Tướng cổ như thế nào là sướng hay khổ? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trong tử vi, sao Thái Dương được lấy từ hình tượng thừa tướng Tỷ Can - là hoàng thúc của vua Trụ Vương.
Bắc Bá hầu Sùng Hầu Hổ theo mệnh Trụ Vương xây dựng Lộc Đài trong hai năm bốn tháng mới hoàn thành. Trụ Vương vô cùng hoan hỉ, bèn cùng Đát Kỷ lên xe thất hương, mệnh cho các đại thần Tỷ Can, Hoàng Phi Hổ hộ giá đến Lộc Đài dự lễ khánh thành. Tỷ Can thấy cảnh tượng Lộc Đài cực kỳ nguy nga lộng lẫy, thì trong lòng rầu lĩ, nghĩ thầm: "Thiên tử thật là ngày một u mê, cho xây dựng công trình xa hoa đến nhường này, không biết đã vắt kiệt bao nhiêu mô hôi xương máu của nhân dân, dưới chân đài không biết đã vùi chôn bao nhiêu vong hồn oan uổng!"
Sao Thái Dương - Hình tượng Tỷ Can
Trụ Vương hỏi Đát Kỷ rằng: "Lộc Đài đã xây xong, không biết đến bao giờ mới được đón thần tiên giá lâm đây?". Đạt Kỷ bèn đáp: "Vào ngày 15 tháng này, bệ hạ hãy cho bày yến tiệc, đặt bàn cửu long, chỉ cần thành tâm thành ý, thần tiên ắt sẽ giáng lâm!". Trụ Vương nghe vậy, rất hài lòng. Đát Kỷ trở về dặn dò các chị em đồng môn (tức các loài yêu tinh) đang canh giữ huyệt mộ Hiên Viên đến đêm rằm bay xuông Lộc Đài để lừa Trụ Vương là thần tiên giáng hạ.
Đến ngày 15, màn đêm buông xuống, yến tiệc đã bày xong, Trụ Vương mệnh cho Hoàng thúc Tỷ Can bồi tiếp. Tỷ Can đến Lộc Đài, thấy cảnh mâm cao cỗ đầy, thừa mứa sơn hào hải vị, thì lắc đầu than rằng: "Vận nước đã đến hồi nguy cấp, nay lại đi tin chuyện thần tiên giáng lâm Lộc Đài, e rằng lại là lời mê hoặc của yêu tinh Đát Kỷ!"
Đến giờ Tý, chỉ thấy gió nổi ào ào, các chị em đồng môn của Đát Kỷ cưỡi yêu khí mà bay đến, kẻ thì biến thành đạo cô, kẻ thì biến thành đạo sĩ, lần lượt hạ xuống bàn tiệc cửu long yến ẩm. Vì không muốn kinh động đến nhã hứng của "thần tiên", Trụ Vương chỉ dám đứng phía xa, cách một bức màn để ngắm nghía họ say sưa thưởng thức yến tiệc.
Khi các chị em đồng môn của Đát Kỷ đang lần lượt rót rượu đến chúc mừng Trụ Vương, Tỷ Can chợt ngửi thây một mùi hôi nồng nặc toả khắp không gian, cảm thấy hết sức nghi ngờ, lại thêm đám hồ ly tinh đã lâu không được thưởng thức sơn hào hải vị, lúc này ăn uống thoả thích, mặc sức cười đùa. Khi đã no say, bọn chúng lần lượt để lộ đuôi cáo. Tỷ Can đã nhận ra chân tướng, nhưng chưa vội ra tay vạch mặt. Đát Kỷ thấy chị em bại lộ hình tích, bèn chuốc cho Trụ Vương say mềm rồi dìu về cung.
Đám yêu tinh uống đến say sưa, không bay đi được, chỉ còn cách dìu nhau loạng choạng tìm về mộ Hiên Viên. Tỷ Can mệnh cho Hoàng Phi Hổ bám theo đến mộ Hiên Viên, tìm ra sào huyệt của chúng. Đến canh năm, Tỷ Can cho người mang củi gỗ đến chất kín cửa hang, nổi lửa thiêu đốt. Sau khi lửa tàn, quân sĩ chui vào động lôi ra được mười mấy xác cáo chết ngạt.
Mấy ngày sau, Tỷ Can vào yết kiến Trụ Vương, mang theo một chiếc áo khoác lông cáo mà tâu rằng: "Mùa đông sắp tới, thần kính dâng bệ hạ tam áo khoác này để giúp long thể ngự hàn!". Trụ Vương thấy tấm áo đẹp đẽ, đường may tinh xao, thì rất hài lòng nhận lấy. Đát Kỷ nhìn tấm áo, biết rằng chị em của minh đều đã chết, trong lòng căm hận Tỷ Can thấu xương, rắp tâm tìm cơ hội báo thù.
Một hôm, Đát Kỷ cùng Hồ Hỷ Mỵ hầu Trụ Vương dùng bữa sáng tại Lộc Đài, Đát Kỷ đột nhiên hét lên một tiếng rồi ngã lăn ra đất, mắt nhắm nghiền, mặt tái mét. Trụ Vương thấy vậy thì vô cùng hoảng hốt. Hỷ Mỵ bèn nói với Trụ Vương rằng: "Bệnh tim của Đát Kỷ lại tái phát rồi!". Trụ Vương rất nóng lòng muốn tìm cách chữa khỏi bệnh cho Đát Kỷ, Hỷ Mỵ lại tâu: "Phải lấy được trái tim bảy lỗ cho nương nương ăn, bệnh mới khỏi". Trụ Vương lại hỏi trong thành Triều Ca, ai là người có được trái tim bảy lỗ. Hỷ Mỵ bấm tay tính toán vẻ rất chuyên chú, hồi lâu mới tâu lại rằng: "Trong thành Triều Ca chỉ có một vị đại thần có trái tim ấy, nhưng sợ rằng ông ta không chịu! Đó chính là Tỷ Can!" Trụ Vương không chút do dự mà nói rằng: "Tỷ Can là hoàng thúc, để cứu tính mạng của Đát Kỷ, chắc hẳn hoàng thúc sẽ đồng ý thôi!". Bèn lập tức xuống chiếu triệu Tỷ Can vào cung.
Nhận được chiếu lệnh của Trụ Vương, Tỷ Can đã cảm thấy lần này lành ít dừ nhiêu, nhưng không còn cách nào khác, chỉ biết tuân mệnh nhập cung. Trụ Vương nói lại với Tỷ Can chứng bệnh của Đát Kỷ, và đề nghị Tỷ Can cho mượn trái tim bảy lô. Thấy Trụ Vương quá u mê ngu muội, biết rằng cơ nghiệp nhà Thương sẽ mát về tay vua Trụ, Tỷ Can trong lòng hết sức chua xót, liền cầm ngay đoản kiếm, vạch áo mà hát một bài ca khuyên Trụ Vương như sau:
Yêu nghiệt cổ hoặc táng đức thất trí
Nộ thanh tứ khởi dan dĩ lưu ly
Tỷ Can tâm trường thương thiên khả giám
Nguyện vương tâm trí tảo nhật hồi tỉnh
Hôn dung vô đạo chúng bạn ly hề
Thành Thang thiên hạ tương xu diệt hề
Mãn xoang huyết tử bât túc hề
Ly tâm ly đức bất khả vi hề!
Nghĩa là:
Yêu tinh mê hoặc mất hết sáng suốt
Tiếng than dậy đất muôn dân cùng khổ
Tim gan Tỷ Can trời xanh chứng giám
Mong cho nhà vua hãy mau thức tỉnh
U mê vô đạo dân chúng quay lưng
Thiên hạ Thành Thang sắp phải diệt vong
Một bầu nhiệt huyết đến chết không màng
Đừng nên làm chuyện trái đức trái lòng!
Lời ca vừa dứt, ông cầm thanh đoản kiếm đâm ngay vào ngực, móc trái tim ra, ném thẳng lên mặt đất. Rồi khép vạt áo, không nói một lời, quay người đi thẳng.
Trước đó Khương Tử Nha đã đoán định được rằng Trụ Vương và Đát Kỷ muốn lấy trái tim của Tỷ Can, nên đã viết điều ấy lên một lá bùa và đưa cho Tỷ Can, nói rằng sau khi bị lấy tim, Tỷ Can phải đốt lá bùa, lấy tro trộn với nước để uống, sau đó rời khỏi nhà đi về hướng nam. Khương Tử Nha dặn ông rằng cho dù gặp vấn đề gì, ông cũng không được chú ý, như vậy mới có thể giữ được tính mạng.
Ông cứ thế đi một mạch đến mấy chục dặm đường, chợt nhìn thấy một người phụ nữ bán rau muống (rau muống tiếng Hán là rau không tâm, tức không tim). Người phụ nữ này rao to: "Bán rau không tâm, bán rau không tâm đây!" (Rau không tâm = Rau không tim = rau muống)
Cảm thấy khó hiểu, Tỷ Can liền hỏi: "Người nếu không có tim sẽ ra sao?" Người đàn bà bèn nói: "Người mà không có tim sẽ chết ngay!" Tỷ Can nghe vậy, bất chợt nhận ra rằng trái tim của ông không còn nữa, liền thét lên một tiếng lớn, ngã từ trên ngựa xuống, máu từ trong ngực phun trào, nhuộm đỏ mặt đất.
