Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 100 được xây dựng trên điển cố: Tam Giáo đàm đạo hay Tam Giáo tranh luận.
Quẻ hạ thuộc cung Hợi. Nên duy trì trạng thái vốn có, hãy yên tĩnh chờ đợi thời cơ tới. Nếu có thể tích đức làm thiện, nghe theo bồ tát sẽ được bình yên cho bản thân.
Thử quái thủ thường vật động chi tượng. Phàm sự nghi đãi thời cát dã.
“Tam giáo” ở đây là chỉ ba học phái Nho, Phật, Đạo.
Thời kỳ Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung (543 – 578) tại vị, đã tiến hành một loạt cải cách trên các phương diện chính trị, kỉnh tế, quân sự. Năm Thiên Hòa thứ 2 (năm 567), Thục Quận Công là Vệ Nguyên Tung dâng thư nói rằng: “Nước yên không phải do tháp Phật. Thời Đường, Ngu xưa không có tháp Phật mà nước được yên, nước Tề, nước Lương ngày nay có chùa chiền mà vận nước mất. Nước Đại Chu khởi vận, hãy học theo cách giáo hóa của Đường, Ngu, mà bỏ phương pháp của Tề, Lương”. Ý kiến của ông nhận được sự khen ngợi của Chu Vũ Đế. Lúc này đạo sĩ Trương Tân cũng dâng thư xin xóa bỏ Phật giáo. Vì thế Chu Vũ Đế triệu tập quần thần cùng các danh tăng, đạo sĩ, để luận bàn về điểm mạnh yếu của Tam giáo, có ý hạ thấp địa vị của Phật giáo, đặt Nho giáo lên hàng đầu, tiếp đến là Đạo giáo, và Phật giáo cuối cùng. Lúc này người nắm giữ quyền lực lớn trong triều là Đại trùng tể(*) Vũ Văn Hộ. Do Vũ Văn Hộ rất tin theo Phật giáo, nên không đồng ý. Lại thêm các tín đồ Phật giáo như Đạo An, Quyên Loan dâng thư gièm pha Đạo giáo, vì thế, tuy đã qua nhiều lần thảo luận, nhưng Tam giáo vẫn chưa thể định vị.
(*) Đại trùng tể: Thời Tây Chu có đặt chức Thái tể, cũng gọi lả Đại trùng tể, hoặc Đại tể, là chức vụ đứng đầu các quan Trùng tể, đứng đầu trăm quan, tương đương với chức Tể tướng hoặc Thừa tướng sau này.
Năm Kiến Đức thứ nhất (năm 572), Chu Vũ Đế giết Vũ Văn Hộ, bắt đầu nắm quyền triều chính. Tháng mười hai năm sau, lại triệu tập các quần thần, đạo sĩ, danh tăng tiến hành luận bàn. Do các danh tăng như Tăng Diến, Tăng Mãnh, Tĩnh Cát hăng hái đấu tranh, ra sức gièm pha, bài xích Đạo giáo, lại khiến cho vị trí của Tam giáo chưa được sắp xếp.
Tháng năm năm Kiến Đức thứ 3 (tức năm 574), Chu Vũ Đế lại triệu tập các quần thần, đạo sĩ, danh tăng tiến hành luận bàn. Lần này Chu Vũ Đế chỉ muốn bài xích Phật giáo, nhưng do những người như Đạo An, Quyên Loan, Trí Huyền chỉ ra những điều huyền hư không thực tế trong giáo nghĩa và phương thuật của Đạo giáo, nên đã hạ chiếu rằng: “Cấm hai giáo phái Phật và Đạo, thiêu hủy kinh tượng, giải tán các tăng ni, đạo sĩ, buộc phải hoàn tục.” Sau khi chiếu lệnh phát ra, lập tức được thực thi.
Tháng sáu năm ấy, Vũ Đế lại hạ chiếu thiết lập Thông Đạo quán khiến cho “những lời lẽ sâu xa của bậc thánh triết, những giáo huấn mẫu mực của bậc tiên hiền, những chữ nghĩa vàng ngọc, những lời lẽ bí mật, có thể cứu giúp được lê dân, phát triển thành giáo lý, nên được xiển phát, lấy một điều để quán xuyến tất cả”. Các học sĩ của Thông Đạo quán tống cộng có một trăm hai mươi người, nhiệm vụ của họ là nghiên cứu triết lý của Tam giáo, xem xét những “chí đạo” sâu rộng và “lý cực” huyền diệú, nhằm mục đích nối lại khoảng cách giữa Tam giáo.
Thông Đạo quán: Sau khi phế bỏ hai tôn giáo Phật và Đạo, thiết lập cơ cấu này để bảo tồn sự lưu truyền của hai tôn giáo này.
![]() |
| Bạn mơ thấy đàn ông có mái tóc vàng hoe là điềm may mắn đấy nhé |
| ► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Do ảnh hưởng giao lưu về kinh tế, văn hóa trong lịch sử, cho nên một số phong tục tập quán của Trung Hoa được cha ông ta khơi trong gạn đục, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác, làm giàu có, phong phú hơn đời sống tâm linh, tinh thần. Trong những tục lệ đó có tục lệ thờ Tam Đa.
Tam đa là gì? Bắt nguồn từ đâu? Có nguồn gốc xuất xứ như thế nào? Ý nghĩa ra làm sao?
Xin thưa, Tam đa chính là ba ông Phúc, Lộc, Thọ mà nhân dân ta vẫn hay treo tranh đặt tượng để thời theo phong thủy. Bàn về nguồn gốc xuất xứ của ba vị thần này thì có hai thuyết.
Thuyết thứ nhất bắt đầu từ thời thượng cổ Trung Hoa, giai đoạn đăng cơ trị vì của Hoàng đế Nghiêu. Sử sách Trung Hoa, hay các truyền thuyết ghi lại rằng. Vua Nghiêu là một bậc thánh đề, hiền minh sáng suốt, ông có công lao rất lớn, trong lịch sử Trung Hoa. Dưới thời kỳ trị vị của ông, khắp cõi Hoa Hạ không bị chiến tranh, thiên tai, bệnh dịch tàn phá. Cuộc sống nhân dân no ấm đầy đủ, ngoài đường người ta không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa. Vì trái tim nhân ái, và trí tuệ thần thánh của mình Vua Nghiêu mang lại sự no ấm, thái bình thịnh trị, hạnh phúc, an lạc của muôn dân. Trong Nho giáo, hay trong văn học cổ điển có những câu ca ngợi thời kỳ huy hoàng của nhân dân Trung Quốc thời kỳ đó và nó trở thành một niềm khát vọng, mơ ước của tất cả mọi thời đại.
Một năm, vào dịp Tết, Vua đi tuần thú để xem cảnh núi non và thăm hỏi cuộc sống của trăm họ. Có một viên đại thần yết kiến và chúc vua: Đa phúc, sinh được nhiều con trai ! Đa lộc, giàu có thịnh vượng, nhiều của cải ! Tuổi thọ, sống lâu muôn tuổi…!
Vua nghe vậy và than rằng: Nhiều con trai thì sẽ phải lo lắng nhiều. Nhiều của cải thì sẽ phải suốt ngày bận rộn, chẳng phút thảnh thơi (quản lý và phát triển để nó sinh lời). Sống càng lâu, thì càng phải trải nghiệm nhiều, tâm tư nhọc nhằn lo toan, mặt mày dầy dặn. Vua không nhận lời chúc đó, mà nhường lời chúc đó cho muôn nhân trăm họ.
Từ đó nhân dân Trung Hoa có tục lệ thờ Tam đa, tức là thờ ba ông Phúc, Lộc, Thọ.
Thuyết thứ hai cho rằng: Ba ông Phúc – Lộc – Thọ là ba nhân vật có thật trong lịch sử Trung Hoa, khi mất được nhân dân tôn làm thần và thờ phụng.
Ông Phúc: Là nhân vật lịch sử Quách Tử Nghi.

Chân dung Phần Dương vương - Quách Tử Nghi
Quách Tử Nghi sống vào thời nhà Đường. Ông sinh năm 697, mất năm 781. Xuất thân trong một gia đình quý tộc. Ông làm quan dưới 4 đời vua Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông, Đường Đại Tông và Đường Đức Tông. Ông được phong là Phần Dương vương, có công dẹp loạn An Lộc Sơn – Sử Tử Minh, chống lại sự xâm lấn của bộ tộc Thổ Phiên…
Sinh thời ông là một viên tướng thao lược, dũng mãnh nhưng ông cũng là một người không chủ chiến, thường dùng ngoại giao hay mưu lược để thắng giặc, hạn chế tổn thất về xương máu cho binh sỹ hai bên. Không chỉ là tướng tài, ông còn là một viên đại thần có tài lương đống, kinh bang tế thế, giúp vua sủa sang về chính trị, phát triển về kinh tế. Về đời sống hàng ngày, dù xuất thân là quý tộc, ruộng vườn thẳng cánh cò bay, của cải rất nhiều, địa vị cao trong triều đình, nhưng ông luôn có nếp sống, giản dị, tiết kiệm và khiêm tốn. Cựu Đường thư ghi lại về ông rằng: “Công lao trùm thiên hạ mà chủ không nghi ngờ. Địa vị vượt muôn người mà không ai đố kỵ”.

Quách Tử Nghi trên sa trường
Ông mất khi ngoài 80 tuổi, con cháu rất đông đúc, nhiều người là nhân tài, trụ cột của quốc gia. Có tới 8 người con trai, có người làm phò mã trong triều, và có cả cháu chắt. Người như ông, công danh phúc quý đều song toàn, cuộc sống cuối đời lại được dự khán sự trưởng thành của con cháu, được con cháu chăm sóc chu đáo và ra đi trong sự thanh thản, nhẹ nhàng, không có gì luyến tiếc.
Vì vậy, sau khi ông mất, nhân dân tôn ông là ông Phúc, cai quản những điều may mắn, phúc đức, có thể gặp dữ hóa lành, phùng hung hóa cát. Cầu khấn ông với mong ước gặp được phước lành, may mắn, thuận lợi trong cuộc sống, đồng thời cũng ca ngợi đề cao đạo đức, đề cao lòng nhân ái độ lượng, khuyên răn người sau nên học tập theo tấm gương của ông.
Ông Lộc: Là thần cai quản của cải tiền bạc. Hình ảnh của ông này thường đứng cạnh một con hươu, vì trong Hán văn, con hươu phát âm là Lộc, được tượng trưng cho của cải luôn. Ta thường nghe cụm từ: Chém rắn, đuổi hươu (Tranh giành lợi lộc mở mang bờ cõi cương thổ), hay: Nhà Tần sổng mất con hươu, thiên hạ tranh nhau đuổi bắt (là ý nghĩa như vậy).
Ông Lộc có tên thật là Đậu Từ Quân, ông làm Tể tướng đời Nhà Tấn. Ông này là người tham lam, suốt cuộc đời làm quan của mình ông chỉ lo vơ vét, đục khoét, tham nhũng, bòn rút, bóc lột nhân dân, nhận hối lộ, xoay sở đủ mọi mưu kế, biện pháp để kiếm tiền. Ông rất là giàu có, của cài tài sản không thể nào kể hết. Thế nhưng khi già cả đến 80 mươi tuổi ông vẫn không có cháu đích tôn nối dõi.
Ông bị bệnh nằm liệt giường lâu ngày, thịt da hoại tử, con cái của ông không dám đến gần để chăm sóc, khi ấy ông mới than thở rằng, giàu có và của cải chất như núi như vậy rồi cũng để làm gì.
Nhân dân thờ ông là thần cai quản tài lộc. Nhưng xưa nay, tài và phúc vốn trái ngược nhau, rất khó dung hòa được. Một ví dụ điển hình là khi kinh doanh buôn bán, muốn giàu có thì kiểu gì cũng phải có mánh mung, thủ đoạn, nếu ngay thẳng thật thà rất khó trở thành giàu có. Bởi vậy các nhà đẩu số thường có thuật ngữ: Kích tài giảm phúc là vì thế.
Trong cuộc sống, con người ta không thể nào thiếu lộc, từ người lao động, đến doanh nhân, trí thức, ai cũng cần phải có lộc mới sống được. Tuy nhiên, của cải bất chính như Đậu Từ Quân kiếm được nó tỷ lệ nghịch với phúc đức và hậu vận về sau. Nhà chính trị Đặng Tiểu Bình có nói: Giàu có là vinh quanh. Chúng ta thờ ông Lộc, với mong ước để ông phù hộ, độ trì cho chút lộc, gặp được may mắn trong làm ăn, công tác. Tài vận được cải thiện và tươi sáng hơn một chút. Nhưng ông Lộc cũng là lời cảnh tỉnh hay tấm gương cho những kẻ vì lợi mà mù quáng, cận thị xem xét lại bản thân và tính ngộ

Hình ảnh ông Lộc
Ông Thọ: Là vị thần cai quản tuổi thọ và sức khỏe trong nhân gian. Ông là Đông Phương Sóc, đại thần thời vua Hán Vũ Đế.
Đông Phương Sóc làm quan dưới thời vua Hán Vũ Đế, sinh thời ông là người uyên bác, thông kim bác cổ, văn phong nói chuyện rất hài hước. Và vì thế ông luôn khéo léo can gián Hoàng đế, và đả kích mỉa mai đám tham quan ô lại.
Về cuộc sống của ông, Sử ký của Tư Mã Thiên ghi rõ, tính ông hay bông bùa, cử chỉ hay hước, tự nhiên, không câu nệ tiểu tiết. Mỗi khi được Vua phong thưởng ông đều dành hết tiền đó để cưới những cô gái trẻ. Nghe đồn, ông là người theo đạo giáo, có thể, cưới vợ trẻ để điều hòa hai khí âm dương, giúp ông trẻ lâu sống thọ. Ông thọ tới 125 tuổi, trước khi ngao du chốn bồng lai tiên cảnh, ông còn cưới thêm một cô vợ 17 tuổi nữa. Có lẽ vì lối sống phóng khoáng, ít lo toan suy nghĩ, tác phong thích bông đùa hài hước mà ông không mấy khi bị căng thẳng, cộng với phương pháp dưỡng sinh của đạo gia nên tuổi thọ ông mới cao như vậy.
Người ta nói: một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Hơn nữa, nhờ phong cách đó mà ông can gián vua thành công, lại không làm vua nổi giận mà bắt tội.
Khi ông mất thì chắt đích của ông đứng ra tổ chức tang lễ cho ông. Người ta thờ ông với mong ước có được sức khỏe, tuổi thọ. Người còn trẻ thì cần sức khỏe để lao động, công hiến, người gia cả cần sức khỏe để dự khán sự thành công của con cháu. Hình ảnh của ông thường đứng cùng một con chim hạc. Một loài chim trong truyền thuyết tượng trưng cho tuổi thọ.

Chân dung Đông Phương Sóc
Trong thực tế cuộc sống, người ta ghép ba ông lại với nhau, ông Đa Phúc có diện mạo phúc đức nhân từ, tay bế đứa trẻ con, ông Đa Lộc tay cầm ngọc bài, trang phục rạng rỡ, rất mập, đứng cạnh một con hươu và mấy đĩnh vàng, tượng trưng của phú quý, của cải, giàu có. Ông Đa Thọ, râu tóc trắng như cước, tay cầm gậy thổ địa và có trái đào tiên. Người ta thờ ba ông với mong ước cuộc sống của mình đều đạt được cả phúc, lộc và tuổi thọ nữa. Tuy nhiên trong cuộc sống, rất hiếm người đạt được viên mãn, đầy đủ cả ba điều tốt trên.

Theo phong thủy số, nhân dân thờ ba ông này thể hiện khát vọng, ước mơ của cá nhân với cuộc sống và thế giới chân thiện mỹ. Đồng thời, cũng là một nét đẹp có tính giáo dục đạo đức và hướng thiện rất cao.
Tết Trùng Cửu hay còn gọi là Tết Trùng Dương vào ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch hàng năm. Cũng như nhiều ngày lễ, tết khác ở Việt Nam, ngày Tết Trùng Cửu được bắt nguồn từ Trung Quốc rồi du nhập vào nước ta. Thời kỳ Lý – Trần, nho sĩ Việt Nam cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương.
“Năm ngoái giữa rừng không có lịch
Nhìn hoa cúc nở biết trùng dương”
Câu thơ trên là của một Vị thiền tăng nổi tiếng của Việt Nam, gắn liền với một ngọn núi – núi Yên Tử – nơi phát tích một dòng thiền của Việt Nam – dòng thiền Trúc Lâm nổi tiếng với tứ quý “Tùng, Cúc, Trúc, Mai”. Bây giờ ít có nơi tổ chức Tết Trùng Cửu và biết về một phong tục khá phổ biến xưa kia, mang nhiều nét đẹp về văn hóa cũng như đối với sức khỏe,đời sống.
Không phải ngẫu nhiên mà Tết trùng cửu vào ngày mồng 9 tháng 9. Theo quan điểm dân gian cửu (số 9) là số dương và là đỉnh cao nhất trong một vòng lặp, một chu kỳ (như cuộc đời chẳng hạn). Bất cứ cái gì đạt đến số 9 là đã đạt đến đỉnh cao nhất và là tốt nhất, trân quý nhất. Trong truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, khi thách cưới Vua Hùng cũng ra lễ thách cưới bao gồm:
“Voi 9 ngà, Gà 9 cựa, Ngựa 9 hồng mao”
Tết Trùng cửu lại lấy sự lặp của hai số 9 càng nói lên một thời điểm ở đỉnh cao nhất. Đó là tiết khí cao nhất, đẹp nhất trong mùa của một năm. Đó là sự trường thọ trong cuộc sống.

Đăng cao hay Đăng sơn có nghĩa là leo núi - Một phong tục đặc sắc trong ngày Tết Trùng Cửu
(Hình minh họa)
- Tết Trùng Cửu còn có một cách nói khác là ‘Từ thanh’, có nghĩa là ‘tạm biệt thảm cỏ xanh’. Sau ngày Trùng Cửu tiết trời bắt đầu sang mùa đông. Điều này cũng lý giải đúng với quan điểm “cực thịnh tất suy” của cổ nhân, qua thời điểm đẹp nhất của thời tiết mùa thu trong một năm là mùa đông lạnh lẽo, hoang tàn. Cây cối mất đi sức sống, héo rũ, úa vàng không thích hợp để đi chơi. Vì thế, tết Trùng Cửu cũng là cơ hội đi chơi, thưởng ngoạn sau cùng của mọi người khi thời tiết sang đông. Nhân dịp tết Trùng Cửu, nhiều người thường đến vùng ngoại thành để leo núi, thưởng ngoạn phong cảnh, hít thở bầu không khí trong lành. Và phong tục “Đăng sơn” hay “Đăng cao” vào ngày Tết Trùng Cửu có lẽ cũng bắt nguồn từ đó. Cổ thi đã có câu: "Gặp ngày Trùng Cửu đăng cao" là như vậy.

Hoa Cúc - Loài hoa tượng trưng của Tết Trùng Cửu
- Một phong tục khác cũng được thực hiện trong ngày Tết Trùng Cửu là ngắm hoa cúc, uống rượu hoa cúc và đeo cành thù du. Tương truyền bên Trung Quốc có rất nhiều điển tịch, truyền thuyết về phong tục này. Nhưng truyền thuyết thì cuối cùng cũng chỉ là truyền thuyết mà thôi. Các nhà nghiên cứu cho rằng những câu truyện truyền thuyết của nguồn gốc các phong tục tập quán dân gian loại này, phần lớn đều có sau các phong tục dân gian. Người ta không hiểu những phong tục này vì sao lại sinh ra và lưu hành, nên mới dựng ra một câu chuyện để giải thích hoặc kèm theo khi câu chuyện lưu truyền để tạo ảnh hưởng rộng rãi trong dân gian. Trải qua một thời gian dài, người đời sau không còn biết, thế là giả thiết biến thành thật.
Thực tế theo các nhà nghiên cứu, Tết Trùng Dương uống rượu cúc hoa, đeo cành thù du cũng có tác dụng giống như Tết Đoan Ngọ uống rượu hùng hoàng và treo cành xương bồ, trần ngải. Mục đích là phòng trừ bệnh tật, côn trùng. Sau ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch, thời tiết thay đổi, mưa lất phất, trời âm u, đêm – sáng trở lạnh, trưa vẫn còn nóng. Vào lúc chuyển mùa mọi vật dễ trúng độc, con người dễ sinh bệnh tật, cảm cúm. Vì thế, vào thời gian này phải hết sức chú ý phòng côn trùng, phòng nóng lạnh. Mà rượu cúc hoa có tác dụng bình can (gan), sáng mắt, giải nhiệt, tiêu độc, giải cảm. Mùi của cây Thù Du có tính cay nóng, đắng, hương thơm, có thể đuổi muỗi, sát trùng trị hàn (lạnh), khử độc. Qua đó có thể thấy, vào tiết này, đeo thù du, uống rượu cúc hoa rất có lợi cho sức khỏe con người. Đây chính là ý nghĩa quan trọng của phong tục uống rượu cúc hoa và đeo thù du đối với con người vào mùa thu./
Có một cuộc hôn nhân hoàn mỹ lâu dài, chung sống với nhau tới đầu bạc răng long, vợ chồng hòa thuận, con cái tốt đẹp là hi vọng của tất cả mọi người. Hôn nhân là sự ràng buộc về tình cảm, trách nhiệm, không ai mong muốn gãy vỡ nhưng đâu phải muốn là được. Ngoài tình yêu còn cần rất nhiều sự nỗ lực, trong đó nỗ lực cải thiện phong thủy hôn nhân, giảm thiểu những tác động xấu từ bên ngoài cũng là một yếu tố quan trọng.
![]() |
![]() |
![]() |
Đền Voi Phục tọa lạc tại số 261, Đường Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội. Đền Voi Phục là một ngôi đền trong Thăng Long tứ trấn của thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây kinh thành). Đây là một nét độc đáo thu hút khách thập phương tới địa danh tâm linh này.
Lịch Sử: Đền được lập từ thời Lý Thái Tông (1028-1054) ở góc phía tây nam thành Thăng Long cũ thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ. Thờ hoàng tử Linh Lang, con của vua Lý Thái Tông, và bà phi thứ 9 Dương Thị Quang, nhưng tương truyền vốn là con của Long Quân, tên gọi là Hoàng Châu, thác sinh, là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, và đã hi sinh trên phòng tuyến sông Cầu vào năm 1076.
Sau khi mất, được người dân Thủ lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang đại vương thượng đẳng phúc thần. Thần đã nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, và nhà Lê trong cuộc phục hưng. Vì trước cửa đền có đắp 2 con voi quỳ gối nên quen gọi là đền Voi Phục và vì đền ở phía tây kinh thành nên còn gọi là trấn Tây hoặc trấn Đoài (Đoài, theo bát quái thuộc phương Tây).
Kiến Trúc: Đường lên sân đền có ba lối, chính giữa có 12 bậc đá rộng, nơi chỉ để rước kiệu trong ngày lễ, bình thường đi hai lối bên. Trước mặt lối giữa là một giếng vuông mang ý nghĩa tụ thuỷ tụ phúc, nơi xưa kia lấy nước cúng (có lẽ giếng đã được sửa thành vuông trong thời gian gần đây). Ý nghĩa cầu nước và cầu no đủ còn được thể hiện ở đôi rồng mây “chạm tròn” bằng đá, một sản phẩm khoảng giữa thế kỷ XIX và đôi hổ phù gắn hai bên tường cửa chính được chạm nổi, mang nét chuẩn mực.
Đền Voi Phục có dạng chữ Công. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì chồng rường, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đường 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với hậu cung. Dưới ngai thờ thần là tượng 2 vị tuỳ tướng quỳ chầu. Hậu cung cũng 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là pho tượng đức Linh Lang Đại vương với nét mặt thanh tú, cao sang. Phía trước pho tượng Ngài là một hòn đá lớn được đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tượng 2 vị phụ tá đứng chầu. Trong đền, ngoài các pho tượng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai, cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí. đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Ngoài ra, đền Voi phục còn sở hữu 9 cây muỗm đại cổ thụ nằm ngay trước sân đền.Những cây muỗm này có tuổi khoảng 700 năm. Cả 9 cây đều được trồng cùng với việc xây dựng ngôi đền Voi Phục từ thời nhà Lý.
Lễ hội của đền là một cuộc sinh hoạt văn hoá thường niên, mang tính chất mở, với sự tham gia của thập phương, vượt ra ngoài không gian đất Thủ Lệ, ít nhất là vùng Thuỵ Khuê, Thủ Lệ, Vạn Phúc rồi vùng Thập tam trại và cả Bồng Lai (Đan Phượng – Hà Tây) – lễ hội chính của đền Voi Phục diễn ra vào ngày 9 và 10 tháng hai âm lịch., từng năm có thể kéo dài từ 3 tới 10 ngày tuỳ theo sự đóng góp của dân, đáng kể nhất là việc
Đền Voi Phục đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần và ngôi đền hiện nay khang trang hơn so với ngôi đền cũ bị thực dân Pháp phá hủy năm 1947, được trùng tu năm 2000,2009. Đền được tách hẳn khỏi công viên thủ lệ, toạ lạc trên gò Long Thủ giữa một khu đất rộng, dưới xum xuê cành lá. Mặt tiền trông ra hồ thủ lệ mênh mông gợn sóng. Đền Voi Phục được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962.
Trong lịch sử, đền Voi Phục như một trấn thiêng ở phía Tây của thành Thăng Long, đền không chỉ liên quan trực tiếp với Kinh đô mà nó đã hội vào bản thân rất nhiều dòng chảy của tín ngưỡng dân gian để tồn tại với thời gian, hiện nay khó ai có thể nắm bắt được hết những ý nghĩa thiêng liêng của kiến trúc mang vẻ đẹp thánh thiện này, chỉ biết rằng, đền Voi Phục, từ nay sẽ luôn được tôn tạo xứng đáng, vì đó là một điểm sáng trong tinh thần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
4. Họa cho tài sản: thường hay xuất hiện ởhai cung Điền và Tài,ở những cung chiếu Điền(Tử, Tật, Bào), chiếu Tài(Phúc, Quan, Mệnh), cung Thânvà các cung Hạn.
a. Những đại họa tài sản:
Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: trong bối cảnh một cung Điền hay cung Tài xấu vì chính tinh hãm địa, sự hiện diên của 1 trong 2 sao hoặc của cả 2 sao này báo hiệu hiểm họa lớn lao cho tài sản, họa lớn, có tính chất bất khả kháng, ảnh hưởng đến nhiều người cùng một lúc. Có thể hình dung Không Kiếp như một tai họa chiến tranh làm tiêu tán tài sản, nạn lạm phát đồng tiền, thiên tai lớn, hành vi pháp lý của Nhà nước có hậu quả nặng nề đến cuộc làm ăn của toàn dân, việc quốc hữu hóa các công ty thương mại ... Mặt khác, Không Kiếp còn có thể tượng trưng cho sự cướp của, sự hủy hoại tài sản cá nhân, sự đốt nhà, phá hoại hoa màu ... Nếu hội với sao xấu như Phá Toái, Kiếp, Sát thì hệ số họa sẽ lên cao, nguy hiểm nhiều hơn. Càng hội tụ nhiều, số lượng càng chồng chất, họa vô đơn chí.
Thiên Không: hậu quả của Thiên Không trên tài sản cũng gần tương đương như Địa Không, nhất là khi tọa thủ ở Tài, Điền và nhất là khi gặp thêm hạn xấu. Hội với Địa Không, Địa Kiếp, sức tác họa càng dữ thêm, có hại đến cả sinh mạng. Thông thường, Thiên Không rơi vào cung hạn thì tác họa mạnh mẽ hơn bình thường: các dự định đều thất bại, sự nghiệp sa sút, mua bán thua lỗ, mất của thường do lường gạt, lừa đảo, có khi vướng vào tù tội.
Tuần, Triệt đồng cung ở Điền, Tài: dù Điền hay Tài có chính tinh hay không, có cát tinh đi nữa thì cũng không quân bình được bất lợi của cả Tuần lẫn Triệt đồng cung. Hai sao này hợp nhất phối hợp phá hoại tài sản đến cùng. Gặp chúng, cá nhân không có di sản, dù có cũng bán hết hoặc không thể thụ hưởng, thường phải tự lực lập nghiệp nhưng có rồi lại dễ mất ngay vì họa, hoặc vì túng thiếu. Đây là bộ sao điển hình của vô sản.
Kình Dương, Đà La hãm địa: cũng báo hiệu họa tài sản, dưới hình thức phá tán tổ nghiệp, điền trạch cũng như tiền bạc. Đi với Không, Kiếp, Thiên Không, ý nghĩa họa càng chắc chắn hơn và họa nhất định nặng hơn. Đặc biệt vào cung hạn, nếu Kình Đà gặp Lưu Kình, Lưu Đà thì họa đến mau chóng và khủng khiếp. Nếu Kình Đà và hai sao Lưu lại tọa thủ hoặc xung chiếu vào Điền, Tài thì họa vào sản nghiệp hiện có thay vì di sản.
