Tướng cổ như thế nào là sướng hay khổ? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Theo các quan điểm nghiên cứu và những luận cứ mà nhiều nhà khoa học Trung Quốc, nhiều nhà sử học và dân tộc học của đất nước mà nó ra đời vẫn chưa thống nhất về mặt thời gian ra đời của thuyết Ngũ Hành.
Một điều chắc chắn mà tất cả họ đều nhất trí. Đó là thuyết Ngũ Hành có sau thuyết Âm Dương. Thuyết Âm Dương ra đời thời nhà Hạ chưa đủ lý giải hiện tượng. Dịch ra đời từ thời Chu có đề cập đến Âm Dương Ngũ Hành vậy thì nó – thuyết Ngũ Hành có thời khai sinh giữa khoảng hai triều Hạ – Chu. Trong quãng thời gian này nằm vào thời Ân Thương 1800T đến 1240T (trước công lịch) của Trung Hoa.
Vấn đề là trong giới học giả Trung Quốc vẫn tồn tại 3 ý kiến trái ngược nhau.
Một vài ý kiến
Một số cho rằng thuyết Ngũ Hành ra đời gần như đồng thời với thuyết Âm Dương chỉ sau một chút ít về mặt thời gian.
Ý kiến của giới khoa học
Giới sử học lại cho rằng thuyết Ngũ Hành là do Mạnh Tử sáng lập ra. Mạnh Tử là người đầu tiên sáng lập ra Ngũ Hành. Mạnh Tử nói năm trăm năm tất có Vương Giả Hưng (từ Nghiêu Thuấn đến Vu Khang là hơn năm trăm năm)…” sách “Trung Quốc thông sử giản biên của Phạm Văn Lan” (Trung Quốc). Nhưng chính ông lại phủ nhận “… Mạnh Tử không tin Ngũ Hành bác bỏ thuật chiêm bốc dùng ngũ sắc thanh long để định cát hung. Điều đó đủ thấy thời Đông Chu thuyết Ngũ Hành đã thông dụng rồi, đến Trâu Diễn nó càng được thịnh hành…” sách đã dẫn. Luận cứ rằng Mạnh Tử sinh thời Chiến Quốc – Đông Chu liệt quốc. Mà thời này thuyết Ngũ Hành đã được ứng dụng lâu rồi. Cùng với can – chi, nó được phổ biến trong nhiều môn thuật số chiêm bốc.
Nhận xét về các ý kiến
Vậy thì những ý kiến cho rằng thuyết Ngũ Hành ra đời vào thời kỳ nhà Hán do Đổng Trọng Thư đề xướng lại càng không có lý. Vì Hán ra đời sau cả Tần Thủy Hoàng (năm 246T – 210T). Nhà Tần (Thủy Hoàng) lại ra đời cuối Đông Chu.
Trong khi giới triết học và kho cổ học lại khẳng định Ngũ Hành có trong bộ sách “Thượng Thư” thời chiến quốc (TQ] đã nói: “… Ngũ Hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ: Thủy thuận dưới nước, hỏa nóng bốc trên, mộc cong, thẳng, kim sắc cắt đứt, thổ là trồng trọt” theo sách “ảnh hưởng của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành với khoa học truyền thống Trung Quốc”.
Như vậy đủ thấy nguồn gốc ra đời của thuyết là của Trung Quốc cổ đại. Còn thời gian ra đời của nó thì chưa xác định được. Đến các học giả Trung Quốc còn tranh biện chưa ngã ngũ. Song việc ứng dụng quy tắc này mặc nhiên tồn tại
![]() |
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ. Cùng học tiếng Anh và giải trí với những câu hỏi hài hước về phụ nữ dưới đây.
– Women: scientifically proven to be right even when they’re wrong. Phụ nữ được khoa học chứng minh là luôn đúng ngay cả khi họ sai.
– Here’s all you have to know about men and women: women are crazy, men are stupid. And the main reason women are crazy is that men are stupid. Tất cả những gì chúng ta biết về đàn ông và phụ nữ là: phụ nữ điên rồ, đàn ông ngốc nghếch. Và lý do phụ nữ phát điên là vì đàn ông ngốc nghếch.
A jealous woman does better research than the FBI.
– A jealous woman does better research than the FBI. Một người phụ nữ ghen tuông điều tra còn giỏi hơn FBI.
When a woman says “What?”, it’s not because she didn’t hear you. She’s giving you a chance to change what you said. Khi người phụ nữ nói “Cái gì”, không phải vì cô ấy không nghe rõ bạn nói gì. Cô ấy đang cho bạn cơ hội thay đổi điều vừa nói.
A woman gets the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument. Phụ nữ là người nói cuối cùng trong mọi cuộc tranh cãi. Bất cứ điều gì người đàn ông nói sau đó sẽ là khởi đầu cho một cuộc tranh cãi mới.
A woman gets the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument.
Women are like police, they can have all the evidence in the world but they still want a confession. Phụ nữ chẳng khác gì cảnh sát, họ có mọi bằng chứng trên đời nhưng vẫn mong muốn một lời thú tội.
I am the boss in this house, my wife told me so. Tôi là chủ của ngôi nhà, vợ tôi bảo vậy.
Women are like banks, they take every cent you got and give you very little interest. Phụ nữ giống như các ngân hàng, họ cầm đi từng cent bạn có và trả lại một tí lãi suất.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Phong thủy giường ngủ chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương |
Chọn hình dáng bàn làm việc Phong thủy có mục đích là giảm sự căng thẳng và tránh các vấn đề nguy hại cho tâm trí và cơ thể bạn. Vì thế, bạn hãy chọn cho mình những đồ nội thất hình tròn, bao gồm cả bàn làm việc. Các cạnh sắc lẹm, góc nhọn thường được gọi là "mũi tên độc", không tốt về phong thủy vì nó ngăn chặn năng lượng tích cực lưu thông cân bằng và tự nhiên. Bên cạnh đó, nếu vô tình bị va đập phải, những góc chọn có thể gây ra đau đớn. Tận hưởng cảm giác quyền lực với ghế phù hợp Bạn hãy xem mình như là nữ hoàng, vua trên ngai vàng quyền lực. Khi ngồi trên một chiếc ghế thoải mái, có thể điều chỉnh độ ngả, độ cao và thật êm, khả năng làm việc của bạn sẽ được tăng lên đáng kể. Đặt bàn làm việc ở một vị trí quyền lực Nếu để ý văn phòng của những CEO có sự nghiệp thành công, bạn sẽ thấy vị trí đặt bàn làm việc giúp chủ nhân "nhìn thấy" tất cả mọi thứ. Đặt bàn làm việc ở một vị trí quyền lực, nơi bạn có thể nhận được ánh sáng vừa đủ của cửa sổ, nhìn rõ cửa chính và sau lưng là một bức tường vững chắc công việc của bạn sẽ hanh thông. Cách bố trí này sẽ giúp bạn có một tầm nhìn xa cho tương lai phía trước và nhận được sự hỗ trợ vững chắc từ các hậu phương đằng sau. Dọn dẹp bàn làm việc thường xuyên Bạn hãy vức bỏ danh sách những công việc đã làm, biên lai cũ, hóa đơn, tạp chí, sơn móng tay, đồ ăn, thư và bất cứ thứ gì không thuộc về bàn làm việc.
Tìm hộp đựng cho tất cả mọi thứ trên bàn làm việc Bạn cần đặt đúng vị trí mỗi đồ vật để dễ dàng tìm thấy mỗi khi cần. Việc làm này sẽ giúp công việc của bạn hiệu quả hơn và tránh được cảm giác khó chịu và lãng phí thời gian khi không thể tìm thấy đồ vật bạn cần. Dù không gian nhỏ hay lớn, bạn cũng có thể áp dụng phong thủy vào bàn làm việc. Điều quan trọng là luôn giữ không gian sạch sẽ, gọn gàng và thỉnh thoảng trang trí để không gian tươi mới, tốt lành hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Có những người may mắn thành đạt từ khi còn trẻ, nhưng có nhiều người lại thành đạt khi đã đứng tuổi. Khi họ còn trẻ, thường sẽ gặp phải khó khăn trắc trở, khó giành được thành công. Theo thời gian, họ dần trở nên trầm ổn, cũng tích lũy cho mình thêm nhiều kinh nghiệm, trí tuệ cũng được trau dồi. Chẳng có gì khó hiểu khi mà những người này càng già lại càng có nhiều cơ hội phát tài.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Kinh nghiệm cuộc sống cho ta biết, phàm là người có một ít thành đạt trong sự nghiệp đều là những người nghe lời cha mẹ, không quên công ơn dưỡng dục của cha mẹ. Ðó cũng là những người con có hiếu. Còn những người lười biếng, ích kỷ, không coi trọng chữ tín, làm những điều tai ác ngược đạo lý ở đời, ngược với lợi ích của xã hội và nhân dân thì đều là những người không có hiếu.
Hiếu kính cha mẹ là thiên đức làm người, cũng là cơ sở để thành công trong sự nghiệp. Ngày xưa các vua khi tuyển dụng người tài, đầu tiên xem người đó có phải là người con hiếu không. Vì người ta cho rằng, ngay đến cha mẹ là người sinh thành dưỡng dục mình mà mình cũng không có hiếu thì làm sao có thể tận trung với vua được. Cách nói đó rất có lý. Ngày nay không ít người khi kết bạn, tìm người yêu, có những Giám đốc khi tuyển dụng người giúp việc hoặc thư ký cũng đều lấy chữ hiếu làm điều kiện quan trọng. Vì người hiếu kính với cha mẹ phần nhiều trung thành với bạn bè, trung thực trong tình yêu, tận tâm với công việc và với lãnh đạo, tận tình trong chức trách và luôn có tinh thần phấn đấu vươn lên, không gây rối trong tập thể.
Cây có gốc, nước có nguồn. Chương này chuyên bàn về việc dự đoán thông tin có liên quan với cha mẹ, vì thế nhân đây bàn vài lời về ý nghĩa của lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Ðó cũng là điều mỗi người học dự đoán đầu tiên nên làm được và không cho điều đó là thừa.
Dùng Tứ trụ dự đoán học để dự đoán tiền đồ và vận khí của cuộc đời thì đầu tiên phải dự đoán điều cơ bản nhất của Tứ trụ là những thông tin về cha mẹ và những điều đó có liên quan với tổ nghiệp. Do đó đưa mục đoán về cha mẹ đặt lên vị trí hàng đầu.
Sáu hoà phối với lục thân là do Kinh Phòng, nhà Dịch học ứng dụng đời nhà Hán phát minh ra, sau đó nhân dân Trung Quốc trên cơ sở của Chu dịch lại phát minh ra Tứ trụ dự đoán thông tin của con người. Thực tiễn mấy nghìn năm qua chứng minh đưa lục thân trong Bát quái của Chu dịch vào Tứ trụ để dự đoán nhân thể là hòn ngọc quý trong lịch sử dự đoán thông tin của Trung Quốc.
Về cung phụ mẫu trong lục thân. Tứ trụ có 2 cách sắp xếp. Cách thứ nhất là : lấy trụ năm làm cung phụ mẫu; cách thứ hai là lấy trụ tháng làm cung phụ mẫu. Về vấn đề này tôi đã bàn đến trong sách Chu dịch dự đoán học. Ở đây không nhắc lại nữa.
Dự đoán những thông tin về cha mẹ, có người lấy can năm làm cha, có người lấy can tháng làm cha, có người lấy chi năm làm mẹ, cũng có người lấy chi tháng làm mẹ ; lại cũng có người lấy thiên tài là cha, chính ấn là mẹ. Ðể tiện cho việc nghiên cứu và dự đoán thông tin về mặt này thì kết hợp dùng cả 3 phương pháp trên để dự đoán là thích hợp nhất.
Thiên tài là cha, chính ấn là mẹ, trong dự đoán ứng nghiệm rất chuẩn. Vì sao thiên tài là cha, chính ấn là mẹ ? Vì sinh tôi là mẹ. Như người sinh ngày canh, lấy kỉ thổ là chính ấn, lấy giáp mộc làm thiên tài. Giáp là dương, kỉ là âm, giáp kỉ hợp với nhau đúng đạo vợ chồng. Giáp lấy kỉ làm vợ, kỉ lấy giáp làm chồng cho nên lấy thiên tài làm cha, chính ấn làm mẹ. Thiên ấn là mẹ kế hoặc mẹ nuôi, hoặc mẹ đỡ đầu.
DỰ ÐOÁN VỀ CHA MẸ
Trụ năm gặp đất trường sinh đế vượng, không bị xung khắc, lại được lệnh tháng sinh là chủ về cha mẹ tinh nhanh , tháo vát, dung nhan đẹp, người khoẻ trường thọ.
Can năm được lệnh tháng sinh là cha trường thọ, chi năm được lệnh tháng sinh là mẹ trường thọ. Can năm là dụng thần thì cha mẹ song toàn.
Can và chi năm tương sinh cho nhau là cha mẹ hòa thuận ; can sinh cho chi là cha yêu mẹ ; chi sinh cho can là mẹ yêu cha. Can chi ngang hòa nhau là cha mẹ yêu nhau nhưng cũng không tránh đôi lúc cãi vã.
Trụ năm hoặc trụ tháng gặp quý nhân là cha mẹ đẹp và nho nhã, thanh lịch. Trụ năm gặp sao trạch mã là ông cha hoặc cha mẹ đi buôn bán ở bên ngoài. Trụ năm gặp ấn hoặc tư quán học đường là cha mẹ hiền lành, ông bà hoặc cha mẹ theo nghề văn chương, mạch nhà thư thương.
Trụ năm gặp chính ấn hoặc chính ấn gặp thiên đức, nguyệt đức là cha mẹ hiền lành, hay là điều thiện.
Trụ năm gặp thực thần mà không có kiêu thần là cha mẹ người béo và khỏe, tính cách thành thực.
Can năm lâm trường sinh hoặc chính ấn lâm trường sinh là cha mẹ có phúc và thọ.
Trụ năm gặp quan tinh chính ấn thì cha mẹ làm quan cao sang.
Can năm gặp quan tinh, chi năm gặp tướng tinh là cha mẹ phú quý, trung hậu. Trụ năm gặp tài, quan, ấn lại còn gặp sinh vượng là cha mẹ không giàu thì sang.
Chi năm hoặc chính ấn gặp đào hoa là cha mẹ đẹp mà thông minh.
Trụ năm, trụ tháng gặp tài, quan vượng là cha mẹ vinh hiển.
Thiên tài quy lộc là cha cao sang tột bậc. Trụ ngày gặp tài, trụ giờ là kiếp thì đời cha vượng, đời con sa sút.
Trong Tứ trụ thiên tài gặp vượng địa là cha trường thọ.
Ấn gặp trường sinh thì mẹ hiền, trường thọ, nếu phùng sinh thì mẹ thông minh hiền quý.
Phụ mẫu đều vượng lại gặp trường sinh, ở đất quý nhân, lộc mã thì chủ về cha mẹ phú quý lâu dài vinh hiển.
Trụ năm sinh hợp với nhật nguyên thì được cha mẹ yêu. Nhật nguyên sinh trụ năm thì con hiếu kính cha mẹ.
Can năm hoặc chi năm, can tháng hoặc chi tháng là hỉ thần, hoặc dụng thần là được hưởng phúc tổ tiên hoặc được cha mẹ nuông chiều.
Chi ngày sinh cho chi năm là vợ có hiếu với cha mẹ chồng hoặc quan hệ mẹ chồng con dâu tốt.
Trụ ngày yếu nhưng được ấn tinh sinh phù thì được cha mẹ thương yêu.
Chính ấn đóng ở hoa cái là cha mẹ thông minh.
Chính ấn gặp trạch mã thì cha mẹ lập nghiệp ở phương xa.
Ðể giúp những người nghiên cứu dễ nắm vững kỹ thuật dự đoán, dưới đây cử ví dụ để nói rõ dự đoán theo sự việc.
Ví dụ 1. Khôn tạo ( nữ )Khôn tạo này của một người phụ nữ quan chức, vào một ngày tháng 2 năm 1985 đột nhiên đến thăm khu ở của tôi. Tôi rất kinh ngạc, chưa kịp hàn huyên thì bà đã nói : " Ông Thiệu ạ, ở bên ngoài đồn đại rất ghê, nói rằng ông nghiên cứu Tứ trụ tính mệnh rất giỏi có phải không? Ðó là thực hay là hư ?" Tôi tự hào thừa nhận rằng : "Ðúng đấy,họ đồn không sai. Tôi đã nghiên cứu mấy năm rồi và cũng biết được chút ít". Bà ta rất kinh ngạc và liền nói với tôi một cách thăm dò : " Cái đó có phải là phong kiến mê tín không?" Tôi thấy bà ta nghi ngờ đắn đo, liền nói : " Nếu bà không tin thì cứ nói rõ giờ sinh tháng đẻ của bà để tôi thử đoán xem, chắc bà sẽ biết được đó là khoa học hay mê tín".
Sau khi sắp xếp xong Tứ trụ của bà ta, tôi nói : " Tứ trụ của bà quá cứng, khắc cha, khắc mẹ lại còn khắc chồng. Cha bà khắc mẹ bà, khắc rất mạnh, mẹ bà đã mất rất sớm. Cha bà tối thiểu đã kết hôn hai lần. Bà tuy khắc cha nhưng mệnh cha bà vượng, nên khắc không nổi. Bà từ nhỏ lại sống xa cha nên lực khắc yếu. Cha bà hiện nay là người tinh thần sung túc, khoẻ, thọ". Mới nói qua như thế bà ấy đã mở to mắt kinh ngạc. Tôi tiếp tụ đoán những người trong nhà và quá khứ của bà ta. Nghe qua bà ta nói đều đúng. Cha bà năm nay đã 81 tuổi, người rất khoẻ và xin đoán xem còn sống bao lâu nữa. Tôi nói phải đề phòng năm 1991.
Trụ năm ất mộc thiên tài là cha, trong Tứ trụ 3 lần gặp tân kim khắc mạnh ất mộc đó là bằng chứng khắc cha. Nhưng tân kim ở tử địa, ất mộc ở vượng địa lại thông căn với ất mộc trong mão và còn được đất ướt của sửu nuôi dưỡng nên rễ của ất mộc thâm căn cố đế, nên tân kim tuy nhiều nhưng không làm gì được.
Ðại vận đinh hợi xung khắc cương lĩnh của lệnh tháng, trụ năm ất sửu và lưu niên tân mùi ( năm 1991) phạm vào thiên khắc, địa xung là xung khắc thái tuế. Sửu mùi vừa xung nhau thì kim kho đã mở, cả 3 tân vây khắc ất mộc, ất mộc bị khắc mà không có sinh cho nên cha cô ấy tháng 5 năm tân mùi mất, hưởng thọ 87 tuổi.
Ví dụ 2. Khôn tạo (nữ).Tháng 3 năm 1989 cô Phương nhờ tôi đoán cho cha. Tôi căn cứ can năm là giáp mộc gặp lệnh tháng, chi năm là ngọ hỏa trường sinh ở lệnh tháng, trong Tứ trụ có sinh không có khắc nên đoán cha mẹ song toàn, thông minh tháo vát, diện mạo đẹp đẽ mà thọ.
Ðúng là như thế, cha mẹ cô ấy đó đã gần 80 tuổi, cả hai đều khoẻ mạnh.
Ví dụ 3. Càn tạo (nam).
Tháng 4 năm 1989 tôi căn cứ Tứ trụ này nói với Trần Mưu : mẹ anh không những khoẻ mà người rất thanh lịch, nhất định sống lâu. Ðiều đó là căn cứ vào can năm quý thuỷ thiên tài là cha trường sinh ở chung tị lại được lệnh tháng sinh. Lại căn cứ : chính ấn lâm trạch mã cho nên đoán mẹ lập nghiệp ở phương xa là người có tài nghệ. Ông ta thừa nhận đúng, mẹ ông ta là công trình sư nổi tiếng trong và ngoài nước.
Ví dụ 4. Khôn tạo (nữ).
Tháng 5 năm 1988, căn cứ vào Tứ trụ của cô Khương : trụ tháng là đinh hỏa chính ấn được quan tinh mão mộc sinh, đúng là chính ấn phùng sinh. Tôi nói : cha mẹ cô song toàn, mẹ cô rất hiền lành, thông minh và đang là quan chức. Cô ta nói phần cha mẹ đúng như lời ông nói : cha là cán bộ hành chính, mẹ là viện trưởng bệnh viện, sắp ra nước ngoài dạy học.
Ví dụ 5. Càn tạo (nam).
Ðó là ví dụ tháng 6 năm 1990 ông Thường nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ này thủy sinh vào tháng thuỷ lạnh nên kim chìm xuống, là tượng thổ đóng băng, mộc bị hàn lạnh. Bính hỏa trên trụ năm và chính ấn trên trụ tháng ở vào tử địa là tượng khắc cha mẹ. Nhưng vì can năm được trụ giờ là giáp dần sinh mộc, là mộc hoả sáng có tác dụng giáng hàn, tức là trong Tứ trụ hiện ra điều may về sự sống. Tôi nói với ông Thường thời thanh niên bố mẹ anh tuy rất nghèo nhưng hai người đều tuổi thọ cao, bây giờ vẫn rất mạnh khoẻ. Ông ta nói : cha mẹ tôi trước kia nghèo khổ không thể nào tả hết. Bây giờ đều đã già hơn 80 tuổi, sức khỏe vẫn còn tốt.
Ví dụ này chính ứng : can năm là dụng thần, nên cha mẹ song toàn.
Ví dụ 6. Càn tạo (nam)
Tháng 7 năm 1990 ông Dương đưa Tứ trụ này của ông nhờ tôi đoán hậu vận. Tôi thấy trong Tứ trụ năm, tháng tài quan đều ở vượng địa nên nói : cha ông là người quan văn cao cấp, chi năm chi tháng tương xung là không lợi cho mẹ, cho nên mẹ có thể bị mất nếu không thì cũng xa cách nhau. Ông ta nói : đúng, mẹ tôi đã sớm là ngoại kiều ở ngoài, hiện vẫn còn khỏe mạnh. Cha ở trong nước và đã về hưu.
Ví dụ này là : cả năm và tháng tài quan vượng, cha vinh hiển.
Có những ngày sinh may mắn dành riêng cho từng con giáp. Những người được sinh ra vào ngày hoàng đạo được trời ban cho tài năng xuất chúng - một số rất thông minh, và một số có thể sống trọn đời bình an. Bạn có biết liệu mình có phải sinh ra vào ngày may mắn? Có điều gì đặc biệt mà bạn nên biết về ngày hoàng đạo của mình?
Tuổi Tí
Ngày may mắn: Mùng 4, 13, và 30 âm lịch
1. Người sinh ra vào ngày mùng 4 âm lịch của bất kì tháng nào trong năm Tý sẽ rất thông minh và hợp theo con đường nghiên cứu. Những người này sẽ tìm được một người bạn đời tốt và luôn trân trọng mình. Họ sẽ sống một cuộc sống ổn định ở tuổi thanh niên, có con cái hiếu thảo và của cải dồi dào ở độ tuổi trung niên, và sống một cuộc sống hạnh phúc khi về già.
2. Những người người sinh ra vào ngày 13 âm lịch trong năm Tý sẽ được ban phước lành vô hạn và may mắn. Họ rất dễ đạt được thành công lớn trong sự nghiệp của mình. Những người này cũng sống lâu với của cải dồi dào.
3. Người sinh ra vào ngày 30 âm lịch rất liêm chính và thông minh. Họ luôn muốn làm việc thiện, Cuộc đời của họ chẳng bao giờ phải chật vật lo nghĩ về cơm áo gạo tiền. Họ sẽ sống một cuộc sống giàu có ở độ tuổi trung niên. Những người sinh ngày 30 âm cũng sẽ tận hưởng tuổi già vui thú với con đàn cháu đống.
Tuổi Sửu
Ngày may mắn: 13 và 27 âm lịch
1. Những đứa trẻ sinh ra vào ngày 13 âm lịch trong năm Sửu sẽ có một tương lai vô cùng hứa hẹn. Chúng và con cái đời sau không phải lo lắng về kinh tế. Khi gặp khó khăn sẽ luôn có quý nhân giơ tay ra cứu giúp họ vượt qua cơn khốn cùng.
2. Ngày 27 âm cực kì may mắn với người sinh vào năm Trâu. Người nam thì trung thực, thẳng thắn, hào phóng và luôn sẵn sàng làm tất cả mọi việc bất chấp khó khăn. Họ sẽ giàu có và cưới được người vợ đẹp. Người nữ sinh ngày 27 thì thông minh và lanh lợi. Họ sẽ có cuộc sống bình an trọn đời.
Tuổi Dần
Ngày may mắn: 16 và 27 âm lịch
1. Những người tuổi Dần sinh vào ngày 16 âm lịch sẽ có một cuộc sống phong phú và đầy màu sắc. Họ sẽ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có. Nhờ đó, họ dễ dàng có khả năng để tìm được một mối quan hệ hoàn hảo.
2. Nếu bạn tuổi Hổ và sinh vào ngày 27 thì không cần phải lo lắng về sự nghiệp của mình. Trong công việc, bạn luôn được quý nhân phù trợ. Bạn cũng sẽ có một cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con trai và cháu trai.
Tuổi Mão
Ngày may mắn: 26, 27, và 29 âm lịch.