Hồn phách của Tỷ Can bay đến trước đài Phong Thần, được phong làm sao Thái Dương, tượng trưng cho tấm lòng trung quân ái quốc, cúc cung tận tụy của Tỷ Can như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp nhân gian, cùng tượng trưng cho tấm lòng trong sáng, khảng khái, từ bi bác ái của ông.
Sao Thái Dương là dương Hỏa, là tinh hoa của mặt trời, là chuẩn mực của tạo hóa, là chủ tinh, cát tinh chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là quyền quý, chủ cung Quan Lộc; tại số chủ về danh vọng, sau đó là giàu có, văn võ song toàn.
Đại thi hào Nguyễn Du (13-1-1766 - 16-9-1820) trong lần đi sứ sang Trung Quốc đã viết Bắc Hành Tạp Lục, trong đó có bài thơ Tỷ Can mộ:
Độn cuồng quân tử các toàn thân
Bát bách chư hầu hội Mạnh Tân
Thất khiếu hữu tâm an tị phẫu
Nhất khâu di thực tẫn thành nhân
Mục trung sở xúc năng vô lệ
Địa hạ đồng du khả hữu nhân
Tàm quý tham sinh Nguỵ điền xá
Trung lương hồ loạn cưỡng tương phân.
Nghĩa là:
Giả điên, chạy trốn để toàn thân
Đánh Trụ chư hầu họp Mạnh Tân
Bảy lỗ trong tim sao khỏi mổ?
Một gò dưới cỏ đã thành nhân
Giờ nhìn tận mắt khôn ngăn lệ
Đất có thật tình hẳn quí thân
Họ Ngụy quê mùa tham sống nhục
Trung, Lương gượng ép dám chia phân.
Có nhiều chàng trai ngoại hình lạnh lùng khó gần nhưng trái tim và tâm hồn lại vô cùng ấm áp, dạt dào cảm xúc.
Hãy cùng điểm qua top 3 chòm sao nam “ngoài lạnh, trong nóng” nhất trong số 12 cung hoàng đạo nhé!
Nội dung
Những chàng trai sinh ra dưới chòm sao Bò Cạp nổi tiếng lạnh lùng khó gần, chẳng khác nào một tảng băng lạnh giá. Đặc điểm này ở họ khiến nhiều cô gái e ngại khi tiếp xúc, nhưng phần lớn mọi người đều không thể phủ nhận rằng ở họ luôn toát lên một sức hút khó giải thích. Những chàng trai này thích ở một mình, lặng lẽ quan sát và suy tư về mọi thứ trong cuộc sống.
Nếu bạn muốn lọt vào “mắt xanh” của họ bằng thái độ vồn vập, cử chỉ nhiệt tình và quan tâm tới họ mọi lúc mọi nơi thì đúng là một sai lầm nghiêm trọng! Điều đó chỉ làm họ cảm thấy ác cảm và không muốn gần bạn chút nào. Hãy tiết chế lời nói, hành vi, cử chỉ của bản thân một cách vừa phải để họ cảm nhận được những nét đẹp ở bạn một cách từ từ, và để họ cũng cảm thấy tò mò về bạn như bạn tò mò về họ vậy.
Dù mang vẻ ngoài lạnh lùng nhưng những chàng trai Bò Cạp yêu rất cuồng nhiệt, mãnh liệt và hết sức chiều chuộng người yêu. Họ thực sự rất chung thủy nên sẽ không thể nào chịu đựng nổi nếu như bị phản bội.
Những chàng trai cung Ma Kết thường khá trầm tính, ít nói và không mấy ấn tượng nếu bạn chỉ tiếp xúc “sơ qua” với con người họ. Họ luôn làm mọi thứ một cách lặng lẽ, tới mức người khác cảm thấy ngại ngùng, khó xử với sự im lặng nơi họ.
Nếu muốn được bầu bạn với họ, bạn nên quan tâm, giúp đỡ họ một cách kín đáo, không bao giờ được tỏ ra ồn ào, nếu không họ sẽ thấy khó chịu và “cạch mặt” bạn ngay. Khi Ma Kết cảm nhận được sự chân thành từ bạn, dần dần họ sẽ đáp lại bạn bằng những cử chỉ quan tâm tương tự chứ không bày tỏ nhiều bằng lời nói.
Những chàng trai Xử Nữ sống rất nội tâm và hiếm khi thể hiện cảm xúc thật của mình trước mặt người khác, kể cả những người họ tin cẩn và thương yêu. Họ rất kín đáo và cẩn trọng trong cách cư xử với mọi người, đặc biệt là với những người khác giới. Kể cả khi đã có người yêu, họ vẫn tỏ ra bình thản, lạnh lùng và hiếm khi thể hiện tình cảm một cách công khai.
Nếu muốn chiếm được trái tim của nam Xử Nữ, bạn hãy kiên nhẫn chờ đợi và dùng tình cảm chân thành của bản thân để “cảm hóa” sự lạnh lùng của họ. Thời gian sẽ giúp anh ấy thoát khỏi vẻ ngoài lạnh lẽo và thể hiện những tình cảm ấm áp đối với bạn, quan tâm tới bạn từ những điều nhỏ bé nhất.
![]() |
Tuổi Tý |
![]() |
Tuổi Mão |
![]() |
Tuổi Ngọ |
![]() |
Tuổi Dậu |
![]() |
Tuổi Sửu |
![]() |
Tuổi Thìn |
![]() |
Tuổi Mùi |
![]() |
Tuổi Tuất |
![]() |
Tuổi Dần |
![]() |
Tuổi Tỵ |
![]() |
Tuổi Thân |
![]() |
Tuổi Hợi |
No1: Tuổi Dần
Con giáp này vô cùng thẳng thắn, phong cách làm việc phóng khoáng, và rất chân thành. Tuy nhiên, yếu điểm của họ là đôi khi quá đề tôi cái tôi cá nhân, nên dễ trút cơn thịnh nộ lên mọi người mà không cần quan tâm cảm xúc của họ.
![]() |
Khi cáu giận, người tuổi Dần trông rất dữ dằn, nhưng họ lại nhanh chóng bỏ qua và trở lại trạng thái vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra. Đặc biệt, nếu bạn chủ động dỗ dành, an ủi, con hổ đang gầm gừ giận dữ sẽ sớm biến thành chú mèo dịu dàng, đáng yêu lúc nào không hay.
Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng, người tuổi Dần dù rất dễ dỗ dành nhưng tốt nhất không nên chọc giận họ. Một khi đã "xù lông', con giáp này vô cùng đáng sợ luôn!
No2: Tuổi Hợi
Rất dễ dỗ dành, ít khi nổi giận là tính cách điển hình của người tuổi Hợi. Nhìn bề ngoài có vẻ xuề xòa, không để bụng mọi chuyện vậy thôi, thực chất họ cũng "super soi" nhiều lắm. Đặc biệt, không bực mình thì thôi, chứ khi đã bực mình, con giáp này dễ "cả giận mất khôn".
![]() |
Tuy nhiên, tính cách chân thành khiến họ kiềm chế cảm xúc bản thân khá tốt. Bởi vậy nên ít khi bạn thấy người tuổi Hợi nổi trận lôi đình. Nếu nhận thấy dấu hiệu nóng giận rất nhỏ biểu hiện trên khuôn mặt con giáp này, cách tốt nhất để bạn xoa dịu tình hình là dành một vài lời khen ngợi về tài năng nổi bật nào đó của họ.
Trường hợp người tuổi Hợi đã thực sự nổi cáu, bạn nên tìm cách mời họ đi ăn uống. Cách này đơn giản nhưng lại vô cùng hiệu quả, bạn thử là biết liền!
No3: Tuổi Tuất
Người tuổi Tuất có cái tôi siêu lớn, coi bản thân là trung tâm của vũ trụ. Nếu phát hiện thấy ai đó không tôn trọng hoặc coi thường mình, họ sẽ nổi cơn cuồng phong, thậm chí có thể cắt đứt mối quan hệ với người đó ngay lập tức mà không phải đắn đo suy nghĩ.
![]() |
Tuy nhiên, con giáp này lại ưa nịnh, thích được nghe những lời khen có cánh. Bởi vậy, việc dỗ dành họ nguôi giận vô cùng đơn giản. Chỉ cần bạn khéo léo khen ngợi cũng như khẳng định tầm quan trọng của họ, chắc chắn cơn giận sẽ nhanh chóng quá đi.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Vụ kiện hoa hậu Phương Nga chỉ là kết quả của tội tà dâm của hai con người Toàn Mỹ, Phương Nga khi họ từng làm việc bất chính và đang phải trả giá cho những gì mình đã gây ra. Những ngày qua, dư luận không khỏi xôn xao khi vụ kiện tình, tiền liên quan tới Hoa hậu Phương Nga cùng những tình tiết mới về bản hợp đồng tình dục với đại gia Cao Toàn Mỹ (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tin học Không gian ảo VinaCyber, thành viên Hội đồng Sáng lập VinaGame) tiếp tục gây xôn xao dư luận. Câu chuyện đến đây chưa thực sự ngã ngũ nhưng ai cũng dễ dàng nhận ra cả hai đều sai, vấn đề họ tiếp tục thể hiện cái sai của mình trước mặt công chúng, bàn dân thiên hạ tới mức nào mà thôi. Trước khi chờ kết quả chính thức, chúng ta cùng nhìn nhận về vụ kiện này xét về khía cạnh nhân tướng học và Phật pháp.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Tượng gà bằng đồng hóa giải nhà khuyết góc hướng Tây |
![]() |
Tượng "Mục đồng kỵ ngưu" hóa giải nhà khuyết góc Đông Bắc |
Đối với người Việt Nam, việc lễ tạ mộ phần vào dịp cuối năm là điều rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần hiếu thảo của người Việt.
Nhiều gia đình thường kết hợp lễ tại mộ cuối năm cùng lễ mời ông bà tổ tiên về ăn Tết, phù hộ độ trì cho con cháu một năm mới an lành, mạnh khỏe.
Sắm lễ tạ mộ
Phần sắm lễ tạ mộ tùy theo điều kiện, lòng thành của gia chủ. Song thông thường có những vật cúng cơ bản:
Những đồ chuẩn bị để ra cúng tại phần mộ:
Hương thơm
Hoa tươi ( hoa hồng đỏ) 10 bông
Trầu 3 lá, Cau 3 quả cành dài đẹp
Trái cây 1 mâm to
Xôi trắng 1 mâm bên trên bày gà luộc nguyên con
(Thường chọn giò hoặc là trống thiến)
Rượu trắng 0,5 lít + Chén đựng rượu 5 cái
10 lon bia + 2 bao thuốc lá + 2 gói chè ( 1 lạng/gói)
2 nến cốc màu đỏ dùng để thắp khi làm lễ
Phần mã thì có:
1 cây vàng hoa đỏ
5 con ngựa 5 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng, chàm tím) cùng với 5 bộ mũ, áo, hia ( loại to) cùng với đồ kèm theo ngựa là cờ lệnh, kiếm, roi.
Mỗi ngựa trên lưng có 10 lễ vàng tiền (một lễ gồm có tiền xu, vàng lá, tiền âm phủ các loại..)
Có 4 đĩa để tiền vàng riêng như sau :
1 đĩa để 3 đinh vàng lá, 1 đinh xu tiền
1 đĩa có 1 đinh vàng lá, 7 đinh xu tiền
1 đĩa có 9 đinh vàng lá, 1 đinh xu tiền
1 đĩa có 1 đinh xu tiền
Đối với vong linh tùy theo là nam, phụ, lão, ấu, mà có áo quần tương ứng dâng tiến cho phù hợp. Ngoài ra có tiền âm phủ các loại kèm theo, tiền xu, vàng lá….mỗi thứ ít nhiều.
Chú ý: nếu phần mộ nhỏ thì phải có thêm mâm, thêm bàn để bày lễ lên sao cho phù hợp.
Đối với nghĩa trang có nơi thờ thần linh Thổ địa riêng thì phải bày lễ hai nơi. Trong đó lưu ý phần mã (chữ bôi đen) là trình bày ở nơi thờ thần linh Thổ địa. Có nơi dâng cây đại thiếc (thay vàng hoa đỏ)
Ngoài ra tùy theo phong tục tập quán ở mỗi nơi mà có sự gia giảm điều chỉnh thích ứng.
Văn khấn tạ mộ phần
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Con kính lạy:
– Quan đương xứ thổ địa chính thần
– Thổ địa Ngũ phương Long mạch Tôn thần,
– Tiền thần Chu Tước, Hậu thần Huyền Vũ, Tả thần Thanh Long, Hữu thần Bạch Hổ
– Liệt vị Tôn thần cai quản ở xứ này.
Con kính lạy vong linh ……….
Hôm nay là ngày…tháng…năm…, nhằm tiết …..
Chúng con là:……………
Thành tâm sắm sanh phẩm vật, hương hoa phù tửu lễ nghi, trình cáo Chư vị Tôn Thần về việc lễ tạ mộ phần.
Nguyên có vong linh thân nhân của gia đình chúng con là:……….hiện phần mộ an táng ở nơi này. Đội ơn Chư vị Tôn thần che chở, ban ân, vong linh được yên ổn vui tươi nơi chín suối. Lại nhờ có duyên lành, gia đình chúng con được vong linh thường về ghé thăm, linh ứng giúp chỉ dẫn các công các việc được đầu xuôi đuôi lọt, nhờ thế toàn gia được an ninh khang thái, từng bước tiến bộ.
Nay nhằm ngày lành tháng tốt, gia đình chúng con sắm sửa lễ tạ mộ những mong báo đáp ân thâm, tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin Chư vị Tôn Thần lai giáng án tiền, nhận hưởng lễ vật, chứng minh tâm đức.
Cúi mong vong linh chấp kỳ lễ bạc, lời kêu tiếng khấn, tờ đơn cánh sớ, tùy phương ứng biến, độ trì toàn gia, từ trẻ tới già, luôn được vui tươi, mạnh khỏe.
Chúng con dâng biếu vong linh tài mã gồm : ….( đọc tên các đồ mã dâng cho vong)
Âm dương cách trở, bát nước nén hương, giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1. Hoa linh lan
Hoa linh lan tượng trưng cho hạnh phúc, sự tinh khiết của trái tim, và khiêm tốn nhờ hương và sắc của mình. Hoa có màu trắng, rủ xuống hình chuông và mùi thơm ngọt. Vẻ đẹp cả trong lẫn ngoài của linh lan vì thế đã quyến rũ không ít người yêu hoa. Công nương Kate Middleton và Grace Kelly đều từng chọn linh lan làm hoa cầm tay trong lễ cưới hoàng gia.
Bó hoa cưới của hai vị công nương nước Anh và Monaco đều chọn linh lan làm chủ đạo
Tuổi thọ của linh lan rất ngắn, chỉ khoảng vài tuần cuối đông, đầu xuân. Vì vậy, khi thu hoạch linh lan, người làm vườn phải rất cẩn thận vì chỉ một sai lầm có thể rút ngắn tuổi thọ của hoa. Một cành linh lan dài từ 15-30cm có giá không hề rẻ, dao động từ 15 - 50 đô (300 - 1 triệu đồng).
2. Phong lan Thâm Quyến
Hoa phong lan Thâm Quyến là loài hoa lan đắt nhất thế giới hiện nay, với trị giá khoảng 200.000 đô (khoảng 4,4 tỉ VND/cây). Sở dĩ đắt đỏ như vậy không chỉ vì quý hiếm mà chính bởi sự ra đời đặc biệt của mình. Đây không phải là loài hoa tự nhiên mà được lai tạo hoàn toàn trong phòng thí nghiệm.
Một cây phong lan Nongke phải mất 8 năm để nuôi dưỡng, trong đó 4-5 năm mới cho ra hoa. Chỉ có những cây đạt tiêu chuẩn với sắc và hương tinh tế mới được đem ra bán trên thị trường.
3. Hoa lan Rothschild
Không cao giá như hoa lan Nongke Thâm Quyến nhưng lan Rothschild cũng có giá thuộc loại "hàng khủng" khi chạm ngưỡng 6.000 USD/ cành (khoảng 130 triệu VND). Chúng được mệnh danh là "Vàng của Kinabalu" do giá trị hái ra tiền của mình.
Rothschild bán ở một mức giá rất cao nhờ vẻ đẹp hiếm lạ. Những cánh hoa dài với màu xanh lá cây đốm đỏ vươn ngạo nghễ. Loài hoa này chỉ có thể tìm thấy được ở Vườn quốc gia Kinabalu ở Malaysia. Bên cạnh thực tế là nó chỉ được tìm thấy ở một nơi, trồng được một cây Rothschild cực kỳ khó khăn và mất một quá trình lâu dài. Bông hoa nchỉ nở giữa các tháng trong tháng Tư và tháng Năm và có thể mất đến 15 năm mới cho ra một đóa.
4. Hoa hồng Juliet
David Austin là một nhà thực vật học người Anh nổi tiếng với những giống hoa hồng được lai tạo và cải tiến từ các loại hoa hồng cổ điển nên luôn có nét độc đáo riêng biệt. Những giống hoa hồng Anh David Austin thường có giá không hề rẻ nhờ vào chất lượng hoa của mình.
Hoa hồng Juliet là một trong những giống hoa hồng đầu tiên David Austin chăm trồng. Trong suốt 15 năm, ông đã tự tay chăm sóc, tưới nước, tỉa cành loài hoa này với chi phí lên đến 3 triệu bảng (khoảng hơn 100 tỉ đồng), vì vậy Juliet còn có cái tên khác là "hoa hồng 3 triệu bảng". Ngày nay, những cây Juliet lứa đầu thường đượ bán với giá rất cao. Có những bó Juliet đạt giá hơn 15 triệu đô (330 tỷ VN đồng).
Sau 15 năm, Juliet mới ra hoa khum đẹp với màu phớt cam hiện đại. Khi nở hoàn toàn, bông hoa nhiều cánh hoa lộ gọn gàng, được sắp xếp nép trong những cánh to xếp hình trái tim bên ngoài. Hoa có mùi thơm nhẹ của hoa hồng và thường được cắt để cắm trong đám cưới, lễ tưởng niệm, các sự kiện và các dịp đặc biệt.
5. Hoa Kadupul
Hoa Kadupul được mệnh danh là bà hoàng của các loài hoa với giá trị vô giá. Loài hoa này hiếm có khó tìm vì chưa có nhà vườn nào trồng được do kỹ thuật trồng và cách chăm sóc cầu kì, kĩ lưỡng. Kadupul nở vào ban đêm và trong thời gian rất ngắn nhưng tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Chỉ vài phút đồng hồ thôi nhưng những người đã từng được thưởng ngoạn qua đều thấy tinh thần thư giãn và thoải mái. Kadupul sẽ tàn trước khi bình minh lên nên vì vậy chẳng bao giờ người ta thấy chúng ở các cửa hàng, kể cả bán trên mạng.
Loại hoa quý giá này được tìm thấy ở những xứ nóng như Mexico, Venezuela, Brazil và Mỹ. Người ta tin rằng, khi điều ước được thực hiện vào lúc Kadupul nở, điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.
- Ngón tay giữa có đường ngang: Có tai nạn + ý niệm tự sát.
- Ngón tay giữa nghiêng qua ngón trỏ: Thích khoái lạc vật chất.
- Ngón tay giữa nghiêng qua ngón áp: Thích nghệ thuật.
- Ngón tay giữa vuông: Thức thời, có nghị lực, hiểu Định mệnh.
- Ngón tay giữa bè bè: Chán đời, nghĩ đến cái chết.
- Ngón tay giữa có đường hướng thượng trên lóng tay: Tốt cho sự thành công.
- Lóng 1 dài (lóng có móng) : Dị đoan, âu lo, nhưng có can đảm trong việc làm, cẩn thận và bền chí.
- Lóng 1 ngắn: Chịu đựng mọi hoàn cảnh.
- Lóng 1 nhọn: Vô tư, không phản ứng.
- Lóng 1 hình cái bay: Không ưa giao thiệp, bi quan, luôn ám ảnh về chết chóc.
- Lóng 1 có dấu (+) hay dấu (*): Đời sống ly kỳ, phi thường.
- Lóng 1 dài và thon: Nhẫn nại, can đảm, thành thật.
- Lóng 2 dài: Ưa nghề nông, nếu có ngón tròn: Ưa khoa học huyền bí.
- Lóng 2 ngắn: Không nhẫn nại, khó thành công.
- Lóng 3 dài: Hà tiện.
- Lóng 3 ngắn: Cần kiệm như thiếu tổ chức.
- Lóng 3 dài và ốm: Bạc phước.
- Lóng 3 có chỉ hình bán nguyệt: Phòng bịnh phong tình.
Nguồn: Phong Thuy Hoc
Tết là một sinh hoạt văn hoá cổ truyền quan trọng - nếu không nói là quan trọng nhất của người Việt ở đồng bằng. “Năm hết Tết đến”, mọi công cuộc làm ăn - sản xuất - trước hết là sản xuất nông nghiệp - đều dần dần giảm thiểu đến mức tối đa - thậm chí ngày trước có khi tạm ngưng hẳn - để đổ dồn cho việc sửa soạn cái Tết, tắm mình trong không khí Tết, hưởng thụ Tết, sinh hoạt Tết rồi thư dãn sau Tết. “Ra Giêng ngày rộng, tháng dài...”
Tết cổ truyền dưới góc nhìn văn hoá học và sự biến đổi của Tết trong bối cảnh đời sống mới, văn hoá mới đã mang sắc mầu mới.
Một cách chặt chẽ, Tết bắt đầu từ ngày mồng Một tháng Giêng đầu năm mới theo lịch cổ truyền mà ta quen gọi là Âm lịch - thật ra là Âm - Dương hợp lịch, vì “Tháng” được tính theo trăng (từ “mồng một lá trai, mồng hai lá lúa - đến ba mươi không trăng), còn “24 tiết” trong năm được định theo mặt trời; ấy là không kể lịch - còn được điều chỉnh theo sao, “nhật - nguyệt - tinh” đều được tham chiếu để làm lịch, đó không phải là lịch thuần Âm hay thuần Dương.
Tết là ngày đầu năm mới, trước hết và quan trọng nhất là “mồng Một”, rồi bao hàm cả “3 ngày Tết” (từ mồng Một đến mồng Ba). Nhưng, trong ngôn ngữ cổ truyền của người Việt, bắt đầu từ 23 tháng Chạp năm cũ, người ta gọi là “23 Tết” (ít ai gọi là 23 tháng Chạp), cứ thế kéo dài đến “30 Tết” (30 tháng Chạp). Đêm ấy - hay nửa đầu đêm ấy - được coi là tối tăm nhất trong năm - “tối như đêm Ba Mươi Tết, dầy như đất” - Và “ông Hùm” được bảng giá trị cổ truyền coi là thế lực đáng sợ nhất, tối tăm nhất nên lại được gọi một cách tượng trưng - văn hoá là “ông Ba Mươi”. “30 Tết”, qua “Giao thừa” lại được gọi là “Mồng Một Tết” rồi “Mồng Hai Tết” v.v… cho đến ít nhất là “Mồng Bảy Tết” v.v…
Thật ra lễ lạt đầu năm mới được gọi thu gọn là Tết chứ nếu gọi một cách đầy đủ thì dân gian nói là Tết Cả hay gọi theo “tên chữ” (Hán - Việt) là Tết Nguyên Đán. Nguyên là “đầu tiên”, Đán là “buổi sớm”. Theo nguyên nghĩa, “Nguyên đán” là buổi sớm đầu tiên của ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm mới. Vậy “Tết Nguyên đán” là “Tết đầu năm mới”.
Còn Tết Cả nghĩa là Tết hàng đầu, Tết đứng đầu, Tết to nhất và quan trọng nhất. Với tên gọi ấy, trong tâm thức dân gian đã tiềm ẩn cái ý là sau Tết Cả, có những tết khác, “Tết con”, Tết không to bằng, không quan trọng bằng Tết Cả.
Dân ta còn gọi nhiều lễ nữa trong năm là “Tết”, thí dụ “Tết mồng ba tháng Ba” (Hàn thực hay “tiệc bánh trôi”), “Tết Đoan Ngọ” (mồng 5 tháng 5), Tết “Trung thu” (Rằm tháng Tám), “Tết cơm mới” (mồng 10 tháng 10 hay mồng 1 tháng 10 tuỳ vùng).
Vậy Tết theo nghĩa rộng bao hàm những định kỳ lễ trong năm, quanh năm. Tết nhân văn vẫn nương theo thời tiết tự nhiên chuyển vần theo mùa vụ một năm, chẳng hạn tết Đoan Ngọ là khoảng trước sau ngày Hạ chí, tết Cơm mới ở khoảng tiết Đông chí, tết Trung thu ở khoảng tiết Thu phân v.v... Tết Cả hay Tết Nguyên đán là nương theo cái tiết Lập Xuân. Có điều là giữa cái Văn hoá và cái tự nhiên có một độ dung sai nhất định, không hoàn toàn trùng khít với nhau.
Cội nguồn của tết
Không gian văn hóa - xã hội của Tết Nguyên đán là Trung Hoa. Ai cũng biết Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam là những vùng ngoại biên của văn minh Trung Hoa và chịu ảnh hưởng đậm đà theo những khía cạnh khác nhau, với những mức độ khác nhau, độ sâu nông khác nhau và những góc khúc xạ khác nhau của văn minh Trung Hoa. Một cái Tết chung cho cả 4 nước trên dễ cho người ta cảm nhận rằng Tết đó vốn có cội nguồn Trung Hoa.
Trong các tộc người của cộng đồng quốc gia Việt Nam, tộc Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa sớm nhất và mạnh nhất và cũng “văn hiến” nhất. Có sự giao thoa văn hoá Việt Hoa - cả cưỡng bức và tự nguyện - qua hơn ngàn năm Bắc thuộc, bắt đầu từ hàng thế kỷ trước công nguyên, rõ rệt nhất là thời Hán Vũ đế (111 tr CN). Tết trước hết là Tết của người Việt.
Tết như hiện nay bắt đầu khoảng trước Công nguyên hơn 100 năm, từ đời Hán và có cội nguồn đan xen văn hoá Việt - Hoa. Văn minh Trung Hoa bắt nguồn từ bình nguyên hoàng thổ Hoàng hà, cùng với sự bành trướng của người Hoa xuống phương Nam, đã tích tụ và hội nhập nhiều nhân tố văn hoá phương Nam, miền Việt cổ. Lâu dần, với văn tự và thư tịch Trung Hoa, mọi nhân tố văn hoá Việt cổ ấy đã được xem là của người Hoa và đã được “Hoa hoá”. Về sau, người ta gán mọi thành tựu sáng tạo văn hoá cho người Hoa. Sự thực văn minh Trung Hoa là kết quả tích tụ và kết tinh nhiều nhân tố văn hoá của nhiều tộc người - Hoa và phi Hoa - ở vùng Đông Á và Đông Nam Á.
Mâm cỗ ngày xuân
Trong mỗi chúng ta chắc hẳn không có ai không được ăn cỗ. Bữa cỗ Việt Nam đã có từ xưa và gắn với truyền thống lâu đời của cả dân tộc, của đất nước, của làng xóm quê hương mình. Thú thật ăn cỗ không chỉ là niềm vui mà còn là nghĩa vụ của người lớn. Những đứa trẻ nhỏ được ăn cỗ là niềm vui, là kỷ niệm đọng lại trong ký ức tuổi thơ rất khó phai nhòa theo thời gian.
Trên mâm cỗ bao giờ cũng có các món ăn sẵn, mâm sắp đủ 4 hoặc 6 cái bát, có nơi lại sắp 5 cái và số đôi đũa đi theo số bát, chén uống rượu và một chai rượu trắng.
Đi ăn cỗ không phải chỉ để ăn mà còn là niềm mong mỏi, giao du, xum họp gia đình, họ hàng nội, ngoại. Lúc ăn cỗ ai cũng nói cười vui vẻ, vừa ăn vừa chúc tụng, thăm hỏi lẫn nhau, qua bữa cỗ những thắc mắc, giận hờn, hiểu lầm nhau sẽ được xóa nhòa. Từ đó mối quan hệ càng được thắt chặt hơn. Trong các bữa ăn cỗ tuy thân mật, vui vẻ song khi ăn uống cũng thể hiện nét văn hóa, lịch sự, nhất là khi được ngồi cùng mâm với ông bà, cha mẹ và người lớn tuổi. Khi ăn không được chống đũa lên mâm mà phải dùng tay sửa đũa ngay ngắn, khi gắp thức ăn không đảo xới, không dùng đũa xê dịch bát, đĩa trong mâm, trước khi ăn phải mời người cao tuổi gắp trước, không nên vừa ăn vừa nói. Các cô con gái, con dâu phải ý thức, nhất là khi có khách lạ, có người lớn tuổi.
Mâm cỗ ngày tết ở trong gia đình cúng tổ tiên là làm cho ta có lòng tin ở sự có mặt của ông bà, cha mẹ trên bàn thờ, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con cháu. Ai cũng không dám làm điều gian dối, độc ác, e bị tội với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và muốn được hưởng, phúc đức của tổ tiên để lại cho con cháu. Mâm cỗ ngày tết thường khác với tiệc liên hoan, khao gặp gỡ, ăn mừng thắng lợi. Mâm cỗ rất quen thuộc với người Việt Nam từ thành phố đến nông thôn vào những ngày tết xuân về. Những người đi xa quê hương xứ sở nhiều năm vào những ngày tết khi nghĩ về quê hương đều nhớ đến không khí ấm cúng gia đình và hương vị mâm cỗ tết đầu năm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Tác dụng và ảnh hưởng của vì sao Thổ tinh là xác nhận năng khiếu về hầm mỏ, nông nghiệp, sự rủi may trên đường đời và tâm tính viễn vọng.
Một gò Thổ tinh đầy đủ và một ngón tay giữa mỏng mảnh, người nhiều suy nghĩ vu vơ, nhiều viễn vọng.
Một gò Thổ tinh đều đặn với một ngón giữa trội hơn, các ngón, người tự kỷ cá nhân, không thích giao dịch nếu không có lợi lộc. Gò Thổ tinh dưới hình thức này và một ngón giữa nhọn, người bi quan, ương ngạnh nhưng ưa thổ lộ tâm tình.
Một gò Thổ tinh thật cao, người đa sầu đa cảm.
Một gò Thổ tinh đều đặn với một lóng giữa của ngón giữa đầy đặn, người tinh khôn, có thực tài. Nếu trên đường sự nghiệp mà gặp thất bại là do định mệnh khắt khe, chớ không phải tại người.
Một gò Thổ tinh nổi cao với một lóng chót của ngón giữa to lớn, người keo kiệt, biển lận; gò càng nổi cao, tính biển lận càng to lớn.
Nếu gò Thổ tinh đầy đặn, ngón giữa thon, trong lòng bàn tay lại có một đường Tâm đạo mờ ảo, người tính tình bạt nhược, thất vọng buồn nản đến tự tử.
Gò Thổ tinh trũng ám chỉ người hèn hạ, khốn khổ. Nhưng nếu gò Thổ tinh rộngđầy và cao nhất trong các gò của lòng bàn tay, thì dù đường Sinh đạo có bị đứt, người cũng được trường thọ và đầy đủ phước đức lúc tuổi về già.
Trích KHÁM PHÁ NHỮNG BÍ MẬT CỦA BÀN TAY
_ Bác sĩ Joef Ranald_
Một gò Thái âm đầy đà, cao, rộng, người có óc phiêu lưu, thích bềnh bồng trên sóng nước, giàu mơ mộng nhưng có khả năng sáng tác, có óc sáng chế.
Một gò Thái âm nổi cao thái quá và mềm mại, người bất nhất, không chủ định, giàu tham vọng.
Một đặc điểm cần để ý khi nghiên cứu gò Thái âm là phải quan sát đồng thời vớiđường Trí Đạo, vì đường Trí Đạo chảy về gò Thái Âm hoặc tràn vào gò Thái Âmđều xác định ảnh hưởng của sức tưởng tượng của người. Hơn nữa, tất cả những sự xáo trộn về tâm thần tập trung trong đường Trí đạo đều được xác định một cách rõ ràng trong gò Thái Âm. Và, khi mà gò Thái âm nảy nở quá mức người sẽ chắc chắn bị xáo trộn về tâm thần hoặc xúc động thái quá, hoặc cả hai, tâm thần và xúc động cũng bị xáo trộn
Nếu một gò Thái âm nổi cao, gặp một gò Thuỷ tinh đầy đặn và một ngón út trội, người sẽ hứa hẹn một khả năng sáng tác dồi dào, có thể là một văn nhân hay thi sĩ.
Khi một gò Thái âm thật nổi, cần phải quan sát các đầu ngón tay và ngón cái, vì một hình thức như thế trong một bàn tay yếu, mỏng mảnh, người sẽ mất tất cả vì quá mơ mộng. Nếu bàn tay gân guốt, các ngón đều đặn trong hình thức gò Thái Âm này, người sẽ có tầm hoạt động sâu và mãi mãi.
Một gò Thái Âm tràn đầy ra ngoài bìa bàn tay chứng tỏ người mộng mơ đến trở thành mê tín.
Trích KHÁM PHÁ NHỮNG BÍ MẬT CỦA BÀN TAY
_ Bác sĩ Joef Ranald_
Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.
Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.
Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.
Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.
Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.
Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:
1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ
Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.
Bát tự của mệnh:
Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý
Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi
Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.
Bát tự của mệnh:
Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ
Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ
Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.
2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội
Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.
Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Đinh Dậu Ất Tỵ
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Đông phương
Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa
Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần
Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần
Tân Sửu Bắc phương
Canh Tý Thuỷ địa
Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương
Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa
Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân
Kỷ Mùi Nam phương
Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa
Đinh Tỵ
Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương
Ât Mão Mộc địa
Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh
Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương
Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa
Tân Hợi
Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão
Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn
Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị
Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ
Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu
Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Tỵ Canh Thìn
Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão
Ngày Canh Thìn Mậu Dần
Giò Giáp Thân Đinh Sửu
Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.
3. Sao biết người ấy nghèo
Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Quý Mão Quý Sửu
Tháng Giáp Dần Nhâm Tý
Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi
Giò Kỷ Dậu Canh Tuất
Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Nảm Tân Sửu Ất Mui
Tháng Bính Thân Giáp Ngọ
Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ
Giò Canh Thân Nhâm Thìn
Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.
4. Sao biết người đó hèn
Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.
Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Bính Thìn Tân Mão
Tháng Canh Dần Nhâm Thìn
Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ
Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ
Ất Mùi
Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.
5. Sao biết người ấy cát
Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.
Bát tự của mệnh:
Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ
Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi
Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt
Bát tự của mệnh:
Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần
Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.
6. Sao biết người ấy gặp hung
Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Hợi Đinh Sửu
Tháng Mậu Dần Bính Tý
Ngày Bính Tý Ất Hợi
Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất
Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu
Tháng Can Dần Mậu Tý
Ngày Bính Thìn Đinh Hợi
Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất
Ất Dậu
Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.
7. Sao biết người ấy thọ
Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ
Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần
Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.
Bát tự của mệnh:
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn
Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.
8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô
Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương
kỷ Thổ thương quan
Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa
Ẩt Mộc ân thụ dụng thần
Giờ thực thần
Mậu Tuất Ất Hợi
Mậu Thổ
thực thần Mậu Tuất Tây Phương
Đinh Dậu Kim Địa
Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.
Bát tự của mệnh: Đại Vận
Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn
Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi
Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ
Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ
Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.
Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo
1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.
2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,
3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử
4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.
5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.
6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.
7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.
Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:
Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.
Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:
Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)
Bính tiểu tràng Đinh tâm
Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì
Canh đại tràng Tân phổi (phế)
Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu
Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:
Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng
Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương
Canh thị đại tràng Tân thuộc phế
Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng
Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký
Bào lạc đồng quy nhập Quý phương
Lại nói rằng:
Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu
Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc
Canh thị tề luân Tân vi cổ
Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc
Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.
Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.
Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:
Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ
Sửu vi bào đồ cập tỳ dương
Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ
Mão bản thập chỉ nội can phương
Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại
Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang
Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục
Mùi Thổ vị quản cách tích lương
Thân Kim đại tràng kinh lạc phế
Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng
Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc
Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang
Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...
Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.
Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.
Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:
Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:
Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.
Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.
Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
hững góc độ và phương diện khác nhau để quan sát không gian bên trong ngôi nhà, chú ý cách sắp xếp và trang trí nội thất, cách thiết kế các lối đi, cách bài trí và xử lí các vật dụng trong nhà, đồng thời kết hợp với cách thiết kế và xây dựng phù hợp là bạn đã có thể tạo được cho mình một không gian sống thật hài hòa và dễ chịu.
Trước hết, cần chú ý đến chức năng của không gian bên trong ngôi nhà. Việc bạn phải làm là chia cắt không gian ấy sao cho phù hợp chứ không phải là chia cắt một mặt phẳng. Vì thế, hãy nghĩ đến cách xử lí với những mặt phẳng vuông góc, ở những độ cao khác nhau đòi hỏi sắp xếp những vật dụng khác nhau. Với một căn phòng cao nên sử dụng một chiếc đèn treo để lấp đầy khoảng trống bên trên, tránh gây cảm giác đơn điệu; còn đối với một căn phòng hơi thấp thì một chiếc đèn trần là khá phù hợp, đồng thời hãy cố gắng tận dụng các góc không gian thừa để làm tăng tính linh hoạt của cả căn phòng. Để tránh gây hư tổn đồ đạc trong nhà do quá trình bị chuyển đi chuỵển lại nhiều lần, khi tiến hành thiết kế không gian bên trong ngôi nhà, hãy làm thử một mô hình mẫu nhỏ theo một tỉ lệ nhất định với diện tích ngôi nhà thật của bạn, cho đến khi nào bạn cảm thấy thực sự hài lòng thì hãy bắt tay vào thực hiện ý tướng của mình.
Khi chia nhỏ không gian căn nhà, chủ yếu phải căn cứ vào đồ đạc bày biện bên trong. Thông thường, đồ đạc chiếm khoảng một nửa diện tích của căn nhà. Đồ đạc quá nhiều sẽ làm ngôi nhà trở nên chật chội, nhưng nếu ít quá thì lại gây cảm giác trống trải. Vì thế, để xác định vị trí sắp xếp đồ đạc trong nhà, trước tiên phải chú ý đến chức năng của chúng. Các vật dụng có chức năng đi kèm với nhau thì nên đặt cạnh nhau, ví dụ: tủ để đầu giường phải đặt cạnh đầu giường, tủ sách phải đặt cạnh bàn làm việc…. Với những đối tượng sử dụng phòng khác nhau, kích thước của đồ dùng cũng cần phải có sự điều chỉnh thích hợp. Xử lí về độ dài không thỏa đáng sẽ ảnh hưởng đến các lối đi và không gian trong nhà, xử lí độ cao không thỏa đáng cũng sẽ ảnh hưởng đến kết cấu căn nhà theo chiều thẳng đứng. Đối với hai đồ vật có độ cao thấp không ăn khớp với nhau nhưng lại được đặt cạnh nhau thì ở giữa nên được cân bằng bởi một vật có độ cao trung bình khác. Các đồ dùng trong nhà cần được kết hợp một cách thống nhất, nhưng đồng thời lại có thể thay đổi một cách hợp lí, tốt nhất là có thể thay đổi về độ cao. Khi lựa chọn màu sắc của đồ dùng trong nhà, trước tiên phải chú ý kết hợp hài hòa với màu sắc của các bức tường và các bố cục. Đồ dùng có thể chỉ là một màu chủ đạo, cũng có thể kết hợp với các màu đối lập để tạo điểm nhấn, nhưng không nên lạm dụng pha tạp quá nhiều màu sắc với nhau. Với màu chủ đạo là vàng nhạt, có thể điểm xuyết bằng các đồ dùng có gam màu đậm hoặc màu tương ứng khác.
Có một nguyên tắc cơ bản khi lựa chọn màu sắc cho ngôi nhà, đó là dùng gam màu nóng cho mùa đông và gam màu lạnh cho mùa hè, hãy tận dụng các bức rèm cửa sổ hoặc những chiếc đèn treo để tạo nền màu chủ đạo của cho cả ngôi nhà.
Khi trang trí các mặt phẳng vuông góc ở trên cao, đôi khi cần thông qua trang trí trần nhà để tăng thêm cảm giác về không gian. Những chiếc đèn treo với độ cao khác nhau có thể tạo nên những không gian khác nhau. Về xử lí không gian và lối đi trong nhà, cần chú ý đến việc thông gió và tạo hiệu quả ánh sáng.
Việc sắp xếp các vật dụng nhỏ cũng như tác dụng tạo điểm nhấn của chúng cũng không nên xem nhẹ. Ở những góc khuất hoặc chỗ rẽ, có thể đặt lọ hoa hoặc chậu cây cảnh, trên các mặt phẳng rộng, có thể treo hoặc dán vài bức tranh hoặc thư pháp. Cũng có thể dùng các bức bình phong, mành trúc, hoặc các giá đựng chậu hoa cảnh để chia nhỏ không gian trong nhà, tạo cảm giác về tầng thứ. Ngoài ra, có thể thắp những chiếc đèn nhỏ ở các góc tối để tạo ánh sáng như ánh sáng tự nhiên, hoặc tận dụng những chỗ lồi lõm trên tường để treo những giá đựng kiểu cổ.
Tóm lại, vẻ đẹp của một căn nhà đòi hỏi phải có cách thiết kế và bài trí phù hợp, như vậy mới có ,thể đem đến cho người chủ của nó cảm giác về một không gian sống đẹp, an nhàn và thoải mái.
thay đổi được vận thế của bạn.
Tuổi Tý
Hợp: Màu xanh da trời Kỵ: Màu vàngVề cơ bản, vận thế của người tuổi Tý trong năm Quý Tỵ là khá tốt; tuy nhiên Tý là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa; Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, tựu chung là bất lợi; bạn không nên mặc quần áo quá sẫm màu.
Riêng màu xanh da trời có thể tạo thế bình hòa, tăng vận may, giảm xui xẻo. Tuy nhiên, màu vàng lại có những ảnh hưởng rất xấu đến vận thế của bạn trong năm nay.
Tuổi Sửu Hợp: Màu vàng nhạt Kỵ: Màu xanh lụcSửu là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa sinh Âm Thổ; xét theo ngũ hành, Thổ màu vàng nhưng lại là Dương Thổ, vì vậy, người tuổi Sửu dùng màu vàng nhạt là tốt nhất.
Mộc khắc Thổ, Mộc màu xanh, vì vậy, những người tuổi này kỵ dùng màu xanh. Vận thể người tuổi Sửu trong năm Tỵ đạt mức trung bình, không quá vượng, do đó, màu sắc bạn dùng nên nhạt một chút.
Tuổi Dần
Hợp: Màu xám Kỵ: Màu trắng Dần là Dương Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Tuy Dương Mộc có khả năng sinh Âm Hỏa nhưng lại không tăng vượng cho tự thân người tuổi Dần, do vậy phải dụng Thủy để sinh Mộc. Màu đen là Thủy trong ngũ hành, tuy nhiên vì Âm Dương tương khắc nên bạn có thể dùng màu xám. Màu trắng là Kim, Kim khắc Mộc, do vậy, nên tránh màu này để không ảnh hưởng đến vận thế trong năm Quý Tỵ. Tuổi Mão Hợp: Màu đen Kỵ: Màu trắng Mão là Âm Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Cũng như tuổi Dần, Âm Mộc có thể sinh Âm Hỏa. Bạn nên chọn màu đen vì xét theo ngũ hành, cả hai đều là Âm, đẹp nhất với tuổi Mão là sắc đen tuyền. Tương tự, màu tối kỵ của tuổi Mão trong năm nay là màu trắng. Tuổi Thìn Hợp: Màu đỏ cam Kỵ: Màu xámThìn là Dương Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Dương Thổ; Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Trong năm 2012, vận thế của người tuổi Thìn rất xấu, năm nay cũng không quá vượng. Bạn nên dùng màu đỏ cam cho hợp vận. Vốn dĩ Thổ khắc Thủy, nếu dùng màu xám, tuổi Thìn dễ gặp xui xẻo.
Tuổi Tỵ
Hợp: Màu xanh lục Kỵ: Màu đen Tỵ đối Tỵ, đây chính là năm bản mệnh của bạn, do vậy, xét tổng thể là xấu. Bạn có thể dùng màu xanh của Mộc trong ngũ hành để vận thể thêm vượng, nhưng tuyệt đối không dùng màu đen. Màu đen là Thủy, Thủy Khắc Hỏa, nếu ưa chuộng màu này, vận thế của bạn sẽ sa sút nhiều phần. Tuổi Ngọ Hợp: Màu xanh Kỵ: Màu xám Ngọ là Dương Hỏa, Tỵ là Âm Hỏa, cùng là hành Hỏa nên hợp nhất với bạn là Mộc; màu xanh là Mộc; do vậy bạn có thể dùng màu này cho thêm phần may mắn. Nhưng vì Thủy, Hỏa tương khắc nên màu xanh lá cây sẽ tốt hơn. Màu xám không hợp với mệnh của tuổi Ngọ trong năm nay. Tuổi Mùi Hợp: Màu đỏ Kỵ: Màu xanh lụcMùi là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa sinh Âm Thổ, do đó, vận mệnh của bạn năm nay khá tốt nhưng chưa phải là hoàn hảo. Để tăng cường vận thế, bạn nên sử dụng màu đỏ. Sắc màu rực rỡ này sẽ đem lại may mắn cho bạn, tăng phần vượng, giảm phần hung. Lại nói, Mộc khắc Thổ, Mộc là xanh lục, vì vậy, bạn nên tránh xa màu này.
Tuổi Thân
Hợp: Màu vàng cam Kỵ: Màu đỏ Thân là Dương Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Dương Kim, do vậy, vận thế của tuổi Thân năm nay khá bất lợi. Nếu “làm bạn” với màu vàng cam, thần may mắn sẽ luôn ở bên bạn. Màu đỏ là Hỏa, Hỏa khắc Kim nên bạn cần tránh màu này, chẳng hạn không nên trang điểm bằng sắc son đỏ đậm. Tuổi Dậu Hợp: Màu vàng Kỵ: Màu đỏDậu là Âm Kim, Âm Hỏa khắc Âm Kim, cùng là Âm nên khi lựa chọn màu sắc, bạn nên ưu tiên màu đậm. Đẹp nhất là màu vàng thuần túy, nhưng lại cực kỵ màu đỏ.
Tuổi Tuất
Hợp: Màu đỏ cam Kỵ: Màu đen Tuất là Dương Thổ, tuy Âm Hỏa có thể sinh Dương Thổ nhưng vì Âm Dương tương khắc, bạn nên chọn màu đỏ cam để vận thế thêm vượng. Mặt khác, Thổ khắc Thủy, nên màu đen là màu đại kỵ của bạn trong năm Quý Tỵ. Tuổi Hợi Hợp: Màu trắng Kỵ: Màu vàng Hợi là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, vì vậy, người tuổi Hợi có thể dùng Kim (sinh Thổ) để hóa giải. Màu trắng là Kim, do đó bạn dùng màu này là hợp nhất. Thổ màu vàng, Thổ khắc Thủy, để tránh xui xẻo, bạn tuyệt đối không nên vận trang phục hoặc sử dụng những vật có màu sắc tươi sáng này.
Theo trực giác, hãy chọn ra một hình bạn thấy ấn tượng nhất và click vào hình để xem đáp án:
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Maruko (theo Sina)
Có nhiều quan niệm cho rằng việc tỉa chân nhang phải tiến hành sau ngày 23 tháng Chạp, nhưng trong tục thờ cúng thì cũng không có quý định nào cho việc này.
Bàn thờ Gia tiên trong mỗi gia đình chính là nơi thể hiện cốt cách của từng nhà, từng dòng họ. Mặt khác đó cũng là bóng dáng chung của tâm hồn dân tộc Việt. Nét văn hóa tâm linh từ sâu thẳm tấm lòng gia chủ thể hiện qua bàn thờ. Bàn thờ gia tiên là một thánh thất tôn nghiêm, là nơi để chúng ta hướng về nguồn cội.
Hướng dẫn cách tỉa chân nhang ngày tết
Bởi vậy, việc chăm sóc bàn thờ gia tiên sao cho luôn sạch sẽ, gọn gàng chính là việc cần làm và phải làm thường xuyên. Đây là việc làm của mọi người trong nhà, ai làm cũng đều tốt, nhưng vì xuất phát từ tấm lòng thành kính với tổ tiên nên công việc này thường do người ông, cha hoặc các con trai trong gia đình thực hiện. Tùy trường hợp cũng có thể do con dâu con gái làm cũng được.
Khi bát hương đầy chân nhang, ta nên tỉa bớt đi. Cũng có nhiều nhà để chân nhang theo tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau trong một thời gian dài. Việc đó vừa không đẹp lại có thể gây khó khăn mỗi khi cắm hương. Thông thường việc tỉa chân nhang được tiến hành 2 lần trong một năm, một lần vào trước ngày giỗ trọng (giỗ cụ tổ, giỗ ông, giỗ cha…) và một lần chuẩn bị đón Tết cổ truyền. Bước sang tháng Chạp là có thể tỉa chân nhang, phần lớn sau rằm tháng Chạp là làm được.
Thời gian để tỉa chân nhang phải chọn ngày Hoàng Đạo, kỹ lưỡng hơn chọn ngày hợp với công việc tế tự hoặc ngày bách sự nghi dụng.
Trong thời điểm cuối năm Ất Mùi có thể chọn các ngày: 17 – 19 – 20 – 21 – 23 – 24 Tháng Chạp để tiến hành tỉa chân nhang, lau chùi bàn thờ và các đồ cúng tế (đèn, lư hương, bài vị, hoành phi, câu đối…)
Hình thức thực hiện
– Trước lúc tiến hành gia chủ thắp hương kính cáo tổ tiên, xin được tỉa chân nhang để đón Tết.
– Sau đó gia chủ chọn ra 5 chân nhang đẹp (thường chọn chân nhang còn cuốn tàn) cắm lại trên bát hương. Số tàn tro nếu nhiều có thể bỏ bớt đi, không nên để bát hương quá đầy tàn hương. Chân hương đã tỉa đem hóa cùng số hương trong năm quá nhiều còn lại.
– Sau cùng khi đã lau chùi dọn dẹp sạch sẽ xong, gia chủ tiến hành thắp hương kính cáo gia tiên công việc hoàn thành. Nếu có lễ nhỏ: Hoa quả, rượu trầu cau càng tốt. Không có cũng không sao. Tổ tiên không đòi hỏi, luôn chứng giám tấm lòng thành tâm của ta.
Một số điểm cần Lưu ý:
– Thường trong nhà có 2 bàn thờ: Bàn thờ gia tiên và bàn thờ ông Công đều phải tỉa chân nhang.
– Bàn thờ Gia tiên là chỉ thờ tổ tiên nhà mình. Việc để bát hương thần linh lên bàn thờ Gia tiên là không đúng. Có nhà lại để bát hương Phật bà quan âm nữa, như vậy càng không được. Bởi lẽ, tổ tiên nhà ta làm sao lại ngồi cùng Thần linh và Phật bà quan âm được! Muốn thờ Thần linh và Phật bà quan âm cần lập bàn thờ riêng.
– Một số nhà, bàn thờ có nhiều bát hương: Cụ tổ, ông, bà, cha, mẹ… Nên quy về một bát hương hội đồng thờ chung tất cả là tốt nhất.
– Bà cô, Ông mãnh là những người chết trẻ; dân ta quan niệm họ rất thiêng, nên phải thờ. Một quan niệm đầy tính nhân văn với những người không được hưởng lộc trời ban sống lâu. Bát hương bà cô ông mãnh, nếu để cùng bàn thờ gia tiên, phải thấp và nhỏ hơn bát hương gia tiên.
– Một số nhà không lập bàn thờ ông Công riêng, thờ chung trên bàn thờ gia tiên. Bát hương ông Công ở bên phải và cao hơn bát hương Gia tiên. Sự kết hợp này chưa thực sự hợp lý; nên có bàn thờ ông Công riêng biệt là tốt nhất.
– Hiện nay nhiều gia đình thờ cả bên đằng ngoại trên bàn thờ gia tiên. Việc này là hợp cách theo quan niệm mới: Nội Ngoại cân bằng như nhau. Vì nhà ngoại không có con trai. Con rể thờ cha mẹ vợ thể hiện tấm lòng báo hiếu.
Thiên Thọ gặp Thiên Lương lại ra một cách đặc biệt, tối thiểu trong đời phải bị một bận cửu tử nhất sinh mà thoát hiểm.
Thiên Thọ đóng cung phối ngẫu (Phu thê) thì vợ chồng tuổi chênh lệch rõ rệt, trên cả mười tuổi nếu chồng già vợ trẻ, trên bốn năm tuổi nếu vợ già chồng trẻ.
Thiên Thọ đóng cung huynh đệ, anh với em cách xa tuổi, như anh tám tuổi em hai tuổi (nói về anh em liền chứ không phải cả với út)
Thiên Thọ đóng các cung khác không đáng kể. Sao Thiên Tài cũng như ba thiện diệu trên cần phụ vào chính tinh nào đó, Thiên Phúc cần Thiên Đồng, Thiên Thọ cần Thiên Lương, còn Thiên Tài thì cần sao Thiên Cơ. Thiên Cơ gặp
Thiên Tài thông minh tài trí tăng gấp bội, đa học đa năng. Thiên Tài khả dĩ cải thiện những khuyết điểm của Thiên Cơ.
Thiên Tài cũng thuận với các sao Xương Khúc, Long Phượng để tăng gia kỹ năng, Thiên Tài đi với Thiên Thọ đóng Mệnh thì Thiên Thọ có tác dụng tạo tính cẩn thận, ẩn trọng, chấn tĩnh.
Thiên Tài gặp những chính tinh mang tính phù đãng phiêu lưu lại trở thành thông minh mà khinh bạc kiểu phong lưu tài tử, coi mọi sự là trò đùa, càng thông minh càng kém phúc.
Thiên Tài cần Thiên Phúc đứng bên để bớt rông rỡ. Thiên Tài đóng Thìn Tuất là lạc hãm, tác dụng tài hoa không còn nữa.
![]() |
không thận trọng có thể gây thất tán tài sản, hại đến sức khoẻ.
(1) Trên bàn ăn không nên dùng đèn hình cây nến
Một số loại đèn giá treo được làm bằng các cây nến trắng hình ống, tuy đây là loại đèn kiểu cách mới lạ thiên về giá trị thưởng thức, nhưng nếu để nó trên bàn ăn thì chắng khác gì xếp một đống nến trắng lên bàn, điều này thực sự là không tốt. Vì nến trắng tượng trưng cho chuyện tang lễ, để nó ở nơi mọi người trong nhà tập trung ăn uống thì hậu quả thật khó lường. Vì vậy phải hết sức tránh. Tuy nhiên với một số loại nến có màu sắc khác thì không hại gì.
(2) Không nên dùng bàn ăn làm bằng đá và thuỷ tinh
Bàn ăn làm bằng đá và thủy tinh cứng và lạnh, tuy cảm quan nghệ thuật của chúng mạnh nhưng nó dễ hấp thu nhanh năng lượng từ cơ thể người sau bữa ăn toả ra, sẽ không có lợi trong trường hợp mọi người ăn xong còn ngồi lại chuyện trò.
(3) Bàn ăn và ghế ngồi không nên để bị “đèn” ép
Vì khi người ta ngồi ăn có đèn ở trên đầu đè xuống sẽ ảnh hưởng đến tư duy, đồng thời cũng gây bất lợi cho phát triển sự nghiệp.
(4) Bàn ăn không nên đặt đối diện cửa chính
Bàn ăn đặt đối diện cửa chính dễ làm thất tán của cải trong nhà, phong thuỷ học về nhà ở đã cảnh báo “hỉ hồi triền kị xung”, nếu phạm sẽ dễ làm cho nguyên khí gia chủ thất thoát, vì thế mà ảnh hưởng lớn đến phong thuỷ. Nếu bàn ăn và cửa chính nằm trên một đường thẳng, đứng ngoài cửa đã nhìn thấy cả nhà ngồi ăn cơm, thật sự bất tiện.
(5) Bàn ăn không nên đối diện với phòng bếp
Bếp thường xuyên thải ra hơi dầu mỡ, nhiệt độ lại tương đối cao, bàn ăn đối diện với bếp sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ mọi người trong nhà, ví dụ dễ phát sinh các vấn đề về tâm lý như phiền muộn, tì khí nóng.
(6) Bàn ăn rất kị đối diện cửa phòng vệ sinh
Nhà vệ sinh theo phong thuỷ là nơi xấu “ô uế”, càng giấu kín được nó càng tốt, nếu để cửa nhà vê sinh đối diện với bàn ăn sẽ hại đến sức khoẻ mọi người trong nhà.
(7) Gần bàn ăn tránh bầy biện đồ vật ô tạp
Quá nhiều đồ vật ô tạp sẽ phá hỏng phong thuỷ bàn ăn và phòng ăn, dỗ làm cho gia đình bất hoà, ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng.
(8) Bàn ăn không đặt đối diện bàn thờ
Bàn thờ là nơi thờ cúng tổ tiên, nghiêm túc mà nói, không được bố trí nơi ăn của người phàm trần gần đó, âm dương chia lối, trần tiên khác biệt. Hơn nữa, nếu bàn thờ là nơi thờ cúng Quan âm, Phật tổ, do các vị này đều ăn chay và không sát sinh, đồ ăn của người phàm trần trước mặt họ lại là những thịt những cá, như vậy thật không hợp chút nào. Nếu có diều kiện, tốt nhất phải giữ một khoảng cách cần thiết giữa bàn ăn và bàn thờ.
(9) Làm thế nào để chọn được “hình” bàn ăn
Các thầy phong thuỷ cho rằng, bàn ăn kị ở chỗ bốn bên có góc. Kiểu bàn ăn vuông của người phương Tây là không phù hợp, nhất là với bàn ăn hình chữ nhật có 4 góc nhọn thì càng không hợp. Nếu bắt buộc phải dùng kiểu bàn hình chữ nhật thì hãy chọn dùng bàn góc tròn. Chi tiết có thể tham khảo các ý kiến sau:
– Bàn hình tròn: Bàn ăn hình tròn thích hợp với những gia đình bình thường vì nó có hiệu quả đối với đoàn tụ và hoà khí, nó tượng trưng cho sự công bằng, không phân biệt địa vị cao thấp. Mọi người trong nhà sẽ rất dễ hoà đồng, trò chuyện với nhau nếu sử dụng kiểu bàn này.
– Bàn hình chữ nhật: Loại bàn này chú yếu được sử dụng tại các gia đình khá giả hoặc những trường hợp vì điều kiện hạn chế về diện tích. Bất kể là nguyên nhân gì, gia đình dùng bàn ăn hình chữ nhật rất dễ tạo sự phân biệt chủ khách, có nghĩa là vị trí của người chủ trong nhà thường khá trội. Như vậv trong giao lưu tình cảm dễ xuất hiện hiện tượng mệnh lệnh, gia trưởng.
– Bàn hình vuông: Bàn ăn hình vuông rất ít gia đình sử dụng, nếu có sử dụng thì cũng chỉ vì một số nguyên nhân đặc biệt nào đó. Trong nhà dùng bàn hình vuông không những dễ xảy ra tình trạng xung đột và đối lập giữa mọi người mà còn có thể có hiện tượng thai nhi biến dạng. Bàn hình vuông chỉ có thể dùng được cho 4 người, vì vậy thường mang lại cảm giác cô quạnh.
– Bàn hình bầu dục: Gia đình dùng loại bàn này dễ xảy ra tình hình kéo bè kéo cánh của các thành viên. Tốt nhất là không dùng, đặc biệt là các gia đình lớn.
– Bàn nhiều cạnh hoặc cạnh không bằng nhau: Là loại bàn thường chỉ dùng trong một vài gia đình có diện tích nhà ở quá hạn hẹp, có thể nói là hiếm có. Gia đình sử dụng loại bàn ăn này rất dễ phiêu bạt bất định, các thành viên trong nhà phân tán, không đoàn kết, tình cảm rạn nứt.
► ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác |
![]() |
Ý nghĩa chung
Hồ điệp (Bướm) tượng trưng cho vẻ đẹp mỹ lệ, hạnh phúc, tự do, trường thọ, thành công.
Hồ điệp có dáng vẻ và màu sắc được mọi người yêu thích. Hồ điệp là loài côn trùng có đôi cánh đẹp, được mệnh danh là “đóa hoa biết bay”. Hồ điệp song phi, biểu thị sự hướng về, theo đuổi tình yêu tự do, hơn nữa hồ điệp là loài chung thủy, cả đời chỉ có 1 bạn đời, là một loài trung trinh trong giới côn trùng. Do đó hồ điệp tượng trưng cho sự mỹ lệ, hạnh phúc và tự do.
Chữ “Điệp” trong từ Hồ điệp gần âm với chữ “Điệt” có nghĩa trường thọ, do đó hồ điệp tượng trưng cho sự trường thọ.
Hồ điệp là được sinh ra từ sâu kén, hàm chứa ý vị thăng hoa từ xấu đến đẹp, do đó hồ điệp cũng tượng trưng cho sự thành công.