Hỏa Tinh, Linh Tinh: chỉ riêng mối họa lửa, dù Hỏa Linh đơn thủ hay hội họp với sát hao tinh khác. Hai sao này đi chung với một số sao khác cũng mang ý nghĩa tương tự như: Hỏa Kiếp Cơ, Hỏa Tang, Linh Hình Việt, Phi Hỏa, Cự Hỏa, Cơ Hỏa, Hỏa Linh Tướng Binh. Chỉ riêng bộ sao Hỏa Tướng Binh hay Linh Tướng Binh có nói ít nhiều đến nguyên nhân hỏa hoạn: đó là việc gian phi đốt nhà, đốt ruộng, đốt hoa màu, hàng hóa.
Lưu Hà: thủy họa đối với tài sản, đi chung với Địa Không, Địa Kiếp chỉ tại họa lớn: nước lụt đắm tàu, hoa màu úng thủy, hàng hóa bị ngập nước ...
Đại Hao, Tiểu Hao: Trừ phi đắc địa ở Mão, Dậu (có tiền của dồi dào), Nhị Hao bao giờ cũng phá tán của cải, hao hụt điền sản thường là do cái đà ăn xài quá lớn không kìm hãm được nữa. Song Hao ở Điền, Tài thường xuyên có chuyện tốn kém, lớn có nhỏ có và liên tiếp. Sự hao tán của bộ sao này gần như triền miên. ở Điền, Nhị Hao ngụ ý phải lo "một kiểng hai huê". ở Tài thì luôn luông có chuyện phải tiêu lớn, tiêu nhỏ. Nếu Thiên Không tối kỵ ở cung Quan thì Nhị Hao tối kỵ ở cung Tài và cung Điền. Ngoài ra, về bệnh tật, Nhị Hao phải tốn vì một bệnh trầm kha, tái đi tái lại nhiều lần, thường là bệnh về bộ máy tiêu hóa tương đối nặng.
Tướng, Binh, Kiếp hay Không: chỉ họa cướp của. Đóng ở Điền, Tài, đương số sẽ bị cướp đến khảo của, phá nhà, tống tiền, có thể bị thanh toán. Nếu có thêm Tả Hữu thì thường có nội gián, tòng phạm lâu la đông đảo. Bộ sao này cũng nói lên trường hợp bị cưỡng bách đóng thuế bằng cách hành hung, đe dọa sinh mạng hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc. Trong trường hợp có bắt cóc tống tiền thì thường có Thiên Hình đi kèm.
b. Những tiểu họa tài sản:
Phục Binh: điển hình cho sự mất trộm. Cung Điền, Tài bị sao Binh trấn đóng hay hội chiếu thường bị người khác lấy của bằng cách trộm, lừa đảo, ăn chặn, quỵt hụi, trốn nợ, giựt đồ, móc túi ... Có khi tai họa không do thủ phạm mà do sơ xuất của chính mình, dù sao cũng là sự mất mát ngoài ý muốn của sở hữu chủ.
Binh, Tả, Hữu: có tòng phạm giúp đõ, chỉ dẫn, dụ dỗ, đánh lừa để lấy đồ bằng mưu chước xảo quyệt. Có khi Tả Hữu còn chỉ tôi tớ trong nhà, làm nội ứng chỉ điểm cho gian phi, hoặc chính người giúp việc trộm cắp của chủ nhân. Bộ sao này cho thấy việc đánh cắp có tổ chức, có kế hoạch.
Thiên Không: đứng riêng rẽ, sao này chỉ tên lưu manh, gian hùng, xảo quyệt, có nghĩa tương tự như Phục Binh. Nếu cả hai cùng hội tụ thì đây là cách gian phi họp đang, tác họa nhiều hơn.
Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ, Hóa Kỵ: chỉ hao tài sản do sự lường gạt, phản bội, hoặc do kiện tụng mà hao hụt của cải, kiện tụng về tài sản cụ thể như bị xử ép, chia của không sòng phẳng, thanh toán không phân minh. ứng vào điền sản, những sao này cho thấy phải có tranh chấp về đất đai, ruộng vườn, phải tốn tiền vì điền thổ mới có của, phải kiện thưa mới đuổi được người cư ngụ bất hợp pháp mới cất được nhà. Cũng có thể nhà, đất của mình không có lai lịch phân minh, bị tố tụng, thưa kiện và có khi thất kiện phải mất đất, trả nhà.
Thiên Hình: ở Điền, Tài, sao này chỉ họa của người bị bắt giam vì tài sản, bị họa lụy vì tiền bạc hoặc nếu là điền sản thì có thể bị tịch thu, tịch biên. Đây là trường hợp những người bị bắt để đổi tiền chuộc mạng, của bọn khảo của, tống tiền, thu thuế bằng bạo hành, đe dọa. Nếu đương số làm nghề tài chính, thì Hình sẽ ứng vào các vụ biển thủ, quản lý sơ suất để mất tiền phải bị ra tòa, đền tiền. Nếu ở cung Điền, nhà đất dễ bị tịch thu, sai áp, niêm phong do một án tiết cá nhân, có liên quan đến của cải bất hợp pháp hoặc đến uy thế chính trị suy sụp. Nếu ứng vào cơ thể có nghĩa thương tích thì ứng vào điền trạch cũng có nghĩa bế tỏa như vậy. Bị Thiên Hình, cơ xưởng, làm ăn có thể bị sai áp, quốc hữu hóa, trưng dụng, trưng thu. Nếu có thêm sát tinh khác, đây có thể là đại họa.
Điếu Khách, Văn Xương, Văn Khúc: chỉ họa hao tài vì đánh bạc, thông thường có đi đôi với Song Hao, hoặc Khốc Hư, Tang Hổ, Xương Khúc thì thỉnh thoảng có đỏ đen, còn Điếu Khách thì máu cờ bạc quá nặng đến nỗi trở thành tập quán khó chừa, lấy đổ bát làm sinh kế và chắc chắn cũng vì đổ bát mà tán tài, tán điền.
Hỏa, Linh với Song Hao: họa tài sản bắt nguồn từ bệnh nghiện thường là nghiện á phiện, ma túy, rượu, rất nguy kịch cho của cải và sức khỏe. Không cần gì phải có cả Hỏa và Linh với Song Hao, chỉ cần Hỏa hay Linh cũng đủ.
Đào, Hồng với Song Hao: họa tài sản do gái/trai tạo ra. Đây là hoàn cảnh của các chàng hào hoa bị dại gái bị lừa gạt, phải chi khá nhiều để chu cấp cho gái hoặc phụ nữ mê trai cũng chu cấp cho các chàng thất nghiệp. Đào Hồng ở Tài, Điền thì phải tốn tiền ít nhiều cho tình nhân, nếu có Song Hao thì chi phí lớn theo tỷ lệ túi tiền của nạn nhân.
Đền Sinh, Đền Hóa là quần thể di tích thờ Thánh Phi Bồng, hay đức Thánh An Mô, thời Nguyễn thuộc địa phận xã An Mô, tổng Chi Ngại, nay là thôn An Mô, xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Di tích cách chùa Côn Sơn 1km về phía Bắc.
Đền Sinh – Đền Hoá nằm trong tuyến du lịch và hành hương ngoài trời của quần thể Côn Sơn – Kiếp Bạc và Chí Linh bát cổ. Từ Đền Sinh lên đỉnh núi Ngũ Nhạc nhìn về phía Nam ngay cạnh là Côn Sơn, xa hơn có khu núi Phượng Hoàng, ở đó có đền thờ nhà giáo Chu Văn An và đền thờ Bà Chúa Sao Sa – Nguyễn Thị Duệ – nữ tiến sỹ đầu tiên của Việt Nam.
Từ núi Phượng Hoàng chếch về phía Tây là Đền Kiếp Bạc, sông Lục Đầu. Nhìn về phía Tây Bắc Đền Sinh, quý khách sẽ thấy dẫy núi Lục Ngạn trập trùng dưới những cánh đồng lúa ngô bát ngát xanh tươi . Phía đông Đền Sinh có làng Cổ Chi Ngại, quê hương đầu tiên của dòng tộc Nguyễn Trãi, xa nữa …
Căn cứ lịch sử và thần tích thì đền Sinh, đền Hoá ra đời từ thế kỷ VI. Nhưng hiện nay, di tích chỉ còn lại kiến trúc xây dựng vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đền Sinh và Đền Hoá toạ lạc trên sườn núi Ngũ Nhạc, cả vùng này, từ lâu đã trở lên một khu vực thờ các siêu lực tự nhiên thuộc quần thể “Ngũ Nhạc Linh từ”.
Núi Ngũ Nhạc cao tới 240m gồm 5 quả núi nối liên, ở đây cây cối rậm rạp, đủ loài mọc khắp núi, chủ yếu là thông. Thông reo trên núi, nước chảy dưới khe, cá tôm lội thành đàn, dưới đáy suối son đỏ, cát trắng …
Đền Sinh có thờ Mẫu, tức bà Hoàng Thị Ba. Tại đền còn có nhiều cổ vật và hai tấm bia nói về thần tích và quá trình trùng tu đền. Đền Hoá kiến trúc tương tự như đền Sinh nhưng quy mô lớn hơn trên một khu đất tương đối bằng phẳng. Ở đây, thờ tượng Chu Phúc Uy và nhiều đồ tế tự có giá trị…
Hiện nay, lễ hội khu di tích Đền Sinh, Đền Hoá được tổ chức trong 3 ngày (từ ngày 6 – 8 tháng 4 âm lịch), kỷ niệm ngày sinh của Phi Bồng đại tướng quân. Lễ hội diễn ra rất long trọng và trang nghiêm.
Khu di tích Đền Sinh – Đền Hóa nằm không xa quần thể di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc đã tạo nên một không gian văn hóa tâm linh sâu rộng.
![]() |
| ► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
| O | A | B | AB |
Alexandra V (theo travelchinaguide)
| ► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Những chú voi trắng (bạch tượng) tượng trưng cho điềm lành và sự may mắn, vì thế nằm mơ thấy mình cưỡi voi trắng vào thành thị là điềm báo tương lai được thăng quan tiến chức.
Tuy nhiên, không hẳn việc mơ thấy voi đen trong giấc mơ lại là xui xẻo đâu nhé. Giấc mơ này dự báo có thể công việc sắp tới của bạn sẽ bị ngưng trệ, nhưng đừng lo lắng, việc này chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, ngay sau đó, mọi việc sẽ lại thuận lợi, suôn sẻ gấp nhiều lần trước đó.
Ngoài ra, mơ thấy voi cũng ám chỉ việc bạn cần kiên nhẫn tìm hiểu thêm về những người xung quanh nhé. Có thể họ ko tốt hay xấu như bạn nghĩ đâu.
Mơ thấy mình bị voi đuổi là bạn đang phải đối đầu với một kẻ có thế lực nhưng rất ưa nịnh, hãy hạ mình một chút nịnh nọt hắn nếu muốn có thêm nhiều lợi lộc nhé.
Mơ thấy hai con voi đang đánh nhau hàm ý công việc của bạn đang bị cạnh tranh bởi một kẻ cứng đầu, ganh ghét với năng lực của bạn. Hãy bình tĩnh suy xét để tìm ra hướng đi đánh bại kẻ ấy nhé.
Mơ thấy voi đang uống nước dưới cái nắng oi bức là điềm báo sẽ có người giúp bạn, hỗ trợ cho bạn vượt qua khó khăn trước mắt, nhưng về lâu dài, bạn cần cố gắng hơn nữa bằng chính năng lực của mình nhé.
Mơ thấy cả đàn voi đang cùng nhau đi ăn là điềm báo trong cuộc sống hiện tại, bạn rất may mắn khi có nhiều người cùng chung chí hướng, họ sẽ cùng đồng hành với bạn, chính vì thế, bạn sẽ không cảm thấy lẻ loi hay cô đơn một chút nào cả.
Tổng hợp
Túi treo cho ghế tựa

Chiếc ghế là vật dụng được sử thường xuyên tại gia đình hay nơi làm việc của bạn, phục vụ cho các mục đích nghỉ ngơi, giải trí, học tập… Việc gắn thêm một chiếc túi nhiều ngăn vào sau lưng một chiếc ghế tựa sẽ giúp bạn tiết kiệm được thời gian khi không phải đi tìm đồ và rất tiện khi có thể lấy được ngay những vật dụng này ra sử dụng. Bạn có thể bỏ được nhiều thứ vào chiếc túi này từ máy tính, bút, chai nước hoặc bất kỳ cái gì có thể nhét vừa.
Móc quần áo đa năng

Tủ đựng quần áo của bạn thường không có một chỗ riêng để cất giữ những đồ trang sức. Tuy nhiên với một chiếc móc treo đa năng, gồm một thanh thiết kế hình sóng lượn và một thanh có gắn thêm các ghim treo, giúp bạn có thể dễ dàng treo và trang trí những đồ trang sức xinh xắn trên đó. Bạn có thể treo chiếc móc này trong tủ quần áo hoặc treo bên ngoài như một vật trang trí cho căn phòng.
Túi đựng đồ treo trên cửa

Giữa buồng làm việc của bạn và đồng nghiệp thường có rất ít khoảng trống cho việc để các đồ đạc, đặc biệt là những vật dụng linh tinh phục vụ cho mục đích cá nhân của bạn tại văn phòng. Để có thêm không gian cho việc cất giữ các đồ đạc này bạn có thể thiết kế một chiếc túi treo gắn vào cánh cửa phòng. Đây là một vị trí treo đặc biệt vì chiếc túi sẽ ẩn đi khi người khác mở cửa nhìn vào buồng làm việc của bạn, giúp cho nơi làm việc của bạn luôn gọn gàng.
Kê chân giường tích hợp ổ điện

Trong một không gian nhỏ hẹp thì chỉ cần bố trí thêm một ổ điện thôi cũng rất khó khăn vì đòi hỏi phải dịch chuyển nhiều đồ đạc khác. Tuy nhiên, lại có một vị trí có thể đặt ổ điện rất thuận tiện trong phòng ngủ của bạn, đó là bạn gắn ổ điện vào chiếc kê chân giường. Đối với ổ điện thêm này, bạn có thể cắm đèn ngủ, cắm sạc điện thoại và rất nhiều vật dụng khác.
Móc dán tường

Việc đóng đinh hay khoan lỗ bắt vít vào tường cần hết sức hạn chế vì nó sẽ để lại những lỗ thủng trên bức tường nhà bạn, gây mất mỹ quan. Tuy nhiên, có một giải pháp thay thế là bạn có thể dùng móc dán tường. Các loại móc dán tường có thể treo được một trọng lượng rất lớn, lên tới 5kg và với màu sắc đa dạng thì nó cũng đồng thời là một vật trang trí thêm cho căn phòng của bạn.
Ghế gấp

Để căn phòng của bạn gọn gàng hơn, tạo thêm khoảng trống cho sinh hoạt thì cách tốt nhất là dùng những vật có khả năng thu gọn lại để cất đi không cần thiết. Và ghế gấp là một giải pháp để bạn tiết kiệm không gian.
Giá chồng

Từ giày dép, sách vở cho tới đồ ăn vặt… bạn có thể cất gọn vào những chiếc giá chồng. Với những chiếc giá chồng này, bạn có thể lựa chọn số tầng tùy ý để chồng chúng lên nhau.
Giá treo cho phòng tắm

Những phòng tắm nhỏ hẹp thường không có chỗ để đồ mỹ phẩm, bạn có thể gắn thêm một chiếc giá treo bằng inox để đặt những vận dụng này.
Hộp để đồ dưới gầm giường

Gầm giường là một khoảng trống khá lớn thường bị bỏ quên. Với những chiếc hộp được thiết kế bánh xe ở chân có thể kéo ra, đẩy vào dễ dàng là nơi cất giữ nhiều đồ đạc như quần áo, sách vở…
Túi treo giầy dép

Bạn có thể có nhiều loại giày dép để đi cho các mùa khác nhau. Đôi khi bạn cũng gặp phải phiền toái trong việc cất giữ các đôi giày yêu thích để đi cho mùa năm sau. Có một giải pháp là bạn có thể cho chúng vào các túi đựng giày dép và treo chúng vào vị trí thích hợp trong ngôi nhà của bạn.
| ► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát theo tâm linh |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Nếu mơ thấy cây phong, dự báo gia đình bạn sẽ luôn được hòa thuận, êm ấm, vợ chồng hòa hợp, yêu thương nhau.
Giấc mơ của bạn là hình ảnh lá phong màu đỏ. Đây là tín hiệu của tình yêu, bạn sẽ gặp người bạn đời lý tưởng và 2 người sẽ nên duyên chồng vợ, sống hạnh phúc bên nhau đến suốt cuộc đời.
1. Đôi môi hồng hào, hàm răng trắng đều
Đa phần những cô nàng có nét tướng cách này đều được cánh mày râu săn đuổi nhiệt tình. Vì sao ư, vì tính cách họ dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe.
Hơn thế, người này có ưu điểm rất lớn chính là tính cách dung hòa, điềm tĩnh, lại rất chu đáo, sau này sẽ là người vợ hiền, mẹ đảm, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tốt đẹp. Đây chính là một trong những đặc điểm của tướng phụ nữ được phúc khí bao bọc.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Chùa Tam Huyền có tên chữ là Sùng Phúc Tự, nằm bên bờ phải dòng sông Tô Lịch ở địa phận thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục cựu, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông, nay thuộc thôn Minh Khai, xã Khương Đình, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, giáp với khu công nghiệp Thượng Đình (quận Đống Đa).
Chùa Tam Huyền có từ đời Lý, gắn với nhân vật lịch sử Tăng quan Đô án Từ Vinh, cha của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong sách Hà Nội Danh lam Cổ tự (NXB. Văn hóa & Thông tin, Hà Nội, 2003), tác giả Thích Bảo Nghiêm cho biết: “Cha sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu (con vua Lý Thánh Tông). Hầu nhờ Pháp sư Đại Điên dùng pháp đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch”.
Nhân dân địa phương kể lại rằng xác Từ Vinh bị chặt làm 3 khúc: đầu, thân và hai chân. Khúc đầu trôi dạt vào địa phận Nhân Mục Cựu, hai chân lạc vào thôn Kim Giang (Lủ Cầu), còn thân trôi đến thôn Pháp Vân (Kẻ Vân) nên nhân gian có câu: “Mọc Cựu thờ đầu, Lủ Cầu thờ chân, Pháp Vân thờ khúc giữa”. Mọc Cựu thờ đầu là nơi có lăng Từ Vinh, nằm trong khu vực chùa.
Thiền sư Tính Truyền, đệ tử cùa Thiền sư Lân Giác (khai sơn chùa liên Phái) và các thế hệ kế tiếp là Thiền sư Hải Thư, Thiền sư Tịch Tính, Thiền sư Từ Nhẫn đã kế tục trụ trì chùa. Năm 1907, Ni trưởng Thích Đàm Quang về trụ trì đã tổ chức trùng tu chùa. Chùa còn giữ một số di vật cổ như bia trùng tu (1613), bia trùng tu (1780), câu đối tạc bằng đá, ngưỡng cửa đá (đời Lê)..
Trong khu vực chùa có am thờ và lăng mộ Từ Vinh. Chùa nay được tu bổ lại từ sau năm 1990. Nơi đây là địa danh tâm linh thu hút du khách tập phương đặc biệt vào đầu giêng năm mới.
1. Chùa Ấn Độ - Sài Gòn
Chùa Ấn Độ hay chùa Bà Ấn là tên mà người dân thường dùng để gọi ngôi đền Hindu giáo của người gốc Ấn tọa lạc ở số 45 – Trương Định – Q.1 – TP.HCM. Đền tên gốc là Mariamman, thờ nữ thần Mariamman, vị thần của mùa màng bội thu, đất đai màu mỡ, sức khỏe dồi dào, hôn nhân suôn sẻ, con cháu đông vui…
Chính vì vậy mà mọi người thường đến đây hàng năm để cầu tình duyên và một năm an lành. Chùa này được xây năm 1885 và đã có hơn 125 năm lịch sử.

Ngôi đền này vốn nổi tiếng kinh thiêng, những người đến đây thường thành tâm cầy nguyện và đền tin rằng mình cầu gì sẽ được đấy. Nếu ai mới đến đây lần đều tiên sẽ thắc mắc với những hình ảnh của nhiều người úp mặt vào tường một cách sùng kính. Theo quan niệm những người ở đây, thì hành động đó là cách họ tâm sự với Bà, người ta sợ Bà không nghe được nên phải úp mặt vào tường, cũng như là để muốn tâm sự và cầu nguyện.
2. Chùa Hà - Hà Nội
Đây là một ngôi chùa cầu duyên có tiếng giữa lòng Hà Nội. Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, trước tọa lạc ở thôn Bối Hà, xã Dịch Vọng, Huyện Từ Liêm, nay làng lên phố nên chùa thuộc phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Bạn có thể xem bói tình duyên tại đây để xêm hai bạn sinh ra có dành cho nhau không?
Chùa Hà nổi tiếng linh thiêng nên thu hút rất đông khách thập phương đến tham quan, lễ Phật. Gái chưa chồng, trai chưa vợ đều sắp lễ xin tìm được một nửa của minh. Những đôi yêu nhau thì chắp tay thành kính cầu cho tình duyên trăm năm hạnh phúc. Ngoài ra, nhiều người con bảo nhau về sự linh ứng của ngôi chùa, trai hay gái độc thân đến đây xin cầu duyên đều tìm được ý chung nhân của mình. Trong tư tưởng của nhiều người thì chùa hà mang đậm nét linh thiêng huyền bí, ai đến đây đều thành tâm khắn vái, xin đài thắp hương để mong thần linh phù hộ, độ trì cho nhân duyên của mình.
3. Chùa Duyên Ninh
Chùa Duyên Ninh (Duyên Ninh Tự) tọa lạc trong thành Tây Hoa Lư ở thôn Chi Phong xã Trường Yên. Trên đường từ Tràng An đến chùa Bài Đính. Thuở xa xưa, Duyên Ninh Tự là nơi vui chơi của các công chúa thời Đinh Lê.
Chính nguồn gốc về các cô công chúa, về gia đình hạnh phúc xa xưa của bậc vua chúa nhà Lý mà chùa sau này trở thành một điểm tín ngưỡng thu hút rất đông người dân tới cầu phúc, cầu may. Đặc biệt không thể không kể tới việc cầu duyên và cầu tự hiếm muộn con cái.
4. Đền Bắc Lệ
Nếu còn độc thân hay muốn cầu hạnh phúc gia đình, bạn hãy tìm đến đền Bắc Lệ. Dân gian vùng quê nơi đây luôn tin tưởng đây là ngôi đền cầu tình duyên thiêng nhất tại xứ Lạng cũng như trên đất nước Việt Nam.

Đền Bắc Lệ Lạng Sơn thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Đây là đền thờ Mẫu điển hình ở nước ta. Lễ hội lớn nhất trong năm được tổ chức trong vòng 3 ngày từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 9 Âm lịch. Đền Bắc Lệ nằm trên một quả đồi cao, xung quanh rợp bóng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Ngay cả khi không đến để cầu duyên, bất kì ai trong chúng ta cũng nên đến đây một lần để chiêm ngưỡng ngôi chùa này.
5. Đền Chử Đồng Tử
Đền Chử Đồng Tử, tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên nằm bên bờ sông Hồng. Ngôn đền gắn liền với mối tình nổ tiếng của nàng công chúa Tiên Dung và chàng trai nghèo khó những hiếu thảo Chử Đồng Tử. Tương truyền, bên kia đền là bãi Tự Nhiên, ở công chúa và chàng trai gặp nhau tạo nên mối tơ duyên diễm lễ của hai người.

Tuy hai người đã cùng nhau bay về trời những tình yêu của họ vẫn còn mãi với thời gian, được mọi người lưu truyền và ngưỡng mộ. Vì vậy, nhiều người đến đây vào các dịp đầu năm vừa để vãn cảnh chùa vừa mong muốn tìm thấy tình yêu chân chính, xây dựng một tổ ấm hạnh phúc.
Sưu tầm

1. Hàm
- Hàm rộng: Người sở hữu chiếc hàm rộng thường rất quyết đoán, hơi kiêu ngạo nhưng thẳng thắn và đáng tin. Họ có may mắn trở thành những người quyền lực trong tương lai. Ngoài ra, họ cũng rất cứng đầu, luôn tin tưởng vào những điều đã chọn, rất khó bị ảnh hưởng bởi những ý kiến, tác động từ xung quanh.
- Hàm ngắn: Thường là những người có tính tình trầm lắng, nhút nhát và không thích thể hiện bản thân. Họ không thích “vác tù và hàng tổng” mà chỉ muốn làm theo những gì được chỉ đạo, giữ cho bản thân tâm hồn nhẹ nhàng và thảnh thơi.
2. Cằm
- Cằm tròn: Những người này thường rất tò mò, ham học hỏi. Một khi đã thắc mắc vì điều gì, họ quyết tâm tìm hiểu cho ra mới thôi. Họ yêu thích những bằng chứng, câu trả lời xác đáng chứ không mấy tin tưởng vào những điều thuộc về tâm linh, cảm giác.
Cằm nhọn: Là người cực kỳ cá tính, thu hút, nhưng cũng thất thường và khó đoán. Họ rất độc lập và quyết tâm, luôn khao khát mạnh mẽ và theo đuổi tới cùng những gì mình đã chọn. - Cằm vuông: Người cằm vuông tính tình thẳng thắn, có gì nói nấy, không toan tính và rất được mọi người yêu quý. Trong cuộc sống họ gặp nhiều may mắn, đặc biệt là về vấn đề tiền bạc.
- Cằm nhỏ, hẹp: Những người này thường rất kín đáo, sống ích kỷ và sở hữu “cái tôi” cực kỳ cao.
- Cằm rộng: Là người vui vẻ, dễ tính, dễ gần, rất đáng yêu và thường được nhiều người yêu quý. Họ cũng gặp nhiều thành công trong cuộc sống, nhưng không phải nhờ bản thân mà nhờ may mắn và sự trợ giúp của mọi người.
- Cằm ngắn: Những người sở hữu chiếc cằm ngắn rất thông minh, có đầu óc và năng khiếu kinh doanh. Họ gặp nhiều may mắn và thành công lớn khi tham gia vào các hoạt động thương mại, đầu tư buôn bán… ngay cả khi tuổi đời còn rất trẻ.
- Cằm dài: Những người này cũng sở hữu “cái tôi” rất cao, hay tự ái, hay dỗi hờn và rất khó chiều.
- Má lúm đồng tiền: Họ có tính tình dễ thương vui vẻ, hay mơ mộng, sống không thực tế, rất đáng yêu và luôn chăm chỉ trong mọi việc.
- Cằm gẫy: Thường có tính cách yếu đuối, nhạy cảm, dễ bị tổn thương, mau nước mắt.
xem boi cam, xem boi tinh cach, xem boi tuong lai, xem boi
![]() |
Rồng và hổ là hai biểu tượng của sức mạnh và quyền uy. Trong phong thủy, hai vật phẩm này giúp cho doanh nhân thu được nhiều tài lộc và tăng uy tín.
Hổ

Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm, là vua của muôn loài, có sức mạnh và uy lực lớn lao. Trong truyền thuyết thì bốn vị thần trấn giữ bốn phương trời là Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước.
Còn trong phong thủy, hai khái niệm trấn giữ hai cục thế bên cạnh huyệt đạo quan trọng là Thanh Long và Bạch Hổ.
Hổ là biểu tượng của quyền uy, sự thăng tiến trong học hành, kinh doanh và đặc biệt hợp với người tuổi Dần.
Nếu đặt một con hổ mạ vàng trên bàn làm việc, công việc kinh doanh của bạn sẽ rất phát đạt và tạo dựng được chữ tín trên thương trường. Bởi hổ mạ vàng thuộc tính Kim mà hành Kim trong ngũ hành chủ về tài lộc mang lại cát khí, tiền tài rất lớn.
Dùng hướng Chính Bắc, Tây Bắc, Tây để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này hoặc dùng trấn yểm khi bị Sát hướng bằng cách đặt con hổ mạ vàng vào vị trí đó.
Rồng

Hình ảnh con rồng oai phong lẫm liệt từ lâu đã gắn liền với vua chúa, những bậc chính nhân quân tử.
Rồng là con vật trong truyền thuyết ít xuất hiện nhưng mỗi khi xuất hiện đều đem đến những chuyển biến tích cực trong xã hội một cách to lớn.
Trong tứ linh thì rồng đứng hàng đầu: Long, Lân, Quy, Phụng. Rồng có thề phun mưa giúp mùa màng tươi tốt, thổi gió mát giúp khí trời mát mẻ, đó chính là nguyên khí của đất trời, là nền tảng của học thuật Phong thủy. Rồng có sức mạnh vô biên, là biểu trưng cho năng lượng của đất trời, là con vật có vượng khí nhất trong phong thủy.
Chọn một con rồng bằng pha lê hay đá quý màu xanh hoặc một con rồng mạ vàng để đặt lên bàn làm việc đều rất tốt. Nếu tìm được một con rồng ngậm ngọc, ngậm viên minh châu thì càng tốt bởi nó đem lại cát khí và tài lộc lớn cho chủ nhân.
- Tu đức: Kính Đức, Hy Đức, Đức Dụ, Đức Minh...
- Trọng nhân: Hoài Nhân, Đức Nhân, Cảnh Nhân, Thụ Nhân...
- Trọng nghĩa: Tư Nghĩa, Thân Nghĩa, Nghĩa Long, Nghĩa Sơn...
- Chuộng trung: Cẩn Trung, Bản Trung, Đại Trung, Lý Trung...
- Làm theo đạo: Minh Đạo, Hoằng Đạo, Tư Đạo, Huyền Đạo...
- Chuộng người hiền: Cảnh Hiền, Hành Hiền, Tề Hiền, Nhữ Hiền...
- Mong muốn lương thiện: Hy Lương, Tử Lương, Mỹ Lương, Lương Tài, Lương Tuấn...
![]() |
| Nghĩa - mang ý nghĩa trọng nghĩa |
- Ăn ở hiếu thảo: Hiếu Quang, Tư Hiếu, Hiếu Nho, Hiếu Dũng...
- Khen ngợi việc thiện: Tùng Thiện, Đăng Thiện, Thiện Tục, Duy Thiện...
- Trọng lòng tin: Chấp Tín, Đức Tín, Chuẩn Tín, Trí Tín, Tín Nho...
- Lập chí: Chí Hiền, Chí Quảng, Chí Chương, Duy Chí...
- Lập nghiệp: Vỹ Nghiệp, Tụ Nghiệp, Nghiệp Phú, Tục Nghiệp, Lĩnh Nghiệp...
- Ngay thẳng: Cư Chính, Cử Chính, Hoằng Chính, Chính Mai, Chính Thanh...
- Trọng hành: Tư Hành, Đạo Hành, Minh Hành, Hành Mẫn, Hành Khoan...
- Trọng nhân: Thục Chân, Pháp Chân, Thụ Chân, Chân Khanh, Mai Chân, Chân Tín...
- Theo lễ: Thứ Lễ, Thủ Lễ, An Lễ, Cẩn Lễ, Huệ Lễ...
- Giữ liêm: Tư Liêm, Như Liêm, Dưỡng Liêm, Khắc Liêm, Thanh Liêm...
- Biết khiêm nhường: Bồi Khiêm, Thừa Khiêm, Khiêm Ích, Quang Khiêm, Trọng Khiêm...
- Trọng trinh trắng: Thế Trinh, Nãi Trinh, Gia Trinh, Trinh Cát, Tuyết Trinh, Lệ Trinh...
- Quý hòa thuận: Sĩ Hòa, Đức Hòa, Chí Hòa, Bách Hòa, Nhân Hòa, Hải Hòa...
- Hiếu học: Ngọc Tiêm, Học Thi, Khả Học, Thái Học, Minh Học, Trần Học...
- Biết tư duy: Tư Thuận, Tư Bản, Cửu Tư, Mạnh Tư, Hữu Tư, Nhân Tư...
- Vui vẻ, minh mẫn: Mẫn Hành, Mẫn Cầu, Mẫn Tu, Thời Mẫn, Huệ Mẫn, Khổng Mẫn...
- Tịnh tiết: Đoan Tiết, An Tiết, Nguyên Tiết, Hạnh Tiết, Minh Tiết...
Những từ mỹ đức trên đã trở thành yếu tố quan trọng trong việc đặt tên. Tuy nhiên, ngày nay, người ta biến tấu một số tên lạ hơn, hay hơn mà vẫn dựa theo nghĩa gốc của mỹ đức.
Theo Khoa học và nghệ thuật đặt tên...
![]() |
Người xưa lấy các con vật gần gũi với cuộc sống nhà nông để lập ra 12 con giáp, rồi dựa trên tập quán sinh hoạt của nó để đặt ra địa chi. Ví dụ như chuột thường phá vào ban đêm thì đặt giờ Tý, gà hoạt động giờ Ngọ… rồi từ đó đặt lần lượt thành 12 năm. Trong Tứ hành xung, các con vật khắc nhau, hay ăn thịt nhau thường được cho vào một nhóm. Những người trong cùng Tứ hành xung thường hay có tính cách nổi bật khác nhau, khắc khẩu hay khó cùng sở thích.

– Nhóm thứ nhất: Dần – Thân – Tỵ – Hợi
Trong bốn con giáp, Dần ứng với hành Mộc; Thân ứng với hành Kim, Hợi ứng với hành Thủy và Tị ứng với hành Hỏa. Theo ngũ hành thì Dần khắc chế Thân. Tỵ khắc chế Hợi.
– Nhóm thứ hai: Thìn – Tuất – Sửu – Mùi
Trong nhóm, Thìn khắc chế và kị Tuất. Sửu khắc chế Mùi. Còn Thìn chỉ xung với Sửu, Mùi. Tuất chỉ xung với Sửu và Mùi.
– Nhóm thứ ba: Tý – Ngọ – Mão – Dậu
Mão ứng với hành Mộc, Dậu ứng với hành Kim, Tý ứng với hành Thủy, Ngọ ứng với hành Hỏa. Vậy nên, kết hợp với ngũ hành thì Tý và Ngọ khắc kị, Mão và Dậu chống đối nhau mạnh. Nhưng Tý và Mẹo hay Dậu chỉ xung nhau chứ không khắc mạnh. Ngọ với Mẹo hay Dậu cũng xung nhau chứ không khắc chế.
Dần Thân Tị Hợi, Thìn Tuất Sửu Mùi, Tý Ngọ Mão Dậu là 3 nhóm Tứ hành xung. Thường thường người Việt phần đông hiểu rằng những con giáp trong tứ hành xung đều xung khắc lẫn nhau nhưng hiểu như vậy là sai lầm.

Việc lập ra các nhóm tứ hành xung là do quan niệm âm dương ngũ hành mà ra. Người xưa sử dụng hệ can chi gồm 12 chi (còn gọi là 12 con giáp) và 10 can. Người ta lại quy ước các hành của ngũ hành cho các can và chi. Theo đó, Dần và Mão ứng với hành Mộc; Thân và Dậu ứng với hành Kim, Hợi và Tí ứng với hành Thủy, Ngọ và Tị ứng với hành Hỏa; còn lại Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là hành Thổ.
Theo thuyết ngũ hành tương khắc thì Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy…. Do đó mà Dần xung với Thân, Mão xung với Dậu, Tị xung với Hợi, Tí xung với Ngọ. Nhìn trên một cái la bàn phong thủy hoặc một lá số tử vi thì thấy rõ rằng về mặt hình học, các con giáp xung nhau thì đối xứng với nhau trên các vị trí ở la bàn hoặc lá số.
Như thế, các con giáp chỉ xung với nhau theo từng cặp là: Dần – Thân, Tị – Hợi, Thìn – Tuất, Sửu – Mùi, Tí – Ngọ, Mão – Dậu.
Ở trên đã chứng minh rằng sự xung khắc trong tứ hành xung là xung khắc theo từng cặp. Tuy nhiên như thế chưa phải toàn bộ vấn đề. Ngay trong từng cặp ấy không phải tất cả người tuổi Dần đều xung khắc với người tuổi Thân. Muốn biết sự xung khắc cụ thể phải xét đến mệnh của từng tuổi để so với nhau.
Mọi người đều biết, địa chi có 12 con giáp và kết hợp với 10 can mới tạo thành hệ thống can chi. Các chi đã được gán với các hành như nói ở trên và thêm vào đó cổ nhân lại phân chia tính chất âm dương cho 12 con giáp. Theo cách phân chia được sách Tự điển tử vi của Đắc Lộc, các con giáp sau đây là thuộc tính dương: Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất. Các con giáp còn lại thuộc tính âm là: Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi.

Người ta cũng lại phân chia tiếp tính âm dương của 10 can. Theo cách phân chia được Tự điển tử vi chép thì: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là dương còn Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là âm. Khi ghép can với chi để tạo ra các năm can chi người ta ghép theo quy luật là can dương ghép với chi dương, can âm ghép với chi âm. Do vậy 12 chi ghép với 10 can chỉ tạo ra 60 năm mà thôi. 60 năm đó được gọi là Lục thập hoa giáp.
Người ta cũng vận dụng thuyết ngũ hành để gán cho các can mang tính chất của ngũ hành. Trong đó, các can Giáp Ất là hành Mộc, Bính Đinh là hành Hỏa, Mậu Kỷ là Thổ, Canh Tân là Kim và Nhâm Quý là Thủy.
Mặc dù mỗi con giáp và mỗi can đều được gán cho ứng với một hành trong ngũ hành nhưng khi can và chi ghép với nhau thì lại được quy nạp lại để mang thuộc tính một hành mới. Cách làm đó được gọi là nạp âm. Chẳng hạn năm Giáp Ngọ 2014 vừa qua có Giáp là hành Mộc và Ngọ là hành Hỏa nhưng nạp âm của Giáp Ngọ lại là Kim.
Vì chúng ta đang nói về xung khắc mà xung khắc là khái niệm của ngũ hành. Bởi thế những dẫn giải dài dòng ở trên là nhằm để người đọc biết sơ qua về sự liên quan giữa các can chi với âm dương ngũ hành.
Không phải Dần Thân Tị Hợi tứ hành xung là cả 4 con giáp xung khắc lẫn nhau mà chỉ có Dần – Thân và Tị – Hợi xung mà thôi. Tuy nhiên, cũng không phải tất cả người tuổi Dần xung với người tuổi Thân.

Theo Tân Việt trong sách “100 điều nên biết về phong tục Việt Nam” thì trong luật âm dương ngũ hành có 3 thế là tương sinh, tương khắc và tương hòa. Ví dụ Kim sinh thủy là tương sinh, Mộc khắc Thổ là tương khắc còn Kim với Kim hoặc Mộc với Mộc là tương hòa.
Như vậy các tuổi chỉ thực sự xung khắc với nhau nếu mệnh của họ xung khắc nhau. Lấy tuổi Kỷ Tị làm ví dụ. Theo quan niệm tứ hành xung thì Tuổi Tị xung với tuổi Hợi. Trong tuổi Hợi có 6 năm tuổi là Ất Hợi, Đinh Hợi, Kỷ Hợi, Tân Hợi, Quý Hợi nhưng không phải cả 6 tuổi này đều xung khắc với người tuổi Kỷ Tị.
Tuổi Kỷ Tị nạp âm là hành Mộc. Tuổi Ất Hợi là hành Hỏa, Đinh Hợi là Thổ, Kỷ Hợi là Mộc, Tân Hợi là Kim và Quý Hợi là Thủy. Như thế, Kỷ Tị và Kỷ Hợi là tương hòa vì cùng là Mộc; Kỷ Tị với Quý Hợi và Ất Hợi là tương sinh vì Kỷ Tị là Mộc sinh cho Hỏa của Ất Hợi và được Thủy của Quý Hợi dưỡng. Cuối cùng chỉ còn Đinh Hợi là Thổ thì bị Mộc của Kỷ Tị khắc và Tân Hợi là Kim khắc Mộc của Kỷ Tị.
Như vậy, khi xét sự xung khắc của các tuổi trong tứ hành xung, phải xét đến mệnh của tuổi mình rồi xét đến các mệnh của 6 tuổi trong con giáp xung với mình thì mới chi ly và chính xác.
Chùa Vẽ là ngôi chùa thờ Phật của Đoạn Xá, là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ còn khá nguyên vẹn, nguy nga. tọa lạc tại số 443, đường Đà Nẵng, Quận Hải An, Tp.Hải Phòng. Được Trụ Trì bởi Ni sư Thích Tâm Chính. Chùa Vẽ có tên chữ là Hoa Linh Tự, gắn liền với những sự kiện oanh liệt chống ngoại xâm của quân dân ta trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Vương Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 1287- 1288 của quân dân ta thời Trần. Đây là ngôi chùa thờ Phật của Đoạn Xá, phường Đông Hải, quận Hải An, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 10km.
Lịch Sử: Tương truyền rằng, các thám tử của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã sử dụng ngôi chùa này để quan sát đồn trại giặc và vẽ sơ đồ chuẩn bị cho trận đánh Bạch Đằng năm 1288 thắng lợi.
Kiến Trúc: Chùa Vẽ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ còn khá nguyên vẹn, nguy nga. Chùa mang kiến trúc hình chữ “Đinh” (J) gồm 5 gian tiền đường và 4 gian chuôi vồ. Kèm hai bên hậu cung là hai ngôi nhà chè nhỏ, nơi đặt bàn thờ “Tam toà Thánh Mẫu” và “Đức Ông bản thổ”. Các cột của toà nhà được làm hoàn toàn bằng gỗ lim nguyên cây, cao to lừng lững, một vòng tay người ôm không xuể. Bàn thờ Trần Hưng Đạo, vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần được lập ở gian phía trái toà tiền đường. Tượng Hưng Đạo Vương và tượng đôi ngựa chiến hồng bạch của ông là những tác phẩm điêu khắc cực kỳ sống động.
Toà Tam Bảo được bày trọn trong tòa hậu cung. Hàng trên cùng là bộ tượng Tam Thế, tiếp đến là bộ Di Đà Tam Tôn là những tượng pháp kinh điển của nhà Phật. Đứng song hàng với tòa Phật điện là nhà thờ tổ 5 gian cùng quay hướng đông nam.
Trong nhà thờ tổ, chính giữa đặt bàn thờ đức Ngô vương Quyền, ông tổ trung hưng dân tộc; bên cạnh phải là bàn thờ sư tổ, bên trái là bàn thờ Hậu phật. Tượng sư tổ có 5 pho, trung tâm là tượng tổ dòng Thiền Bồ Đề Đạt Ma, chung quanh là tượng các vị cao tăng trụ trì tại chùa. Tượng Hậu phật gồm 6 pho, tất cả đều là phụ nữ có khuôn mặt phúc hậu và quý phái. Đây là những tác phẩm nghệ thuật mang tính tả thực, mỗi người có một vẻ mặt riêng rất gần gũi với đời thường, không câu nệ, gò bó.
Thăm chùa Vẽ ngày nay, chúng ta không có dịp được chiêm ngưỡng đầy đủ những tượng pháp, nghi trượng và đồ thờ tự trong nguyên trạng, nhưng những hiện vật còn được bảo tồn đều là cổ vật quý giá, đặc biệt là hệ thống tượng tháp, tượng thánh thần, tượng Hậu phật, tượng Sư tổ.
Với những công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc kể trên và ý nghĩa lịch sử của chùa, năm 1994, Bộ Văn hoá – Thông tin đã công nhận Chùa Vẽ là di tích lịch sử Quốc gia.
Căn nhà rộng với sân vườn thoáng mát là không gian sống lý tưởng. Nhưng cũng chỉ cần góc nhỏ cũng là đủ cho người yêu thiên nhiên, biết chăm chút từng cánh hoa, ngọn cỏ.
|
Chậu hoa
Đây là phần không thể thiếu trong khu vườn. Nhưng thay vì chậu hoa theo mùa, bạn nên chọn loài hoa nở quanh năm để khu vườn luôn tràn đầy sức sống.
Hồ nước
Khu vườn được ví như thế giới riêng nên cũng cần hội tụ đủ ngũ hành tương sinh, tương khắc. Vì thế, nó cần có yếu tố "nước". Nếu khu vườn không đủ diện tích để thiết kế hồ nước thì có thể thay bằng chum nước bằng sành, đất nung hay đá hoa cương. Thả vào đó mấy chú cá nhỏ sẽ làm khu vườn thêm sinh động.
Cây leo
Loại cây này sẽ mang lại không gian xanh mát dịu. Không những thế, nhánh dây leo còn làm cho ngoại thất ngôi nhà trở nên mềm mại và đáng yêu hơn.
Tạo tầng không gian
Mỗi một loài cây phù hợp với độ cao nhất định. Điều này sẽ giúp bạn vừa tiết kiệm không gian, vừa tạo ra sự đa dạng và ấn tượng cho khu vườn.
Tạo thêm điểm dừng
|
Phù điêu
Bức phù điêu đá hoa cương được tạc hình hay tác phẩm bằng gạch đậm chất dân gian có thể biến bờ tường hay vách nhà trở nên đẹp mắt. Vừa tôn thêm vẻ đẹp của sân vườn, vừa có thể tạo giá trị về tinh thần, tâm linh trong cuộc sống thường ngày.
Thêm những bức tượng
Bức tượng đá nghệ thuật được chế tác nhỏ nhắn, xinh xắn có thể thay thế cho những hòn non bộ. Chúng không chỉ mang lại sự sinh động cho khu vườn mà còn là điểm nhấn ấn tượng.
(Theo Dothi)
|
Hành: ThủyLoại: Đài Các TinhĐặc Tính: Công danh, quý hiển, may mắn, quyền quý, khoa giáp
Tên viết tắt thường gặp: Long
Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long Trì và Phượng Các. Gọi tắt là bộ sao Long Phượng. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là Long Phượng Hổ Cái.
Ý Nghĩa Long Trì Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Long Trì ở Mệnh thì nhan sắc rất đẹp, da mặt hồng hào, thanh tú, nhất là đối với phụ nữ.