1. Những người may mắn sinh ra vào ngày 26 âm lịch trong năm Mão hay đạt được địa vị cao và được mọi người tôn trọng. Kỹ năng chuyên môn mang lại cho họ thu nhập cao.
2. Sinh ra ngày 27 thì con người sẽ thông minh thiên về học thuật. Họ sẽ mang lại vinh dự cho tổ tiên. Họ cũng sẽ sống một cuộc sống giàu có và có thể trông đợi vào một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
3. Những em bé chào đời vào ngày 29 cực kì may mắn. Lớn lên, các bé trai nên đi theo con đường kinh doanh vì có lộc về tiền tài. Các bé gái thông minh, tốt bụng, và có khả năng quản lý tiền bạc cực kì tốt.
Tuổi Thìn
Ngày may mắn: Mùng 1 và 16 âm lịch
1. Những người tuổi Thìn vốn có cuộc đời sung sướng hơn các con giáp khác nhưng những người sinh ra vào ngày mùng 1 hàng tháng càng gặp nhiều may mắn. Họ sẽ có một sự nghiệp thuận lợi và có tiềm năng trở thành quan chức cấp cao.
2. Những người sinh ra vào ngày 16 âm lịch thông minh hơn những người bình thường. Họ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có do sự siêng năng và sự ham học hỏi kiến thức mới.
Tuổi Tỵ
Ngày may mắn: Mùng 1 và 23 âm lịch
1. Các bé sinh vào ngày mùng 1 trong năm Tỵ sẽ có một cuộc đời bình an và hạnh phúc.
2. Những người tuổi Rắn sinh vào đúng ngày 23 sẽ được ban cho lòng dũng cảm và trí tuệ. Trong suốt cuộc đời của mình, họ sẽ đạt được sự tôn trọng của nhiều người.
Tuổi Ngọ
Ngày may mắn: Mùng 5 và 20 âm lịch
1. Những người sinh vào ngày mùng 5 có thiên phú về nghệ thuật. Dù cho có khó khăn, họ cũng sẽ vượt qua và đạt được thành công trong sự nghiệp.
2. Người tuổi Ngọ sinh ra vào ngày 20 có một cuộc sống phong phú. Về già, họ sẽ tận hưởng cuộc sống bình an bên con cháu.
Tuổi Mùi
Ngày may mắn: Mùng 7 và ngày 30 âm lịch
1. 'Những con dê' sinh vào ngày mùng 7 rất hiền lành và khoan dung. Họ luôn nhận được sự quan tâm của hàng xóm và đồng nghiệp.
2. Những người sinh ra vào ngày 30 âm lịch trong năm con Dê rất may mắn và tài năng. Do đó, họ dễ dàng thành công trong cuộc sống.
Tuổi Thân
Ngày may mắn: 14 và 28 âm lịch
1. Người tuổi Khỉ sinh vào ngày 14 sẽ sống một cuộc sống giàu có nhờ sự giúp đỡ từ cha mẹ và quý nhân.
2. Những em bé chào đời vào ngày 28 đã được sinh ra dưới một ngôi sao may mắn. Các bé sẽ có khả năng lãnh đạo thiên bẩm và hợp với những công việc chức quyền, người nổi tiếng.
Tuổi Dậu
Ngày may mắn: mùng 4 và 26 âm lịch.
1. Người sinh ra vào ngày mùng 4 sẽ tạo dựng được danh tiếng ngay từ khi còn trẻ. Cuộc sống xa hoa sẽ kéo dài đến tận tuổi trung niên.
2. Người tuổi Gà sinh ra vào ngày 26 được trời phú cho tài kinh doanh. Họ luôn tìm ra cách tốt nhất để đầu tư và làm số tiền có trong tay sinh sôi nảy nở.
Tuổi Tuất
Ngày may mắn: Mùng 7 và 28 âm lịch
1. Những người tuổi Tuất sẽ sống lâu do sức khỏe hơn người khi được sinh ra vào ngày mùng 7.
2. Sinh ra vào ngày 28 âm lịch trong bất kì tháng nào của năm Tuất, mọi người đều sẽ được chòm sao may mắn chiếu mệnh, Họ sẽ có địa vị xã hội cao và một gia đình lớn.
Tuổi Hợi
Ngày may mắn: 17 và 24 âm lịch
1. Những người sinh ra vào ngày 17 vượt qua người bình thường cả về trí thông minh và lòng dũng cảm. Do đó họ sẽ nổi tiếng vì tính cách cao quý và uy tín của mình.
2. Người sinh ra vào ngày 24 đạt được sự tôn trọng của đủ mọi người từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Nhờ vào khả năng chuyên môn của mình, cuộc sống của họ sẽ luôn dư dả.
Nước ta là một quốc gia ở khu vực nhiệt đới gió mùa.Thiên nhiên có nhiều phần ưu đãi, nhưng thời tiết thường diễn biến một cách bất thường “sớm ngăn bão giông, chiều ngăn nắng lửa”. Hay như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết:
"Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…"
Đứng trước những thực trạng đầy cam go, khắc nhiệt của tự nhiên, con người có yêu cầu bức thiết về nơi ở, an toàn, đảm bảo về sức khỏe cả về thể chất và tinh thần, để quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất, học tập nghiên cứu, đạt hiệu quả cao nhất. Và môn khoa học phong thủy đã ra đời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đó
Phong thủy là gì? Theo nghĩa chiết tự thì “phong” có nghĩa là gió, là những luồng không khí chuyển động trong không gian, có tác động ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống con người. “Thủy” là chế độ nước, bao gồm cả mạch nước ngầm, và hệ thống nước lộ, như sông, suối, ao, hồ.Như vậy bộ môn này không có gì cao siêu thần bí, ngược lại nó rất gần gũi và có giá trị thực tiễn lớn lao trong cuộc sống con người, xã hội.
Định nghĩa một cách đầy đủ thì phong thủy là toàn bộ hệ thống lý luận về đặc điểm địa hình, các nhân tố môi trường (hướng gió, chế độ nước, núi non,…)và quá trình tác động qua lại giữa chúng và cuộc sống con người (sức khỏe, cát – hung, thịnh – suy của người sống trên đó ), phong thủy còn phương pháp lựa chọn, thiết kế xây dựng nhà ở và âm phần.
Phong thủy âm trạch luận đoán về vấn đề âm phần, mộ của người đã khuất đối với các thành viên khác trong gia đình
Phong thủy dương trạch bao gồm các công trình kiến trúc nhà ở, biệt thự, văn phòng, thị trấn, thị tứ, trung tâm thương mại…
Phong thủy ra đời từ rất lâu rồi, với đặc điểm của nền văn minh nông nghiệp “dĩ nông vi bản”, thì việc lựa chọn nơi ở tiện cho việc sinh hoạt và sản xuất đã có từ rất lâu. Ở Trung Quốc từ thời kỳ cổ đại Hạ - Thương – Tây Chu, phong thủy đã manh nha, mầm mống. Bộ môn này được các bậc học giả, hệ thống hóa, khái quát hóa, thành hệ thống lý luận cơ bản, và các thế hệ về sau nghiên cứu phát triển thêm học thuyết này.
Ở Trung Hoa người đầu tiên có công trong bộ môn khoa học này là Quản Lộ, ông sống vào thời kỳ Tam quốc (184 - 280 sau CN). Quản Lộ tự là Công Minh, là người Bình Nguyên, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, ông là người dung mạo thô xấu, gọi là dị tướng, tính khí lông bông, ham rượu. Quản Lộ xuất thân trong một gia đình trí thức nhỏ thời bấy giờ. Khi còn nhỏ, ông là người ham tìm hiểu khám phá về thiên văn, địa lý phong thủy. Lúc trưởng thành ông tinh thông Dịch lý huyền cơ, nổi tiếng dự đoán, ứng nghiệm như thần. Có lần, Quản Lộ còn đoán số cho Tào Tháo.
Về phong thủy – địa lý, ông giỏi cả về âm trạch lẫn dương trạch. Tác phẩm của ông về môn khoa học này là “Quản Thị địa lý chỉ mông”, gồm 10 cuốn, 100 thiên, nội dung rất sâu sắc, huyền bí
Quách Phác đời Tấn tự là Cảnh Đôn, sinh ra tại Hà Đông nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Ông sống vào thời Tấn (276 - 324). Sách Thái Bình quảng ký viết về ông: “Quách Phác hiểu biết bao la, biết thiên văn, địa lý, quy thủ long đồ, hào tượng sấm vĩ, bói dịch bằng mai rùa, cỏ thi, lời sấm ngữ, đặt mộ,chọn đất ở… không gì là không tinh thông”. Ông để lại hai cuốn tài liệu “Táng thư” (âm trạch), “Tướng địa thuật” (Dương trạch)
Dương Quân Tùng đời Đường : tên húy của ông là Ích, tự Thúc Mậu, Quân Tùng là biệt hiệu. Ông sống vào thời nhà Đường (617 - 907), sinh tại Quảng Châu. Dương Tùng Quân từng giữ chức quan trông coi việc xem thiên văn, dự đoán vận mệnh quốc gia, phong thủy địa lý, tế lễ quan trọng trong triều đình. Trước khi Hoàng Sào khởi nghĩ lật đổ triều Đường, ông tiên liệu được việc này và về quê ở ẩn.
Dương Quân Tùng, soạn sách “Chính long tử kinh”, mở đầu cho học thuyết phong thủy Loan đầu*
Trải qua mấy thế kỷ loạn lạc, đến đời Tống, Lại Văn Tuấn kế thừa sự nghiệp của các danh sư trước đó. Lại Văn Tuấn tự là Thái Tố, làm quan tại Phúc Kiến. Là một danh gia địa lý – phong thủy
Trần Đoàn đời Tống, tự là Đồ Nam, hiệu là Hy Di, người An Huy. Ông từng có cơ duyên gặp Vua Tống Thái Tổ, khi còn nhỏ, được mẹ đưa đi chạy loạn. Sinh thời được chứng kiến Vua Tống gây dựng cơ nghiệp thái bình. Ông tinh thông dịch lý, âm dương ngũ hành, tò tường vạn sự, là tổ sư môn Tử vi đẩu số, Hà lạc bát tự, về phong thủy, ông cũng có đóng góp lớn lao, học thuyết của ông ứng dụng nhuần nhuyễn Kinh dịch vào phong thủy, từ khí suy ra lý
Lưu Cơ đời Minh tự là Bá Ôn. Ông là người Triết Giang. Lưu Cơ là quân sư xuất sắc giúp vua Thái Tổ Chu Nguyên Chương khởi nghĩa nông dân, đánh đuổi, đạp tan ách đô hộ của nhà Nguyên, dựng nên triều Minh (1368 - 1644). Về học thuật, ông soạn sách “Kham dư mạn hứng” nội dung của sách là những điều ông tâm đắc và bí kíp về địa lý phong thủy. Hiện nay tài liệu này vẫn còn được lưu truyền, biên soạn và học tập
Ở nước ta, phong thủy bắt đầu từ thời Hùng vương dựng nước, Vua Hùng định đô ở Phú Thọ, chọn thế đất có 99 ngọn núi quy tụ,như 99 con voi cùng triều về, vượng khí chói chang, dựng nên cơ nghiệp đế vương truyền tới 18 đời vua
Đến Vua Thái Tổ Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lư – Ninh Bình về Đại La năm 1010, mà nay là thủ đô Hà Nội cũng là một quyết định sáng suốt, có tầm nhìn chiến lược về phong thủy…Trong chiếu dời đô Vua viết:
“Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Chu Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, nhà Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?” (Trích Chiếu dời đô – Lý Thái Tổ)
Tả Ao tiên sinh, một người Việt Nam là học trò chân truyền của môn địa lý, phong thủy, là người đặt nền móng và đưa phong thủy nước ta lên một tầm cao mới. Cụ Tả Ao tên thật là Nguyễn Đức Huyên, quê tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cụ sống vào thời Vua Lê – Chúa Trịnh, không rõ năm sinh, năm mất. Sinh thời, cụ xuất thân trong một gia đình nghèo khó, thân mẫu bị bệnh, cụ theo một thầy thuốc Tàu sang Trung Hoa học về y thuật và xin thuốc để trị bệnh cho mẹ. Trong quá trình học tập, cụ chữa khỏi mắt cho một thầy địa lý người Hoa. Thầy địa lý thấy cụ là người chí hiếu, chí tình, tận tâm, trung hậu, đĩnh ngộ hơn người, nên đã đem toàn bộ bí kíp về địa lý – phong thủy truyền lại cho cụ, chỉ sau một năm cụ nhuần nhuyễn, tinh thông môn khoa học này. Sau này về nước cụ vừa dùng y thuật chữa bệnh, khi nào cần thiết thì cụ mới dùng tới môn địa lý phong thủy, tuy nhiên, về phong thủy danh tiếng của cụ lẫy lừng trong nước. Di sản để lại của cụ gồm có sách “Địa đạo diễn ca” và “Dã đàm Tả Ao”, được coi là tài liệu quý hiếm về chuyên ngành địa lý, phong thủy. Ngày nay, sách của cụ vẫn được in ấn, xuất bản, lưu hành, nghiên cứu.
Cụ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, cụ sống vào thời Tây Sơn, từng giúp vua Quang Trung trù liệu kế hoạch đuổi quân Thanh xâm lược, lo công việc nội trị, đổi mới về kinh tế, sản xuất, và văn hóa giáo dục. Theo sách Tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương, thì Phu tử mệnh lập tại Tỵ, đắc Thiên cơ thế vượng, văn tinh hội hợp rất mạnh, nên cụ nổi tiếng thông minh quán chúng, văn chương nổi tiếng. Không những thế, Thiên cơ còn là một sao học thuật, cụ nổi tiếng về nhâm độn và địa lý, phong thủy. Tiếc rằng, các thế hệ sau như chúng ta không được học tập di sản của cụ.
Cụ Nguyễn Sinh Khiêm – anh trai Hồ Chủ tịch cũng là một nhà phong thủy nổi tiếng. Theo “Búp sen xanh” của Sơn Tùng, “Những người thân trong gia đình Bác Hồ”, thì cụ Nguyễn Sinh Khiêm là một trí thức yêu nước chân chính, xuất thân từ Nho học, cụ được kế thừa và truyền dạy về thuật phong thủy, sinh thời cụ tư vấn, hướng dẫn người khác thiết kế nhà ở, bằng một phương pháp độc đáo và sáng tạo của riêng cụ. Cụ cũng là người có công lao đối với nên phong thủy của dân tộc.
Giáo sư Vũ Kiêu có viết về thời dựng nước của dân tộc ta:
"Cuộc mưu sinh vất vả khôn cùng
Đường lập nghiệp gian nan xiết kể
Nào rừng rậm, đầm lầy, núi thẳm, sông sâu há quản xông pha
Nào hổ báo, kình nghê, bão giông, bệnh tật, lấy gì bảo vệ…?"
Ngày nay, chúng ta sống trong một xã hội thái bình, không còn chiến tranh, nghèo đói đe dọa nữa. Đã xa rồi cái thời kỳ con người không thể làm chủ tự nhiên, luôn luôn bị chi phối, lệ thuộc, và nơm nớp lo sợ. Cuộc sống của chúng ta càng văn minh, nhân ái và hạnh phúc, thì vấn đề xây dựng, thiết kế, các công trình nhà ở, dân sinh, dân sự càng phải khoa học, hợp lý. Và vì lẽ đó, giá trị của phong thủy lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn.
Thủy Lưu sưu tầm
Theo quan niệm phong thủy về hướng nhà, cửa chính của ngôi nhà hợp với tuổi của chủ nhân ngôi nhà sẽ mang đến nguồn năng lượng tốt nhất. Tuy nhiên, khi xây cất nhà cửa, đôi khi bất đắc dĩ mà hướng cửa này không thuận với tuổi của gia chủ.
Chuyên gia phong thủy Phạm Cương nhận định: "Đối với những căn nhà không hợp tuổi phong thủy với gia chủ có thể chỉnh sửa được 70 – 80%". Để khắc phục, mời bạn tham khảo một số cách đơn giản dưới đây, theo gợi ý của nhóm nhà nghiên cứu phong thủy Trần Đức Thịnh, Nguyễn Văn Trình:
Sử dụng một cửa khác thường xuyên hơn
Một cách đơn giản và điển hình để đối phó với hướng phong thủy xấu hoặc không thuận là làm suy yếu yếu tố phong thủy của nó. Nếu cửa chính là bạn có hướng phong thủy không may mắn, các kiến trúc sư thường đưa ra lời khuyên xây thêm một cửa phụ ở hướng khác.
Lúc này cửa chính chỉ mang tính chất tượng trưng, việc sử dụng cửa phụ thường xuyên hơn sẽ có tác dụng phong thủy ngăn nguồn năng lượng tiêu cực không có cơ hội lọt sâu vào nhà bạn. Giải pháp này không quá phức tạp và dễ thực hiện.
![]() |
![]() |
![]() |
ến cho người trong nhà tài vận trì trệ, sức khoẻ bị tổn hại, làm việc gì cũng không được như ý muốn.
(1) Cải tạo cửa sổ có hướng không tốt
Mọi người đều nói rằng “hướng quỷ môn không nên đặt cửa sổ”. Nhưng cửa trời, cửa đất, cửa vách thì không tính trong đó. Nếu cứa sổ và cửa ra vào nằm trên đường quỷ môn Đông Bắc hoặc Tây Bắc sẽ dễ xảy ra hung tướng, gặp nạn trộm cắp.
Nếu là cửa sau nhà, cửa phòng bếp thì tốt nhất sử dụng cách an toàn hơn cả là dỡ bỏ nó đi, xây bịt lại và mở cửa sổ khác.
Cửa sổ mở ra hướng Đông Bắc thường ít gặp, nhưng ở hướng quỷ môn Tây Nam thì lại thường gặp, cửa nằm trên đường quỷ môn phải dược cải tạo thành vách tường, nếu thực tế khó cải tạo được thì nên lắp kính cố định cho cửa. Sau đó trồng cây phía bên ngoài kính, như vậy sẽ càng an toàn hơn.
Cứa sổ trên đường quỷ môn có thể dùng cánh cứa gỗ chắn lại hoặc cố định lại bằng kính là hay nhất.
Về phương diện phong thuỷ, có một quan niệm sai lầm cho rằng phần cửa mở đều thuộc vị trí hung tà. Sự thực không phải là như vậy. Với nhà ở loại lớn, trên đường quỷ môn tốt nhất là không có phần cửa mở, nhưng với nhà rộng dưới 70m2 thì để tăng cường lưu thông không khí và lấy ánh sáng, căn bản không cần phải đóng kín đường quỷ môn lại. Trường hợp này có thể cải tạo phần cửa mở thành cửa sổ vách, nếu cảm thấy không an toàn, có thể cải tạo thành cửa sổ cao để làm cho khí lưu thông thịnh vượng. Ở đây cái gọi là phần cửa mở chí hạn chế với cửa phòng bếp, cửa trước và cửa sổ thấp.
(2) Cấm kị về hướng đối với cửa ra vào và cửa số
Phong thuỷ học cho rằng, cửa sổ là cổng nạp khí. Nếu cửa số có sát khí sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và tài vận của người trong nhà.
Tốt nhất là trước cứa sổ không bị che chắn, tầm nhìn phải xa, rộng và thoáng. Nếu cửa sổ đối diện với đường xe chạy hoặc có sông bao quanh thì càng lý tưởng, nó tượng trưng cho có cả danh lẫn lợi, thăng tiến và tài vận.
Nếu muốn tăng dần vận thế có thể đặt một hình rồng màu ánh kim cạnh cửa sổ, đầu rồng hướng ra bên ngoài để tăng vượng thế.
Nếu cửa số đối diện với vật thể như hình góc nhọn, kiến trúc có hình như lưỡi dao, kính phán xạ, cột đèn diện, tháp diện sẽ gây bất lợi về sức khoẻ, có thể còn gây ra hoả hoạn cho nhà. Để hoá giải nó có thể treo một thanh kiếm nhỏ bên ngoài cửa số, mùi kiếm hướng về hướng có sát để chém trừ khí hung sát.
Nếu cứa sổ đối diện với bệnh viện, nhà xác, bãi tha ma, miếu tự, cục cảnh sát, nhà tù, trạm giết mổ, bãi rác, bãi xử bắn đều bất lợi đối với tài vận, sự nghiệp, sức khoẻ và tình cảm của người trú ngụ trong nhà. Để hoá giải có thế treo một quả hồ lô thật bên ngoài cửa sổ, mở nắp hồ lô ra để thu khí oan sát và khí ô uế vào đó.
Nếu cửa sổ đối diện với xa lộ hoặc dòng nước uốn lượn hình cây cung, như vậy không khác gì bị lưỡi dao cắt ngang nhà, điều này tượng trưng cho tình cảm rạn vỡ, tiền tài đến rồi lại đi ngay. Để hoá giải nó có thể đặt ở vị trí này một hình tì hưu, có tác dụng tránh tà chặn sát, vượng tài, có lợi cho tích luỹ của cải trong nhà.
Cứa sổ đối diện với khe trống tiếp giáp giữa hai toà nhà, hoạn nạn có thể xảy ra. Nếu nhà bạn ở trên tầng cao hoặc khe tiếp giáp rất rộng thì không bị ảnh hưởng. Để hoá giải, có thể treo một chiếc gương lồi trên cửa sổ và dùng rèm che.
"Bối diện" còn có tên gọi khác là "diện bối", "hướng bối". Nó dùng để chỉ "lưng và mặt long mạch" (tức là chính diện long mạch).
![]() |
Hình vẽ thừa phong giới thủy 1. Giới thủy; 2. Triều sơn |
Các nhà phong thủy cho rằng, long mạch kết huyệt chỉ cần chú ý đến chính diện, không cần chú ý mặt sau lưng của long mạch. Như vậy, chỉ vị trí này có thể xây nhà hoặc đặt mộ.
Tuy nhiên, long mạch chạy uốn lượn, khi ở hướng Bắc, khi ở hướng Tây, trước mặt sau lưng khó phân biệt. Bởi vậy, các nhà phong thủy căn cứ vào hình dáng núi để xác định diện bối long mạch.
Khi long mạch đang chạy mà dừng lại, mặt phải hướng về phía trước, thủy cũng có thế như vậy, núi bao bọc. Vì thế, lấy dòng nước chảy chậm bao bọc đất làm chính diện. Núi chuyển theo nước, chúng thủy triều tụ là chính diện. Núi cũng thoai thoải, lấy đó làm chính diện, mặt dựng đứng, hiểm trở là lưng.
Điều này cũng được sách Hám Long Kinh nhắc đến: "Nếu mặt phải là rộng và bằng phẳng, nếu là lưng thì là đá dốc dựng đứng. Đặt mộ ở mặt bằng phẳng sẽ có thế sa bao thủy bọc". Nếu mặt nào có cây cối tốt tươi, hình sơn tú lệ chứng tỏ sinh khí tụ. Vì vậy, lấy mặt đầy đặn làm chính diện, mặt khô cháy, u ám làm lưng.
Phân biệt "lưng" và "mặt" là khâu then chốt để điểm huyệt. Nếu xác định sai, đặt huyệt lẫn lộn, không phân biệt được cát hung. Nếu xác định đúng, tầm long đặt huyệt chuẩn, chân long kết huyệt ở chính diện. Táng đất này, gia chủ và hậu thế hưởng vinh hoa, phú quý.
(Theo Bí ẩn thời vận)
![]() |
Người bình thường đều cho rằng may mắn chính là có tài vận, nhưng thực ra hai điều này có sự khác biệt. Bàn tay của con người chỉ có thể cho thấy được sự giàu sang của một người.
Ví như, người có đôi bàn tay dày dặn sẽ thông qua nỗ lực của bản thân mà có được sự giàu sang phú quý, còn người có đôi bàn tay mềm mại thì thiên về hưởng thụ, cụ thể còn phải xem một vài đặc điểm đặc trưng mới có thể khẳng định được, mời các bạn cùng xemboituong tìm hiểu…
Mối quan hệ giữa ngón tay và tài phú
Để hình dung một người tiêu tiền hoang phí vô độ, dân gian thường dùng các câu nói như “tiêu tiền như nước”, tiền lọt qua kẽ tay, thực ra thông qua bàn tay chúng ta có thể nhận biết được rất nhiêu thông tin liên quan đến tiền bạc. Trong thuật xem bói chỉ tay chỉ ra rằng ngón tay trỏ thẳng là biểu thị danh lợi đạm bạc, không bị tiền bạc khống chế. Ngón trỏ nghiêng lệch về phía ngón tay cái, biểu thị là người thích đầu tư mạo hiểm, có thể trở thành thương gia chuyên đầu tư mạo hiểm trong thương giới. Ngón trỏ tựa sát vào ngón giữa, biểu thị là người xử lý sự việc chu đáo, cẩn thận, nếu như khoảng cách giữa hai ngón tay này sát nhau, biểu thị người này làm bất cứ việc gì cũng đều phải có sự chắc chắn, không đầu tư mạo hiểm. Ngón giữa khá ngắn, biểu thị là người danh tiếng kém, trong lĩnh vực tiền bạc họ không đáng tin cậy.
– Gò Kim tỉnh có hình sao, danh tiếng cao
Thuật xem bói người xưa đúc kết lại những người có bàn tay này cho thấy thành công và tiền bạc cùng nhau tìm đến, cho nên người có bàn tay như vậy thường có vận khí tốt, cuộc sống hôn nhân cũng mỹ mãn, hơn nữa họ còn có danh tiếng nhất định trong xã hội.
Đường chỉ tay hình ngôi sao xuất hiện đơn độc trên gò Thái dương, cho thấy là người có tài năng bẩm sinh siêu phàm, hơn nữa có thế dựa vào đó đế đạt được danh tiếng và tiền bạc.
– Đường Công danh có hình sao, tiền bạc đến bất ngờ
Bàn tay xuất hiện hình sao cho thấy đây là người có tài năng (như hình 1), và có thế đạt được thành công, nhưng nếu hình sao xuất hiện trên đường Công danh, thì cho thấy là sẽ gặp được vận mav vô cùng tốt.
– Ngón vô danh dài hơn ngón tay gỉữa, là tay cờ bạc
Người có ngón vô danh dài, đặc biệt là ngón vô danh này còn dài hơn ngón giữa (như hĩnh 2), là bàn tay của kẻ cờ bạc.
Tôn Quyền đích thực là bậc anh hùng, từng được Tào Tháo tán thưởng - "Sinh con phải như Tôn Trọng Mưu".
Dưới thời Tôn Quyền cai trị Đông Ngô, thế lực nước này được xem là hùng mạnh. Là quận chúa của Đông Ngô, Tôn Thượng Hương cũng được xem là "cành vàng lá ngọc".
Trong khi đó, Lưu Bị dù là lãnh đạo một thế lực quân phiệt, dù được tiếng "ngang vai" với Tôn Quyền, nhưng thực lực kém xa.
Hơn nữa, Bị được đánh giá là "quê mùa chất phác, phiêu bạt nửa đời người". Bất luận Bị và Tôn Thượng Hương "tương ngộ" ra sao đều bị coi là "một sai lầm".
Chính vì vậy, nguyên nhân thực sự khiến bá chủ Giang Đông chịu gả "kim chi ngọc diệp" Tôn Thượng Hương cho "ông già" Lưu Bị, đến nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Tôn Thượng Hương chỉ là quân cờ trong cục diện "tam phân thiên hạ", vốn đã nằm trong tính toán của Tôn Quyền?
Tôn Quyền có sợ Lưu Bị?
Thực tế, với thực lực quân sự của Đông Ngô, Tôn Quyền không hề e ngại thế lực của Bị.
Thứ nhất, dưới trướng Đông Ngô, nhân tài văn võ "như mây trên trời", Giang Đông nổi danh "địa linh nhân kiệt".
Văn thần có Trương Chiêu, Trương Hoành, Gia Cát Cẩn... Võ tướng có Cam Ninh, Trình Phổ, Hoàng Cái, Lăng Thống...
Các nhân vật như Chu Du, Lỗ Túc, Lục Tốn thậm chí được đánh giá là "dụng binh như thần", văn võ kiêm toàn.
Ngoại trừ quy mô tổng thể lực lượng và địa bàn Đông Ngô không bằng Tào Ngụy, Tôn Quyền thực chất hoàn toàn có khả năng "ngẩng cao đầu" làm bá chủ Giang Đông.
Thứ hai, Tôn Quyền đã là đời thứ 3 của Tôn gia cát cứ Giang Đông.
Trải qua 3 đời phát triển, dân giàu nước mạnh, hiền tài "tùy nghi sử dụng". Về điểm này, Gia Cát Lượng đã nói với Lưu Bị ngay từ ngày Lượng "xuất sơn".
Đông Ngô, không cần nghi ngờ gì, là lực lượng "binh hùng tướng mạnh", Lưu Bị không phải ngày một ngày hai có thể so bì được.
Thứ ba, Tôn Quyền cùng Chu Du sau khi đại thắng tại Xích Bích, tiếng tăm lừng lẫy vô cùng.
Bên cạnh đó, trong vai trò là phe cầm trịch trong liên minh quân sự với Lưu Bị, thực lực Đông Ngô cũng hoàn toàn áp đảo Lưu Bị - thời điểm đó lực lượng thiệt hại nghiêm trọng sau thất bại ở Kinh Châu trước Tào Tháo.
Lý do Lưu Bị lấy được mỹ nhân Tôn Thượng Hương
Nhận định rõ Tào Tháo là kẻ địch lớn nhất, chính Tôn Quyền chủ trương "liên Thục kháng Tào"?
Việc Tôn Quyền gả Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị, sử liệu Trung Quốc nói rằng không phải do mưu kế của Chu Du, mà thực chất là Tôn Quyền "cam tâm tình nguyện".
Trong "Tam Quốc Chí - Lưu Bị bản truyện", sử gia Trần Thọ cho rằng, Tôn Quyền nhận thấy thế lực của Lưu Bị dần dần lớn mạnh, nên mới chủ động gả em gái cho Bị.
Hôn sự này được diễn ra vào năm 209 (năm Kiến An thứ 14, Hán Hiến Đế). Việc Lưu Bị rước dâu Giang Đông là một trong những sự kiện lịch sử trọng đại.
Các học giả hiện đại đã nêu ra một số luận điểm để lý giải tính toán của Tôn Quyền khi kết thông gia với Thục Hán.
Thứ nhất, Tôn Quyền xét đến toàn cục.
Ngay từ trước đại chiến Xích Bích, Lỗ Túc đã khuyên Tôn Quyền "nên qua lại" với Bị.
Thời điểm đó, Tào Tháo vừa đoạt Kinh Châu từ tay Lưu Bị. Với tài năng chính trị trác tuyệt của mình, Lỗ Túc đã không bỏ lỡ thời cơ "hội kiến" và lung lạc Bị, nhờ đó mới hình thành liên minh Tôn - Lưu, đem tới chiến thắng Xích Bích.
Đặc biệt hơn, đại chiến Xích Bích là chiến dịch quan trọng nhất trong lịch sử Tam Quốc, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành cục diện "tam phân thiên hạ".
Lưu Bị đã nhanh tay chiếm giữ 4 quận Kinh Nam, đẩy mạnh bành trướng thế lực quân sự, khiến Tôn Quyền "phải nhìn mình bằng con mắt khác".
Thứ hai, Tôn Thượng Hương là con gái Tôn gia Giang Đông, quan điểm của Tôn Quyền đương nhiên cho rằng em gái mình có nghĩa vụ hy sinh cho đại nghiệp của Tôn gia.
Nếu nàng không hy sinh hạnh phúc cá nhân, liên minh Tôn - Lưu khó có khả năng củng cố sâu sắc mối quan hệ, cùng tiến công Tào Tháo.
Thứ ba, dù hoàn cảnh, vai vế khác nhau, nhưng có một điều không thể phủ nhận rằng, Lưu Bị và Tôn Quyền đều là những bậc anh hùng thời Hán mạt, "chí lớn gặp nhau" cũng không phải là điều khó hiểu.
"Tiên chủ (Lưu Bị) đến Kinh (Giang Tô Trấn Giang ngày nay) gặp Quyền, giống như tri kỷ".
Luận điểm này cho rằng, hoàn toàn không có chuyện Tôn Quyền "giả hứa hôn" để mưu hại Lưu Bị.
Chu Du nhận định Lưu Bị là đối thủ nguy hiểm, cần phải trừ khử. Nhưng Tôn Quyền đã chủ định cùng Thục, Ngụy hình thành cục diện "tam phân thiên hạ".
Thứ tư, Chu Du từng muốn "triệt" Lưu Bị để trừ hậu họa.
Sau khi Du biết tin Lưu Bị tới Đông Ngô thành hôn, đã vội gửi thư cho Tôn Quyền.
Trong thư, Chu Du viết - "Lưu Bị là bậc kiêu hùng, lại có hổ tướng như Quan Trương, tuyệt đối không phải kẻ chấp nhận đứng dưới người khác".
Chu Du can gián Tôn Quyền nên tìm cách giữ Lưu Bị, đồng thời thực hiện kế ly gián quan hệ giữa Bị và các tướng Quan Vũ, Trương Phi.
Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm của Chu Du, nhân vật mưu lược như Tôn Quyền cũng có kiến giải của riêng mình.
Quyền hiểu rõ mặc dù Tào Ngụy là phe bại trận ở Xích Bích, nhưng vẫn là mối đe dọa lớn nhất đối với Giang Nam.
Việc mượn thế lực Lưu Bị trấn thủ Kinh Châu, đẩy Bị vào vị trí đối đầu trực diện với Tào Ngụy, để cho Đông Ngô có thêm nhiều sự lựa chọn chiến lược, chính là suy tính lớn nhất của Tôn Quyền khi tác hợp "mối lương duyên" của Bị và Tôn Thượng Hương.
Vì vậy, Quyền mới không nghe Chu Du, mà vẫn kết thân cùng Lưu Bị.
Tiếc rằng, nhiều chuyện về sau đã không theo đúng định hướng của Tôn Quyền, đặc biệt là mối quan hệ Lưu Bị - Quan Vũ - Tôn Quyền, dẫn đến liên minh quân sự tan rã.
Dù vậy, Đông Ngô vẫn "nuốt trọn" 9 quận Kinh Tương.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra, hôn nhân Lưu Bị - Tôn Thượng Hương hoàn toàn không phải là "mỹ nhân kế", mà là một cuộc hôn nhân chính trị hoàn toàn bình thường vào thời đại đó.
Vấn đề cuộc sống vợ chồng Lưu Bị có hạnh phúc hay không, thực tế không phải là mối quan tâm của Tôn Quyền.
Điều quan trọng là, Tôn gia Giang Đông đã "có chân" ở ít nhất 2 thế lực quân phiệt trong cục diện "tam phân thiên hạ".
Trong vị thế một lãnh đạo quốc gia, hiển nhiên Tôn Trọng Mưu chỉ chú trọng tới đại nghiệp của Đông Ngô, tới việc ông có thể giữ vững địa bàn Giang Đông hay không.
Tôn Thượng Hương là một nhân vật đầy cá tính trong "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, nhưng thực tế có lẽ chỉ đóng vai trò "quân tốt" trên bàn cờ của người anh Tôn Quyền.
theo Trí Thức Trẻ
Sinh năm 1981 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi nào? Nên chọn nghề nào, đặt bàn làm việc hướng nào thì hợp.
Những bài viết mới nhất:
+ Tuổi Canh Thân hợp với tuổi nào trong làm ăn
+ Tuổi Kỷ Mùi hợp làm ăn với tuổ nào?
+ Tuổi Mậu Ngọ hợp làm ăn với tuổi nào?
Tuổi Tân Dậu, sinh năm 1981 tuổi con gà, cung mệnh Càn, mạng cốt tinh Mộc.
Tính cách của người tuổi Tân Dậu: Là người thông minh, lanh lợi, sáng suốt, được người khác nể trọng, thích cuộc sống tự do, không chịu gò bó. Là người hiền hậu, có đạo đức, những tâm trạng thường hay buồn rầu vô cớ. Có ý chí tự lập, không nên quá tự cao, sỹ diện mà rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Nếu tỉnh táo và sáng suốt thì sự nghiệp mới có thể thăng tiến.
Nghề nghiệp thích hợp với người tuổi Tân Dậu: Nghề kỹ nghệ, hoặc kỹ thuật, mỹ nghệ hoặc mỹ thuật thì thích hợp hơn.
Chọn những người có mệnh Thủy ( gồm các tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu) thì tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi này, công việc thuận lợi, làm ăn phát đạt.
Chọn những người có mệnh Hỏa ( gồm các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi) thì người tuổi Tân Dậu thường là trợ lí hoặc cấp dưới của người mệnh Hỏa thì công việc mới thuận buồm xuôi gió.
Chọn những người có mệnh Mộc ( gồm các tuổi Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu) thì công việc bình hòa, làm ăn thuận lợi.
Tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi ( thuộc mệnh Thổ) thì người tuổi Tân Dậu tạo được điều kiện phát triển trong sự nghiệp.
Chọn những người có mệnh Kim (gồm các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ) thì tuổi Tân Dậu không hợp làm ăn với các tuổi này thì sẽ gặp khó khăn, công việc nhiều trở ngại.
Màu hợp với tuổi Tân Dậu: Tuổi Tân Dậu hợp với màu xanh lúc, xanh biển đậm, tránh màu sáng, ánh kim, đen.
Hướng đặt bàn làm việc hợp tuổi Tân Dậu: Phương vị tài thần hợp với tuổi Tân Dậu nam mạng là hướng Tây - Bắc, đối với nữ giới nên đặt bàn làm việc nhìn hướng Tây - Nam.
Trên đây là những tuổi hợp làm ăn với người tuổi Tân Dậu và các tuổi không hợp làm ăn với người tuổi Tân Dậu. Bạn có thể tham khảo để chọn được đối tác làm ăn phù hợp nhất.
Xem tướng; Mỗi nốt ruồi trên cơ thể đều mang lại ý nghĩa khác nhau, có thể từ đó đoán ra phần nào tính cách, vận số của một người. Cùng khám phá những …
Xem tướng; Khám phá xem bạn có những nốt ruồi may mắn dưới đây hay không?
1. Nốt ruồi giữa đỉnh đầu: Bạn may mắn nếu sở hữu nốt ruồi này. Tuy nhiên, đây là nốt ruồi rất khó phát hiện, trừ khi bạn bị… hói!
2. Nốt ruồi giữa trán: Đây là người gặp nhiều may mắn trong cuộc sống; trưởng thành sớm.
3. Nốt ruồi giữa cằm: Người này thời trẻ đã có suy nghĩ thấu đáo, làm việc cẩn trọng, dễ chiếm được lòng tin của người khác.
4. Nốt ruồi vuông góc dưới môi: Là người có năng lực, quyết đoán.
5. Phần giữa 2 bên cằm có nốt ruồi: Là người tài giỏi, có tư tưởng cầu tiến, dễ thành công. Tuy nhiên, đôi khi lại nói ra những lời làm tổn thương người khác.
6. Nốt ruồi ở nách: Người này có thể không giỏi kiếm tiền nhưng khi cơ hội đến, họ biết tận dụng để làm giàu, đồng thời có khả năng quản lý tài chính tốt.
7. Nốt ruồi ở đầu gối: Là cao thủ trong việc nắm giữ tiền bạc.
8. Nốt ruồi ở mông: Là người có năng khiếu nghệ thuật.
9. Phần giữa 2 bên trán có nốt ruồi: Đây là đối tượng kết hôn lý tưởng.
10. Dưới rốn có nốt ruồi: Là người đáng yêu mặc dù năng lực sáng tạo không cao.
Với tranh về hoa, cho dù là nhà ở, văn phòng làm việc hay cửa hiệu, việc sử dụng một cách khéo léo các tranh hoa chính là thể hiện sự thành khẩn một cách tao nhã. Nhìn những tranh hoa đẹp thường làm cho con người cảm thấy yên tĩnh, nhẹ nhõm, thanh thản, vô hình trung đã loại bỏ đi sự nóng nảy, bực dọc, tránh gây ra bất hòa trong các mối quan hệ giữa người với người, và ngăn ngừa chúng ta chỉ biết đắm chìm trong những khó khăn, thiếu thốn của hoàn cảnh hoặc cuộc sống. Có thể nói, nó có thể kích thích chúng ta hướng theo hướng tích cực và đạt được một thành tựu trong sự nghiệp. Không chỉ thế, trong phong thủy, các loài hoa từ ngàn xưa đã được nghiên cứu và chứng minh có nhiều công dụng với phong thủy. Với mỗi loài hoa khác nhau, lại mang trong mình một ý nghĩa phong thủy khác nhau:
Hoa sen: Trong Phong Thủy, hoa sen tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, sự hoàn hảo cuối cùng bởi sen là loài hoa mọc trong bùn nhơ nhưng luôn thanh cao, tinh khiết. Biểu tượng của nhà Phật, của thế giới Phật Pháp Vô Biên chính là hoa sen. Sử dụng tranh sen có tác dụng điều hoà khí vượng, tăng cường những nguồn năng lượng về sức khoẻ cho ngôi nhà., giúp gia chủ gỡ bỏ mọi ưu phiền, để tĩnh tâm, an hưởng hạnh phúc
Vị trí gợi ý:
Phòng khách của nhà riêng hay công ty đều có thể có thể lựa chọn các loại tranh vẽ trúc phú quý, cây lan đuôi hổ, xương rồng, cây thủy tùng, sen nhiều lá, cây cọ, cây phát tài, cây lan quân tử, cây lan cầu, hoa lan, hoa anh thảo, tắc, cây dương xỉ, cây huyết dụ…, các hoa này là “vật may mắn” trong phong thủy học, hàm ý như ý cát tường, tụ tài phát phúc.
Hãy đem những bức tranh vẽ hoa đầy màu sắc vào văn phòng hay căn phòng nhà bạn, bạn sẽ giúp cho luồng khí nơi đó được điều hoà và trôi chảy.
Nguồn: VietGem (st)
Bò phong thủy
Từ xưa đến nay Việt Nam là một nước nông nghiệp, chính vì vậy mà bò cày ruộng trở thành tay trợ giúp tốt nhất của nhà nông.
Thêm vào đó bản thân chúng còn có tính chịu khổ chịu khó, hơn nữa những thực phẩm cùng loại đều có thể ăn lẫn lộn nhau, giống như bò sữa, bò thịt… Chính vì vậy mà trong phong thủy bò được coi là con vật cát tường. Chúng ta cũng có thể dùng tập tính của bò để đặt trong phong thủy có thể chiếu đến phúc khí, có lợi cho sự nghiệp, vượng động sinh tài.
Nếu có thể hoàn toàn phát huy linh lực của bò trong phong thủy, cần phải chú ý những điểm dưới dây:
Chất liệu: Những con bò phong thủy được tạo ra từ vàng là tốt nhất, toàn thân dát vàng sáng chói, sẽ có ảnh hưởng tuyệt đối tới sự nghiệp và vượng động sinh tài. Nếu là dùng đồng để tạo ra bò phong thủy, thì bề mặt tốt nhất cũng nên đắt vàng, đế có thể phát ra ánh vàng lấp lánh. Giả sử dùng chất liệu gốm sứ cùng có thể được, có điều đối với vị trí bày đặt thì lại cần sự cân nhắc kỹ lưỡng. Kỵ nhất là không thể dùng bò phong thủy được làm bằng chất liệu gỗ, bởi vì căn cử vào Ngũ hành, Sửu thuộc Thô, Mộc khắc Thổ, ngược lại nó sẽ chảng có tác dụng gì trong việc phát huy sinh khi.
Thần sắc: Việc chế tác cẩn thận, tỉ mỉ hay không lại không quan trọng, điều cần chú ý đó là thần thái, cần phải nắm vững một cách đầy đủ những đặc tính như: điền hoà, ổn thực, hiền hậu, khắc khổ chịu khó. Đối với việc lựa chọn màu sắc nước sơn thì nên dùng màu vàng quý hoặc màu vàng bình thường.
Phương vị và số lượng: Do bò thuộc Sửu, đối với phương vị mà nói chính là phương hướng phía Đông Bắc liền Bắc. Chính vì vậy đặt ở những vị trí này là tốt nhất, hơn nữa đối với tam hợp Tỵ Dậu Sửu mà nói thì cũng có thể lựa chọn phương vị của Tỵ và Dậu đều được. Hơn nữa, phương vị của Mùi phía Tây Nam lệch Nam lại không thích hợp đặt ở vị trí này, chính vì vậy những vật có liên quan đến Mùi đặt phương vị của bò đặt làm vị trí phong thủy của Mùi. Còn vế số lượng thì không nên dùng nhiều mà chủ yếu là tỉnh, thậm chí chỉ cần một con cũng tương đối đủ để thu tài rồi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Cổng đóng một vai trò quan trọng trong phong thủy của ngôi nhà, vì đây là nơi đầu tiên tiếp nhận dòng khí tốt hoặc xẩu vào trong ngôi nhà.
Trong một số trường họp, vì nhiều yếu tố bạn không thể lựa chọn vị trí đẹp nhất cho cổng và phải chấp nhận việc cổng chính nằm hướng xấu.
Sau đây là một số hướng không tốt cho việc đặt cổng chính cũng như gợi ý một số cách hóa giải những điểm xấu mà nó mang lại:
Cổng hướng về phía Bắc:
Theo phong thủy, cổng nằm ở hướng Bắc là không tốt, vì hướng Bắc là nơi phát ra gió lạnh. Loại cổng này có hại đối với sức khỏe của toàn thể gia đình. Ngoài ra còn làm cho quan hệ giữa vợ chồng, con cái lạnh nhạt. Nếu tình trạng này diễn ra lâu dài bao trùm toàn bộ không khí gia đình, chắc chắn sẽ tạo ra những tai họa nghiêm trọng.
Cách khắc phục:
Bạn có thể đặt một bức bình phong sau cửa nhà, hoặc treo rèm sau cánh cửa. Như vậy bạn có thể ngăn không cho không khí lạnh vào trong nhà, những con gió độc cũng sẽ ít hơn.
Cổng hướng về hướng Đông Bắc:
Đông Bắc là hướng của quỷ, do đó còn được gọi là quỷ môn. Trong phong thủy, điều kiêng kị nhất là không được đặt cổng ở trong quỷ môn. Nhà hướng này làm cho người sống trong đó có cảm giác mờ mịt, bất an.
Cách khắc phục:
Tại hai bên cánh cổng bạn có thể dán những hình xua đuổi ma quỷ, như thế sẽ có tác dụng đuổi tà. Ngoài ra, còn có thể dán nhiều tranh ảnh ở hành lang, đó có thể là những bức tranh phong cảnh màu sắc sặc sỡ hoặc những vật tương tự để tạo ra một không khí thanh thoát tươi tắn, đồng thòi biến khí âm thành dương. Cần chú ý giữ sạch sẽ khô ráo cho khu vực cửa, như thế có thể ngăn chặn giảm thiểu tối đa xảy ra những tai họa.
Cổng hướng về phía Đông bị trũng:
Cổng hướng về phía Đông, về cơ bản hầu như không xảy ra tai họa gì nghiêm trọng. Nhưng nếu cổng bị trũng, lõm thì sẽ không tốt. Nó sẽ khiến cho người sống trong nhà có cảm giác thiếu sinh khí, từ đó dễ sinh bệnh.
Cách khắc phục:
Trong trường hợp này tốt nhất chúng ta nên đặt những cây tùng hoặc mai ở hai bên cửa, tận dụng tinh khí mà trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây tạo ra để bổ sung cho năng lượng sống của gia đình.
Cổng hướng về phía Đông Nam bị trũng:
Trong phong thủy, cổng quay về hướng Đông Nam là may mắn, nhưng nếu là cổng trũng thì sẽ tạo ra tác dụng ngược lại.
Cách khắc phục:
Bạn có thể đặt một số chậu hoa cỏ ở trước cửa hoặc trong cửa có thể trang trí những sản phẩm bằng thạch anh hoặc bằng tre, trúc. Như vậy là bạn có thể đạt được mục đích tiêu trừ những hậu quả xấu.
Cổng quay về hướng Nam:
Cổng quay về hướng Nam cần đặc biệt chú ý không để cho phía bên trong cửa tối tăm. Theo phong thủy, đây là hướng sáng, vì vậy giữ cho nơi đây đầy đủ ánh sáng là rất quan trọng.
Cách khắc phục:
Không cần đặt các thiết bị ánh sáng ở khung cửa, trong cửa tốt nhất nên sử dụng các hình điêu khắc để trang trí, đồng thời tôn thờ thần linh theo tín ngưỡng của mình, như thế có thể phát huy được hết hiệu quả. Ngoài ra, do hướng Nam là biểu trưng cho danh dự, tài cán, vì thế phải giữ gìn sạch sẽ, quang đãng.
Cổng quay về hướng Tây Nam:
Giống như hướng Đông Bắc, hướng Tây Nam cũng bị coi là hướng xấu trong quỷ môn. Những hướng này nếu như giải quyết không hợp lý sẽ tạo ra tà khí, ngoài ra rất dễ gây tụ khí ẩm ở đây và tạo ra một môi trường ẩm ướt và lạnh lẽo.
Cách khắc phục:
Để giải quyết những ảnh hưởng không tốt này, chúng ta cần phải sử dụng các biện pháp để tiêu trừ những khí ẩm ướt và lạnh lẽo đó. Bạn có thể bày một số chậu hoa, hoặc treo những bức tranh dân gian xua đuổi tà ma. Ngoài ra, bạn cũng có thể trang trí thêm một số đồ trang trí làm bằng thạch anh hoặc bằng ngọc để tăng thêm tác dụng.
Cổng quay hướng về phía Tây lõm vào trong
Nếu như cổng quay về hướng này mà lõm vào phía bên trong, sẽ mang đến những hậu quả không tốt. Không những bạn không đạt được tài vận, mà thậm chí đến tiền tích góp, tiết kiệm cũng có thể tiêu tan.
Cách khắc phục:
Trong trường họp này, cách tốt nhất là sử dụng bình phong hoặc rèm cửa để chặn lại. Ngoài ra trên bề mặt các vật dụng trong gia đình bạn nên có các hình khắc. Điều này thể hiện tiền tiết kiệm trước kia của bạn không tiêu tan mà còn có thể khiến cho vận may đến với bạn.
Bài viết ghi chép lại một số bài và topic hay trên các diễn đàn lý số để nghiên cứu.
Chép lại bài viết trong thread diễn đàn của tác giả VDTT
Mỗi chúng ta có một loại cơ duyên, cũng có một loại nợ nào đó. Vì vậy người học Tử Vi đã tin một lối xem nào đó thì rất khó bỏ. Nhưng tối thiểu thời nay vấn đề truyền thông đã đạt mức toàn cầu, chúng ta mau chóng cập nhật được những gì xảy ra hoặc đã xảy ra ở nơi khác, nhờ đó dễ tránh được các vết xe đổ của người khác.
Khoa học từng có những bước dzích dzắc, trước đi từ A đến B, sau lai thấy A đúng phải lùi lại A, nên tôi không dám khẳng định thuyết nào đúng thuyết nào sai, nhưng thiết nghĩ chúng ta nên biết đại khái diễn trình hưng suy của ngũ hành trong Tử Vi ở Đài Loan trong thời trăm hoa đua nở. Bởi không có gi đáng tiếc bằng bỏ bao nhiêu công lao mà chỉ đi vào vết xe đổ của ngưòi xưa.
Năm 1985 ông Sở Hoàng (Đài Loan) ra quyển "Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá" bảo rằng ngũ hành đóng vai trò chủ yếu trong Tử Vi. Điểm chính là ông dựa vào lý vượng tướng hưu tù tuyệt mà luận sự cường nhược của chính tinh.
Cùng trong khoảng thời gian từ đầu đến giữa thập niên 80 có ông Phương Vô Kị mở trường dạy Tử Vi,có phổ biến 7 tập giáo tài ra ngoài thị trường, trong đó có 4 tập cực kỳ đồ sộ (nghe đâu mỗi tập đồ sộ này đều dày trên 500, 600 trang). Tiếc là tôi chỉ mua được hai tập bề dày bình thường (dưới 200 trang) nên không rõ toàn thể lý thuyết của ông Phương Vô Kị, tuy nhiên cũng thấy ông áp dụng lý ngũ hành vượng tướng hưu tù tuyệt để luận sự cường nhược của các chính tinh.
Hai vị này là những nhân vật nổi tiếng một thời,nhưng mau chóng chìm vào quên lãng để nhường chỗ cho một trào lưu khác mà đại biểu nổi bật đầu tiên là ông Liễu Vô cư sĩ.
Khiông Sở Hoàng ra sách Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá ông Liễu Vô cư sĩ đã thành danh từ khá lâu trong làng Tử Bình (sách ra từ năm1980). Điểm này quan trọng vì nó cho ta biết là ông Liễu Vô cư sĩ hết sức quen thuộc với lý ngũ hành hỉ kị của khoa Tử Bình.
Xin tự trích một phần tôi đã viết đăng báo ngày xưa về nhân vật độc đáo này:
"Từ cách lập luận trong các bài viết cũng như dựa theo thư mục các sách đã xuất bản đầu thập niên 1990 ta biết ông Liễu Vô Cư Sĩ lập danh là chuyên gia Tử Bình, với hai quyển sách “Hiện đại nhân đích bát tự” (bát tự của người hiện đại) và “Bát tự đích thế giới” (thế giới của khoa bát tự) in năm 1980. Soạn giả chưa được đọc hai quyển này, nhưng nghe nói trong đó ông kịch liệt đả phá cách xem bát tự của người xưa. Thì ra, ngay với hai quyển sách đầu tay, dấu hiệu cách mạng (hay “phá hoại”, tùy người nhận định) của ông đã tỏ lộ ra rồi.
...
Vì một tình cờ của lịch sử, thập niên 1980 chính là lúc mà khoa Tử Vi vào giai đoạn sôi bỏng của phong trào “trăm hoa đua nở” kéo dài hai thập niên ở Đài Loan cũng như Hồng Kông. Có lẽ vì coi Tử Vi là một cuộc cách mạng so với khoa bát tự như ông giải thích sau này trong quyển “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp - hiện đại thiên”, Liễu Vô cư sĩ hăng hái tham gia phong trào này, và trở thành một tên tuổi lớn. Tính đến năm 1993 ông đã cho ra đời 11 tựa sách tử vi, tổng cộng 22 quyển. (Các sách ông ra sau này thì soạn giả không nắm vững, mong được các vị khác bổ túc.)
Dựa trên thành tích mà đoán thì khúc quanh lớn nhất trong sự nghiệp mệnh lý của ông phải kể là năm 1992. Năm ấy, ngoài việc tái bản hai quyển sách bát tự kể trên, ông còn xuất bản quyển “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và hai quyển tiên đoán tình hình chính trị, tuyển cử ở Đài Loan bằng mệnh lý. Nhưng thành công rực rỡ nhất của ông năm này là quyển ‘Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân’ (Luận mệnh bằng tử vi không cần nhờ người khác). Giữa lúc sách Tử Vi mới được in như rừng, sách này của ông bán chạy ngoài sức tưởng tượng, chỉ sau 20 ngày đã tái bản.
Nhờ tính hiện tượng của sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân” mà cách xem Tử Vi khá ngược đời của ông Liễu Vô cư sĩ trở thành kiến thức phổ thông ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, lần hồi được vài người khác trong giới trí thức tin theo và viết sách xiển dương, đưa ông lên vị trí của một nhà lập thuyết có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử hiện đại của khoa Tử Vi.
Về căn bản Tử Vi, ông xuất phát từ phái Tử Vân. Chủ trương chính của phái này là phải khảo sát mọi ngành huyền học bằng nhãn quan khoa học. Mặc dù sau này chọn một con đường khác, ông Liễu Vô cư sĩ vẫn tiếp tục xiển dương chủ trương trọng khoa học của phái Tử Vân. Thỉnh thoảng ông vẫn nhắc lại những quan điểm của ông Tử Vân (mà ông gọi là “Tử Vân tiên sinh” tức “thầy Tử Vân”) một cách trân trọng, mặc dù trong đó có một số quan điểm mà ông không còn đồng ý nữa.
Với cái nhìn khoa học và thực tế, ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương thực nghiệm là tiêu chuẩn tối hậu. Hiển nhiên quan điểm của ông khác hẳn người xưa. Có lẽ vì thế mà lắm khi ông phê bình người xưa, kể cả đạo sĩ Trần Đoàn tức nhân vật được tin là tổ sư của khoa Tử Vi, rất gay gắt. Đặc điểm này có thể thấy rõ trong “Đẩu số tuyên vi hiện đại bình chú” (2 quyển) và “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp” (2 quyển, có tên “cổ điển thiên” và “hiện đại thiên”).
Cuối cùng, như đã nói ở một bài trước, một điểm độc đáo nữa của ông Liễu Vô cư sĩ là ông rất trọng nhân tài mới, ngay cả khi nhân tài ấy có chủ trương ngược lại ông. Nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng, mặc dù luận đề lớn của ông là Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành, một người được ông quý trọng và nâng đỡ lại là ông Sở Hoàng, tác giả quyển “Tử Vi hỉ kị thần đại đột phá” với luận đề cho rằng ngũ hành là nền tảng quan trọng nhất của khoa Tử Vi.
Năm 1984, tức là một năm trước khi sách"Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá" (coi ngũ hành là yếu tố quyết định trong Tử Vi) của ông Sở Hoàng ra đời, ông LIễu Vô đã ra sách Tử Vi rồi và tạo ngay được tiếng vang. Tiếng vang này dẫn đến bộ Hiện Đại Tử Vi gồm 7 tập bắt đầu phát hành trong khoảng thời gian 1985-1986. Tập sách này đã giúp LIễu Vô cư sĩ tiến lên vị trí hàng đầu trong làng Tử Vi, đồng thời tạo ra huyền thoại Tử Vân. Cần nói rõ là lúc ấy ông Tử Vân chưa ra sách nhưng được ông Liễu Vô nhắc tới với những huyền thoại người thật việc thật "xem số như thần", trong đó có chuyện ông Tử Vân xem số cho một số những chuyên gia khoa học toàn cỡ tiến sĩ, thạc sĩ du học Mỹ Anh về, không tin Tử Vi. Theo lời kể của ông LIễu Vô cư sĩ thì ông Tử Vân dùng Tử Vi để xem phong thủy đoán mọi sự đúng vanh vách khiến các chuyên gia này phải buộc lòng khẩu phục (tâm phục hay không thì không biết).
Vài năm sau, vẫn trong thập niên 1980, ông Tử Vân bắt đầu ra sách. Mức độ thành công của ông thì không cần nhắc lại, nhưng có thể thấy rằng làng Tử Vi Đài Loan chỉ trong vòng vài năm đã có biến chuyển to lớn. Lực lượng song đôi của hai ông Liễu Vô cư sĩ - Tử Vân và những người liên hệ đến họ như tiến sĩ Hứa Hưng Trí, ông Tuệ Canh v.v... mạnh như cuồng phong bão tố, khiến tất cả những nhân vật một thời phong quang như Chính Huyền Sơn Nhân, Phan Tử Ngư, Thẩm Bình Sơn, Sở Hoàng, Phương Vô Kị vân vân mau chóng trở thành quá khứ.
Và rồi khi ông Liễu Vô cư sĩ tuyên bố phải loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi thì ông và thầy cũ của ông (Tử Vân) biến thành hai lực lượng chính yếu của Tử Vi Đài Loan. Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến hết thời trăm hoa đua nở.
Tại sao hai ông LIễu Vô cư sĩ và Tử Vân lại thành công như vậy? Mỗi người sẽ có ý kiến riêng của họ. Riêng tôi cho rằng họ có ưu điểm to lớn là có thực chứng. Ông Tử Vân dù không nhìn nhận có lẽ đã xem trên 5000 lá số người thật việc thật. Nếu những gì Liễu Vô cư sĩ thuật lại trong Hiện Đại Tử Vi và những gì ông Tử Vân tự thuật trong các sách của ông không phải là bịa đặt thì ông Tử Vân bị các nhân tài trẻ cũng như già, tin cũng như không tin Tử Vi, thách thức rất nhiều lần, và mọi lần ông đều chứng tỏđược khả năng đoán mệnhđúng ngoài mức tưởng tượng của những người thách đố ông, đồng thời vẫn giữ sự khiêm cung với họ.
Ông Liễu Vô cư sĩ thì có hẳn một văn phòng xem số, sách Tử Vi của ông không đoán mài mại hoặc đoán những chuyện không ai kiểm chứng được, mà ông dám đoán trước tương lai của các nhân vật chính trị đương thời. Và trên mặt học thuật thì ông rất thẳng thừng, không ngần ngại đối đầu với những người muốn thách đố ông.
Theo những gì có thể kiểm chứng được trên Hiện Đại Tử Vi và những lời đồn đãi về sau (không kiểm chứng được) thì những thành quả của ông đã khiến đại cao thủ Thiết Bảng Đạo Nhân (được coi là cùng cỡ với cụ Hà Mậu Tùng, thầy của ông Tử Vân) phải chú ý và thiết lập liên hệ. (Cứ theo thư mục xem thấy trên mạngthì về sau ông Liễu Vô cư sĩ có ra sách phối hợp Tử Vi và thiết bảng thần số, phải chăng là đã được chân truyền của Thiết Bảng đạo nhân?)
Đã biết thành tích của ông Liễu Vô cư sĩ như vậy, ta có dám nói rằng ông đòi loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi là vì ông không hiểu ngũ hành, hoặc không hiểu Tử Vi hay không?
Tôi xưa nay (giờ vẫn thế) vốn bất đồng với chủ trương loại ngũ hành ra khỏi khoa Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ, nhưng tôi vẫn sợ cái học của ông như thường. Chẳng bao giờ dám chê bai. Ấy bởi vì sau mấy mươi năm nghiên cứu từ kỹ thuật, khoa học đến huyền học, tôi cuối cùng đã hiểu rằng đời này không chỉ có trắng và đen, đúng và sai, mà còn có những trường hợp trong đúng có sai, trong sai có đúng, tưởng đúng mà sai, tưởng sai mà đúng v.v... Cho nên bất cứ cái gì mà những người có trình độ bỏ nhiều công khó mới tìm ra, dù tôi cho là sai đi nữa tôi cũng không vội vàng bác bỏ ngay. Biết đâu, ngày mai tôi lại thấy cái sai ấy đúng.
Tôi hy vọng những người thuộc các thế hệ sau tôi cũng làm như thế.
Như trở lại chuyện hiện tại, thấy có người bảo phải tận dụng ngũ hành thì xem Tử Vi mới đúng, mình kiểm lại thấy có vẻ như vậy thì đừng quên rằng:
1- Từ xưa đến nay luôn luôn có người chủ trương như vậy, nên đây chẳng phải là một chủ trương mới lạchưa ai biết.
Riêng cách so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh thì trên kệ tôi có quyển sách "Trung Hoa nạp âm dự trắc học" của một tác giả Hồng Kông. Thì ra so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh là một cách luận bát tự thời xưa. Xem các thí dụ thì thấy thuyết phục lắm, nhưng tự nhiên tôi giật mình hỏi lại: Vậy tại sao cách xem này đã bị người ta đào thải để nhường chỗ cho khoa Tử Bình như chúng ta biết trong hiện tại (hoàn toàn không dùng nạp âm nữa)?
Vì anh HoTuVu trưng ra các lá số tổng thống rồi so sánh nạp âm năm sinh với tháng sinh, tôi nghĩ anh nên suy ngẫm về vấn đề này.
2- Người không chủ trương coi trọng ngũ hành trong Tử Vi chẳng phải là những ngưòi không biết gì về ngũ hành hoặc về Tử Vi. Trái lại, trong những người không chủ trương như vậy chẳng thiếu gì các tay cao thủ, như ông Liễu Vô cư sĩ chỉ là một thí dụ gần đây.
Vậy thì ai đúng ai sai, theo ai bỏ ai đây?
Cuối cùng, tôi nghĩ, đáp án vẫn là mỗi người chúng ta vẫn phải quyết định một con đường cho chính mình. Xem ra chỉ có cách đó mà thôi!
Kính Gởi Anh VDTT:
Trong bài viết giải lá số cho "binhan" sinh ngày 13/5/mậu thân vào giờ ngọ AL, dương nữ, anh có viết:
"Hạn sang Mỹ ứng hợp vì cung Can của đại hạn (14-23 ở cung Hợi) là Quý có lưu Quyền ở cung Thiên di của đại hạn(cung Tỵ)".
Do đó để tìm Can của cung Đại Hạn có phải là làm như sau không:
Người này sinh năm Mậu Thân, như thế khởi từ Cung Dần là Giáp, rồi Ất, Bính....đến cung Hợi là Quý.
Mà Can Quý thì có Hóa Lộc đi với Phá Quân, Hóa Quyền đi với Cự Môn, Hóa khoa đi với Thái Âm, Hóa Kỵ đi với Tham Lang.
Như vậy trong Đại hạn (14-23) này cung Di của Đại hạn an tại Tỵ có Cự Môn thủ đã được hưởng lưu Hóa Quyền.
Thưa Anh VDTT, không biết những điều tôi vừa viết ra có đúng như thế không ạ?
Và nếu đúng như ý của Anh, thì xin cho được đặt vài câu hỏi như sau:
Để tính Đại hạn cho chi tiết thì phải:
1. Tìm Can cho Cung Đại Hạn?
2. Rồi tìm bộ sao Tứ Hóa cho Đại Hạn?
Thưa Anh, Xin Anh có thể giải thích giúp cho tôi về sự quan trọng của Bộ Tứ Hóa này được không ạ, trong cuộc đời, cũng như trong các vận hạn (Đại cũng như Tiểu Hạn.)
Nhắc đến cuộc đời thì mình có nên tìm Bộ Tứ Hóa cho các Cung Mệnh và Cung Thân không ạ theo như nguyên tắc ở trên?
Và cũng xin Anh cho biết về Lưu Triệt trong các đại vận có ảnh hưởng như thế nào trong cách giải lá số?
Xin Chân Thành Cảm Ơn Anh.
...
Kính anh/chị thienhi,
Lưu tứ hóa là một cách xem ít người biết, nhưng chẳng phải là không ai xử dụng trong làng tử vi VN. Bằng cớ là năm 1990 tôi đã gặp một ông thầy VN xem theo cách này.
Ở ĐL, HK thì lưu tứ Hóa là cách xem tiêu chuẩn.
Mười hai cung trên lá số đại biểu một năm, đồng thời ứng với cả đời nguời. Mỗi cung trên lá số đại biểu một tháng, đồng thời ứng với một đại hạn. Do đó muốn tính lưu đại hạn tứ hóa thì tính ra can mỗi cung (coi như một tháng), hạn đến đâu lấy can cung đó mà tính lưu tứ hóa.
Sao lưu bay đầy trời. Tôi nghĩ phải nghiên cứu có hệ thống mới xác định đuợc sao nào quan trọng, sao nào không. Tôi hiện chỉ dám xác quyết lưu tứ Hóa hiển nhiên quan trọng; ấy bởi vì tứ Hóa là cái nền của Tử Vi. (Nếu không có chính tinh và Tứ Hóa thì Tử Vi chẳng có giá trị gì cả so với khoa tứ trụ.)
Lưu Triệt Tuần tôi chưa thấy ứng nghiệm, chẳng dám có ý kiến. Có người còn an lưu Xương, lưu Khúc v.v... nữa.
Về cách xem lưu tứ hóa, có hai trừơng phái chính:
1. Mệnh vận phân ly: Bỏ sao tứ Hóa nguyên thủy không tính. Đến mỗi hạn xem sao lưu Hóa ở đâu rồi tính. Đại khái Lộc tốt, Kỵ xấu; Quyền Khoa tùy trứong hợp. Có một chi phái giản lược bỏ luôn Quyền Khoa khi xem hạn.
2. Mệnh vận tương phùng: Xem cả tứ Hóa nguyên thủy và lưu tứ Hóa (uy lực bằng nhau trong hạn).
Phái thứ nhất khá mạnh ở Đài Loan khi tôi rời nơi này (tháng 12, 2001).
Tôi theo phái thứ hai.
Vài dòng chia sẻ.
...
Kính Anh VDTT,
Xin cám ơn Anh đã mau chóng giải đáp cho tôi. Trong tinh thần nghiên cứu học hỏi, tôi xin được hỏi anh một vấn đề nữa cũng liên quan đến bộ sao Tứ Hóa.
Như thế trong 1 lá số tử vi, ngoài bộ sao Tứ Hóa Nguyên Thuỷ, ta con phải ghi thêm:
1. Bộ TỰ HÓA
2. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Đại vận
3. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Tiểu vận
Ngoài ra không kể bộ Lưu Tứ Hóa cho Cung An Mệnh, và Bộ lưu Tú Hóa Cho Cung An Thân mà tôi đã hỏi Anh, nhưng không thấy Anh cho ý kiến.
Anh nghĩ sao về Lưu Lộc Tồn cho cung an Đại vận? 1 sao cho biết là ta sẽ được hưởng, hay không được hưởng khi vào đại vận.
Xin cám ơn anh.
...
Anh/chi thienhi than,
Ở ĐL có người xem không những hóa Mệnh, hóa Thân, còn 12 cung hóa (phụ mẫu hóa, nô bộc hóa v.v...).
Nói chung đây là phái "Huyền không tứ hóa" của ông Chính Huyền Sơn Nhân (tác giả bộ "Thiên Địa Nhân Tử Vi đẩu số" gồm 12 quyển phát hành đầu thập niên 1980's).
Có những tác giả ra những tập sách dày cộm (có người vài ba tập), chỉ bàn về tứ Hóa.
Theo tôi, tất cả đều là mò mẫm. Ta không nên vội áp dụng.
Hiện nay tôi chỉ đang cố chứng nghiệm:
- Tự hóa + hóa nguyên thủy trong việc xem số tòan thể cuộc đời.
- Đại hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem đại hạn.
- Tiểu hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem lưu niên/tiểu hạn.
Đã thấy điên đầu lắm rồi. Vẫn chưa dám nói là đã xác định được nền tảng khoa học của các cách này. Chỉ tạm thời xử dụng rồi tính sau.
Vài dòng chia sẻ.
T.B. Lưu Lộc Tồn, Khôi Việt, Kình Đà v.v... cho đại vận cũng là một cách quen thuộc ở Á Châu. Theo lý luận của tôi, cái nền của tử vi là chính tinh và tứ hóa, tất cả các sao còn lại chỉ thêm vào cho bài tóan tử vi dễ tính mà thôi. Bởi vậy chưa biết phút cuối cùng kết quả sẽ ra sao, nhưng tôi chỉ muốn bắt đầu bằng cái đơn giản nhất, tức là tứ hóa.
(Bài viết của Atmao75)
Ngũ hành Mệnh: Chính là ngũ hành nạp âm của năm sinh
Ngũ hành Cục: là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh.
Ngũ hành nạp âm là một phát kiến lý thú của phương Đông. Nó đã kết hợp ngũ hành thiên can (được coi như khí – biểu trưng cho vật chất, không gian) với địa chi (biểu trưng cho thời gian).
Quay lại quan hệ Mệnh-Cục:
Mệnh là ngũ hành nạp âm của năm sinh nên nếu không xét tính âm dương thì hai năm chung một ngũ hành mệnh.
Ngũ hành cục là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh, do vậy nó liên quan chặt chẽ hơn với một cá nhân được sinh ra do liên quan đến thiên can năm sinh, địa chi năm sinh, tháng sinh và giờ sinh.
Bây giờ xét đến quan hệ ngũ hành Mệnh và ngũ hành Cục:
Ta có thể nói rằng Cục đại diện cho tính cá nhân nhiều hơn Mệnh (do được cá biệt hóa bằng năm sinh (thiên can, địa chi), tháng sinh (1-12) và giờ sinh. Vậy trong mối quan hệ Cục Mệnh thì cái gì là môi trường cho cái gì hình thành và phát triển từ đó sẽ dẫn đến quy luật sinh khắc tốt xấu giữa hai thực thể này.
Có nhiều sách nói đến quan hệ ngũ hành Cục – Mệnh, nhưng tóm lại đều dẫn ra hai kết luận trái ngược nhau như sau:
1. Cục sinh Mệnh thì tốt nhất, từ đó suy ra các trường hợp sinh, khắc Cục-Mệnh khác. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cung mệnh là môi trường cho Mệnh phát triển, do đó phải sinh cho Mệnh mới tốt. Còn được Mệnh sinh thì mệnh không được bồi bổ, do đó bị hao tán. Kết luận này dựa trên việc coi trọng năm sinh là yếu tố chính trong số mệnh.
2. Mệnh sinh Cục thì tốt nhất. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cục được xác định bằng những yếu tố mang tính cá biệt cho từng đối tượng được xét số mệnh nên phải được Mệnh là ngũ hành nạp âm sủa năm sinh sinh cho là tốt nhất.
Vậy kết luận nào là hợp lý?????
..
Bây giờ xét quan hệ Mệnh, Cục, Sao thủ mệnh
- Truyền thống thì cho rằng Mệnh đại diện cho đương số nên Mệnh sinh Cục thì tốt, từ đó triển khai ra.
- Sau đó xét đến quan hệ Mệnh và Sao thủ mệnh (cao cấp hơn nữa là sao Bản mệnh, nghĩa là đương số ăn vào sao này, sao này quyết định tính cách, vận hạn, phúc phần của đương số).
- Tuy vậy, điều này cho ta nhiều nghi vấn. Việc xét Mệnh (theo ngũ hành nạp âm năm sinh) thì rất khó để cá biệt hóa giữa người này với người kia, nghĩa là rất nhiều người sinh cùng một năm - có chung Mệnh. Nếu ta xét Cục thì tính cá biệt sẽ cao hơn (5 cục cho một Mệnh).
- Xét quan hệ Mệnh Cục Sao Thủ mệnh, nếu lấy mô hình Thiên-Địa-Nhân của người xưa thì Mệnh ứng với Thiên mang tính bao quát, toàn thể chung cho nhiều người (mọi người đều sống trong vũ trụ và có chung một vũ trụ - Thiên), mô hình tương ứng trong Tử vi chính là Mệnh (nhiều người chung một Mệnh).
- Khi xét đến Cục, là ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh. Nếu xét sự tương ứng với vũ trụ thì cung an mệnh chính là Trái đất, nơi mọi người sinh sống. Nếu dùng mô hình Thiên-Địa-Nhân ta có thể coi Cục tương ứng với Địa.
- Phần còn lại là Nhân chính là sao thủ Mệnh.
Khi đã chấp nhận mô hình Thiên-Địa-Nhân ~ Mệnh-Cục-Sao thủ mệnh thì sẽ có một số kết luận sau dựa trên thuyết Âm dương-Ngũ hành:
- Quan hệ tương sinh là tốt. Tốt nhất là Thiên sinh Địa, Địa sinh Nhân. Đúng theo quy luật tự nhiên
- Quan hệ hòa (cùng hành) cũng tốt. Không hỗ trợ cũng không hại nhau. Đây là trường hợp ổn định nhất, dễ đạt trung dung.
- Trường hợp khắc thì Thiên khắc Địa, Địa khắc nhân là tệ nhất.
Nếu mô hình này đúng thì cho thấy rằng nếu mệnh tương sinh với Cục và chính tinh thì cá nhân có thiên thời, địa lợi, do đó thuận lợi cho mọi việc. Ngược lại, bị khắc thì phải Nhân định thắng Thiên (chẳng ai nói nhân định thắng Địa cả. Muốn thắng Địa chắc phải nghiên cứu Phong thủy.) Do vậy những ai có cá tính mạnh mẽ (sao thủ mệnh sát tinh, hãm càng tốt) thường lại hay muốn nhân định thắng thiên.
..
Hoàn toàn đúng! Thuyết tvn cũng có quan điểm tương tự. Đối với cá nhân con người,tức đ/s thì Thiên mệnh (nạp âm ), biểu hiện qua hai vòng Lộc Tồn và Thái Tuế là Tài Thiên. Cục, biểu hiên qua Vòng Tràng sinh là Tài Địa. Chính tinh thủ mệnh,biểu hiện qua vòng Chính tinh là Tài Nhân.
Mô hình tam tài này là tổng quát và đúng đắn nhất!
Vậy mỗi con người về thể xác và tinh thần có thể coi như có tam tài,tam LỚP.
Và tương quan giữa các Tài các Lớp không đơn giản như thế này:
Mỗi cá nhân con người là sự đồng điệu của tam tài,tam lớp!
Khi hoàn cảnh bên ngoài phát sinh sinh hay cùng ngũ hành với Tài Thiên của ta thì ta nói đắc Thiên thời,với Tài Địa của ta thì ta có Địa Lợi,với Tài nhân của ta thì ta có Nhân Hòa.Và ngược lại.
vài dòng chia sẻ.
tvn
Việc hãm của chính tinh là rất cần thiết trong trường hợp Mệnh khắc sao thủ mệnh. Điều này cho thấy cá nhân dám đứng lên chống lại số phận (còn nếu chính tinh đắc địa thì thuận lợi rồi, đâu còn động lực để đấu tranh với ngoại cảnh). Tuy nhiên mấy ai nhân định thắng thiên đây? Người thắng sẽ làm quan to (thành công rực rỡ)
(Bài viết Whitebear, Atmao75, ThienA)
Câu này hiểu rốt ráo như thế nào?
Mệnh đóng vào cường cung là cường theo ngũ hành địa chi cung viên hay cường theo ngũ hành cục?
Nếu mệnh không đóng cường cung thì có cần xem kỹ lẽ chế hóa không?
Quả là nan giải!
..
Câu hỏi rất hay. Cũng vừa hay, tôi cũng có quan tâm và đang thực hiện việc bình chú lại các câu phú quan trọng trong toàn thư.
1-Trước hết, việc đầu tiên chúng ta phải đặt ra, đó là mối quan hệ của Cục, Tinh Đẩu và Mệnh. Các đối tượng này, dựa trên quan hệ Mệnh Cục phân ly hay Mệnh cục kết hợp, mỗi cái đưa tới một trường phái tử vi nam phái khác nhau.
2-Trên quan điểm kết hợp phi hóa bắc phái và phép hội sao nam phái trên nền lưu cục, tôi cho rằng câu phú trên đúng nhưng chưa đầy đủ, theo nghĩa nên bổ sung thành
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa phi tinh chi lý
Tức là, đối với cường cung, phải khảo sát cả tương tác phi tinh lẫn tương tác tinh đẩu một cách cẩn thận.
Lý do, khi một đối tượng tổng quát (bao gồm mệnh) ngụ tại một cường cung đủ mạnh, thì tương tác của nó đối với các đối tượng khác sẽ rất nhạy cảm. Chính vì thế, một sát tinh không được chế hóa, hoặc một phi tinh định hướng cách cục sai hướng, sẽ đưa tới sự sai khác về kết quả rất lớn.
3-Cường nhược của Tứ hóa, theo lý thuyết chính huyền sơn nhân, dựa trên nền tảng của cục.
...
Trên topic Cục, báo HoaAn có nói Tọa là vị trí của Đế tọa, như vậy Mệnh Tọa Cường cung có thể hiểu là phải xét Mệnh, Cung có sao Tử Vi và Các cường cung như Phúc, Tài, Quan...???
..
Hay.
Đúng là tọa, còn có thể được hiểu là đế tọa.
Và thực sự, sử dụng ngôi tử vi định cường nhược cho tài nhân thông qua phi hóa bắc phái cũng hoàn toàn không sai.
..
Tuy nhiên cũng có người hiểu rằng, khi xem vấn đề gì cần định cung trọng điểm (cũng có thể gọi là cường cung) sau đó là dùng vế thứ 2.
Cách hiểu 1: Mệnh, Tọa, Cường cung hoặc Cách hiểu 2: Tìm cung trọng điểm!
Không hiểu thực sự ý tác giả là gì?
..
Tinh Lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
Vậy thử hỏi "tinh lâm nhàn hãm" thì quan cái gì?
Sinh khắc chi cơ ở đây là sinh khắc ntn? Sinh khắc ngũ hành địa chi cung? Ngũ hành cục cung? Ngũ hành năm sinh theo chi? Ngũ hành cục?
...
- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
Đắc hãm tinh đẩu-->ngũ hành
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.
ngũ hành--->Đắc hãm+ tính lý tinh đẩu
Vậy đây là tương tác của lý thuyết cung khí và lý thuyết cách cục.
..
- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.
Nếu tách hai câu này ra, thì còn có thể hiểu lầm cường cung là cung trọng điểm; Hay tọa là đế tọa. Nhưng khi hai câu đi cạnh nhau, thì ý nghĩa của nó trở nên rất rõ ràng.
...
Khi mệnh là cường cung, thì cung nhị hợp sẽ là nhược cung và ngược lại. Cường hay nhược chẳng phải do Đế tọa hay tinh đẩu.
Sát khí đi cùng cường cung mới thực sát. Sát tinh đi cùng nhược cung như nước động trên mặt, họa đến chóng qua, hư nhiều hơn thực.
Họa lớn là sát khí nằm cường cung. Cải cách kiểu không kiếp đóng cường cung sẽ triệt để và quyết liệt vì đi tận gốc rễ. Không kiếp hay sát khí đi cùng nhược cung, cách mạng từ ngoại vào nội, nhiều khi chỉ động tới da thịt, không tới cốt tủy.
Tương tự với cách dụng hóa khí, hóa khí cường cung như đi tận tủy cốt, hóa khí nhược cung nhiều khi hời hợt, giả cách.
Chính vì mất gốc cường nhược nên tử vi dễ kiểu 50/50 khi cân họa phúc.
...
Có những ghi chú hiện hiện giữa lá số tử vi, chẳng qua hậu học không thèm dùng tới thôi bạn ah, trong đó cường cung/ nhược cung là 1 trong các số đó
Đả thông được mảng này sẽ phân tách rõ địa bàn, nhị hợp ( nhị hợp địa bàn và nhị hợp tinh đẩu), và nguyên lý thăng giáng của khá nhiều tinh đẩu.
..
Cái này dùng xem tiểu hạn 1 năm thấy ngay tinh đẩu tương tác thật giả, nên mỗi lá số có cả trăm sự kiện tinh tế để xem, mỗi sự kiện tách thành 2 lớp nữa.
Còn về lý thuyết thì chứng minh không khó, vì các nguyên lý rời rạc đã có, nhưng không được khái quát hóa cho cả chuỗi hệ thống nên không thể nhận ra. Tôi chỉ nhận ra hệ thống này vài năm trước khi xem tiểu vận, nhị hợp, hóa khí đả thông nhị hợp tinh đẩu khi xem vận.
Ví như Nhờ kỹ thuật đơn giản này, ta biết năm nay Bính Liêm kỵ và Thiên đồng hóa lộc, khi nào cây thối tại ngọn, hay gieo hạt phân tán tận gốc. Cái này quyết định cơ hội thành bại, xu hướng tìm kiếm cơ hội phát triển, hay củng cố hệ thống từ đâu.
Thường chỉ ứng dụng nhiều cho quản trị cá nhân, hay hệ thống do cá nhân quản trị, không thích thú lắm để bói toán
..
Có vẻ như ThienA đang dùng Dịch lâm của Tiêu Diên Thọ đời Hán vào luận tam hợp- tam hội trong xem hạn tử vi.
(Bài viết Brian, tigerstock68)
Xem niên hạn có nhiều trường phái xem lưu cung khác nhau, nhưng thông thường là kết hợp cả ba cung lưu niên và các lưu cung tương ứng
Nhiều tác giả chỉ xét Tiểu hạn, còn tất cả các cung khác cố định, trong khi nhiều tác giả khác sử dụng các phép lưu cung sau:
1-Lưu Niên Đại Vận, được coi là lưu mệnh, và sau đó lưu thêm tất cả các cung còn lại, bởi Tiến Sĩ Vuivui, còn gọi là Nhân Bàn. Theo đó, đây là cung nói về "kết quả của năm đó".
2- An theo Tiểu Hạn được coi là Lưu Mệnh, và qua đó an Lưu Phụ, Lưu Thê.. còn được gọi là Thiên Bàn. Có thể nói, đây là nghiên cứu con người, là diễn tiến cho bản thân. (Tuy nhiên, rất nhiều học giả phản đối cách xem lưu cung theo cách an tiểu hạn, dù rằng chính cung tiểu hạn vẫn được áp dụng.)
3-Cung An Lưu Thái Tuế, được coi là lưu mệnh, sau đó an ra các lưu cung khác. Người ta còn gọi là Địa Bàn vì cung cố định. Điển hình nhất của trường phái này là phái Tử Vân của Đài Loan. Có thể nói, đây là nghiên cứu cách trời đất ưu đãi ta, xem những biến chuyển cực đoan của vận mệnh, vì thái tuế có nghĩa là trời.
Kết hợp các trường phái lưu cung thì:
Thiên bàn - Lưu Niên Đại Vận > kết quả năm
Nhân bàn - Lưu Tiểu Hạn > diễn tiến năm
Địa bàn - Lưu Thái tuế > thời thế ( trời đất ưu đãi )
..
Nếu việc kết hợp ba cách xem niên vận ( vận 1 năm ) ứng với nghiệm lý thực tế:
Địa bàn ( Cung Lưu Thái tuế ): thời thế, hoàn cảnh
Nhân bàn ( Cung Tiểu hạn ): diễn biến vận hạn ( ứng xử bản thân )
Thiên bàn ( Cung Lưu Đại vận): ứng kết quả
Thì ý nghĩa Thiên bàn - Địa bàn - Nhân bàn ( an theo lá số nguyên thủy cũng tương tự)
1. Thiên bàn ( lá số nguyên thủy ): cho biết sơ bộ cuộc đời
2. Địa bàn ( Cung mệnh An tại Thân ): cho biết thời thế, hoàn cảnh
3. Nhân bàn ( Cung mệnh An tại Phúc ): diễn biến, ứng xử của đương số
...
Trang 98 Tử vi đấu số toàn thư- Tập 1 ( Nhà xuất bản Thời đại ) viết
“Thiên Bàn: Là sơ đồ sao Tử vi được sắp xếp căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh, đây chính là loại lá số chủ yếu trong mệnh lý Tử vi Đẩu số, thể hiện các thông tin về tính cách, dung mạo, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, phú quý, họa phúc, yểu thọ trong một đời người cùng các điềm triệu tiên thiên về lục thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái.
Nhân bàn: Đây là sơ đồ động thái về sự biến hóa của các vận hạn như đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật. Nhân bàn phản ánh các thăng trầm trong các giai đoạn của đời người.
Địa bàn: Là sơ đồ bố cục sao căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung Thân. Địa bàn thể hiện các thông tin mang tính tiên thiên, đồng thời phản ánh được về căn khí tính tình ngầm ẩn của con người. Ví dụ một số người có được địa vị xã hội cao, nhưng lại có những hành vi bất lương đê tiện, đó là do họ có cung mệnh thiên bàn tốt nhưng cung mệnh địa bàn lại xấu “
Như vậy:
Thiên bàn: Lá số nguyên thủy
Nhân bàn: Lá số lưu vận
Địa bàn:: Lá số cung mệnh an tại cung thân
...
Ls Thiên bàn của trung châu nó chính là cái lá số của các bạn đang có
Nhưng phái này có thêm địa bàn và nhân bàn. Vậy đầu tiên ta hãy tìm hiểu và bàn luận xem 2 cái lsnày nó nói lên cái gì đã.
Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.
Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số., thì xác định được cung vị của Tử Vi.
Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.
Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.
Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.
Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.
Lục tiên sinh chủ trương dùng "địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.
Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".
Liên quan đến phương pháp an sao ở "địa bàn" và "nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.
Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "địa bàn".
Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "nhân bàn", nói một cách chính xác thì đay là "nhân bàn của địa bàn".
Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "thiên bàn" và "địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.
Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.
(Bài viết của anh Whitebear)
Trong cấu trúc của tử vi đẩu số, cục là khái niệm đóng vai trò trung tâm. Trong nền tảng của lãnh vực, nó là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc cách an sao và hình thành lá số tử vi, số của cục có thể coi là việc hiện thực hóa khí tiên thiên trong nền tảng hậu thiên. Từ đó, ta có thể đưa đến lý thuyết về vòng trường sinh.
Xét bản chất, thì cục và Mệnh là hai yếu tố chả có liên quan gì đến nhau. Khi ta xét tương tác giữa Cục và Mệnh, thì cái gì sẽ quyết định độ số của cách cục, cái gì sẽ quyết định tính khả dụng của cách cục?
Chính vì vậy, do không hiểu bản chất vấn đề rất nhiều người đã phạm phải sai lầm khi thực hiện lối nghiên cứu xôi thịt và chuồn chuồn điểm nước, châu chấu đá cột tre, đó là mang cục so với mệnh, rồi phân độ số xem cục khắc hay sinh mệnh.... rồi tự hỏi tại sao nó không ứng.
Nền tảng hình thành của Tứ Trụ là Ngũ Hành Đơn, nhưng Nền Tảng của Tử Vi lại rất gần với Ngũ Hành cổ, cụ thể hơn là Ngọc chiếu định chân kinh.
Cùng một cách cục Tử Vi Tý Ngọ, nhưng nó sẽ ứng với các loại cục khác nhau, như Giản Hạ Thủy, Phích Lịch Hỏa, Bích Thượng Thổ, Tang Đố Mộc, Hải Trung Kim. Và đây là các yếu tố rất quan trọng để luận mệnh.
Cùng là một cái vỏ, nhưng ruột sẽ rất rất khác nhau. Cùng thì anh tinh nhập miếu, nhưng người thì hùng dũng hiên ngang, người thì kéo lê mã tấu kiếm cơm nơi bến xe.
Địa chi sẽ quyết định miếu hãm, nhưng tương tác ngũ hành nạp âm mới thực sự là vai chính diễn ra của trò chơi. Tiếc rằng người ta cứ nhìn thấy mặc quần áo vest thì khán là nhà giàu, cứ thấy mặc quần xà lỏn rồi khán là nhà nghèo, rồi băn khoăn không hiểu vì sao vớ phải chàng sở khanh.
...
Một vấn đề thứ hai, sẽ giải quyết ra sao với các lá số có cùng Tử Vi, nhưng khác tứ trụ. Hiển nhiên là, tử vi được xây dựng dựa trên SỐ ngày âm lịch, còn Tứ trụ được dựa trên CAN CHI ngày. Vì vậy, sẽ có 2 lá số tử vi khác nhau 60 năm, nhưng số phận hoàn toàn khác nhau.
Ngoài ra một khía cạnh quan trọng, đó là khi khảo sát lá số tử vi bằng các kỹ thuật của Lý Thuyết Tử Vân, thì các sao ngày được một số người không biết bỏ qua. Ngoài ra, có một số chuyện sinh ra khi các cặp sao Quang Quý Thai Tọa trùng nhau, mặc dù tứ trụ khác xa nhau. Chúng ta dễ thấy, có một nền tảng rất lớn nằm sau những vấn đề này.
Cách giải quyết vấn đề nằm ở một số kĩ thuật bí mật của tử vi, để khán Can Chi Ngày và các tương tác giữa chúng. Các kĩ thuật này được lan truyền trong nhiều hệ phái khác nhau, nhưng không được ghi chép vào các sách vở tử vi lan tràn trước năm 1975.
Các tương tác nạp âm của 4 trụ và cục, sẽ đóng vai trò nền tảng của tử vi.
Ngay trong VDTTL, cũng có thể thấy ông có xét tương tác giữa 4 trụ, cụ thể hơn là trong vòng 2 trang đầu tiên của phần luận giải lá số. Tuy nhiên, mọi thứ bị cắt ngắn đến mức tối thiểu, và bị bỏ qua bởi đai đa số tử vi gia.
Quan sát kĩ trong những gì diễn ra ở tử vi công cộng, theo nghĩa ai cũng có thể truy cập được nếu biết internet, và biết đọc sách bán ngoài chợ, ta có thể nhận thấy dấu vết và hình dáng của các kĩ thuật này phảng phất đâu đây trong các bài luận tử vi của các cao thủ.
1-Bác Indochine với khẳng định, trước 30 tuổi xem mệnh, sau 30 tuổi xem cục. Đây là một hệ quả nhỏ, và một mẩu trực tiếp của một bức tranh lớn.
2-Đã từ vài năm, bác TBGG đã nắm được một phần lớn của kĩ thuật này, áp dụng với tháng sinh.
3-Alex cũng đã có nhận thức về tương tác này, khi nhấn mạnh về độ số khi cùng/khác tính âm dương của mệnh và năm sinh, bản chất là tương tác về tính âm dương của NH mệnh và cục.
4-Trong các kĩ thuật của một số lộ phái, người ta sử dụng CỤC để luận tính cách. Ví dụ, thủy cực vương thì sẽ chủ trí.....
5-Còn nhiều nữa, tôi tạm thời đói quá, đi chơi, uống bia, nghe nhạc và uống sữa.
...
Khi nghiên cứu về việc khán vận hạn ở mức độ hạn ngày, dễ thấy nền tảng đó xuất hiện một cách dễ dàng, khác hoàn toàn với việc nghiên cứu vận tháng và vận năm.
Theo tôi được biết, nhiều người đã tiếp cận đến việc giới thiệu các kỹ thuật của Lục Hào và Lục Nhâm Đại Độn vào trong tử vi đẩu số. Trong đó, mang ra diễn trên diễn đàn thì đã xuất hiện một số người dụng nó trên nền của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh. Một số người khác thì có sử dụng tính thần sát để luận khán. Có một số người cũng đã biết dụng đến tương tác ngũ hành đơn để luận đoán. Nhưng tất cả đều dấu chiêu, có điều tôi nhận thấy rất rõ nét.
Ở mức độ tiên thiên, cụ thể hơn là bổ sung cho kỹ thuật của Tiên Thiên tứ hóa phi tinh kỳ phổ, thì Tiên Tông Phái cũng sử dụng chúng để định độ số cho tứ hóa. Nên các cách cục kiểu nghịch thủy kị, tuyệt mệnh kị... sẽ hoàn toàn khác xa nhau về kết quả, dù là cùng một hình phú cũng như tương tác phi cung.
Một tháng có ba mươi ngày. Không mất tính tổng quát, giả sử ngày 1 là ngày giáp Tý, nên ngày 11 là Giáp Tuất, ngày 1 tháng sau, nếu tháng có 30 ngày thì sẽ là Giáp Ngọ. Vậy sau 2 tháng, vị chi tuần giáp sẽ quay trở lại.
Đối với các tháng thiếu, gồm 29 ngày chẳng hạn, thì các sai số sẽ được add up lại, và hình thành nên sự vận hành của tuần giáp trên 12 cung. Vì vậy, một yếu tố khác sẽ cần phải đặt ra để correct các sai số này, bổ sung vào Lưu mùng một.
Cũng sẽ là một thiếu sót rất rất nếu quên không đề cập tới các kỹ thuật của Bảo Lộc Phái. Thay vì việc nghiên cứu lý thuyết khí của tinh đẩu và lý thuyết cung khí, họ sử dụng trực tiếp vị trí Thiên Lộc của Can của ngày sinh để luận đoán, đồng thời Nạp lục thân vào trong lá số.
Nhìn bề ngoài, nó hoàn toàn tương tự với việc Nạp lục thân vào lá số dựa trên nền tảng ngũ hành nạp âm Mệnh mà bác Indochine đã từng tương tự. Tuy nhiên, vì đây là một phái bí truyền không dạy ra ngoài, nên tôi không có một chút kiến văn nào sâu hơn về kĩ thuật của họ.
Nói chém gió vậy thôi, nhưng tôi đã quên hết tử vi, không có bất cứ khả năng gì trong việc luận lá số, và không có khả năng để trả lời mọi thắc mắc. Lâu lắm rồi, tôi không xem lá số nào.
Nên có gì sai sót, mong các bạn chỉ giáo cho tôi, tôi xin được lắng nghe ý kiến. Mọi người trao đổi học thuật, còn tôi xin được ngồi yên xem xét
...
Thái tuế nhập quái phái, nói rằng, khi ta khảo sát sự tương tác giữa hai lá số, ta có thể nhập địa chi của một người A vào lá số của người B kia để coi như cung mệnh ẩn, và dụng thiên can của A để an tứ hóa lên lá số của B để hiểu tương tác giữa hai lá số.
Tùy vào ngộ tính và mức độ lãnh hội, mà ta có các biến cách khác nhau. Người ta có thể dễ dàng kết hợp lý thuyết phi yến quỳnh lâm vào thái tuế nhập quái, đồng thời sử dụng trong phi vận tử vi đẩu số
Một trong những analog của nó, là lý thuyết lưu cung, khi ta biến thời gian trở thành không gian thông qua biến đổi poincare'. Những cái này là tầm thường, mọi người có thể đọc qua các bài viết về lý thuyết Tử Vân do bác VDTT đề cập, và tùy duyên mà nắm.
Tuy nhiên, một trong những biến cách thú vị nhất của kỹ thuật này, đó là sử dụng CỤC để khán hôn nhân có tốt hay không. Đây là một kĩ thuật đã biết tới từ lâu trong sách vở.
Cục vì là cơ sở để an 14 chính tinh, nên là cơ sở chung cho cả Bắc Phái lẫn Nam Phái Tử Vi Đẩu Số. Tuy nhiên, vì cơ sở luận đoán của hai phái khác nhau, nên cách sử dụng CỤC cũng khác xa nhau.
Đối với Tử Vi Nam Phái, bỏ đi những thành phần râu ria không kiểm chứng được, thì quay đi quay lại chỉ có xoay quanh các thứ:
Nhiều người dành vài chục năm cuộc đời chỉ có luyện đi luyện lại đống phú, mà kĩ thuật thu được chả được bao nhiêu, xem tính cách chung chung hoặc tương lai 30 năm sau thì rất giỏi, nhưng cứ hỏi hạn quá khứ sắc nét hoặc hạn có kiểm chứng được thì lại ú ớ rồi lảng sạch.
Tử Vi Nam Phái, dù đi kiểu gì đi nữa, vẫn cứ quay về nền tảng là phép hội sao để ứng dụng bốn luận điểm trên. Nguyên lý cơ bản của phép hội sao thì chắc là ai ai cũng biết, nằm ngay trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, gọi là Tứ Yếu Thập Dụ Bát Pháp. Ta có thể thấy, dựa vào việc cục của cung mà đưa tới các kết quả khác nhau về phép hội sao.
Tuy nhiên, vì mức độ lãnh ngộ có hạn, nên nhiều người tự sáng tác, sinh ra các học thuyết quái dị, xa rời nguyên lý kiểu như mệnh VCD thì xem cung thiên di, cung di là đối thủ..... Những trường hợp đó, tôi xin miễn bàn ở đây, vì chắc chắn sẽ có nhiều người ở đây phật ý.
Ngược trở lại, cơ sở của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh lại hoàn toàn không dựa trên phép hội sao. Kỹ thuật của nó dựa trên ba khái niệm.
Theo "Điểm Tuyến Diện" mà xét biến hóa sẽ hé mở mệnh bàn diễn biến vô cùng vô tận,.. chính là "Vô tự thiên thư" (sách trời không chữ)! "
Nói thì nhiều, nhưng đây là cách tôi hiểu về lãnh vực này, trong đó phép lưu cung, phi vận... có thể coi là các phép quay trong không gian ba chiều.
Câu hỏi: Cục sẽ nắm vai trò gì trong vấn đề này. Có phải nó sẽ quy định hình dáng của các đối tượng hình học hay không, chắc mọi người đều đã đoán ra.
...
Như đã đề cập, bản chất của lý thuyết phi vận tử vi đẩu số, đó là phép quay trên không gian 12 chiều và tương tác tứ hóa giữa các vùng không gian khác nhau. Tùy vào cách các bạn tiếp cận mà có các kiến giải khác nhau, ví dụ như tôi, tôi hiểu lý thuyết giống hệt lý thuyết M và lý thuyết dây.
Cùng một kĩ thuật, cụ thể hơn là phép quay, khi áp dụng vào các trường hợp khác nhau, sẽ sinh ra:
Vậy cục sẽ đóng vai trò gì ở đây? Tôi hiểu, tương tác tứ hóa giống như là các graviton được trao đổi trên các M-brane, và cục-hiểu theo nghĩa nào đó chính là đo độ cường nhược của chúng.
Ví dụ, lấy vợ, dùng thái tuế nhập quái biết là vợ hại mình. Nhưng, hại tới mức nào, cãi cọ hay chửi, hay túm tóc lên gối tát tới tấp, ấy lại là chuyện khác.
Tất nhiên, các chuyên gia cao thủ tử vi nghiên cứu theo trường phái chuồn chuồn điểm nước, ném đá ao bèo sẽ không quan tâm tới chuyện này. Bỏ cục và vòng trường sinh đi cho nhẹ lá số, xe máy bỏ hết phanh, thắng, đèn pha, cốp, bảo hiểm xe, túi khí... đi chạy cho nó nhanh, bán bớt áo cứu hộ, phao đi để có tiền uống rượu cho sướng, còn ai chết đuối là có số.
Cung vị trọng điểm tức là cung vị quan trọng nhất. Điều này nghĩa là, khi suy đoán một sự kiện nào đó, chúng ta sẽ phát hiện trong số một vài cung vị liên quan đến nhau, sau khi nhập vào một số điều kiện/dữ kiện đã biết, luôn có một cung có ảnh hưởng mạnh nhất. Trong trường hợp này, chúng ta không cần thiết phải chú ý đều tới tất cả các cung vị (bản mệnh, đại hạn, lưu niên) mà chỉ cần chú ý tới “cung trọng điểm” là được. Sau khi tìm được cung trọng điểm, chúng ta chỉ cần chú ý tới các đặc tính của nhóm sao trong cung đó, kết hợp với việc xem xét tác động của vận hạn, tứ hóa đối với cung vị này là có thể suy luận chiều hướng phát triển của nó về sau. Nhưng dự kiện cần thiết phải nhập vào, bao gồm:
Dưới đây chúng tôi xin nêu 3 ví dụ để tiện suy ngẫm.
Ví dụ 1: Giả sử người A, ở đại hạn Canh Tý (năm Giáp Tuất) được tuyển vào công ty hiện đang làm việc, nay thấy không hài lòng lắm với công việc, muốn tìm một công việc khác và muốn biết: có cơ hội đổi việc không? con duyên phận với công ty cũ hay không?
Từ các dữ liệu người A đã cung cấp ở trên:
Sau khi vận dụng vào lá số, chúng ta có thể thấy, cung trọng điểm của sự việc này là cung Thìn. Lý do như sau:
1. Đại hạn Canh Tý, bước vào cung sự nghiệp tiên thiên, cung đại hạn sự nghiệp tại Thìn, có can Canh Vũ khúc hóa quyền để cát hóa.
2. Lưu niên Giáp Tuất vào làm công ty hiện thời, can Giáp tạo thành Liêm Trinh Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Khoa, cùng nhập cung Thìn.
Giải thích: Ngoài 4 hóa tinh (lộc, quyền, khoa, kị) trên lá số tiên thiên, thiên can của đại hạn và lưu niên cũng tạo ra tứ hóa của riêng nó. Vào năm Giáp Tuất, lưu niên tứ hóa của can Giáp chính là Liêm trinh hóa lộc, Phá quân hóa quyền, Vũ khúc hóa khoa, Thái Dương hóa kị).
3. Năm vào công ty cũng vừa vặn là cung đối (đối xứng?) với cung đại hạn về sự nghiệp, Thìn.
Giải thích: Năm vào công ty là năm Giáp Tuất, lưu niên ở cung Tuất (lấy các cung địa chi để xem), Tuất và Thìn là hai cung có quan hệ đối xứng, sức ảnh hưởng sẽ lớn hơn).
4. Lưu niên Bính Tý bước vào cung vị đại hạn, sự nghiệp lưu niên cũng ở cung Thìn.
5. Công việc không thuận lợi, về lý phải do ảnh hưởng của hóa kị, lưu niên Bính Tý chính là lúc có Liêm Trinh hóa kị thủ tọa cung Thìn.
Sau khi nhập các dữ kiện như trên, chúng ta có thể thấy rõ ràng, cung Thìn là cung trọng điểm đối với công việc hiện tại của người A. Nếu chúng ta xem xét tính chất của các sao chính tinh phụ tinh (nguyên văn: tam phương tứ chính) tại cung Thìn cũng như những biến đổi theo lưu niên trong tuơng lai tại cung này thì có thể luận ra người A có duyên phận như thế nào đối với công việc hiện nay. Khi tim ra được cung trọng điểm, chúng ta sẽ không còn phải phân vân: rốt cuộc nên suy đoán dựa trên cung sự nghiệp tiên thiên (quan lộc?), cung đại hạn sự nghiệp tiên thiên, hay cung sự nghiệp lưu niên. Ba cung này ngộ nhỡ không thống nhất thì có phải sẽ khiến chùng ta hao tổn tâm trí vô ích?
Ví dụ 2: Người B muốn hỏi về chuyện tình cảm trong tương lai với bạn gái hiện thời. B cho biết, hai người quen nhau năm kia (Ất Hợi), bạn gái sinh năm 57 (>1968, tức Mậu Thân). Từ các dữ liệu B cung cấp:
Lý do như sau:
Chọn được cung trọng điểm là cung Thân rồi mà trong quá trình luận giải về tình cảm giữa hai người, chúng ta không lấy cung Thân làm chỗ dựa để phán đoán, lại dựa vào cung phu thê tiên thiên của lá số, hoặc cung phu thê lưu niên thì kết quả e rằng kết quả sẽ sai lệch ngàn dặm. (Bởi vì, năm Ất Hợi, cung phu thê lưu niên tại Dậu, đại hạn Thiên đồng hóa kị cũng như lưu niên Thái âm hóa kị song kị giáp (giáp nhau?), cung phu thê tiên thiên tại Tuất, có đại hạn Thiên đồng hóa kị thủ tọa cũng như tiên thiên Cự môn hóa kị hội ngộ, lưu niên Thái âm hóa kị ảnh hưởng liên tục.. Trong cảnh cung phu thê tiên thiên và lưu niên đều bị ảnh hưởng của Kị, rất khó xảy ra chuyện người B có thể kết được bạn gái.)
Ví dụ 3: Người C vào năm 83 Dân quốc, tức là năm giáp tuất, đặt mua một căn phòng trả góp. Căn phòng này năm đó khởi công năm Bính Tý thì hoàn thành. Người C muốn biết căn phòng này tương lai có tăng giá hay không. Theo những tư liệu người C đã cung cấp ở trên:
Từ các dữ kiện này có thể thấy, cung trọng điểm đối với căn phòng này có thể định tại cung mùi với lý do như sau:
Từ suy luận trên có thể thấy, nếu mà sự kiện này không phải là do cung trọng điểm, BỞI VÌ CUNG ĐIỀN TRẠCH TIÊN THIÊN Ở TẠI MÃO, ĐẠI HẠN ĐIỀN TRẠCH Ở TẠI CUNG MÙI, NHỮNG CUNG NÀY TẠI CÁC NĂM TIẾP THEO ĐỀU SẼ PHÁT SINH NHỮNG BIẾN ĐỔI CÓ TÍNH CHẤT KHÁC NHAU.
Từ ba ví dụ trên đây có thể thấy rất rõ giả sử... kỳ thực cung trọng điểm là một phhương pháp suy luận rỏ ràng và đơn giản nhất. Ngoài cái việc chúng ta tránh được việc giải đoán một cách rối rắm
(chú thích, năm n dân quốc tương ứng với năm n+12 theo lịch thông thường)
Từ 3 ví dụ trên đây, có thể thấy rõ, biết vận dụng “cung trọng điểm” là phương pháp suy luận đơn giản và sáng sủa nhất. Nếu không có cung trọng điểm, ngoài việc làm nhiễu mạch tư duy, cũng sẽ thường xuyên gặp cảnh “húc đầu vào đá”. Chỉ cần tìm được cung trọng điểm ở đâu, kết quả ta cần suy đoán, nếu không trúng cũng không quá sai lệch! Trong những phần suy đoán dưới đây, chúng tôi sẽ thử phân tích cách tìm cung trọng điểm.
MUỐN BỎ KHÔNG ĐƯỢC: CHUYỆN TÌNH CẢM CỦA CÔ KHA.
Mấy ngày trước, đồng nghiệp bảo tôi, cô ấy có một người bạn là cô Kha. Cô Kha từng nhờ tôi coi số tuy nhiên khi đó tôi mới chỉ viết một số nét cơ bản về vận hạn sắp tới của cô ấy, giảng cũng sơ lược, nên cô ấy muốn hẹn tôi một dịp nào đó gặp mặt trực tiếp. Cô Kha đang gặp một số khó khăn trong công việc và tình cảm nên mong tôi giúp đỡ, thảo gỡ một số nghi vấn, giải tỏa tâm lý.
Dưới sự sắp xếp của bạn đồng nghiệp, ba người chúng tôi hẹn gặp nhau tại một nhà hàng cà phê sau giờ làm việc ngày thứ bảy. Trong hương thơm của cà phê và tiếng nhạc êm ái, chúng tôi nói chuyện gần ba giờ đồng hồ. Những vấn đề có thể hỏi, cô Kha đều đã hỏi hết. Ngay cả những vấn đề bình thường rất khó mở miệng, cô Kha – con người vốn có tác phong “hào phóng”- hầu như cũng không bỏ qua. Trong quá trình đoán số, cô Kha cũng để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc về tác phong hành xử và cuộc đời của mình.
Khi luận lá số này, chúng tôi thấy cung trọng điểm- cung mệnh chiếm vai trò quan trọng, tổ hợp cách cục của nó cũng rất đặc biệt nên nêu ra để cùng bàn luận.
Ngay sau khi lập xong lá số của cô Kha, tâm lý của chúng tôi đều có phần chùng xuống, cuộc sống của cô ấy dường như rất nhiều màu sắc: tổ hợp cung mệnh có tính “biến hóa”, nếu chúng ta xét thêm cả sự biến hóa của vận hạn thì càng thấy rõ.
Nghe đồng nghiệp nói, cô Kha hiện nay quan tâm hai vấn đề là tình cảm và sự nghiệp nên tôi bắt đầu xem từ vấn đề tình cảm. Sau khi xem một lát, tôi nói với cô Kha: “chuyện tình cảm của cô hẳn là rất phong phú, phức tạp!”
“Cách cục trong lá số tiên thiên là cách cục “đào hoa phạm chủ” Tử Tham hội Thiên hỷ điển hình. Hiện nay, đại hạn ở Kỉ Sửu, can Kỷ Vũ khúc hóa lộc tại đại hạn cung phu thê, Tham lang hóa quyền tại cung mệnh tiên thiên, vận hạn cung phu thê và cung mệnh tiên thiên tại phương tam hợp, lại chịu sự ảnh hưởng của quyền lộc thì chuyện tình cảm rất khó suôn sẻ, đơn thuần.”
“Đúng thế! Mấy năm nay chuyện tình cảm của tôi đúng thực là như vậy. Tôi yêu hết anh này đến anh khác, thấy hợp thì đến, không hợp lại đi. Tuy đã yêu rất nhiều người, cuộc sống sống động muôn màu nhưng tôi không hề có cảm giác an toàn, nghĩa là vẫn chưa tìm được ai thật sự tri kỷ”, cô Kha trả lời tôi.
“Những người cô yêu đại đa số sinh năm bao nhiêu?”
“Trước đây tôi từng đi lại với mấy anh sinh năm 56, 58 dân quốc. Gần đây, tôi yêu một anh sinh năm 52, một anh sinh năm 54 dân quốc.”
Khi nhập các dữ kiện này vào lá số, tôi hỏi cô Kha, có phải cô ấy đã chia tay với người sinh năm 52 rồi không? Dường như cô ấy có duyên hơn đối với người sinh năm 54?
Người sinh năm 52, nếu nhập vào cung mệnh tiên thiên trên lá số của cô, cung vị nhập quái này sẽ cùng với cung phu thê theo vận hạn của cô tạo thành phương tam hợp. Như vậy, ngoài việc xuất hiện hiện tượng tác động lẫn nhau/kéo theo? của quyền lộc tạo ra cách cục hay người gặp gỡ, quen biết như đã nói trên đây, vận hạn hóa kị cũng khiến cho cung Tỵ và cung Hợi rơi vào cách cục xấu Xương Tham Khúc Tham. Người sinh năm 52, can Quý, Tham lang hóa kị cũng vừa khéo tọa thủ cung Mão đồng thời hội nhập cung Hợi, năm Bính Tý lại chịu ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị, e rằng dữ nhiều lành ít, tình cảm dễ đi vào hồi kết.
Người sinh năm 54, cung bát quái tại Tỵ. Cung vị này cùng với cung mệnh và cung phu thê trên lá số của cô Kha tạo thành phương tam hợp. Tương tự, cũng có lộc tinh Vũ Khúc cát hóa. Điểm khác biệt so với người sinh năm 52 là, cung Tỵ có Thiên tướng tọa thủ, tam phương không hình thành cách cục xấu. Do đó, cô Kha và người này chắc là có duyên với nhau hơn.
“Đúng thế, tình hiện hiện nay đúng là như vậy. Tôi với người sinh năm 52 chắc là khó có cơ hội gặp lại. Còn người sinh năm 54 hiện đang sống chung với tôi.” “Ngoài người hiện tôi đang sống chung, sắp tới có thể quen thêm bạn trai nào khác không? Tại sao ngoài người sinh năm 54, chuyện tình cảm với những người khác đều không đi đến đâu? Rốt cuộc tôi có cơ hội gặp được người tôi thực sự yêu thương không?” cô Kha hỏi.
“Như tôi vừa nói, đại hạn Kỷ Sửu cũng tức là trước 34 tuổi, cuộc sống tình cảm của cô không thể nào dứt (có kết quả?). Do vậy với những người đã gặp trước đây, đều đổ vỡ. Có thể thấy, cung vị nhập quái của những người này đều trùng hợp rơi vào phương tam hợp với cung mệnh tiên thiên, chịu ảnh hưởng của cách cục Xương Tham Khúc Tham nên không thể bền lâu. Giả sử hôm nay cô gặp một người sinh năm 53 hoặc 57, tôi tin rằng người đó sẽ đối với cô rất tốt, quan hệ của hai người cũng sẽ không tệ. Tình cảm mà! Có thể nâng niu thì hãy nâng niu, duyên phận vốn là đến không dễ, nếu không nắm lấy, sau này hối hận cũng không kịp. Người bạn hiện nay đối với cô cũng không tệ, tại sao phải nghĩ ngợi nhiều như vậy? Hơn nữa, phân tâm hai lòng đối với cô cũng không tốt đâu”.
“Nhiều khi tôi cũng cảm thấy mình trăng hoa quá! Có phải do tôi có số đào hoa nên mới như vậy hay không?”. Tôi sống với bạn trai hiện nay, kỳ thực không phải là có tình cảm gì cả, chỉ đơn thuận là như cầu sinh lý! Từ lá số, có thể luận ra vần đề “dục vọng” không?”, cô Kha nói với tôi quan điểm của cô ấy về tình cảm một cách rất thoải mái. (Cung Mệnh Thân có Kình dương, thông thường đều có tính hỏi gì thì hỏi đến cùng.)
CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM
Đào hoa có thể sinh ra hay không, điều này có thể phân tích từ cung Mệnh tiên thiên.
Trong cung Mệnh tiên thiên, có mấy tổ hợp, mấy tổ hợp này gặp nhau sẽ làm phát sinh một số hiện tượng dưới đây, tạo ra những biểu hiện trong tác phong làm việc của đương số:
1. Tử vi tọa mệnh nhưng không hội tả phù hữu bật, làm việc gì cũng khó tránh khỏi cảnh cô độc một mình. Thêm vào đó có Dương Đà đến quấy nhiễu, vậy ai tác động thế nào, đương số cũng vẫn theo ý mình mà làm.
2. Cách cục Sát Phá Lang hội sát tinh làm gia tăng tính hay thay đổi ở đương số, cuộc sống càng khả giả(?), càng phù hợp với lý tưởng của cô ấy. Điều này cũng giải thích tại sao đương số không hài lòng với hiện trạng.
3. Tử Tham gia thêm Thiên Hỷ là cách cục Đào hoa phạm chủ, cách cục này sau khi chịu ảnh hưởng bởi lộc, quyền của vận hạn, ngay cả khi đại hạn cung Sửu không phải là cách cục của Đào hoa, vẫn sinh ra hiện tượng đào hoa. Nếu lại thêm có Kình Đà hội hợp, cảnh “dã đào hoa (đào hoa dại)” là không thể tránh khỏi. Do vậy, trong chuyện tình cảm, đương số cũng cần biết tiết chế, nếu không sẽ không tốt.
4. Do cách cục Xương Tham Khúc Tham, cuộc sống tình cảm hiện tại của đương số sẽ có nhiều biến động. Nói một cách trực tiếp là việc kì quái đến mấy, cô ấy cũng có thể làm. Trong đại hạn hiện nay, can Kỷ Văn khúc hóa kỵ ảnh hưởng tới cách cục này, khiến cho tính biến động càng rõ nét.
5. Tham lang hóa quyền trong vận hạn và Vũ khúc hóa quyền tiên thiên càng ảnh hưởng mạnh tới cung mệnh có Đào hoa, đồng thời hội với (?) cung phu thê của đại hạn, ít nhiều cũng làm tăng mong muốn chiếm hữu đối với người khác giới của đương số. Nếu mang tổ hợp quyền tinh và kị tinh kết hợp với tính cường vượng của chủ tinh để suy xét, càng thấy rõ tình hình này.
Nếu kết hợp 5 điểm nêu trên để luận giải sẽ thấy khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đương số. Thực ra, những cách cục này không phải hoàn toàn xấu, không có điểm nào tốt, do đó tốt hay xấu cần phải xem đương số hành động như thế nào. Nếu đương số biết lợi dụng những tính chất này vào công việc, ví dụ làm một số việc liên quan đến mỹ thuật, nghệ thuật, phục trang v.v. rất có thể sẽ đạt được thành tựu hơn công việc hiện tại, có cơ hội thăng tiến. Đương số là nữ giới, cuộc sống tình cảm quá “phong phú” cũng không tốt: trên lá số đã tiềm ẩn một số tính chất như vậy, nếu bất cẩn không lưu ý, người phải chịu thiệt hại sẽ chính là cô ấy.
Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô Kha hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô ấy. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên..
Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên câu hỏi này tôi tạm không trả lời. Điều đáng quan tâm, theo tôi là làm thế nào để “xu cát tị hung” (thêm cái tốt, bớt cái xấu), làm thế nào để lợi dụng những điểm trên lá số để phát triển tiềm năng của mình”.
“Nói thế mà được! Trước đây không phải anh đã bảo, từ lá số có thể nhìn được những điều này? Sao giờ anh lại không nghiên cứu nữa? Anh cứ nói đi mà! Nói ra thì có làm sao? Người ta đã hỏi, anh còn ngại gì chứ?”, đồng nghiệp của tôi ngồi bên cạnh, thúc bách tôi phải nói.
“Cung tử tức là cung đại diện cho ham muốn tình dục, cung tật ách là cung đại diện cho khả năng tình dục. Cung tử tức tiên thiên của cô là Thái dương hóa lộc tọa thủ tại cung Tý. Thái dương của người sinh giờ Mão chính là hiện tượng “ánh nắng sớm đợi mọc”, cung Tý tam phương lại có hai sao Hỏa, Linh làm tăng thêm sức mạnh của Thái dương. Cho nên.....”
“Đại hạn, cung tử tức tại Tuất. Cung Tuất có Vũ khúc hóa quyền tiên thiên và Tham lang hóa quyền của đại hạn (nhập cung Dậu), tức là giáp song quyền. Điều này có thể giải thích cho sự hưng vượng về ham muốn tình dục của đương số.”
“Nếu tiếp tục xem xét đại hạn tiếp theo, đại hạn đi vào vị trí cung tử tức tiên thiên, sẽ xuất hiện hiện tượng giống như trên. Cung tử tức của đại hạn tại Dậu, có Tham lang hóa lộc của vận hạn làm cát hóa, như vậy tôi nghĩ rằng tuổi đương số càng cao, hứng thú tình dục e rằng càng mãnh liệt”.
Cô Kha và đồng nghiệp nghe xong những lời giải đoán “thoải mái” của tôi đều không nhịn được, cười lớn nói: thế thì biến thành “hoa si” (kẻ ham mê sắc dục) hay sao?
Sau khi đã hỏi rất nhiều câu nên hỏi và không nên hỏi, cô Kha hỏi một câu có liên quan tới công việc của cô ấy. Cô nói, năm kia (Ất Hợi), cô vào làm việc cho công ty hiện tại, không rõ có nên tiếp tục công việc này hay không? Nếu đổi việc khác, trong tương lai nên làm việc trong ngành nghề gì thì tốt nhất?
Nếu xét dựa trên dữ kiện là năm vào công ty, cung Mão và cung Hợi là hai cung có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp. Hai cung vị này, ngoài việc có tiên thiên Vũ khúc hóa quyền, đại hạn Vũ khúc hóa lộc, Tham lang hóa quyền và lưu niên Lộc tồn dẫn động, còn là cung mệnh của lưu niên và cung sự nghiệp (quan lộc?) của lưu niên.
Hai cung vị này vào năm Bính Tý, sau khi có Liêm trinh hóa kị dẫn động (sau khi có ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị?), sợ rằng đã ngầm ẩn hung cơ (việc xấu/ cơ hội xấu), muộn nhất chắc đến năm Đinh Sửu.
Về tính chất công việc, đương số có tử vi tọa mệnh, tuy không có tả phù hữu bật hội chiếu nhưng tính chất công việc vẫn thuộc loại “đa nguyên”: có thể làm việc trong nhiều ngành nghề, không chê ngành nào. Nếu lại phối hợp với cách “Xương Tham, Khúc Tham” thì càng rõ ràng. Nhưng tôi vẫn khuyên giống như đã nói ở trên: đối với đương số, nếu có thể chuyển tính chất “đào hoa” trong cung mệnh vào nghề nghiệp, chú trọng đến những sở trường này (Kình Dương, Đà La hội nhập), chắc rằng sẽ có nhiều thành tựu.
Chúng tôi kết thúc 3 giờ đồng hồ đoán mệnh. Tuy tôi vẫn chưa đưa được đáp án nào cụ thể, rõ ràng cho cuộc sống tình cảm thăng trầm của cô Kha nhưng dựa vào thiên tính lạc quan của cô ấy, tôi tin cô ấy sẽ nhanh chóng tìm được một người bạn đời lý tưởng. Một lần nữa, tôi muốn gửi lời chúc phúc tới cô.
HÀNH TRÌNH CÔ ĐỘC: CUỘC HÀNH TRÌNH SANG ĐẠI LỤC CỦA HỌC TRƯỞNG (SƯ HUYNH).
Chủ nhân của lá số này là sư huynh, đồng thời là đồng nghiệp của tôi. Khi tôi mới vào công ty, anh ấy đã giúp tôi rất nhiều. Trong công việc, chúng tôi luôn cùng vai sát cánh, trong đời tư, chúng tôi là bạn bè tốt, chia sẻ mọi việc.
Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt.
Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt, cần chuẩn bị thực lực để đến khi gặp thời cơ có thể phát huy. Đầu năm sau, sư huynh quả nhiên được thăng chức, được điều đến một xí nghiệp có liên quan, giữ chức trưởng phòng tài vụ (tài vụ trưởng). Chế độ đãi ngộ tuy không tốt hơn rõ rệt nhưng là bàn đạp để thăng tiến. Làm công việc này chưa đầy một năm, sư huynh được cử đi công tác ở đại lục. Công ty ở đại lục mới bắt đầu gây dựng, mọi chế độ đều đang trong quá trình xây dựng, tất nhiên công việc rất vất vả nhưng lương bổng nhiều hơn gấp đôi so với công việc cũ.
(Hết trang 53/118)
Những công nhân viên chức được cử sang đại lục, càng có cơ hội nắm nhiều quyền lợi cho mình, tích lũy càng nhiều kinh nghiệm. Chỉ cần công tác đủ hai năm ở đại lục, khi quay lại công ty mẹ, đều có thể được thăng chức. Đây là lợi thế mà những nhân viên ở lại Đài Loan không thể có được.
Do có nhiều lợi ích như vậy nên các nhân viên ở công ty đều muốn giành lấy cơ hội đi đại lục. Nhân viên trong công ty quá đông, trong cảnh “người nhiều cháo ít” như vậy, sư huynh của tôi có thể được cấp trên đề bạt, khởi hành đi đại lục một cách thuận lợi, tôi nghĩ không hẳn chỉ vì biểu hiện trong công việc của anh ấy tốt mà còn vì anh hơn người ta một chút cơ duyên.
Vào khoảng mấy ngày giáp Tết âm lịch năm 85, tôi nhận được điện thoại của sư huynh, ngoài việc hàn huyên tâm sự, sư huynh cũng tiết lộ, lần này về nghỉ tết, anh ấy muốn tranh thủ lại thăm tôi, nhờ tôi xem giúp cho anh ấy vận hạn lưu niên Bính Tý. Cũng bởi vì gần đây công việc của anh ấy không thuận lợi lắm, anh cảm thấy không đáng phải vất vả như vậy nên muốn xem thử vận thế sắp tới thế nào. Khi đó đúng dịp quyết toán cuối năm, công việc của chúng tôi đều rất bận nên chúng tôi không nói nhiều qua điện thoại, chỉ hẹn cuối năm gặp nhau sẽ đàm đạo.
Tôi nhớ rằng, trong lần thứ hai luận giải lá số cho sư huynh, tôi có nói với anh ấy, anh ấy đang gặp một số khúc mắc trong quan hệ, mặc dù cụ thể là gì tôi chưa biết rõ. Qua sự kiểm chứng của sư huynh, quả thật anh ấy đang gặp khó khăn trong quan hệ với cấp trên ở đại lục. Đây cũng là vấn đề khiến anh ấy lo phiền nhất hiện nay. Nhiều lúc, anh ấy cũng đã định từ chức nhưng nghĩ đến việc đã đổ sức làm việc 5, 6 năm, anh ấy lại không cam tâm từ bỏ. Nghe xong những lời bất bình của sư huynh, tôi hỏi thêm anh ấy một số thông tin liên quan và từ đó có một số suy luận như sau:
Sư huynh vào công ty năm Canh Ngọ, năm đó 27 tuổi, đại hạn tại Bính Tý.
Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ. Tuy nhiên, do sự tác động của Liêm Trinh hóa kị, vận thế bình ổn, thuận lợi trước đây sẽ này sinh một chút dao động khiến đương số có ý muốn thay đổi).
Đại hạn tọa quyền hội lộc và đại hạn hóa kỵ tự nhiên (tự nhiên nhi nhiên) sẽ khiến đương số kiên trì hơn người khác trong công việc (?).
Lưu niên Canh Ngọ, chuyển sang cung Thiên Di của đại hạn, can Canh khiến Thái dương hóa lộc và Thiên đồng hóa lộc ở đại hạn, song lộc giáp cung sự nghiệp của lưu niên. Khi lưu niên đến cung vị cường vượng đồng thời cung sự nghiệp lưu niên hình thành cát hóa, tìm được một công việc tốt là chuyện không khó khăn gì (tuy nhiên, năm đầu tiên vào công ty, cũng sẽ vất vả một chút, lưu niên chuyển đến vị trí đại hạn Liêm trinh hóa kị, cung sự nghiệp lưu niên cũng ở cách “ủy khuất” của song kị giáp (gặp hai hóa kị?). Bởi vậy, đương số có thể bình an qua một năm là do ảnh hưởng của cách cục cường vượng tạo ra bởi tam phương chính tứ ở cung Ngọ).
Giáp Tuất lưu niên, khi xưa tôi đoán giải là năm này sẽ có bước tiến tốt trong công việc, lí do như sau:
1. Giáp Tuất lưu niên, chính là rơi vào cung sự nghiệp (Canh Ngọ niên) của năm vào công ty, lực tác động tương hỗ tự nhiên sẽ mạnh.
2. Lưu niên bước vào cung vị cường vượng, năng lực tự nhiên và vận thế đều tốt.
3. Lưu niên thiên can Giáp khiến lưu niên tam phương hình thành cách cục “tam kì gia hội” (三奇加會) 。
4. Thiên can của lưu niên và tiên thiên tương đồng, vì vậy năm này sẽ có tứ lộc cát hội, đồng thời tạo ra những cách cục tốt như Tử Phủ tương hội Tả Hữu, Hỏa Tham...
Đại khái chính vào thời điểm giữa năm Giáp Tuất, sư huynh được cất nhắc và cử sang công ty có liên quan phụ trách tài vụ. Công việc này tuy chức cao nhưng trách nhiệm cũng lớn. Dù sao cũng là một bàn đạp để thăng tiến.
Lưu niên Ất Hợi, sư huynh được công ty cử đi công tác tại Quảng Châu, đại lục, đảm nhiệm chức giám đốc phụ trách tài chính, cả chức vị và lương bổng đều thăng tiến vượt bậc.
(hết trang 55/118).
Lưu niên Ất Hợi, Lộc tồn và Thiên cơ hóa lộc giáp cung sự nghiệp tiên thiên, Thiên cơ hóa lộc và Thái dương hóa lộc can Canh trong năm vào công ty giáp đại hạn cung mệnh. Do sự cường vượng của bản mệnh và đại hạn, đương số sẽ có cơ hội thăng chức.
Nhưng năm này không phải là năm chỉ cát mà không có hung. Lưu niên khi đó rơi vào cung vị yếu thế bị kị sát xung (xung chiếu?) đồng thời hội hung cách (cách cục xấu). Do vậy tôi cho rằng, năm này là năm đương số phải làm việc vất vả, hao tâm tổn trí hơn nhiều so với mấy năm trước đó.
Năm tiếp theo (Bính Tý), sư huynh từ đại lục quay lại Đài Loan nghỉ phép, vừa về đến Đài Loan, liền gọi điện thoại tìm tôi, nói rằng lại muốn tìm tôi xem số giúp. Những vấn đề cần hỏi, anh ấy cũng không nói rõ, chỉ nói là sẽ tìm thời gian đến tìm tôi tại công ty, khi nào gặp mặt sẽ nói cụ thể.
Trong ngăn bàn của tôi tình cờ lại có lá số của sư huynh nên tranh thủ khi anh ấy chưa tới, tôi xem qua lá số của anh. Xưa nay tôi vẫn luôn như vậy, trước khi gặp đương số, thường tranh thủ xem qua lá số của họ, ghi lại những điểm quan trọng, một là để tiết kiệm thời gian khi gặp mặt, hai là tôi nghĩ khi đó tư duy thường rành mạch, chưa bị nhiễu loạn bởi các thông tin. Những điểm tôi ghi lại khi đó là:
(1) công việc: năm Bính Tý cần chú ý, nếu kết giao với người sinh năm 41, dễ có vấn đề trong quan hệ giữa hai người. Nếu qua năm sau thì lại không có vấn đề gì nữa.
(2) hôn nhân: năm 87 dân quốc, dễ có duyên phận quen biết người sinh năm năm 53, 57 dân quốc.
Một ngày sau hôm nói điện thoại, sư huynh của tôi đến công ty giải quyết công việc rồi qua tìm tôi. Sau khi tôi vừa cầm lá số đã lập ra, anh ấy liền hỏi ngay: “Anh cảm thấy tôi tìm việc thì thế nào? Có vấn đề gì không?”.
Sau khi xem xét lại lá số lần nữa, tôi bảo anh, năm nay anh cần chú ý vấn đề quan hệ, cần cẩn thận trong quan hệ với cấp trên và đồng nghiệp. Bởi vì cung Thiên di có hóa kị đồng thời hình thành hung cách mà cung Thiên di chính là đại diện cho những việc này. Còn công việc thì chắc là không có vấn đề gì lớn.
Sư huynh nghe xong lời luận giải của tôi, lập tức trả lời: “Chuẩn! Không sai, hiện nay anh đang bất hòa với cấp trên đây. Hắn ta việc gì cũng soi mói, làm khó dễ, anh chịu hết nổi rồi”.
Nghe xong những lời sư huynh phàn nàn về cấp trên, tôi lại chú mục vào lá số, xem một lúc rồi bảo anh: “nếu mà cấp trên của anh là người sinh năm 41, thì anh cần cẩn thận đấy”.Sư huynh lập tức đáp lời tôi bằng một giọng vừa ngạc nhiên và kinh hoàng: “đúng đấy, cấp trên của tôi đúng là sinh năm 41. Sao mà trùng hợp thế nhỉ?”. Tôi bảo: “Vậy sau khi anh quay lại đại lục, anh cần phải chú ý xử lý mâu thuẫn giữa hai người nhé. Nếu không, làm việc mà không vui vẻ với nhau, đến mức phải bỏ việc thì lợi bất cập hại. Có nhiều việc trùng hợp như vậy đấy, gặp rồi thì chịu vậy thôi, biết sớm như thế thì anh có thể chuẩn bị tâm thái cho mình. Qua năm nay thì mọi việc sẽ ổn cả, làm thế nào là do anh.” Cuối cùng, tôi khuyên sư huynh như vậy.
Tiếp theo, chúng tôi cùng nhau xem xét, tại sao năm Bính Tý, sư huynh lại gặp khó khăn trong quan hệ.
1. Lưu niên Bính Tý rơi vào cung đối với cung Ngọ. Cung Ngọ này là năm đương số vào công ty (Canh Ngọ). Nói một cách khác, cung vị năm nay là “cung Thiên di” của năm vào công ty. Khi lưu niên chạy đến một cung vị có ít nhiều liên quan đến cung Thiên di của việc vào công ty (nguyên văn: 當流年走到這個與公司遷移不無關係 宮位時), nếu năm nay phát sinh vấn đề trong quan hệ với cấp trên, lực tác động tương hỗ giữa các cung vị này đương nhiên sẽ không phải là nhỏ.
2. Lưu niên Bính Tý chạy đến cung Mệnh của đại hạn, tứ hóa và đại hạn giống nhau, Bính Tý Liêm trinh hóa kị vừa khéo ở vận hạn này, cùng với cung Thiên di của lưu niên và lưu niên Kinh dương tọa thủ cung Ngọ, khiến cho vận hạn thiên di hình thành hung cách “hình nhân giáp ấn” (刑囚夾印 )
3. Cung Thiên di của đại hạn và lưu niên này tuy là cách cục lớn (Tử Tướng triêu đàn, đồng thời hội Tả Hữu, thêm Lộc Quyền Khoa), về lý, quan hệ giao tế, thậm chí là quan hệ với cấp trên sẽ phát triển theo hướng tốt, chính diện nhưng do bị Liêm trinh hóa kị phá nên những hung cách “hình nhân giáp ấn”, “Linh Xương Đà Vũ’, “Vũ khúc, Hỏa tinh” đều ẩn chứa nhiều mối họa.
4. Cung Thiên di của lưu niên và đại hạn đã hình thành hung cách. Nếu hung cách này bị dẫn động bởi việc tiếp xúc với cấp trên hoặc cấp dưới, hoặc tọa nhập vào cung vị không thực sự tốt thì trong quan hệ của đương số ở đời thực tất nhiên sẽ nảy sinh những điều không như ý.
Chú thích:
(1) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng tốt: do quan hệ tương hỗ tốt, quan hệ của đương số và những người đó cũng sẽ là quan hệ tương trợ, giúp đỡ nhau.
(2) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan không tốt: đương số sẽ cảm thấy làm việc với người này vất vả, nhiều ý kiến này nọ, nhưng nhìn chung cũng sẽ không có hiện tượng xấu.
(3) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan tốt: trong môi trường khó khăn, đương số vẫn sẽ tìm được bạn tốt.
(4) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng không tốt: đương số không chỉ gặp khó khăn trong việc tìm bạn, tìm người phù trợ mà càng tiếp xúc lâu xung đột giữa đôi bên sẽ càng lớn.
Dựa vào lý do gì tôi cho rằng cấp trên của sư huynh có lẽ là người sinh năm 41, khiến hai người nảy sinh xung đột trong công việc? Nguyên nhân kì thực rất đơn giản, như sau:
1. Tất cả những hiện tượng bất hòa với cấp trên trong lưu niên và đại hạn Bính Tý, chưa vội để ý tới năm sinh của “nhập quái”, thì theo như đã nói ở trên, chúng ta có thể xác định cung Ngọ là một vị trí hung (xấu) để cho những hiện tượng như vậy xảy ra. (?)
(Hết trang 57/118)
2. Nếu chúng ta nhập vào lá số dữ kiện năm sinh của cấp trên, thiên can hóa kị của ông ấy chắc sẽ cùng cung đối với cung Ngọ tạo ra hiện tượng xấu. Chỉ có như vậy, giữa hai người mới có thể có hiện tượng xung khắc, bất hòa, phù hợp với tình hình thực thế của đương số.
3. Năm sinh có thể tạo ra quan hệ tương tác mạnh nhất nên xuất hiện tại cung vị tam hợp phương của lưu niên hoặc vận hạn. Nếu như vậy thì những năm sinh có khả năng cao nhất phải là những năm nhập quái tại cung Tý (năm 49 dân quốc), cung Thân (năm 45), cung Ngọ (năm 43) và cung Thìn (năm 41).
4. Tổng hợp 3 điểm nêu trên, tôi thấy năm sinh 41 dân quốc (năm Nhâm Thìn) là có khả năng cao nhất vì:
(1) Can Nhâm trong năm sinh 41 dân quốc có Vũ khúc hóa kị xung với cung Ngọ.
(2) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn trên lá số (của đương số?). Cung này vừa là cung Thiên di của lá số tiên thiên, vừa là cung quan lộc của vận hạn. Như thế tác động của nó tới quan hệ của đương số và cấp trên trọng vận hạn này cũng sẽ khá mạnh.
(3) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn, đối xứng với cung mệnh tiên thiên của đương số. Can Nhâm Vũ khúc hóa kị tại Tuất. Nếu thêm yếu tố Đà La trong lưu niên của người sinh năm Nhâm vào lá số thì sẽ khiến cung Mệnh tiên thiên của đương số tạo thành hung cách Linh Xương La Vũ. Hung tính này sẽ khiến đương số và người sinh năm Nhâm khó duy trì quan hệ hòa hợp.
(4) Cung Thìn có cách cục Xương Tham Khúc Tham, một khi lại gặp sao Hóa kị thì vị cấp trên này sẽ thường có những hành vi, mệnh lệnh và chính sách mà cấp dưới không ngờ tới được.
(5) Giả thiết vị cấp trên này nhập quái ở cung Thìn. Như thế, Tham lang trong cung mệnh (Thìn) của ông ta sẽ vừa khéo kết hợp với Văn xương trong cung mệnh tiên thiên của đương số (Tuất) tạo thành cách cục Xương Tham. Ý nghĩa của cách cục này cũng là: nếu hai người kết hợp trong công việc sẽ dễ phát sinh mâu thuẫn.
(6) Cung thiên di của vận hạn là hung cách, cung nhập quái của chủ quản cũng tạo ra cách xấu “Linh Xương La Vũ”. Hai cung có ý nghĩa quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa đương số và cấp trên đều rơi vào thế xấu, tất nhiên mối quan hệ này sẽ nảy sinh vấn đề.
Sang đại lục để phát triển sự nghiệp, hi vọng có thể tích lũy nhiều kinh nghiệm, phát huy sở trường, không ngờ lại gặp phải một vị chủ quản khắc tinh, khiến cho mình bị bó buộc chân tay, không có đất dụng võ... Cần làm gì để đối phó với những việc sẽ phát sinh trong tương lai, có thể qua năm Bính Tý một cách yên ổn hay không là những vấn đề hiện nay sư huynh đang mong mỏi được biết. Lá số có nói lên điều gì? Nên luận giải chúng như thế nào? Dưới đây người viết xin nêu ra một số thiển ý như sau:
(Hết trang 58)
CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM
Xét cả quá trình từ khi sư huynh vào công ty đến lúc phát sinh mẫu thuận với cấp trên như hiện nay, sau khi nhập thêm dữ liệu là các năm sinh có liên quan, có thể thấy, hai cung vị có sức dẫn động mạnh nhất là cung Ngọ và cung Tuất. Do vậy, để phán đoán các bước phát triển tiếp theo trong công việc hiện nay của đương số, tôi cho rằng, cung Ngọ và cung Tuất chính là hai cung vị trọng điểm để suy ngẫm.
1. Cung Ngọ:
(1) Cung Ngọ là cung đương số vào công ty (Canh Ngọ).
(2) Cung Ngọ là cung thiên di của đại hạn Bính Tý. Cung thiên di đại diện cho duyên phận của đương số với công ty. Nếu cung thiên di cường vượng, đồng thời cùng với mệnh cung của vận hạn hình thành những cách tốt, chính diện thì tất nhiên đương số sẽ tận tâm tận lực với công ty. Nhưng nếu cung thiên di yếu hiểm đồng thời cùng với cung mệnh tạo thành hung cách, e rằng phải thắp hương niệm Phật mới có thể có được một kết cục tốt đẹp!
(3) Lưu niên Giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp có liên quan, Can Giáp của năm này khiến cho cung Ngọ, vốn có nhiều cách tốt lại một lần nữa tạo thành cách tốt “Tam kì gia hội”. Trong năm mà cung Ngọ - đại diện cho công ty- ở vào thế tốt như vậy, tất nhiên sẽ có những bước tiến tốt.
(4) Lưu niên Bính Tý, can Bính lại khiến cung Ngọ hình thành hung cách. Do đó phát sinh việc bất hòa với cấp trên.
(5) Ngọ cung là tam hợp phương với cung Mệnh của lưu niên, đại vận và tiên thiên, sức ảnh hưởng của nó đương nhiên không nên bỏ qua.
2- Cung Tuất:
(1) Cung Tuất là cung mệnh, thân tiên thiên.
(2) Cung Tuất là cung sự nghiệp lưu niên của năm vào công ty.
(3) Trong năm vào công ty (Canh Ngọ), cung Tuất được Thiên đồng hóa lộc của can Bính đại hạn và Thái Dương hóa lộc của can Canh lưu niên đến giáp, phù.
(4) Lưu niên giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp khác, cũng khiến cho cung Tuất hình thành đại cách cục “Quân thần khánh hội” do tam lộc hội kết hợp với tam kỳ gia hội. (?)
(5) Lưu niên Bính Tý, đương số và cấp trên nảy sinh bất hòa, lúc này cung Tuất cũng hình thành các hung cách như “Linh Xương La Vũ’, “Hình nhân giáp ấn”...
(Hết trang 59/118).
(6) Vị cấp trên sinh năm Nhâm Thìn cũng ứng với cung đối với cung Tuất. Thiên can Vũ khúc hóa kị và lưu niên Đà la của vị cấp trên cũng khiến cung Tuất sinh hiện tượng xấu (hung tượng).
Dưới đây, chúng ta cùng xem xét sự biến hóa của tứ hóa trong những lưu niên tiếp theo của cung Ngọ và cung Tuất, dựa vào cách cục của nó và sự dẫn động của tứ hóa để suy luận ra kết quả.
1. Tam phương tứ chính của cung Ngọ và cung Tuất có rất nhiều cách cục. Về các cách tốt, có các cách sau: tam phương có đại cách cục “Quân thần khánh hội” Tử Phủ Tướng hội Tả Hữu Xương Khúc, “Song Lộc giao trì”, Hỏa Tham, Linh Tham, Lộc Quyền Khoa- “Tam kỳ gia hội”. Về hung cách, tuy tàng ẩn có các cách cục Linh Xương La Vũ, “Hình nhân giáp ấn”, Xương Tham, Khúc Tham v.v. nhưng cân chú ý, nếu như không có các sát tinh và hóa kị đặc thù dẫn động, những “hung cách có tính tàng ẩn” này trái lại sẽ có tính chất kiên trì, bền gan (百折不撓), càng lay chuyển càng mạnh (愈挫愈勇)。Cũng chính vì ảnh hưởng của những hung cách này, sư huynh mới dám một mình đi đến nơi đất khách quê người để lập làm việc (những chi nhánh mới xây dựng ở đại lục, ngoài mấy vị lãnh đạo là người Đài, công nhân viên đều là người bản địa.)
2. Năm Ất Hợi, được cử sang đại lục, năm này tuy lưu niên Kình dương và Đà la có ảnh hưởng không tốt tới cung Ngọ và cung Tuất. May thay, tam phương của Ngọ và Tuất lại có các cách cục cường vượng. Thêm vào đó, lưu niên cũng không chạy đến cung vị tam hợp phương, Ất Ngọ Thái âm hóa kị cũng không gây sóng gây gió nên không tạo ra những ảnh hưởng quá bất lợi.
3. Năm Bính Tý, can Bính lưu niên Kinh dương và Đà la khó có khả năng liên tục tạo ra yếu tố xấu nhưng Liêm trinh hóa kị lại dẫn động hung cách, rơi vào các cung vị tam hợp phương (??) nên đương số sẽ từ bỏ công việc này hay không, năm nay sẽ có quyết định. Nhưng theo tôi, có lẽ đương số nên tiếp tục làm công việc này, bởi vì:
(1) Nếu xét những lưu niên tiếp theo- Đinh Sửu, Mậu Dần, Mão, Canh Thìn- hóa kị trong những thiên can này sẽ không dẫn động (ảnh hưởng xấu?) đến hai cung Ngọ, Tuất. Điều này cung có nghĩa là, hung tính cũng chỉ ở hai năm Ất Hợi và Bính Tý mà thôi. Khả năng xảy ra sự dẫn động liên tục của các yếu tố xấu (hung tượng) thấp.
(2) Cung Ngọ và Tuất bản chất vẫn là những cung vị có các tổ hợp mạnh (cường vượng), tự nhiên nhi nhiên sẽ có thể chịu được sự tác động của một số yếu tố xấu.
(3) Nếu xét thêm dữ kiện: can Canh của năm vào công ty (Canh Ngọ) có Thái Dương hóa lộc, sẽ thấy lưu niên Bính Tý, cung vị xấu nhất vẫn có song lộc Thái Dương và Thiên Đồng đến phù trợ.
(4) Nếu xét thêm các dự kiện: bất hòa với cấp trên, năm sinh của cấp trên, sẽ thấy người sinh năm 41 dân quốc vào can Nhâm có Vũ khúc hóa kị tạo ra yếu tố xấu ở hai cung Ngọ, Tuất nhưng bù lại, lại có Thiên lương hóa lộc và Lộc tồn của lưu niên Bính Tý cùng phù trợ cung Ngọ.
(5) Tuy vào can Bính, Liêm trinh hóa kị ảnh hưởng xấu tới cung mệnh của đại hạn và cung phúc đức tiên thiên, khiến đương số tổn hao tâm lực nhưng nếu chúng ta nhập vào lá số hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt của vị thủ trưởng sinh năm 41, sẽ thấy Khôi Việt giáp với cung sự nghiệp của vận hạn và cung thiên di tiên thiên. Do đó không thể phủ nhận, vị thủ trưởng hiện nay cũng không phải là người cạn tàu ráo máng, hành xử vô tình.
(Hết trang 60/118).
(6) Thiên di Hóa kị của lưu niên và đại hạn Bính Tý, cung sự nghiệp không có Hóa lộc, đương số cũng không dễ dàng tìm được công việc bên ngoài mà công việc hiện nay đã làm gần 7 năm trời. Vậy tôi tin rằng đương số, người vốn suy nghĩ cặn kẽ do Xương Khúc tọa mệnh và có năng lực phán đoán của Hỏa Tham, Linh Tham chắc sẽ biết kìm nén bản thân.
Các nhân viên làm việc ở lục địa vốn luôn vất vả và cô đơn, mức sống ở lục địa lại thấp hơn ở Đài Loan... những gì sư huynh phải chịu đựng, đám người ngồi tại văn phòng công ty ở Đài Bắc như chúng tôi đúng là khó lòng thấu hiểu hết. Tuy nhiên được cắt cử sang đại lục tức là năng lực của mình đã được nhìn nhận, dù trước mắt công việc có chút áp lực nhưng cũng không nên từ bỏ, nếu sẽ bị thiệt hại, không chỉ là về tiền bạc. Cuối cùng, tôi muốn dùng khẩu hiệu của công ty để nói với sư huynh: “có vất vả mới có thể cầu tiến”.
VẤN ĐỀ CỦA THẦY: MỘT BỨC THƯ CỦA ĐỘC GIẢ TỪ HONGKONG
Xuất bản sách tử vi, ngoài việc có thêm nguồn nhuận bút ít ỏi, việc khiến tôi vui nhất chính là có thể kết giao với nhiều người ham thích tử vi từ khắp nơi.
THỜI VẬN KHÔNG ĐỦ: THIÊN LÝ MÃ NAN QUÁ BÁ LẠC
TÌNH THÂM DUYÊN CẠN: MỐI TÌNH ĐẦU CỦA ÔNG THÁI
Quyển 2: Phép nhập quái
1. Người
2. Vật
ĐOÁN SỐ MẠN ĐÀM: CÁCH VẬN DỤNG PHÉP NHẬP QUÁI
KẺ VÔ ƠN: ÔNG TRƯƠNG BỎ NHÀ BỎ CON
PHONG THỦY NƠI Ở: TỪ LÁ SỐ XEM MÔI TRƯỜNG CHỖ Ở
CHƯƠNG 3 MỆNH CHỦ TINH LUẬN
Như thế nào gọi là mệnh chủ? Mệnh chủ là căn cứ mệnh cung đóng tại địa bàn nào mà suy ra.
Địa chi:
Địa bàn===...tý....../ Sửu –hợi/Dần-tuất/Mão-dậu./Thìn-thân/Tỵ -mùi/Ngọ
Sao MC===Tham lang/Cự môn./Lộc tồn./Văn khúc/Liêm trinh/Vũ khúc/Phá quân
Mệnh chủ là nội dung đặc thù của đẩu số học, nó xét nhân mệnh,hướng âm trạch, dương trạch,bất kể thư tịch cổ hay mới gần đây đều lược bỏ, không đề cập, chỉ có bảng trên.
Theo phép hỷ kỵ gia truyền của bút giả, mệnh chủ là cánh cửa, căn cứ tính chất mênh chủ,rất dễ dàng suy ra ngũ hành hỷ kỵ thần của mệnh.
Thật đáng tiếc, đáng tiếc. Ngàn năm sau sự ứng dung mệnh chủ do ko ai công khai mà phép đoán mệnh như trên, thường cần phối hợp với bát tự
Bút giả gần đây được đồng đạo khích lệ công khai bí pháp với độc giả.
Dưới đây,bút giả cùng độc giả đàm luận ý nghĩa và ứng dụng mệnh chủ:
1. Tham lang: ở đây là tham lang, mệnh chủ tham lang và mệnh lý cũng là tham lang,ý nghĩa đại kỳ dị, khác xa, ko đồng nhất.
Tham lang là mệnh chủ có ý nghĩa biểu thị cục số mệnh cung đại cát đai lợi, vậy ý nghĩa của đại biểu ngũ hành tham lang là sinh khí.
Ở hỷ kỵ pháp trên thời sinh khí tham lang, lấy bỏ ngũ hành cường nhược ứng với ngũ hành cục số làm trọng.
Ví dụ: nữ sỹ 24 năm tháng 2 ngày 10 giờ mão
mệnh cung tại mậu tý đắc thiên đồng thủy,thái âm hóa kỵ, linh hỏa tinh tại nhâm ngọ cung vcd
Ngũ hành cục của bản mệnh là hỏa lục cục, mệnh cung địa bàn tại Tý đắc tham lang sinh khí, cho nên mệnh này ứng với hỏa là trọng, lại giả thử mệnh là tháng 2 sinh, bởi vì có thể nói người hỏa tháng 2 tọa tý cung, tức thủy cung có thủy tinh, bởi vậy mệnh này ứng với thổ là hỷ, thổ chế thủy, do đó kết luận thổ là hỷ thần, lại còn nếu mệnh chủ với hỏa lục cục, thì hỏa là dụng thần, kỵ thần là thủy và mộc.
Đấy là vận dụng giản lược hỷ kỵ đẩu số pháp.
Ý nghĩa mệnh chủ trên đẩu số, đó là nguyên nhân sâu từ phong thủy học.
Trong phong thủy học, hướng cát hung hoàn toàn theo cửu tinh mà định
Thế nào gọi là cửu tinh? cửu tinh đó là căn cứ hà đồ lạc thư như sau:khảm 1, khôn 2, chấn 3, tốn 4, trung cung 5,càn 6,đoài 7, cấn 8, ly 9.
4 9 2
3 5 7
8 1 6
Đấy là đồ hình cơ bản của cửu tinh,sau đó độn số tinh của mỗi năm vào trung cung, vận chuyền thứ tự theo đồ hình.
Do phong thủy học trên định nghĩa tham lang như sau:nếu bản mệnh năm là quái tốn,tham lang sinh khí biểu thị hào thượng bất đồng, hào trung, hạ bất biến, như vậy tất thành quái khảm. Khảm thuộc bắc,hướng bắc tất được tham lang sinh khí.
Cả ba hào biến tất được chấn quái, tức vũ khúc diên niên thượng cát.
Hai hào trung hạ bất đồng, hào thượng ko biến tất được ly quái, tức cự môn thiên y trung cát.
Lại cả 3 hào ko biến tất được tốn quái, tức phụ bật, phục vị tiểu cát.
Ngược lại thượng trung hào bất đồng, hạ hào ko biến thời được quái khôn, tức liêm trinh ngũ quỷ đại hung.
Hào dưới bất đồng, hào thượng trung ko biến tất được càn quái lộc tồn họa hại
Nếu như hai hào trên dưới bất đồng, hào giữa ko biên, tất được đoài quái, văn khúc lục sát cũng hung
Phong thủy học hoàn toàn căn cứ vào can chi năm để định hướng cát hung, mục đích cần vượng, tức khả năng tìm hỷ kỵ thần, định hướng cát hung,mà không phối hợp tháng ngày giờ tổng luận bát tự ngũ hành cường nhược.
Rất ảo diệu do số cửu tinh định hướng cát hung, thường tổng luận bát tự cũng định hướng cát hung tương đồng, với lỷ lệ trên 80%.
Bởi vì độc giả ứng dụng phép hỷ kỵ trước đây, tất trước hết có lời giải đối với cửu tinh hay hướng cát hung, sau đó tài năng tự vận dụng như đối với hỷ kỵ pháp.
Đồng thời cũng nên căn cứ phép này kiểm tra ngũ hành hỷ kỵ thần có chính xác hay không theo hỷ kỵ pháp.
Cho nên, tổng luận phong thủy học, ý nghĩa tham lang,vũ khúc liêm trinh …..là ứng dụng mệnh chủ tham lang, vũ khúc, liêm trinh ….
1.mệnh chủ đắc tham lang, ko quản ngũ hành cục số, đắc thủy nhị cục hay mộc tam cục hay hỏa lục cục,bởi hỷ kỵ pháp trên ứng với ngũ hành cục số làm trọng.
2.mệnh chủ đắc vũ khúc là thượng cát, cùng với tham lang tương đồng
3.mệnh chủ đắc cự môn là cát, cùng với tham lang tương đồng.
4.mệnh chủ đắc lộc tồn, ko ứng với ngũ hành cục số.
5.mệnh chủ đắc văn khúc, cũng ko ứng với ngũ hành cục, giống như lộc tồn
6.mệnh chủ đắc liêm trinh, giống như lộc tồn 1 dạng ko ứng với ngũ hành cục làm trọng
cuối cùng, bút giả chủ yếu thuyết minh ngũ hành cục số, mệnh chủ đắc hung như liêm trinh,lộc tồn,văn khúc, vì sao ko lấy ngũ hành cục là trọng, mà lấy sao chính tinh trong cung làm trọng?
Trước bút giả đã nói ý nghĩa mệnh chủ, cách thiết lập mệnh chủ, nếu mệnh chủ đắc hung, thì đương nhiên ngũ hành cục số ko là ngũ hành hỷ thần.
(tvn lược dịch)
...
Đệ tứ chương: tử bình suy mệnh thuật ngũ hành thủ xả đích nguyên tắc
A. Hành Mộc:
1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.
2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.
3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.
4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).
5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).
6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).
7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.
8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).
9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.
10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.
11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.
12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.
B. Hành Hỏa:
1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.
2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để. Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.
3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.
4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.
5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.
6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.
7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.
8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!
9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.
10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.
11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.
12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.
C. HÀNH THỔ:
1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.
2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.
3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.
4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.
5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.
6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.
7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.
8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ. (hỷ thủy nhuận thổ,kỵ hỏa táo nhiệt)
9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.
10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.
11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.
12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.
D. HÀNH KIM:
1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.
2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ. 3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.
4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.
5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.
6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.
7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.
8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.
9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.
10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.
11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.
12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.
E. HÀNH THỦY
1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.
2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.
3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.
4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.
5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.
6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.
7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.
8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.
9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.
10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.
11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.
12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.
chú ý: trên đây là nguyên tắc chung của phép hỷ kỵ TB, được tác giả căn cứ để tính hỷ kỵ đối với Cục, Chính Tinh theo lệnh Tháng trong phép Hỷ kỵ của mình.
Bản dịch của TKQ, xin trân trọng cám ơn.
...
Dưới đây là các ví dụ trong các chương 5,6,7,8,9. Qua các ví dụ này ta hiểu phép hỷ kỵ đại đột phá của tác giả.
Ví dụ 1, nam mệnh ngày 3 tháng 11 năm 1953,giờ sửu.
Hỷ kỵ pháp yếu như sau:
1/ Mệnh cung,thân cung là hợi và sửu,đều thuộc Bắc phương cung,thủy khí
2/ Mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy cục thủy làm trọng.Vì vậy giả thiết Can Ngày là Thủy.
3/ Mệnh cung chính tinh thái dương thuộc hỏa, đà la thuộc kim,linh tinh thuộc hỏa,hai hung tinh.
4/ Vì giả thiết Can ngày là thủy,lại sinh tháng 11,tức thủy của tháng 11.Vậy mệnh bàn đắc kim thủy âm hàn,nên Hỷ hỏa sưởi ấm, Hỷ mộc tiết thủy (độc giả tham khảo chương 4,thủy của tháng 11)
5/ Hỷ thần là mộc hỏa, đương nhiên kỵ thần là kim thủy
Sự thực:
22 tuổi, giáp dần niên kết hôn, 23 tuổi ất mão niên sinh con gái
24-27 tuổi hành mộc hỏa hỷ thần niên, công việc kiến trúc phát tài.
29 tuổi tân dậu niên, bị bạn bè nợ 100 vạn đồng, không đòi được. ( dịch giả chú: ứng câu: kim thủy niên là kỵ thần niên!)
p/s số thứ tự các ví dụ là do tvn ghi
Ví dụ 2, nam mệnh, ngày 18 tháng 1 năm 1945 al, giờ thân.
Sự thực: 22 tuổi học viện tốt nghiệp, 27 tuổi tân hợi niên kết hôn.
Giáp dần, ất mão lưỡng niên đại phát tài lợi.
Hỷ kỵ pháp yếu:
1. mệnh cung tọa ngọ, thân cung tọa tuất, tam hợp dần ngọ tuất hỏa cục, hỏa khí vượng.
2.mệnh chủ đắc phá quân tuyệt mệnh, nên lấy chính tinh thủ mệnh làm trọng. Chính tinh thủ mệnh thiên cơ mộc tinh, cho nên giả thiết Can ngày là Mộc, mộc của tháng 1. Khí tháng 1,mộc khí lâm quan, thủy khí nhập bệnh, hỏa vượng, cho nên hỷ thủy sinh mộc, hỷ mộc tỷ trợ.
Ví dụ 3, nữ mệnh, ngày 10, tháng 1, năm 1951 al, giờ tý
Sự thực:tình cảm tỏa chiết, 24 tuổi, giáp dần niên,tháng 5 al,uống thuốc độc tự sát, ko chồng, con
Hỷ kỵ pháp yếu:
1.Mệnh, thân cung đều tọa dần cung,mộc hỏa cường.
2.mệnh chủ đắc lộc tồn,cho nên ko lấy cục mộc làm trọng.
3.Chính tinh thủ mệnh thiên đồng thuộc thủy. Giả thiết can ngày là thủy,thủy của tháng 1,mệnh bàn mộc hỏa cường vượng, cung nội vô kim tinh, mệnh bàn ko có kim khí, cho nên hỷ Kim, hỷ thủy trợ.( đương nhiên kỵ Mộc!)
Ví dụ 4, nam mệnh,ngày 3,tháng 3 al,năm canh thìn, giờ hợi.
Sự thực: tốt nghiệp đại học, nhà 5 ace, công việc chuyên máy tính điện tử,thê hiền,con cái 1 trai, 2 gái.
42 tuổi, tân dậu niên, tháng 7,8 liên tiếp phát sinh họa: điện giật, khởi động xe gây nổ, cháy dẫn đến tố tụng.
Hỷ kỵ pháp yếu
1,mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mão cung, mộc hỏa lưỡng khí.
2.mệnh chủ đắc vũ khúc, kim tứ cục là trọng. Gỉa thiết can ngày là Kim, kim của tháng. Tuy nhiên cung nội ko có kim tinh, mà có tham liêm mộc hỏa tinh. Vậy toàn thể cung mệnh là mộc hỏa khí,cho nên luận theo mộc hỏa, hỷ mộc hỏa kỵ kim thủy.
Ví dụ 5: Nữ mệnh,ngày 1 tháng 11 al, canh dần, giờ mùi.
Sự thực: trước 22 tuổi gia đình nghèo khổ.Cao thương tốt nghiệp, 9 ace.
29 tuổi, mậu ngọ niên bị bạn trốn nợ mất 17 vạn đồng.Cùng năm hôn nhân bất thành, bạn trai bỏ đi.
Hỷ kỵ pháp yếu
1 mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mùi cung, nam phương hội thuộc hỏa, cục nội hỏa vượng.
2.mệnh chủ đắc vũ khúc, nên giả thiết can ngày là kim, kim của tháng 11. Cung mệnh kiến thiên phủ thổ tinh, hỷ thủy tẩy kim.Cung nội ko có kim tinh, hỷ kim tới tỷ trợ. Cho nên bản mệnh ứng kim thủy là hỷ, kỵ thổ cùng hỏa nhiều gây táo nhiệt.
Ví dụ 6: Nam mệnh, ngày 21 tháng 9 al,năm nhâm thân 1932, giờ hợi
Sự thực: đại học tốt nghiệp, 23 tuổi giáp ngọ niên kết hôn,sinh 3 trai.
43-45 tuổi làm về kiến trúc, kỷ mùi niên doanh lợi Ngàn vạn đồng.
49 tuổi, canh thân niên nghề kiến trúc bất lợi, thất thoát 900 vạn đồng.
50 tuổi,tân dậu niên, tuyên bố phá sản.
Hỷ kỵ pháp yếu:
1.mệnh tọa hợi cung, thân tọa dậu cung, kim thủy lưỡng vượng.
2. mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy kim làm trọng.Cung nội kiến thiên đồng thủy,lộc tồn thổ. Vì có thổ tinh, đối cung đại cát tinh hóa lộc khả khắc thủy,cho nên ko theo kim thủy cách, mà ứng cách hỷ hỏa đến sinh thổ,hỷ mộc đến tiết thủy thế. (đương nhiên kỵ Kim )
Ví dụ 7 Nữ mệnh, ngày 4 tháng 10 al, năm 1940, giờ hợi.
Sự thực: 32 tuổi, tân hợi niên, bệnh tử cung phải mổ,có sinh ko có con.
Hỷ kỵ pháp yếu:
1,mệnh cung tọa tý, thân cung tọa tuất, mệnh bàn thủy thổ khí lưỡng vượng.
2,mệnh chủ đắc tham lang sinh khí,nên lấy hỏa cục làm trọng. Giả thiết can ngày là hỏa, hỏa của tháng 10.
3.mệnh cung đắc vũ khúc kim tinh cùng hóa quyền mộc tinh,lại đắc thiên phủ thổ tinh đều tọa thủy cung, hai khí thủy thổ lưỡng vượng, cho nên hỷ hỏa, hỷ mộc tới sinh trợ, kỵ kim thủy
Tôi xin tạm dừng ở đây,thiết nghĩ các bạn đã rõ nội dung của phép Hỷ kỵ này qua các ví dụ trên.
Các bạn dựa theo phép hỷ kỵ này thử nghiệm lý trên ls của mình xem sao. Tôi cho rằng, độ chính xác của phép này khá cao.
Nguyên tác (bạch thoại): Đoàn Kiến Nghiệp
Dịch: VDTT
“Hệ thống manh phái không dùng một số công cụ của mệnh lý truyền thống, lại phế bỏ nhật chủ vượng suy và dụng thần, cách cục bản lai cũng không dùng. Đương nhiên, nói phế bỏ thì không chính xác lắm, vì trong hệ thống manh phái, không có những quan niệm nhật chủ vượng suy và dụng thần, đó là đặc điểm lớn nhất của phái này.
“Vậy manh phái làm sao xem mệnh? Đầu tiên phải khẳng định rằng manh phái có khẩu quyết; nhưng những khẩu quyết này không phải là chìa khóa vạn năng, bởi vì thầy Hác có rất nhiều sư huynh đệ, cùng học những thứ giống nhau, nhưng các sư huynh đệ ấy không đoán chuẩn bằng thầy Hác. Học với thầy Hác một thời gian tôi mới biết, rất nhiều thứ trong mệnh lý là do thầy tự phân tích ra, còn khẩu quyết chỉ là một số khái niệm cơ bản; phần hơn là dựa vào “ngộ tính” của thầy. Cái mà hệ thống này giảng là “ngộ tính”. Ở đây (dgc: Ý nói trong sách “Manh phái mệnh lý: Tu đính bản”) chỉ giảng một số lý luận căn bản và phương pháp, những gì thâm sâu hơn ở tầng sau đòi hỏi “ngộ tính” của chúng ta, mỗi người tự mình lần hồi hiểu ra thôi.
“Nhưng tại sao không tìm dụng thần, không xét nhật chủ suy vượng mà có thể đoán được mệnh? Điểm này liên hệ đến vấn đề cơ bản của mệnh lý. Bản chất của mệnh lý là gì? Bản chất của mệnh lý là biểu thuật đời sống. Cái lý đằng sau mệnh lý và đời sống của chúng ta như nhau, là cái bóng thu nhỏ rồi lại hiện ra của đời sống chúng ta. Nhật chủ vượng suy chẳng thuyết minh được gì, cũng chẳng đại biểu năng lực của mệnh chủ lớn nhỏ hoặc thân thể tốt xấu, càng không thể giải thích quỹ tích mệnh vận của mệnh chủ, chẳng có ý nghĩa thực tế nào cả. Đơn thuần tìm kiếm dụng thần và kị thần khiến sự lý giải của chúng ta đối với mệnh lý trở thành phiến diện và cứng ngắc. Mất đi khả năng nắm bắt cái mặt phong phú nhiều sắc thái của mệnh vận. Bởi vì đời sống vốn phức tạp và biến hóa, không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ địch vĩnh viễn; sao lại có thể tưởng tượng một hai dụng thần bầu bạn chúng ta đến hết cả đời?”
(dgc: Đến đây là hết phần so sánh manh phái với cách xem Tử Bình truyền thống. Kế tiếp là phần giới thiệu các kỹ thuật xem số của manh phái).
“Hệ thống manh phái cho rằng mệnh lý diễn tả đời sống. Thế mệnh lý diễn tả đời sống bằng gì? Lại nữa, nó diễn tả đời sống như thế nào? Chúng ta cần hiểu một số công cụ mà các vị thầy mù (dgc: dịch nghĩa từ “manh sư”) xử dụng để diễn tả đời sống. Vì thầy mù đa số dạy theo lối khẩu thụ tâm truyền (dgc: Người trước nói, người sau nghe mà lĩnh ý), không để lại văn tự thành hệ thống, thành ra chúng ta phải sáng tạo ra một số khái niệm trước đây chưa có để tìm hiểu hệ thống này.
“Một: Khái niệm ‘chủ khách’
(dgc: Có lẽ trong ý hướng cải cách ông Nghiệp muốn tránh hai từ cũ “chủ khách”, nên trong nguyên tác Hán tự ông viết “tân chủ” cho mới mẻ. Dịch đúng thứ tự mà khỏi sợ hiểu lầm thì chỉ có “khách chủ”, nhưng vì người Việt quen “chủ khách” hơn nên mạn phép dịch như thế để khỏi vô tình tạo ra những lấn cấn ngôn từ không cần thiết. Xin lỗi ông Nghiệp vậy.)
“Khái niệm này trong manh phái có ý nghĩa đặc biệt. Chủ khách cho chúng ta biết cái gì là ta, cái gì là người khác. Rất nhiều thuật đoán mệnh của Trung quốc có luận ‘chủ khách’. Trong lục hào thì hào thế là chủ, hào ứng là khách. Hào trong quẻ là chủ, ngày tháng và hào biến là khách. Phong thủy, kỳ môn, lục nhâm, mai hoa dịch số v.v… thảy đều luận ‘chủ khách’, khác nhau chẳng qua là họ có thể gọi khái niệm là ‘chủ khách’, ‘thể dụng’, ‘thiên địa nhân’ v.v… nhưng đều cốt diễn tả cái quan hệ ‘chủ thể tự ta’ và ‘khách thể ngoại vật’. Kỳ thật đời sống chúng ta cũng như thế, những quan hệ phát sinh giữa chúng ta và thế giới bên ngoài cấu tạo thành mệnh vận của chúng ta.
“Chủ khách là một khái niệm có tính tầng thứ. Mọi người đều biết nhật chủ là ta, những can chi khác là người khác, là những thực thể mà ta đối diện, là ‘khách’. Nhưng mỗi một can chi cũng có ý nghĩa riêng. Dưới nhật chủ đại biểu người hôn phối, tháng đại biểu cha mẹ, anh chị em, năm đại biểu ông bà, giờ đại biểu con cháu, đều là những thực thể mà ta đối diện. Hiểu bấy nhiêu rồi, thì có thể phân tầng thứ: Trụ ngày là ta và vợ hoặc chồng ta, đại biểu gia đình của ta. Gia đình của ta cũng đối diện những gì ở ngoài, có gia đình của cha mẹ, có gia đình của con cháu, có gia đình của anh, của chị, của em v.v… Như vậy trụ ngày là chủ, các trụ khác là khách. Rồi ta và con cháu ta là gia đình ta, đối diện với những gì ở ngoài; như vậy trụ ngày và trụ giờ là chủ, trụ năm và trụ tháng là khách. Rồi toàn thể bát tự là đại gia tộc của ta, đại vận và lưu niên là ngoại lai, từ bên ngoài đến tác dụng vào bát tự, sinh ra ảnh hưởng trên bát tự. Như vậy, bát tự là chủ, đại vận lưu niên là khách.
“Đó là khái niệm chủ khách.
“Tỷ như nói quý vị muốn làm quan hay là muốn có tiền thì xem tài, quan ở vị trí nào trong bát tự. Như quả tài, quan ở vị chủ thì là tài, quan của ta. Còn như tài, quan ở vị khách thì là tài, quan của người khác. Định vị như vậy xong rồi lại xem chủ và khách quan hệ thế nào, thông qua những tác dụng quan hệ mà luận xem tài, quan có quan liên đến ta không, có thể trở thành của ta không. Như thế quý vị thấy rõ, việc luận bát tự và nhật chủ vượng hoặc suy kỳ thật chẳng có liên hệ trọng đại nào cả. Chỉ có trong quan hệ chủ và khách, tức là sự giao vãng của cá nhân trong xã hội, mới thể hiện cái năng lực lớn hoặc nhỏ cũng như phú quý bần tiện.
“Chủ ----------------Khách
“Nhật chủ---------Các can chi khác
“Trụ ngày---------Trụ năm, tháng, giờ
“Trụ ngày,giờ----Trụ năm, tháng
“Tứ trụ-------------Đại vận và lưu niên
(Đoàn Kiến Nghiệp)
Tài Quan lâm mộ, hỷ hình xung. Có 3 cách xung mộ, thứ nhất là trực tiếp xung mộ, cách thứ hai là xung thần của mộ, cách thứ ba là xung mở thiên mộ.
1) Càn tạo: Bính Ngọ-Tân Sửu-Kỷ Mão-Tân Mùi
Đại vận: Nhâm Dần/Quí Mão/Giáp Thìn/Ất Tị/Bính Ngọ/Đinh Mùi/Mậu Thân
Mệnh này là của một ông quan to mà Hác tiên sinh lúc còn sống có xem qua. Sinh năm 1906. Đoán ông ta vận Giáp Thìn đi tù 10 năm, vận Bính Ngọ, Đinh Mùi làm quan rất to, Mậu Thân bị nạn.
Nguyên cục Sửu Mùi xung mở kho Sát, Sát tinh có kho nên có công, do đó có thể làm quan to. Đại vận Giáp Thìn phản cục, cho nên đi làm Cách mạng mà bị Quốc dân Đảng bắt bỏ tù 10 năm. Sau giải phóng nhậm nhiều chức lớn trong đó có chức Thị trưởng thành phố Thiên Tân, đến vận Mậu Thìn lại thành phản cục, trải qua 10 năm Cách mạng Văn hóa.
2) Khôn tạo: Mậu Thân-Giáp Dần-Kỷ Mùi-Tân Mùi
Ngày Kỷ Mùi thì mộ không mở, may nhờ có Dần Thân xung, xung thần của mộ (Mộc), cái này gọi là "ở bên cạnh mà mở kho". Mộ khố hữu dụng cho nên có thể phát nhờ kinh thương, tài sản mấy chục triệu Tệ.
Hỏi: Thương Quan gặp Quan sao không có họa?
Đáp: Thương Quan gặp Quan tại tân (khách) vị, tức là người khác có tai họa, do người khác bị họa mà làm cho cô ta dễ phát tài.
Trên thực tế quả đúng như thế.
3) Càn tạo: Tân Hợi-Ất Mùi-Kỷ Mùi-Quí Dậu
Đại vận: Giáp Ngọ/Quí Tị/Nhâm Thìn/Tân Mão/Canh Dần
Địa chi mộ khố không mở, thấu Tân Ất tương xung là thiên can mở kho. Người này vận Nhâm thì phát, vô tiền hơn trăm triệu Tệ. Nhưng vận Thìn vừa hợp Dậu, lại mộ Mùi (Durobi chú: Ý của ĐKN là Mùi nhập mộ vào Thìn, vì Thìn là khố của Thủy và Thổ), kho Mùi không mở, bắt đầu mất tiền. Trong 5 năm mà tài sản cả trăm triệu bay biến mất. Hiện chuyển sang đại vận Tân Mão, bắt đầu khởi sắc trở lại.
Người này làm bất động sản, trong vận Thìn của anh ta lại chính là lúc ngành bất động sản ở TQ đang ngon ăn ấy thế mà bị thua lỗ! Đúng là mệnh trời khó cưỡng.
* Mộ khố đã mở rồi thì sợ bị mộ lần nữa, ví dụ 1 và 3 đã đề cập. Mộ khố chưa mở mà lại bị mộ thì có một ví dụ sau:
Càn tạo: Quí Mão-Kỷ Mùi-Tân Mùi-Quí Tị
Mùi là kho Tài, nguyên cục không mở, vào vận Thìn của đại vận Bính Thìn, làm Công vụ viên nhà nước rất oách! Vừa qua vận Thìn một cái thì chìm luôn, phải đợi đến vận Sửu mới lên lại được.
(Nguồn: sưu tầm)
ên song song và trùng nhau. Nếu hai cánh cửa đốỉ diện nhau nhưng được thiết kế cái ra cái vào sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống bình yên của cả gia đình. Hai cánh cửa chặn nhau thì trong nhà sẽ thường xuyên xảy ra cãi cọ. Nếu nhìn qua cánh cửa nhà đang mở có thể thấy rõ các bức tường bên trong hoặc toàn cảnh của một căn phòng khác thì lưu thông nội khí trong cơ thể ngưòi sẽ bị đảo lộn. Các phòng lớn nên lắp những cánh cửa lớn, như phòng ngủ, phòng sinh hoạt, phòng khâch. Ngược lại, với các phong nhỏ nhu phòng tắm hay phòng bếp thì chỉ nên để cửa nhỏ vì cửa to sẽ áp chế cửa nhỏ. Nếu cửa phòng tắm quá to thì chủ nhà sẽ gặp vấn đề về sức khỏe, đặc biệt là sẽ dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa.