu Tuất.......2002 - Mậu Thìn
1923 – Quý Dậu..............1963 – Quý Mão..........2003 – Quý Dậu
1924 - Kỷ Mão *.............1964 – Kỷ Dậu *.......2..004 - Kỷ Mão *
1925 – Giáp Thân..........1965 - Giáp Dần.......2005 – Giáp Thân
1926 - Kỷ Sửu...............1966 - Kỷ Mùi...........2006 – Kỷ Sửu
1927 – Giáp Ngọ............1967 – Giáp Tý..........2007 – Giáp Ngọ
1928 – Canh Tý *............1968 – Canh Ngọ *.....2008 – Canh Tý *

Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày.

4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh 
Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau :
Từ 23 giờ đến 1 giờ là giờ Tý . Từ 11 giờ đến 13 giờ là giờ Ngọ:
Từ 1 --------3 ------------ Sửu Từ 13 --------15 ---------- Mùi
Từ 3 ---------5 ----------- Dần Từ 15 ------- 17 ---------- Thân
Từ 5 ---------7 ----------- Mão Từ 17 --------19 -----------Dậu
Từ 7 ---------9 ----------- Thìn Từ 19 --------21 -----------Tuất
Từ 9 --------11 ----------- Tị Từ 21 --------23 ----------Hợi 
Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi.

Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5.
Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : 
Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) .
Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. 
Các................... Bính và Tân............................. : Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi.
Các ...................Đinh –Nhâm ........................... : Canh Tý,.............., Tân Hợi.
Các ...................Mậu – Quý ............................. : Nhâm Tý,............., Quý Hợi.

Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ.

Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ

Chúng ta đã có đủ bốn trụ của một người.

Ví dụ 1 : Một người sinh ngày 12/11/1965, lúc 8,00 am, có tứ trụ : 
Năm Ất Tị - tháng Đinh Hợi - ngày Canh Ngọ - giờ Canh Thìn.

Ví dụ 2 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,07’ có tứ trụ: 
Đinh Mùi - Quý Sửu - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. 

Ví dụ 3 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,08’ có tứ trụ : 
Mậu Thân - Giáp Dần - ngày Ất Tị - Đinh Hợi.

Qua ví dụ 2 và 3 chúng ta thấy hơn nhau 1 phút là sang năm khác, tháng khác và tứ trụ sẽ khác nhau. Cho nên giờ và phút để xác định lệnh tháng là vô cùng quan trọng trong việc xác định tứ trụ.
Nếu theo cách xác định mặt trời ở đúng đỉnh đầu tại địa điểm nơi người đó được sinh là 12,00’ thì cách xác định giờ sinh ở bảng trên chỉ đúng với những người được sinh ở vị trí đúng giữa múi giờ đó, còn những người được sinh trong cùng một múi giờ mà ở càng xa điềm giữa của múi giờ đó về hai bên thì sai số về phút càng lớn (có thể từ -60’ tới +60’). 
Cho nên trong các trường hợp này tốt nhất là lấy cả hai tứ trụ để dự đoán. Đến khi trong thực tế xẩy ra các sự kiện phù hợp với tứ trụ nào thì tứ trụ đó mới được xem là chính xác cho người đó.

Bảng tra can giờ theo can ngày 




Theo tôi chỉ khi nào con người xác định được trụ thứ 5, tức trụ phút này thì môn dự đoán theo Tứ Trụ mới thật sự là hoàn hảo. Bởi vì như chúng ta thấy bốn trụ không có tính đối xứng mà trụ ngày phải ở giữa và mỗi bên phải có hai trụ mới hợp lý. Hơn nữa chúng ta thấy cách xác định trụ tháng và trụ giờ giống nhau bởi đơn vị 12 (12 tháng, 12 giờ), còn cách xác định trụ năm và trụ ngày giống nhau bởi đơn vị 60 (tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý) thì không có lý do gì để không sử dụng trụ phút cũng được xác định theo đơn vị 60 (cứ hai phút bình thường được tính thành một phút theo lịch Can Chi và nó cũng tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý).

Theo sự suy luận của tôi thì cách xác định phút nó cũng giống như cách xác định năm và ngày của lịch can chi, nhưng chúng ta không biết Họ đã dựa vào nền tảng nào để xác định chúng. Bởi vậy muốn xác định phút theo lịch can chi, chúng ta phải có một vài ví dụ của những cặp sinh đôi chỉ cách nhau vài phút. Dùng phương pháp suy luận ngược, chúng ta dựa vào những sự kiện lớn đã phát sinh ra của các cặp sinh đôi này như tai nạn, ốm đau, ... , nhất là cái chết của họ và nếu chúng ta sử dụng phương pháp tính điểm hạn này để tính các điểm hạn thì may ra có thể xác định được chính xác can chi của phút sinh của mỗi người này. Sau đó các phút khác sẽ được xác định theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, hoàn toàn tương tự như xác định năm và ngày.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng của tứ trụ

Người tuổi Dần mệnh Kim

Người tuổi Dần mệnh Kim là người sinh năm Nhâm Dần 1962... Họ yêu thích sự tự do trong cuộc sống và sự tự chủ trong công việc. Họ không muốn bị người khác lãnh
Người tuổi Dần mệnh Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dần mệnh Kim là người sinh năm Nhâm Dần 1962... Họ yêu thích sự tự do trong cuộc sống và sự tự chủ trong công việc. Họ không muốn bị người khác lãnh đạo hay sai bảo.

(Ảnh minh họa)

Dám nghĩ dám làm là điểm nổi bật trong tính cách của người tuổi Dần mệnh Kim. Họ cũng luôn nhiệt tình giúp đỡ người thân, bạn bè. Những con người ngay thẳng và chính trực này thường khá linh hoạt, biết tùy cơ ứng biến trong mọi hoàn cảnh.

Tuy nhiên, họ giống người tuổi Dần mệnh Hỏa ở tính cách nóng vội. Đây là điều mà cả 2 nên học tập người tuổi Dần mệnh Thủy. Nếu khắc phục được nhược điểm này, thành công sẽ đến với họ dễ dàng hơn.

Đa số người tuổi Dần mệnh Kim có hiểu biết rộng, có khả năng giải quyết công việc một cách hiệu quả và biết cách quản lý tài chính. Nếu được sao tốt tương trợ thì mọi việc với họ đều trở nên thuận lợi. Họ luôn ngay thẳng, chính trực, có đối sách kịp thời trước mọi nguy cơ, biết tùy cơ ứng biến. Tuy khó tạo dựng được sự nghiệp lớn nhưng họ cũng không phải lo lắng về tiền tài, việc kinh doanh sẽ thu được nhiều lợi nhuận.

Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì họ thường vì theo đuổi thiếu những thiếu thực tế mà không đạt được kết quả gì. Hơn nữa, họ cũng thường xuyên vướng vào những chuyện thị phi, ảnh hưởng sự nghiệp. Đôi khi, vì chạy theo sự tư lợi mà họ không thể sống an phận, thậm chí còn tự chuốc lấy nhiều rắc rối, thất bại.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dần mệnh Kim

Những điềm báo về hiện tượng hắt xì hơi (nhảy mũi)

Hiện tượng hắt xì hơi hay nhảy mũi, ngoài những lí do như bạn bị di ứng với một loại hương vị nào đó thì việc ngẫu nhiên hắt xì hơi cũng là một điềm báo sớm cho bạn. Cũng giống như hiện tượng nháy mắt hay giật mắt, thì nhảy mũi cũng mang những điềm báo khác nhau vào những giờ khác nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng hắt xì hơi hay nhảy mũi, ngoài những lí do như bạn bị di ứng với một loại hương vị nào đó thì việc ngẫu nhiên hắt xì hơi cũng là một điềm báo sớm cho bạn. Cũng giống như hiện tượng nháy mắt hay giật mắt, thì nhảy mũi cũng mang những điềm báo khác nhau vào những giờ khác nhau.

Như nói ở trên thì hắt hơi có thể là do một phản xạ thông thường ở con người khi mũi bị kích thích quá mức nhằm tống khứ các chất bẩn và vi khuẩn vi trùng muốn xâm nhập cơ thể, hoặc cũng có thể do là việc dị ứng với các mùi hương như nước hoa, phấn hoa,… Thông thường thì mỗi người không chỉ bị hắt xì hơi một lần mà thường bị hắt xì hơi liên tục. Ngoài những nguyên nhân trên thì hiện tượng hắt xì hơi hhay nhảy mũi cũng mang một điềm báo cho tương lai. Dưới đây là những thống kê về việc bói hắt xì hơi qua từng giờ, với mỗi giờ thì mang một điềm báo khác nhau như sau:

Những điềm báo về hiện tượng hắt xì hơi (nhảy mũi)

Những giải mã về điềm báo khi bị hắt xì hơi:

Từ 23h -  01h: Có người mời dự tiệc hoặc dự lễ linh đình.

Từ 01h - 03h: Có người khác phái rủ mình làm một việc tuy có lợi cho bản thân, nhưng rất hại cho người khác.

Từ 03h - 05 h: Có cuộc hẹn hò về tình cảm.

Từ 05h - 07h: Có người mang quà đến tặng.

Từ 07h -  09h: Có lộc ăn.

Từ 09h - 11h: Có quới nhân sẳn sàng giúp đỡ, đáp ứng sự mong muốn trong lòng mình từ lâu.

Từ 11h -12h: Có thân nhân từ xa về, đem tài lợi đến cho mình.

Từ 13h - 15h: Có lộc ăn và có lợi vào.

Từ 15h - 17h: Có tin làm mình lo sợ, nhưng rốt cuộc đâu vào đó, mọi việc đều êm đẹp.

Từ 17h - 19h: Có người khác phái nhờ giúp một việc gì, có lợi về tiền cűng như tình cảm.

Từ 19h - 21h: Có người khác phái tưởng nhớ đến mình, sẽ viết thơ cho mình.

Từ 21h - 23h: Có sự lo nghĩ về tiền bạc, nhưng vẫn giải quyết dễ dàng.

Cũng như hiện tượng hắt xì hơi, hiện tượng giật mắt trái, nháy mắt phải thì mang điềm báo gì? Đều có câu trả lời tại đây!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điềm báo về hiện tượng hắt xì hơi (nhảy mũi)

Những nét phú quý của bạn gái nằm ở đâu trên cơ thể?

Vòng ba to, lông mày dài... chính là những đặc điểm mang lại cho người sở hữu sự giàu sang, phú quý.
Những nét phú quý của bạn gái nằm ở đâu trên cơ thể?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vòng 3 nở đều đẹp, cân xứng

de31e316-ba94-4890-a9cc-5347ce-3369-2584

Khi người phụ nữ sở hữu cặp mông tròn, đều đẹp, cân xứng, dù ngực có thể hơi nhỏ nhưng lại là người có tướng tốt. Người phụ nữ có tướng này thường là sống an nhàn, sung sướng. Người có cặp mông đều đẹp còn là người "mắn đẻ", giỏi việc nuôi dạy con cái và có tướng vượng phu.

2. Khoảng cách giữa hai mắt, hai lông mày xa nhau

1-4622-1401878164.jpg

Các nét trên gương mặt người phụ nữ có thể hài hòa, có thể không, nhưng hai lông mày có khoảng cách xa nhau thường là người có cuộc sống tốt, luôn được người thân, bạn bè giúp đỡ. Những người này có tiền tài, danh vọng và sức khỏe đáng được nhiều người ngưỡng mộ. Khoảng cách giữa hai mắt rộng cũng cho thấy họ là người thoáng trong chi tiêu, có tầm nhìn xa trông rộng và dễ gặt hái thành công trong sự nghiệp.

3. Lông mày dài

0-5213-1401878164.jpg

Độ dài lông mày thường được đo bằng mắt, lý tưởng nhất là lông mày phủ qua mắt, dài hơn một chút so với chiều dài của mắt. Đây là người thông minh, bao dung, nhân hậu. Những người này thường sống thọ, cuộc sống đạt nhiều công danh, tiền tài và thường được nhiều người giúp đỡ.

4. Tai ép sát vào đầu

00-3295-1401878164.jpg

Tai ép sát đầu có thể không đẹp, nhưng người có tai ép sát vào đầu, vành ngoài và vành trong của tai rõ ràng, tai cao hơn lông mày thường là người thông minh, sáng suốt và có khả năng làm lãnh đạo. Cuộc đời những bạn gái có tai ép sát đầu thường gặp nhiều vinh hoa, phú quý, đường công danh thuận lợi. 

Hạnh Yunnie

2-1398152604-362x0-1369-1401877273.jpg

Phái nữ có tướng mạo thế nào thì sẽ gặp may mắn

Những cô gái có vầng trán cao, đôi mắt to, ngón tay dài... khá tài hoa, thông minh, thuận lợi và trong chuyện tình cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nét phú quý của bạn gái nằm ở đâu trên cơ thể?

Những lưu ý quan trọng khi treo tranh trong nhà

Những bức tranh dã thú, màu sắc quá đậm... có sức ảnh hưởng không hề nhỏ tới tậm trạng cũng như tinh thần của bạn.
Những lưu ý quan trọng khi treo tranh trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Không nên treo những bức tranh với tông màu đen hoặc màu sắc quá đậm. Những bức tranh như vậy trông rất u ám, khiến người ngắm tranh có cảm giác bị áp lực, ý chí dễ bị bào mòn, sinh ra cảm giác chán nản.

- Không nên treo những bức tranh có dã thú hung dữ, đặc biệt là với những người có thể trạng sức khỏe yếu vì sẽ khiến bệnh tình thêm nghiêm trọng. Đối với người có sức khỏe tốt thì việc đó không hề đáng lo ngại, việc treo những bức tranh dã thú càng khiến cơ thể khỏe mạnh và tăng thêm sự nam tính.

2-8082-1402479364.jpg

- Không nên treo những bức tranh gió thổi vào mùa thu, hoàng hôn lặn sau núi. Điều này sẽ khiến bạn mất đi động lực, cảm thấy chán ngán vì không còn hứng thú với cuộc sống, từ đó dẫn đến tâm trạng phiền muộn.

- Không nên treo ảnh chân dung của người quá cố ở những nơi nổi bật. Điều này sẽ khiến bạn chìm đắm trong đau khổ về nỗi mất mát người thân mà không cách nào tự thoát ra được, từ đó bạn vô tình tạo nên áp lực trong cuộc sống của chính mình.

- Không nên treo những bức tranh có màu sắc quá đỏ chói. Điều này sẽ khiến những người thân trong gia đình dễ bị thương hoặc tính khí nóng nảy. Tuy nhiên, đối với người bị bệnh trầm cảm thì được khuyến khích treo những bức tranh có màu đỏ chói lọi, điều này mang lại hiệu quả tích cực trong việc điều trị bệnh trầm cảm.

Chocopie

codona-1392258381-362x0-8265-1402479364.

Phong thủy sai cách khiến bạn chưa có người yêu

Cư dân FA đâu nhỉ, các ấy nhanh nhanh vào đây xem mình có phạm những điều này không mà vẫn chưa có người yêu ^^.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý quan trọng khi treo tranh trong nhà

Thói quen gây phá tài cần phải sửa ngay lập tức

Dưới đây là một trong những thói quen gây phá tài về mặt phong thủy, nên tránh xa nếu không tiền bạc đội nón ra đi.
Thói quen gây phá tài cần phải sửa ngay lập tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Một vài thói quen, hành động nhỏ nhưng có thể gây hao tài tốn của nếu như bạn không chịu thay đổi. Dưới đây là một trong những thói quen gây phá tài về mặt phong thủy, nên tránh xa.

 

1. Hay than vãn

  Có những người rất hay than vãn, thở dài, dù là khi gặp phải chuyện trục trặc, khó khăn hay không, họ vẫn than ngắn thở dài, khiến người xung quanh cảm thấy nặng nề.   Bầu không khí bị bao trùm bởi nguồn năng lực thiếu tích cực như thế sẽ “phản chủ”, mang tới điềm xui xẻo, thất thoát tài lộc.
Thoi quen gay pha tai can phai sua ngay lap tuc hinh anh
 
 

2. Mặt mày cau có

 

Trong số thói quen gây phá tài, chắc chắn có biểu hiện cau có trên khuôn mặt, nhất là khi lông mày trợn ngược, dữ dằn.    Điều đó chẳng khiến ai nể nang hay sợ sệt bạn đâu, nó chỉ thể hiện sự căng thẳng, điểm yếu trong chính con người bạn. Cứ cau có mặt mày như thế, lâu dần tạo cảm giác nặng nề, khó chịu, nhân duyên ắt đi xuống, tiền bạc cũng chẳng thể kiếm được một cách dễ dàng.  
Bảo bối phong thủy xua đuổi tà khí trong tháng cô hồn Chọn ví tiền hợp phong thủy - cách cải thiện tài vận nhanh nhất Phong thủy phòng khách vượng tài nhờ treo tranh cửu ngư đúng cách

3 Ngồi xổm khi ăn

  Dù có vội vàng hay bận rộn tới đâu, bạn cũng không nên duy trì thói quen gây phá tài này. Cảm giác lúc nào bạn cũng phải tất bật, ngay cả bữa ăn cũng không được thoải mái, thử hỏi cuộc sống của bạn có thực sự dễ chịu không?   Ăn chính là chuyện phúc đức mà con người được hưởng, bởi không ai sống bằng không khí cả. Vì thế, hãy cho mình cơ hội được hưởng phúc khí ấy, ăn từ tốn, ngồi đàng hoàng vừa tốt cho sức khỏe lại tạo phong cách sống tao nhã, thanh cao.

 

Thoi quen gay pha tai can phai sua ngay lap tuc hinh anh
 

4. Xỉa răng không che miệng

  Với một số người có thói quen xỉa răng, đừng quên che miệng. Theo quan điểm phong thủy, phần miệng của mỗi người như kho tiền tài, ai ăn nói khéo léo dễ dàng thành công hơn. Hàm răng lại là cánh cổng để hút tài lộc ấy. Răng thưa biểu hiện của tài lộc thất thoát.   Chính vì thế, khi xỉa răng, tức sẽ tạo ra khoảng trống nhỏ giữa các kẽ răng. Nếu không che miệng lại, tài khí ấy sẽ đi ra ngoài, tất nhiên tiền bạc không còn rủng rỉnh.  

5. Miệng nhai tóp tép khi ăn

  Nhân tướng học quan niệm, khi ăn mà miệng nhai tóp tép là tướng nghèo hèn. Người có phận cao quý thường ăn uống nhỏ nhẹ, không phát ra âm thanh vô duyên như thế.

 

Thoi quen gay pha tai can phai sua ngay lap tuc hinh anh
 

6. Đi chúi đầu về phía trước

  Đa phần những ai có thói quen đi chúi đầu về phía trước đều có tính cách nóng vội, làm việc nhanh nhảu đoảng, tuy có thể thành công nhưng phải vất vả trăm bề. Kiếm tiền không thể vội vàng, càng vội bạn càng bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt.  

7. Ngồi rung chân

 

Người xưa có câu: “Rung cây thì lá rụng, rung người thì phúc mỏng, rơi tiền”, ý chỉ ngồi rung chân là thói quen gây phá tài. Tuy chỉ là hành động nhỏ, nhưng nếu không nhanh chóng thay đổi, tiền của bạn kiếm được cũng sớm “đội nón ra đi”.    Thêm nữa, chủ nhân của nét tướng cách này thường có tinh thần bất ổn, bản tính bạc nhược, không giỏi trong giao tiếp cũng như quản lý tài chính.   

8. Nhổ nước bọt lung tung

 

Trong phong thủy rất chú trọng vấn đề “tàng phong tụ khí”, nhưng hành động nhổ nước bọt lại mang ý nghĩa nhổ tài khí đi mất, tài lộc càng ngày càng đi xuống.   Nếu để ý kĩ, bạn hiếm thấy người thành công, giàu có nào mà lại duy trì thói quen xấu, vừa gây mất vệ sinh, mỹ quan lại khó giữ được tài lộc như thế này.  
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Ngọc Diệp
  Mẹo phong thủy hóa giải thói hư tật xấu cực đơn giản
Có thể áp dụng phong thủy để loại bỏ những thói quen xấu như hút thuốc lá, uống rượu bia, sử dụng các chất ma túy và ăn uống không lành mạnh.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thói quen gây phá tài cần phải sửa ngay lập tức

Những ngày trong tháng tốt cho khởi công xây dựng các công trình, nhà ở và khai trương, mở hội –

Tháng Ngày tốt Tháng Ngày tốt Tháng Giêng Các ngày Tuất Tháng Bảy Các ngày Tý Tháng Hai Các ngày Sửu Tháng Tám Các ngày Ngọ Tháng Ba Các ngày Dần Tháng Chín Các ngàv Thân Tháng Tư Các ngày Tị Tháng Mười Các ngày Thìn Tháng Năm Các ngày Dậu Tháng Một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khai_truong_thang_4

Tháng

Ngày tốt

Tháng Ngày tốt

Tháng Giêng

Các ngày Tuất

Tháng Bảy

Các ngày Tý

Tháng Hai

Các ngày Sửu

Tháng Tám

Các ngày Ngọ

Tháng Ba

Các ngày Dần

Tháng Chín

Các ngàv Thân

Tháng Tư

Các ngày Tị

Tháng Mười

Các ngày Thìn

Tháng Năm

Các ngày Dậu

Tháng Một

Các ngày Thân

Tháng Sáu

Các ngày Mão

Tháng Chạp

Các ngày Mùi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ngày trong tháng tốt cho khởi công xây dựng các công trình, nhà ở và khai trương, mở hội –

Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi.

Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh.

Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ.

Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại. Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.

Người VCD tánh tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay.

Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoản tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.

Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.

Là mẫu người có tài, có trí họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao. Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người.

Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:


1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp. Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi.

Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn lộn cho nên không được tròn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu.


Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất. Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ” Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát.

Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.

Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh. Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần” có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.


2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa Tử Vi gọi là “Mênh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh.


Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu. Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện” Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi.

 Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người.
Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD. Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành.

Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó.

Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD ?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Phật giáo chỉ ra 7 nỗi khổ lớn của đời người, không chừa một ai

Đời là bể khổ, con người tồn tại không thể tránh khỏi những nỗi khổ. Theo Phật giáo, ở trong kiếp nhân sinh, nhất định phải trải qua 7 nỗi khổ lớn của đời người
Phật giáo chỉ ra 7 nỗi khổ lớn của đời người, không chừa một ai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đời là bể khổ, con người tồn tại trên đời không thể tránh khỏi những nỗi khổ. Theo Phật giáo, đã ở trong kiếp nhân sinh, nhất định phải trải qua 7 nỗi khổ lớn của đời người.  

Phat giao chi ra 7 noi kho lon cua doi nguoi, khong chua mot ai
 

1. Đệ nhất khổ: sinh

  Đứng đầu trong những nỗi khổ lớn của đời người là sinh – sống trên đời đã là một nỗi đau khổ rồi. Bởi từ đây chúng sinh trải qua trăm cay ngàn đắng, đã sống thì không mong chỉ có ngày nắng đẹp, nhất định phải chống chịu bão giông, chân lý này hiển nhiên, không thể thay đổi.  

2. Đệ nhị khổ: lão

  Năm tháng trôi qua, từng chút tinh lực, từng chút sức khỏe, từng chút kí ức sẽ mài mòn, con người sẽ dần già đi, nỗi sợ hãi cũng từ từ rõ ràng hơn. Sự hoảng sợ khi đối mặt với lão bản chất là loại “trơ mắt đứng nhìn” bởi không có cách nào khác, không tránh được, không né được.   Con người đơn thuần, sẽ già đi theo năm tháng, thái độ đối với việc này tương đối bình thản bởi sinh hoạt thay đổi rất chậm rãi, chẳng có biến hoá lớn lao, vừa là cái mất nhưng cũng là cái được. Càng nhiều tuổi càng nhiều kinh nghiệm, càng có thêm bình tĩnh do thấu hiểu lẽ đời.   Khi còn trẻ hăng hái bao nhiêu thì càng sợ tuổi già bấy nhiêu. Lúc tinh lực cạn kiệt, không cam lòng đến mấy cũng chỉ có thể lẳng lặng thưởng thức những kí ức tươi vui nhất, sôi nổi nhất, cũng giống như một loại khổ ải, gặm nhấm linh hồn. Đồng thời tuổi già sẽ mang những người thân, người yêu, người bạn của mình lần lượt rời khỏi thế giới này, mùi vị đó mới chính là nỗi đau lớn lao nhất. 
Xem thêm bài viết Infographic: Tìm cách vượt qua nỗi khổ lớn của đời người để thấy giá trị của hạnh phúc
 

3. Đệ tam khổ: bệnh


noi kho lon cua cuoc doi
 
Bệnh tới như núi đổ, cảm giác giống như đột nhiên bị đánh bại, một cơn bệnh qua bao nhiêu tinh lực đều cạn kiệt, có thể lĩnh hội được thế nào là lằn ranh, là giới hạn của cuộc đời. Ngày hôm qua còn tràn trề sinh lực mà hôm nay đã trói gà không chặt. Nếu bệnh không nguy hiểm tới tính mạng thì quá trình bệnh lui cũng đủ làm người ta lao đao mệt nhọc. Người mang bệnh chẳng làm được việc gì, chỉ nằm một chỗ, hết ăn lại ngủ mà ai có thể ngủ suốt ngày. Không thể làm gì khác ngoài việc hưởng thụ ốm đau một cách bất đắc dĩ. Muốn làm việc cũng không làm được, muốn vui chơi cũng không có hơi sức.   Ngoại trừ thân thể, bệnh tật còn dằn vặt tinh thần con người một cách vất vả. Có câu: bệnh lâu trước giường không có người con có hiếu. Phật giáo nhắc nhở rằng trong trăm cái thiện hiếu thảo là việc thiện hàng đầu nhưng đứng trước bệnh tật, chữ hiếu cũng phải lùi bước, huống chi tình cảm thông thường.   Người bệnh ốm o, mỏi mệt, lúc nào cũng cáu gắt, lúc nào cũng phải chăm sóc phục vụ, người bệnh lâu thì dần dần thành quen thuộc, sinh cảm giác lãnh đạm, cuối cùng mấy người có thể kiên trì mà quan tâm chăm hay phần lớn đều là bỏ mặc người bệnh một chỗ. Trước giường bệnh quạnh quẽ chẳng phải cũng là một nỗi khổ hay sao.   Bệnh cấp tính thử thách thân thể, bệnh dai dẳng thử thách tinh thần, ốm vặt thử thách tính nhẫn nại. Bệnh tật dù lớn hay nhỏ cũng là một loại dày vò, là một nỗi khổ phải tự mình gánh vác. Khổ nhất là bệnh tới không báo trước, bệnh tật chẳng chừa một ai, coi như ai số khổ mệnh khổ thì phải chấp nhận mà thôi.  

4. Đệ tứ khổ: tử

  Một trong 7 nỗi khổ lớn của cuộc đời là cái chết. Vòng tuần hoàn nhân gian, có sinh có tử, mà sinh thì có hạn nhưng tử lại bất kì, chẳng bao giờ báo trước. Cái chết đáng sợ không phải ở quá trình bởi nó quá ngắn ngủi, người ta chưa kịp cảm nhận được thì đã kết thúc rồi mà ở chỗ không thể kháng cự.   Mỗi người nhận thức về vận mệnh của mình có có một điểm: nhất định sẽ chết. Đại đa số đều không thích nhưng lại không thể trốn tránh, tự nhiên tạo thành nỗi hoảng sợ, nơm nớp trong lòng. Chết cực khổ giống như biết trên núi có hổ mà vẫn phải lao vào.    Người không sợ cái chết thì tính chất khổ cũng tiêu tan, thậm chí còn hưởng thụ cuộc sống tốt hơn, thong dong thoải mái, trời kêu ai người nấy dạ. Như vậy là biến khổ cực thành niềm vui, chỉ mong sao cái chết đến nhẹ nhàng, không đau đớn là mãn nguyện lắm rồi.
Xem thêm bài viết Học Phật cách vượt qua nỗi khổ lớn nhất đời người
 

5. Đệ ngũ khổ: oán tắng hội khổ

  Người mình ghét cay ghét đắng lại ở cùng một chỗ, ngầng đầu thấy cúi đầu cũng thấy, muốn không để ý tới họ cũng không được, chẳng phải là quá khổ hay sao. Đáng ghét, phiền chán tới mức trong lòng không thể yên ổn.    Đối với cha mẹ có thể tuỳ hứng, không đến nỗi oán trách, oán trách cũng có thể không cần ở chung song cả đời không dứt bỏ được, dẫu thế nào vẫn là người thân, mối ràng buộc này là một loại khổ. Đối với người yêu, không sợ oán trách bởi oán thì chia tay là xong, chỉ sợ ở gần mà lãnh đạm.    Nửa đêm tỉnh giấc, người bên gối nhìn xa lạ già nua, không chút thân tình, sống với nhau chẳng chút ý nghĩa, chỉ có nghi ngờ thì oán trách sẽ như hạt giống gieo xuống đất, càng ngày càng phát triển nhanh, mọc thành cây, chẳng mấy chốc thành rừng.    Đối với đồng nghiệp bạn học mà oán trách thì là bệnh nặng, nhất định phải lưu ý. Oán trách trong các mối quan hệ xã giao giống như khối u ác tính. Trong 7 nỗi khổ lớn của đời người, có hai nỗi khổ có thể chủ động buông tha, chỉ cần tu tâm dưỡng tính, từ bỏ hận thù thì tự dưng chẳng oán chẳng trách, một trong số đó chính là oán tắng hội khổ với đồng nghiệp.   

6. Đệ lục khổ: yêu biệt ly khổ

 

noi kho lon cua con nguoi
 
Yêu mà phải biệt ly là nỗi khổ của sự chấp nhất. Nhân sinh vốn là ở cùng thì ít mà xa cách thì nhiều, nếu có thể hiểu thấu điểm ấy thì nỗi khổ này đã chẳng tồn tại. Nhưng muốn làm mà làm không được, không phải người có trí tuệ lớn thì không làm nổi.   Vì lẽ đó mà Đức Phật có căn dặn, nguồn cơn của 7 nỗi khổ chính là không biết Phật hiệu, không tu dưỡng theo Phật. Phật giáo chủ trương giác ngộ, giải thoát, người đời cho rằng như thế thật vô vị nên mới rước nỗi khổ vào mình. Người thân ấm áp gần gũi, người yêu thắm thiết ngọt ngào, bạn bè thân thiết thuần hậu rồi cũng có ngày chia xa, mấy người có thể mãi đắm chìm trong niềm vui thích ấy.   Đợi đến khi hoa lạc mây trôi, đông qua xuân tới mới kinh ngạc phát hiện ra những chuyện đã qua chính là khoảng thời gian tốt đẹp nhất, đáng quý nhất, là giấc mộng nhân sinh tuyệt nhất của đời người. Chung quy lại những thứ này mang tới niềm vui mà cũng là nguồn cơn của đau đớn, khổ sở, của nước mắt và những nhớ nhung hồi tưởng.  

7. Đệ thất khổ: cầu bất đắc khổ

  Thiên hạ rộn ràng đều có nguyện ước; thiên hạ nhốn nháo đều không có được, thế là thành phiền não. Kỳ thực nếu là chuyện vặt vãnh thì chậm một chút cũng chẳng sao, nhiều lắm là tức giận rồi bỏ qua, không coi là khổ.   Trên đời sợ nhất là hai loại cầu bất đắc khổ: được rồi lại mất đi và mong muốn mà không thể thành. Tàn khốc nhất của nỗi khổ này là tước đoạt quyền lợi của con người, muốn sống không được muốn chết không xong, lúc nào cũng bị giày vò, lúc nào cũng trăn trở khôn nguôi.    Lòng tham thì vô đáy mà thực tế lại phũ phàng, người mấy ai dám vỗ ngực tự hào cầu gì được nấy. Vì thế nỗi khổ này có tự trong tâm, tâm tham thì khổ, tâm không tham thì hết khổ. Có cầu ắt có khổ, không cầu tự nhiên khổ không tìm đến.   Xem thêm bài viết Phật dạy về chữ tham, lòng tham và nỗi khổ vì tham
 
Phật chỉ ra 7 nỗi khổ lớn của con người là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi chúng ta phải đối mặt với hiện thực cuộc sống, sẵn sàng cho những điều không như ý. Và trên hết, tự mình tu dưỡng, giác ngộ, loại bỏ tâm phiền, loại bỏ đau khổ, bước tới cảnh giới cao hơn của sự tồn tại.   Không vì khổ mà nhu nhược, không vì khổ mà oán hơn. Mỗi nỗi khổ ta trải qua trong đời sẽ là một bài học, một trải nghiệm đáng quý để thấu hiểu hơn lẽ nhân sinh. Một kiếp người không khổ thì không trọn vẹn, không khổ thì không trưởng thành. Vững vàng tiến lên hay nhút nhát lui xuống thì nỗi khổ cũng sẽ ập đến, vậy bạn chọn cách nào?
Nhân duyên trái ngược - trả nợ đời sao mà tránh nổi Lời Phật dạy về chữ tâm - có tâm ắt hưởng phúc lành Lý do bạn mãi là người tầm thường

Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật giáo chỉ ra 7 nỗi khổ lớn của đời người, không chừa một ai

Tết Thượng Nguyên

Trong 12 cái rằm của năm thì ngày rằm tháng giêng mang nhiều ý nghĩa hơn cả. Ngày này được gọi là lễ Thượng Nguyên, rằm tháng 7 là lễ Trung Nguyên và rằm tháng
Tết Thượng Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 cái rằm của năm thì ngày rằm tháng giêng mang nhiều ý nghĩa hơn cả. Ngày này được gọi là lễ Thượng Nguyên, rằm tháng 7 là lễ Trung Nguyên và rằm tháng 10 là lễ Hạ Nguyên.

(Ảnh minh họa)

Theo quan niệm của Phật giáo thì ngày mồng 1 và ngày rằm hàng tháng được coi là ngày của Phật, các tín đồ đến ngày ấy phải đi lễ chùa. Rằm tháng giêng là rằm đầu tiên, nhiều người tin rằng ngày ấy đức Phật giáng trần tại các chùa để chứng độ lòng thành của phật tử, lại thêm cái không khí vui xuân còn đậm đà cho nên số người đi chùa đông hơn. Đây còn là ngày vía thiên quan, người ta đến chùa dâng sao để giải hạn.

Thời xưa, ngày này là tết Trạng Nguyên. Nhân dịp trăng sáng đầu năm, nhà vua cho mở đại tiệc tại vườn thượng uyển, triệu các vị trạng nguyên đến dự hội, ngắm cảnh xem hoa làm thơ xướng họa, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và ân đức nhà vua đã đem lại thái bình thịnh trị.

Dần dần những buổi họp mặt tương tự vào đêm rằm tháng giêng được các văn nhân thi sĩ tổ chức, không chỉ trong vườn thượng uyển với nghi lễ vua tôi mà ở nhiều nơi, việc xem hoa ngắm cảnh dưới trăng thoải mái hơn, những vần thơ xướng họa, đối đáp phong phú và sinh động hơn. Tết Nguyên Tiêu là một sinh hoạt tao nhã mang nhiều ý nghĩa.

Trong dân gian, với số đông người theo phong tục thờ cúng ông bà thì rằm tháng giêng trước hết được hiểu một cách đơn giản là ngày rằm lớn. Tùy theo tín ngưỡng và ngành nghề, có gia đình lễ bái phật, có gia đình cúng thổ công, thần tài hoặc cúng âm hồn các đẳng... nhưng luôn có cúng gia tiên, bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, cảm ơn trên đã phù hộ cho con cháu an lành, làm ăn khá giả.

Văn nhân thi sĩ, nhất là các cụ cao niên thì thưởng trăng thù tạc với nhau bằng chén trà, chung rượu, bàn cờ. Các cụ ăn uống ít, chỉ ngâm nga bàn tán những câu tâm đắc. Đúng như cái cảnh tuyệt vời thơ mộng của đêm Nguyên Tiêu:

Kỳ cục đả thanh phong giáp trận

Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi

Dịch nghĩa là:

Chén hòa tuyết trắng nghiêng hồ rượu

Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ...

(Theo Nghi lễ thờ cúng của người Việt)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Thượng Nguyên

Tướng đàn ông mắt xếch –

Đàn ông đuôi mắt xếch là một nam tử hán. Đàn ông có đuôi mắt xếch tốt nhất là nên kết hôn với phụ nữ có đuôi mắt xệ, như vậy có thể bổ sung khiếm khuyết cho nhau, tạo nên gia đình hạnh phúc, đồng thời vận khí của 2 vợ chồng cũng tốt hơn. Phụ nữ mắt
Tướng đàn ông mắt xếch –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông mắt xếch –

Nhà y dược học vĩ đại tuổi Mậu Dần - Lý Thời Trân

Lý Thời Trân (1578 - 1657), tự Đông Bích, về già tự hiệu là Tần Hồ sơn nhân, quê Kỳ Châu (nay là Hồ Bắc, Kỳ Xuân, Kỳ Châu, Trung Quốc).
Nhà y dược học vĩ đại tuổi Mậu Dần - Lý Thời Trân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lý Thời Trân là nhà y dược học vĩ đại của Trung Quốc và thế giới

Ông là nhà y dược học vĩ đại của Trung Quốc và của thế giới với cuốn sách nổi tiếng Bản thảo cương mục.

Ông sinh trưởng trong một gia đình theo nghề y. Nguyện vọng của ông là trở thành một thầy thuốc cứu người đời giống như cha ông. Nhưng xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ lại coi trọng thi cử, cha ông muốn ông có địa vị trong xã hội. Không dám trái ý cha, ông đi thi và đỗ tú tài năm 14 tuổi. Sau 3 lần thi cử nhân không đỗ, ông khẩn cầu cha để chuyên tâm học y. Qua nhiều năm học tập khắc khổ, ông trở thành thầy thuốc nổi tiếng ở quê mình khi ở độ tuổi 30.

Một thời gian sau, ông được tiến cử đến Thái y viện với chức vụ Thái y viện phán. Tuy nhiên, do không thích công danh lợi lộc, Lý Thời Trân làm ở đây chưa đầy 2 năm thì từ quan về nhà chuyên tâm viết sách. Trong thời gian này, ông phát hiện ra bản thảo xưa có nhiều sai sót nên quyết tâm biên soạn lại. Năm 35 tuổi, ông nghiên cứu kỹ các loại sách tham khảo và bắt đầu biên soạn cuốn Bản thảo cương mục. Sau nữa, ông còn đi khắp bốn phương để biết rõ hình trạng, tính chất, mùi vị, công hiệu... của một số dược vật. Qua 27 năm, ông chính thức hoàn thành bộ sách về dược vật học Bản thảo cương mục vang danh trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, Lý Thời Trân còn nghiên cứu về kỳ kinh bát mạch (mạch học). Ông cũng là tác giả của những cuốn sách Tần Hồ mạch họcKỳ kinh bát mạch khảo lưu truyền rộng rãi trong giới y học sau này.

(Theo Soctrang)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà y dược học vĩ đại tuổi Mậu Dần - Lý Thời Trân

Văn khấn Tết Nguyên tiêu (rằm Tháng Giêng)

Ngày Rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, theo tục xưa gọi là: Tết Nguyên Tiêu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày Rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, theo tục xưa gọi là: Tết Nguyên Tiêu. Vào ngày này người Việt Nam thường đi lễ Chùa, lễ Phật để cầu mong cho sự bình yên, khoẻ mạnh quanh năm. Đây là lễ tiết quan trọng trong năm nên ông bà ta có câu: ”Lễ Phật quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng”.

cúng giằm tháng giêng

Sắm lễ:

Ngày Tết Nguyên Tiêu các gia đình thường sắm hai lễ cúng: lễ cúng Phật và lễ cúng Gia tiên. Gia chủ có thể lập đàn tràng tại gia để làm lễ giải hạn. Đàn tràng lập ngoài sân.

Cúng Phật là mâm lễ chay tinh khiết, cùng hương hoa đèn nến.

Cúng gia tiên là mâm lễ mặn với đầy đủ các món ăn ngày Tết đầy đủ, tinh khiết.

Các vật phẩm khác như: Hương hoa vàng mã; Đèn nến; Trầu cau; Rượu

Văn khấn Tết nguyên tiêu tại nhà:

Nam mô A-di-đà Phật!

Nam mô A-di-đà Phật!

Nam mô A-di-đà Phật!

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là: .................
Ngụ tại:.............................................
Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng năm.... gặp tiết Nguyên tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ................... nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.

Nam mô A-di-đà Phật!

Nam mô A-di-đà Phật!

Nam mô A-di-đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Tết Nguyên tiêu (rằm Tháng Giêng)

Nói năng từ tốn chậm rãi ấy chính là quý nhân

Chúng ta có thể không phải chịu trách nhiệm trước cách nói năng sai trái nhưng nhất định sẽ không tránh khỏi trừng phạt, bởi cuộc sống còn có công bằng
Nói năng từ tốn chậm rãi ấy chính là quý nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa có câu rằng, quý nhân ngữ trì, tức người cao quý nói năng chậm rãi từ tốn, hiện câu nói này đã không còn ai nhắc đến, ấy vậy mà nó lại chứa đựng nội hàm rất sâu xa.

Xưa cũng nói rằng Hoàng đế có miệng vàng lời ngọc, cách nói năng thế nào thực ra không hề đơn giản. Dân gian có rất nhiều địa danh, di tích, truyền thuyết được lưu truyền cũng bởi từ một lời nói của vua. Bỏ qua những chuyện này mà chỉ nói về quyền lực nơi thế tục, một câu nói tùy tiện của vua có thể quyết định sự trầm luân sinh tử của một con người, hoặc cả một nhóm người, thậm chí đến cả phúc họa vinh nhục của một người mãi về sau. Vì những lẽ này, một người làm sao có thể tùy tiện nói lời mà không nghĩ chứ?

Theo truyền thống xưa, giới nhân sĩ hiệp khách cho rằng làm người tất phải xem trọng lời hứa, “quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy”, lời hứa đáng giá nghìn vàng, chữ trọng đây cũng không chỉ có nghĩa là “coi trọng”, “xem trọng” mà còn có nghĩa là “thận trọng”. Một người nếu có thể tùy tiện thề thốt hứa hẹn, sao có thể xem việc làm tròn lời hứa là điều quan trọng để dốc lòng thực hiện?

Quý nhân ngữ trì, cũng bởi vì là quý nhân có quyền cao chức trọng, nắm quyền sinh sát trong tay, một khi vô ý thốt thành lời, là có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là từ kết quả mà bàn luận. Một người tự tôn, nhất định sẽ biết cẩn trọng hành vi và lời nói, có trách nhiệm đối với lời mình đã nói. Họ nhất định sẽ không ăn nói lung tung, dùng lời nông cạn mà nhận định linh tinh; cũng không có cái kiểu cách “duy ngã độc tôn”, “thuận ta thì sống, chống ta thì chết”, dựa trên tính cách của mình mà làm ẩu làm càn. Do đó có thể thấy rằng, ‘quý’ trong ‘quý nhân’, không chỉ là ‘quý trọng’, mà càng có nghĩa ‘cao quý’ từ bên trong.

Đương nhiên, còn có vấn đề “hậu quả”, “Bệnh từ (những gì ăn) vào miệng, họa cũng từ miệng mà ra”. “Khẩu” (cái miệng) này dẫn đến “tai họa”, cũng bởi phần lớn chúng ta đều “ăn nhanh nói gấp”, lại hay “buôn chuyện linh tinh”, không biết dùng đầu não suy nghĩ. Vì thế, con người làm gì phải suy nghĩ cẩn thận rồi hãy làm, lời nói cũng phải nghĩ cho thấu đáo rồi hãy nói.

Trong quá khứ, người trong tôn giáo đều giảng về việc tu khẩu, vì điều này ảnh hưởng đến việc tu luyện của bản thân. Tuy nhiên, thời nay thì mọi chuyện được nhắc đến theo cách khác. Các bạn xem điện ảnh phương Tây sẽ thấy khi cảnh sát phát hiện ra đối tượng tình nghi, việc đầu tiên họ tuyên bố: “Anh có quyền giữ im lặng, nhưng những điều gì anh nói ra đều có thể là bằng chứng chống lại anh trước tòa”.

Có thể thấy, tầm quan trọng của cách nói năng đúng mực được bộc phát tự nhiên. Không chỉ có vậy, trên pháp luật của con người, còn có thiên lý. Một người bất luận là làm gì, nói gì đều phải chịu nhận hậu quả, đều phải có trách nhiệm. Có đôi khi, lời chúng ta nói ra không hẳn là liên quan đến pháp luật, nhưng rất có thể sẽ làm tổn hại người khác, thậm chí còn là một tổn thương nghiêm trọng. Chúng ta có thể không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nhưng nhất định sẽ không tránh khỏi sự trừng phạt, bởi vì cuộc sống nhân gian còn có sự chế ước của thiên lý.

“Quý nhân ngữ trì”, không phải có ý nói ‘lời của những người quan trọng dẫu đã đến cửa miệng vẫn giữ lại nửa câu’, cũng không phải có ý nói con người khư khư giữ trong bụng mà không nói ra, càng không phải có ý nói rằng lời phát ra từ miệng chứ không phải từ tâm, mà “quý nhân ngữ trì” chính là nói rằng con người phải hiểu rõ thấu đáo trách nhiệm khi nói thuyết, phải hiểu rõ lời nói của mình, chân chính có trách nhiệm trước mỗi lời mỗi hành vi của chính mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nói năng từ tốn chậm rãi ấy chính là quý nhân

Vận mệnh cuộc đời qua mái tóc của bạn

“Cái răng cái tóc là gốc con người” . Từ xưa ông bà ta đã nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của mái tóc, nó nói lên được bản tính của cả một con người nên việc coi bói qua tóc có thể nhận ra được cá tính của một người vô cùng chính xác.
Vận mệnh cuộc đời qua mái tóc của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

“Cái răng cái tóc là gốc con người” . Từ xưa ông bà ta đã nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của mái tóc, nó nói lên được bản tính của cả một con người nên việc coi bói qua tóc có thể nhận ra được cá tính của một người vô cùng chính xác.

Theo nhân tướng học có ba đặc điểm của tóc thường được nhắc tới dưới đây:

1./ Hình dáng và tính chất của tóc (như tóc dài tóc ngắn, tóc cứng tóc mềm):

Phụ nữ có mái tóc mềm và đen nhánh với những sợi nhỏ buông thẳng xuống vai là tướng tóc quý, song tính tình của chủ nhân dáng tóc ấy lại hay hờn giận, thích dỗ dành, chiều chuộng. Nếu tóc dài ngang lưng với sắc đen mượt, mặt đầy đặn, mắt sáng, là người tính tình hiền hậu, đằm thắm. Song nếu tóc dài quá thân người, sẽ gặp khó khăn trên đường mưu sinh vào tuổi trung niên. Cô nào tóc quăn phủ xuống đằng trước thiên đình (trước trán) là người có tính hay ghen bóng, ghen gió, như các thầy xem tướng đúc kết: “Vợ đâu có vợ lạ đời – Quăn quăn tóc trán là người hay ghen”.

Đó là phái đẹp, còn đàn ông tóc đen rậm và dày kèm theo tướng đầu tròn và cao như đầu hổ (hổ đầu cô khởi) ắt là người sẽ tạo được thanh thế, địa vị trong xã hội nhờ phần lớn vào phúc báu từ mấy đời trước của mình tích tụ lại, khó có người sánh kịp (phúc lộc vô tỷ). Cũng dạng “hổ đầu cô khởi” song tóc không được dày, không được đen và sáng lắm, thì phần “phúc” vẫn không vơi (an vui thanh thản), song phần “lộc” lại không đầy (của nhà vừa đủ). Ngược lại người tóc bù xù, sợi tóc quấn vào nhau, trông thô và rối, sẽ không gặp may mắn lắm trên đường đời.

Cả đàn ông hoặc đàn bà nếu tóc mọc quá ngắn, cộng thêm đầu có hình nhọn, sẽ gặp nhiều điều bất như ý trong cuộc sống. Nếu tóc đen đậm, cộng thêm đầu to cao như đầu voi, là người tính tình phóng khoáng, phần đông có chức phận cao và sống thọ. Còn tóc cứng, màu không đen lắm, là người thiếu cả quyết, bỏ lỡ nhiều cơ hội và dịp may đáng tiếc trong đời vì do dự tính toán quá lâu. Đàn ông đầu nhỏ với tóc dài quá cỡ cũng không được tốt vì sẽ gặp lao đao, lo lắng, công việc sắp thành bỗng bị người khác chen vào gây trở ngại, ấy là đo tôi chướng đời trước xuôi khiến nên đừng buồn bã quá mức, mà hãy vui với câu: “đời này trả nợ ngày xưa vay người – đời sau đủ phước cám ơn người nhiều”.

*Người có mái tóc dày

Người có mái tóc dày thường hiền hòa, bình dị, rất trọng tình nghĩa, tính tình ôn hòa, cư xử trọng nghĩa cử, dễ được mọi người quí mến, kính trọng.

Là người thật thà, chất phát, có tính cách cởi mở, hoạt bát, tích cực, hiếu động, tuy bề ngoài họ tỏ ra mạnh mẽ, nhưng trong tính cách lại khá yếu mềm, dễ rung động.

Có tài lãnh đạo, nói đến đâu làm đến đó, có tài lãnh đạo, tuy khéo léo ra mệnh lệnh nhưng tính cách của họ cũng rất đằm thắm, ít lãng mạn mà thiên về hiện thực.

Rất nghiêm túc, cẩn thận, là hướng nội, nhưng trên thực tế lại rất mạnh mẽ. Khi mà họ đã cố ý cẩn thận thì cũng rất cố chấp. Tuy tính cách mạnh mẽ, nhưng lại có lòng độ lượng nghiêm túc, và chặt chẽ.

Yêu những người có mái tóc dày này chỉ số an toàn rất cao bởi khi tình cảm phai nhạt họ sẽ chủ động tìm cách làm mới tình yêu chứ không bao giờ ruồng rẫy để tìm một niềm vui mới.

Họ không chỉ đối tốt với bạn mà còn cư xử cởi mở thân thiện với bạn bè, gia đình bạn. Nên những người tóc dày thường rất hay chiếm được cảm tình của phụ huynh. Là người yêu của những người có mái tóc dày, bạn nên biết trân trọng tình cảm mà người ta dành cho bạn, đừng bao giờ đánh mất nhé.

*Người có mái tóc mỏng

Người có tóc mỏng về nhiều mặt thường có tính cách hai mặt. Họ không quen nói chuyện trước mặt người khác, hoặc không chủ động tiếp xúc, cũng không muốn người khác đi lại với mình.

Đối với bất cứ việc gì đều thiên về thái độ tiêu cực. Tuy bình thường là hướng nội, rất ít bộc lộ chân tướng của mình, nhưng một khi họ không thể kiềm nén nữa thì sự bộc phát đó không ai cản nổi.

Người có tóc mỏng cho dù là làm việc hay học tập đều thiếu sự bền bỉ, dẻo dai cần thiết. Mới đạt được một chút thành tích đã thỏa mãn.

Người tóc mỏng đối với các sự vật bên ngoài thường rất nhạy cảm, đặc biệt là về mặt tiền tài. Nói chung loại người này thường cầu an vô sự, ít tranh chấp. Họ dễ bị tổn thương và khó lành vết thương khi tình yêu tan vỡ hay bị lừa gạt, phản bội. Đặc biệt, những người có mái tóc mỏng thường rất nhạy cảm. Họ biết khi nào tình yêu thắm thiết, khi nào tình yêu báo động, thậm chí khi người yêu lạnh nhạt và có dấu hiệu ngoại tình.
Khi họ bị rơi vào thế lẻ loi, cô đơn họ rất dễ bị kích động và hành động liều lĩnh nguy hiểm đến tính mạng. Yêu những người này, bạn cần tránh làm họ tổn thương.

Tóc mỏng, đen

Những người có tóc mỏng, đen óng ả, sợi tóc mảnh mai thường có số mệnh khá sung sướng. Họ thường có cuộc sống nhàn nhã và thảnh thơi, hôn nhân của họ cũng rất hạnh phúc và tròn đầy. Hầu hết những cô gái này đều khá nữ tính và ít nói, song lại dễ kích động và nổi loạn.

Tóc mỏng, vàng tự nhiên

Những cô gái có mái tóc mỏng, màu hơi ngả vàng thường thuộc tuýp người đa tình. Họ thường không rõ ràng và dứt khoát trong các mối quan hệ, điều này gây ra cho họ nhiều rắc rối trong chuyện tình cảm.

*Người có mái tóc cứng

Tóc cứng là chỉ tóc cứng, thẳng.  Là người thẳng thắng, cương trực, người có tóc cứng đối với công việc thường tỷ mỉ, không sợ khô, không sợ mất lòng, thái độ trước sau như một, có một số người rất bảo thủ, thiếu sự linh hoạt cần thiết. 

Người có tóc cứng tính cách rất thoải mái, trái phải rõ ràng. Một khi họ đã thích việc gì hoặc vật gì thì nhiệt tình đến cùng. Nói chung người tóc cứng hay cố chấp, bảo thủ, tuy cầu an, vô sự, nhưng trong nội tâm không thỏa hiệp. Đặc biệt là khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn hay bước đường cùng thì tính cách đó lại càng trở nên mạnh mẽ.

Giàu lòng thông cảm, người có tóc cứng giàu lòng thông cảm, ôn hoà, chung họ thường nhiệt tình giúp đỡ người khác.

*Người có mái tóc xoăn

Người sở hữu mái tóc xoăn tự nhiên thường lanh lợi và tốt bụng. Tùy vào mức độ xoăn khác nhau mà sẽ có họ những biểu hiện khác nhau. Song, hầu hết người có tóc xoăn đều có tính cách khá mạnh mẽ, thường là người phải gánh vác những công việc nặng nhọc trong gia đình, thế nhưng họ không hề kêu ca hay phàn nàn gì.

Bên cạnh đó, họ còn là người nhiệt tình và sâu sắc. Người có tóc xoăn thường bướng bỉnh, dù trong công việc hay giao tiếp, họ đều khó làm vừa lòng người khác. Đặc biệt, độ xoăn càng cao thì mức độ bướng bỉnh càng tăng.

Ngoài ra, nếu bạn sở hữu mái tóc xoăn thô cứng và xơ rối thì bạn sẽ gặp nhiều phiền muộn trong cuộc sống. Tóc xoăn là chỉ tóc xoăn bẩm sinh. Nói chung người có  tóc xoăn tính tình bướng bỉnh, cho dù trong công việc, học tập hay trong giao tiếp họ đều rất khó làm vui lòng người khác Tính cách của người tóc xoăn phụ thuộc vào mức độ xoăn khác nhau mà có biểu hiện khác nhau. 

Người có tóc xoăn không hay lên mặt: rất ghét xuất đầu lộ diện, nhưng lại nhiệt tình, sâu sắc với bạn tri âm. 

2./ Mùi tóc (tóc thơm, tóc hôi):

Nhân tướng học quan tâm đến cả mùi tóc nữa. Người có mùi tóc thơm thoang thoảng kèm theo vòm xương đầu nhỏ và tròn là người may mắn và được yêu thương. Người tóc nhiều mà bị hôi, ngồi gần thoang thoảng mùi khó chịu sẽ gặp trắc trở trong giao tiếp và đời sống tình cảm.

Có lẽ để gây cảm tình với người xung quanh, từ xưa những cô gái tóc dài thường dùng các loại thảo quả, bồ kết hoặc chanh tươi gội đầu để giữ mùi thơm trên tóc. Chính tóc thơm tự nhiên mới là đối tượng quan sát xem xét của nhân tướng học vì tóc ấy thường để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người nên có câu hát “làm sao quên mùi tóc”? Hoặc thường lan tỏa trong không gian khiến cả gió cũng “sẽ mừng vì tóc em bay”. Bên mùi thơm đặc trưng trên tóc của ai đó lại có thêm hàng lông mày thanh tú nữa cũng là tiêu chí và dấu hiệu để nhận ra con người dễ “gây thiện cảm” với chung quanh, nhưng cũng là người dễ “xiêu lòng” trước những mời gọi đa tình.

3./ Màu tóc (tóc đen, tóc đỏ, tóc vàng): 

Ngày nay nhiều bạn thanh niên nhuộm tóc với đủ các màu khá đẹp, nhưng nhân tướng học chỉ lưu tâm nhận xét màu gốc của tóc khi chưa nhuộm, nhất là màu đen mượt mà của “suối tóc” Việt. Nếu một sớm một chiều tóc ấy chợt ngả sang màu đen lợt, dần dần trở vàng như màu lá sắp úa, là điềm sẽ gặp mâu thuẫn trong chuyện gia đạo. Bằng như tóc chuyển sang màu hơi đỏ như màu lá bàng sắp rơi cần phải đề phòng bệnh tật ập đến. Chưa tới tuổi trung niên đầu đã sớm bạc, cần lo tu dưỡng tâm tính, nhẫn nhịn, tránh cãi cọ và hạn chế bớt những công việc động não kéo dài. Còn như tóc ngả sang màu bạc bỗng trở lại xanh đen là điềm hiếm có và rất tốt, dự báo gia đạo yên vui, êm ấm lúc về già.

Vậy đó, mùi hương và cả màu của tóc đều được khoa nhân tướng học lưu tâm phân tích và quy nạp vào nhiều dự báo khác nhau, kể cả tóc mai. Có câu: “tóc mai sợi vắn sợi dài – lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm”. Đem hai câu ấy ngẫm nghĩ và đối chiếu với nhân tướng học, ta thấy người có tóc mai vừa khô, vừa không thẳng thớm, là người sẽ gặp trắc trở trong tình yêu.

Tóc mai nhiều và dày kéo xuống che khuất đuôi lông mày là người sẽ gặp chuyện buồn về hôn nhân. Nếu cạnh mang tai thiếu hẳn tóc mai là người thiếu trung thực.

Nhưng tóc mai dày lên lấp trước mang tai, đầu người ấy lại nhỏ, cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến đường sinh mệnh (đoản mệnh) - nếu được sống qua tuổi trung niên rất dễ lâm cảnh thiếu hụt, buồn tủi, nhưng có thể “chuyển nghiệp” để hậu vận tốt hơn bằng cách làm việc ích lợi nhân sinh (như góp công đắp đường, xây cầu) hoặc công quả nơi đình miếu, chùa chiền sẽ được an vui như lời dặn của pháp sư Tịnh Không: “tướng mạo có thể thay đổi do nghiệp lành được vun đắp ngay trong đời này”

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh cuộc đời qua mái tóc của bạn

Chùa Bà Tấm - Hà Nội

Chùa Bà Tấm được xây dựng từ thời nhà Lý. Sự ra đời của ngôi chùa gắn với Nguyên phi Hoàng thái Hậu Ỷ Lan - một nhân vật nổi tiếng của vương triều nhà Lý
Chùa Bà Tấm - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bà Tấm là tên gọi phổ biến trong nhân dân để chỉ khu di tích tưởng niệm về một nhân vật nổi danh của lịch sử dân tộc ở thời Lý. Đền còn có tên gọi theo địa danh là đền Dương Xá, hay đền Ỷ Lan, chùa có tên chữ Linh Nhân Tư Phúc tự. Chùa Bà Tấm (Đền thờ Nguyên phi Hoàng thái Hậu Ỷ Lan) thuộc địa phận xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.

Chùa Bà Tấm được xây dựng từ thời nhà Lý. Sự ra đời của ngôi chùa gắn với Nguyên phi Hoàng thái Hậu Ỷ Lan – một nhân vật nổi tiếng của vương triều nhà Lý. Bà giỏi việc trị nước (hai lần nhiếp chính), khiến nhân tâm hoà hợp, đất nước thanh bình, nhân dân sùng Phật, tôn bà là Phật Bà Quan Âm.

Bà chính quê làng Thổ Lỗi, sau đổi thành siêu loại Thuận Thành Bắc Ninh nay thuộc xã Dương Xá huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Vì mẹ mất lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám. Sử ghi Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội là đền thờ Bà Tấm vì thế.

Đây là nơi thờ Đức Quốc Mẫu Ỷ Lan Nguyên phi. Quần thể khu di tích đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan gồm chùa, đền, điện, sơn trang nằm trong khuôn viên có sân, nhà thủy đình, cây xanh các loại rộng khoảng 3ha. Chừa và đển thờ Nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi là chùa “Bà Tấm”, đền “Bà Tấm”, chùa Cả, đền Cả. Nằm ở phía tay trái, trước cửa đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan là đôi rồng chầu bằng đá phủ phục, với đường nét, chạm khắc hết sức tinh xảo. Qua các bậc xây, du khách đi vào trong đền. Đền được xây dựng từ cuối thế kỷ XI, là nơi phụng thờ bà ngay chính trên quê hương Nguời. Đền có kiến trúc theo lối cung đình thời Lý, có 72 cửa, thuộc loại cổ nhất nước ta, cách không xa đền phía tay phải có chùa mang tên: “Linh Nhân tư Phúc Tự” do chính Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan xây dựng cùng với hàng trăm ngôi chùa khác, được khánh thành tháng 03 năm Ất Mùi(1115).

chùa bà tấm
Khu di tích lịch sử Ỷ Lan Nguyên Phi

Đặt chân vào ngôi đền làm cho mọi người cảm thấy sự yên bình, thanh tịnh bởi đó là những kiến trúc đẹp, những hàng cây lá xanh tốt. Quần thể di tích đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi chùa “bà Tấm”, đền “bà Tấm” – chùa Cả, đền Cả.

Chùa có tên “Linh nhân Tự Phúc Tự” do chính Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan) xây dựng khánh thành vào tháng 3 năm Ất Mùi 1115, đền kiến trúc theo lối cung đình, thời Lý, có 72 cửa thuộc loại cổ nhất nước ta.

Trong đền và chùa hiện còn nhiều hiện vật quý và hiếm. Nổi tiếng là đôi sư tử điêu khắc bằng đá, Sư tử được tạc từ 1 khối đá lớn cao 1.2m, rộng 1.36m trong tư thế nằm phủ phục, đường nét đặc biệt mềm mại, tạo cho chúa sơn lâm một vẻ đẹp, vừa uyển chuyển, vừa oai hùng mạnh mẽ – các chi tiết: đôi mắt to, lồi hẳn ra ngoài, ẩn dưới đôi lông mày rậm, mũi hở, hàm răng đều đặn, răng nanh to, nhọn và khoẻ, nhất là chân mập, có những móng cong sắc, quắp chặt, khiến cho người xem thấy rõ chúa sơn lâm ẩn tàng sức mạnh phi thường.

hiện vật
Trong chùa còn chứa nhiều hiện vật quý hiếm

Tuy nhiên bằng nghệ thuật điêu khắc khéo léo tuyệt vời, bằng cách sử dụng nhiều hoạ tiết đan móc khi thì gợi nhớ tựa lưng vào nhau thành đường viền quanh miệng, khi thì to sù ở trên vai, khi lại xếp thành những bông hoa hé nở ở móng chân, khiến cho người xem có ấn tượng con vật đang sống vẫn thở nhịp nhàng. Cũng khác những con sư tử thường thấy điêu khắc ở các đình chùa; sư tử trong đền thờ Ỷ Lan đang vờn hòn ngọc, đồng thời trên trán được trổ chữ “vương” khẳng định vị trí chúa tể muôn loài, bảo vệ vật báu của đất nước.

Đây là một công trình nghệ thuật điêu khắc tuyệt tác, một hiện vật cổ quý và hiếm ở Việt Nam, và còn cả ở khu vực Đông Nam Á. Trong cung còn 2 khám cổ thời Mạc hiện tìm thấy, các máng chạm trên khám như hoa lá, rồng phượng đều có giá trị về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam.

Trong đền và chùa “bà Tấm” còn có một thành bậc bằng đá liền khối điêu khắc rồng lân thời Lý đang chạy xuống, dài 1.3m, cao 0.8m hành chục tấn; và nhóm tượng ba ông tam thế ngồi trên đầu hai con sư tử cao 4m, tạc bằng những khối đá rất tinh xảo, cũng là những hiện vật độc đáo đã trải qua gần 9 thế kỷ, còn lại đến ngày nay.

Đặc biệt còn đôi câu đối ở đền từ cổ xưa ghi rõ: “Thập bát tử, diêu phỏng thế tại tam truyền chiêu lênh thục” – “Bách dư sở tự quán địa lưu cố trạch tối linh thanh”. (có nghĩa: đời nhà Lý thứ 3 kén được người con gái đẹp, có đức và có tài. Trên đất nước ta có trên 1 trăm nơi thờ nhưng đây chính là quê hương của Bà được lưu truyền đến ngày nay và rất linh thiêng).

Tượng Nguyên Phi Ỷ Lan được tạc rất đẹp, khi Bà là Nguyên Phi cùng tượng 6 vị cung nữ trong triều. Hiện nay nước ta có 72 nơi lập đền thờ bà. Nhưng đền chùa và đền thờ Ỷ Lan được xây dựng ở Dương Xá ngay chính trên quê hương Bà.

Hàng năm nhân dân trong vùng đã kéo về mở hội truyền thống suốt 3 ngày (19,20,21 tháng 2 âm lịch) tại Dương Xá. Hoà cùng với cả nước kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Hà Nội, UBND huyện Gia Lâm cùng với UBND xã Dương Xá đã tôn tạo trùng tu ngôi đền và xây dựng tượng đài Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan, ngôi tượng này đang được thực hiện với chiều cao 9.1m nặng 25 tấn đồng.

Ngoài ra, còn có bức phù điêu đá xanh Thanh Hoá 31.2m và vườn hoa, cây cảnh, hồ bán nguyệt do công ty Mỹ Thuật xây dựng đảm nhận thiết kế và thi công với chi phí gần 19 tỉ VNĐ. Dự kiến sẽ hoàn thành vào ngày 2/9/2010. Đây thực sự là một công trình nghệ thuật độc đáo. Đền Nguyên Phi Ỷ Lan với lối kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hoá nhà Lý, vừa mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc lại vừa mang giá trị nghệ thuật cao. Trong tương lai không xa, nơi đây còn trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn đối với khách trong nước và nước ngoài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bà Tấm - Hà Nội

Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

Như vậy chỉ còn 1 tháng nữa là bạn đã kết thúc năm 2015 và chuẩn bị chào đón năm mới 2016. Đồng thời, khi năm hết Tết đến cũng là thời điểm 12 con giáp cần chú ý hơn nữa đến một số thứ sau:
Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như vậy chỉ còn 1 tháng nữa là bạn đã kết thúc năm 2015 và chuẩn bị chào đón năm mới 2016. Một tháng này là khoảng thời gian để 12 con giáp tổng kết và có thể hoàn thành nốt các mục tiêu đã đề ra hồi đầu năm. Đồng thời, khi năm hết Tết đến cũng là thời điểm 12 con giáp cần chú ý hơn nữa đến một số thứ sau:

>> Xem thêm TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem thêm TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất!

1./ Lời khuyên cho tuổi Tý tháng 12 năm 2015

* Công việc và tài chính:

Trong tháng 12 này có những cơ hội làm ăn hấp dẫn mở ra trước tầm mắt của tuổi Tý. Nhưng có nhiều lợi lộc cũng đồng nghĩa với việc nhiều hiểm nguy bất trắc, người tuổi Tý cần thận trọng xem xét mọi mặt của vấn đề nhé. Nếu có thể hãy cùng bàn luận với người nhà để không mạo hiểm đầu tư vào những cơ hội mong manh. Người tuổi Tý cần phải có một nền tảng ổn định mới có thể phát triển được.

Tài chính tháng 12 của người tuổi Tý vững vàng nhưng cần chú ý một số khoản tiền lớn khi đầu tư, làm ăn buôn bán. Bạn đùng vội quyết định bất cứ điều gì. Hãy tham khảo ý kiến bạn bè và người thân trước nhé

* Sức khỏe và tình cảm:       

Bạn đang có một tình yêu đẹp, bạn có những dự định tiến tới trong thời gian tới thì hãy mạnh dạn hành động đi nhé. Tháng 12 này, người tuổi Tý đang được “Ông Tơ bà Nguyệt” ủng hộ đấy

Nói chung sức khỏe ổn định. Tuổi Tý chỉ có một số lo lắng nhất định trong công việc. Đừng để nó làm ảnh hưởng tới sức khỏe là được.

Ngoài ra, bạn cần chú ý trong việc đi lại, xe cộ. Tháng cuối năm bao giờ cũng đông đúc, vội vàng.

xem-boi-tu-vi-loi-khuyen-cho-12-con-giap-thang-12-2015-1

2./ Lời khuyên cho tuổi Sửu tháng 12 năm 2015

* Công việc và tài chính:

Có lẽ cuối năm bên cạnh niềm vui về thành quả đã đạt được, phấn đấu trong suốt một năm, sẽ có hơi nhiều rắc rối đến với những người tuổi Sửu, cần phải có đủ niềm tin và bình tĩnh để đối diện xử lý vẹn toàn mọi chuyện bạn nhé. Đừng cho rằng lợi ích trước mắt là quan trọng và dễ dàng tin tưởng người khác hay sẵn sàng giúp đỡ không công. Hãy nghĩ lâu dài để việc làm ăn được thuận lợi!

* Sức khỏe và tình cảm:

Tháng 12 này chứng kiến sức khỏe và tình cảm của người tuổi Sửu đi theo hai chiều hướng trái ngược nhau. Nếu bạn đang có một sức khỏe dồi dào, hào hứng trong công việc thì trái lại chuyện tình cảm lại khiến bạn bị stress. Hãy cố gắng lắng nghe và thấu hiểu hơn, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp thôi.

3./ Lời khuyên cho tuổi Dần tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Nếu như những tháng trước, bạn đang lo lắng về các kế hoạch, mục tiêu năm 2015 không đạt được thì sang tháng 12 này tất cả mọi khó khăn của bạn có thể đều được giải quyết. Bạn có thể thở phào nhẹ nhõm rồi nhé!

Cho dù là anh em họ hàng ruột thịt nhất cũng cần phải rõ ràng rành mạch về một số chuyện, ví dụ như tiền nong. Bạn bè dù nể mặt cũng đừng nhiệt tình quá mức, lâu dần bị họ ỷ lại hay coi lòng tốt của mình là chuyện đương nhiên. Vì vậy nên cuối năm người tuổi Dần đừng buông lơi cảnh giác, làm gì cũng hãy suy nghĩ tính toán nhiều hơn một chút nhé.

* Sức khỏe và tình cảm:

Khi công việc đã "hòm hòm" thì đây là lúc người tuổi Dần nên dành thời gian chăm lo cho bản thân và gia đình nhỏ của mình để bù lại thời gian "tối mắt mũi" vì công việc trước đây. Một kỳ nghỉ ngắn ngày lãng mạng vừa có ích cho sức khỏe vừa cải thiện không khí gia đình. Bạn thấy nó thật bổ ích cho mà xem.

Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

4./ Lời khuyên cho tuổi Mão tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Khi năm hết Tết đến, ông bà chủ tuổi Mão lại gặp phải những khách hàng không có tiền nhưng vẫn cứ muốn mua. Hãy xem xét giá trị của món hàng cùng mối quan hệ giữa cả hai bên để cẩn thận trong giao dịch bạn nhé. Người làm ăn phải tính toán thiệt hơn rất nhiều, nhưng nếu suôn sẻ thì những gì bạn đạt được lại rất đáng ngưỡng mộ.

* Sức khỏe và tình cảm:

Sức khỏe của bạn đang có dấu hiệu đi xuống? Đừng quá tập trung vào công việc, làm ăn mà quên mất điều này tuổi Mão nhé. Có những lúc, nhiều tiền không giải quyết được đâu.

5./ Lời khuyên cho tuổi Thìn tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Nếu muốn bắt đầu một dự án mới vào thời điểm cuối năm thì cần hết sức cẩn trọng tuổi Thìn nhé. Vào thời điểm nhu cầu mua sắm tăng cao, nhiều ngày hội giảm giá được đưa ra nhưng nếu không điều tra thị trường cẩn thận, tìm hiểu rõ xuất xứ nguồn hàng và đảm bảo được số lượng hàng nhập ổn định thì rất có thể rất nhiều khó khăn sẽ đến trước lợi nhuận đó bạn ạ.

* Sức khỏe và tình cảm:

Một chút vấn đề về “mũi, họng” là điểm trừ trong sức khỏe của người tuổi Thìn trong tháng 12 này. Điều này hoàn toàn phòng tránh được khi nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết thay đổi. Bạn cần chú ý hơn tới nó nhé.

6./ Lời khuyên cho tuổi Tỵ tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Đối với vấn đề tài chính nếu như không có chút tài trí và mưu kế thì thật khó để việc làm ăn không bị ảnh hưởng đó tuổi Tỵ. Hãy dành chút ít thời gian cho dù cuối năm có bận rộn như nào để tự mình quyết toán sổ sách, tránh thất thoát tiền bạc rồi ảnh hưởng đến nhiều mối quan hệ khác nữa.

* Sức khỏe và tình cảm:

Sức khỏe và tình cảm đầu tháng có một số vấn đề nho nhỏ nhưng sẽ dần được giải quyết và đi vào ổn định trong những ngày cuối tháng. Bạn hoàn toàn yên tâm để có thể đón một cái Tết thật vui vẻ và đầm ấm.

Một số chú ý khi tham gia giao thông trong những ngày cuối năm bận rộn nhé.

7./ Lời khuyên cho tuổi Ngọ tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Cuối năm lại là thời điểm tuổi Ngựa bị cạnh tranh khốc liệt. Tuy có đối thủ là con đường ngắn nhất dẫn đến thành công, để mỗi con người trở nên tiến bộ nhưng không phải đối thủ nào cũng cạnh tranh lành mạnh, biết tôn trọng hay có thiện chí khích lệ nhau. Hãy tỉnh táo với bất cứ ai tuổi Ngọ nhé, cho dù là trong công việc hay chuyện tình cảm, vì nhân từ với địch thủ là tàn nhẫn với chính mình đó.

Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

* Sức khỏe và tình cảm:

Sức khỏe cũng là điểm yếu của tuổi Ngọ trong những ngày cuối năm này. Có lẽ sau cả năm làm việc đã làm cho bạn dần bị kiệt sức. Lời khuyên dành cho tuổi Ngựa lúc này là hãy chú ý tới sức khỏe của mình nhiều hơn bạn nhé. Nếu không, bạn sẽ không có ngày Tết vui vẻ đâu.

8./ Lời khuyên cho tuổi Mùi tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Hãy cẩn trọng khi đưa ra bất kỳ cam kết nào vào dịp cuối năm, tuổi Mùi ạ. Cho dù là ký hợp đồng làm ăn hay một lời hứa hẹn tình cảm đều cần cân nhắc thật kỹ càng. Nếu là chuyện làm ăn thì đừng để tình cảm xen vào, ngược lại chuyện tình cảm cũng đừng để tiền bạc làm ảnh hưởng đến những thứ quý giá đáng trân trọng.

* Sức khỏe và tình cảm:

Cũng giống như những người tuổi Ngựa, sức khỏe người tuổi Mùi đang đi xuống. Bạn cần gác lại những công việc không quan trọng và lên kế hoạch nghỉ ngơi dần đi là vừa.

9./ Lời khuyên cho tuổi Thân tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Hãy chú ý đến vấn đề nhân công nhân lực cuối năm này nhé các ông chủ hay sếp tuổi Thân. Vào dịp cuối năm, lượng khách hàng và công việc tương đối nhiều, nếu không giữ được ổn định về nhân sự sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều mặt, có lợi nhuận và nhiều mối quan hệ giữa các bên. Thay vì tiết kiệm một chút tiền lương để làm mất đi nhân tài, hãy hào phóng một chút vào tiền thưởng để nhận được nhiều lợi ích hơn.

* Sức khỏe và tình cảm:

Tháng cuối năm là những ngày chìm ngập trong các buổi liên hoan, tiệc tùng. Nếu không biết “giữ mình” các bạn tuổi Thân sẽ gặp phải vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe đấy. Không đơn giản là việc bị “tào thào” đuổi đâu, mà bạn có thể bị kiệt sức đấy. Nghe thật vô lý nhưng đó là những gì mà Lá số tử vi của bạn đã chỉ ra. Cẩn thận vẫn hơn đúng không?

Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

10./ Lời khuyên cho tuổi Dậu tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Nếu đang có dự định ra nước ngoài dịp cuối năm cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng về nhiều mặt, đặc biệt là tài chính nhé tuổi Dậu. Đừng ỷ lại rằng mình có thẻ thanh toán quốc tế hay ở nước bạn thiếu gì chỗ đổi tiền giá cả phải chăng mà không lường trước mọi tình huống khẩn cấp. Có một vài đồng tiền sẵn trên người nơi đất khách lúc nào cũng là chuyện cần thiết.

* Sức khỏe và tình cảm:

Do lối sống khoa học, cân bằng giữa cuộc sống và công việc nên sang tháng 12 này những người tuổi Dậu vẫn giữ được “phong độ” về sức khỏe lẫn cuộc sống tình cảm. Hãy duy trì nhé.

11./ Lời khuyên cho tuổi Tuất tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Cẩn thận chuyện cho vay mượn cuối năm nay nhé tuổi Tuất. Cho dù bạn bè có cần kíp thì trước tiên hãy để tâm đến tình trạng của mình đã, đừng để giúp đỡ bạn bè rồi bản thân lại rơi vào tình trạng khó khăn thì không hay chút nào. Nể bạn nhưng hại đến việc của mình thì tình cảm hai bên cũng sẽ bị sứt mẻ thôi bạn ạ.

* Sức khỏe và tình cảm:

Tuổi Tuất làm sống và làm việc luôn cẩn thận nên nhịp sống hối hả những ngày cuối năm không làm sức khỏe của bạn đi xuống. Bạn vẫn luôn tràn đầy sinh lực để thực hiện, hoàn tất các kế hoạch dang dở.

Nhưng trong tình cảm, bạn cần lãng mạng hơn. Sự cẩn thận, thực tế quá đôi khi là nguyên nhân giết chết tình yêu đấy những người tuổi Tuất ạ. Trong những ngày này, bạn cần chú ý hơn đến suy nghĩ của nửa kia nhé.

12./ Lời khuyên cho tuổi Hợi tháng 12 năm 2015.

* Công việc và tài chính:

Tính tình rộng rãi cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự nghiệp của tuổi Hợi. Nhưng đừng để sự thoải mái đó khiến bản thân rơi vào bẫy của những kẻ sành sỏi. Chuyện làm ăn hay trong sự nghiệp chỉ quan trọng lợi ích, bạn có tốt với người khác đến đâu nhưng không mang lại lợi lộc cho họ thì cũng chẳng giải quyết được gì.

Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

*Sức khỏe và tình cảm:

Trái lại với người tuổi Tuất, những người tuổi Hợi luôn là những chuyên gia tâm lý, chuyên gia về tình ái và lãng mạng. Họ sẽ làm cho “nửa kia” cảm thấy thật hạnh phúc trong những ngày cuối năm rộn ràng lễ hội. Một chút chú ý về xe cộ khi đi lại tuổi Hợi nhé!

>> Xem thêm VẬN HẠN 2016 mới nhất!

>> Xem thêm NGÀY TỐT XẤU 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi: Lời khuyên cho 12 con giáp trong tháng 12 năm 2015

Mơ thấy bàn thờ –

Mơ thấy dọn dẹp bàn thờ Bàn thờ: Mơ thấy bàn thờ là điềm báo bạn sẽ thành công với điều mà mình đang theo đuổi. Những ngọn nến cháy lung linh còn bảo đảm cho thành công nhân đôi. Niềm tin vào bề trên sẽ đem lại cho bạn những thành công, bảo đảm may
Mơ thấy bàn thờ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bàn thờ –

Mơ thấy con sói, mơ thấy cừu là điềm báo gì?

Trong giấc mơ, con sói tượng trưng cho những điều xui rủi còn cừu thì sẽ mang lại những điềm lành.
Mơ thấy con sói, mơ thấy cừu là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sói tượng trưng cho loài dã thú, ghê sợ, cừu lại tượng trưng cho động vật hiền lành, đáng yêu.


Giải mã giấc mơ thấy sói và thấy cừu:

Mo thay con soi, mo thay cuu la diem bao gi hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy sói   Mơ thấy  sói cảnh báo sắp lâm trọng bệnh.   Nữ giới đã kết hôn mơ thấy sói xông vào nhà là sẽ sinh con ra thần kinh yếu hoặc thân thể suy nhược.   Mơ thấy  sói lùa mình từng bước từng bước là ác mộng, bạn sắp phải tiêu nhiều tiền vì bệnh tật.   Cô gái mơ thấy sói xông tới mình là sẽ bị gả cho một người yếu nhược.   Mơ thấy  sói đuổi bạn ngụ ý bạn bè yếu đuối.

 
Mo thay con soi, mo thay cuu la diem bao gi hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Mơ thấy cừu   Cừu tượng trưng cho sự thuận hòa, trong giấc mơ nó đại diện cho cuộc sống giàu có và hòa hợp. 
   Nam mơ thấy cừu là sắp phát tài.
   Nữ mơ thấy cừu dự báo cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, bạc đầu giai lão.
   Mơ thấy cừu mẹ là đường tài lộc sắp được mở rộng.
   Mơ thấy cừu mẹ màu trắng là điềm lành, được mọi người yêu thương.
   Mơ thấy cừu mẹ đang kêu cảnh báo tiền tài bị đe doạ.
   Mơ thấy một bầy cừu mẹ là điềm báo bạn sẽ trở thành người quyết sách trong kết cấu tài chính của công ty.
   Mơ thấy cừu chạy nhảy là tài sản bị đe doạ, bị cướp đoạt.
   Mơ thấy cắt lông cừu là sắp được thừa hưởng gia sản.
   Mơ thấy đánh cừu tượng trưng cho việc bạn sắp bị phá tài phá lộc.
   Mơ thấy nhảy qua cừu một con cừu là sắp làm một việc tai hại, bị tổn thất nặng nề.
   Mơ thấy cừu mẹ mang một con cừu con là cát mộng, ngụ ý người vợ sẽ sinh con trai.
   Thương nhân mơ thấy một bầy cừu cái là sắp xuất ngoại làm ăn, kiếm tiền lớn.
  
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con sói, mơ thấy cừu là điềm báo gì?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd