Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Giới là lộ trình sống thực của chân lý, kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, yếu tố tác thành đức Phật quả.
Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Giới là lộ trình sống thực của chân lý, được kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, lợi tha, một yếu tố tác thành Phật quả. Giới cũng chính là cơ năng nòng cốt để xây dựng trật tự kỷ cương, một con người toàn diện trong sáng, nâng cao trí thức, phát triển trí tuệ”.

Đức Thế Tôn đã là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm bất cứ việc gì cũng cẩn thận chu đáo, không sơ sót dù là một chuyện nhỏ. Trong 12 năm đầu khi giáo đoàn thành lập chúng tăng hầu hết phần đông là căn cơ trình độ giáo pháp cao siêu là những bậc thánh A- la- hán, thành phần tu tập đoạn dứt lậu hoặc. Những vị căn cơ còn thấp kém chỉ nghe đức Thế Tôn khai thị vài lần liền chứng ngộ. Vì thế nếp sống của chư Tăng thuở ấy hoàn toàn thanh tịnh. Tuy đức Thế Tôn chưa chế Giới luật nhưng Giới vẫn có, chỉ giới hạn được trình bày dưới dạng những hình thức đơn giản tổng quát về mặt hộ trì các căn.

Thế Tôn dạy: “Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị, mũi ngửi hương, thân xúc chạm, ý duyên pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến cho các căn không được duyên theo, không bị sinh tâm tham ái, ưu bi và các bất thiện pháp khởi lên, nếu có khởi lên Tỳ kheo liền chế ngự nguyên nhân ấy sống thực hành hộ trì các căn”.

Đức Thế Tôn thực hành qua giai đoạn thực hành Trung Đạo Đế, hành Bát chánh đạo dưới hình thức, Tỳ kheo nên giữ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Qua sự trình bày như trên chúng ta thấy Giới luật tuy có mà chưa rõ ràng.

Trong Ngũ Phần Luật quyển 1, Ngài Xá Lợi Phất trình thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn làm sao để Chánh Pháp của đức Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ rồi Chánh Pháp ấy được tồn tại lâu dài”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Thế Tôn tại sao con không thấy Thế Tôn chế giới mà chỉ nói Pháp?”

Đức Phật nói: “Này Tôn giả, ta biết thời phải làm gì, nay chưa đến thời ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.

Ngài còn dạy rằng : “Nếu Ta chế Giới trước khi vi phạm, thì người đời sẽ phỉ báng ta. Họ sẽ bảo rằng tôi không có gây tội, sao lại cưỡng chế ra Giới luật. Đây không phải là nhất thiết trí. Như thế là Như Lai không có tâm từ bi, không lợi lạc, không bảo bọc chúng sanh. Như người không có con lại nói rằng sẽ sanh con vào giờ ấy. Chuyện ấy không thể tin, vì không chân thật. Nếu là sự thấy đứa con người ta mới tin được, cũng thế hữu lậu chưa sanh, tội chưa làm, trời người chưa thấy làm sao chế Giới được. Cho nên cần phải thấy rõ phạm tội, rồi sau đức Thế Tôn mới chế Giới, đây là đúng thời. Này Xá Lợi Phất như y sĩ biết là nguyên nhân tật bịnh và biết thuốc nào ngọt để trị bịnh ấy”.

Từ đó, dần dần về sau trong Giáo đoàn Tăng sinh các hữu lậu với mục đích tâm họ không chân chánh. Do đó tăng đoàn đã xảy ra nhiều trường hợp nhiều Tỳ kheo thiếu kỷ cương nề nếp, đời sống buông lung phóng túng, vi phạm tịnh hạnh … khiến cho Giáo đoàn của Phật bị mang tiếng xấu lây, lại có nhiều ý kiến mâu thuẫn. Để giải quyết những vấn đề đó, Thế Tôn bắt đầu chế Giới để đối trị những lỗi lầm đã xảy ra, ngăn ngừa hành vi bất thiện pháp sắp vi phạm hay đã phạm thì phải sám hối, đồng thời duy trì uy tín của Tăng đoàn.

Giới luật được đức Thế Tôn chế vào khoảng năm thứ 13 sau khi đức Phật thành đạo, nhưng tùy phạm tùy kiết, những Giới không nhất định phải chế Giới từ 3 – 4 lần mới thành một Giới. Đây là một trường hợp điển hình nói lên tính linh động và tầm mở rộng của Giới Luật. Trường hợp khác điển hình giới dâm, phải trải qua ba giai đoạn mới thành:

đức Phật
Tinh thần của đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của đại chúng trong Tăng đoàn, Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng.

– Giai đọan thứ nhất : Tôn Giả Tu Đề Na con trai của thôn trưởng Ca Lan Đa, do sự yêu cầu của người mẹ phải để lại đứa con trai để nối dõi tông đường, nên Tôn giả đã hành dâm với người vợ cũ. Sau sự việc xảy ra Tôn Giả bị lương tâm cắn rứt, cảm thấy hổ thẹn với những Tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận tội với chư Tăng, chư Tăng bạch Phật, Phật quở trách rồi chế giới: “Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được ở chung”.

– Giai đoạn thứ hai : Một Tỳ kheo chán nản đời sống phạm hạnh, về nhà hành dâm với vợ cũ. Vì trong Giới Phật chế không cho trường hợp chán nản đời sống phạm hạnh. Do đó, Thế Tôn chế thêm “Tỳ kheo nào đã trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới sút kém nhưng không phát lồ, hành dâm dục Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.

– Giai đoạn thứ ba : Một Tỳ kheo sống trong rừng, bị thiên ma nhiễu loạn, nên đã hành dâm với con vượn cái. Nghĩ rằng Giới luật đức Thế Tôn dạy không có trường hợp cùng với loài súc sanh, thêm lần nữa Đức Thế Tôn bổ túc thêm Giới trên cho đầy đủ “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo chưa hoàn giới, giới sút kém những không phát lồ mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.

Đức Thế Tôn thị hiện trên cõi đời vị mục đích giải thoát chúng sanh ra khỏi dòng sanh tử, nên Giới luật của Ngài không có tính cách cưỡng chế, bó buộc mà hoàn toàn vì an lạc của chúng đệ tử. Chính nhờ những Giới pháp đó mà Đức Thế Tôn đã tu hành đạt thành Chánh giác và đem sự sáng suốt truyền lại cho chúng sanh coi như Giới thân Huệ mạng của chính mình. Bởi thế trước khi nhập Niết Bàn, đức Thế Tôn đã ân cần Di giáo: “Sau khi ta diệt độ, các ngươi phải tôn trọng giữ gìn Ba-la-đề-mộc-xoa, như người nghèo gặp được của báu, như qua sông đặng ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc v.v… phải biết pháp này là Thầy của các ngươi, dù ta có trụ thế cũng không ngoài pháp ấy”. Đức Phật là vị thầy thuốc chữa bệnh cho chúng sanh, nếu người không bệnh mà ra toa bốc thuốc thì người ấy sẽ phản kháng, họ sẽ nhất định không chịu, còn người mắc bệnh nếu được trị liệu họ sẽ cảm kích vô cùng, đây là tâm lý thông thường của mọi chúng sanh.

Như chúng ta nhận xét qua lời giải trong các kinh đức Thế Tôn giảng dạy xong lại nói rằng: “Tất cả pháp ta nói ra chỉ là phương tiện khi tu hành xong hãy buông bỏ”. Nếu hành giả đang thời hành đạo Giới thể đã mất, thời Giới thân Huệ mạng cũng không còn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Giáo sư Lê Trung Hưng Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.


- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ

Tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ thấy sự thuận lợi từ trung vận, sự nghiệp thăng hoa nếu biết mở rộng quan hệ. Đường tình duyên gặp nhiều trở ngại khó
Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ thấy sự thuận lợi từ trung vận, sự nghiệp thăng hoa nếu biết mở rộng quan hệ. Đường tình duyên của mệnh chủ gặp nhiều trở ngại khó khăn, nữ mệnh hồng nhan bạc mệnh.


Xem tu vi tron doi nguoi sinh ngay Nham Ngo hinh anh
 
Ngày Nhâm Ngọ có âm dương tương hợp, Ngọ Hỏa thuộc tàng khí của Đinh Hỏa. Mệnh chủ trên đường đời tất gặp Dậu Kim, nên kết hợp với Đinh Mùi   Trụ ngày Nhâm Ngọ là mệnh phúc khí, tuy tiền vận bất định nhưng sẽ gặp nhiều việc suôn sẻ thuận lợi từ trung vận. Để thành công trong sự nghiệp, họ cần nhìn nhận công việc thực tế và mở rộng các mối quan hệ của bản thân.
Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do nghiệp duyên
Giáo lý nhà Phật có dạy, con người hội ngộ là do duyên nợ từ kiếp trước. Mối nhân duyên giữa con cái và cha mẹ cũng không phải ngoại lệ. Thông thường, con cái

Mệnh chủ dễ phiền não từ những yếu tố bên ngoài, thiếu sự kiên nhẫn nên hay dở việc giữa chừng. Người sinh ngày Nhâm Ngọ thuộc trường phái lãng mạn, mộng tưởng nên gặp nhiều sự đả kích từ thực tế. Ngoài ra, họ còn là người trọng tình nghĩa, được nhiều người kính trọng. 

Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ thấy bị quấy nhiễu bởi tình duyên, tình yêu và hôn nhân dễ gặp trắc trở, vậy nên họ cần cẩn thận lựa chọn đối tượng hôn nhân để tránh sự chia ly khi đến trung vận. Đặc biệt, nữ mệnh thường được gọi là "hồng nhan bạc phận", chịu nhiều khổ cực vì chuyện tình cảm, gia đình và con cái.
Xem tu vi tron doi nguoi sinh ngay Nham Ngo hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Nhâm Ngọ thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Mùi, Ất Dậu, Bính Thìn, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Tuất, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Thân, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Kỷ Mùi, Canh Tý, Canh Dần, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Dậu, Tân Mùi, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Nhâm Thìn, Quý Mão, Quý Sửu, Quý Hợi, Quý Mùi.
Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Ngọ

Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 4)

Xem tử vi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp khá dễ hiểu nên luận mệnh theo phương pháp này bạn có thể tự luận đoán cát hung cuộc đời mình.
Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 4)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Luận tử vi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp khá dễ hiểu nên luận mệnh theo phương pháp này bạn có thể tự luận đoán cát hung cuộc đời mình.


Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 4 hinh anh 2
 
Lục Thập Hoa Giáp là tổ hợp tử vi chứa đựng nhiều kiến thức, thông qua đó có thể luận mệnh, đoán trước cuộc đời. Cách xem tử vi này tương đối dễ hơn các cách khác, người hiểu biết cơ bản là có thể vận dụng.
  31. Quý Mùi: tọa Thực Thần phát tài, Tài sinh Sát, tọa Thiên Tài, Thất Sát, nam nữ cùng xinh đẹp, tình yêu chuyên nhất nhưng không ít sóng gió   32. Bính Tuất: tọa hỏa khố, thân vượng, ánh lửa rạng rỡ, thông minh xinh đẹp.   33. Kỷ Sửu: so với Đinh Sửu thì tốt hơn, Tỷ Kiên đoạt tài tranh đấu, sinh thất lệnh thì có huynh đệ hỗ trợ.   34. Canh Dần: tọa tuyệt địa, nữ mệnh khắc phu, có số tái giá, nam mệnh Canh Dần nhìn chung không tốt, nhưng tọa Sát Ấn thì làm quan thanh liêm, chi giấu Thiên Ấn thì nên làm phó.   35. Nhâm Thìn: thân vượng, tọa Kiếp Tài sinh Thực, Thực Thần chế Sát, thân vượng dùng Sát, chủ quý. Ngày Nhâm Thìn là Nhâm kỵ long bối, sinh giờ Hợi, là rồng về biển rộng, chủ đại quý, sinh buổi trưa là rồng hạ đẳng.
 
36. Giáp Ngọ: thân tọa tử địa, cả đời lao khổ bôn ba, đối với vợ rất tốt, Thương Quan phát tài, hiếu thuận. Ngày chủ có Đinh Hỏa, đối người khác chiếu cố thêm, kẻo chính mình đến già lại hai bàn tay trắng.
Luan menh tung tuoi dua vao Luc Thap Hoa Giap phan 4 hinh anh 2
 
37. Ất Mùi: tọa khố, tài tinh nhập khố, chủ phú, nhưng thích tiền, keo kiệt.   38. Bính Thân: thân nhược, Bính Hỏa thái dương, tọa Thực Thần phát tài, Tài sinh Sát, Nhâm Thủy sát vượng, chiếu rọi ánh nắng huy hoàng, chủ nhân thông minh. Nhưng Sát vượng công thân, tuổi già cô độc, cả đời vất vả, không thể ngồi mát ăn bát vàng.   39. Mậu Tuất: tọa khố, Thổ rất khô, cát mang hung, tốt xấu lẫn lộn. Khôi cương chủ nhân nhanh mồm nhanh miệng, lâm sự quyết đoán, cũng chủ thông minh, văn vẻ chấn phát.   40. Tân Sửu: tọa Ấn, Kiếp với Thực Thần, chủ nhân thanh tú, nữ mệnh dáng người đẹp, thanh tú, nề nếp.
9 ngày độc trong tháng 5 âm lịch nhất định phải thận trọng Bát tự vượng phu, đặc biệt đắt chồng Đọc vị tính cách nữ mệnh có bát tự Ấn vượng
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận mệnh từng tuổi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp (phần 4)

Luận dụng thần

Một bài viết về luận dụng thần của tác giả Hoàng Đại Lục. Mời các bạn cùng đọc.
Luận dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Dụng thần là gì? Học giả mệnh lý hiện đại hầu như đều nhất chí cho rằng: Dụng thần tức là mấu chốt của bát tự, là một hai loại ngũ hành co thể gây nên những tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan trong bát tự. Hoặc có thể nói, dụng thần chính là "thần" có thể làm cân bằng ngũ hành bát tự, có ích với nhật chủ, nói gọn là dụng thần cân bằng.

Lật giở các thư tịch mệnh lý hiện đại, chúng ta sẽ phát hiện đa số tác giả đều dùng phần lớn số trang sách để luận thuật tác dụng quan trọng của dụng thần và cả phương pháp lựa chọn dụng thần. Các vị ấy còn cho rằng dụng thần không thể bị tổn thương được, dụng thần mà có lực thì mệnh chủ sẽ cát, dụng thần bị thương thì mệnh chủ sẽ hung, do đó điều cơ bản nhất, quan kiện nhất, khó khăn nhất khi xem mệnh chính là tìm đúng dụng thần. Ví dụ như cuốn "Tứ trụ bác quan" do hai vị tiên sinh Lăng Chí Hiên và Trương Chí Xuân biên soạn, trong đoạn "Tường luận dụng thần" có nói: "Hạch tâm trung khu của tứ trụ mệnh lý học là ở tìm dụng thần, muốn biết sự gập ghềnh khúc khuỷu của đường đời nhân sinh, toàn phải nhờ vào dụng thần làm tọa độ để miêu tả. Tìm không ra tọa độ dụng thần, hoặc tìm sai tọa độ dụng thần sẽ thành " Một chữ sai, toàn bàn sai hết". Có thể nói quan điểm về dụng thần của cuốn này đã đại biểu cho mệnh lý hiện hành.

Thế nhưng, muốn tìm đúng cái dụng thần cân bằng này lại là một chuyện khó khăn dị thường. Bởi vì tiền đề của tìm dụng thần đầu tiên là phải nắm bắt chuẩn xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự. Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa! Cho nên thường ba vị mệnh sư phân tích cùng một bát tự sẽ đưa ra hơn ba kiểu vượng suy kết luận. Thế thì cũng như không có kết luận! Lăng Chí Hiên tiên sinh cũng vì thế mà vô cùng đau đầu, ông nói trong cuốn "Tứ trụ bác quan" rằng: "Cho dù là cao thủ mệnh lý đi nữa, khi họ đối diện với một số mệnh tạo có cách cục đặc thù hoặc sự cường nhược không rõ ràng thì cũng cảm thấy bó tay... Người viết cũng từng gặp qua những trường hợp kiểu này, tụ tập bảy tám vị dịch hữu cùng thảo luận, kết quả là mỗi người nói mỗi phách, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng phô ra một kiểu lý luận của riêng mình, cãi lý cả một ngày cũng không giải quyết được vấn đề. Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ?

Nói cách khác, cho dù có ai vào một ngày nào đó dùng tuyệt kỹ tìm dùng thần này mà xem mệnh thì tỷ lệ chuẩn xác chưa chắc đã cao. Tại sao vậy? Đầu tiên, các cách như nhất khí chuyên vượng cách, tòng cường cách, tòng Sát cách, tòng Tài cách, tỉnh lan xoa cách, v.v... vốn không cần đến sự cân bằng ngũ hành của bát tự, cái gọi là dụng thần cân bằng không có chỗ dùng trong các loại cách này. Kế tới, cho dù là mệnh cách thông thường cần ngũ hành cân bằng, chỉ cần bát tự kết cấu không thỏa đáng, phá hoại mất cách cục thì cho dù thân cường Tài vượng hay thân Sát lưỡng đình đi chăng nữa mà dùng dụng thần cân bằng cũng khó đoán chuẩn cát hung họa phúc của người ta. Cho dù là danh sư nhiều năm nghiên cứu mệnh lý cũng không ngoại lệ. Tác giả bộ "Bát tự chân quyết khởi thị lục" là Tống Anh Thành tiên sinh trong bài "Nghiên cứu hỷ dụng thần" đã cảm khái nói: "Tác dụng của dụng thần đôi khi làm người ta cảm thấy khó hiểu, đi đến vận trình của hỷ dụng thần, chẳng những không thăng quan phát tài mà còn bị hao tổn trầm trọng, cơ hàn đói rách, có phải là hỷ dụng thần mà chúng ta chọn khác hẳn với hỷ dụng thần chân chính? Nghĩ tới đây hèn gì có người nghiên cứu hết bao nhiêu kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá."

Nghe câu trên mà thấy rầu! Trải qua chín chín tám mươi mốt tai nạn mới lấy được chân kinh, ấy thế mà "nghiên cứu hết kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá"! Cố gắng hết sức mới chọn được dụng thần mà không xài được!

Để tìm đột phá khẩu, giải cứu dụng thần cân bằng ra khỏi tình huống khó xử, có học giả bèn không thèm chấp vào cách chỉ chọn một dụng thần nữa, mà chọn mấy loại dụng thần từ trong một mệnh, nào là đại dụng thần, tiểu dụng thần, hoặc dụng thần thứ nhất, dụng thần thứ hai, dụng thần thứ ba, hoặc dụng thần cân bằng, dụng thần điều hậu, dụng thần cách cục v.v..., muốn đem càng nhiều dụng thần hơn nữa vô để bịt những lỗ hổng xuất hiện liên tục trong khi dự đoán. Dùng dụng thần cân bằng không thể xử được, bèn dùng dụng thần điều hậu và dụng thần cách cục để xử lý. Ví dụ như nhà mệnh lý học trứ danh là Lương Tương Nhuận tiền bối trong cuốn "Tế phê chung thân tường giải" đã dùng nhiều loại dụng thần để phê mệnh. Ông đã dùng dụng thần điều hậu của Dư Xuân Đài, lại còn dùng dụng thần cách cục của Thẩm Hiếu Chiêm (nhưng không chuẩn), hãy còn dùng dụng thần cân bằng của "Kim Bất Hoán" (thực ra cũng không phải nốt), kết hợp thêm với cả tứ giác hình xung hợp hội, thần sát, nạp âm, v.v... hổ lốn các phương pháp, thậm chí còn bao gồm cả những ngón vụn vặt xác suất trúng cực thấp như "Diễn cầm phu thê - tử nữ biểu".

Cái kiểu dùng nhiều loại dụng thần để xem mệnh này tuy có thể cầm cự được khiếm khuyết do chỉ dùng một dụng thần gây ra, nhưng phương pháp này tự thân nó lại không thể giải quyết được vấn đề mới nảy sinh như sau:

1. Dụng thần đã là mấu chốt của bát tự, thế thì, tổn hại dụng thần có ý nghĩa phá vỡ sự cân bằng ngũ hành trong bát tự, từ đó khiến mệnh chủ gặp tai nạn, đây là quan điểm được tuyệt đại đa số các học giả mệnh lý đồng ý. Nếu sử dụng nhiều dụng thần để đoán mệnh sẽ đồng thời xuất hiện nhiều điểm cân bằng, nhiều điểm mấu chốt. Vấn đề là, nhiều điểm cân bằng ấy có phải quan trọng như nhau không? Giả thiết câu trả lời là khẳng định, thế thì mỗi khi tuế vận phá vỡ bất cứ một điểm cân bằng nào trong đó, cả mệnh cục sẽ mất cân bằng, thế thì các điểm cân bằng còn lại có còn được gọi là điểm cân bằng nữa không? Còn tính là mấu chốt của bát tự nữa chăng?

2. Nếu như quyền lợi của nhiều dụng thần không đồng đẳng, thì cũng như Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Trợ lý Thị trưởng vậy, quyền lợi to nhỏ khác hẳn nhau, thế thì, quyền lợi của loại dụng thần nào mới là to nhất? Lương Tương Nhuận tiên sinh cho rằng: "Điều hậu chi dụng, vi bát tự đệ nhất yếu nghĩa". Ông cho rằng dụng thần điều hậu là quan trọng bậc nhất. Thế mà trong "Kim Điếu Thùng" thì nói: "Nếu nhập cách thì lấy quí mà đoán, phá cục thì lấy bần mà đoán, nếu như cách (và) cục bị thương tổn phá hoại sẽ không cát, dù cho có cơ hội hồi thiên chuyển trục thì cũng không thể kiến công lập nghiệp được." Kim Điếu Thùng (Durobi chú thích: Danh gia mệnh lý thời xưa, có viết quyển Lão Kim Điếu Thùng) đem thành cách phá cách xem là tối quan trọng. Thường các mệnh lý học giả cho rằng cân bằng ngũ hành trong bát tự là điều tối quan trọng, và cho điều hậu dụng thần chỉ sử dụng trong trường hợp đặc biệt,, còn cách cục thì lờ luôn, luận cũng được không luận cũng được. Trước ba cách nói như trên, kẻ hậu học biết nghe ai đây nhỉ?

3. Mỗi khi nhiều loại dụng thần xảy ra giao tranh trên cùng một mệnh cục thì phải xử lý thế nào? Ví dụ ngày Canh kim sinh tháng Ngọ, là Chính Quan cách, nếu muốn thủy điều hậu, thủy là Thực Thương, chẳng phải đã phá Chính Quan cách hay sao? Lại ví dụ Tỉnh Lan Xoa cách, ba ngày Canh Tý Canh Thìn Canh Thân, sinh vào tháng Tý, địa chi Thân Tý Thìn toàn đủ, theo lý thuyết phải dùng hỏa để điều hậu, kim thủy Thương Quan hỷ kiến Quan mà, nhưng cách này lại yêu cầu không được gặp hỏa, ca quyết nói: " Tỵ Ngọ Mùi lâm thì đắng cay, Nhâm Quí phá, Bính Đinh xung, trụ và vận không gặp sẽ hiển danh". Câu này ý gặp Tỵ Ngọ Bính Đinh hỏa thì phá cách. Điều hậu dụng thần không hề được hoan nghênh ở đây. Lúc này điều hậu dụng thần có còn là dụng thần nữa không? Nếu bị thương khắc, mệnh chủ sẽ gặp tai hay không? Còn nữa, lúc dụng thần cân bằng và dụng thần cách cục phát sinh giao chiến thì phải hy sinh ai đây? Những vấn đề này đều là những nút thắt cứng của những ai theo thuyết dùng nhiều dụng thần, không ai thể gỡ được, kể cả chính họ.

Một dụng thần không được, nhiều dụng thần cũng không xong, phải làm sao bây giờ? Có người chủ trương phương pháp sau tiết Đông Chí thì đổi trụ năm, có người đề xướng đại vận không phân biệt nam nữ đều thuận hành, Lữ Văn Nghệ tiên sinh ở Sơn Đông kiên quyết chủ trương phế trừ cổ pháp, thứ nhất không bàn vượng suy, thứ hai không bàn cách cục, thứ ba không bàn dụng thần, thứ tư không bàn thần sát, chỉ dùng chiêu sinh khắc "Lữ thị bát tự mệnh lý" là xong. Nhưng, chẳng lẽ môn đoán mệnh của Từ Tử Bình thật vô dụng vậy sao? Các vị toán mệnh tiên sinh từ xưa tới giờ đều không có công phu thực sự hay sao? Hay là chúng ta đã nhầm lẫn điểm quan trọng nào đó? Như Tống Anh Thành tiên sinh nói: "Có phải chăng hỷ dụng thần mà chúng ta đã dùng khác hẳn với hỷ dụng thần thực sự?"

Vâng, chính xác là như vậy! Người viết sau khi nghiên cứu nghiêm túc, phát hiện hỷ dụng thần của hiện đại mệnh lý và hỷ dụng thần của mệnh lý cổ điển là hai thứ hoàn toàn khác nhau! Có ba chứng cứ như sau:

Thứ nhất, trong ba bộ mệnh lý cổ điển "Uyên Hải Tử Bình", "Tam Mệnh Thông Hội" và "Thần Phong Thông Khảo", không hề tìm thấy cái mà hiện đại mệnh lý gọi là dụng thần! Lật bất cứ sách mệnh lý hiện hành nào chúng ta cũng có thể thấy những chương tiết chuyên luận thuật về dụng thần, từ khái niệm về dụng thần phương pháp chọn dụng thần đều được giới thiệu kỹ càng. Nhưng trong các mệnh lý kinh điển như "Uyên Hải Tử Bình" v.v... lại không thấy bất cứ chương tiết nào chuyên luận thuật về dụng thần, cho dù là một đoạn ngắn cũng không có! Những loại "dụng thần" có tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan không hề tìm thấy bất cứ chứng cứ nào trong ba quyển sách mệnh lý cổ này. Trời ạ, dụng thần là thứ quan trọng không thể thiếu được như thế, vậy mà cổ nhân lại không hề có một chuyên đề nào để giới thiệu, có phải là rất kỳ quặc không nhỉ? Đối với mệnh lý hiện hành mà nói, đoán mệnh mà không nhắc tới dụng thần thì chỉ là một kẻ a ma tơ. Thế nhưng tổ tông môn Tử Bình của chúng ta là Từ Tử Bình trong cuốn "Uyên Hải Tử Bình" sao không thấy nhắc tới vấn đề dụng thần vô cùng quan trọng này? Dù có kiệm lời tới đâu thì ít ra cũng để lại một đoạn ngắn chứ? Tiếc rằng chúng ta tìm nát trong mấy cuốn sách mệnh lý cổ kia mà vẫn không thấy! Cái mà chúng ta thấy là cổ nhân dùng đến một phần ba cuốn sách để nói đến cách cục, chuyện này thì sách mệnh lý hiện hành không hề có. Điều này chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ rằng chỉ có một khả năng, đó chính là trong sách mệnh lý cổ điển căn bản là không hề có loại dụng thần cân bằng ngũ hành bát tự, nếu như có dụng thần thì e rằng dụng thần chính là cách cục.

Thứ hai, dụng thần của mệnh lý lưu hành hiện đại và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển, đặc trưng của cả hai hoàn toàn không phù hợp nhau. Chủ yếu biểu hiện trong ba mặt sau:

1. Dụng thần của mệnh lý hiện hành đặc trưng chính yếu ở chỗ tính bất khả tổn hại của nó. Dùng lời của Chung Nghĩa Minh tiên sinh trong cuốn "Bát Tự Khí Số Mệnh Lý Học" rằng: "Dụng thần là linh hồn của bát tự", "Nên dụng thần không thể bị thương tổn đến, không bị khắc hại hình xung v.v...". Thế nhưng cổ nhân trong "Tứ Ngôn Độc Bộ" lại chỉ ra rằng: "Cách cách thôi tường, dĩ Sát vi trọng, chế Sát vi quyền, hà sầu tổn dụng". Ý của "Hà sầu tổn dụng" chẳng phải là không sợ tổn hại đến dụng thần hay sao? Trong "Nguyệt Đàm Phú" cũng nói: " Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khí bất đương khí". Nói rõ có lúc cần đến là có thể vứt luôn dụng thần.

2. Dụng thần của mệnh lý hiện hành, đặc trưng thứ yếu của nó là tính thiểu lượng. Nghĩa là dụng thần đã là điểm cân bằng ngũ hành bát tự thì dụng thần sẽ không thể là ngũ hành chiếm số lượng nhiều, bởi vì tổng cộng chỉ có tám chữ, số lượng nhiều lên sẽ phá vỡ cân bằng mà trở thành bệnh trong mệnh cục, cho nên dụng thần thường chỉ chiếm một hai chữ trong mệnh cục, không thể nhiều hơn. Cũng bởi vì phân lượng dụng thần ít cho nên mới sợ bị tổn hại! Thế mà nguyên chú của chương Thể dụng trong "Tích Thiên Tủy" nói: "Nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Có nghĩa một bát tự mà có ba bốn năm dụng thần thì không phải mệnh tốt. "Cùng Thông Bảo Giám - Tam xuân Giáp mộc luận" nói: "Phàm dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, tiết đi mới hay". Câu này chúng ta còn có thể tìm thấy trong "Tam Mệnh Thông Hội". Vậy đấy, dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển hóa ra còn có lúc đạt đến bốn năm cái, mà còn tiết đi mới tốt nữa!

3. Dụng thần trong mệnh lý hiện hành đặc tính thông thường của nó là tính chỉ có ích mà không có hại. Mệnh lý hiện hành cho rằng bất kể là Tài Quan Ấn Thực hay là Sát Thương Kiêu Nhận, chỉ cần khi được chọn làm dụng thần thì chỉ có ích mà không có hại, giữa chúng không có phân biệt thiện và ác, đã là dụng thần thì không thể bị khắc. Nhưng, dụng thần của cổ nhân không như thế. Chương Luận dụng thần trong "Tử Bình Chân Thuyên" viết: "Tài Quan Ấn Thực, thử dụng thần chi thiện, nhi thuận dụng chi giả dã. Sát Thương Kiêu Nhận, thử dụng thần chi bất thiện, nhi nghịch dụng chi giả dã". Có nghĩa là Tài Quan Ấn Thực là bốn dụng thần thiện, phải bảo hộ nó mà sử dụng. Mà Sát Thương Kiêu Nhận là bốn dụng thần ác, phải chế ước nó mà sử dụng. Đấy, loại dụng thần như vầy thì mệnh lý hiện hành chắc là không có nhỉ!

Thứ ba, cách dùng của dụng thần trong mệnh lý hiện hành và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển không giống nhau. Mệnh lý hiện hành cho rằng sự vượng suy cường nhược và bị khắc hay không của dụng thần vừa quyết định sự phú quí bần tiện của mệnh chủ và cũng chủ tể cát hung họa phúc của mệnh chủ, tác dụng của nó không có thứ nào khác có thể so sánh được. Nhưng chương Luận tướng thần khẩn yếu trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên" lại chỉ rõ: "Thương dụng thậm ư thương thân, thương tướng thậm ư thương dụng". Ý là thương hại đến dụng thần còn gay go hơn thương hại đến nhật nguyên, mà thương hại đến tướng thần còn gay go hơn thương hại đến dụng thần. Có thể thấy còn có tướng thần quan trọng hơn cả dụng thần. "Ngũ Ngôn Độc Bộ" lại nói: "Có Sát chỉ luận Sát, không có Sát mới luận dụng thần". Ý gì nhỉ? Có Thất Sát chẳng lẽ có thể không cần luận dụng thần hay sao? Câu này mệnh lý hiện hành không giải thích nổi. Trong "Bảo Pháp - Quyển nhị" cũng nói: " Phàm thuật xem Tử Bình, thủ cách bất định, thì xem mười sai đến chín". Chú ý nhé, ở đây nói "Thủ cách bất định" chứ không nói "Thủ dụng bất chuẩn" nhé! Có phải cổ nhân thủ cách (chọn cách cục) rõ là hiệu nghiệm hơn chúng ta ngày nay chọn dụng thần không? Thiên mở đầu của "Tinh Vi Thiên" nói: "Phàm khán nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Phùng Quan khán Tài, kiến Tài nhi phú quí. Phùng Sát khán Ấn, hữu Ấn dĩ vinh hoa". Ở đây chỉ cường điệu "Chuyên luận cách cục" chứ không phải chuyên luận dụng thần nhé! Mà còn nói thẳng gặp Quan xem Tài, gặp Ấn xem Quan, không như mệnh lý hiện hành ngày nay trước hết phải xem thân vượng thân nhược, thân vượng thì dụng Tài Quan, thân nhược thì dụng Ấn Tỷ. Tại sao cổ nhân không chú trọng đến tiền đề quan trọng là xem thân vượng thân nhược vậy? Tại sao không nói "Phàm thuật xem Tử Bình, thủ dụng bất chuẩn (xác), xem mười sai hết chín"? Nguyên nhân thì chỉ có một thôi, đó chính là dụng thần mà cổ nhân nói tới khác xa lắc xa lơ với dụng thần mà ngày nay chúng ta nói!

Dông dài hồi lâu, chắc độc giả cũng muốn hỏi thế dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển là gì thế?

Kỳ thực, định nghĩa dụng thần của cổ nhân rất đơn giản, tức: Dụng thần chính là vật khả dụng của nguyệt lệnh. Hai chữ "khả dụng" này có hai tầng ý nghĩa, một là có những thứ gì có thể dùng? Hai là dùng vào việc gì?

Nguyệt lệnh có những thứ gì có thể dùng? Có sáu thứ có thể dùng, tức: Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực, Thương. Dùng vào việc gì? Dùng để cấu thành CÁCH CỤC. Tức là, dụng thần mà cổ nhân nói tới, kỳ thực chính là VẬT mà nguyệt lệnh dùng đến để cấu thành cách cục.

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách". Những lời trên của cổ nhân khi nói đến dụng thần, tất cả đều nhấn mạnh tìm ở nguyệt lệnh, các sách đều coi dụng thần với cách cục làm một. Chúng ta chớ có tưởng rằng cổ nhân nói không rõ ràng, không logic (như Từ Lạc Ngô đại sư tưởng thế), nói không rõ sự tồn tại của dụng thần cân bằng nào là phù ức, điều hậu, thông quan. Thực ra trong mắt cổ nhân, dụng thần chính là vật mà nguyệt lệnh dùng để cấu thành cách cục, hoặc nói dụng thần và cách cục là một.

Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không hề là mấu chốt của cả bát tự, cho nên có lúc xuất hiện hiện tượng "dụng thần quá nhiều", dụng thần đã quá nhiều thì mới có câu " dụng thần có cái bỏ đi có cái không thể bỏ đi" và "ngại gì mà không tổn đến dụng thần (hà sầu tổn dụng)", thế mới xuất hiện cách cục câu "Khí Ấn tựuTài", "Khí Quan tựu Thực" v.v... Nếu không thì theo lối suy nghĩ của mệnh lý hiện hành thì chẳng ai giải thích rõ được mấy câu trên.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không nhất định là thứ có ích đối với nhật chủ, cho nên dụng thần mới phân thiện và ác, với thiện dụng thần Tài, Quan, Ấn, Thực phải sử dụng với tính chất phù trợ, đối với ác dụng thần Sát, Kiêu, Thương, Nhận thì phải sử dụng có tính chế ước. Cho nên "Ngũ Ngôn Độc Bộ" mới nói " Có Sát thì trước tiên luận Sát, không có Sát mới luận dụng", là bởi vì "Các cách suy cho rõ, lấy Sát làm trọng" ấy mà. Dụng thần của mệnh lý hiện hành phải luận trước cả Sát, lại còn không được chế ước Sát nữa.

Có người phản bác: Trong "Thần Phong Thông Khảo" tuy không có chương tiết chuyên luận dụng thần, nhưng còn có "Bệnh dược thuyết" trứ danh đấy thôi? Trương Nam nói "Dược" chẳng phải là dụng thần của mệnh lý hiện hành hay nói hay sao?

Đúng, mệnh lý hiện hành hay lấy thuyết bệnh dược của Trương Nam để mượn làm dụng thần cân bằng. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ nguyên văn sẽ phát hiện "Dược thần" mà Trương Nam nói chẳng phải là dụng thần cái gì cả. Nguyên văn: "Như dụng Tài kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược dã. Như dụng Thực Thần Thương Quan, dĩ Ấn vi bệnh, hỷ Tài vi dược dã". Ở đây chẳng phải rõ ràng nói trước "Dụng Tài", sau đó mới nói "Kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược" hay sao? Câu sau "Như dụng Thực Thần Thương Quan", cũng chính là lấy Thực Thần Thương Quan làm dụng thần. Tài là dụng, Tỷ Kiếp là bệnh, Quan Sát là dược ; Thực Thương là dụng, Ấn là bệnh, Tài là dược, ý quá rõ rồi gì nữa? Còn lý do nào để nói dược thần của Trương Nam chính là dụng thần không?

Kỳ thực, dược thần của Trương Nam chính là "Tướng thần" mà "Tử Bình Chân Thuyên" đã nói tới, chẳng qua Trương Nam không gọi nó là tướng thần mà thôi.

Có lẽ sẽ còn có người lấy những câu bình chú của Nhậm Thiết Tiều trong "Tích Thiên Tủy" để phản bác lại, Nhậm nói: "Ví như nhật chủ vượng, đề cương là Quan là Tài hoặc Thực Thương, đều có thể làm dụng. Nhật chủ suy, đừng tìm tứ trụ can chi vật có giúp thân làm dụng...". Dụng thần mà ông nói ở đây chẳng phải dụng thần cân bằng mà mệnh lý hiện hành hay nói sao?

Đúng, sự ra đời của mệnh lý hiện đại e phải lấy Nhậm Thiết Tiều làm công đầu. Vốn nguyên văn "Tích Thiên Tủy" và các sách cổ điển như "Uyên Hải Tử Bình" là nhất mạch tương thừa, nhưng qua tay hậu nhân chú thích, đặc biệt là sau khi qua tay Nhậm lão tiên sinh chú thích, thì cuốn "Tích Thiên Tủy" đã trở thành nền móng cho mệnh lý hiện hành.

Nhậm Thiết Tiều chú thích chương Bát cách trong cuốn "Tích Thiên Tủy": "Bát cách giả, mệnh trung chính lý dã. Tiên quan nguyệt lệnh sở đắc hà chi, thứ khán thiên can thấu xuất hà thần, tái cứu tư hà lệnh dĩ định chân giả, nhiên hậu thủ dụng, dĩ phân thanh trọc, thử thực y kinh thuận lý, nhược nguyệt phùng Lộc Nhận, vô cách khả thủ, tu thẩm nhật chủ chi hỷ kỵ, lánh tầm biệt chi thấu xuất thiên can giả, tá dĩ vi dụng". (Tám cách là chính lý trong mệnh. Trước phải xem nguyệt lệnh là chi gì, sau xem thiên can thấu xuất thần gì, tiếp coi cái gì nắm lệnh để định thật giả, sau đó chọn dụng thần để phân chia sự thanh trọc, đó thực là thuận lý theo kinh sách, nếu nguyệt lệnh là Lộc Nhận thì không chọn được cách, phải xem xét hỷ kỵ của nhật chủ mà tìm chi khác thấu thiên can mượn đỡ mà dùng). Có thể thấy, phương pháp thủ dụng định cách của họ Nhậm là cơ bản thống nhất với phương pháp "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", "Nguyệt Kiếp vô dụng, lánh tầm ngoại cách" trong "Tử Bình Chân Thuyên". Tiếc thay, họ Nhậm không hề thông hiểu mật pháp luận cách cục truyền thống này ("Tích Thiên Tủy" luận cách không kỹ càng bằng "Tử Bình Chân Thuyên"), trong khi gặp khó khăn trong lúc luận mệnh, ông đã không kiên trì giữ vững phương pháp này nữa. Cho nên ông sau chương "Bát cách" lại nói rằng: "Từ mấy mệnh trên có thể thấy, cách cục không thể chấp nhất. Không nên câu thúc ở các cách Tài Quan Ấn..., không liên can gì đến nhật trụ, vượng thì nên ức chế, suy thì nên phù trợ, Ấn vượng tiết Quan mừng Tài tinh, Ấn suy gặp Tài mừng Tỷ Kiếp, đây là phương pháp không thay đổi được". Hèn gì, kiểu phương pháp luận mệnh khinh cách cục, trọng cân bằng này của Nhậm Thiết Tiều chính là lam bản cho mệnh lý hiện hành ngày nay.

Còn chuyện nữa càng khiến người ta tiếc rẻ, sau Nhậm Thiết Tiều là Từ Lạc Ngô đại sư, ông chú thích "Tích Thiên Tủy" mà vô cùng sai lệch nguyên chú, làm cho kẻ hậu học dễ hiểu nhầm nguyên văn, từ đó trượt luôn vào vũng lầy mệnh lý hiện hành. Ví dụ như chương "Thể dụng" của "Tích Thiên Tủy" nguyên chú thích nói rằng: "...nhi nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Ý là khi nguyệt lệnh dụng thần số lượng đạt tới bốn hoặc năm, như vậy thì không phải là mệnh tốt nữa. Ví dụ như nguyệt lệnh là Ấn tinh, khi có hai ba Ấn tinh nếu có Tài tinh khắc Ấn, cách cục sẽ thành "Khí Ấn tựu Tài" cách. Nếu Ấn lên tới bốn năm, Tài tinh sẽ không thể nào khắc Ấn được nữa, tốt nhất là dùng Tỷ Kiếp để tiết bớt Ấn, giống như ý của "Cùng Thông Bảo Giám" nói "Hễ dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, cần phải tiết đi mới hay". Nhưng nếu Ấn quá nhiều, một là không có Tài khắc, hai là không có Tỷ Kiếp hóa tiết, vậy nhất định không phải mệnh tốt rồi.

Ấy thế mà do Nhậm Thiết Tiều không hoàn toàn hiểu hết được khái niệm dụng thần này, cho nên khi ông phê chú đoạn trên bèn nói: "Nguyên chú nói rằng: hai ba bốn năm dụng thần thực không phải mệnh tốt. Đấy là nói bậy! Chỉ có tám chữ mà nếu khử đi bốn năm chữ dụng thần thì trừ nhật can ra chỉ có hai chữ không dùng, làm sao thế được!". Nghe ý ông là hiểu không thể có trường hợp một mệnh tạo mà có đến bốn năm dụng thần.

Từ Lạc Ngô đại sư cũng nói đế vào phụ cho họ Nhậm, nói rằng: "Như câu trong nguyên chú hai ba bốn năm dụng thần, họ Nhậm bài xích là phải. Dụng thần làm sao có hai được nói chi đến ba bốn năm dụng thần! (Xem chương Thể dụng tinh thần trong cuốn "Tích Thiên Tủy Bổ Chú của Từ Lạc Ngô)". Ông khăng khăng dụng thần chỉ có một mà thôi, tuyệt không có hai, nói gì đến bốn năm dụng thần! Ông đâu có biết, dụng thần mà nguyên chú "Tích Thiên Tủy" nói hoàn toàn không phải loại dụng thần mà ông và Nhậm Thiết Tiều nghĩ!

Thật là "Một chữ sai, toàn bàn hỏng bét", dụng thần mà sai rồi thì phương pháp luận mệnh cũng sai theo! Không ai ngờ và nghĩ được rằng như hai vị đại sư cấp nhân vật trong làng mệnh lý là Nhậm Thiết Tiều và Từ Lạc Ngô lại nhầm lẫn khái niệm hạch tâm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất của mệnh học --- DỤNG THẦN!

Con rùa bò phía trước mở đường, con rùa phía sau bò theo. Cứ thế, ngàn ngàn vạn vạn kẻ hậu học theo sau đít hai ông Nhậm, Từ, thoát li khỏi tư tưởng chính tông của Từ Tử Bình, nhắm đến vũng lầy mệnh lý hiện hành vô biên vô tế phía trước mà tiến bước......

Lão Tử nói rất hay, "Ngũ sắc khiến người ta mù". Chỉ có mấy ông thầy bói mù (manh sư) mắt không nhìn được ngũ sắc nữa mới không mù quáng đi theo Nhậm, Từ. Họ đã không thể đọc các danh trước mệnh học của hai ông, cũng không thể tham duyệt tư liệu mệnh lý hiện hành, cho nên họ không bị bất cứ ảnh hưởng nào của mệnh lý hiện đại, vẫn cứ y theo phương pháp xa xưa của Tử Bình mệnh học. Có lẽ họ luận cách tinh xác không bằng "Tử Bình Chân Thuyên", hoặc họ mỗi người có một pho ca quyết luận mệnh cho riêng mình, nhưng khái niệm dụng thần và luận mệnh phép tắc là nhất mạch tương truyền với các kinh điển mệnh lý "Uyên Hải Tử Bình", "Thần Phong Thông Khảo", "Tam Mệnh Thông Hội", "Tử Bình Chân Thuyên" và "Tứ Ngôn Độc Bộ". Người viết quen biết một vị manh sư họ Dương, công phu của ông rất tinh thâm, nổi danh một vùng. Ông có thể thuộc lòng các ca quyết cổ điển như " Tứ Ngôn Độc Bộ", "Ngũ Ngôn Độc Bộ" và "Nguyệt Đàm Phú" v.v..., nhưng ông không hề biết tý gì về cái gọi là dụng thần cân bằng như phù ức, điều hậu, thông quan. Ông cũng giống như nhiều vị manh sư khác, bình thường chỉ nói về cách cục, không nói dụng thần, bởi vì ông giải thích rằng dụng thần chính là cách cục!

Đấy chính là bộ mặt thật của dụng thần, cho dù các thầy mệnh lý hiện đại mở miệng ra là nói tới nhưng cũng không biết tới nó!

Durobi dịch

Bổ sung chuyển từ Hán Việt ra Việt ngữ đoạn này, đoạn thứ 22 từ trên xuống, lúc dịch quên béng mất...

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách".

Chương Luận dụng thần trong sách Tử Bình Chân Thuyên nói rằng: " Dụng thần của bát tự, nên tìm ở lệnh tháng mà thôi. Lấy nhật can phối hợp với địa chi lệnh tháng, bởi do sinh khắc không giống nhau nên phân ra các loại cách cục".

Chương Thủ cách chỉ quyết ca đoán trong sách Thần Phong Thông Khảo nói rằng: "Lấy ngày làm thân gốc, mà lấy đề cương (lệnh tháng) làm dụng. Thứ đến lấy năm tháng ngày làm quả, gặp Quan thì phải xem Tài, gặp Tài thì phải xem Sát, gặp Sát thì phải xem Ấn, gặp Ấn thì phải xem Quan".

Quyển thứ hai của sách Bảo Pháp nói rằng: " Thuật xem Tử Bình, lấy ngày làm chủ, trước hết phải xem đề cương (lệnh tháng) là điểm quan trọng, kế đến dùng chi năm tháng ngày giờ, hội thành cách cục rồi mới có thể đoán, thường các trường hợp đều lấy lệnh tháng làm dụng, không được lấy năm để chọn cách.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận dụng thần

Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do 4 nghiệp duyên

Giáo lý nhà Phật có dạy, con người hội ngộ là do duyên nợ từ kiếp trước. Mối nhân duyên giữa con cái và cha mẹ cũng không phải ngoại lệ. Thông thường, con cái
Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do 4 nghiệp duyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Giáo lý tâm linh nhà Phật có dạy, con người hội ngộ là do duyên nợ từ kiếp trước. Mối nhân duyên giữa con cái và cha mẹ cũng không phải ngoại lệ. Thông thường, con cái đến với cha mẹ trong kiếp này nhờ 4 nghiệp duyên.

  1. Nhân quả báo ứng   Trong giáo lý nhà Phật có dạy về luật nhân quả báo ứng hay nhân quả luân hồi, số kiếp là để chỉ các mối duyên nợ từ kiếp trước.    Mối nhân duyên giữa con cái và cha mẹ trong kiếp này là do 4 loại nghiệp duyên mang tới: một là đến báo ơn, hai là để báo oán, ba là đến trả nợ và bốn là đến đòi nợ. Ơn oán nghiệp lực mạnh hay yếu còn phụ thuộc cả những việc làm tốt xấu của cha mẹ kiếp trước và kiếp này.  
Nhan qua bao ung Con cai den voi cha me la do nghiep duyen hinh anh
 
Vậy nên, đừng bao giờ hỏi tại sao cha mẹ hiền lành mà sinh con nghịch ngợm, phá phách; bố mẹ giàu sang sinh con phá gia chi tử… tất cả là do nhân quả báo ứng. Kiếp trước giàu có được là nhờ làm việc bất chính thì kiếp này tiền của ắt lụn bại, của thiên trả địa. Con cái chỉ là người dùng duyên nghiệp đó mà trả nghiệp cho bố mẹ mà thôi.   Sự đời không phải khi nào cũng thuận, trong thuận có nghịch, chuyển đổi luân hồi. Dù thế nào cũng có ít nhiều cái nghịch lòng xảy ra khi thấy cái thuận lòng. Chỉ là thiếu duyên thì ẩn, đủ duyên thì hiện. Mọi thứ đều có nhân duyên, đều do nghiệp lực thiện ác bản thân mỗi người gây tạo trong đời mà thôi.  
Nhan qua bao ung Con cai den voi cha me la do nghiep duyen hinh anh 2
 
2. Bốn nghiệp duyên đưa con cái đến với cha mẹ   Loại nghiệp duyên thứ nhất – Báo ân   Kiếp trước, cha mẹ có ân với con, kiếp này con đầu thai để đền ơn cho cha mẹ. Ân càng lớn, con ở với cha mẹ càng lâu, trả hết ân, con cái sẽ ra đi.
Loại nghiệp duyên thứ hai – Báo oán   Kiếp trước, cha mẹ có kết hận với người nào đó nên họ đầu thai vào làm con của cha mẹ kiếp này để báo oán. Thế mới có trường hợp, con cái ngỗ ngược, phá gia chi tử. Đừng vội trách con, hãy trách kiếp trước cha mẹ từng nợ chúng.   Phật dạy 7 trường hợp không nên sát sinh
Dù là sinh mệnh của con người hay loài vật đều quý giá. Thế nhân ăn thịt và coi điều đó là đương nhiên mà không biết rằng mình đang tích ác nghiệp cho đời sau.

Loại nghiệp duyên thứ ba – Đòi nợ
  Kiếp trước, cha mẹ thiếu nợ của họ, kiếp này họ đến làm con để đòi nợ. Nếu thiếu nợ ít, nuôi hai, ba năm, con bèn chết. Nếu thiếu nợ nhiều, đại khái là nuôi đến khi khôn lớn lại chết mất. Nợ đã đòi xong, con bèn ra đi.   Loại nghiệp duyên thứ tư – Trả nợ   Kiếp trước, họ nợ cha mẹ, kiếp này họ đầu thai thành con để trả nợ. Con sẽ nỗ lực làm ăn để nuôi nấng cha mẹ, bao giờ hết nợ, con mới dứt áo ra đi. Vậy nên, đừng vội trách con đối đãi nhiều hay ít, bởi lẽ nó còn phụ thuộc vào kiếp trước con nợ cha mẹ mức nào.   Lời Phật dạy thức tỉnh kiếp người, dù kiếp trước cha mẹ tạo nghiệp duyên thế nào, thì trong đời này, cha mẹ hãy là tấm gương sáng cho con cái về tu dưỡng đạo đức, tu nhân tích đức, có như vậy mới sớm trả hết 4 nghiệp duyên này.   
=> Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

An Nhiên
Những ai cần được tha thứ nhất trong cuộc đời?
Tha thứ chính là cách đơn giản để buông bỏ mọi phiền não, để thoát khỏi khổ đau ở đời. Những ai cần được tha thứ nhất, phải chăng trong đó có chính bản thân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do 4 nghiệp duyên

Mẹo phong thủy để sĩ tử thi đại học điểm cao

Nhằm giúp các sĩ tử “vượt vũ môn” thành công, các chuyên gia phong thủy đưa ra những lời khuyên vô cùng bổ ích dưới đây.
Mẹo phong thủy để sĩ tử thi đại học điểm cao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Muốn thi cử đỗ đạt cao, ngoài việc dựa vào lực học của mỗi người, các yếu tố phong thủy cũng có tác động không nhỏ tới sự thành bại đó.
 
Trong khi các em đang tập trung phấn đấu cho kì thi đại học – bước ngoặt lớn của cuộc đời, ngoài việc chăm sóc sức khỏe, các bậc phụ huynh nên chủ động tìm hiểu những bí quyết phong thủy để giúp con cái học hành tiến bộ và thi cử đỗ đạt.
 
Trước tiên, cần chú ý đến vị trí Văn Xương tinh, đây là sao đại diện cho việc học hành khoa cử của con cái trong gia đình. Đối với những sĩ tử sắp thi đại học, nên thiết kế hoặc cải tạo phòng ngủ hoặc kê giường vào vị trí ngôi sao này chiếu rọi để tăng vận học hành, trẻ vừa học hành chăm chỉ lại có sức khỏe và tâm lí tốt.
 
Vị trí Văn Xương tinh không thay đổi và liên quan chặt chẽ đến ngày tháng năm sinh của mỗi người. Tuy nhiên, nó sẽ biến đổi theo từng năm dựa vào sự biến hóa và luân chuyển của phong thủy Cửu cung phi tinh. Nếu kê bàn học vào đúng vị trí áng ngữ của Văn Xương tinh sẽ giúp con cái tăng cường trí lực, tập trung tinh thần để học tập và tạo bước đột phá quan trọng.

Meo phong thuy de si tu thi dai hoc diem cao hinh anh
Đặt tháp Văn Xương trên bàn học để thúc đẩy thi cử đỗ đạt

Tốt nhất nên đặt tháp Văn Xương ở vị trí Thanh Long (bên trái) để giúp con học hành tiến bộ, thi cử đạt điểm cao. Đây là ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía Nam của Hồng Kông và là biểu tượng cho đường khoa cử đỗ đạt, thăng quan tiến chức trong sự nghiệp.
 
Tháp Văn Xương có khả năng ngăn ngừa hung khí, tà ma, đồng thời cũng rất hữu dụng cho những ai sắp phải trải qua thì ki quan trọng hoặc người muốn cầu danh lợi.
Bên cạnh đó, nên kê bàn học ở vị trí trái có Thanh Long, phải có Bạch Hổ. Phía bên trái bày các dụng cụ học tập, bên phải là vị trí cần sự tĩnh lặng thì có thể đặt những chậu cây phong thủy như xương rồng, vạn niên thanh…với kích cỡ vừa phải để hóa giải những điều xui xẻo.

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo phong thủy để sĩ tử thi đại học điểm cao

Đường gân giữa trán nói lên điều gì? –

Có nhiều bạn, gân xanh nổi ở tay chân, hay xuất hiện đường gân ở giữa trán. Nhưng các bạn cho đó là điều bình thường nhưng thực ra đàng sau những đường gân ấy liệu có điềm báo gì không?Bạn đã từng tìm hiểu ý nghĩa của các đường gân chưa? Nếu chưa hãy
Đường gân giữa trán nói lên điều gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường gân giữa trán nói lên điều gì? –

Trồng cây phong thủy theo tuổi –

Có rất nhiều cách chiêu tài, giữ tài, trong đó mọi người có thể bày cây phong thuỷ để thu hút tài vận. Tùy vào từng con giáp bản mệnh mà có từng loại cây may mắn khác nhau. Chọn đúng cây phong thuỷ cho từng con giáp giúp bạn tăng cường tài vận trong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều cách chiêu tài, giữ tài, trong đó mọi người có thể bày cây phong thuỷ để thu hút tài vận. Tùy vào từng con giáp bản mệnh mà có từng loại cây may mắn khác nhau. Chọn đúng cây phong thuỷ cho từng con giáp giúp bạn tăng cường tài vận trong sự nghiệp và mang lại may mắn trong cuộc sống.

Nội dung

  • 1 Tuổi Tý
  • 2 Tuổi Sửu
  • 3 Tuổi Dần
  • 4 Tuổi Mão
  • 5 Tuổi Thìn
  • 6 Tuổi Tỵ
  • 7 Tuổi Ngọ
  • 8 Tuổi Mùi
  • 9 Tuổi Thân
  • 10 Tuổi Dậu
  • 11 Tuổi Tuất
  • 12 Tuổi Hợi

Tuổi Tý

Cây mang lại tài vận: Cây Kim Tiền

Những người tuổi Tý đa phần không biết cách quản lý tiền bạc, nhưng họ luôn có ý thức tích lũy tiền bạc và tiết kiệm. Họ không am hiểu đầu tư, thường không nắm bắt được cơ hội kiếm tiền.

Người tuổi Tý nếu có thể đặt một chậu Kim Tiền trong nhà riêng sẽ giúp họ nhận được nhiều may mắn. Đồng thời tăng thêm tinh thần mạo hiểm, giúp người này dũng cảm đương đầu thách thức để nắm bắt những cơ hội phát tài.

Tuổi Sửu

Cây mang lại tài vận: Cây dứa cảnh nến

Nếu người tuổi Sửu trồng một chậu Cây dứa cảnh nến trên bàn làm việc sẽ mang vận tài lộc đến cho họ.

Tên thường gọi: Cây dứa cảnh nến (cây dứa cảnh lệ, cây dứa cánh sen, cây ngôi sao đỏ, cây ngọn lửa đỏ, cây phong lộc hoa).


Người tuổi Sửu chịu được vất vả, làm việc theo hướng thực tế, là người trung thực nhưng tương đối bảo thủ, mỗi ngày làm việc chỉ kiếm được một ít tiền.

Những người tuổi này nên đặt chậu dứa cảnh nến ở bên trái bàn làm việc để trợ giúp bạn kiếm được nhiều tiền hơn, mà bạn cũng sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Tuổi Dần

Cây mang lại tài vận: Cây Ngũ gia bì

Người tuổi Dần dám đương đầu với nguy hiểm, biết cách kiếm tiền. Nhưng thực tế thì họ không quá coi trọng tiền tài, mà chỉ thích quá trình kiếm ra nó. Đôi khi người tuổi này có chút nóng vội, hấp tấp dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tiền tài.

Nếu người tuổi Dần trồng một chậu ngũ gia bì trong phòng khách sẽ giúp cho con đường tài vận của họ ổn định, phát triển thuận lợi; đồng thời giúp họ củng cố tài vận, giữ được tiền bạc không tiêu biến.

Tuổi Mão

Cây mang lại tài vận: Cây Trúc phú quý (cây phát lộc)

Người tuổi Mão không biết mẹo kiếm tiền, đối với chuyện tiền tài có chút bảo thủ. Vì vậy, tiền họ kiếm được thường ít và chậm hơn, cơ hội phát tài cũng không dễ dàng.

Người tuổi Mão nên đặt cành phát lộc trên tủ lạnh( chú ý là phải để số lẻ) để giúp tài vận của họ được thịnh, kiếm tiền nhanh hơn, nhiều hơn.

Tuổi Thìn

Cây mang lại tài vận: Cây xương rồng và cây vạn niên thanh

Đường tài vận của người tuổi Thìn vô cùng tốt. Không cần làm việc quá vất vả vẫn có tiền vào túi, nhưng bên cạnh thường có kẻ xấu giở trò mờ ám, từ đó cản trở con đường tài lộc của họ.

Người tuổi Thìn nên đặt một chậu xương rồng ở hướng Tây Bắc của phòng khách để hóa giải tà khí, phòng kẻ tiểu nhân và đặt một cây vạn niên thanh ở hướng Đông Nam giúp mang đến tài lộc.

Tuổi Tỵ

Cây mang lại tài vận: Cỏ đồng tiền

Kỳ thực người tuổi Tỵ có đường tài vận không tệ nhưng lại không biết nắm chắc cơ hội, vì do dự nên hay bỏ qua thời cơ kiếm tiền.

Người cầm tinh con rắn nên trồng một ít cỏ đồng tiền trước bệ cửa sổ để trợ giúp tài vận tăng tiến, đồng thời tăng năng lực phân tích cá nhân, giúp bạn mạnh mẽ hơn, hành động quyết đoán hơn.

Tuổi Ngọ

Cây mang lại tài vận: Cây trầu bà

Tài vận người tuổi này rất tốt, biết cách kiếm tiền. Nhưng tuổi này lại khá tham lam, chính tính cách này làm họ bị tổn thất trong quá trình kiếm tiền.

Trong nhà người tuổi Ngọ nên đặt mấy chậu trầu bà sẽ giúp tài vận của họ tập trung một mối, nhưng cũng phải suy xét tình hình kỹ lưỡng, không được tham lam.

Tuổi Mùi

Cây mang lại tài vận: Cây Lan quân tử

Người tuổi này không quan trọng tiền tài, khát vọng kiếm tiền cũng không lớn. Bởi họ không nỗ lực sức mình để kiếm tiền nên cơ hội phát tài là khá thấp.

 

Người tuổi Mùi nên đặt một chậu lan quân tử ở phía bên phải bức tường đối diện sofa trong nhà, sẽ mang đến quý nhân phù trợ họ trên con đường tài vận.

Tuổi Thân

Cây mang lại tài vận: Cây tùng bồng lai

Người tuổi Thân biết cách kiếm tiền, cũng biết cách nắm bắt cơ hội tài lộc, nhưng họ kiếm nhiều thì tiêu cũng nhiều. Họ tiêu tiền như nước, không biết tiết kiệm nên cuối cùng còn lại không đáng là bao.

Người tuổi Thân nên đặt một chậu tùng bồng lai trong phòng đọc sách, phòng làm việc. Điều này giúp họ kiếm được tiền, làm ví tiền không bao giờ cạn.

Tuổi Dậu

Cây mang lại tài vận: Cây Ngọc Lộ (sen đá)

Đường tài vận tuổi này rất vượng, nhưng không biết giữ. Tiền tài hoặc là bị vay mượn, hoặc hao tổn khi đầu tư. Khả năng tổn hao tiền tài rất cao.

Không muốn vậy, người tuổi Dậu nên trồng một chậu sen đá ở phòng khách, giúp họ ngăn chặn việc hao tổn tài lộc. Tiền tài tự nhiên sẽ giữ được.

Tuổi Tuất

Cây mang lại tài vận: Cây phát tài (cây kim ngân)

Người tuổi này có đường tài vận khá ổn định, nhưng không biết cách quản lý, không biết nắm bắt cơ hội kiếm tiền. Khi có cơ hội không biết cách trân trọng, nên rất khó phát tài.

Những người này nên đặt chậu kim ngân ở phòng khách, giúp họ tích lũy tiền tài, kiếm được nhiều tiền hơn, tài lộc lũ lượt kéo đến.

Tuổi Hợi

Loại cây vượng tài: Nhất mạt hương (tên tiếng Anh Plectranthus hadiensis var. tomentosus).

Người cầm tinh con lợn có cuộc sống đầy đủ sung túc, ăn ngon mặc đẹp, nhưng cũng vì cuộc sống xa xỉ này mà họ thường tiêu hết tiền, ít khi dư dả để tiết kiệm, tài sản dần dần ít đi.

Người tuổi Hợi nên đặt một chậu nhất mạt hương trên bàn máy tính trong văn phòng và ở nhà, để giúp bạn lý trí hơn mỗi khi tiêu tiền, hạn chế việc tiêu pha tùy tiện. Nhưng bạn phải nhớ thường xuyên chạm vào lá cây thì mới có hiệu quả!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trồng cây phong thủy theo tuổi –

Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ

Phong thủy văn phòng tốt có thể mang tới rất nhiều may mắn, thuận lợi trong sự nghiệp. Treo tranh có ý nghĩa tốt đẹp như lời chúc, lời cầu may.
Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy văn phòng tốt có thể mang tới rất nhiều may mắn, thuận lợi trong sự nghiệp. Vì thế, người ta thường treo tranh có ý nghĩa tốt đẹp như lời chúc, lời cầu may, hi vọng vào tương lai. Song chọn tranh phải hợp ngành hợp nghề, treo tranh phải đúng phương đúng hướng mới cát lợi.

  Treo tranh để cải thiện, tăng cường phong thủy văn phòng rất có lợi. nếu chọn được tranh chuẩn, phù hợp thì không chỉ đẹp phong thủy mà còn tăng tính thẩm mĩ, lợi cả cả đôi đường.  

1. Văn phòng công ty sản xuất

  Văn phòng của lãnh đạo công ty sản xuất nên treo tranh Tam dương khai thái, bát mã, mã đáo thành công ở góc Tây Nam. Điều này sẽ mang tới may mắn, tăng cường năng lực sản xuất của xí nghiệp, thúc đẩy cải tiến đổi với và bảo đảm an toàn sản xuất.
Treo tranh hop nghe, phong thuy van phong tot dep ruc ro hinh anh
 

2. Văn phòng công ty quảng cáo, tuyên truyền

  Đối với phong thủy văn phòng theo ngành quảng cáo, tuyên truyền, truyền thông thì nên treo tranh hoa, sẽ cực kì cát lợi. Phía Đông Nam bày tranh hoa mai, hoa cúc, hoa lan hay cây trúc có thể tăng cường vị trí, địa vị, danh tiếng của công ty trong giới và mang tới lợi nhuận cao hơn.  

3. Văn phòng công ty thiết kế

  Các công ty làm ngành thiết kế thì hướng Tây Bắc văn phòng bày tranh phong cảnh: băng phong, tuyết sơn, trời xanh mây trắng hay sông núi ao hồ. Có thể tăng cường khả năng sáng tạo, năng lực tư duy, khiến công ty có những bước đột phá mới mẻ, nhiều linh cảm, cảm hứng trong công việc.  

4. Văn phòng công ty tài chính

  Tranh cửu ngư treo ở chính Bắc văn phòng sẽ giúp các công ty theo đuổi lĩnh vực tài chính gặp nhiều thuận lợi, tài chính lưu thông, hàng năm lợi nhuận tăng vọt. Ngoài ra, có thể bày thêm bát tụ bảo hoặc thỏi vàng ròng, với ngụ ý chiêu tài tiến lộc.  

5. Văn phòng tổng giám đốc, chủ tịch

  Hướng Tây Bắc và hướng chính Nam là hai phương vị đại diện cho quyền lực, sự phát triển và tăng tiến. Chính Nam yêu cầu có bức tranh mặt nước rộng lớn như ao hồ sông suối hoặc tranh danh nhân, người nổi tiếng. Như vậy thì tài vận và năng lực của công ty sẽ có định hướng phát triển lâu dài. Hướng Tây Bắc treo tranh núi băng, trời tuyết để tăng cường năng lực lãnh đạo, nhắc nhở lãnh đạo luôn cân nhắc toàn diện vấn đề. 
 
Treo tranh hop nghe, phong thuy van phong tot dep ruc ro hinh anh
 
Ngoài ra, phong thủy văn phòng cần lưu ý tới sự kết hợp hài hòa giữa tranh phong thủy và mệnh của lãnh đạo, nên chọn tương sinh, tránh tương khắc. Đồng thời lưu ý toàn thể không gian, treo tranh vừa phải, thoáng mắt, chớ biến văn phòng thành phòng hội họa.
► Mời các bạn xem Tử vi 2017, Lịch 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com

Phong thủy văn phòng vượng tài vượng lộc nhờ treo tranh đúng cách Chỉ rõ 5 loại tranh tổn hại phong thủy khi treo trong phòng ngủ 4 bức tranh phong thủy vượng vận nên treo ngay trong nhà
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ

Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Cung Mệnh có sao Thái Tuế thì có tài ăn nói, nói năng lưu loát, hoạt bát, giỏi về tranh biện, lý luận, biện chứng, có tài về khoa kiện tụng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Hành: Hỏa

Loại: Phù Tinh, Hình Tinh

Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén

Tên gọi tắt thường gặp: Tuế

Sao chủ của vòng sao Thái Tuế gồm 12 sao theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Ý Nghĩa Thái Tuế Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Cung Mệnh có sao Thái Tuế thì có tài ăn nói, nói năng lưu loát, hoạt bát, giỏi về tranh biện, lý luận, biện chứng, có tài về khoa kiện tụng.

Công Danh Tài Lộc:

Có lợi về công danh cho những nghề nghiệp cần dùng đến khoa ngôn ngữ như trạng sư, giáo sư, chính trị gia.

Phúc Thọ Tai Họa:

Hay bị nói xấu, chỉ trích, công kích, cãi vã, bút chiến.

Hay bị kiện cáo.

Sao Thái Tuế bao giờ cũng hội chiếu với Quan Phù, chỉ sự báo oán vì mích lòng, kiện thưa vì lời nói chạm tự ái. Đây là hậu quả của tính nhiều chuyện, tính chỉ trích, nói xấu, gieo thù oán.

Thái Tuế nếu gặp Sát tinh: Tổn thọ, tổn danh, tổn tài hay bị kiện cáo, báo thù, tai nạn. Tóm lại, Thái Tuế là sao chủ về lời nói và những hậu quả tốt xấu do ngôn ngữ mà có.

Những Bộ Sao Tốt khi đi cùng sao Thái Tuế:

Thái Tuế, Xương Khúc, Khôi Việt: năm sao này kết thành bộ văn tinh rất đẹp cho việc học hành, thi cử, làm quan.

Những Bộ Sao xấu khi đi cùng sao Thái Tuế:

Sao Thái Tuế, Hoa Cái hay Thái Tuế , Hóa Kỵ: Ăn nói kiêu kỳ, mất cảm tình.

Sao Thái Tuế, Đào, Hồng: Bị phụ tình, cô độc, thất tình.

Sao Thái Tuế, Thiên Hình: Bị tai bay vạ gió, có thể bị kiện, bị tù.

Sao Thái Tuế, Đà La, Hóa Kỵ: Người quê kệch, ngu độn; gây ngăn trở công việc hại đến quyền thế, tài lộc. 

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Phụ Mẫu:

Trong nhà thiếu hòa khí hay có sự tranh chấp. Cha mẹ và con không hợp tánh nhau. Nếu sao Thái Tuế gặp thêm nhiều Sát Tinh, nhất là Đà, Kỵ xâm phạm, cha mẹ xa cách nhau. Gia đình ly tán. Ngoài ra, cha mẹ thường hay gặp tai họa, đáng lo ngại nhất là mắc kiện cáo.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Phúc Đức:

Không được hưởng phúc, trong họ thiếu hoà khí, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Điền Trạch:

Sao Thái Tuế nếu gặp các sao tốt như Tam Thai, Bát Tọa, Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, thì nhà cửa vững vàng. Đi với các sao xấu như Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Đại Hao, Tiểu Hao, lận đận về nhà cửa, xích mích, bị lừa.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Quan Lộc:

Thường làm các nghề chủ về dùng lời nói, lý luận, hoặc nghề có liên quan đến pháp luật như nghề luật sư, giáo sư, thẩm phán, trưởng tòa. Nếu làm chính trị, thiên về đối lập, hay chỉ trích và bị chỉ trích trong nghề nghiệp.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Nô Bộc:

Ra ngoài có nhiều tham vọng, ưa thích chơi với người có chức cao quyền rộng, hay kén chọn bạn bè. Người làm nghề nhà giáo có cách này, nếu có nhiều sao tốt, thì học trò của mình sau này công danh rực rỡ, làm nổi tiếng cho thầy.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Thiên Di:

Thái Tuế ở cung Thiên Di thì hay bị miệng tiếng khẩu thiệt trong việc giao thiệp, hay bị kiện cáo, cãi vã với người ngoài.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Tật Ách:

Hay bị chuyện thị phi, kiện cáo, tù tội, đánh đập, mổ xẻ, tai nạn dọc đường.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Tài Bạch:

Đi với sao tốt thì dễ kiếm tiền, nói ra tiền. Đi với sao xấu như Đà La, Hóa Kỵ, Địa Không, Địa Kiếp thì hay gặp sự tranh chấp về tiền tài, dù có kiếm tiền nhanh, có lợi bất ngờ cũng hay sinh tai họa, rủi ro.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Tử Tức:

Con cái không hợp tính cha mẹ.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng bất hòa, hay cãi vã, lắm lời, có thể ly dị, ly hôn, nếu gặp sao xấu, trừ phi vợ hay chồng hành nghề luật sư, thẩm phán.

Nương tựa nhau, dính dấp nhau nhiều vì quyền lợi, danh tiếng, địa vị, dư luận, ảnh hưởng bên ngoài rất nặng vào đời sống riêng tư.

Ý Nghĩa sao Thái Tuế Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em trong gia đình tuy có sự khắc khẩu, khác chí hướng, nhưng vẫn có sự giúp đỡ qua lại, trong anh chị em có người cô độc, đau bệnh.

Thái Tuế Khi Vào Các Hạn:

Có cãi vã, đôi chối trong năm đó, có đi dạy học.

Bị thất tình, cô độc.

Nên cần cẩn thận khi lập gia đình.

Hạn gặp sao Thái Tuế thì hay sinh ra quan tụng, khẩu thiệt, ở Cung Mệnh thì thời vận gian truân vất vả.

Gặp sao Đà La, Kiếp Sát, là hạn ra ngoài lắm tai nạn, nguy hại đến tính mạng.

Ở Cung Dần hoặc Cung Dậu mà gặp sao Thái Tuế, Thiên Hình, Kình Dương thì hay gặp chuyện thị phi, tai bay vạ gió, khẩu thiệt, tai tiếng, tù tội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thái Tuế - Là loại phù tinh chủ về quan tụng

Mơ thấy ngọc trai: Có tin của người bạn tốt –

Từ xưa đến nay, ngọc trai luôn đi kèm với sự quý trọng và đáng giá. Một viên ngọc trai trong mơ thông thường có liên quan ít nhiều đến cá nhân. Đa số những người mơ thấy ngọc trai đều biết nguồn gốc xuất thân của ngọc trai và xem ngọc trai là một bảo
Mơ thấy ngọc trai: Có tin của người bạn tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ngọc trai: Có tin của người bạn tốt –

Luận về sao Tử vi

Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi.
Luận về sao Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương Vị: Cả Nam lẫn Bắc Đẩu Tinh Tính: Dương Hành: Thổ Loại: Đế Tinh Đặc Tính: Quyền Uy, Phúc Đức, Tài Lộc
Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi.
Hai chòm sao Tử Vi và Thiên Phủ hợp lại để tạo thành 14 chính tinh (sao chính) trong lá số tử vi. Trường hợp một cung trên lá số không có chính tinh thì được gọi là cung Vô Chính Diệu tức là cung này không có sao chính tọa thủ.
Sao Tử Vi được an theo cục và ngày sinh. 
Vị Trí Ở Các Cung
- Miếu địa (tốt nhất) ở các cung: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân. - Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất. - Đắc địa (tốt vừa) ở các cung Sửu, Mùi. - Bình hòa (bình thường) ở các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Tử Vi miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình cao lớn, hồng hào. Còn Tử Vi bình hòa thì thân hình vừa phải.
Tính Tình
- Miếu địa: Thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn, uy nghi, sáng tạo, lãnh đạo. - Vượng địa: Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong. - Đắc địa: Thông minh, thao lược, can đảm, liều lĩnh. - Bình hòa: Kém thông minh, nhân hậu.
Công Danh Tài Lộc
Nếu Tử Vi ở các vị trí miếu, vượng hay đắc địa thì không cần các phụ tinh tốt khác đi kém theo cũng vẫn có sự phú quý và quyền uy. Tuy nhiên nếu được các sao sau đây đi kèm thì sự phú quý càng chắc chắn hơn.
- Có Thất Sát đồng cung: Thất Sát như lưỡi gươm báu, đi chung với Tử Vi càng làm cho Tử Vi có thêm uy lực hơn.
- Thiên Phủ đồng cung hay hội chiếu: Thiên Phủ là kho trời nên càng có ý nghĩa dồi dào về tài lộc khi đi kèm với Tử Vi.
- Thiên Tướng đồng cung: Thiên Tướng có nghĩa là tướng Trời, cho nên Tử Vi có Thiên Tướng đi kèm như vị vua có tướng tài bên cạnh phò tá nên càng thêm vững chắc trên đường lãnh đạo chỉ huy.
- Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt: Đây là các sao phụ như quần thần theo hộ giá cho vị Vua. Các sao này sẽ khiến cho Tử Vi bảo đảm thêm phần tài lộc, công danh. Sự hội tụ của các sao này chung quanh Tử Vi làm nổi bật khả năng lãnh đạo, chỉ huy của sao vua.
Ở vị trí bình hòa, Tử Vi cần phải có các sao tốt đi kèm mới bảo đảm được sự phú quý hưng vượng.
Tử Vi gặp các sao xấu như Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì diễn tả một tính nết xấu xa và thường gặp tai nạn trong cuộc đời. Nếu là nữ mệnh thì tính tình đê tiện, dâm đãng, khắc hại chồng con tuy là có tiền bạc khá giả. 
Phúc Thọ Tai Họa
Tử Vi là một phúc tinh nên còn đem đến phúc đức cho cung tọa thủ. Đặc biệt Tử Vi chế giảm được hung tính của hai sao Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy nhiên năng lực cứu giải tai nạn của Tử Vi sẽ bị kém đi rất nhiều khi đóng tại các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu. Thêm nữa nếu Tử Vi bị hai sao Tuần hoặc Triệt án ngữ hay sát tinh xâm phạm thì càng bất lợi hơn. Trường hợp này đương số sẽ gặp phải những nghịch cảnh trong cuộc đời như: 
- Sớm mồ côi cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh góa bụa, cô độc. - Khắc anh chị em hay khắc chồng con, hay vợ con. - Thường bệnh hoạn hay yểu tử. - Phải tha phương lập nghiệp. - Gặp nhiều cảnh hiểm nguy trong cuộc đời. - Nghèo khổ, xui xẻo. - Công danh trắc trở, khổ nhọc cả đời. - Nữ mệnh thì phải chịu cảnh muộn chồng hay vợ lẻ.
Riêng trường hợp Tử Vi ở cung Mão hoặc Dậu và đồng cung với Tham Lang thì Tử Vi tượng trưng cho sự bi quan, yếm thế, thường gặp nghịch cảnh và luôn có chí xuất trần. Nếu đương số đi tu thì sẽ đạt được sự thanh nhàn và phúc đức. 

Những Bộ Sao Tốt
- Tử Vi, Thiên Phủ tọa thủ (ở ngay cung Mệnh) hay giáp Mệnh (ở hai bên cung Mệnh). - Tử Vi, Thiên Tướng. - Tử Vi, Thất Sát. - Tử Vi, Vũ Khúc - Tử, Phủ, Vũ, Tướng - Tử Vi và các sao tốt Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc, Long, Phượng, Quang, Quý, Đào, Hồng v.v... - Tử, Phủ, Kỵ, Quyền hay Tử, Sát, Quyền ở Tỵ hoặc Hợi.
Nhất là cách Tử Phủ Vũ Tướng có kèm các sao tốt kể trên. Đây là cách đế vương, báo hiệu một sự nghiệp lãnh đạo to lớn của một vị nguyên thủ quốc gia. Nếu không gặp sát tinh thì ngôi vị vững vàng, dễ tạo quyền bính trong thời bình. Ngược lại, nếu bị Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh đắc địa đi kèm thì sẽ đắc vị trong thời ly loạn, chiến tranh hoặc đất nước gặp cảnh gay go thử thách cần phải có sự tranh đấu với nhiều khó khăn, trở ngại.
Những Bộ Sao Xấu
- Tử Vi gặp Tuần hay Triệt thì trong đời thường gặp tai nạn, dù có chí lớn cũng không thể mưu thành đại sự được.
- Tử Vi, Thất Sát gặp Tuần hay Triệt thì mưu sự bất thành, chỉ có hư danh và hay gặp tai nạn trong cuộc đời.
- Tử Vi ở các cung Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) diễn tả một con người bất trung, bất nghĩa, bất hiếu vì khi Tử Vi đóng ở các vị trí này sẽ gặp Thiên La, Địa Võng (Thìn, Tuất) và có Phá Quân đi kèm. Nếu có được cát tinh đi kèm thì mới có uy quyền và danh tiếng. Tại các vị trí này, nếu Tử Vi gặp cả sao tốt lẫn sao xấu thì sẽ là người rất đặc biệt có nhiều mưu lược, và thủ đoạn, dám làm những việc bất nhân, bất nghĩa nhưng vẫn sử dụng được cả người tốt lẫn người xấu.
- Nếu Tử Phá thiếu các sao tốt thì con người bất nhân, bất nghĩa, độc ác, khát máu, tham nhũng và thường bị thất bại nặng hoặc phải phá sản một lần trong đời.
- Tử Vi có Tham Lang đồng cung biểu diễn một cuộc đời của một vị tu hành, xuất thế. Nhất là khi có hai sao Địa Không và Địa Kiếp thì điều này càng chắc chắn hơn nữa.
- Tử Vi gặp Không, Kiếp, Đào, Hồng là sổ yểu tử, chết sớm.
- Tử Vi gặp Kình, Đà, Quyền, Lộc là người có quyền lực danh vọng nhưng lòng dạ hung hiểm, độc ác, vô đạo, bất nhân. 

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phụ Mẫu
Tử Vi ở các cung Ngọ, Tý, hay có thêm Thiên Phủ, hoặc Thất Sát đồng cung thì cha mẹ giàu sang, sống lâu, giúp đỡ được con cháu, và có di sản để lại cho con cái.
Riêng trường hợp Tử Sát hay Tử Tham tại cung Phụ Mẫu thì cha mẹ bất hòa với nhau hay cha mẹ bất hòa với con cái. Trường hợp cung Phụ Mẫu có Tử Vi và Phá Quân đồng cung thì người con khắc cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh mồ côi, hoặc phải sống xa cha mẹ, hạnh phúc gia đình bị kém. Gặp trường hợp này cần phải xét thêm hai sao Thái Dương (cha) và Thái Âm (mẹ) để biết rõ thêm sự tốt xấu nghiêng về cha hay mẹ. 

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phúc Đức
Những trường hợp tốt của sao Tử Vi với cung Phúc Đức là: - Ở Ngọ hay Tý. Tốt nhất là ở Ngọ. - Thiên Phủ hay Thiên Tướng đồng cung. -Thất Sát đồng cung. Nhưng trường hợp này vì gặp sát tinh nên phải xa họ hàng hay sống cuộc đời lưu lạc tha phương mới tốt.
Những trường hợp xấu cho cung Phúc Đức có sao Tử Vi là: - Tử Vi, Phá Quân đồng cung. - Tử Vi, Tham Lang đồng cung. - Tử Vi gặp các sao xấu, nhất là Không, Kiếp, Kình, Đà, Linh, Hỏa. Đây là trường hợp bất lợi nhất.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Điền Trạch
Tương tự như cung Phúc Đức, nếu cung Điền Trạch có sao Tử Vi và ở vào các trường hợp đã ghi cho cung Phúc Đức thì đương số sẽ có nhà cửa rộng lớn, tài sản phát triển dồi dào, có thể do thừa hưởng gia tài hoặc tự tay tạo dựng sự nghiệp vẻ vang. 
Nếu cung Điền Trạch có Tử Vi mà gặp phải các sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì không giữ được của dù có gia sản lớn lao, hoặc phải chịu cảnh sa sút dần và có thể đi đến phá sản khi có Phá Quân đồng cung. Đặc biệt nếu có thêm các hung tinh khác thì có thể đi đến khánh tận và chịu cảnh vô sản, nghèo khổ. 

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Quan Lộc
Những bộ sao tốt và xấu cho sao Tử Vi ở cung Mệnh đều có thể áp dụng cho cung Quan Lộc. Tốt nhất là Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với ba chính tinh Thiên Phủ, Thiên Tướng và Thất Sát. Nếu cung Quan Lộc có Tử Vi đi với Thiên Tướng thì con người độc tài, hay tranh giành quyền lực. Tử Vi đi với Thất Sát thì có năng khiếu về võ nghiệp. Nếu đồng cung với Phá Quân và Tham Lang thì sẽ gặp sự thăng trầm, tai họa trong đường công danh, quan lộc, để cuối cùng phải chuyển qua doanh nghiệp, thương mại. 

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Thiên Di
Các cách Tử Vi ở Ngọ, Tý hay Tử Phủ, Tử Tướng, Tử Sát đều tốt. Có nghĩa là đương số sẽ gặp hoàn cảnh xã hội thuận lợi tốt đẹp, cuộc sống luôn gặp môi trường thuận tiện. Đây là một con người sinh ra đã gặp mọi thời cơ thuận lợi, tốt đẹp, nhiều người giúp đỡ, thường giao tiếp với bậc quyền quý, cao sang, càng ra ngoài xã hội nhiều thì cuộc đời càng may mắn, luôn được nhiều người tín nhiệm giúp đỡ.
Trái lại nếu Tử Vi ở cung Thiên Di mà gặp các sao Phá, Tham hay các sát tinh khác thì thường gặp nhiều nghịch cảnh xã hội, thường bị người ngoài dèm pha, hãm hại, có thể chết tha phương hoặc bị ám sát. 
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tật Ách
Tử Vi là sao vua và là phúc tinh nên đóng ở cung Tật Ách có năng lực giải trừ mọi tai nạn, bệnh tật, hiểm họa trong đời. Đây là sao cứu giải hoạn nạn mạnh nhất trong các sao và có hiệu lực cứu giải như Thiên Phủ, Thiên Lương. Trong trường hợp cung Tật Ách có sao Tử Vi và đồng cung với sao Phá Quân thì năng lực giải cứu của sao Tử Vi cũng không bị suy giảm.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tài Bạch
Tử Vi cũng là một sao chủ về tài bạch cho nên Tử Vi đóng ở cung Tài Bạch mà được miếu địa hay vượng địa và không gặp Tuần hay Triệt án ngữ thì sẽ bảo đảm được một gia sản tiền bạc đồi dào.
Thêm nữa, nếu sao Tử Vi đi kèm với các sao chủ về tiền bạc, của cải như Thiên Phủ, Vũ Khúc thì càng thịnh vượng hơn nữa. Gặp những trường hợp này, đương số sẽ có trách nhiệm giữ về tiền bạc, kho lẫm như ngân hàng hay tài chánh. Nếu đồng cung với Thất Sát cũng sẽ làm giàu dễ dàng nhanh chóng. Nhưng nếu cung Tài Bạch ở Tý thì sẽ kém hơn các trường hợp trên. Nếu Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì trong đời sẽ trước nghèo sau giàu nhưng cũng có lần phá sản. Đồng cung với Tham Lang thì tài sản sư nghiệp tầm thường, dù có của cải gia sản thì cũng sẽ bị sa sút dần. Cuối cùng nếu Tử Vi ở cung Tài Bạch mà gặp các sát tinh nặng khác thì trong đời ít nhất cũng có một lần bị phá sản.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tử Tức
Tử Vi ở cung Tử Tức thì đương số sẽ có cả con trai lẫn gái. Nếu miếu địa, vượng địa hay đắc địa hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thiên Tướng thì nhiều con cái và con cái đều khá giả. Nếu Tử Vi đi với Thất Sát thì khó nuôi con, nhất là gặp thêm các sao xấu thì có thể ít con hoặc phải chịu cảnh hiếm muộn. Nếu cùng với Phá Quân hay Tham Lang thì ít con cái và con sẽ xung khắc với cha mẹ. 

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phu Thê
Tốt nhất là cung Phu Thê ở Ngọ và có Tử Vi đồng cung với Thiên Phủ. Trường hợp này diễn tả một gia đình vợ chồng tương đắc tâm đầu ý hợp, luôn có hòa khí và chung thủy trong đời sống vợ chồng.
Cung Phu Thê có Tử Vi và Thiên Tướng thì cả hai vợ chồng đều rất can trường cứng cỏi. Vì vậy vợ chồng có thể gặp cảnh xích mích, bất hòa nhưng cuộc sống gia đình vẫn tốt đẹp. Thông thường thì vợ hay chồng sẽ là người con trưởng trong gia đình, nếu không là con trưởng thì cũng sẽ đoạt trưởng, nghĩa là có quyền quyết định trong gia đình và được các anh chị em nể phục, kính trọng.
Nếu Tử Vi gặp Sát hay Tham thì muộn lập gia đình mới tốt. Nếu gặp Phá thì vợ chồng thường bị hình khắc chia ly. Nếu gặp Tham thì chỉ sự bất hòa vì Tham Lang là sao chỉ về sự ghen tuông, chiếm hữu. 
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Huynh Đệ
Cung Huynh Đệ có sao Tử Vi thì đương số có anh cả hoặc chị cả vì sao Tử Vi chỉ về người đứng đầu trong anh chị em. Trường hợp cung Huynh Đệ có sao Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thất Sát thì gia đình có đông anh em, khá giả và hòa thuận. Nếu có Thiên Tướng đi kèm thì anh em tuy khá giả nhưng hay có sự bất hòa vì Thiên Tướng là sao chủ về sự cạnh tranh, cứng cõi, ương ngạnh. Trường hợp Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì sẽ có anh em dị bào, cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha và anh em ruột thường hay bất hòa. Nếu Tử Vi đi với Tham Lang thì anh em ly tán, nghèo khổ, vất vả và nếu gặp các sát tinh khác thì anh em có thể có người bị tử nạn, hao hụt lần lần hay trong anh chị em có người là phần tử xấu trong xã hội. 
Tử Vi Khi Vào Các Hạn
Sao Tử Vi là đế tinh, không có vị trí hãm địa nên khi vào các đại hạn, hay tiểu hạn tại các cung miếu, vượng hay đắc địa hoặc đồng cung với các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc thì rất tốt mọi việc đều may mắn, thuận lợi. Nếu gặp Khôi, Việt thì càng vẻ vang hơn. Riêng các vị trí bình hòa như Tý, Hợi, Mão, dậu thì năng lực sẽ kém tốt hơn, nhưng nếu gặp bất lợi thì khó tránh khỏi.
Sao Tử Vi gặp các sát tinh Không, Kiếp, Kỵ, Hình thì bị đau ốm, bệnh hoạn hoặc mất của hay bị kiện tụng. Gặp Kình, Đà, Kỵ thị bị đau ốm hay bị lừa gạt. Đặc biệt khi Tử Vi gặp Tuần và Triệt ở cả đại hạn lẫn tiểu hạn lại thêm Kình, Đà, Không, Kiếp (chưa kể các nguyệt hạn, nhật hạn và thời hạn) như một vị vua mà bị nhiều quân phiến loạn vây hãm thì tính mạnh có thể bị lâm nguy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Tử vi

Chuông Gió (Phong linh) hóa giải hung khí

Chuông gió có tác dụng tiêu tán, hóa giải hung khí án ngữ hoặc chiếu đến vị trí nào đó trong không gian. Biến hung thành cát. Đem sự an lành và may mắn khi căn nhà không may bị phạm những cấm kỵ phong thủy.
Chuông Gió (Phong linh) hóa giải hung khí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tác dụng

Chuông gió Kỳ Lân có lực hoá sát khá mạnh. Những hình sát mà nó hoá giải là Thương Sát, Pháo Đài Sát.

Chuông gió 5 thanh có tác dụng đẩy lùi khí xấu đối với loại sao chiếu mạng hàng năm.

Chuông gió 6 và 8 thanh dùng để vừa trấn khí xấu, tăng cường năng lượng, vừa chiêu tài lộc.

Cách dùng

Có thể treo, đặt ở cửa chính hoặc cửa sổ, nên đặt chỗ có gió thì càng tốt vì âm thanh chuông gió phát ra sẽ có tác dụng hoá giải khí xấu rất hiệu quả. Khi dùng nên kết hợp với quả cầu đa diện treo và xâu tiền ngũ đế.

Tuy nhiên cần liên hệ với các chuyên gia phong thủy để được khai quang và đặt đúng ngày giờ, đúng phương vị và hướng thì mới thực sự hiệu quả.

ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuông Gió (Phong linh) hóa giải hung khí

Ánh sáng văn phòng có ý nghĩa gì trong phong thủy?

Việc điều tiết ánh sáng hợp phong thuỷ trong văn phòng sẽ tạo được niềm hứng thú trong công việc, là một trong những giải pháp phong thủy để đẩy nhanh sự thành công trong đường công danh sự nghiệp của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc điều tiết ánh sáng hợp phong thuỷ trong văn phòng là điều hết sức lưu ý đối với người quản lý văn phòng. Nếu biết cách bố trí, thiết kế nội thất văn phòng với ánh sáng hợp lý, bạn sẽ tạo được niềm hứng thú trong công việc của mình và nhân viên trong công ty  hơn.

Một trong những giải pháp tối ưu mà nhà quản lý nên vận dụng đó là tận dụng tối đa nguồn ánh sáng tự nhiên, bằng cách trổ cửa sổ, cửa chính ở vị trí hợp lý để ánh sáng được phân bổ đều khắp văn phòng.

Tận dụng ánh sáng tự nhiên cho văn phòng

Tận dụng ánh sáng tự nhiên cho văn phòng


Tuy nhiên, giải pháp này cũng có hạn chế là ánh sáng từ tự nhiên phải tuân theo quy luật tự nhiên: là sáng vào ban ngày, tối vào ban đêm. Do đó, để ánh sáng văn phòng luôn được điều tiết thì bạn nên kết hợp hài hòa giữa hai nguồn sáng tự nhiên và nhân tạo.

Hiện nay, hầu hết văn phòng đều thiết kế cửa kính để đảm báo yếu tố thẩm mỹ, vì thế có thể dùng rèm cửa để hạn chế ánh nắng gay gắt của mặt trời vào buổi trưa. Ngoài ra, cần bố trí thêm nguồn sáng từ đèn trần, ánh sáng nhẹ dịu lan tỏa từ bóng đèn trần sẽ giúp nhân viên giảm bớt cảm giác chói mắt khi làm việc.

Bố trí ánh sáng phòng họp, phòng hội nghị

Bố trí ánh sáng phòng họp, phòng hội nghị


Khi lắp đặt hệ thống chiếu sáng để điều tiết nguồn sáng trong văn phòng, nên căn cứ chức năng của từng phòng mà bố trí sao cho hợp lý. Ví dụ trong phòng hội nghị ánh sáng nên được bố trí tập trung vào bàn hội nghị nhằm tạo cảm giác tập trung trong cuộc họp.Nên sử dụng các thiết bị đèn Led bố trí đầy đủ khắp phòng và nên bố trí thêm một số đèn follow hoặc đèn chiếu sáng trên trần nhà để chiếu sáng cho người thuyết trình thêm nổi bật và mọi người sẽ tập trung sự chú ý hơn.Việc bố trí thêm một số đèn Led nhỏ trên khu vực màn hình chiếu sẽ giúp cho khu vực màn hình chiếu có ánh sáng nhẹ giúp dễ dàng nhìn thấy màn hình để mọi người theo dõi cuộc họp dễ dàng hơn.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng văn phòng có ý nghĩa gì trong phong thủy?

Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Bạch Lạp Kim (Tuổi canh Thìn và Tân Tỵ), Bạch Lạp Kim được hiểu như là kim loại trong lò nung rất thích hợp với Lô Trung Hỏa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Bạch Lạp Kim có ý nghĩa như thế nào?

Bạch Lạp Kim (Tuổi canh Thìn và Tân Tỵ), Bạch Lạp Kim được hiểu như là kim loại trong lò nung rất thích hợp với Lô Trung Hỏa tức lửa trong lò dùng để luyện kim loại. Tuy nhiên tuổi Canh Thìn gặp nó mà không có thủy trợ giúp thì gia chủ nghèo và chết yểu. Tuổi Tân Tỵ gặp lại là một điều Qúy. Bạch Lạp Kim thích gặp Tuyền Trung thủy và Đại Khê Thủy thì đều là cách quý. Nếu gặp Giản Hạ Thủy, quan quý đều có. Nếu gặp trường lưu thủy không quý thì cũng giàu. Trong lá số tử vi cung mệnh không nên gặp nhiều Mộc, vì kim này là kim khí yếu, không thể khắc chế được Mộc. Nhưng nếu trong lá số tứ trụ mà gặp Hỏa vô khí, lại cần phải có Mộc để tương sinh như thế mới có thể Lộc mã quý nhân xuất hiện. Nếu bản mệnh là Bạch Lạp Kim ngày sinh và giờ sinh gặp Tân Tỵ, Ất Tỵ đây gọi là cách Hổ Gầm Gió.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Mơ thấy mình đi may áo là sắp kết hôn?

Mơ thấy mình đi may áo báo hiệu bạn sắp kết hôn? Giải mã giấc mơ thấy áo sơ mi, mơ thấy quần áo và đi may áo
Mơ thấy mình đi may áo là sắp kết hôn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cho dù hiện thực không xảy ra như giấc mơ nhưng mỗi giấc mơ đều ẩn chứa những ý nghĩa riêng, nó dự báo một điềm gì đó, có thể là cát mộng nhưng cũng có thể là điềm hung.


Lap tuc to chuc le ket hon sau khi… mo thay minh di may ao hinh anh
Ảnh minh họa
Giải mã giấc mơ thấy mình đi may áo: 
  Mơ thấy mình đi may áo sơ mi mới  là gia đình sắp tổ chức hôn lễ.

 
Mơ thấy mình mời bạn mua rất nhiều áo sơ mi mới là trong gia đình có nữ nhân sắp xuất giá.

 
Mơ thấy mình mua áo sơ mi mới là ngụ ý đột nhiên bạn sẽ được đi du lịch đường dài.

 
Tù nhân mơ thấy bản thân mình mặc áo sơ mi mới là điềm lành, tù nhân ấy sắp được thả.

 
Người bệnh mơ thấy mình mặc áo sơ mi mới là dự báo thân thể sẽ hồi phục.

 
Mơ thấy mình xé áo sơ mi ám chỉ tinh thần của bạn đang vô cùng bối rối và lạc lõng.

 
Thiếu nữ mơ thấy mình mình ặc áo sơ mi bằng lụa là sắp được mời dự đám cưới.

 
Mơ thấy mình mặc áo rách ám chỉ túi sắp rỗng không.


Những điều bí ẩn chứa đựng trong chiếc hộp
Chiếc hộp là biểu tượng của sự nhẹ nhàng, chau chuốt. Nó tượng trưng cho cá tính và đời sống nội tâm của bạn. Đôi khi, chiếc hộp còn là vật đem lại may mắn cho
Đàn ông mơ thấy mình mặc áo lụa là sắp được cưới một người vợ thiên kim tiểu thư. 

 
Mơ thấy mình mặc áo lông cảnh báo sức khoẻ gặp chút trở ngại.

 
Mơ thấy mình bán áo là sắp được mời cơm.

 
Mơ thấy mình tặng áo cho người yêu là sắp được gặp người ấy.

 
Mơ thấy mình tặng áo cho người khác là ngụ ý sắp được vinh dự lớn.
 
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mình đi may áo là sắp kết hôn?

Xem bói chỉ tay để biết tài phú và thành công trên bàn tay bạn

Xem bói chỉ tay để biết tài phú và thành công trên bàn tay bạn,Bàn tay của con người có thể thấy được sự giàu sang của một người,
Xem bói chỉ tay để biết tài phú và thành công trên bàn tay bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người bình thường đều cho rằng may mắn chính là có tài vận, nhưng thực ra hai điều này có sự khác biệt. Bàn tay của con người chỉ có thể cho thấy được sự giàu sang của một người.

Ví như, người có đôi bàn tay dày dặn sẽ thông qua nỗ lực của  bản thân mà có được sự giàu sang phú quý, còn người có đôi bàn tay mềm mại thì  thiên về hưởng thụ, cụ thể còn phải xem một vài đặc điểm đặc trưng mới có thể  khẳng định được, mời các bạn cùng xemboituong tìm hiểu…

Mối quan hệ giữa ngón tay và tài phú

Để hình dung một người tiêu tiền hoang phí vô độ, dân gian thường dùng các câu nói như “tiêu tiền như nước”, tiền lọt qua kẽ tay, thực ra thông qua bàn tay chúng ta có thể nhận biết được rất nhiêu thông tin liên quan đến tiền bạc. Trong thuật xem bói chỉ tay chỉ ra rằng  ngón tay trỏ thẳng là biểu thị danh lợi đạm bạc, không bị tiền bạc khống chế. Ngón trỏ nghiêng lệch về phía ngón tay cái, biểu thị là người thích đầu tư mạo hiểm, có thể trở thành thương gia chuyên đầu tư mạo hiểm trong thương giới. Ngón trỏ tựa sát vào ngón giữa, biểu thị là người xử lý sự việc chu đáo, cẩn thận, nếu như khoảng cách giữa hai ngón tay này sát nhau, biểu thị người này làm bất cứ việc gì cũng đều phải có sự chắc chắn, không đầu tư mạo hiểm. Ngón giữa khá ngắn, biểu thị là người danh tiếng kém, trong lĩnh vực tiền bạc họ không đáng tin cậy.

– Gò Kim tỉnh có hình sao, danh tiếng cao

Thuật xem bói người xưa đúc kết lại  những người có bàn tay này cho thấy thành công và tiền bạc cùng nhau tìm đến, cho nên người có bàn tay như vậy thường có vận khí tốt, cuộc sống hôn nhân cũng mỹ mãn, hơn nữa họ còn có danh tiếng nhất định trong xã hội.
Đường chỉ tay hình ngôi sao xuất hiện đơn độc trên gò Thái dương, cho thấy là người có tài năng bẩm sinh siêu phàm, hơn nữa có thế dựa vào đó đế đạt được danh tiếng và tiền bạc.

– Đường Công danh có hình sao, tiền bạc đến bất ngờ

Bàn tay xuất hiện hình sao cho thấy đây là người có tài năng (như hình 1), và có thế đạt được thành công, nhưng nếu hình sao xuất hiện trên đường Công danh, thì cho thấy là sẽ gặp được vận mav vô cùng tốt.

– Ngón vô danh dài hơn ngón tay gỉữa, là tay cờ bạc
Người có ngón vô danh dài, đặc biệt là ngón vô danh này còn dài hơn ngón giữa (như hĩnh 2), là bàn tay của kẻ cờ bạc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói chỉ tay để biết tài phú và thành công trên bàn tay bạn

Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Các ông thầy tướng thấy đôi mắt phụ nữ có đuôi là thở dài: đàn bà đa tình là họa.
Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mẹ chồng xem mắt con dâu, thấy long lanh ướt, lúc nào cũng miệng cười mắt cười cũng thầm lo: nó đa tình thế kia chỉ khổ con mình. Chả biết ai khổ hơn ai, đàn bà đa tình và những người xung quanh họ.

Mình biết một chị đã qua tuổi 50, mắt lá răm đuôi dài quét hết dũng khí của đàn ông đối diện, 4 lần đò, giờ vẫn lênh đênh vì tội đa tình.
Một chị nữa cười nhiều mà mắt như loáng nước, đen ánh lên với vòng chân mày mượt gọn, sắc sảo thế nên có cháu ngoại rồi vẫn cô đơn.
Mình cũng biết một em xinh như mơ, chân đủ dài, mắt phượng không cần trang điểm vẫn cứ lên hình ngọt ngào “thưa quý vị và các bạn” mở đầu một ngày mới. Đàn ông liêu xiêu vì em không tính hàng đơn vị.. qua tuổi 35 vẫn tự lái xe, tự mua thuốc uống khi ốm, vì tự biết mình đa tình, dính vào ai cũng khổ mình khổ người..

Nhiều người bảo đàn bà đa tình như lũ trẻ háu ăn đi tiệc buffet, lấy đầy đĩa đủ mọi món nhưng vẫn không thấy đủ. Mình thấy so thế chẳng đúng tẹo nào. Bọn trẻ con háu ăn lấy về nhưng không ăn hết, đàn bà đa tình không phải ai cũng muốn sưu tập các vệ tinh để tạo club. Đa tình thì dễ xao xuyến, dễ yêu và dễ bị cuốn đi…và khi cuốn đi rồi, khó biết dừng lại. Chỉ vậy thôi.

Đàn ông thích đàn bà đa tình hay không chẳng biết, chỉ biết rằng giai nào dám chọn đàn bà đa tình làm vợ chắc chắn phải đầy bản lĩnh, tự tin (những kẻ bạc nhược, tặc lưỡi….hên xui, biết nàng đa tình, sợ mà vẫn lấy rồi lấy về để dằn vặt thì không tính là đàn ông)! Đàn ông giỏi giang kiểu này mình rất nể, có một thằng bạn mình cũng dám chọn một em đa tình, nó bảo: Nàng đa tình nhưng nàng yêu mình là đủ. Khi nào nàng nhảy sang yêu thằng khác thì .. tính tiếp!

Nói đàn bà đa tình như than hồng không thể bọc năm bảy lần giấy, thả vào nước là nguội tanh cũng sai. Đàn bà đa tình giống một thanh kim loại tích điện, có thể làm sôi mọi loại chất lỏng từ đắng đến cay, từ ngọt đến mặn, và dĩ nhiên là làm tan chảy và bay hơi cả nước đá lẫn nước lọc..Năng lượng ấy mà dồn cho những đam mê nghề nghiệp mang thiên hướng văn học, nghệ thuật thì .. quá ổn.

Cá nhân mình chỉ thấy đàn bà đa tình khổ, không phải vì chịu đựng ánh mắt nghi ngờ của người đàn ông bên cạnh hay đàm tiếu của những người xung quanh, mà khổ vì những nồng nàn đôi khi không được thổi bùng lên thành lửa. Vì những nồng nàn của đàn bà đa tình nhiều khi không phải …yêu đương mà chỉ là những đam mê .. phi vật thể! Không biết giải thích vụ này thế nào….

Không chỉ ngoài đường, trong nhà, đàn bà đa tình mới bị “kỳ thị”. Công sở có lẽ là nơi khó khăn nhất cho họ. Đàn bà đa tình làm sếp thì..cũng căng người chịu thị phi. Giỏi cỡ nào, thông minh nhạy bén cỡ nào cũng chỉ được nhìn nhận là nhờ đa tình mà thành hay bại! Còn nữ nhân viên đa tình có chăng chỉ được lòng sếp nam trăng hoa trong ngắn hạn, đa phần phải tự bảo vệ mình trước đồng nghiệp và sếp nữ đoan trang chỉnh chu không bao giờ cười hở răng. Với nhóm các phụ nữ đặc biệt đi đúng lề này thì đa tình hay lẳng lơ cũng là một, đều là dạng tiềm ẩn nguy hiểm phá tan hạnh phúc gia đình của người khác. Kiểu cướp trên giàn mướp mà mắt vẫn đẫm lệ đầy xót xa…và nhóm cực đoan này thường quy kết: “đa tình rồi cũng bạc tình”, một cái kết hết sức phi lý mà vẫn được tán đồng, nhất là sau các ví dụ thảm thương như đại gia đi Lexus hay anh Hoàng Hùng báo NLĐ.

Trong khi logic mà nói, đa tình, giàu tình cảm, là thái cực đối lập với bạc tình.

Và có lẽ để tự bảo vệ mình mà đàn bà đa tình dường như ngày càng ít đi..Những ướt át xao xuyến liêng biêng dễ dàng say đắm nhường chỗ cho chừng mực và tỉnh táo. Phải biết dừng ở đâu chứ!

Đàn bà than thở: đa tình chỉ chuốc khổ tự thân….Nắng chang chang, mình lại vừa thấy một em đa tình từ chối lời hẹn gặp giai thú vị, để phi ra nắng gặp khách hàng tiềm năng là một chị rất ghét thói đa tình…

Sao đời không bao dung để thấy đàn bà đa tình là phúc chứ đâu phải họa nhỉ. Hồn nhiên đa tình để yêu ghét tự tâm, chân thành và nồng cháy thì có gì mà sai??

Nhiều anh đàn ông bảo "đàn bà đa tình" cũng tốt thôi, nhưng phải nói rõ là đa tình nhưng chỉ yêu chồng và con mình thôi, không yêu chồng người khác…. làm khó nhau quá…Các anh ấy bảo đa tình, rồi sẽ đa nhân tình thôi!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Tướng chỉ tay đường đáng kể khác –

Vòng Kim tinh ở giữa hai ngón trỏ và ngón giữa, đôi khi nó chạy sang cả ngón nhẫn. + Vòng Kim tinh - Sao Kim chỉ ra rằng con người giàu cảm xúc và dục tính cao nên nó tràn dài như một đường tâm tính phụ đó là dâu hiệu cuồng dâm ở cả hai phái. + Nếu c
Tướng chỉ tay đường đáng kể khác  –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng chỉ tay đường đáng kể khác –

Giãi mã điềm báo giật môi chính xác nhất –

Trong cuộc sống thường ngày chúng ta vẫn thường gặp rất nhiều hiện tượng khác nhau như giật mắt trái, giật mắt phải .... và trong đó có cả giật môi. Vậy giật môi có điềm báo gì không? Mặt khác, đối với con người Việt Nam vấn đề tâm linh luôn được đán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống thường ngày chúng ta vẫn thường gặp rất nhiều hiện tượng khác nhau như giật mắt trái, giật mắt phải …. và trong đó có cả giật môi. Vậy giật môi có điềm báo gì không?

Mặt khác, đối với con người Việt Nam vấn đề tâm linh luôn được đánh giá cao. Bởi lẽ đó là điều hiển nhiên, là giá trị của cuộc sống có truyền thống từ ngàn đời xưa để lại. Dựa vào những kinh nghiệm từ xưa đến nay, con người có thể biết được tương lai, số phận, sự may rủi… thông qua một vài điềm báo trong cuộc sống. Vì thế khi gặp phải những điềm báo như là diem bao giat moi thì theo phản xạ chúng ta có những lo lắng nhất định. Và để giải quyết những lo lắng ấy hãy cùng chúng tôi giải mã điềm báo giật môi. Có những bạn sẽ có câu trả lời giật môi trái, cũng có bạn thì giật môi phải tất cả sẽ được giải đáp trong bài viết dưới đây.

Nội dung

  • 1 Điềm báo giật môi nói lên điều gì?
    • 1.1 Giật môi từ 23h đến 1h
    • 1.2 Giật môi từ 1h đến 3h
    • 1.3 Giật môi từ 3h đến 5h
    • 1.4 Giật môi từ 5h đến 7h
    • 1.5 Giật môi từ 7h đến 9h
    • 1.6 Giật môi từ 9h đến 11h
    • 1.7 Giật môi từ 11h đến 13h
    • 1.8 Giật môi từ 13h đến 15h
    • 1.9 Giật môi từ 15h đến 17h
    • 1.10 Giật môi từ 17h đến 19h
    • 1.11 Giật môi từ 19h đến 21h
    • 1.12 Giật môi từ 21h đến 23h

Điềm báo giật môi nói lên điều gì?

Nếu bạn bắt gặp phải hiện tượng môi bị giật liên tục trong một ngày mà bình thường không bị, có thể là môi dưới bị giật nhưng cũng có thể là môi trên bị giật. Một số quan niệm trong dân gian cho rằng, các hiện tượng bị giật môi liên tục hay giật mắt…. có thể là một điềm gì đó báo trước sẽ xảy ra từ 24 đến 48 giờ sắp tới. Và bạn thắc mắc không rõ điềm báo giật môi là gì? Là lành hay giữ, hên hay xui ? Câu trả lời sẽ có ngay sau đây.

Theo quan niệm tâm linh, hiện tượng giật môi sẽ xảy ra ở một số khung giờ nào đó báo trước một điềm sẽ đến:

Giật môi từ 23h đến 1h

Giật môi từ 23 h khuya đến 1 giờ thì bạn sắp gặp chuyện bất ngờ liên quan đến gia tài

Giật môi từ 1h đến 3h

Giật môi từ 1 h đến 3 h điềm báo sắp có nhiều niềm vui từ con cái ở xa

Giật môi từ 3h đến 5h

Giật môi từ 3 h đến 5 h báo rằng gia đình dễ có một vài chuyện không vui sẽ xảy ra, gia đình lục đục, chuyện bé xé ra to, vì vậy hãy chú ý

Giật môi từ 5h đến 7h

Giật môi từ 5h – 7h báo hiệu có người cần bạn giúp đỡ

Giật môi từ 7h đến 9h

Giật môi từ 7h – 9h là điềm báo nhắc nhở con cái người thân trong gia đình đi lại chú ý cẩn thận giữ an toàn

Giật môi từ 9h đến 11h

Giật môi từ 9h – 11h là điếm báo sắp có người đến nhờ vả bạn, hãy giúp đỡ họ nếu điều đó là cần thiết

Giật môi từ 11h đến 13h

Giật môi từ 11h – 13h  với điềm báo bạn có người dèm pha nói xấu sau lưng

Giật môi từ 13h đến 15h

Giật môi từ 13h – 15h báo hiệu rằng có số may mắn, thử làm tờ vé số xem sao biết đâu bất ngờ sẽ đến

Giật môi từ 15h đến 17h

Giật môi từ 15h – 17h điềm báo bạn sắp có tài lộc

Giật môi từ 17h đến 19h

Giật môi từ 17h – 19h với điềm báo bạn chuẩn bị phải hao tài, tốn của

Giật môi từ 19h đến 21h

Giật môi từ 19h – 21h thì bạn sắp có tin vui, gia đình đoàn tụ vui vẻ

Giật môi từ 21h đến 23h

Giật môi từ 21h – 23h với điềm báo lành, bởi thành công sắp tới, tiền bạc ùn ùn kéo tới

Bên trên là một vài điềm báo giật môi mà nhiều người quan tâm. Ngoài ra hãy chú ý, nếu hiện tượng môi bị giật liên tục, kéo dài nhiều ngày nhiều tuần thì bạn nên đến gặp bác sĩ bởi có thể là do tình trạng rối loạn vận động cơ ở vùng miệng mà ra. Hãy lưu ý nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giãi mã điềm báo giật môi chính xác nhất –

Coi tướng mặt của người dễ nhặt được tiền của

Tướng mặt người nhặt được của: Người có tướng cằm dài lại có cơ hội trúng thưởng và nhặt được rất nhiều tiền của trong năm 2015 này.
Coi tướng mặt của người dễ nhặt được tiền của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người có tướng cằm dài lại có cơ hội trúng thưởng và nhặt được rất nhiều tiền của trong năm 2015 này. 
 

1. Trán nghiêng về phía vai trái   Chủ nhân của tướng trán nghiêng về phái trái có vận may bất ngờ về tiền bạc trong năm Ất Mùi này. Theo nhân tướng học, trán phía trái là vị trí ngự trị của cung Càn (trời), phía trán bên phải là cung Khôn (đất). Khi Càn Khôn hài hòa thì mọi chuyện đều thuận lợi.    Theo đó, người có trán hơi nghiêng về một bên, đặc biệt là bên trái có công danh sự nghiệp thành đạt và dễ nhặt được tiền của hay bất ngờ thừa hưởng số tiền lớn nào đó.

Coi tuong mat cua nguoi de nhat duoc tien cua hinh anh
Ảnh minh họa

2. Tướng cằm dài   Cằm là biểu trưng của phúc lộc. Người có cằm tròn đầy thì vượng phúc khí, gặp may mắn về chuyện tiền bạc. Còn cằm nhọn mà lại gày, trơ xương thì phúc bạc, tài vận kém sắc, vận thế không thuận lợi. Người có tướng cằm dài lại có cơ hội trúng thưởng và nhặt được rất nhiều tiền của trong năm 2015 này.    Theo đó, nếu nỗ lực phấn đấu hết mình trong năm nay, bạn sẽ có một năm “bội thu”, không những kiếm được nhiều tiền mà còn có thể tạo tiếng vang lớn trong giới kinh doanh.   3. Cung Mệnh có khí sắc tốt   Vị trí cung Mệnh trên khuôn mặt cũng chính là Ấn đường (khoảng giữa hai đầu lông mày). Cung Mệnh chủ về bi hỉ, tài vận và chức vụ, địa vị cao thấp trong xã hội. Nếu cung này có khí sắc tốt, sáng sủa thì chủ nhân của nó dễ phát đạt, tài vận vượng và ngược lại.    4. Trán hẹp nhưng sáng sủa   Người có trán hẹp thường khá tỉ mỉ, làm việc thận trọng, nhát gan, ít có sức hút với người khác giới. Tuy nhiên, trong năm Ất Mùi này, đặc biệt là vào dịp cuối năm Mộc Hỏa tương sinh, vận thế rất vượng. Nếu trán sáng sủa, thần sắc tốt dễ hút tài lộc. 
5. Hai cánh mũi hẹp   Trong nhân tướng học, mũi là cung Tài Bạch, chủ về tiền tài, danh vọng. Những người có tướng mũi tròn đầy, hai cánh mũi đầy đặn thì tài phúc vượng. Tuy nhiên, những người có cánh mũi hẹp được cho là sở hữu tài phụ dồi dào, có thể đạt được số tiền nào đó một cách bất ngờ, không thể dự báo trước.   
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Hoàng Lan (Theo MGSP)    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Coi tướng mặt của người dễ nhặt được tiền của

Tướng người đàn ông giàu có

Theo nhân tướng học, mỗi nốt ruồi trên cơ thể đều có một ý nghĩa nhất định. Dưới đây là một số cách nhận biết nốt ruồi giàu sang trên khuôn mặt đàn ông.
Tướng người đàn ông giàu có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi trên mũi

Mũi còn gọi là cung Tài Bạch, 1 trong 12 cung trên mặt. Theo nhân tướng học, nếu chóp mũi (chuẩn đầu) càng đầy đặn thể hiện nguồn thu nhập của chủ nhân càng dồi dào; cánh mũi càng dày ám chỉ sự tích lũy của cải càng tăng. Tương tự, chóp mũi có nốt ruồi thể hiện tài vận rất tốt.

Nếu trên chóp mũi đột nhiên xuất hiện nốt ruồi là biểu hiện của sự phát tài. Nhưng nếu cánh mũi có nốt ruồi thì lại là biểu hiện của sự rò rỉ tài lộc (lậu tài), có tiền của nhưng không giữ được. Điều này thể hiện rõ nhất ở giai đoạn chủ nhân 44, 45 hoặc 49, 50 tuổi.

Nốt ruồi ở cằm

Theo nhân tướng học, nốt ruồi trên cằm chủ nhân về ruộng vườn, nhà cửa… là nốt ruồi tốt. Chủ nhân dễ trở nên giàu có.

Nốt ruồi ở gò má

Nốt ruồi này rất có lợi cho sự nghiệp, thể hiện chủ nhân dễ có được địa vị xã hội cao. Họ cũng là người có chí tiến thủ, có được nhiều cơ hội trong công việc và cuộc sống, có khả năng trở thành nhân vật lãnh đạo.

Nốt ruồi trên trán

Trán thể hiện cho sự phúc đức của con người. Theo hình trên, từ trái sang phải thứ tự các nốt ruồi bao gồm: nốt ruồi Điền Trạch, nốt ruồi Phú Quý, nốt ruồi Cát Tường, nốt ruồi Cát Tường, nốt ruồi Điền Trạch, nốt ruồi Quan Lộc, nốt ruồi Phú Quý.

Nếu như trên trán phía gần chân tóc xuất hiện nốt ruồi đen bóng đồng thời Thiên Đình đầy đặn thì rất tốt. Thực tế, nó cũng thể hiện chủ nhân xuất thân trong gia đình tương đối sung túc. Thế nhưng, nốt ruồi màu đen nâu thì lại không tốt.

Nốt ruồi phú quý

Đây là nốt ruồi thể hiện chủ nhân xuất thân từ gia đình giàu có hoặc dễ dàng có được chức vị nhất định. Điều đó làm cơ sở cho việc tiến thân hoặc gây dựng kinh tế.

Nốt ruồi kinh doanh

Nốt ruồi này xuất hiện ở phía mắt bên trái, gần đuôi mắt. Nó cho thấy chủ nhân là người thông minh, cẩn trọng, có tư tưởng táo bạo, giỏi đối nhân xử thế, biết nắm bắt cơ hội. Đây là điển hình của người tự lập mà trở nên giàu có.

Nguồn: Tướng người đàn ông giàu có
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người đàn ông giàu có

Các quy định vận dụng âm dương ngũ hành vào số biểu lý –

Quy định số lý mang thuộc tính âm dương Số lẻ thuộc tính dương: Động, mạnh, nóng... Số chần thuộc tính âm: Tĩnh, mềm, uyển chuyển... Số thuộc tính Dương Số thuộc tính Âm 1 2 3

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quy định số lý mang thuộc tính âm dương

Số lẻ thuộc tính dương: Động, mạnh, nóng…

Số chần thuộc tính âm: Tĩnh, mềm, uyển chuyển…

ngu-hanh

Số thuộc tính Dương                 Số thuộc tính Âm

1                                                       2

3                                                                          4

5                                                                          6

7                                                                           8

9                                                                           10

Quy định số lý trong ngũ hành.

Mộc            Hỏa                Thổ                    Kim                Thủy

1, 2;            3, 4;                5, 6;                    7, 8;                9, 10

Kết hợp Âm Dương và Ngũ Hành trong số lý

Dương

Âm

Dương

Âm

Dương

Âm

Môc

Mộc Hỏa Hỏa

Thổ

Thổ

1

2 3 4

5

6

Dương

Âm

Dương

Âm

Kim

Kim Thủy Thủy

7

8 9 10


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các quy định vận dụng âm dương ngũ hành vào số biểu lý –

Sống noi gương Phật để sở cầu như nguyện

Xuân mới đi chùa bái Phật lễ Bồ Tát, cả năm may mắn cát tường là phong tục tâm linh, cũng là thói quen rất đẹp của người Việt. Nhưng lễ lạt nhiều mà chưa học
Sống noi gương Phật để sở cầu như nguyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xuân mới đi chùa bái Phật lễ Bồ Tát, cả năm may mắn cát tường là phong tục tâm linh, cũng là thói quen rất đẹp của người Việt. Nhưng lễ lạt nhiều mà chưa học tập các vị Bồ Tát thì cũng chỉ là biết mà chưa hiểu, lễ mà chưa kính. Ngay từ hôm nay, hãy thành tâm bái Phật và nghiêm túc tu chỉnh bản thân theo những đức tính hay dưới đây.


Song noi guong Phat de so cau nhu nguyen hinh anh goc
 
Song noi guong Phat de so cau nhu nguyen hinh anh goc 2
 
Bái Bồ Tát, khấn chư Phật chính là việc áp dụng học hành kiến thức vào với thực thế cuộc sống chứ không phải chỉ mâm cao cỗ đầy hòng mong cầu xin xỏ. Với Phật giáo, việc tu dưỡng bản thân, học theo Phật pháp, hành thiện tu tâm, trở thành người có đủ chân, thiện, mĩ và thấu hiểu nhân gian mới chính là cách tốt nhất để lễ Phật. 

► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Kiếm Phong
Xem Clip Chuyện đời ai biết ngày mai

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống noi gương Phật để sở cầu như nguyện

Bảng tính ngày cưới –

1 2 3 Phu Cô Đường * Trù *   Ông 1 2 3 Phu Táo * Đệ * * Quy tắc tính - Tháng đủ tính theo chiều kim đồng hồ. Tháng đủ bắt đầu từ ngày mồng một (âm lịch) ở ô Phu số 1, qua ô số 2, cứ thế các ngày tiếp theo lần lượt tính theo chiều kim đồng hồ, n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ten-goi-va-qua-tang-ky-niem-ngay-cuoi-qua-cac-nam-p1 (2)

1

2

3

Phu

Đường *

Trù *

 

Ông

1

2

3

Phu

Táo *

Đệ *

* Quy tắc tính
– Tháng đủ tính theo chiều kim đồng hồ. Tháng đủ bắt đầu từ ngày mồng một (âm lịch) ở ô Phu số 1, qua ô số 2, cứ thế các ngày tiếp theo lần lượt tính theo chiều kim đồng hồ, ngày nào rơi vào một trong các ô có chữ: Đường, Đệ, Trù, Táo là ngày tốt để cưới.
– Tháng thiếu tính ngược chiều kim đồng hồ. Tháng thiếu tính từ ô có chữ phu số 1 qua ô chữ táo số 2, cứ thế các ngày tiếp theo lần lượt tính ngược chiều kim đồng hồ, cách tìm ngày tốt tương tự như tháng đủ.
– Ngày nào rơi vào các ô Phu, Phụ, Cô, Ông thì không dùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tính ngày cưới –

Chuyện cổ Phật gia: Xả của, giữ của

Theo Phật gia, con người sống trên đời cứ mải miết đắm mê nhặt nhạnh thật nhiều của cải mà không để ý rằng một khi nhắm mắt chẳng thể nào mang theo được.
Chuyện cổ Phật gia: Xả của, giữ của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con người sống trên đời cứ mải miết đắm mê nhặt nhạnh thật nhiều của cải mà không để ý rằng một khi nhắm mắt xuôi tay chẳng thể nào mang theo được. Mà cái đi theo người ta đó là chữ Nghiệp báo ứng cho đời sau. Biết được vậy khi còn sống nên xả bỏ dục vọng, tìm giải thoát mọi muộn phiền thế tục.

Thuở xưa có hai anh em cha mẹ mất sớm, để lại một gia sản to lớn. Không hiếu dưỡng được song thân, họ rất buồn tiếc…

Thời gian vùn vụt trôi, hai anh em từ chí hướng đến ý thích khác biệt nhau rất xa. Người anh thì mến đạo nghĩa, thường làm việc thiện như bố thí của cải, do đó gia sản càng ngày càng tổn giảm; còn người em thì mê tài sản, trổ tài mánh lới làm các thứ kinh doanh, nên gia sản càng ngày càng tăng thêm. Vì thế, người em rất bất mãn đời sống của anh mình. Một hôm, không chịu đựng được nữa, người em gọi anh ra lên mặt dạy dỗ:

“Anh em chúng ta bất hạnh nên cha mẹ mất sớm. Cha mẹ để lại gia tài cho chúng ta, chúng ta làm con, thì phải nhớ nghĩ đến từ tâm của cha mẹ, mau mau nỗ lực làm ăn buôn bán để giữ gìn và phát triển cái vốn gia sản sẵn có ấy khiến hương hồn của cha mẹ ở cõi trời được an ủi, thế mới đúng đạo làm con.

Đằng này, anh từ sáng tới tối cứ lo chạy theo mấy ông sa môn xuất gia để nghe kinh Phật, không lẽ mấy ông ấy có thể cho anh áo quần tiền tài hay sao? Gia đình anh càng ngày càng nghèo khó, tài sản càng ngày càng hao hụt, không những có lỗi với hương hồn cha mẹ mà còn làm cho làng xóm chê cười”.

Người anh ôn tồn trả lời: “Những gì chú nói, anh đã biết rõ hết, nhưng đó chỉ là những ý nghĩ thiển cận của thế tục. Chú nghĩ rằng mình phải bảo trì và khuếch trương sản nghiệp của cha mẹ mới là tận hiếu. Nhưng anh thì hoàn toàn không nghĩ như chú. Làm như thế chẳng qua chỉ cho chú có thêm điều kiện hưởng thụ, chứ vong hồn cha mẹ được lợi ích gì trong đó?

Còn anh thì lại lo giữ ngũ giới một cách nghiêm chỉnh, chuyên cần thực hành mười điều thiện, cúng dường Tam Bảo, lấy đạo cả mà cứu cha mẹ, khiến hương hồn cha mẹ được xa lìa nẻo khổ mà sinh về đường thiện, dần dần tiến đến chỗ giải thoát vĩnh hằng, đây mới là con đường báo hiếu chân chính.

Đạo và đời vốn tương phản nhau, cái mà đạo cho là sung sướng và quý giá thì đời lại chê là thấp hèn. Những gì chú cho là khoái lạc hôm nay, chính là gốc rễ của phiền não về sau. Anh không muốn đuổi theo những khoái lạc huyễn ảo như thế, cái khoái lạc mà người có trí huệ mong cầu là cái khoái lạc vĩnh hằng kìa!”

Người em nghe anh nói, cảm thấy mình không có lý lẽ để tranh cãi nhưng trong tâm thì không phục, bèn nén giận cúi đầu.

Người anh biết em mình không thể nói một lần mà hiểu, bèn phát biểu tâm chí muốn cầu học đạo của mình. Người em biết anh mình tâm đã cương quyết hướng về đạo nên im lặng, nén hận mà bỏ đi. Không lâu sau, người anh muốn cho việc học đạo của mình được chuyên tâm nên lìa bỏ gia đình, khoác y ôm bình bát làm sa môn, ngày đêm tinh tiến tu thiền, cẩn thận từng lời nói từng ý nghĩ, về sau chứng được quả A La Hán.

Người em nghe tin này, không những không vui mừng mà lòng phiền não giận hờn anh càng gia tăng thêm. Người này từ sáng đến tối lo làm ăn để tăng trưởng sự nghiệp cho đến mức đầu óc choáng váng, còn việc nhân sinh giải thoát thì không mảy may chú ý.

Cuối cùng, gia tài ức triệu nọ cũng không kéo dài được, đời sống vốn có giới hạn. Quả thật là chết đi không đem theo được bất cứ vật gì, chỉ có cái nghiệp là theo sát bên thân.

Trong lúc sống người em quá ư tham dục nên bị đọa xuống kiếp súc sinh, đầu thai làm trâu. Con trâu sinh ra mạnh khoẻ mập mạp, liền bị một người nhà buôn mua về kéo xe muối.

Kéo xe trèo dốc đường dài, lao khổ không phút nào ngừng nghỉ, con trâu mất sức, gầy mòn, mỗi lần lên dốc thở phì phò mà vẫn bị roi vọt, trông thật là thê thảm, thương tâm. Vừa đúng lúc ấy, người anh đi ngang dùng đạo nhãn quán sát con trâu, biết đây là em mình nên nói để khai mở trí huệ cho em:

“Chú một đời khổ cực, gia tài sản nghiệp chú gom góp được tính ra không biết bao nhiêu mà kể, bây giờ gia tài ấy đâu rồi? Trước kia, chú nói đạo cả là vô dụng vì không đem lại quần áo ăn uống, tiền tài mới đáng quý vì nó giúp chú thỏa mãn được mọi dục lạc. Bây giờ đạo cả lại làm cho anh giải thoát được luân hồi, chứng được quả thánh, còn tiền tài mà chú quý trọng tại sao lại không cứu chú thoát kiếp trâu mà sinh về nẻo thiện?”

Nói xong, người anh vận dụng thần thông khiến con trâu kiếp trước của mình. Con trâu tuy không nói được nhưng đau khổ rơi nước mắt, biết mình kiếp trước thấy đượcc có được thân người nhưng lại làm nhiều điều bất thiện, tham lam, ganh ghét, không tin Phật pháp, khinh chê thánh chúng, không nghe lời khuyên bảo thiện lành của anh, cho đến nỗi bây giờ đọa làm thân trâu, hối tiếc thì đã quá muộn.

Người anh biết em mình đã có tâm niệm hối hận và tự trách liền xin người chủ mua lại con trâu này, và đem mối quan hệ giữa mình và con trâu kể cho người chủ nghe. Người chủ trâu nghe xong tóc gáy dựng đứng rùng mình ghê sợ, không đòi tiền mà đem trâu dâng tặng cho người anh. Người anh dắt trâu về chùa phóng sinh, và dạy nó niệm Phật. Không lâu sau, con trâu chết đi, sinh lên cõi trời Đao Lợi.

Về sau, người chủ con trâu nghĩ đến vấn đề sinh tử luân hồi, cũng xả bỏ tất cả chuyên tâm tìm học đạo, cuối cùng được mãn nguyện, chứng được thánh quả, giải thoát phiền não.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện cổ Phật gia: Xả của, giữ của

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd