Tướng đàn ông yểu mệnh –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Vì sao ai cũng mong muốn mình sở hữu được một sim số đẹp?
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay chiếc điện thoại đã ngày càng trở nên gắn bó và thân thiết với mỗi chúng ta hơn, là công cụ kết nối với thế giới xung quanh, kết nối với bạn bè người thân đối tác kinh doanh, đồng nghiệp. Số sim điện thoại của mỗi người giờ đây cũng đóng vai trò như cái tên của mỗi chúng ta, nó đại diện cho chủ nhân của chiếc điện thoại vậy, với tầm quan trọng của nó như vậy nên ai cũng mong muốn mình sở hữu một sim số đẹp.
Mọi người vẫn thường nghe nhắc đến các từ như sim tam hoa, sim tứ quý, sim ngũ quý và nhiều loại sim số khác... chúng thường có giá trị lên đến cả chục triệu hay đặc biệt hơn đến cả trăm triệu. Còn bình thường hơn thì mọi người hay sử dụng đến các số thần tài 39, 79, rồi số lộc phát (68), phát lộc (86) hay nhất lộc phát (168) có giá từ vài trăm cho đến vài triệu.

Vậy các số sim trên có thực sự đẹp cho người dùng, đấy là điều khó xác định, nhưng để sở hữu những số như vậy thì không phải ai cũng dễ dàng sở hữu được. Có những người mua được những số sim đẹp trên thì thấy mọi người cũng nể trọng mình hơn, làm ăn giao dịch cũngg may mắn hơn, nhưng cũng có nhiều người lại thấy mình không thay đổi gì cả, lại có cả những người từ khi sử dụng các sim đẹp trên lại còn thấy vận khí của mình xấu đi.
Vậy để thấy quan niệm thế nào sim số đẹp cũng còn nhiều điều cần phải bàn luận và nghiên cứu, các số sim thường được gọi là đẹp ở trên gần như mới thể hiện được nét đẹp về mặt ngôn ngữ, nâng cao giá trị bản thân cho người sử dụng chúng. Chúng ta vẫn thường thấy ở những cuộc thi hoa hậu, người đẹp, thì việc đánh giá chọn ra đánh giá người đẹp nhất, toàn diện nhất là một điều khó khăn, trăm sự cũng tại một chữ “ĐẸP” . Với một quan điểm khác, mới mẻ hơn, có hệ thống triết lý hơn, chúng ta cùng bàn luận tìm hiểu về sim số đẹp phong thủy và sim số đẹp kinh dịch mà hay được gọi là xem bói số điện thoại.
Vậy kinh dịch là gì? Kinh dịch là một kỳ thư của văn hóa phương đông, hàm chứa trong đó là các nguyên lý biến dịch, bất dịch và giản dị, đây cũng là quy luật của vũ trụ. Kinh dịch có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống, với nhiều lĩnh vực như y học, thiên văn học, chính trị kinh tế học hay quân sự học, đặc biệt là ứng dụng trong dự đoán học với nhiều trường phái ra đời như tử vi, phong thủy, thái ất, độn giáp, bốc phệ hay tứ trụ.
Mọi sự vật tồn tại và phát triển luôn chịu sự chi phối tương tác lẫn nhau, bản thân một sự vật nào cũng hàm chứa cả hai tính âm và dương. Ứng dụng kinh dịch trong việc dự đoán học khi xem số điện thoại cũng nhằm giải mã hai điều đấy, một là tìm hiểu xem số sim đấy hàm chứa may mắn nhiều hay ít, lành hay xấu, hai là số sim điện thoại đấy tác động đến người sử dụng nó như thế nào lớn hay nhỏ. Dưới đây là một đoạn phân tích số sim đẹp theo kinh dịch mẫu:
Xem số điện thoại 0913227523 được biến đổi thành 3 quẻ như sau:
- Quẻ Chủ: Sơn Hỏa Bí, cung Cấn:
Có văn, có vẻ cũng hay.
Cũng đôi chút lợi, cũng dầy công lao.
- Quẻ Thể: Lôi Thủy Giải, cung Chấn:
Giải là giải nạn, tế nguy,
Khuôn phù đại chúng, vậy thì mới hay.
Xin đừng dở dói, múa may,
Theo nề nếp cũ, dựng gầy cơ ngơi.
Tinh hoa xưa, chẳng bỏ rời,
Ấy là may mắn, ấy thôi tốt lành.
Nếu còn việc phải thi hành,
Thời nên làm gấp, cho nhanh, cho rồi.
Quẻ Biến: Ly Vi Thủy, cung Ly:
Nương tựa chính trung, lợi lại hay,
Nhu thuận một lòng sẽ mắn may.
Ví như nuôi được con trâu cái,
Vừa khỏe, vừa ngoan, thật tốt thay.
Luận quẻ:
“Thành công cần có thực lực” là lời chính của quẻ trong công việc của bạn, những dự định, kế hoạch mà ban định triển khai nếu xác định đủ nguồn lực thì bạn có thể tiến hành thực hiện, những công việc đã tiến hành thì cần chú trọng đến năng lực thực có, cũng như tìm cách bổ xung nâng cao thêm, có như thế thì mọi việc mới trở nên thuận lợi đối với bạn.
“Nghìn năm khó gặp, hoa nên hái thì phải hái” , hiện tại là cơ hội rất tốt cho bạn, thời cơ tốt để phát triển sự nghiệp đã đến, trở ngại đã trôi qua, khó khăn đã tan biến. Bạn cần nắm bắt lấy cơ hội này, tích cực nỗ lực hướng về phía trước, nhất định đừng do dự mà đánh mất thời cơ. Tuy vậy bạn vẫn phải rất cẩn thận, nhanh nhưng không được vội mà lại hỏng.
Lời quẻ: “Sự nghiệp hưng thịnh như mặt trời giữa trưa, tránh thái độ kiêu căng tự mãn” Quẻ này dự báo cho bạn biết tuy vận thế rất tốt, có nhiều thành công trong công việc và sự nghiệp, nhưng bạn cũng vẫn cần thận trọng, khiêm tốn tiếp thu để tránh nhận hậu quả trái ngược.
Những sim điện thoại mà hàm chứa trong nó những quẻ Kinh dịch có dự báo những điều cát lợi may mắn , điều tốt đẹp thuận lợi, có tính cân bằng âm dương, thuận sinh theo chiều phát triển của vũ trụ.
Những sim kinh dịch mà đạt được những yêu cầu như vậy chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tích cực thuận lợi đến người sử dụng nó, và như vậy có thể coi đấy là sim số đẹp.
Các bạn có thể sử dụng tiện ích trực tuyến tra sim số đẹp của Xem Tướng chấm net để kiểm tra số điện thoại của mình.
Khái niệm phong thủy chắc không còn xa lạ với nhiều người nữa, tính ứng dụng và hữu ích của nó trong cuộc sống đã ngày càng được minh chứng rõ nét, như ứng dụng phong thủy trong nhà cửa kiến trúc, trong kinh doanh..
Vạn vật tồn tại và phát triển đều bị tác động ảnh hưởng bởi quy luật âm dương và ngũ hành. Giữa chiếc điện thoại và bạn cũng vậy, bạn tác động vào nó và nó cũng tác động ngược lại, đôi khi ta chỉ nhìn thấy những tác động về mặt cơ học vật chất, còn tác động về những mặt khác thì ta không nhìn thấy được. Bạn sử dụng điện thoại càng nhiều thì sự tương tác của điện thoại lên bạn cũng tăng lên, ta có thể gọi nó là hệ số ảnh hưởng như trong toán học vậy.
Mỗi một con số đều tồn tại tính ngũ hành, một dãy số cũng tồn tại tính ngũ hành đại diện của dãy, một số sim cũng vậy, đều có tính ngũ hành riêng của nó, nếu bạn có một ít kiến thức về phong thủy học thì bạn cũng có thể dễ dàng tự xác định được tính ngũ hành của số sim điện thoại.

Đặc biệt là con người cũng vậy, luôn tồn tại ngũ hành bản thể, vậy tính ngũ hành của con người được xác định như thế nào:
- Theo phong thủy học thì ngũ hành bản mệnh được xác định theo năm sinh, ví dụ như: sinh ngày 15.4.2015 thì ngũ hành bản mệnh của bạn là Sa Trung Kim.
- Theo Tứ trụ học thì ngũ hành đại diện của bạn được xác định phức tạp hơn, người có chuyên môn cần lấy đủ ngày giờ tháng năm sinh của bạn để phân tích, so sánh độ mạnh yếu của các ngũ hành trong tứ trụ của bạn, xác định độ vượng suy của chúng để tìm ra ngũ hành tương ứng hoặc thiếu khuyết.
Trong tứ trụ học tìm ra được ngũ hành vượng suy thiếu khuyết vô cùng quan trọng, bởi con người cần đạt đến sự cân bằng điều hòa, xác định được ngũ hành thiếu khuyết hay vượng suy ta có thể tìm ra cách bổ trợ hay chế hóa nhằm giúp ta có được nhiều tốt đẹp, may mắn thuận lợi hơn, ít khó khăn bệnh tật hơn trong cuộc sống.
Vậy thế nào là một sim phong thủy được gọi là đẹp?
Những sim điện thoại mà có tính ngũ hành hợp tương sinh cho ngũ hành bản mệnh, hay bổ trợ cho hành khuyết hay tương sinh cho ngũ hành suy, chế hóa ngũ hành vượng trong tứ trụ được coi là sim phong thủy hợp tuổi.
(Chia gương mặt làm 3 phần như trong hình và so sánh với lời mô tả dưới đây để chọn ra đáp án đúng nhất cho mình). Bấm vào hình để xem đáp án!
![]() |
![]() |
| A - Phần cằm dài nhất | B - Phần trán rộng, dài nhất |
![]() |
![]() |
| C - Cân đối, tỷ lệ gương mặt bằng nhau | D - Phần trán hẹp, ngắn nhất |
Alexandra V (theo vonvon)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 63 được xây dựng trên điển cố: Nữ Oa luyện thạch – hay Nữ Oa đội đá vá trời.
Quẻ này cung Mão, là quẻ trung bình. Phúc là nền móng của tài lộc, tài lộc là hạt giống của phúc, hai cái đó có quan hệ tương hỗ với nhau, nếu đã hiểu rõ được như vậy thì nên cẩn thận mà vun đắp, gìn giữ. Nếu không cũng giống như việc mò kim đáy bể, việc mong cầu đều uổng phí công sức bởi gốc rễ không được giải quyết.
Thử quái hài trung tầm trâm chi tượng. Phàm sự phí tâm lao lực dã.
Thời viễn cổ, bộ lạc của Hoàng Đế và bộ lạc của Viêm Đế cùng sinh sống ở một vùng đất rộng lớn. Chuyên Húc là con cháu của Hoàng Đế, Cộng Công là con cháu của Viêm Đế, hai bộ lạc trong quá trình chung sống với nhau, khó tránh khỏi việc nảy sinh mâu thuẫn.
Cộng Công giỏi việc cày cấy. Một hôm, ông cùng con trai là Hậu Thổ đi khảo sát tình trạng đất đai của bộ lạc, phát hiện có vùng đất không được bằng phẳng, mùa khô không có nước, mùa mưa lại dễ bị ngập úng. Cộng Công liền đề xuất, lấy đất ờ chỗ cao chuyển xuống chỗ thấp, san bằng những chỗ đất trũng, làm như vậy không những có thể mở rộng được diện tích canh tác, mà còn có lợi cho thủy lợi tưới tiêu, thực là vẹn cả đôi đường.
Nhưng Chuyên Húc lại không tán thành cách làm của Cộng Công. Chuyên Húc cho rằng, trong hai bộ tộc, mình mới có quyền uy tối cao, Cộng Công đề xuất chủ trương như vậy là đã phạm vào quyền uy của Chuyên Húc, do vậy nhất quyết bác bỏ kế hoạch của Cộng Công. Cộng Công không hài lòng với Chuyên Húc, vì thế Cộng Công giao ước vói các thiên thần vốn đã không hài lòng với Chuyên Húc, cùng nhau lật đổ sự thống trị của Chuyên Húc. Và một cuộc chiến tranh ác liệt đã nổ ra.
Hai đội quân từ trên trời đánh xuống hạ giới, lại từ hạ giới đánh lên trên trời, chỉ thấy trời đất tối tăm, nhật nguyệt biến sắc. Dần dần, người ngựa của Cộng Công càng ngày càng ít ỏi, mà đội ngũ của Chuyên Húc càng lúc càng lớn mạnh. Thái Phùng hình người đuôi hổ, Kế Mông đầu rồng mình người và Kiêu Trùng hai đầu đã thống tĩnh loài ong độc và bọ cạp độc, cũng đến trợ giúp cho Chuyên Húc. Sau mấy ngày giao chiến, Cộng Công bị Chuyên Húc truy sát đến chân núi Bất Chu ờ phía tây bắc, bên cạnh Cộng Công chỉ còn lại mười ba kị sĩ.
Thế núi của núi Bất Chu cao vời vợi, là một cây cột lớn chống trời. Đây cũng là vật tượng trưng và chống đỡ quan trọng để Chuyên Húc duy trì sự thống trị trong vũ trụ. Lúc này Cộng Công đã thất vọng cùng cực, ý chí mạnh mẽ khi trước đã tiêu tan hết. Tiếng hò reo, tiếng dụ hàng vang vọng bên tai không dứt. Cộng Công tuyệt vọng gầm lên một tiếng lớn, lắc mạnh đầu, lao người về phía núi Bất Chu. Chỉ nghe một tiếng động long trời lở đất, ngọn núi Bất Chu chống giữ trời đất đã bị ông húc gãy đoạn giữa, đố sụp xuống.
Trụ trời đã đổ, bầu trời phía tây bắc mất đi vật chống đỡ, nghiêng hẳn xuống. Các vì sao trên trời lệch ra khỏi quỹ đạo, va vào nhau, lửa cháy rực trời; các dòng sông trên mặt đất đổi dòng, nước biển sôi sùng sục. Con người hoặc là bị lửa thiêu chết, hoặc là bị nước dìm chết, khắp nơi tiếng khóc động tròi. Khi mặt trời xuất hiện, mặt trời rừng rực mất đi vật che chắn, giống như lửa thiêu đốt trên mặt đất, rất nhiều người đã bị mặt trời thiêu chết.
May sao có thiên thần Nữ Oa đi qua, trông thấy chúng sinh phải chịu khổ nạn như vậy, liền quyết định luyện đá vá trời, để cứu vớt những sinh linh trên mặt đất.
Trước tiên Nữ Oa dùng chân rùa biển làm thành cây cột chống trời ờ bốn phương, khai thông dòng nước lớn đang chảy tràn lan, sau đó sai các vị tiên đi lấy đá ngũ sắc về. Bà đem luyện những viên đá ấy, rồi đem vá trời. Không lâu sau, bầu trời lại được phục hồi như cũ, con người không còn bị mặt trời nóng bỏng thiêu đốt nữa. Nữ Oa đã dùng ba mươi sáu nghìn năm trăm linh một hòn đá ngũ sắc để vá trời, chúng còn hình thành nên cầu vòng và ráng mây nhiều màu sắc.
Từ đó, con người lại có thể an cư lạc nghiệp, khắp nơi thái bình.
Những lời chúc mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 hay nhất. Ngày 20/11 đang đến gần, nhớ ơn thầy cô đã dạy chúng ta nên người cùng gửi những lời chúc tốt đẹp, ý nghĩa nhất dành tặng thầy cô nhân ngày đặc biệt này – ngày nhà giáo Việt Nam.
Sau đây là những tổng hợp những lời chúc 20/11 tốt đẹp và ý nghĩa nhất dành tặng cô giáo được đánh giá là hay nhất. Hãy tham khảo những gợi ý bên dưới nhé bạn.
Dẫu đi khắp 4 phương trời, cũng không quên nổi lời thầy/cô khắc ghi “tiên học lễ, hậu học văn”. Con không thầy/cô con không lớn nổi thành người. Kính chúc thầy/cô ngàn lời tốt đẹp, con mong thầy/cô mạnh khỏe để chở thêm những chuyến đò sớm mai.
——–
Dù ngày hôm nay trò đã ở vị trí không phải là một người học sinh, nhưng trò vẫn luôn hướng về một nơi, một mái ấm gia đình thân yêu nhất và trong mỗi bài giảng của thầy/cô dành cho học sinh, sinh viên, trò vẫn nhớ đến những người thầy/cô của mình, nhớ về mái trường đã cho trò vững bước vào đời, với niềm tự hào, lòng biết ơn vô hạn.
———-
Tháng 11 đầy ưu tư nhung nhớ, nhớ ký ức của một thời nhỏ dại. Nhớ thầy/cô của những buổi đến trường, chúc cho thầy/cô thân yêu của con mãi mạnh khỏe và thanh đạt.
Ngày 20/11 em xin được dành những lời chúc ý nghĩa nhất, những bó hoa tươi thắm nhất của mình, và tất cả những lời chúc đó, đều là dành cho thầy/cô, em cũng như bao bạn khác được như ngày hôm nay đó là kết quả của thầy/cô mang lại cho chúng em.
Tháng năm dầu dãi nắng mưa, con đò trí thức thầy/cô đưa bao người. Qua sông gửi lại nụ cười, tình yêu xin tặng người thầy/cô kính thương. Con đò mộc – mái đầu sương. Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày
Dù đi khắp bốn phương trời, mãi nhớ về Người! Thầy/cô như ánh nến soi tỏ đêm khuya. Như tấm bảng đen vẽ nên kiến thức trong mỗi học trò Dẫu mai đi bốn phương trời Những lời thầy/cô dạy đời đời khắc ghi . 20 tháng 11 đã đến em chúc thầy/cô sức khỏe dồi dào, hạnh phúc!
Con biết khóc trước những tấm lòng hi sinh cao cả, con biết đau trước những số phận éo le của đời người, con biết nhặt lấy chông gai trên đường để bảo vệ những người đi sau… Tất cả đều nhờ công ơn của thầy/cô, 20/11 con xin gửi tới cô lời chúc tốt đẹp nhất.
Cứ mỗi mùa 20/11 về, những kỉ niệm về thầy/cô cô, bè bạn, mái trường lại ùa về trong tâm trí con. Gương mặt gầy gầy, xương xương, giọng nói ấm áp và những lời dạy của thầy/cô luôn in sâu trong trí nhớ con. Con cảm ơn thầy/cô vì đã hết lòng dạy dỗ.
Mọi lời hay ý đẹp đều chẳng đủ để nói hết được công ơn của thầy/cô dành cho chúng em. Dù đã khôn lớn, đã trưởng thành nhưng con luôn là cậu học trò bé nhỏ của ba trong ngôi nhà thứ hai đầy yêu thương ấy.
Cô, người thầy, người chị kính yêu của em, người khiến em cảm phục và cho em động lực trong cuộc sống để e có được ngày hôm nay, người gieo những hạt giống ước mơ vào tâm hồn bé nhỏ của em giá tri đích thực đúng nghĩa của cuộc đời mình. Bao nhiêu ân tình của cô, em không bao giờ quên,em chỉ ngồi đây và cầu chúc cho những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với cô. Nhân ngày nhà giáo Việt Nam, em không thể về thăm cô đươc, em chúc cô luôn khỏe mạnh để cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, để dạy dỗ lớp lớp thế hệ học trò như chúng em. Em mãi mãi là cô trò bé nhỏ của cô.
Thầy là một biển lớn kiến thức, em lái con thuyền nhỏ, thả sức quăng lưới đánh bắt, phải không thưa Thầy? Cô đã cống hiến cả tấm lòng chân thành cho trẻ thơ, cho sự nghiệp. Cô ơi! Cô chính là người mẹ tốt nhất trên thế gian này..
Không phải chỉ vào ngày này em mới nhớ đến thầy nhưng nó sẽ đặc biệt hơn khi lời chúc của em được gửi đến thầy vào những giây phút mà thầy cảm thấy hạnh phúc nhất trong sự nghiệp nhà giáo của mình là được gặp lại học trò cũ, được nghe bọn em tâm sự và kể chuyện lúc học đã chép phao trong giờ thi của thầy…thầy hạnh phúc vì thầy biết bọn em sẽ không bao giờ quên thầy.
Đâu đó bóng thầy theo sau dìu dắt từng bước cuộc đời con. Ơn thầy mãi mãi em ghi trong lòng. Chúc thầy những điều tốt đẹp nhất.
Nhân ngày 20/11, em chúc tất cả các thầy các cô luôn có một sức khỏe thật tốt để những học sinh thân yêu chắp cánh những ước mơ bay cao bay xa hơn nữa
Nếu thầy/cô của bạn còn trẻ, hãy gửi lời chúc bằng tin nhắn tạo hình đặc biệt sau đây. Chắc hẳn thầy/cô của bạn sẽ vui và bất ngờ lắm đó.
。、★、•、、、
、、 ☆ 、\*•
•☆\•\☆\、*
\、*• \☆\、
╭⌒╮⌒⌒╮\*
•╱◥██◣ ★、
|田|田田| \ •、
╬╬╬╬╬╬╬╬
Lớp học trò ra đi,
còn cô ở lại
Mái chèo đó là những viên phấn trắng
Và cô là người đưa đò cần mẫn
Cho chúng em định hướng tương lai!
__ __ )__ll___)
)___ll____)
)____ll_____)
,__,_l;;;;l=:Ỉ:=:Ỉ:=:Ỉ:=:Ỉ:=Ỉ:-*’/
_/__Nhà__Gíao__Việt__,/
Tháng năm dầu dãi nắngmưa,
Con đò trí thức thầy đưabao người.
Qua sông gửi lại nụ cười
Tình yêu xin tặng người thầy kính thương.
Con đò mộc – mái đầu sương
Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày
![]() |
| 12 con giáp |
Quán Huyền Thiên, tên chữ là “Huyền Thiên cổ quán”, thường gọi là Chùa Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên. Thuộc địa phận khu phố cổ Hà Nội, quán Huyền Thiên nằm giữa phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân – Hà Nội.
Thời Lê là đất thôn Huyền Thiên, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Phố này trước đây là nơi tập trung bán các loại khoai. Tên phố thời Pháp thuộc là “Rue des Tubercules” (phố Các Củ). Sau cách mạng tháng 8 gọi là phố Hàng Khoai.
Chùa được khởi dựng vào thời Lý. Kiến trúc được tu bổ, sửa chữa nhiều lần, định hình vào thời Nguyễn. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Tương truyền vào thời Tuỳ Khai Hoàng (617) sau khi tu luyện đắc đạo tại núi Vũ Đương, Huyền Thiên Thượng Đế thường đi du ngoại khắp nơi để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Ngài rất nhiều lần xuất hiện ở trần gian để tiễu trừ yêu ma cứu giúp dân lành. Ngài đến hồ Linh Động bên sông Nhĩ, hương Long Đỗ để diệt trừ yêu quái. Sau đó thần tiếp tục ngồi trên gò Kim Qui. Về sau nhân dân vùng này tưởng nhớ công ơn của Thần nên xây dựng Quán để phụng thờ…”
Cũng theo sử sách đã ghi thì tục thờ Huyền Thiên Trấn Vũ đã xuất hiện ở nước ta từ rất sớm. Thần vốn là Thánh của Đạo giáo, lại là thần của người Việt nên nơi thờ đúng là Huyền Thiên quan. Sau này khi đạo Phật được mở rộng, dân trong thôn đưa Phật vào thờ chung trong quán, cũng quen gọi là chùa Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên từ đấy.
Huyền Thiên cổ quán có bố cục kiểu “Nội công ngoại quốc”, các dấu tích kiến trúc, mỹ thuật hiện còn, đều mang dấu ấn của những lần tu sửa năm 1930, 1948. Mặt trước quán trông ra phố Hàng Khoai, tường sau áp sát phố Gầm Cầu, hai hồi quán là hai ngõ nhỏ. Nghi môn – gác chuông 2 tầng là một kiến trúc gạch nổi bật nhất trong toàn bộ các công trình của quán, mang dấu ấn đậm nết của lối kết cấu cổ truyền. Tiếp theo là phần nội công vãn còn nguyên vẹn với nhà bái đường 7 gian, có kiến trúc theo kiểu vọng lâu hai tầng, tám mái, đây cũng là nơi đặt pho tượng Thần Huyền Thiên.
Bên cạnh ý nghĩa của một di sản kiến trúc tôn giáo, giá trị tiềm ẩn trong quán Huyền Thiên còn là các văn bia cổ, hàng loạt các pho tượng Phật, tượng Thánh, tượng mẫu và các pho tượng Lão giáo, cùng nhiều hiện vật phong phú khác.
Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa có nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật, như tượng các vị Bồ-tát Quan Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, tượng hai vị Hộ Pháp (mỗi tượng cao 3m) v.v… Chùa có điện thờ tượng đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Chùa có tấm bia đá dựng vào năm 1668.
Ngoài ra hàng năm, tại quán Huyền Thiên có hai ngày lễ lớn 3/3 và 9/9 âm lịch. Lễ rước tiến hành trong ba ngày kết hợp với nhiều sinh hoạt văn hóa đặc sắc. Tuy lễ hội mở định kỳ 5 năm một lần, nhưng qua hội lễ đã toát lên những nét đẹp truyền thống, qua đó những người dân ngày một thắt chặt thêm mối quan hệ xóm làng thân thuộc.
Với tính chất của một ngôi quán thờ Thánh (theo quan niệm Lão giáo) lại vừa là một ngôi chùa thờ Phật, ngôi đền thờ Mẫu (theo tín ngưỡng dân gian), sự kết hợp hài hòa trong kiến trúc và tôn giáo đã làm Huyền Thiên cổ quán trở thành môt điểm văn hóa cảnh quan độc đáo trong quần thể các di tích nổi tiếng của khu phố cổ và thủ đô Hà Nội.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Người tuổi Tý và tuổi Sửu hợp tác bình thường. Mặc dù người tuổi Sửu không có đầu óc kinh doanh nhưng họ có ưu điểm là cần cù, chịu khó nên vẫn có thể hợp tác với người tuổi Tý. Tuy nhiên, người tuổi Tý nên nhạy bén hơn nữa trong kinh doanh.
Người tuổi Tý và tuổi Dần có thể hợp tác ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, người tuổi Tý phải thành thực bởi chuột thường có tính "khôn lỏi", hổ không hiểu rõ sẽ nảy sinh mẫu thuẫn.
Người tuổi Tý với tuổi Mão xung khắc với nhau nên không thể hợp tác lâu dài được.
Người tuổi Tý và tuổi Thìn có thể hợp tác cùng phát triển. Tuy nhiên, người tuổi Thìn nên là người đưa ra quyết định chính thì việc hợp tác kinh doanh mới phát triển thuận lợi.
Người tuổi Tý và tuổi Tỵ không nên hợp tác kinh doanh. Theo cách nhìn khách quan, mối quan hệ này vốn không thể thực hiện được, việc kinh doanh của họ sẽ không đạt nhiều thành công như mong đợi.
![]() |
Người tuổi Tý và người tuổi Ngọ cũng không nên hợp tác với nhau. Hai tuổi này thường ghét bỏ nhau, luôn tìm cách chèn ép lẫn nhau.
Người tuổi Tý và người tuổi Mùi hợp tác kinh doanh tương đối "hài hước". Người tuổi Mùi thường nhìn tuổi Tý bằng ánh mắt của nhà nghệ thuật, nhìn nhận giới kinh doanh với cách thức khác thường. Kết quả là chẳng ai hiểu vấn đề hợp tác của đôi bên như thế nào.
Người tuổi Tý và tuổi Thân có thể hợp tác. Tuy nhiên, người tuổi Tý phải giữ vừng lập trường của mình bởi họ thường sùng bái tuổi Thân mà không chút đắn đo suy nghĩ khi hợp tác.
Người tuổi Tý và tuổi Dậu hợp tác kinh doanh sẽ tạo nên một chút mạo hiểm. Họ không hiểu kinh doanh như thế nào nên mối quan hệ hợp tác chẳng khác nào ván bạc.
Người tuổi Tý và tuổi Tuất không nên hợp tác làm ăn. Người tuổi Tuất thiên về thực tế, trong khi người tuổi Tý lại có trí tưởng tượng phong phú trong kinh doanh. Họ sẽ không có tiếng nói chung, việc làm ăn không đạt hiệu quả.
Người tuổi Tý với tuổi Hợi có thể hợp tác. Người tuổi Hợi thường gặp nhiều may mắn hơn trong vấn đề tiền bạc. Nhân cơ hội đó, người tuổi Tý có thể kiếm lời mà không gặp tổn thất nào lớn.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Bài viết của tác giả Ân Quang
Cung Quan có Đào Hồng tại Tý
Tuổi Tý, Dậu làn nên sớm nhưng yểu.
Câu này ở trang 66, trong cuốc Tự Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản năm 1952 tại Hà Nội.
Và cũng lại có một câu tương tự, ở trang 223, sách Tử Vi Đẩu Số của Vân Đằng Thái Tứ Lang, xuất bản năm 1957. Câu ấy như sau:
“Đào Hồng toạ thủ tại Tý” tuổi Tý Dậu hiển đạt nhưng chết non.
Theo phương pháp an sao, lập thành lá số, mà các tác giả ấy hướng dẫn nơi phần đầu cuốn sách thì:
Tuổi Tý, Hồng Loan tại Mão, Đào Hoa tại Dậu
Tuổi Dậu, Hồng Loan và Đào Hoa đồng cung tại Ngọ.
Chỉ có tuổi Mão mới có Đào Hồng cũng ở Tại cung Tý mà thôi! Không thê nào tuổi Tý Dậu (hoặc Tỵ, Dậu) mà lại có Đào Hồng toạ thủ tại Tý được!
Người sinh lục Giáp, Lục Mậu, Mệnh cư Dần Thân có Kình Dương toạ thủ là cô đơn, không giữ được tổ nghiệp, mang hai họ thì sống lâu, làm nghề khéo léo.
Ở trang 172, Tử Vi Đẩu Số, quyền Thượng, tác giả Nguyễn mạnh Bảo đã luận như thế, và qua trang 173 thì lại nói Kình Dương “ở cung Dần là đắc địa”.
Cuốn Tử Vi Đẩu số của tác giả Nguyễn Mạnh Bảo xuất bản năm 1951, đến năm 1957, lại thấy một câu tương tự trong cuốn Tử Vi Đẩu Số của tác giả vân Đằng Thái Thứ Lang, trang 155 nói về sao Kình Dương:
“Kình toạ thủ tại Dần, Thân, tai hại nhất đối với tuổi Giáp, Mậu v.v..
Tuổi Giáp, tuổi Mậu tính làm sao cho có được sao Kình Dương ở Dần, Thân. “Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương”
Trước Lộc Tồn một cung là sao Kình Dương.
Giáp Dần, Ất Mão lộc chỉ khoa
Canh Thân, Tân Dậu lộc diệu đa
Nhâm trư, Quý thử tòng trung lại
Đinh Kỷ Ngọ trang, Bính Mậu xà.
Đó là một trong nhiều bài phú tương tự nói về cách an sao Lộc Tồn. Khi đã có sao Lộc Tồn thì “tiền Kình, hậu Đà”, cung trước Lộc Tồn là Kình Dương, cung sau Lộc Tồn là Đà La.
Lại còn có biết bao nhiêu đồ biểu chỉ vẽ cách an sao Lộc Tồn, Kình Dương, Đà La. Đồ biểu trình bày có vẻ rất khoa học. Áp dụng các đồ biểu ấy cũng chẳng thấy tuổi nào có Kình Dương ở Dần, Thân.
Đến đây buộc lòng chúng ta phải hoài nghi khả năng bấm Tử Vi thuộc lòng của các tác giả ấy. Nếu đã thuộc lòng bản cửu chương, chín lần chín là tám mươi mốt, khi nghe ai nói chín lần chín là tám mươi, thì chúng ta sẽ thấy ngay là người ấy có nhầm lẫn. Nếu đã thuộc lòng tuổi Giáp có Lộc Tồn ở Dần, thì chẳng thể nào viết sách, rằng tuổi Giáp có Kình Dương ở Dần được.
Tiếc thay, trong một cuốn sách Tử Vi xuất bản gần đây, có những bài phú chỉ dẫn cách an sao thuộc lòng, lại cũng chẳng thấy có đoạn tương tự!
“Người tuổi Giáp, tuổi Mậu mà Mệnh đóng tại Giần Thân lại gặp Kình Dương thì phá tán tổ nghiệp”.
Nêu lên những sai lầm kể trên, chúng tôi không có ý khen chê một tác giả nào. Chúng tôi chỉ muốn đưa ra một nhận xét rằng khoa Tử Vi đã bị thất truyền, lại còn bị làm rối loạn thêm bởi những “công thức các bộ sao chỉ có thể có trong trí tưởng tưởng, chứ không thể xảy ra khi an sao, lập thành lá số.
Thí dụ như cách “Tả Hữu giáp Thân, Mệnh an tại Dần, Tuất” là phú quý, đàn bà giàu có, kẻ vì người mong và cũng là cách không thể nào xảy ra khi an sao, lập thành lá số (trang 117 - Tự điển Tử Vi – Tác giả Đắc Lộc).
Nếu ở trang 179, cũng sách ấy tác giả nói đến cách:
“Vũ, Liêm đồng cung bần cùng” thì tác giả Nguyễn Mạnh Bảo cũng luận về sự Sinh Khắc Chế Hoa của các sao như sau:
Ví dụ như Vũ Khúc là Kim tinh với Liêm Trinh là Hoả tinh, cùng ở với nhau tuy Vũ Khoá là tài tinh, có kiếm được đi chăng nữa thì cũng phải hết vì Liêm Hoả khắc Vũ Kim.
Thật ra không thể nào tính được sao Vũ Khúc và Liêm Trinh đồng cung. Hai sao này luôn luôn ở vào phương vị hạp chiếu nhau, vì cùng nằm trong thứ tự của vòng sao Tử Vi.
Những sự sai lầm ấy, không có gì hại nhiều. Chỉ làm cho học giả Tử Vi mất thêm chút thời gian đọc sách bận rộn trí óc thêm một chút. Chỉ mất thì giờ chứ không có hại, vì khi áp dụng vào luận đoán, nhìn vào lá số, không gặp những cách kể trên thì thôi, không ai thắc mắc làm gì.
Những cách ấy, trường hợp ấy chẳng bao giờ xảy ra. Người nghiên cứu Tử Vi chẳng bao giờ gặp cách ấy trong lá số, để luận đoán, vì vậy cũng chẳng ai đặt thành vấn đề phân tách hoặc rút kinh nghiệm. Những cách ấy có thực đâu mà rút kinh nghiệm.
Chẳng hạn, cứ viết là:
“Thất Sát đồng cung với Thiên Cơ thì thiện được bà phần”.
Người viết cứ việc viết, người đọc cứ việc bỏ thì giờ ra mà đọc. Người mới học Tử Vi, làm sao biết được rằng Thất Sát chẳng bao giờ đồng cung với Thiên Cơ.
Những điều kể trên cũng chỉ làm mất thì giờ, bận rộn trí óc người đọc sách chứ không có hại lắm, vì quý bạn nghiên cứu Tử Vi có bao giờ gặp được những cách ấy trong lá số nào đâu.
Còn nhiều cách lẩm cẩm tương tự. Nhưng chúng tôi không làm công việc điểm sách Tử vi vì e rằng có những sự hiểu lầm. Thực lòng, chúng tôi chỉ mong góp một phần nhỏ trong việc bảo tồn và làm sáng tỏ chân lý Tử Vi mà thôi. Chúng tôi xin đề nghị với quý bạn mới nghiên cứu Tử Vi nên chịu tốn công một chút, học cách an sao thuộc lòng, cũng như người làm tóan thì cần thuộc lòng bản cửu chương. Chừng ấy quý bạn có thể tự mình nhận xét, tìm thất những cách không hề xảy ra khi an sao, lập thành lá số. Thí dụ như khi đã quen với cách tính thuộc lòng, lại thất sách viết: “Tử Vi có Thái Âm, Thái Dương hợp chiếu” lúc ấy quý bạn có thể nhận ra rằng đó là một quái thai Tử Vi vậy.
Nếu theo cách an sao trong các sách Tử Vi hiện nay, thì không một tuổi nào có Kình Dương ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, quý bạn cứ xem lại các sách Tử Vi thì sẽ rõ.
Tuổi Giáp, tuổi Mậu thì tuyệt đối không khi nào có Kình Dương ở Dần, Thân.
Còn đối với các tuổi khác thì có thể, theo một cách tính Tử Vi xưa, có Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi không phải ngẫu nhiên mà có chuyện Kình Dương đắc đại ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Trong một số đáng kế những lá số Tử Vi viết và luận sắc sảo bằng chữ Hán mà chúng tôi sưu tầm được, thì thấy có tính đến Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Ngoại trừ hai tuổi Giáp và Mậu.
Riêng trong cuốn Tự Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản năm 1952, có nói vắn tắt là Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Nhưng trong phần an sao thì cũng không trình bày cách tính thế nào mà được Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Tị, Hợi.
Sách Tử Vi Chỉ Nan của tác giả Song An Đỗ vẫn lưu xuất bản năm 1957, cũng có nói đến Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Hợi hãm ở Tị. Thế mà trong phần an sao, cũng không chỉ dẫn tính cách nào cho có được Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi.
Chẳng lẽ đã viết sách lại còn giấu nghề, nhất là đã có công sưu tầm sách chữ Hán để dịch ra chữ Việt. Có lẽ quý vị ấy cũng chưa khám phá hết cái sai lầm có dụng ý của người xưa.
Ông Cao Trung đã có lần nói đến những cái “ sai lầm có dụng ý” của người xưa, trong lá thư Toà soạn kỳ bào số 20.
Chúng tôi được biết số, hiện nay có một thầy Tử vi uyên thâm tại Sài Gòn, khi bấm số Tử vi vẫn tính có trường hợp Kình Dương đóng ở Dần Thân, Tị, Hợi. Nhưng cũng chẳng nói với ai. Không hẳn là vị Thầy ấy giấu nghề. Đứng vào tư thế của một người hành nghề, lại đưa ra một kinh nghiệm, hoặc một quan niệm có vẻ đi ngược lại trào lưu (dù là trào lưu sai lầm) thì dễ gặp những sự chống đối, chất vấn, có khi đi đến chỗ đánh đố vặt, chẳng lợi lộc gì, chi bằng cứ giữ im lắn, chẳng thiệt thòi, lại đỡ va chạm, thêm ồn ào.
Trong một bài khác chúng tôi sẽ trình bày trường hợp Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi và cũng trình bày một vài quan niệm về các trục Tý - Ngọ, Mão - Dậu, Dần – Thân, Tị - Hơị, Thìn - Tuất, Sửu – Mùi.
Bây giờ xin trở lại với điểm chính của bài này.
Nếu những công thức tưởng tượng như đã kể trên không làm hại cho việc luận đoán một lá số ( vì làm gì có những công thức ấy khi an Sao) thiì những câu phú chữ hán được dịch một cách ngớ ngẩn đã làm cho người nghiên cưú Tử Vi rơi vào một “ Mê hồn trận”. Thí dụ như một số câu phú sau đây:
“ Mộc Dục độc thủ, chỉ hảo dã dong”
Được dịch:
“Thân, Mệnh có một sao Mộc Dục toạ thủ thì chỉ làm thợ bạc hay thợ rèn” (trang 47, Tử Vi Đẩu Số, quyển Hạ tác giả Nguyễn Mạnh Bảo).
Cùng viết một các chữ “Dã” có hai nghĩa: một nghĩa là nấu đúng đổ kim khí, nghĩa thứ 2 là trau dồi vẻ đẹp.
Và Dã Dong, hay là Dã Dung là một chữ kép có nghĩa là trau dồi, làm dáng, trau dồi dung mạo.
Lại như câu:
Thái Tuế phùng Thất Sát
Mệnh viên, hung trung gia diệu toán
Được dịch là:
Mệnh có Thái Tuế gặp Thất Sát tuy trọng hung nhưng phải xem các thủ chiếu rồi mới đoán (trang 90, Tử Vi Bổ Túc N, M.
Hung là lồng ngực, cái ngực của thân mình.
Hung trung là trong lòng.
Gia Diệu Toán là thên tính toán giỏi.
Câu ấy chỉ có nghĩa là Thấy Sát và Thái tuế ở Mệnh thì trong lòng thêm cơ mưu, tính toán giỏi.
Câu này tương tự như câu “Thái Tuế phùng Thất Sát, trí dùng hữu dư” vậy.
Chữ “Hung trung” là để đối lại với chứ “Thân thượng” trong câu”:
“Trường Sinh hội Thiên Lương, ư Phúc địa thân thượng hữu kỳ tài”.
Có lắm trường hợp, câu chữ Hán được in vào sách, gần như chỉ để trang trí cho cuốn sách Tử Vi đó mà thôi.
Thí dụ như câu:
Tinh lâm miếu vượng địa, tái quan sinh khắc chi ư”
“Mệnh sinh cường cung, tế sách chế hoá chi lý
(Tử vi Đẩu Số - Nguyễn Mạnh Bảo – trang 2 - quyển Hạ)
Câu chữ hán đã in sai, còn lời giải thích thì mông lung, gần như không có liên hệ đến câu chữ hán.
Chúng tôi xin miễn nói lại ý nghĩa hai câu này, vị cụ Quản văn Chính đã giải thích rõ trong đặc san này, số 7 và số 9.
Gặp những chữ hán, tương tự như vài chữ Việt, mà vội vã thông qua, vội dịch theo cái cảm quan của riêng mình, thì cũng dễ tạo thành chuyện khôi hài.
Thí dụ như câu:
“Phá toạ ly, ngôn ngữ thô bạo, phùng Lộc, Dương, năng giải xướng cuồng’.
(Tử Vi Đẩu Số tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang – trang 143).
Dịch là:
“Cung Mệnh an tại Ngọ có Phá toạ thủ, nên hay gắt gỏng thô lỗ. Đây, nếu Phá, hoặc gặp lộc đồng cung hoặc gặp Thiếu Dương hội hợp lại vui tính, hay đùa bỡn”.
Chữ “Xướng cuồng” đây nghĩa là làm càn, làm xằng bậy, chứ nào có nghĩa vui sướng, hát xướng, cuồng loạn, rửng mỡ!
Chữ “ Năng giải xướng cuồng” có nghĩa là có thể giả được sự làm càn, làm xằng bậy, đối lại với mấy chữ “ Ngôn ngữ thô bạo” ở trước.
Lại có trường hợp, một câu chữ Hán bị sửa sai lệnh hẳn đi chỉ vì người luận đoán không khiểu nghĩa câu chính.
Thí dụ như câu: “Tử Vi tu cần Tam Hoá, nhược phùng Tứ Sát, phong bãi hà hoa”.
Chữ “Bãi” nghĩa là đưa qua đưa lại.
“Phong bãi hà hoa” là gió thổi cành hoa sen đưa qua, đưa lại, là canh hoá vị gió vùi dập.
Ấy vậy mà chúng tôi đã gặp câu này, trong một vài trường hợp khác lại được sửa là “ Phong Bão hà hoa”.
Thật là một sự phối hợp kỳ diệu chữ Bão (chữ Việt thuần tuý) và chữ Phong ( Chữ Hán Việt) - Chữ Hán làm gì có chữ Phong Bão là gió bão.
Như đã trình bay ở trên, chúng tôi không làm công việc điểm sách Tử Vi, e rằng có sự hiểu lầm.
Trong những sách Tử Vi kể trên cũng như trong một số sách Tử Vi khác, còn nhiều công thức các bộ sao tưởng tượng, mà dường như sách sau chép lại của sách trước, và cũng còn nhyiều câu chữ Hán dịch quá cẩu thả.
Chúng tôi chỉ nên lên một vài trường hợp đặc trưng. Mong rằng quý soạn tác giả khi xuất bản hoặc tái bản sách Tử Vi nên lưu ý thận trọng hơn.
Chúng tôi xin thành thật khâm phụ hầu hết quý vị soạn giả sách Tử Vi., vì đã có công rất lớn trong việc mở đường cho phong trào nghiên cứu Tử Vi được sâu rộng như ngày nay. Tiếc rằng mới đây trên thị trường, đã có cuốn sách Tử Vi, đầy rẫy những lỗi lầm tử phần ấn loát đến phần dịch thuật, mà có lẽ không nói đến tên cuốn sách ấy, quý vị trong giới Tử Vi đều có thể nhận biết dễ dàng. Đó thật là Tử Vi gặp Tứ Sát vậy.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Xét về nghĩa, phóng sinh chính là "giải phóng sinh mệnh về với tự nhiên", trong đó con người là chủ thể của tự nhiên, có thể sát sinh, nên cũng có thể phóng sinh. Nhưng phóng sinh phải có những cách làm tích cực, để cứu tính mệnh của những sinh vật đang bị bắt, đợi giết... Vậy thực tế cần làm gì?
![]() |
| Trong những ngày lễ Tết, người Việt thường có phong tục phóng sinh. Ảnh: Anh Tuấn. |
Thứ nhất, về động cơ, phóng sinh thường có tâm nguyện cầu mong những điều tốt đẹp. Theo quan điểm biện chứng âm dương có được có mất, nhưng không nên kỳ vọng bỏ ra bao nhiêu sẽ được báo đáp bấy nhiêu, càng không nên kỳ vọng bỏ ra cái gì để được báo đáp cái ấy. Phóng sinh mà có tâm lý muốn được báo đáp, khi nguyện vọng của mình không được thỏa mãn, tư tưởng và hành vi của mình sẽ mất tính tích cực, mất ý nghĩa ban đầu của phóng sinh.
Thứ hai, cần cố gắng đưa sinh vật về môi trường sinh tồn được. Trong đó cần để ý đến các vấn đề sau:
- Tìm hiểu môi trường sinh tồn của sinh vật. Ví dụ không thả cá nước mặn (biển) xuống môi trường nước ngọt (ao hồ).
- Không phóng sinh vào môi trường lắm động vật ăn thịt, khó sinh tồn, hay môi trường sát hại động vật khác. Ví như không thả rùa chuyên ăn cá vào ao cá, cũng như không thả cá vào ao hồ toàn rùa ăn cá. Hoặc không phóng sinh rùa tai đỏ, ốc bươu vàng.
- Cố gắng phóng sinh vào môi trường khó bị bắt lại, như không phóng sinh cá vào ao nuôi...
- Cố gắng phóng sinh vào môi trường không có hại cho con người hay xã hội, ví như không phóng sinh bọ cạp, rắn rết ra đường phố...
Thứ ba, nếu phát hiện sinh vật phóng sinh có bệnh, cần cho khám chữa, khỏi rồi mới thả.
Thứ tư, đảm bảo sinh vật phóng sinh sống được, có ý nghĩa lâu dài. Mua vài trăm con cá đựng chật chội trong một chiếc xô, đảm bảo sẽ chết đến phân nửa. Do đó không được tham về số lượng. Có thể chỉ cần phóng sinh một con cá, quan trọng là đảm bảo nó vẫn mạnh khỏe khi thả.
Ưu tiên phóng sinh rùa (tránh rùa tai đỏ), ba ba, vì (1) sức sống tốt; (2) tuổi thọ lâu dài; (3) có tính tâm linh (còn được gọi là linh quy); (4) khắc được chữ "phóng sinh" lên mai, nhắc nhỏ người bắt được tiếp tục phóng sinh. Như vậy việc thả chúng về môi trường tự nhiên sẽ hiệu quả, có ý nghĩa.
Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng Phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị - ĐHXD
Máy giặt hiện đang là một trong những đồ gia dụng cần thiết và không thể thiếu trong các gia đình. Nó giải phóng phụ nữ khỏi những thau đồ khổng lồ, cho họ thêm thời gian để lo việc cá nhân. Trong thời hiện đại, cuộc sống của hầu hết mọi người đều không thể thiếu vắng máy giặt.
Dù là vật dụng hiện đại nhưng máy giặt cũng có vai trò rất quan trọng trong phong thủy. Vì vậy mọi người không nên coi thường những chiếc máy giặt tưởng như vô tri vô giác này.
Không nên đặt máy giặt trong phòng bếp![]()
Không nên đặt máy giặt trong bếp (Ảnh: Internet)
Thông thường nếu nhà quá chật người ta sẽ đặt máy giặt trong phòng bếp để tận dụng không gian. Đây không phải là vị trí tốt vì theo phong thủy, đặt máy giặt trong phòng bếp sẽ khiến gia đình thường nảy sinh bất hòa, tranh chấp. Bình thường các chuyên gia phong thủy sẽ khuyên mọi người không nên đặt máy giặt trong phòng bếp. Ngoài ra máy giặt cũng ứng với dạ dày, nhà bếp là lửa, đặt máy giặt trong bếp sẽ gây bất lợi đến cơ thể chủ nhà, lâu dài sẽ phát sinh các bệnh liên quan đến bao tử.
Không nên để máy giặt ở ban công![]()
Ban công cũng là nơi cấm kị để máy giặt (Ảnh: Internet)
Trong phong thủy, máy giặt đặt ở ban công là điều cấm kỵ. Theo chuyên gia, ban công không nên để đồ lặt vặt, trồng các loại dây leo hay đồ gia dụng. Đặt máy giặt ở ban công không chỉ che ánh sáng vào nhà mà còn giảm khí lưu thông, gây tắc đọng khí xấu ảnh hưởng đến sức khỏe gia chủ. Nếu như bắt buộc phải đặt máy giặt ở ngoài ban công thì nên đặt theo hướng đông hoặc hướng đông nam để giảm bớt tác động xấu.
Không nên đặt máy giặt ở tường bên phải
4 phương của gia đình là Thanh Long, Chu Tước, Bạch Hổ và Huyền Vũ. Một gia đình bình an, hạnh phúc nghĩa là 4 phương cân bằng và khắc chế lẫn nhau. Tường phải của gia đình là phương Bạch Hổ chủ về sự hung hại, tường trái của căn nhà là Thanh Long chủ về sự cát lợi. Đặt máy giặt sát tường phải đồng nghĩa với việc Bạch Hổ được hỗ trợ để mạnh hơn. Bạch Hổ mạnh, Thanh Long yếu sẽ tạo thành thế "Bạch Hổ chèn ép Thanh Long", ảnh hưởng xấu đến cả gia đình.
Tốt nhất nên đặt máy giặt trong nhà vệ sinh, vừa thuận tiện cho việc giặt đồ vừa hợp phong thủy. ![]()
Tốt nhất nên đặt máy giặt trong nhà vệ sinh, vừa thuận tiện cho việc giặt đồ vừa hợp phong thủy. (Ảnh: Internet)
Nhà vệ sinh là nơi nhiều nước, máy giặt lại thuộc tính nước nên cả hai bên đều không ảnh hưởng xấu đến nhau.
Các hướng đặt máy giặt tốt:
Hướng Đông hoặc Đông Nam: Nếu hai vợ chồng thuộc mạng Mộc thì nên đặt máy giặt ở hướng này là tốt nhất. Nhà vệ sinh thuộc Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa giúp gia đình ấm áp hạnh phúc.
Đặt ở hướng Nam: Hướng Nam thuộc hỏa, nhà vệ sinh là âm hỏa, có tác dụng tương sinh giúp gia đình hòa thuận.
Tuyệt đối không nên đặt máy giặt ở các hướng:Hướng Đông Bắc, Tây Nam: Nếu hai vợ chồng mệnh Thổ, mà đặt máy giặt ở hướng này trong phong thủy gọi đây là vị trí "quỷ môn" khiến gia đình bất hòa, hay lo lắng.
Hướng Tây, Tây Bắc: Nếu hai vợ chồng mệnh Kim sẽ thường cãi nhau.
Hướng Bắc: Hướng Bắc cực xấu, chịu ảnh hưởng nhiều nhất là người lớn tuổi trong nhà.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 78 được xây dựng trên điển cố: Lâm Đồng cứu giá hay cứu giá ở Lâm Đồng.
Quẻ thượng cát thuộc cung Ngọ. Mọi việc đang gặp khó khăn ắt tìm được hướng giải quyết. Muốn có tiền bạc hay cơ đồ thì cần có sự chỉ dẫn của quý nhân.
Thử quái binh thiện dụng sự chi tượng. Phàm sự binh ổn đại cát dã.
Đời vua Tùy Văn Đế, Đường Vương là Lý Uyên vào triều yết kiến. Thái tử lúc này là Dương Quảng, nhìn thấy vợ của Lý Uyên là Đậu Thái Chân rất xinh đẹp, liền giở trò trêu ghẹo. Lý Uyên biết được, tức giận nhưng không dám nói, lại sợ Dương Quảng sẽ mưu hại mình, bèn mượn cớ từ quan, chuẩn bị trở về quê hương ở Thái Nguyên. Dương Quảng không cam lòng, sai quân lính đi truy sát, mấy lần đều không ra tay được, vì thế Dương Quảng đích thân dẫn quân sĩ, lấy than bôi lên mặt, cải trang thành bọn cướp đường, định giết Lý Uyên ở Lâm Đồng.
Hôm đó, Lý Uyên cùng gia quyến đến sườn Thực Thụ trên núi Lâm Đồng, thì vừa giữa trưa. Hai người con trai của Lý Uyên là Lý Đạo Tông và Lý Kiến Thành đi vào trong rừng, bỗng thấy trong rừng có tiếng hô lớn, chỉ thấy vô số tên cướp mặt mũi đen nhẻm, tay cầm thương cầm búa chặn đường, quát lớn: “Con đường này là do ta mở, cây cối này là do ta chặt, muốn đi qua đường này phải trả tiền mãi lộ!” Lý Kiến Thành kinh hãi, quay ngựa chạy về. Còn Lý Đạo Tông quát rằng: “Bọn chó đáng chết, nhà ta là Lý phủ ở Lũng Tây, dám đến cản đường sao!” Nói rồi rút đao ra chém liền. Lý Kiến Thành chạy về nói với cha là Lý Uyên rằng: “Cha, không xong rồi! Phía trước có bọn cướp rất mạnh.” Lý Uyên gọi gia tướng lấy cây Phương thiên họa kích, lại lệnh cho Lý Kiến Thành bảo vệ gia quyến, định đi lên phía trước xem xét. Nào ngờ phía sau cũng có bọn cướp tiến đến.
Thực do ý trời, lúc đó Tần Quỳnh (? – 638) cũng vừa đi tới, do đi đường mệt mỏi, định đến nghỉ chân trong miếu Ngũ Viên. Bỗng nghe tiếng sát khí vang trời, lấy làm lạ, bèn thúc ngựa chạy đến giữa núi, thì thấy dưới chân núi khói bụi mù mịt, tiếng hô giết vang dậy. Tần Quỳnh ghìm ngựa quan sát kỹ, thì thấy vô số kẻ cướp đang vây một tốp quan binh, đang đánh nhau chí mạng. Tần Quỳnh vội thúc ngựa lao theo thế núi phi xuống, quát lớn: “Bọn giặc chó chớ cậy sức mạnh, hãy xem cái giản của ta đây!” Nghe tiếng quát sấm sét, bọn cướp hết sức kinh hãi, nhưng nhìn lại thấy chỉ có một người, thì không thèm để tâm, dăm ba tên cướp chạy đến đối địch với Tần Quỳnh. Tần Quỳnh vung cây giản lên, mấy tên cướp chết ngay lập tức.
Bọn cướp thấy vậy toan bỏ chạy, Tần Quỳnh thấy tên cướp che mặt bằng tấm lụa xanh có vẻ như tên cầm đầu, liền nhằm vào mặt đâm một nhát. May là Dương Quảng nhanh tay nhanh mắt né được, cây giản chỉ đâm trúng vai. Dương Quảng đau quá thét lên một tiếng lớn, thúc ngựa bỏ chạy.
Tần Quỳnh bắt được một tên tra hỏi: “Các ngươi là giặc cướp phương nào, sao dám cướp người nhà quan?” Người đó biết Tần Quỳnh uy mãnh, vội nói: “Xin ông tha mạng! Chỉ vì thái tử Lý Quảng và Đường Công Lý Uyên bất hòa, muốn sát hại ông ấy. Người mà ông vừa làm bị thương, chính là Đông cung thái tử. Xin ông tha mạng!” Tần Thúc Bảo kinh hãi toát mồ hôi, liền nghĩ: Đây là chỗ thị phi, lúc này mà không đi, thì còn đợi lúc nào. Bèn nhảy lên ngựa, chạy về phía trước.
Lý Uyên thấy vị hảo hán ra tay giúp đỡ, giúp người nhà mình thoát khỏi miệng hùm, liền thúc ngựa chạy lên để tạ ơn, không dè người này lại thúc ngựa chạy mất. Chạy được hơn mười dặm, Tần Quỳnh thấy Lý Uyên cứ đuổi theo không chịu dừng, chỉ có cách quay đầu lại nói: “Đường Công đừng đuối nữa, tiểu nhân họ Tần tên Lượng!” Rồi thúc ngựa chạy như bay.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Tên là mệnh, là vận mệnh của mỗi con người, tên gọi luôn gắn liền với mỗi người trong suốt cuộc đời. Việc đặt tên cho con thực sự rất quan trọng để Con có được thời vận tốt. Trong thời đại công nghệ thông tin, Bạn có thể dễ dàng chọn cho con yêu một cái tên đẹp, hay và ý nghĩa.
Nhưng quan trọng, hãy xem tên có phù hợp với con bạn không nhé. Khoa học cổ dịch đã cho thấy, nếu tên gọi đúng ngũ hành mệnh, hợp với giờ sinh của bé, sẽ mang lại cho bé nhiều may mắn, sức khỏe, thuận lợi trong cuộc sống sau này.
Nếu sinh con Trai, Bạn có thể tham khảo một số tên hay và ý nghĩa:
Tên "Kiên" có ý nghĩa kiên cường, mạnh mẽ: Quốc Kiên, Bảo Kiên, Trung Kiên, Thái Kiên, Hoàng Kiên, Hùng Kiên, Vĩnh Kiên, Trọng Kiên, Đức Kiên, Chí Kiên, Mạnh Kiên, Huy Kiên, Chí Kiên, Anh Kiên.
Tên "Lâm" chỉ cây rừng vững chãi: Việt Lâm, Tùng Lâm, Ngọc Lâm, Mạnh Lâm, Hoàng Lâm, Trọng Lâm, Quốc Lâm.
Tên "Long" mang ý nghĩa loài rồng linh thiêng, mạnh mẽ: Bảo Long, Đức Long, Hoàng Long, Mạnh Long, Tuấn Long, Vĩnh Long, Phúc Long.
Tên "Minh" mang ý nghĩa sáng láng, thông minh: Anh Minh, Tuấn Minh, Hoàng Minh, Phúc Minh, Khải Minh, Hiền Minh, Nghĩa Minh.
Tên "Nam" mang ý nghĩa phương nam, mạnh mẽ: Phương Nam, Bá Nam, Tuấn Nam, Quốc Nam, Hữu Nam, Hải Nam.
Tên "Nghĩa" mang ý nghĩa sống có trước sau, hướng thiện: Nhân Nghĩa, Đức Nghĩa, Trọng Nghĩa, Phú Nghĩa, Minh Nghĩa, Xuân Nghĩa, Trung Nghĩa, Tuấn Nghĩa.
Tên "Nguyên" là nguồn gốc, nơi bắt đầu hay là bình nguyên, miền đất rộng lớn: Đình Nguyên, Khôi Nguyên, Phước Nguyên, Hoàng Nguyên, Bảo Nguyên, Trung Nguyên, Thành Nguyên.
Tên "Phong" là ngọn gió khoáng đạt, mạnh mẽ: Lâm Phong, Đình Phong, Tuấn Phong, Hải Phong, Đông Phong, Việt Phong, Khải Phong, Hùng Phong.
Tên "Quân" là khí chất như quân vương: Minh Quân, Đông Quân, Hoàng Quân, Mạnh Quân, Trung Quân, Đình Quân, Đức Quân, Bảo Quân.
Tên "Quang" là sáng sủa, vẻ vang: Đăng Quang, Minh Quang, Mạnh Quang, Nhật Quang, Hồng Quang, Vinh Quang, Xuân Quang.
Tên "Quốc" có ý nghĩa là đất nước: Hữu Quốc, Anh Quốc, Bảo Quốc, Cường Quốc, Việt Quốc, Duy Quốc, Hoàng Quốc.
Tên "Thái" là mong đầy đủ , thanh nhàn: Quốc Thái, Minh Thái, Bảo Thái, Quang Thái, Hoàng Thái, Vĩnh Thái, Ngọc Thái.
Tên "Tuấn" là người tài giỏi xuất chúng, dung mạo khôi ngô: Quốc Tuấn, Thái Tuấn, Anh Tuấn, Minh Tuấn, Trung Tuấn, Quang Tuấn, Thanh Tuấn, Hữu Tuấn.
Tên "Thành" là thành đạt, thành công: Đức Thành, Duy Thành, Tân Thành, Phú Thành, Tiến Thành, Bá Thành, Hải Thành, Minh Thành.
Tên "Thiên" là khí phách xuất chúng: Quốc Thiên, Duy Thiên, Hoàng Thiên, Phúc Thiên, Đức Thiên, Khánh Thiên.
Tên "Thịnh" là sung túc, hưng thịnh: Phúc Thịnh, Quốc Thịnh, Hữu Thịnh, Bá Thịnh, Nhật Thịnh, Đức Thịnh, Vĩnh Thịnh.
Tên "Trung" là trung hậu, son sắt: Quốc Trung, Tuấn Trung, Hoàng Trung, Thành Trung, Quang Trung, Minh Trung.
Tên "Sơn" là mạnh mẽ, uy nghiêm như núi: Hải Sơn, Xuân Sơn, Trường Sơn, Vĩnh Sơn, Thanh Sơn, Quốc Sơn, Bảo Sơn.
Tên "Việt" là ưu việt, xuất chúng: Quốc Việt, Tuất Việt, Mạnh Việt, Duy Việt, Minh Việt, Trí Việt, Trọng Việt.
Tên "Vũ" có ý nghĩa là mưa, sức mạnh phi thường: Anh Vũ, Ngọc Vũ, Hạ Vũ, Tuấn Vũ, Trọng Vũ, Hoàng Vũ.
![]() |
| ► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu |
Vì một năm không thể tính số giờ lẻ dôi ra, phải lấy số chẵn là một năm 365 ngày. Mỗi năm phải dôi ra 5 giờ 48 phút 46 giây. Dồn lại 4 năm số dư đủ một ngày đêm, cho nên qua 3 năm thường phải có một năm nhuận, năm nhuận đó là 366 ngày. Nhưng số dư 4 năm mới chỉ có 23 giờ 15 phút, 4 giây. Còn hụt mất 44 phút 56 giây. Dồn 25 lần nhuận hụt khoảng 3/4 ngày cho nên tròn 100 năm phải bớt đi một lần nhuận, cho nên năm tròn trăm (có 2 số 00 ở sau) không nhuận. Cứ 400 năm bớt đi 3 lần nhuận.Tính bình quân mỗi năm có 365 ngày 5 giờ 49 phút 12 giây, thì sau 3.000 năm có sai 1 ngày. Để tiện cho việc xếp lịch, thì năm dương lịch nào mà 2 số cuối chia hết cho 4 tức là năm nhuận, riêng năm tròn thế kỷ không nhuận. Khi đếm số thế kỷ (nghĩa là 2 số trên số 00 cũng chia hết cho 4 thì năm đó cũng là năm nhuận. Thí dụ năm 1700, 1800, 1900 không nhuận đến năm 2000 có nhuận.
Cách tính âm lịch chia năm vẫn giống nhau với dương lịch, nhưng cách tính tháng có khác. Năm tháng dương lịch không liên quan đến hối, sóc, huyền, vọng, cho nên định hẳn được số ngày từng tháng (Hồi: ngày cuối tháng âm, Sóc: ngày đầu tháng tức mồng 1 âm, Vọng: ngày rằm, Huyền có Thượng Huyền và Hạ Huyền, Huyền (nghĩa là treo): Mặt trăng khuyết phía dưới gọi là Thượng Huyền, khuyết phía trên gọi là Hạ Huyền).
Tháng âm lịch phải lấy ngày nhật nguyệt hợp sóc làm đầu (tức là ngày mặt trời, mặt trăng và trái đất trên trục đường thẳng) hai lần hợp sóc cách nhau 29 ngày rưỡi, cho nên tháng âm lịch đủ là 30 ngày thiếu là 29 ngày. Vì cách tính tháng khác nhau thì tính năm sẽ khác đi. Năm âm lịch bắt đầu vào ngày Sóc kề với tiết Lập xuân. Trong 1 năm không thể tính số lẻ của tháng. Nhưng gộp 12 số lẻ chỉ được 354 ngày coi là 1 năm. Sai với số "Tuế thực" là khoảng 11 ngày, dồn 3 năm thì dôi ra 33 ngày, cho nên qua 3 năm phải nhuận 1 tháng, dồn 2 năm nữa dôi ra 25 ngày phải nhuận một tháng nữa. Tính bình quân 19 năm có 7 tháng nhuận. Trong mỗi tháng bình thường có 1 ngày tiết và 1 ngày khí. Số ngày của mỗi tiết khí bình quân là 30 ngày i 4/10 ngày = 30,4 ngày. Số ngày của tháng âm lịch có 29 ngày rưỡi, cho nên sau 2, 3 năm sẽ có 1 tháng chỉ có ngày tiết không có ngày khí, thì dùng tháng đó làm tháng nhuận.
Riêng nông lịch hay còn gọi là Hạ lịch (lịch ban ra từ thời nhà Hạ) tức là lịch tính theo 24 tiết, lại rất khớp với dưong lịch. Cứ sau tiết Đông chí 10 ngày là mồng 1/1 dương lịch, sở dĩ chênh lệch với dương lịch 1 ngày vì 24 tiết không có nhuận ngày mà dương lịch cứ 4 năm có 1 ngày nhuận.
Nguồn Internet
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
1. Người có đôi tai vừa dày, vừa hồng hào thường khỏe mạnh và sống thọ.
2. Tai lớn là người thông minh và may mắn.
3. Dái tai phẳng là người có phong cách của các nhà triết học.
4. Thềm thịt ở tai mỏng là người khiêm tốn.
5. Tai lớn là người nhiệt tình và tràn đầy năng lượng.
![]() |
6. Tai nhỏ là người nhanh nhẹn và phản ứng mau lẹ trong mọi tình huống. Tuy nhiên, khả năng chịu áp lực của họ thường không lớn.
7. Người có lông ở tai thường thích tự bảo vệ mình, ích kỷ và hay bỏ qua cảm xúc của người khác.
8. Tai lớn, dái tai chảy xệ thường là người có cuộc sống giàu sang.
9. Tai nhiều lông là biểu tượng của sự trường thọ.
10. Tai cứng và hồng hào là người rất giàu có.
11. Màu sắc của tai trắng hơn mặt là người có tướng nổi tiếng.
12. Vành tai không rõ ràng là người thiếu chân thành.
13. Người có tai đậm màu, không tươi dễ mắc bệnh về tim.
Hạnh Yunnie
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
| Xếp hàng mua đồ Tết ở bách hóa |
![]() |
| Một góc chợ hoa hàng Lược |
![]() |
| Thiếu nữ xinh tươi chọn hoa thược dược để chơi Tết |
![]() |
| Ông đồ bên mực tàu giấy đỏ |
![]() |
| Mua bán hoa đào về chưng Tết |
![]() |
| Thiếu nữ Hà thành đi chọn hoa chơi Tết |
![]() |
| Nhộn nhịp cảnh mua bán hoa đào |
![]() |
| Chuẩn bị cây nêu để dựng |
![]() |
| Chọn gà để cúng giao thừa, cúng tổ tiên ngày Tết |
![]() |
| Hoa đào là loại hoa tượng trưng của Tết miền Bắc |
![]() |
| Bánh chưng sau khi luộc phải "nén" để bánh chắc hơn |
![]() |
| Mẹ chở con gái đi chúc Tết |
![]() |
| Pháo là thứ không thể thiếu được trong những ngày Tết |
| ► Mời các bạn tra cứu Lịch 2016 theo Lịch vạn sự chuẩn xác |
Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị sẵn, nếu quá câu nệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có khi đợi đến bảy, tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản "trừ hao": "Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang". Khi đó người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục. Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà.
Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng làm đủ lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.
Trường hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao?
Người biết phép lịch và lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh buồn thảm của người khác. Gia đình có giáo dục, hiểu biết không bao giờ cho phép con cháu nô đùa ầm ỹ hoặc mở băng nhạc inh ỏi khi hàng xóm có việc buồn. Trong trường hợp trên, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt pháo, mở băng nhạc và ca hát ầm ĩ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười. Trường hợp có quốc tang cũng như vậy.
g qua việc chọn lựa vật liệu lát nền.

Để không gian bên trong nhà vệ sinh luôn thoáng đãng, khô ráo, sạch sẽ thì phần mặt tường bao và mặt trần nhà phải được bảo vệ bằng vật liệu chông ngấm nước, chông môi mọt, chông mục ruỗng và ẩm mốc. Lựa chọn các vật liệu như: tấm ốp plastic cứng, giấy dán tường plastic, gạch men sẽ đạt được hiệu quả như mong đợi.
Muôn sàn nhà có thể chống trơn, ít thấm nước, dễ cọ rửa thì nên chọn gạch đá hoa với kích cỡ lớn hoặc tấm plastic, các chất liệu này vừa bền đẹp, dễ mua lại tiện sử dụng.
Màu sắc của tường, nền sàn nhà cũng như các đồ vật trong nhà vệ sinh hài hoà với nhau cũng khiến cho bạn cảm thấy không gian của nhà vệ sinh rộng hơn. Gam màu thích hợp nhất là gam màu lạnh với các màu sắc trang nhã, mát mẻ, điểm xuyết một vài màu nóng cộng với hiệu ứng ánh sáng của ánh đèn cũng như các chất liệu pha lê, mica của cửa sổ, kính và gương để có được một không gian ưng ý nhất.
Ví dụ: Lấy màu trắng làm màu chủ đạo, bạn có thể trang trí như sau: Tường, trần nhà quét ve màu nhạt, ấm áp như màu: vàng nhạt, vàng ngà, phớt hồng, màu sữa, lát gạch men màu đỏ nhạt, bồn tắm màu trắng ngà, bồn rửa mặt màu trắng sữa. Ngoài ra, với hai màu đen, trắng và một chậu cây xanh, bạn cũng có thể có một nhà vệ sinh đơn giản, sạch sẽ, nhiều sinh khí.
Ánh sáng đèn ngoài việc tăng thêm vẻ đẹp cho không gian phòng còn phải có tính năng chông mờ sương, chống thấm nước, chống ẩm mốc, chống ải mục và phải dễ lau chùi. Giải pháp tốt nhất là loại đèn có chụp thủy tinh hay nhựa chống nước cho ánh sáng dịu nhẹ, bên cạnh đó lắp thêm một đèn tuýp chiếu sáng cục bộ cạnh gương trang điểm để tăng cảm giác ấm áp, thoáng đãng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Những điều kiêng kỵ sau là phổ biến nhất, được nhiều người biết đến và thực hành hiện nay.
1. Không cưới khi nhà đang có tang
Đám cưới kiêng kỵ khi nhà đang có tang
Con cái trong gia đình phải để tang cha mẹ mình ba năm, cháu để tang ông bà 1 năm. Vì vậy trong thời gian này không thể tổ chức ăn uống vui chơi linh đình, đám cưới thì càng kiêng kỵ.
Do đó mà nếu trong nhà có người trưởng thành đã đến tuổi phải lập gia đình, nếu đợi ba năm sẽ trễ muộn thì phải cưới chạy tang nếu có cha mẹ đau ốm nặng.
Lúc này lễ cưới cũng làm đơn giản, đủ các nghi thức cần thiết dưới sự chứng kiến của những người thân thiết mà thôi.
2. Không mời cưới khi chưa tổ chức lễ ăn hỏi
Dạm hỏi rồi mới cưới xin là những thủ tục bắt buộc. Theo đó, phải sau lễ dạm hỏi thì nhà gái mới được đi mời cưới bạn bè gần xa, nếu mời trước thì bị xem như là vô duyên. Tuy nhiên, quy tắc này lại không áp dụng cho nhà trai.
Trước đây, gửi thiệp mời đám cưới trước khi tổ chức ăn hỏi bị xem là vô duyên
Nhưng hiện nay một số cặp đôi tổ chức hỏi và cưới liền nhau chỉ vài ngày nên bắt buộc gia đình gái phải mời khách trước, quan niệm trên vì vậy mà cũng không còn giữ được vị trí như xưa.
3. Không cưới vào năm Kim Lâu
Năm Kim Lâu là năm cô dâu có các số 1,3,6,8 trong tuổi (tính theo cách 9 ô). Quan niệm cho rằng kết hôn vào những năm này sẽ xui xẻo, hôn nhân không được bền vững và may mắn, con cái cũng không được phước lộc… Nhưng bên cạnh đó, một số người lại cho rằng vẫn có thể cưới chồng vào năm này được nếu đã qua ngày đông chí.
4. Cô dâu không được xuất hiện trước khi chú rể vào đón
Cô dâu và chú rể không gặp mặt nhau trước lễ cưới là truyền thống được duy trì nguyên vẹn cho đến ngày nay. Trước khi chú rể vào, tặng hoa và đón cô dâu ra buổi lễ chính thức thì cô dâu phải tránh đi để không bị mất duyên.
5. Không để mẹ đẻ đưa con gái về nhà chồng
Cô dâu về nhà chồng sẽ do bố ruột đưa đi
Một niềm tin rằng nếu mẹ đẻ đưa con về nhà chồng thì sẽ lấn át đi quyền uy của mẹ chồng. Do đó, thường thì bố cô dâu sẽ là người đưa con sang sông.
6. Không để cô dâu có bầu đi vào nhà từ cửa chính
Rất nhiều gia đình vẫn bắt con dâu đã có thai không được đi vào bằng cửa chính mà phải đi vào cửa sau hoặc bước qua một chậu bồ kết nướng với than. Lý giải điều này để nhằm tránh cho gia đình đằng trai gặp xui xẻo sau này, nhất là trong chuyện làm ăn.
7. Mẹ chồng kiêng chạm mặt con dâu khi đoàn rước dâu vừa về tới nhà
Mẹ chồng phải cầm bình vôi lánh đi khi con dâu bước vào cửa. Ngày nay thì mẹ chồng thường thay bình vôi bằng chùm chìa khóa. Điều này có nghĩa là mẹ chồng tuy đón con dâu vào nhà nhưng vẫn nắm quyền làm chủ trong nhà. Bình vôi hay chùm chìa khóa biểu tượng cho tài sản trong gia đình.
Do đó, mẹ chồng sẽ lánh đi cho đến khi hai họ đã yên vị thì mới xuất hiện để chào hỏi và làm lễ.
8. Lưu ý đem theo kim và tiền lẻ để trải dọc đường
Kim và tiền lẻ được mẹ cô dâu chuẩn bị để cô dâu rải trên đường rước dâu, khi qua ngã ba, ngã tư và cầu, để cầu bình an, hạnh phúc, giàu sang và may mắn sau này cũng như giải trừ xui xẻo.
Thường có khoảng 7 đến 9 chiếc kim được rải trên đường đi.
Một niềm tin khác cũng cho rằng việc mang theo kim còn phòng ngừa để chữa trị cho chú rể nếu bị trúng gió bằng cách đâm vào xương cụt.
9. Kiêng đổ vỡ đồ vật trong đám cưới
Ly vỡ là điềm xấu cho ngày cưới
Đổ vỡ gương, cốc hay gãy đũa là điềm xui xẻo, báo hiệu cho cuộc sống hôn nhân không êm đềm của đôi vợ chồng trẻ. Do đó đồ vật vỡ trong đám cưới là một trong những điều kiêng kỵ.
10. Đầu giường và hai bên thành giường tân hôn không được đối chiếu với gương lớn
Gương lớn đặt ở các vị trí này sẽ gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của vợ chồng.
Ngoài ra, giường cưới cũng không được kê ở mé tây của phòng và không kê giường đối diện với cửa ra vào. Vị trí này có thể gây ra lâm lý bất an, đau đầu. Hơn nữa, giường cũng không nên kê dưới xà ngang, tuy nhiên nếu có trần giả che kín thì không sao.
Yeutre.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Phàm quẻ mệnh thuộc chấn, tốn, ly, khảm, hướng tốt của nó là: Đông, Đông Nam, Nam và Bắc. Hướng xấu là hướng Tây, Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc.
Phàm quẻ mệnh thuộc càn, đoài, cấn, khôn, hướng tốt là: Tây, Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc. Hướng xấu là: Đông, Đông Nam, Nam, Bắc.

Trong 4 sao tốt, tốt nhất là sao sinh khí, thứ hai là sao thiên y, thứ ba là sao diên niên và cuối cùng là sao phục vị.
Trong 4 sao xấu, xấu nhất là sao tuyệt mệnh, thứ hai là sao ngũ quỷ, thứ ba dến sao lục sát và cuối cùng đến sao hoạ hại. Mệnh quẻ của chủ hộ khác nhau, hướng phân bố 8 sao cũng khác nhau, dưới đây là sự phân bố 8 sao của 8 loại quẻ mệnh.
(1) Quẻ chấn – sinh khí ở hướng Nam, Thiên y hướng Bắc, Diên niên hướng Đông Nam, Phục vị ở hướng Đông; sao Tuyệt mệnh ở hướng Tây, Ngũ quỷ hướng Tây Bắc, lục sát hướng Đông Bắc, hoạ hại ở hướng Tây Nam.
(2) Quẻ tốn – sinh khí ở hướng Bắc, Thiên y hướng Nam, Diên niên hướng Đông, Phục vị ở hướng Đông Nam; sao Tuyệt mệnh ở hướng Đông Bắc, Ngủ quy hướng Tây Nam, Lục sát hướng tây, hoạ hại hướng Tây Bắc.
(3) Quẻ ly – sinh khí ở hướng Đông, Thiên y hướng Đông Nam, Diên niên hướng Bắc, Phục vị ở hướng Nam; sao Tuyệt mệnh ở hướng Tây Bắc, Ngủ quỷ hướng Tây, Lục sát hưởng Tây Nam, hoạ hại ở hưởng Đông Bắc.
(4) Quẻ khảm – sinh khí ở hướng Đông Nam, Thiên y hướng Đông, Diên niên hướng Nam, Phục vị ở hướng Bắc; Tuyệt mệnh ở hướng Tây Nam, Ngủ Quý hưởng Đông Bắc, Lục sát hướng Tây Bắc, hoạ hại ở hướng Tây.
(5) Quẻ càn – sinh khí ở hướng Tây, Thiên y hướng Tây Bắc, Diên niên hướng Tây Nam, Phục vị ở hướng Tây Bắc; Tuyệt mệnh ở hướng Nam, Ngũ quý hướng Đông Bắc, Lục sát hướng Bắc, hoạ hại ở hướng Đông Nam.
(6) Quẻ khôn – sinh khí ở hướng Đông Bắc, Thiên y hướng Tâv, Diên niên hướng Tây Bắc, phục vị ở hướng Tây Nam; Tuyệt mệnh ở hướng Bắc, Ngủ quy hướng Đồng Nam, Lục sát hướng Nam, hoạ hại hướng Đông.
(7) Quẻ đoài – sinh khí hướng Tây Bắc, Thiên y hướng Tây Nam, Diên niên hướng Đông Bắc, Phục vị hướng Tây; Sao tuyệt mệnh ở hướng Đông, Ngũ quỷ hướng Nam, Lục sát hướng Đông Nam, hoạ hại hướng Bắc.
(8) Quẻ cấn – sinh khí ở hướng Tây Nam, Thiên y hướng Tây Bắc, Diên niên hướng Tây, Phục vị hướng Đông Bắc; Sao Tuyệt mệnh ở hướng Đông Nam, Ngũ quỷ hướng Bắc, Lục sát hướng Đông, họa hại ở hướng Nam.
Phong thủy học rất chú trọng đến hướng của cửa chính, bếp lò, giường ngủ, phòng tắm, biết được vị trí của 4 sao tốt và 4 sao xấu trong gia trạch sẽ dễ dàng nhận biết được xấu tốt của phong thuỷ.
Vào ngày Rằm, mùng Một, ngày Tết, cúng lễ, cúng giỗ... người Việt đều có truyền thống tâm linh là thắp hương trên bàn thờ gia tiên. Mặc dù việc này ai cũng quen nhưng không phải ai cũng biết thắp hướng đúng cách.
| ► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |