Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

12 chòm sao ngoại tình: Xếp hạng độ vị tha khi đối phương phản bộ

Sẽ ra sao khi 12 chòm sao ngoại tình? Xếp hạng lòng vị tha của 12 chòm sao nam khi người yêu ngoại tình để biết sức chịu đựng của cánh đàn ông.
12 chòm sao ngoại tình: Xếp hạng độ vị tha khi đối phương phản bộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoại tình là vấn nạn không chỉ chị em mà các anh em cũng lo ngay ngáy. Xếp hạng mức độ 12 chòm sao ngoại tình và lòng vị tha của 12 chòm sao nam khi người yêu ngoại tình dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ thêm về sức chịu đựng của cánh đàn ông.  


12 chom sao ngoai tinh Xep hang do vi tha khi doi phuong phan boi hinh anh 2
 

Hạng 1: Sư Tử (xác suất ngoại tình 0%)

  Kẻ sĩ có thể chết chứ quyết không chịu nhục là phương châm của chòm sao nam Sư Tử. Họ sẽ không thể chịu đựng dù chỉ một chút dấu hiệu nửa kia của mình có tình tự bên ngoài, bóp ngay từ trong trứng nước ấy chứ.  

Hạng 2: Hổ Cáp (xác suất ngoại tình 5%)

  Ngoại tình ư? Bạn định đùa với Hổ Cáp đấy à? Chỉ cần phát hiện đối phương có chút biểu hiện khác lạ là chàng trai này điều tra tận ngọn nguồn và cắt đứt quan hệ ngay, dù cho có yêu chết đi sống lại đến thế nào.  

Hạng 3: Thiên Bình (xác suất ngoại tình 10%)

  Trong 12 chòm sao nam, Thiên Bình là người yêu ghét rõ ràng, thời điểm đã thích một người thì cái gì cũng chiều theo đối phương, khoan dung hết lòng. Nhưng không bao gồm việc ngoại tình. Họ có ranh giới của chính mình, đã bị chà đạp lên lòng tự trọng thì không bao giờ tha thứ.  

Hạng 4: Kim Ngưu (xác suất ngoại tình 20%)

  Không nên cho rằng Kim Ngưu là chàng trai hiền lành, thật thà mà qua mặt, có đào hoa bên ngoài. Họ nghiêm túc, chín chắn, coi trọng người yêu, có thể tạm bỏ qua một số lỗi nhỏ nhưng yêu cầu sự chung thủy và chân thành cao nhất từ một nửa của mình. Do đó mà chuyện 12 chòm sao ngoại tình là điều Kim Ngưu khó có thể chấp nhận.

Hạng 5: Cự Giải (xác suất ngoại tình 30%)

  Tuy rằng Cự Giải là chàng trai yêu gia đình, thích sự ổn định trong tình cảm nhưng nếu phát hiện sự xuất hiện của người thứ 3 thì chấm dứt là điều không tránh khỏi. Cự Giải không hi vọng mình sẽ trở thành người phòng hờ, kẻ thay thế, họ chỉ muốn tìm được tình yêu chân chính mà thôi.  

Hạng 6: Ma Kết (xác suất ngoại tình 40%)

  Trong 12 chòm sao nam, Ma Kết quảng giao nên rất nhiều bạn bè, chuyện gì cũng không qua đực tai mắt của họ. Người yêu mà muốn một chân đạp hai thuyền thì xem chừng rất khó đấy.
12 chom sao ngoai tinh Xep hang do vi tha khi doi phuong phan boi hinh anh 2
 

Hạng 7: Xử Nữ (xác suất ngoại tình 50%)

  Xử Nữ là chàng trai có tâm lý mâu thuẫn, lúc phát hiện người yêu ngoại tình thì họ một mặt muốn cắt đứt ngay lập tức, mặt khác lại không nỡ. Tha thứ thì không làm được, không tha thứ thì không chịu được, đúng là đau đầu.

Hạng 8: Song Tử (xác suất ngoại tình 60%)

  Trông liên láu vậy thôi chứ Song Tử khá nhát gan, chẳng dám cùng người yêu nói chuyện cho rõ ràng đâu. Vì thế, cứ tự lừa gạt chính mình, dù biết đối phương có lỗi cũng không muốn từ bỏ ảo tưởng, nâng lên được chứ không đặt xuống được.  

Hạng 9: Song Ngư (xác suất ngoại tình 65%)

  Song Ngư nam dường như khá ít quan tâm tới nửa kia nên người ta có ngoại tình bạn cũng không biết mà phòng hay giải quyết. Cần xem lại bản thân trước khi suy tới trách nhiệm của đối phương nhé.  

Hạng 10: Bảo Bình (xác suất ngoại tình 70%)

  Thực sự nhiều khi Bảo Bình với chuyện tình cảm quá mức khoan dung, khiến người khác không thể nào lý giải được. Dù biết nửa kia làm chuyện không phải với mình thì bạn cũng sẽ bỏ qua, với lý do cho người ta một không gian riêng, riêng chán rồi sẽ quay về với mình. Người đi không giữ, người về sẽ tiếp tục quý trọng.  

Hạng 11: Bạch Dương (xác suất ngoại tình 80%)

  Vốn là người kích động, cũng khá qua loa đại khái nên đối chuyện tình cảm, họ rất nhanh nhẹn, nhiệt tình, cố gắng hết mình. Nhiều khi cứ tự cố gắng mà quên đi đối phương có thể đáp lại mình bao nhiêu.  

Hạng 12: Nhân Mã (xác suất ngoại tình 90%)

  Lúc chuyện ngoại tình xảy ra, chắc Nhân Mã còn đang phiêu diêu tự chốn nào, chẳng có tâm tư mà quản. Kẻ tám lạng người nửa cân, cũng chẳng ai có lỗi với ai nên cứ tự do mà đường ai nấy đi vậy thôi. Hoa hoa công tử của 12 chòm sao nam vì thế mà có tiếng là người rộng lượng đấy.
Giữ chặt 3 chòm sao nam si tình nhất vòng tròn hoàng đạo 12 sao nam nghĩ gì về việc tập thể hình? Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân
Thái Vân  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao ngoại tình: Xếp hạng độ vị tha khi đối phương phản bộ

Luận về Địa Không Địa Kiếp

Không Kiếp tên gọi tắt của hai sao Địa Không Địa Kiếp. Có người cho rằng Địa làm sao Không, vậy thì Thiên Không Địa Kiếp đi một cặp. Lý luận này sai vì Thiên Không là một sao riêng biệt. Địa Không Địa Kiếp là một cặp.
Luận về Địa Không Địa Kiếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thiên Không so với Địa Không nhu hòa hơn và có tác dụng khác hẳn. Tính chất Địa Không theo cổ nhân viết: ”Tác sự hư không, bất thành chính đạo thành bại đa đoan” (làm việc coi thường, không theo chánh đạo, thành bại theo nhau)

Nói tóm lại Địa Không chẳng làm điều gì phải, với Địa Kiếp cổ nhân viết “Tác sự cơ cuồng” (làm việc bừa bãi)

Thực tế kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp không hẳn như những lời phê trên đây. Không Kiếp phải tùy thuộc chính tinh chúng đi cùng để mà luận đoàn.

Có rất nhiều trường hợp nhờ Không Kiếp mà tốt, biến ra một cách cục kỳ lạ. Tỉ dụ: Thái Dương Thiên Lương gặp sao Xương Khúc Không Kiếp phải đoán là con người có tư tưởng mới lạ, táo bạo nhưng vững vàng, thànhc ông qua nghiên cứu học thuật, đem những điều tân kỳ cho tư tưởng nếp nghĩ. Vậy thì Không Kiếp đâu có xấu.

Cổ nhân ngại Không Kiếp bởi lẽ Không Kiếp ưa làm đảo lộn, đột biến không hợp với xã hội bảo thủ nền nếp. Nhưng hiện tại xã hội luôn luôn chuyển dịch, bảo thủ an định có nghĩa là không phát triển thành trưởng, Không Kiếp hẳn nhiên khả dĩ mang đến lợi ích để thoái khỏi tình trạng thiếu tiến bộ

Địa Không thuộc âm hỏa chủ về phiêu lưu mạo hiểm, lên thác xuống ghềnh. Tâm tính bất định, thích biến đổi, đôi lúc mơ tưởng đến mức ảo tưởng, thích khác người, không chấp nhận ý nghĩ gì được coi làm khuôn vàng thước ngọc sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ.

Địa Kiếp thuộc Dương hỏa chủ bôn ba, lúc cát lúc hung. Tính tình ngoan cố, cô độc, hỉ nộ vô thường, dám làm dám hành động không do dự và toàn làm những việc trái khoáy không cần biết thành hay bại, thành thì vui, bại không buồn.

Không Kiếp đều khởi từ cung Hợi mà tính đi để đặt định vị trí. Địa Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối cùng của một này. Tới Hợi là thời gian của ngày hôm ấy chấm dứt mọi sự mọi vật đều thành bảo ảnh, thành không hư. Không Kiếp tự chỗ không hư ấy mà dấy lên.

Hợi cung thuộc thủy. Không Kiếp thuộc hỏa. Thủy chủ trí, hỏa cùng chủ trí. Thủy Hỏa giao chiến tất cả đều hủy diệt thành Không, đều hết Kiếp để chuyển hoán thành một tình thế mới tuyệt đối. Nếu không xong thì Kiếp Không qui ẩn tu hành như Chiêu Lý Phạm Thái sau khi thất bại với mưu đồ phù Lê, sau khi Tương Quỳnh Như đã chết.

Không Kiếp là hai sao của thành bại, chứ không phải chỉ có bại thôi. Câu phú:”Mệnh lý phùng Không Kiếp, bất phiêu lưu tất chủ bần khổ” sai, chỉ luận đoán mới có một chiều.

Địa Không tác sự hư không, hư không đây là thái độ chống đối phủ định ẩn chứa cái can trường muốn thay cũ, đổi mới, mưu vọng này phần bại nhiều hơn phần thắng là lý đương nhiên. Thời xưa quyền lực bảo thủ cực mạnh, không ưa tư tưởng hay hành động có tính cách chống lại truyền thống cho nên nhìn Địa Không bằng con mắt hiềm thù bảo là tác sự hư không.

Địa Kiếp tác sự sơ cuồng, hành động của con người không câu nệ tiểu thuyết, tư tưởng đi ngược với trào lưu thời thượng, dĩ nhiên quyền lực bảo thủ không mấy bằng lòng mà gọi bằng sơ cuồng điên điên chẳng ra đâu vào đâu
Như vậy những hình dung gán cho Không Kiếp “hư không” và “sơ cuồng” ta nên hiểu theo cái nghĩa “phản truyền thống”, “phản trào lưu” của những hành động không thích ứng với xã hội đã thiết lập trật tự đâu vào đó.

Người có tư tưởng triết học, có khí chất nghệ thuật ngay cả những người trong lĩnh vực khoa học nếu có được Không Kiếp mới thành công đến mức sáng tạo.

Những luận bàn về Tử vi đời nhà Thanh đưa ra thuyết :” Kim Không tắc minh, Hỏa Không tắc phát” nghĩa là Kim gặp Không như chuông đồng rỗng tạo âm thanh, Hỏa gặp Không như lửa được dưỡng khí bốc cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất phát từ thời kỳ động loạn của Minh mạt chăng?

Kim có người cho rằng Kim tứ cục và Hỏa là Hỏa lục cục. Không đúng. Các nhà Tử vi đời Thanh muốn nói về những sao Kim Hỏa gặp Địa Không đó.

Như Vũ Khúc, Thất Sát thuộc Kim hội với Địa Không thường là những số mạng cuộc đời gian khổ cuối cùng thành đạt phấn phát.

Như Liêm Trinh, Thái Dương, Thất Sát (Thất Sát vừa Hỏa vừa Kim) gặp Địa Không do nhẫn nại phấn đấu mà nên công.

Chỉ nói ngộ “Không” tắc minh, tắc phát không nói đến ngộ Kiếp, rõ ràng Địa Kiếp không cùng một tác dụng ảnh hưởng như Địa Không. Điều trên cũng chứng minh rằng cuộc đời nhiều lúc bị tỏa triết, bị đẩy vào chỗ cùng cực đến phải thay đổi lại thành hay về sau, như thi không đậu rồi đi lính mà nên tướng nên tá.

Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay Tham Linh vẫn kể làm số phát mau.

Không Kiếp đồng cung hay Không Kiếp hội tụ vào Mệnh, hay Không Kiếp giáp Mệnh ảnh hưởng ngang nhau về tốt xấu

Câu phú Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục không nhất định là với số nào cũng đúng. Câu phú “Sinh lai bần tiện Không Kiếp lâm Tài Phúc chi hưởng” không nhất định với số nào cũng thế. Tuy nhiên Tài Bạch mà bị Kiếp Không thì thật hiếm trường hợp tốt vì tính chất keo bẩn.

Địa Không Địa Kiếp có ba thế: a) Đồng cung b)giáp c)hiệp. Không Kiếp đồng cung chỉ thấy ở Tỵ hay Hợi, còn giáp hiệp thì ở mọi chỗ.

Có câu phú:”Không Kiếp Tỵ hợi phản vi giai luận nghĩa là Mệnh có Không Kiếp kể là tốt. Tốt mức nào còn tùy chúng hội hợp với những chính tinh nào? Kiếp Không thường ăn ý với hung tinh hơn cát tinh.

Qua kinh nghiệm rồi qua chứng dẫn sách vỡ, nhiều trường hợp hai sao Liêm Trinh Tham Lang ở Hợi hay Tỵ mà đứng cùng Không Kiếp rất thành công khi vào lĩnh vực nghệ thuật. Liêm Tham vốn là hai sao đào hoa, Tham là chính đào hoa, Liêm là phó đào hoa, trong khi Không Kiếp lại biểu tượng cho những tư tưởng khác lạ mà nên vậy. Nhưng Thiên Riêu, đào hoa, Mộc Dục mà đứng với Không Kiếp lại không biến hoá như trên.

Xin nhắc lại Không Kiếp tuy hơi giống nhau trên tính chất, nhưng có một điểm khác khá tinh tế ấy là : Địa Kiếp chủ về phản trào lưu, Địa Không chủ về phản truyền thống; Địa Không dễ được tiếp thu hơn Địa Kiếp.

Riêng với nữ mệnh mà bị Không Kiếp, nếu đứng trên quan niệm Nữ chủ an định thì Không Kiếp thành phiền vì Không Kiếp vốn gây sự điêu linh do chất phản trào lưu, phản truyền thống ít hợp với đời sống nữ.

Không Kiếp Tỵ Hợi gặp Tướng Mã và hóa Khoa là người can trường, có mưu cơ, công danh càng tốt vào đất loạn thời loạn, Không Kiếp Dần Thân cũng tương tự nhưng không bằng Tỵ Hợi.

Không Kiếp Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù. Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, tâm ý thích lừa gạt. Không Kiếp hãm gặp Hỏa Linh Tuế Kị dễ bị trộm cướp. Không Kiếp Hồng Đào vào số nữ thường gian truân với duyên tình.

Không Kiếp đứng với Hóa Quyền trắc trở công danh. Tại sao đứng với Hóa Quyền lại vậy. Vì tính chất của Hóa Quyền là tích cực và ổn định. Ở đâu có Hóa Quyền thì tính tích cực và ổn định tăng cao. Tính chấp Không Kiếp ngược lại làm thành sự mâu thuẫn với Hóa Quyền.

Dưới đây là những câu phú nói về Địa Không Địa Kiếp:

- Địa Kiếp độc thủ thị kỳ phi nhân

(Mệnh Địa Kiếp đứng một mình luôn luôn cho ý mình là phải. Địa Kiếp độc thủ làm tăng tính phản trào lưu đến mức quá lạm mà nên thế)

- Dần Thân Không Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm vô độ

(Mệnh Dần Thân Không Kiếp thủ chiếu đứng cùng với cát tinh như Tử Phủ Đồng Lương Khôi Việt, Xương Khúc thường lên voi xuống chó)

- Tỵ Hợi Kiếp Không nhi phùng Quyền Lộc hoạnh đạt tung hoành
(Kiếp Không Tỵ Hợi có Quyền Lộc tài giỏi nghênh ngang nhưng cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn chóng)

- Sinh sứ Kiếp Không thủ Mệnh do như bán thiên triết sỉ
(Kiếp Không thủ Mệnh ở Tỵ Hợi Dần Thân là nơi của sao Tràng sinh lên như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen).

- Kiếp Cơ ngộ Hỏa tất ngộ hỏa tai
(Mệnh Thiên Cơ Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu hoặc đồng cung hay gặp hỏa hoạn)

- Nhan Hồi yểu tư do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh tọa thủ
(Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp Không Đà Linh toạ thủ. Số thầy Nhan Hồi làm sao mà biết chính xác thế. Chẳng qua chỉ mượn cái chết yểu của một người tương đối tiếng tăm để đặt cách cho các sao thôi, vì vậy cũng có câu khác:”Căn Xương hãm ư Thiên thương Nhan Hồi yểu triết”)

- Kiếp Không Phục Binh phùng Dương nhẫn lột thượng kiếp đồ
(Mệnh Kiếp Không Phục Binh Kình Dương làm côn đồ kẻ cướp)

- Địa Kiếp chi đan tâm phương lẫm
(Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt son, với thị kỷ phi nhân gần nhau, lòng dạ sắt son đôi lúc cũng vì thị kỷ mà ra)

- Mệnh cung ngộ Kiếp Tham lãng lý hành thuyền
(Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi bất định. Kiếp Tham Ngọ Tí Mão Dậu không phải là Tỵ Hợi)

- Mệnh Không Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học đa thành mạc ngộ Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng hưởng
(Mệnh Không Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính tinh thì học giỏi. Nhưng Mệnh Không Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng Lương. Phá Quân hãm thì khó thọ)

- Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp
Gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy.

- Kiếp Không Hình Kỵ Đà Dương
Gian nan bệnh tật mọi đường lo âu

- Tử cung Không Kiếp trùng gia
Binh phùng huyết tán, thai bảo phù hoa
(Cung tử tức có Không Kiếp khó khăn khi sanh nở)
- Phúc cung hãm ngộ Kiếp Không
Họ hàng lắm kẻ hành hung ở ngoài

- Kiếp Không tan sạch ra tro
Đề phòng kẻo phải lộ đồ nam kha
(Vận hạn gặp Kiếp Không hãm phải thận trọng không thì bao thành quả đã tạo dựng mất mát hát)

- Phu Thê Không Kiếp trùng xung
Trải hai ba bộ mới xong cửa nhà.

- Kiếp Không ai nấy khá ngừa
Lâm vào huynh đệ đơn sơ một mình
(Thiếu anh em hoặc xa cách anh em)

- Đà La Địa Kiếp chiếu phương
Gặp Hỏa Linh nạn bất tường chẳng sai

- Tử phùng Không Kiếp hiển gian
Hoặc là tứ sát trong làng gian phi

- Không Kiếp Tỵ Hợi đồng sang
Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi

- Mấy người thu ấn triệt hồi
Bởi sao Không Kiếp đứng ngồi không yên

- Cung Quan mừng được Đào Hồng
Thiên di tối kị Kiếp Không lâm vài

- Kìa ai tiền phú hậu bần
Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuấn vận sau

- Đất Tí Ngọ Sửu Thân bó Lộc
Hội Kiếp Không là gốc tàn suy

- Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui
Cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn.

- Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành

- Hồng Đào Không Kiếp đồng danh
Ấy phương yểu tử đã dành một hai
(Hồng với Kiếp Không khó công danh phú quí. Đào Hoa Không Kiếp lận đận tình duyên không phải yểu tử)

- Quyền Hao Không Kiếp chớ màng
Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh

- Địa Kiếp với Hồng sanh phu vị
Cung Mệnh hay duyên ấy trăm năm
- Mệnh xấu duyên dứt tơ tằm
Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm

- Triệt Tuần Không Kiếp giao lâm
Mối mang dang dở ba lần mới nên
(Triệt Tuần Không Kiếp vào cung phối)

- Thiên Di Không Kiếp khốn sao
Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân.

- Không Kiếp Thiên Tướng gian truân
Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa
(Đây là Không Kiếp đóng cung Quan Lộc cùng với Thiên Tướng)

Qua những câu phú, qua những luận bàn của sách vở thì Không Kiếp chỉ tốt khi đóng đúng cách và hội hợp đúng cách mệnh cung, còn đóng các cung khác Tài quan Thê Tử Phúc và hiện lên qua vận hạn hoặc giáp hiệp thì không mấy tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Địa Không Địa Kiếp

Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh

Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh được dùng vào Tiết Trung Nguyên. Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam Tiết Trung Nguyên là tiết của dịp ”Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng bảy hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian.

Bởi vậy, các gia đình ở Dương Gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ. Ngoài cúng gia tiên ngày ”Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.

Sắm lễ cúng tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh

Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ để cúng:

– Lễ cúng gia tiên gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…

– Lễ cúng chúng sinh gồm các lễ vật: Bánh đa, bỏng, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…

Văn khấn tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh

Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!

Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần
Con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy Táo phủ Thần quân chính thần.

Tiết tháng 7 sắp thu phân
Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà
Âm cung mở cửa không nhà bơ vơ
Đại Thánh Khảo giáo
A nan Đà Tôn giả
Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương
Gốc cây xó chợ đầu đường
Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang
Quanh năm đói rét cơ hàn
Không manh áo mỏng, che làm heo may
Cô hồn nam bắc đông tây
Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn
Dù rằng : Chết uổng ,chết oan
Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu
Chết tai nạn – chết ốm đau
Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình
Chết bom đạn, chết đao binh
Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi
Chết vì sét đánh giữa trời
Nay nghe tín chủ thỉnh mời
Lai lầm nhận hưởng mọi lời trước sau
Cơm canh cháo nẻ trầu cau
Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh
Gạo muối quả thực hoa đăng
Mang theo một chút để giành ngày mai
Phù hộ tín chủ lộc tài
An khang thịnh vượng hài hòa gia trung
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời
Bây giờ nhận hưởng xong rồi
Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần
Tín chủ thiêu hóa kim ngân
Cùng với áo quần đã được phân chia
Kính cáo tôn thần
Chứng minh công đức
Cho tín chủ con tên là……………
Vợ/Chồng: ………………………..
Con trai: …………………………..
Con gái: ……………………


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh

15 màu sắc được các nhà khoa học khuyên là nên dùng cho phòng ngủ

Phòng ngủ là không gian riêng tư, chính vì thế nó phải đảm bảo được tính cá nhân và thoải mái. Có một số màu sắc mà được các chuyên gia khuyên là nên sử dụng để không gian phòng ngủ của bạn yên tĩnh và thư giãn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Màu xám

Nếu bạn không phải là người ồn ào thì màu xám chính là màu sắc hợp lý dành cho bạn. Bạn có thể thiết kế phòng ngủ với màu xám để đem lại cảm giác thoải mái và kết hợp một số màu sắc nhẹ nhàng xung quanh nó. 


2. Màu oải hương

Mặc dù oải hương được coi là một màu pastel nhẹ nhàng, nhưng theo các nhà chuyên gia đánh giá thì đây là màu sắc khá rực rỡ, nó làm kích thích tinh thần và đánh thức các giác quan của bạn. Tuy nhiên, lại có một điều thú vị là những người yêu thích hoa oải hương thì lại cảm thấy yên tâm khi sử dụng màu sắc này trong phòng ngủ của mình. Nên màu này vẫn được đánh giá cao.

3. Màu mận

Màu mận là sự biến thể của hai màu tím và xám. Màu này hơi tối hơn màu tím nên không có tính kích thích thị giác, nhẹ nhàng cho tinh thần của bạn hơn, tạo được cảm giác an toàn trong phòng ngủ.



4. Màu bạc

Màu bạc là màu gần với màu nước. Bên cạnh màu xanh dương, bạc được coi là một màu sắc sang trọng nhưng nhẹ nhàng. Đây là màu sắc được ưa chuộng sử dụng cho phòng ngủ mang lại cảm giác mát mẻ và sảng khoái.



5. Màu Sapphire

Sapphire là màu của đá quý, là một màu xanh sang trọng đem đến sự tinh tế cho mọi không gian. Nói chung, màu sắc này được các chuyên gia đánh giá là làm dịu mát cho cơ thể. Chính vì thế, những người thức dậy tại một phòng ngủ được sử dụng gam màu sapphire này thường có cảm giác rất hạnh phúc.

6. Màu dâu

Màu dâu được đánh giá là màu lãng mạn và màu của sự đam mê. Nhưng có một lưu ý mà các chuyên gia mới công bố đó là nếu bạn sử dụng tông màu này quá nhiều sẽ làm phản tác dụng. Vì thế, để tạo sự cân bằng bạn nên kết hợp với màu trắng hoặc màu trung tính để tạo một luồng năng lượng tích cực.

7. Màu chàm

Sau khi xem xét tâm trạng của mình, bạn lại cảm thấy màu chàm là được lòng bạn nhất vì nó nhẹ nhàng, trung tính lại có thể kết hợp với nhiều màu sắc khác đến từ vật dụng trong phòng ngủ. Chính vì thế, đây cũng được coi là màu sắc được nhiều người ưa chuộng.

8. Màu xanh ngọc

Màu sắc xanh ngọc giúp bạn có được giấc ngủ yên tĩnh. Điều này giúp một số người cảm thấy rất vui vẻ. Các nhà khoa học cũng chia sẻ, xanh ngọc là màu sắc tác động đến giây thần kinh não bộ nhanh và tốt nhất, nên việc sử dụng màu xanh ngọc là rất tốt cho giấc ngủ.

9. Màu hoa cà

Nếu bạn vẫn luôn bỏ qua màu sắc hoa cà vì cảm thấy màu này là màu của bà già thì bạn đã nhầm to rồi nhé. Đây là một màu sắc trung tính đem lại sự thanh thản tối đa cho người sử dụng. Nó còn là màu tôn lên được rất nhiều màu sắc khác nên rất dễ sử dụng và phối hợp.



10. Màu gạch đỏ

Màu này là màu rất kích thích thị giác nên bạn lưu ý cần sử dụng và kết hợp nó cẩn thận. Vì tính chất này nên bạn chỉ nên sử dụng màu này ở một bức tường hoặc ở vài phụ kiện đồ dùng trang trí để đạt được hiệu quả tốt nhất.

11. Màu xanh lá

Màu xanh lá được coi là màu sắc hoàn hảo cho phòng ngủ. Màu này cũng khá đa năng phù hợp trong nhiều thiết kế từ hiện đại, đến truyền thống, hay dân dã đều có thể sử dụng được. Một số màu xanh có thể được coi là màu trung tính nên rất dễ kết hợp như một nền tảng để tôn lên những màu sắc khác.

12. Màu vàng

Trong một nghiên cứu mới đây nhất cho biết màu vàng chính là màu sắc được xếp thứ hai trong những màu nên sử dụng cho phòng ngủ. Nó là màu sắc tạo được cảm giác vui vẻ và ấm áp. Nhưng tương tự màu đỏ đây là màu được khuyến cáo là nên sử dụng vừa phải hoặc với sắc thái nhẹ nhàng hơn để tạo được sự thư giãn.



13. Caramel

Không chỉ là một món ăn ngon, caramel còn là màu sắc giúp cho phòng ngủ của bạn ấm áp và thân mật hơn. Nó còn tạo được sự lãng mạn tự nhiên cho phòng ngủ.

14. Màu cam

Cam là một màu sắc tốt nhất để tạo ra một không gian ấm áp và một bầu không khí thư giãn. Nó sẽ giúp phòng ngủ của bạn trở thành một thiên đường. Bạn sẽ có một đêm ngon giấc khi sử dụng màu sắc này cho phòng ngủ của mình.

15. Màu hồng cánh sen

Các bạn nữ nên sử dụng màu hồng cánh sen này cho phòng ngủ của mình vì màu sắc này khá nhẹ nhàng, nữ tính. Một điểm hạn chế của màu sắc này là bạn không nên kết hợp nó với màu sắc trung tính hay nổi bật khác mà chỉ nên kết hợp với màu trắng để có sự thoải mái cho các giác quan và giấc ngủ của bạn.

Theo Homedit

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 15 màu sắc được các nhà khoa học khuyên là nên dùng cho phòng ngủ

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Hành: Hỏa

Loại: Bại Tinh

Đặc Tính: Phá hoại tài sản, bệnh tật, tang tóc (nhỏ), thích chơi bời, cờ bạc, hay nói, khoe khoang, khoác lác, khinh người

Tên gọi tắt thường gặp: Khách

Là một phụ tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Thuộc bộ hay cách Mã Khốc Khách (Thiên Mã, Thiên Khốc, Điếu Khách).

Ý Nghĩa Của Sao Điếu Khách trong lá số tử vi:

Hay nói, nói năng không giữ lời - hay khoe, khoác lác (như Lâm Quan) - khinh người - liến thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc - chủ bệnh tật, đau yếu, tai nạn, hao tài, tang khó

Liếng thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc.

Ý nghĩa sao Điếu Khách  ở các cung:

Ở Mệnh, Quan: Khách, Phá Toái, Tuế Phá: du đãng, cờ bạc, phóng đãng - Khách, Quan Phù : cờ bạc - Khách, Khốc, Mã: gặp thời vận tốt

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Quan Lộc:

Công danh hay gặp trắc trở, nay đây mai đó.

Gặp các sao Thiên Mã, Thiên Khốc thì làm nên.

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tật Ách:

Hay gặp tai nạn té ngã, chuyện phiền lòng.

Gặp các sao Tang Môn, Hóa Kỵ, tự sát.

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tài Bạch:

Tài lộc ra vào thất thường, không ổn định.

Điếu Khách Khi Vào Các Hạn:

Điếu Khách gặp Tang: Thường có tang.

Điếu Khách gặp Hỏa: Tang nhỏ, tang xa.

Sao Điếu Khách có tác dụng chế hóa Hỷ Thần, làm cho Hỷ Thần mất giá trị.

Các bộ sao khi đi cùng sao Điếu Khách:

Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.

Liêm Trinh - Điếu khách: Thiên về nữ khách. Khách dò xét, theo dõi. Còn chủ khách thâm giao, khách lâu dài. Còn chủ số làm viễn khách dài lâu.

Vũ Khúc - Điếu Khách:  Khách qua đường, khách không thâm giao. Kỵ gặp thêm KÌNH CÔ QUẢ khách chủ dễ xung đột mâu thuẩn vì tài sản. Khách tham nhũng, khách hỏi thăm tài sản

THAM VŨ đóng đất Võng La. Gặp loài TANG ĐIẾU một nhà càng hung

Thiên Phủ - Điếu Khách: Khách già, còn chủ nhiều khách, đông khách. Lợi cho những người làm các công việc liên quan đến người già như lão khoa.

Thiên Tướng - Điếu Khách: Khách chủ tương trợ lẫn nhau,  Khách đi xem, khách xem xét. Khách nhờ cậy tương trợ.

Phá Quân - Điếu Khách:  Khách bỏ đi hoặc bỏ khách. Khách quậy phá. Cá biệt là gắn bó, khách gắn bó… Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… Bỏ, thôi không còn thăm viếng nửa. Nhưng trước đó thường hay thăm viếng.

Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Thất Sát - Điếu Khách: Mất khách. Hoặc đoạt khách giành khách. Còn chủ khách chiếm đoạt. Khách chạy làng đưa đến mất khách. … Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… vì công việc của họ là khám phá. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Tham Lang - Điếu Khách: Trung niên khách, thiên về nam khách. Khách thăm dò tìm hiểu, khách do thám. Khách tham nhũng, khách bày tỏ lòng ham muốn. Thiên Cơ - ĐiếU Khách:  Khách hiền. Khách cật vấn. Khách đi một mình. Lợi cho công việc tư vấn. Thiên Đồng - Điếu Khách:  Khách trẻ con . Khách đi đôi, đi cặp. Kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến trẻ con cần gặp khách này. Cùng với khách… như cùng đi, cùng vui chơi với khách… như trong các dịch vụ hướng dẫn du lịch. Thiên Lương - Điếu Khách: Khách hiền. Khách lương thực. Mua bán lương thực thực phẩm cần gặp khách nầy. Thái Dương - Điếu Khách:  Nam khách. Khách công khai. Khách ban ngày, Khách công khai là gì? Đó là những người tự nhiên mà đến để mua bán, coi, xem, được mời để tham gia, tham sự việc gì đó. Thái Âm - Điếu Khách: Nữ khách. Khách âm thầm. Khách ban đêm. Khách âm thầm là gì? Cũng đến để mua bán...nhưng âm thầm lặng lẽ. Mua bán cái gì  không ai biết. Cự Môn - Điếu Khách: Khách có đệ tử đồng môn bè bạn đi theo. Khách phản đối hay cãi. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Sao Tuần Gặp Sao Khách: Khách đến, còn chủ tôn trọng khách. Khách quan trọng. Khách trung thành. Triệt gặp Khách:  Khách ra về, còn chủ xem thường khách. Tốt là Khách quý được miễn trừ, khách ngoại lệ. Thiên khôi gặp sao Khách: Khách quí, Khách cũ. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Thiên Việt gặp Khách: Khách mới. Khách quí. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Kình Dương gặp Khách: Đi với Hỉ tinh khách khen ngợi. Đi với Kị tinh, HÌNH tinh, Thị phi tinh, CỰ, PHÁ xung đột với khách. Khách nầy hợp với chiến binh. Còn chủ nghênh đón khách. Thượng khách. Khách ngồi trên. Đà La gặp Khách:  Chủ lôi kéo khách. Hướng dẫn khách. Xấu là Cản trở khách. Nghênh đón khách. Xấu ta không nên đi làm khách. Khách hạng hai. Kỵ gặp  Kị tinh, Hình tinh, Thị phi tinh, Cự, Phá xung đột với khách. Hợp với chiến binh. Lộc Tồn gặp Khách: Một sao hỏi thăm, một sao thăm viếng. Tính chất thăm hỏi cực mạnh. Lộc tồn thiên về hỏi thăm có còn đó không? Có mạnh khỏe không, vì trong lòng LỘC TỒN tồn tại nỗi nhớ nhung nên vấn an. Sao Điếu Khách thiên về chia xẻ nỗi buồn khi có sự cố. Khách tồn tại, khách lâu dài. Lực Sỹ gặp Khách: Khách đợi chờ. Đợi chờ khách. Kẻ đợi chờ. Đường Phù gặp Khách: Khách công đường. Kỵ gặp nhiều sao quan sự lại thêm xung đột dễ làm khách của ông quan tòa. Khách dụ dỗ, thổi phồng. Sao Lưu ĐIẾU KHÁCH chú ý các trường hợp lưu sao Khách nhập tại Điền, Tài nếu tại đó có sẵn Sát tinh dễ gặp khách không mời mà đến là đạo chích. Để tiện cho bạn nghiên cứu, hôm nay treo tấm hình các sao lưu động năm Kỷ Sửu. Đại Hao gặp Khách:  Chủ nhiều khách, khách lớn, khách quan trọng. Trao đổi với khách. Đây là cách mua bán quan trọng. Mua bán vật quan trọng có KHÔI (tùy theo tâm trạng vật đó là báu vật, đất đai, nhà cửa. Có giá trị khi có VŨ KHÚC.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân

12 chòm sao trong tiết Thu Phân – tiết khí trong mát, sảng khoái và đẹp đẽ của mùa thu sẽ cần chú ý những điểm gì nhỉ.
Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

12 chòm sao trong tiết Thu Phân – tiết khí trong mát, sảng khoái và đẹp đẽ của mùa thu sẽ cần chú ý những điểm gì nhỉ.


► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất

Diem van 12 chom sao trong tiet Thu Phan hinh anh 2
 

Bạch Dương

  Theo 12 chòm sao trong tiết Thu Phân, nếu Bạch Dương còn tùy hứng như vậy thì sẽ sớm bị loại khỏi cuộc chơi đấy, cần có sự hợp tác uyển chuyển thì mới đưa tới kết quả hài lòng được. Bạn nhớ cân nhắc làm thế nào để đôi bên cùng thỏa mãn, đừng chỉ chăm chăm nghĩ làm thế nào để mình tốt nhất.  

Kim Ngưu

  Xã giao công việc khá nhiều, Kim Ngưu xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, trở thành người thành công, được ngưỡng mộ. Đừng vì bận rộn mà quên đi sự giao lưu tình cảm với người nhà nhé, dẫu thế nào thì tình thân vẫn luôn là thứ vô cùng quý giá.  

Song Tử

  Người yêu đồng thời cũng có thể là bạn bè nhưng từ bạn bè trở thành người yêu thì lại là hai việc khác nhau. Giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn là cảm động, không phải tình yêu. Nếu cứ mãi mờ ám, không rõ ràng thì đôi bên sẽ rất mệt mỏi, Song Tử phải chú ý nhé.  

Cự Giải

  Cự Giải cảm thấy khá an toàn đối với việc quản lý gia đình, được gia đình chống đỡ giúp và có nhiều tin tức tốt đẹp. Hãy chú ý tới phong thủy nhà ở, điểm tô những đồ vật cát tường, sẽ mang vận may đến với Cự Giải.  

Sư Tử

  Tâm tình kích động khiến Sư Tử dễ đắc tội với người khác, dù là dũng cảm, quyết đoán nhưng cũng sẽ mang tới khá nhiều phiền phức, rắc rối. Cần học cách ôn hòa, bình tĩnh và sử dụng đầu óc hơn là chỉ chăm chăm nhảy dựng lên mỗi khi có vấn đề.  

Xử Nữ

  Những tính toán, phân tích vô cùng chu đáo của Xử Nữ bỗng trở nên bất thường, có tình huống đột ngột xen vào nên Xử Nữ cần mạo hiểm một chút. Thời gian này không nên đầu tư tiền bạc vào các dự án mới, bạn bè sẽ mang tới vận tài lộc cho Xử Nữ.
Diem van 12 chom sao trong tiet Thu Phan hinh anh 2
 

Thiên Bình

  Với 12 chòm sao trong tiết Thu Phân, đây là tháng của Thiên Bình nên lực hấp dẫn của chòm sao này tăng lên đáng kể, khiến cho người khác có cảm giác yêu mến. Mặc dù chưa thể mang tới nhân duyên tình yêu cho Thiên Bình nhưng bạn bè thì không thiếu.  

Hổ Cáp

  Nhất cử nhất động của Hổ Cáp đều bị mọi người soi mói, trở thành đề tài bàn tán sôi nổi. Vì thế, bạn cần hết sức cẩn thận, tránh ăn nói hồ đồ hoặc có những hành vị lạ thường. Nắm giữ bí mật của người khác thì Hổ Cáp càng phải kín mồm kín miệng.  

Nhân Mã

  Vận xã giao dồi dào, Nhân Mã cần phát huy năng lực hấp dẫn để kết thêm nhiều bạn mới. Gặp gỡ trên những chuyến đi, tình bạn thăng cấp, còn có một đoạn nhân duyên ngắn ngủi mà lãng mạn, đúng là rất đáng mong chờ phải không nào.  

Ma Kết

  Không nên dùng thủ đoạn lợi dụng người khác để đạt được lợi ích, Ma Kết sẽ gây thù chuốc oán và bị cô lập đấy. Hình tượng của Ma Kết trong tình yêu là khá chín chắn, nghiêm túc nhưng đôi khi vẫn nên cho đối phương nhìn thấy những phương diện khác ở bạn.  

Bảo Bình

  Trên đường phiêu du Bảo Bình sẽ tìm được ý trung nhân, phát sinh mối tình đẹp đẽ. Nếu thực sự xác định tình cảm rồi thì hãy tận dụng cơ hội bày tỏ, muôn lời muôn ngỏ trong lòng hãy chân thành mà nói ra, cho cả hai một cái bắt đầu.  

Song Ngư

  12 chòm sao trong tiết Thu Phân có Song Ngư là lo lắng nhiều nhất, lao lực mà không biết có được hồi đáp xứng đáng hay không. Mọi việc đều nhờ duyên, không thể quá gượng ép nên cứ bình tĩnh Song Ngư nhé. 
Khi nói dối, 12 chòm sao sẽ có biểu cảm như thế nào? Thổ lộ khuyết điểm khiến tình yêu tan vỡ của 12 chòm sao Nếu bị phản bội, 12 chòm sao sẽ phản ứng ra sao? Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân

Sắc màu nhà cửa và quan niệm phong thủy

Trong trang trí nhà ở, mỗi sắc màu đều có những ảnh hưởng, tác động nhất định lên tâm lý của những người sống trong ngôi nhà. Còn theo thuật phong thuỷ thì màu sắc có vai trò quan trọng trong nhà ở vì màu sắc sử dụng cần phải hài hoà, tương sinh với bản mệnh của chủ nhà mới mang lại sự bình yên, tăng cường vượng khí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc trong phong thuỷ sẽ được dựa vào bản mệnh của chủ nhà và hướng của ngôi nhà. Sau đây là một số thông tin khi sử dụng màu sắc trang trí nhà theo quan điểm của phong thuỷ mà bạn có thể tham khảo.

1. Màu sắc phong thuỷ và bản mệnh chủ nhà

- Thuyết ngũ hành có 5 mệnh là Mộc - Hỏa - Thổ - Kim - Thủy và tương ứng là các màu sắc đặc trưng.

+ Màu xanh tượng trưng cho Mộc

+ Màu đỏ tượng trưng cho Hỏa.

+ Màu vàng tượng trưng cho Thổ

+ Màu Trắng tượng trưng cho Kim

+ Màu tối như (tím, sẫm, xám đen, xám...) tượng trưng cho Thủy.

-  Bạn cũng cần quan tâm đến tính tương sinh của ngũ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc và tính tương khắc của ngũ hành là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Sau khi nắm vững màu sắc của từng mệnh và tính tương sinh tương khắc thì chủ nhà nên chọn màu sắc trang trí hợp với bản mệnh của mình và hướng đến các mối quan hệ tương sinh, tránh tương khắc.

Ví dụ như nếu chủ nhà mạng Kim thì căn cứ vào bảng trên, ta có thể chọn màu trang trí là màu trắng (tượng trưng cho mạng Kim) hoặc sử dụng màu vàng (vàng nhạt) thuộc hành Thổ và tránh màu đỏ, hồng vì Thổ sinh Kim, còn Hoả thì khắc Kim.

Với người mạng Kim thì màu sắc trang trí thích hợp cho ngôi nhà là màu vàng hoặc trắng.

2. Màu sắc phong thuỷ và hướng nhà

Theo Ngũ hành thì màu sắc các hướng tương ứng là:

- Màu xanh dương thuộc Thủy (hướng Bắc);

- Màu đỏ thuộc hành Hỏa (hướng Nam);

- Màu trắng thuộc hành Kim (hướng Tây);

- Màu xanh thuộc hành Mộc (hướng Đông);

- Màu vàng thuộc hành Thổ (Trung cung).

Còn các hướng như Đông Nam: màu tốt nhất là xanh lục nhạt; Tây Nam: màu tốt nhất là vàng, nâu nhạt; Tây Bắc: Màu tốt nhất là trắng, bạc. Chúng ta cũng lưu ý đến mối quan hệ tương sinh, tương khắc giữa các màu thuộc các hành khác nhau để chọn màu sao cho phù hợp tránh chọn màu tương khắc với hướng.

Bản đồ tương sinh và tương khắc các hành trong phong thủy

3. Một số lưu ý

 - Ngoài ra đồ nội thất trong nhà cũng nên hài hoà với màu sắc trang trí trong nhà, tránh sử dụng quá nhiều màu sắc tương phản trong đồ nội thất vì màu sắc quá nhiều có thể tạo cảm giác chóng mặt, gây tâm lý bất an.

-  Các màu sắc trong ngũ hành mang tính tương đối. Ví dụ màu đỏ tượng trưng cho hành Hoả thì không nhất thiết phải sử dụng màu đỏ, ta có thể sử dụng màu tương tự như đỏ, hồng nhạt, hồng đậm...

Những quy tắc trên đây mang tính tham khảo cho bạn trong sắp xếp, trang trí nhà cửa. Chúc các gia đình có tổ ấm xinh xắn riêng dành cho mình.

Chư Kha

Ảnh: Internet


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sắc màu nhà cửa và quan niệm phong thủy

Lợi ích của đài phun nước trong phong thủy

Đài phun nước ở giữa bể bơi hoặc ở giữa ao hồ là cách bố trí nhân tạo đều có tác dụng hỗ trợ sự lưu thông vận khí của ngôi nhà, tránh tài khí bị đình trệ. Hơn
Lợi ích của đài phun nước trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nữa nó có thể làm giảm một cách hiệu có hiệu quả đối với những ảnh hưởng không tốt của khí.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Trong khu vực của đài phun nước, nếu bố trí lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng từ dưới lên thì càng tốt.

Khi bố trí hệ thống đường thủy trong sân vườn thì nên chú ý để cho dòng nước có những uốn khúc mềm mại, quanh co từ phía trước chảy lại cửa trước của nhà ở. Tránh để nước chảy theo hướng ngược lại vì sẽ tạo sự thất thoát vận khí.

Cần chú ý điều, bất luận thiết kế làm bể bơi, hồ bơi hay là thiết kế đài phun nước đều phải thiết kế các loại Thủy hình - dạng tròn. Có 3 lý do cho việc này: 

Thứ nhất: Có thể tránh gió và tích tụ khí. Các hồ phun nước, ao hồ, bể bơi đều nên thiết kế hình tròn, bốn bề hướng thủy, đồng thời phải hơi hướng về hướng của các loại vật kiến trúc xung quanh nhà. Thiết kế như vậy có thể tàng phong tụ khí, tăng cảm giác mới mẻ và dễ chịu cho không gian cư trú.

Thứ hai: Tạo sự sạch sẽ. Nếu như thiết kế các bể phun nước, bể bơi ao hồ thành dạng kênh dài nước sâu thì chất nước sẽ khó giữ được sạch sẽ, sẽ bị ngưng tụ, ô nhiễm. Sách cổ gọi loại hình thiết kế như vậy là "thâm Thủy lao bệnh". Do vậy, ao vũng, bể phun nước cũng phải được thiết kế theo hình dạng tròn; tâm tròn hơi lồi lên một chút vì hình tròn không dễ lưu trữ bụi và các chất bẩn mà lại dễ làm sạch. Hơn nữa điều này có lợi cho sự an toàn.

Nếu thiết kế đài phun nước, bể bơi, ao vũng thành hình vuông, hình thang, hình rãnh thì dễ tạo nên độ sâu mà không nhìn thấy đáy, do đó sẽ rất nguy hiểm cho những người thích bơi lội và chơi trong nước (đặc biệt là trẻ nhỏ), nhưng những thiết kế hình tròn là tương đối an toàn.

Thứ ba: Có lợi cho sức khỏe. Nếu như các đài phun nước, bể bơi, ao vũng bể cảnh mà thiết kế ngoại hình có các góc nhọn ở hướng chiếu thẳng cửa ra vào thì sẽ dễ tạo nên sự phản chiếu ánh nắng mặt trời vào nhà do tác dụng quan học của mặt nước. Theo phong thủy học thì hiện tượng phản xạ như vậy không có lợi cho sức khỏe của con người.

(Theo Phong thủy vườn tược nhà ở cây xanh trong nhà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi ích của đài phun nước trong phong thủy

Mơ thấy cây ô liu: Tượng trưng cho an ninh và thành công trong học tập, công việc –

Giấc mơ với hình ảnh cây ô liu tượng trưng cho thành tích trong học tập và hòa bình. Nếu học sinh mơ thấy nhánh cây ô liu, dự báo học sinh đó đang nỗ lực học tập và sẽ có thành tích cao. Nếu mơ thấy tặng nhánh cây ô liu cho người khác, dự báo bạn sẽ
Mơ thấy cây ô liu: Tượng trưng cho an ninh và thành công trong học tập, công việc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cây ô liu: Tượng trưng cho an ninh và thành công trong học tập, công việc –

Tìm hiểu về phụ nữ có “tướng dâm” –

Người phụ nữ có đôi mắt hào hoa, lại thêm lông mày như lá liễu là loại trăng hoa đáo để…. Tướng’ dâm” của phụ nữ qua tướng học. Trong Tướng mệnh học, người ta nhìn con người dưới nhiều khía cạnh khác nhau, từ những nhận xét về cơ thể học, tâm lý học,
Tìm hiểu về phụ nữ có “tướng dâm” –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về phụ nữ có “tướng dâm” –

Tướng người tóc xoăn –

Theo khoa học, tóc có tính di truyền, xem biểu hiện của tóc có thể biết được phần nào tính cách con người... Tóc xoăn là chỉ tóc xoăn bẩm sinh. Tính cách của người tóc xoăn phụ thuộc vào mức độ xoăn khác nhau mà có biểu hiện khác nhau. Nhưng xét một
Tướng người tóc xoăn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người tóc xoăn –

Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp –

Màu sắc nào mang lại may mắn cho 12 con giáp? Màu đen và xanh lam sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Tý, còn người tuổi Thìn là màu vàng chanh và màu cà phê… Những màu sắc khác thì sao? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để xem bản thân hợp với màu sắc g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc nào mang lại may mắn cho 12 con giáp? Màu đen và xanh lam sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Tý, còn người tuổi Thìn là màu vàng chanh và màu cà phê… Những màu sắc khác thì sao? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để xem bản thân hợp với màu sắc gì nhé!

Nội dung

  • 1 Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp
    • 1.1 Tuổi Tý: Màu đen và xanh lam
    • 1.2 Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê
    • 1.3 Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê
    • 1.4 Tuổi Mão: Màu lục lam và xanh lá
    • 1.5 Tuổi Thìn: Màu vàng chanh và màu cà phê
    • 1.6 Tuổi Tỵ: Màu đỏ và màu vàng
    • 1.7 Tuổi Ngọ: Màu đỏ và tím
    • 1.8 Tuổi Mùi: Màu lam và đen
    • 1.9 Tuổi Thân: Màu trắng và màu vàng kim
    • 1.10 Tuổi Dậu: Màu cà phê và màu vàng
    • 1.11 Tuổi Tuất: Màu đỏ và màu hồng
    • 1.12 Tuổi Hợi: Màu vàng và nâu

Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp

xem-tu-vi-2015

Tuổi Tý: Màu đen và xanh lam

Hai màu sắc này sẽ mang lại nguồn năng lượng dồi dào cho người tuổi Tý trong năm nay. Quần áo, tư trang, đồ trang sức, các vật dụng hàng ngày… sử dụng hai màu đen và xanh lam sẽ giúp người tuổi Tý thêm may mắn về công danh sự nghiệp.

Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê

Mức độ xui xẻo mà người tuổi Sửu sẽ phải đối mặt trong năm 2014 sẽ giảm đi đáng kể nếu họ thường xuyên “kết thân” với màu vàng ánh kim và màu cà phê thường ngày cho mình.

Tuổi Sửu: Màu vàng ánh kim và màu cà phê

Mức độ xui xẻo mà người tuổi Sửu sẽ phải đối mặt trong năm 2014 sẽ giảm đi đáng kể nếu họ thường xuyên “kết thân” với màu vàng ánh kim và màu cà phê thường ngày cho mình.

Tuổi Mão: Màu lục lam và xanh lá

Hai màu sắc này sẽ giúp ích rất nhiều cho tài vận người tuổi Mão trong năm 2014. Nó xua đuổi điều xui xẻo do kẻ tiểu nhân hãm hại và mang lại sự nghiệp thành công cho người tuổi Mão.

Tuổi Thìn: Màu vàng chanh và màu cà phê

Có thể nói đây là hai màu sắc khai vận cho người tuổi Thìn. Vận may về tài chính và tình cảm của họ sẽ nở rộ trong năm 2014 nếu biết cách tận dụng sức mạnh của những màu sắc này.

Tuổi Tỵ: Màu đỏ và màu vàng

Thường xuyên sử dụng hai màu sắc này trên người hoặc vật dụng hàng ngày sẽ giúp người tuổi Tỵ thêm khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng để học tập và làm việc.

Tuổi Ngọ: Màu đỏ và tím

Tận dụng vận may cát tường của hai màu đỏ và tím mang lại, cộng với sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè, người tuổi Ngọ sẽ gặt hái được nhiều thành công trong năm nay. Đồng thời có thể gặp hung hóa cát, có cuộc sống yên bình, khỏe mạnh.

Tuổi Mùi: Màu lam và đen

Sáu tháng đầu năm, người tuổi Mùi nên sử dụng nhiều gam màu lam cho mình để mang lại nhiều vận may tài chính. Còn sáu tháng cuối năm, bạn nên tận dụng sức mạnh may mắn của màu đen nhằm tạo dựng khối tài sản lớn, chuẩn bị đón một cái Tết sung túc, mãn nguyện.

Tuổi Thân: Màu trắng và màu vàng kim

Hai màu trắng và vàng kim tương sinh với bản mệnh của người tuổi Thân trong năm nay. Do đó, ngoài trang phục, phụ kiện đeo trên người, bạn có thể sử dụng những màu sắc này cho phòng ngủ, phương tiện đi lại… để mang tới nhiều may mắn và phúc khí.

Tuổi Dậu: Màu cà phê và màu vàng

Hai màu sắc này không chỉ mang lại sự may mắn về tiền bạc cho người tuổi Dậu trong năm nay mà còn giúp họ có được tình duyên thuận lợi, khả năng kết hôn rất cao.

Tuổi Tuất: Màu đỏ và màu hồng

Hai gam màu rực rỡ sẽ mang lại nhiều vận may về tài chính và tình duyên cho người tuổi Tuất trong năm nay. Ngoài ra, những màu sắc này còn giúp khơi gợi hứng khởi và trí sáng tạo tuyệt vời của người tuổi Tuất.

Bạn sẽ phát hiện thấy những điều mà từ trước tới giờ bạn chưa từng thấy về bản thân mình nếu sử dụng hai gam màu này thường xuyên.

Tuổi Hợi: Màu vàng và nâu

Sử dụng hai gam màu này một cách thường xuyên, người tuổi Hợi sẽ gặp hung hóa cát, có nhiều may mắn và thuận lợi khi làm bất cứ việc gì. Hơn thế, những mâu thuẫn với người thân, bạn bè hoặc đồng nghiệp cũng được giải quyết ổn thỏa nếu họ biết tận dụng triệt để sức mạnh may mắn của hai màu sắc này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc mang lại may mắn cho 12 con giáp –

Cách xác định và kích hoạt vị trí chiêu tài trong nhà

Theo phong thủy, vị trí chiêu tài còn gọi là 'tài vị', giúp cho gia chủ thành công trong sự nghiệp, thuận lợi trong công việc, gặp may mắn trong cuộc sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống, một trong những điều quan trọng mà mọi người quan tâm là tiền bạc. Tiền bạc không phải là tất cả nhưng không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày, dù ít dù nhiều. Nhiều người còn áp dụng phong thủy để mong muốn thu hút thêm nhiều tài lộc. 

 cach xac dinh va kich hoat vi tri chieu tai trong nha - 1

Một trong những nguyên tắc cơ bản trong phong thủy tài lộc là xác định vị trí Chiêu tài trong nhà và từ đó có những bố trí nội thất cho phù hợp. Vì vậy, làm thế nào để xác định đúng vị trí quan trọng này?

Theo các chuyên gia phong thủy, vị trí chiêu tài tốt nhất ở góc 45 độ đối diện cửa chính. Ngoài ra, vị trí tốt thứ hai nằm đối diện với vị trí thứ nhất.

 cach xac dinh va kich hoat vi tri chieu tai trong nha - 2

Vậy phải bài trí như thế nào để chiêu tài vào nhà? Một khi bạn biết vị trí của cải vào nhà, hãy kiểm tra những việc nên và không nên làm có tác động đến phong thủy. 

1. Nên bày các vật phẩm phong thủy kích hoạt tiền tài như hũ đựng tiền, dải xu Ngũ đế, cây phong thủy,...tại vị trí tài lộc.

2. Đằng sau vị trí chiêu tài cần có một bức tường vững chắc hỗ trợ. Nếu đằng sau trống trải thì năng lượng tốt sẽ không đọng lại mà nhanh chóng bị trượt ra đằng sau khiến tài chính khó tích lũy được.

 cach xac dinh va kich hoat vi tri chieu tai trong nha - 3

3. Góc chiêu tài cách xa cửa sổ và cửa ra lối đi.

 cach xac dinh va kich hoat vi tri chieu tai trong nha - 4
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xác định và kích hoạt vị trí chiêu tài trong nhà

Top con giáp thích ngủ nướng ngày mưa

Những ngày mưa dầm gió bấc, thật khó có gì đánh bật được những người tuổi Hợi, Mão, Mùi ra khỏi giường sớm.
Top con giáp thích ngủ nướng ngày mưa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Hợi

Dù chỉ là chui ra khỏi chiếc chăn ấm áp cũng là vấn đề vô cùng khó khăn đối với người tuổi Hợi, chứ chưa nói đến việc phải “phi thân” đội mưa đi học hay đi làm. Con giáp này vẫn còn trong tình trạng “say Tết” nên mọi thói quen thông thường vẫn đôi chút bị xáo trộn. 

47b3d92b-e639-4cea-b4eb-0265ae-4244-1550

Những ngày xuân mưa gió này, người tuổi Hợi hoặc hay “ngủ nướng” quá đà hoặc sẽ tận dụng mọi thời gian rảnh để nằm dài đắp chăn, thưởng thức những bộ phim hài lãng mạn.

No2: Tuổi Mão

Thực ra, quyết tâm của người tuổi Mão khá cao độ, với điều kiện đó không phải là những ngày mưa gió hay lạnh giá. Dù tối qua, trước khi đi ngủ, con giáp này đã lên kế hoạch rõ ràng cho việc làm vào sáng mai. Thậm chí còn tự nhủ sẽ dậy thật sớm để thực hiện nó.

Tuy nhiên, sở thích “ngủ nướng” như chú mèo cuộn mình trong đống chăn ấm áp đã trở thành “kỳ đà cản mũi” quyết tâm của họ. Nếu muốn đi học hoặc đi làm đúng giờ, con giáp này buộc phải “lên dây cót” cực mạnh với chính mình.

No3: Tuổi Mùi

So với các mùa trong năm, người tuổi Mùi “nhác việc” hơn hẳn mỗi khi xuân đến. Điều đó không có nghĩa họ trốn việc, lười biếng đâu nhé. Đơn giản chỉ là do “hoàn cảnh tác động” mà thôi. Thực ra, con giáp này nghĩ rằng, mọi chuyện sẽ được tiến hành thuận lợi trừ ngày mưa gió rét.

mui-2512-1425914249.jpg

Do đó, thay vì phải gồng mình lên để thể hiện sự chăm chỉ, người tuổi Mùi “tập xác định” nghỉ ngơi hoặc “giảm tốc” cường độ làm việc. Đợi cho qua tiết trời ẩm thấp, khó chịu này, họ sẽ trở lại thành chính mình - người nhiệt tình, chăm chỉ và chu đáo.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp thích ngủ nướng ngày mưa

Chùa Quán La - Hà Nội

Chùa Quán La thuộc thôn Quán La, xã Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Chùa Quán La thường được gọi là Chùa Khai Nguyên. Chùa còn có tên là chùa Hang
Chùa Quán La - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Quán La thuộc thôn Quán La, xã Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Chùa Quán La thường được gọi là Chùa Khai Nguyên. Chùa còn có tên là chùa Hang, vì ở đây có một hang cổ. Trong chùa còn có tấm biển đề Khai Nguyên tự. Chuông chùa cũng có tên là Khai Nguyên tự chung (Chuông chùa Khai Nguyên).

Theo sách Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên thì chùa được xây dựng vào niên hiệu đời Đường, niên hiệu Khai Nguyên (715). Lúc bấy giờ, đây là nơi hành đạo của nhiều đạo sĩ và thu hút nhiều du khách đến tham quan. Đến năm Thiên Long đời Trần (Trần Dụ Tông 1341 – 1369), thiền sư Văn Thao cho trùng tu quán, rồi dựng lại thành chùa thờ Phật, đặt tên là An Dưỡng Tự. Sau đó, nhà sư đã đi đến nơi khác tu hành nên chùa bị hoang phế. Đến thời Lê, chùa mới được dựng lại với kiến trúc chùa như hiện nay.

Chùa Quán La có Tam bảo, nhà Mẫu và nhà bia. Toà Tam bảo hình chuôi vồ có tiền đường và thượng điện. Tiền đường gồm năm gian xây kiểu tường hồi bít đốc. Thượng điện gồm ba gian. Chùa còn lưu trữ được những mảnh chạm khắc cổ có niên đại thế kỉ 19. Cách bài trí ở chùa cũng có đặc điểm như các chùa khác, chỉ có khác là có thêm một pho tượng mà người làng vẫn khẳng định là tượng Đường Minh Hoàng (vua nhà Đường – Trung Quốc). Tượng tạc hình một người đàn ông trung niên, mặc áo long bào, đội chiếc mũ thường phục của các vua Đường.

Một điều đáng chú ý và khó giải thích là chùa có một tấm bia công đức có niên đại Thái Đức thứ 11 (1788). Thái Đức là niên hiệu của Nguyễn Nhạc. Thế nhưng, năm 1788, Lê Chiêu Thống vẫn còn trị vì ở Thăng Long.

Chùa Quán La đã được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật vào ngày 31/01/1992.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Quán La - Hà Nội

Sao Phá Quân

Phương Vị: Phá Vỡ Chia Rời Tính: Âm Hành: Thủy Loại: Quyền Tinh, Hao Tinh Đặc Tính: Hao tán, phu thê, anh hùng, dũng mãnh Tên gọi tắt thường gặp: Phá
Sao Phá Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 8 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Tý, Ngọ.
  • Vượng địa ở các cung Sửu, Mùi.
  • Đắc địa ở các cung Thìn, Tuất.
  • Hãm địa ở các cung Mão Dậu, Dần Thân, Tỵ Hợi.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Người có Phá Quân thủ mệnh thì thân hình đẫy đà, cao vừa tầm, da hồng hào, mặt đầy đặn, mắt lộ, hầu lộ, lông mày thưa. Nếu hãm địa hay đắc địa thì hơi thấp.
Tính Tình
Sao Phá Quân ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa, là người thông minh, nhanh nhẹn, ít chịu ngồi yên, có tài thao lược, anh hùng, đôi khi hiếu thắng, tự đắc, thích phiêu lưu, phong lưu, văn nghệ, nghệ thuật, thích nghiệp võ, hoặc săn bắn, đua xe, lái máy bay, du thuyền, thể thao. Người nữ thì đảm đang, tài giỏi, hay ghen.
Sao Phá Quân ở cung hãm địa, cũng là người thông minh, nhanh nhẹn, ít chịu ngồi yên, hiếu thắng, hay làm chuyện ngược đời, hoặc có sáng kiến lạ đời, có óc kinh doanh, có tài khéo về văn nghệ, nghệ thuật, thủ công, kỹ thuật, có tài thưởng thức, pha chế, chế biến, đa tình.
Công Danh Tài Lộc
Sao Phá Quân dù đắc địa cũng còn bản chất phá tán, tiêu hao, nên dù cho có ý nghĩa tốt thì cái tốt đó cũng thăng trầm, không lâu bền. Vì vậy, Phá Quân đắc địa thì được giàu, sang nhưng gặp nhiều thăng trầm thất thường, khi được, khi mất.
Riêng đối các tuổi Đinh, Kỷ, Quý, Phá Quân lại tốt: phú quý song toàn, uy quyền hiển hách. Còn đối với những tuổi Bính, Mậu, Dần, Thân, Phá Quân miếu địa tuy có hay, nhưng hay mắc tai họa. Cái tốt của Phá Quân, tự nó không vẹn toàn, vẫn phải lệ thuộc vào những tuổi nhất định và có thêm cát tinh hội tụ hoặc sát tinh đắc địa đi kèm.
Các sao hợp với Phá Quân miếu địa gồm có:
  • Cát tinh: Xương Khúc, Tả Hữu, Tam Hóa.
  • Sát tinh đắc địa: Kình, Đà, Không, Kiếp.
Các sao phá hoại Phá Quân miếu địa gồm có:
  • Sát tinh hãm địa.
  • Đại, Tiểu Hao, Hổ, Kỵ, Hình.
Các sao phá hoại Phá Quân hãm địa gồm có:
  • Sát tinh hãm địa.
  • Đại, Tiểu Hao, Hổ, Kỵ, Hình.
Nếu Phá Quân hãm địa gặp sát tinh đắc địa thì được giàu sang, nhưng chóng tàn hay bị tai họa.
Ngoài ra, Phá Quân hãm địa ở một số vị trí nào thì đỡ nhẹ cho những tuổi nhất định:
  • Phá Quân hãm ở Mão, Dậu hợp với tuổi Ất, Tân, Quý.
  • Phá Quân hãm ở Dần Thân hợp với tuổi Giáp, Đinh, Kỷ.
  • Phá Quân hãm ở Tỵ Hợi, hợp với tuổi Mậu.
Trong ba trường hợp này thì đỡ lo về tai họa và tương đối khá giả.
Các sao giải những bất lợi cho Phá Quân hãm địa gồm có: Hóa Khoa, Tuần, Triệt, Nguyệt Đức.
Phúc Thọ Tai Họa
Sao Phá Quân là hung tinh và hao tinh, thích hợp với nam giới hơn là nữ giới. Nữ giới gặp sao này thường bị những bất trắc về tình duyên, gia đạo vì Phá Quân chủ về phu thê, hao tán.
Mặt khác, Phá Quân là sao võ cách, thích hợp với người có võ tính, cương tính. Đi với phụ nữ thì cũng không hay.
Sao Phá Quân đắc địa, ý nghĩa tai họa nhẹ nhất là sự thăng trầm, thất thường của công danh tài lộc.
Sao Phá Quân hãm địa thì hay mắc nạn, bị tù hình, giảm thọ, bị bệnh khó chữa, nghèo hèn, cô độc, phiêu bạt, chết thảm. Cái tốt không nhiều, cái xấu thì nhiều và rất nặng.
Những Bộ Sao Tốt
  • Phá Quân ở Tứ Mộ gặp Hình, Lộc: Uy quyền lớn, danh cao.
  • Phá Quân, Toái đồng cung: Tiếng tăm lừng lẫy.
  • Phá Quân, Khoa, Tuần, Triệt ở Thìn Tuất: Thẳng thắn, lương thiện. Nếu thêm cả Nguyệt Đức càng tốt.
Những Bộ Sao Xấu
  • Phá Quân ở Tý Ngọ: Sớm xa cách anh em, cha mẹ; nếu không cũng khắc vợ, chồng hoặc hiếm con, nhất là đối với phái nữ.
  • Phá Quân, Tham Lang, Lộc, Mã: Kiếm tiền dễ dàng. Người nam thì phong lưu, tài tử, phóng đãng, người nữ thì đa tình.
  • Phá Quân, Hỏa: Phá sản, bán sạch tổ nghiệp.
  • Phá Quân, Phục, Hình, Riêu, Tướng Quân: Vợ chồng ghen tuông đi đến chỗ giết nhau.
  • Phá Quân, Triệt, Cô: Chết đường, bất đắc kỳ tử.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Phá Quân chủ về hao tán, ở vị trí nào cũng sớm mất cha hay mẹ, ít ra hai người xa cách hoặc bất hòa. Chỉ trong trường hợp Phá Quân ở Tý, Ngọ và đồng cung với Tử Vi thì cha mẹ khá giả.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Phúc Đức
Sao Phá Quân ở cung Phúc đều có nghĩa họ hàng ly tán và riêng mình phải tha phương lập nghiệp. Nếu Phá Quân ở Tý Ngọ thì được phúc, sống lâu; ở Thìn Tuất thì riêng mình không có phúc nhiều, nhưng họ hàng quý hiển; ở Dần Thân thì kém phúc, bị họa, họ hàng sa sút; nếu đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh hay Vũ Khúc thì vất vả, lao khổ, xa quê mới sống lâu.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Điền Trạch
  • Không có điền sản nếu Phá Quân ở Dần Thân.
  • Có sản nghiệp buổi đầu rồi phá tan, về sau mới giữ của được nếu Phá Quân ở Thìn Tuất hoặc đồng cung với Tử, Liêm, Vũ.
  • Mua nhà đất rất nhanh chóng, nhưng cơ nghiệp sa sút về già, không giữ được di sản, nếu Phá Quân ở Tý Ngọ.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Quan Lộc
  • Đơn thủ tại Tý, Ngọ: Công danh hiển đạt nhưng thăng giáng thất thường. Lập công danh trong thời loạn. Thành công trong những việc khó khăn và nguy hiểm. Có nhiều mưu trí và dũng mãnh.
  • Đơn thủ tại Thìn, Tuất: Đi vào công danh thì có chức vụ, có uy quyền, đôi khi cấp trên phải nể phục.
  • Công danh lúc đầu thường hay gặp trắc trở, hoặc có chức vụ mà không vừa ý, không hạp với tài năng của mình, nếu khá giả cũng không lâu bền. Nên kinh doanh, buôn bán hay chuyên về kỹ nghệ nếu Phá Quân ở Dần, Thân hoặc đồng cung với Vũ Khúc, Liêm Trinh.
  • Tử Vi đồng cung: Công danh thăng giáng thất thường nên làm nghề buôn bán, kinh doanh, nghề có liên quan đến kim loại, máy móc, xe cộ.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Thiên Di
  • Đơn thủ tại Tý, Ngọ: Được xã hội trọng nể, dễ kiếm tiền, nhưng đôi khi mắc nạn nguy hiểm.
  • Đơn thủ tại Thìn, Tuất: May rủi liền nhau, quý nhân và tiểu nhân đều có, nhiều tai ương, chết xa nhà.
  • Đơn thủ tại Dần, Thân: Ra ngoài hay bị tai nạn xe cộ, vì người ám hại, chết xa nhà.
  • Tử Vi đồng cung: ra ngoài giao thiệp với người quyền quý, được quý nhân nhân giúp đỡ và được kính nể.
  • Vũ Khúc đồng cung: ra ngoài khó nhọc vất vả, dễ gặp tai nạn nguy hiểm. - Liêm Trinh đồng cung: Ra ngoài bất lợi, hay gặp rủi ro.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Tật Ách
Sao Phá Quân ở Cung Tật Ách mà không có sao xấu là số có sức khỏe tốt, ít bệnh tật. Thông thường lúc nhỏ tuổi hay bị mụn nhọt, có ghẻ, máu nóng, có tính ưa thích về xe cộ, máy móc, phiêu lưu, nay đây mai đó, nên dễ gặp tai nạn xe cộ, duyên nợ lận đận.
  • Phá Quân, Hao, Mộc, Kỵ: Có ung thư, nếu không cũng phải mắc bệnh cần phải mổ mới qua khỏi được.
  • Phá Quân, Riêu, Hồng: Bệnh mộng tinh.
  • Phá Quân, Hỏa Tinh nhất là ở cung Ngọ bị rối trí, điên.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Tài Bạch
  • Giàu có dễ dàng bằng kinh doanh táo bạo, nếu Phá Quân ở Tý Ngọ.
  • Tiền bạc vô ra thất thường nếu Phá Quân ở Thìn Tuất hoặc đồng cung với Liêm Trinh.
  • Chật vật buổi đầu, về sau sung túc nếu Phá Quân đồng cung với Tử Vi hay Vũ Khúc.
  • Khó kiếm tiền, thu ít, chi nhiều nếu Phá Quân ở Dần, Thân.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Tử Tức
Sao Phá Quân đóng trong cung Tử thông thường có nghĩa hiếm con, xung khắc với cha mẹ dù ở cung nào và đi với sao nào cũng vậy.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Phu Thê
Sao Phá Quân thường chủ sự hao tán về duyên nợ. Nam hay nữ dù có lập gia đình cũng phải có sự bất hòa, ly thân, ly hôn, chắp nối, hôn nhân trắc trở, hoặc hay ghen tuông, gây gỗ, đôi khi có sự ích kỷ, nóng tánh, hoặc vì hoàn cảnh thời cuộc mà phải xa cách nhau một thời gian sau mới tái hợp lại. Tuy nhiên nếu không có sao xấu thì duyên nợ tốt, chóng thành, người hôn phối có tài năng, liêm khiết, trung trinh, biết lễ độ, thẳng thắn, mạnh bạo, tánh khí cương cường, đôi khi khó tánh.
  • Phá Quân tại Tý, Ngọ: Tuy vợ chồng khá giả nhưng nên muộn đường hôn phối. Nếu không trong đời phải có lần xa cách nhau.
  • Phá Quân tại Dần, Thân: Gia đình suy bại, vợ chồng bất hòa, hình khắc.
  • Phá Quân, Tử Vi đồng cung: Vợ chồng khá giả, hợp tánh nhưng phải hình khắc, chia ly, nên muộn đường hôn phối.
  • Phá Quân, Vũ Khúc đồng cung: Gia đình nghèo khổ, thiếu hòa khí nhưng vợ chồng vẫn xum hợp lâu dài.
  • Phá Quân, Liêm Trinh đồng cung: Vợ chồng làm ăn khó khăn, hay bất hòa, xa cách.
Ý Nghĩa Phá Quân Ở Cung Huynh Đệ
  • Hiếm anh em, anh em bất hòa, xa cách nhau nếu Phá Quân ở Tý Ngọ.
  • Càng hiếm hơn và anh em ly tán hoặc có tật và bất hòa nếu Phá Quân ở Thìn, Tuất, Dần, Thân hay đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc.
Phá Quân Khi Vào Các Hạn
Nếu Phá Quân sáng sủa thì hạn gặp tài, danh thành đạt. Ngược lại, nếu hãm thì rất nhiều tai họa (tội, tang, mất chức, bệnh).
  • Phá Quân, Tuế, Kỵ: Lo âu, bực dọc vì cạnh tranh, kiện cáo.
  • Phá Quân, Liêm, Hỏa: Phá sản, bị tù, có thể chết.
  • Phá Quân, Việt, Linh, Hình: Bị súng đạn.
  • Phá Quân, Tướng, Binh, Thai, Riêu: Bị phụ tình, đàn bà thì bị lừa gạt, thất trinh, thất tiết.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Phá Quân

Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống có đúng không? có cần thiết không ?

Đối với các cụ thì câu hỏi này thừa, vì "Nòi nào giống ấy","Cây nào quả ấy","Giỏ nhà ai quai nhà ấy","Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh", "Tìm nơi có đức gửi thân", ai chẳng muốn có trai hiền gái đảm, rể thảo dâu hiền. Thời nay, một số bạn trẻ coi thường cho là phong kiến lạc hậu. Có những đôi trai gái mới chỉ gặp nhau trên một đoạn đường, đã vội đính ước, tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả "Ngọn nguồn lạch sông"!!!Đành rằng cũng có trường hợp "Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên duyên", song thành công là cá biệt, thất bại là phổ biến.
Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống có đúng không? có cần thiết không ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tìm tông, tìm họ" không có nghĩa là tìm chốn sang giàu, khinh người nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có đức độ. "Cha mẹ hiền lành để đức cho con","Đời cha ăn mặn, đời con khát nước".
Con người sinh ra lớn lên do nhiều yếu tố xã hội chi phối, nhưng nam nữ thanh niên mới lớn lên, trường đời chưa từng trải, giáo dục gia đình là yếu tố quan trọng và chủ đạo. Hôn nhân là việc hệ trọng, tác động cả đời, mà con người rất dễ mù quáng trong tình yêu. Qua tuần trăng mật không phải mọi việc trong quan hệ vợ chồng đều suôn sẻ. khi có những việc khó khăn, trục trặc trong cuộc sống, ai cũng muốn tìm điều hay lẽ phải để giải quyết cho thoả đáng.
Lúc đó cần dựa vào "Tông", vào họ hàng, tìm những tình cảm chân thành và tri thức đúng đắn. "Môn đăng hộ đối", tức là tìm nơi hai gia đình, hai bên thân thuộc, có những mặt cân đối phù hợp với nhau, chứ đâu phải bắc bậc leo thang, kẻ khinh người trọng. Ngoài ra còn một yếu tố nữa: Tính đến gien di truyền. Ngày xưa trong một vài hoàn cảnh đặc biệt có ông chồng thoả thuận ngầm với vợ đi "Xin nòi". Xin lưu ý: những người đàn bà đó không thuộc loại lẳng lơ đâu - ta cũng chỉ cần biết nói nhỏ với nhau thôi và nhấn mạnh "Hoàn cảnh đặc biệt" !

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống có đúng không? có cần thiết không ?

Vài lưu ý để phát triển tốt các mối quan hệ (P2)

Nên chú trọng xây dựng thật tốt mối quan hệ với hàng xóm, đồng thời lưu tâm đến góc Tây Bắc nhà bạn để gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống.
Vài lưu ý để phát triển tốt các mối quan hệ (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tạo những mối quan hệ tốt đẹp với hàng xóm

Nhằm duy trì và phát triển tình cảm thân thiện với những người hàng xóm, tốt nhất bạn nên khiến không gian nhà mình không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của họ, mà còn mang lại lợi ích cho họ. Muốn vậy, bạn phải bảo đảm môi trường sống của mình tràn đầy khí lành mạnh và có ảnh hưởng tốt đẹp cho láng giềng. Đồng thời, tránh những ảnh hưởng xấu mà kiến trúc hay cách bài trí ngôi nhà của bạn có thể gây ra cho họ.

Những ảnh hưởng xấu của căn nhà có thể tạo ra từ mũi nhọn của chóp mái nhà, xà nhà dôi ra, góc cạnh của ngôi nhà… nếu chúng chĩa thẳng đến mặt tiền nhà của người khác. Khi bạn sử dụng gương Bát quái cũng cần cẩn thận chú ý vì nó là 1 biểu tượng rất mạnh và có thể gây tổn thương cho người khác.

Cổng và hàng rào theo dạng tròn sẽ không tạo ra những mũi tên chĩa vào nhà hàng xóm

Khi căn nhà của bạn bị ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà bạn không thể treo gương bát quái vì không muốn ảnh hưởng đến nhà hàng xóm thì tốt nhất là sử dụng chuông gió hoặc trồng cây để ngăn cản những tác hại đó. Bằng cách này, bạn đã góp phần tạo ra năng lượng tốt đẹp cho cuộc sống của những người xung quanh, đồng thời duy trì mối quan hệ hàng xóm luôn tốt.

Ngoài ra, có thể lắp đặt những ngọn đèn trước cổng nhà để tạo ra năng lượng tốt lành cho hàng xóm. Đây là hành động thể hiện sự hòa hiếu và giao lưu mật thiết giữa bạn với những người láng giềng. Nếu nhà bạn có hàng rào ngăn cách với nhà bên cạnh thì hãy bảo đảm những kiểu thiết kế của hàng rào không gây ảnh hưởng đến nhà họ.

Bảo vệ góc may mắn của các thành viên trong gia đình

Góc Tây Bắc do cung Càn ngự trị chính là nguyên nhân đem lại những điều may mắn hay bất hạnh cho các thành viên sống trong nhà. Vì vậy, góc này trong bất cứ ngôi nhà nào đều phải được bảo vệ cẩn thận.

Góc Càn không được xác định theo hướng của cửa chính, mà phải xác định theo hướng Tây Bắc của la bàn. Khi đã xác định chính xác, bạn nên treo chuông gió gồm 8 ống kim loại rỗng ở góc này để thu hút những điều tốt đẹp, may mắn đến với cuộc sống của bạn. Bằng cách này, bạn cũng có thể cung cấp năng lượng cho vận may của người cha trong gia đình.

Không nên để đèn sáng ở góc Tây Bắc của ngôi nhà, vì như vậy sẽ thu hút những bất hạnh, những rủi ro vào nhà. Ngoài ra, sự hiện hữu của Hỏa tại hướng Tây Bắc cũng rất có hại. Vì vậy, bạn không nên lắp đặt đèn chiếu sáng hoặc đèn chùm ở đây.

(Theo Thanhnien)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vài lưu ý để phát triển tốt các mối quan hệ (P2)

Phương pháp cải thiện số mệnh của lá số tử vi khuyết Thủy

Ngũ hành là nguồn gốc của vạn vật, tạo thế cân bằng, tương sinh tương khắc với nhau. Cùng xem lá số tử vi khuyết Thủy có điểm gì nổi bật, đáng chú ý.
Phương pháp cải thiện số mệnh của lá số tử vi khuyết Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành là nguồn gốc của vạn vật, tạo thế cân bằng, tương sinh tương khắc với nhau. Vì thế bất cứ yếu tố nào bị khuyết thiếu, yếu nhược đều gây ra ảnh hưởng không nhỏ, làm mất sự hài hòa. Cùng xem lá số tử vi khuyết Thủy có điểm gì nổi bật, đáng chú ý và cách hóa giải phần nào lá số này.

Phuong phap cai thien so menh cua la so tu vi khuyet Thuy hinh anh
 
Theo “Chu Dịch”, lá số tử vi khuyết Thủy là khái niệm dùng để chỉ những người sinh vào tháng Tị, Ngọ hoặc Mùi (tức khoảng từ 5/5 đến 8/8 dương lịch). Những người này có bát tự Hỏa vượng, khí nóng bốc ra nghi ngút mà thiếu Thủy bổ trợ, xoa dịu nên bất kể cầm tinh gì đều là mệnh khuyết Thủy.    Mặt khác, người sinh ở tháng Tuất (tức khoảng từ 8/10 đến 8/11 dương lịch) cũng là mệnh khuyết Thủy nhưng lấy Mộc làm chủ. Mộc vượng khiến Thủy suy, không đủ để hài hòa mệnh số, làm bát tự Thủy nhược. Người này cần tăng cường yếu tố Thủy trong cuộc sống để bù vào sự khuyết thiếu ngũ hành bẩm sinh này.    Người có bát tự thiếu Thủy thì miệng lưỡi khô đắng, sinh nhiệt, có thể bong tróc, chảy máu, đại biểu vận khí không tốt. Trường hợp này là do nước bọt không đủ nên suy vận, cần sử dụng các biện pháp Đông y để “sinh tân”, vừa giúp cơ thể khỏe mạnh lại có thể cải thiện vận số, giảm thiểu những điều không may mắn. Ngược lại nếu miệng lưỡi trơn tru thì đại biểu vận khí khá ổn, nhất là có liên quan tới vận tải đường thủy.   Người mệnh khuyết Thủy sinh vào tháng từ 5 đến 8, là thời điểm thuộc Hạ Thiên mà Hạ Thiên Ngũ Hành thuộc Hỏa, Hỏa tính đặc biệt dồi dào mà lại thiếu yếu tố Thủy nên từ bốn phương diện quần áo, ẩm thực, nơi ở, nghề nghiệp phải bổ sung Thủy để ngũ hành đạt trạng thái cân bằng. Đây chính là phương pháp phong thủy đổi vận của người mang lá số tử vi khuyết Thủy.   Người này thích hợp ăn những thực phẩm có tính lạnh như bào ngư, hải sâm, sứa, tất cả các loại cá, đậu phụ, mộc nhĩ đen, thịt heo, mật ong. Nên tránh hoặc hạn chế các loại thực phẩm có tính nóng như hạt tiêu, đậu đỏ, cà tím, quả vải, tỏi, thịt dê, thịt gà, chocolate, rượu đỏ. Thực phẩm tính hàn đại diện cho Thủy, thực phẩm tính nóng đại diện cho Hỏa, ăn nhiều đồ Hỏa có thể gây ra các bệnh ảnh hưởng tới lục phủ ngũ tạng do cơ thể quá háo nóng.   Theo phong thủy màu sắc, người này thích hợp dùng các loại quần áo, trang sức, phụ kiện có các màu: màu xanh lam, màu đen, màu trắng, màu vàng. Đây là những màu thuộc ngũ hành Thủy và Kim, đều có tác dụng bổ trợ rất tốt cho yếu tố Thủy còn thiếu trong bát tự. Màu sắc cần kiêng kị là: màu đỏ, màu tím, màu xanh, màu xanh lục, màu vàng, màu nâu. Nên đeo thêm phụ kiện làm từ trân châu, kim loại, vàng, bạc. Các màu sắc thuộc ngũ hành Hỏa và Mộc có thể làm giảm bớt Thủy như thế này tốt nhất là phải hạn chế càng nhiều càng tốt.
Phuong phap cai thien so menh cua la so tu vi khuyet Thuy hinh anh
 
Người này nên tìm các công việc thuộc ngũ hành Thủy quảng cáo, tư vấn và giới thiệu việc làm, nhân lực, làm đẹp, kinh doanh nước giải khát, hóa chất kỹ thuật, giao thông vận tải đường thủy, du lịch, y tế, thủy lợi, hải sản, đánh bắt cá, nghề biển, viễn thông truyền thông, thông tin liên lạc, bưu chính, giao hàng, bán hàng, tâm lý học, quan hệ công chúng, xuất nhập khẩu, hậu cần, siêu thị, thủ quỹ, tư vấn chuyên nghiệp (như luật sư, thầy Phong thủy, ...). Ngoài ra một số ngành thuộc ngũ hành Kim như ngân hàng, tài chính, kế toán, kinh doanh chứng khoán, kỹ thuật cơ khí, kinh doanh vật liệu kim khí, máy móc, kim hoàn vàng bạc, khai thác lâm sản, cơ điện,… cũng rất có lợi đối với bản mệnh.   Người có lá số tử vi khuyết Thủy nên chú ý tới nơi ở, tránh nhà có cửa chính, cửa sổ ở hướng Nam và hướng Đông. Cố gắng ở nhà hướng Bắc hoặc hướng Tây sẽ tốt hơn. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào tình hình cụ thể từng tuổi và các yếu tố khác để lựa chọn nơi ở hợp phong thủy và hợp với tử vi của gia chủ, có thể phần nào cải thiện khuyết điểm của mệnh khuyết Thủy.
Xem tử vi đoán tính cách đàn ông, chọn bạn đời mười phân vẹn mười Chỉ rõ bản chất của lá số tử vi khuyết Mộc Chỉ rõ bản chất của lá số tử vi mệnh khuyết Kim Trình Trình
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp cải thiện số mệnh của lá số tử vi khuyết Thủy

Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

Chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.
Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế. Sau khi kết nghĩa anh em tại vườn đào, Trương Phi và Quan Vũ đều giết chết vợ của mình rồi bỏ theo Lưu Bị mong dựng nghiệp lớn.

Câu nói nổi tiếng: “Bạn bè như chân tay, vợ con như quần áo” chính là câu nói từ miệng của Lưu Bị mà ra. Có thể nói, trong mắt Lưu Bị, vợ con chẳng qua là một thứ đồ vật tùy lúc có thể mặc vào cởi ra mà thôi… Lưu Bị tự là Huyền Đức, người quận Trác, nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, hậu duệ một nhánh xa của hoàng tộc nhà Đông Hán. Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế.

Từ nhỏ, nhà nghèo, sau khi lớn lên gia nhập quân đội triều đình trấn áp khởi nghĩa Khăn vàng. Sau đó, nhờ sự giúp sức của Gia Cát Lượng, Lưu Bị hợp lực cùng Tôn Quyền đánh bại quân Tào Tháo ở Xích Bích, chiếm được Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung. Năm 221, Bị xưng đế, định đô ở Thành Đô. Một năm sau đó, trong trận chiến Ngô Thục, quân Bị thua trận, không lâu sau đó, Bị chết.

Lưu Bị là người huyện Trác, quận Trác, tự xưng là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con của Hán Cảnh đế. Lưu Bị liên tục nói về mình như vậy, cứ gặp người là nói vậy, sử sách cũng cứ như vậy mà ghi về Bị. Còn về chuyện có thực hay không thì chẳng có ai biết. Những người ưa thích “Tam Quốc diễn nghĩa” đều nghe rất quen câu này của Lưu Bị: “Tại hạ Lưu Bị, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”. Thực tế, chẳng có ai muốn hỏi Lưu Bị là hậu duệ, con cháu của ai, vì vậy, cách nói đó của Lưu Bị quả thực rất thừa và vô duyên.

Tuy nhiên, đi đâu Lưu Bị cũng chỉ có một cách nói như vậy. Điều này chứng tỏ, xuất thân nghèo khổ đã khiến Lưu Bị phải đau đầu rất nhiều. Lưu Bị từ nhỏ đã mồ côi cha, cùng mẹ đan chiếu bán để sống qua ngày. Bên cạnh căn lều cỏ của mẹ con Lưu Bị ở có một cây dâu, nhìn từ xa trông giống như một chiếc xe có lọng che.

Những người khách đi qua đây nhìn thấy hình dáng của cái cây này đều lấy làm kỳ lạ, nói rằng ở đây hẳn có quý nhân. Khi Lưu Bị chơi với chúng bạn ở dưới gốc cây nói: “Sau này ta sẽ đi một chiếc xe sang trọng như vậy”. Thời bấy giờ, xe có lọng là loại xe dành cho hoàng đế, vì vậy, chú của Lưu Bị là Lưu Tử Kính mới quát Lưu Bị rằng: “Mày ăn nói lung tung như vậy định hại chết cả gia đình chúng ta hay sao?”. Từ nhỏ, Lưu Bị đã không thích đọc sách, học hành cả ngày chỉ thích chơi với chó, ngựa, đàn hát và mặc quần áo đẹp.

Lưu Bị cao 7 thước 5 tấc (hơn 2 mét), tay dài quá đầu gối, ngoảnh đầu lại có thể nhìn thấy tai của mình, không thích nói, vui buồn không ai hay. Lưu Bị là người thích kết giao với những kẻ hào hiệp. Vì vậy, Trương Thế Bình, Tô Song Kha, các thương nhân nổi tiếng ở Trung Sơn đều bị kẻ “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương” cuốn hút, cho rằng ông ta là kẻ không hề tầm thường nên đã cung cấp Lưu Bị không ít tiền bạc.

Với số tiền của được cung cấp, Lưu Bị đã mua một đôi binh mã bắt đầu thực hiện kế hoạch tranh đoạt thiên hạ của mình. Thời đại Tam Quốc là thời đại của những kẻ gian hùng. Tuy nhiên, khác với Tào Tháo và Tôn Quyền có sẵn một cơ sở vững chắc do thế hệ trước để lại, Lưu Bị dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng. Tất cả gia sản của Lưu Bị chỉ là cái danh “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”.

Lưu Bị không phải là một kẻ háo sắc đến cuồng loạn, do vậy trong sử sách rất ít nói đến chuyện tình ái của ông ta. Tuy nhiên, Mạnh Tử có nói: “Thực, sắc, tính dã”, nghĩa là chuyện ham muốn ăn uống và tình dục là bản năng của con người. Lưu Bị cũng không phải ngoại lệ và chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.

Những người thích Tam Quốc hẳn ai cũng nhận thấy rằng, Lưu Bị có một đặc điểm rất xấu đó là đánh được thì đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ, của con đều quên sạch. Riêng nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của Lưu Bị là Hán Cao Tổ Lưu Bang có sống dậy cũng phải chấp nhận là “hậu sinh khả úy”.

Trong cả sử sách lẫn “Tam Quốc diễn nghĩa” có thể thống kê được ít nhất 4 lần Lưu Bị có hành động không được xứng tầm với một đại anh hùng, vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình. Lần thứ nhất là vào năm Kiến An thứ nhất, khi đó Lưu Bị vừa tiếp nhận ấn soái Từ Châu. “Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tiên chủ chống lại ở Hu Di, Hoài Âm,…” Lưu Bị đành để Trương Phi ở lại phòng thủ Hạ Phì còn bản thân mình thì đem quân chống lại Viên Thuật. Kết quả Tào Tháo cấu kết với Lã Bố tấn công Hạ Phì, “Bố bắt vợ con tiên chủ làm tù binh”.

Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, “Bố mới thả vợ con (Lưu Bị) về”. Tới năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn biết đóng quân ở đất Tiểu Bái. Trong thời gian này Lưu Bị những muốn tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này lại tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm Dự Châu mục.

Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối nhục cũ. Tào Tháo cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm Lã Bố phục thù. Kết quả là Lưu Hoàng thúc không chịu thua kém ai lại bị bại dưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao Thuận “lại bắt được vợ con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”.

Cuối cùng chính Tào Tháo phải thân chinh đánh Lã Bố. Sách “Tam Quốc chí” chép: “Tào công tự mình thân chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phì, bắt sống được Bố”. Chỉ tới lúc này, Lưu Bị mới có thể đem vợ con về. Đó là lần thứ hai. Sau đó hai năm, đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn cớ Viên Thuật mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phì vốn đã thuộc về Tào Tháo.

Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng sợ không còn con đường lựa chọn nào khác “bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại “bắt được thê tử của tiên chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.

Chúng ta biết đều biết “ba điều kiện” của Quan Vũ với Tào Tháo rồi “qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo hai vị phu nhân hay không.

Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia đình, còn sinh ra A Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và “vợ con tiên chủ”. Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến dịch Trường Bản, Lưu Bị “bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng hơn mười người ngựa bỏ chạy”. Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử liệu không thấy nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch này. Như vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần, Tào Tháo bắt hai lần.

Truy nguyên nguồn gốc của sự tình dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Điều đáng nói là, mọi người thường ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân Lưu Bị cũng xác nhận như vậy. Nhưng cách mà Lưu Bị đối xử với vợ con như vậy hoàn toàn không thể lấy lý do “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” để biện minh được. Bởi lẽ, nếu không giữ được cái nhỏ thì chắc gì cái lớn đã giữ được.

Điều đáng nói là hành động bỏ vợ bỏ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị hoàn toàn trái ngược với hành động hy sinh tính mạng để cứu con của Mi phu nhân, dù đứa con được cứu hoàn toàn không phải là con của bà ta. Thực tế, chuyện này phải bắt đầu từ hồi thứ 25 “Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo giải trùng vây”. Khi đó, Quan Công dẫn binh vào Hạ Phì, thấy nhân dân yên ổn, liền đi vào phủ tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi nghe nói Quan Công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: “Làm cho hai chị phải thất kinh, thực là tội của mỗ vậy.

Hai phu nhân liền hỏi: “Hoàng thúc nay ở đâu?”. Công đáp: “Hiện không rõ”. Hai phu nhân hỏi tiếp: “Nay nhị thúc định thế nào?” Công đáp: “Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở Thổ sơn, Trương Liêu khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng ước hẹn.

Tào Tháo đã đồng ý, nên lui binh cho tôi vào trong thành. Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa dám tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: “Ba việc thế nào?”. Quan Công đem ba việc ở trên mà nói lại một lần. Cam phu nhân nói: “Đêm qua quân Tào vào thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ chúng không hề động tới, một tốt cũng không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta? Chỉ sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc thôi”.

Công đáp: “Hai chị yên tâm, Quan mỗ đã có cách”. Hai phu nhân nói: “Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”. Đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân là sản phẩm điển hình của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia. Qua lời “phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi” và “Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại hoàn toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống chết của bản thân họ đều do người đàn ông nắm giữ. Những hình tượng phụ nữ như thế là một dạng ký hiệu tồn tại trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Ý nghĩa mà họ mang theo trong tác phẩm văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người đọc. Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh cảm động của Mi phu nhân trong hồi thứ 41 của “Tam quốc diễn nghĩa”, Lưu Huyền Đức mang dân qua sông, Triệu Tử Long một ngựa cứu thiếu chủ.

Khi đó, quân Tào trùng trùng vây khốn Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi phu nhân bị trọng thương. Đối diện với có hội sống sót duy nhất đó, người phụ nữ này nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một cách đầy nghĩa khí rằng: “Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể thương xót phụ thân của A Đẩu nửa đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa con này, dẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.

Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa con không phải do mình sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Một người phụ nữ không mảy may nghĩ đến tính mạng của bản thân để bảo vệ đứa con của người phụ nữ khác, điều này có lẽ chính là nguyên nhân đã khiến Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không ngừng, cứu được tiểu chủ nhân.

Kết thúc hồi này, La Quán Trung đã đặc biệt ca ngợi Mi phu nhân rằng: “Dùng cái chết để bảo tồn dòng giống họ Lưu, Đấng nam nhi còn thua người phụ nữ trượng phu này”. Sự đáng kính của người con gái anh hùng can đảm vì đại nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này, độc giả không khỏi cảm thấy xúc động.

Một người phụ nữ vì đại nghiệp của chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh khiến cho nhiều đấng mày râu không khỏi thẹn thùng. So với hành động của Mi phu nhân, việc bỏ vợ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị sao có thể nói là “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” được?

Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị đã được một người xem tướng nói rằng: “Cô gái này sau này sẽ phú quý vô cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”. Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều qua đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A Đẩu.

Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ lớn lẫn vợ bé. Hoàn toàn dựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô “hương tan ngọc nát”, gặp bạo bệnh mất ở tuổi 24.

Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy đông chạy tây, trôi dạt nghèo khổ tương phản hoàn toàn với dự đoán của người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút hạnh phúc nào. Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành không giống với những phụ nữ bình thường khác. Mười tám tuổi đã trở thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong trướng lụa, đứng ở ngoài trời mà nhìn.

Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ dưới ánh trăng vậy. Ở Hà Nam có người muốn lấy lòng Lưu Bị, dâng tặng một tượng ngọc cao ba thước (khoảng 1m), Lưu Bị đem tượng ngọc này để cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục để so sánh với người ngọc ở bên.

Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: “Điều quý của ngọc là ở chỗ nó có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc thành nhân hình thì khó mà bỏ đi được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không biết đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá hủy tượng ngọc.

Bà từng khuyên Lưu Bị rằng: “Trước đây Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện tại Ngô và Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí của mình. Phàm là thứ gì sinh ra dâm cảm đều không nên dùng”. Lưu Bị nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc. Tổng quan mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có một chút tựa hồ tốt đẹp: từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân.

Đến khi hậu chủ Lưu Thiện tức vị đã phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng sự tôn vinh này cũng chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là “phú quý nhờ con” mà thôi. Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính thất nhưng khi Lưu Bị làm Hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà nữa.

Tam Quốc chí của Trần Thọ cũng không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một câu của Mi Trúc truyện (Trúc dâng em gái của mình làm phu nhân của tiên chủ). Có thể nói rằng, Mi phu nhân lúc còn sống thì gian khổ, gặp hết kiếp nạn này tới kiếp nạn khác khi chết lại im hơi lặng tiếng.

Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu Bị đã từng nói rằng: “Anh em như tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi” mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì “quần áo rách, có thể may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Nhiều người cho rằng, câu nói này thể hiện khí phách anh hùng, hoài bão kinh bang tế thế của Lưu Bị. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng điều này chỉ thể hiện sự coi thường của Lưu Bị đối với vợ con mình.

Với Lưu Bị, vợ con chỉ giống như đồ vật, tùy lúc, tùy nơi có thể thay được. Chính vì thế, trong cuộc đời mình, Lưu Bị rất nhiều lần bỏ vợ con chạy thoát thân và cũng lấy rất nhiều vợ. Trước khi lấy Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị đã trải qua nhiều đời vợ. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh loạn lạc, vợ của Lưu Bị hoặc chết vì bệnh, hoặc chết vì chiến loạn nên dù là vợ thứ nhưng Cam phu nhân được Lưu Bị giao cho nắm quản mọi việc trong gia đình.

Sau này, ngoài Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị còn lấy hai người nữa làm vợ. Một người chính là em gái của Tôn Quyền, sử gọi là Tôn phu nhân. Người còn lại chính là người được Lưu Bị phong làm Hoàng hậu, Ngô thị. Hôn sự mang màu sắc chính trị này đã được rất nhiều tài liệu nhắc tới. Tuy nhiên, có lẽ ít người được biết tới câu chuyện lấy góa phụ Ngô thị của Lưu Bị. Ngô Thị từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, trước khi chết, cha của Ngô thị đã gửi gắm cô cho Ích Châu Mục là Lưu Yên. Lưu Yên nghe thầy tướng số nói Ngô thị có quý tướng, sau này ắt hẳn giàu sang, phú quý tột bậc có thể làm tới hoàng hậu, vì vậy muốn cưới Ngô thị làm vợ.

Tuy nhiên, do Lưu Yên và cha Ngô thị là bạn bè lâu năm, nay lại lấy con bạn thì thật không phải, vì thế, Lưu Yên đành cưới Ngô thị cho con trai mình là Lưu Xương. Lưu Xương sau đó chết sớm, Ngô thị trở thành góa phụ. Tới năm 214, Lưu Bị lấy thành Ích Châu, quần thần khuyên Lưu Bị lấy Ngô thị, Lưu Bị nghĩ rằng mình với Lưu Xương là người cùng họ, lấy Ngô thị e không tiện. Tuy nhiên cuối cùng, do quần thần khuyên nhủ, Lưu Bị quyết định nạp Ngô thị làm thiếp.

Vào năm Kiến An thứ 24, sau khi lên ngôi Hán Trung Vương, Lưu Bị lập Ngô thị làm Vương hậu. Tiếp đó tới năm Chương Vũ thứ nhất, Lưu Bị xưng đế, lập Ngô hậu làm Hoàng hậu. Năm 221, Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can.

Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu đi cùng. Tôn Quyền sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà sinh bệnh nặng sau đó chết tại đây.

Theo Hôn nhân & Pháp luật

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện đời tư ít biết của gian hùng Lưu Bị

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tuyệt chiêu đốn ngã trái tim người tuổi Mùi trăm trận trăm thắng

Các chàng trai cô gái tuổi Mùi thường có tính cách ôn hòa, bình lặng, dễ được người khác yêu quý. Hãy cùng Lịch ngày Tốt chinh phục người tuổi Mùi ngay thôi!
Tuyệt chiêu đốn ngã trái tim người tuổi Mùi trăm trận trăm thắng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo luận giải tử vi 12 con giáp, các chàng trai cô gái tuổi Mùi thường có tính cách ôn hòa, bình lặng, dễ được người khác yêu quý. Cũng vì vậy, khi ở cạnh họ, bạn không nên có những hành động hoặc cử chỉ thái quá. Có như vậy, tình yêu của 2 bạn mới bền chặt.

Người tuổi Mùi không coi trọng hình thức và các yếu tố vật chất. Họ ưa thích sự dịu dàng và chân thành. Do đó, hãy chinh phục người tuổi này bằng tấm lòng chân thành và tình cảm sâu sắc của bạn.

 

Chinh phục người tuổi Mùi nam giới


Những cô gái đầy nữ tính, luôn cần được che chở, bảo vệ là mẫu phụ nữ ưa thích của chàng trai tuổi Mùi. Chính sự nhu mì, hiền thục của bạn khiến chàng dễ dàng cởi mở tấm lòng. Cũng bởi vậy, họ không bao giờ để mắt đến những cô gái có tính cách bạo dạn như nam giới.

Chinh phục nữ giới tuổi Mùi


Các cô gái tuổi Mùi thường rất dịu dàng, lương thiện và nhẫn nại. Vì vậy, họ thích đàn ông có trái tim nhiệt tình, chân thành. Bạn cần cố gắng quan tâm đến họ cả trong công việc lẫn cuộc sống. Đó là hành động ghi điểm rất hiệu quả để cô gái tuổi Mùi cảm nhận được tấm lòng và tình yêu thương của bạn.

Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết:
Người tuổi Mùi hợp với tuổi nào trong tình yêu và hôn nhân? 

(Theo Bách khoa thư 12 con giáp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyệt chiêu đốn ngã trái tim người tuổi Mùi trăm trận trăm thắng

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân - Phong thủy - Xem Tử Vi

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, tu vi 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân

Các cô nàng còn độc thân nên lưu ý những kiêng kỵ phong thủy sau đây trong bài trí nhà cửa để may mắn hơn trong tình duyên.

Muốn biết vận may và tiền tài của nữ gia chủ chỉ cần nhìn gian bếp. Nếu phòng bếp có cột đè lên kệ bếp sẽ không có lợi cho tiền tài. Nếu vừa mở cửa chính nhìn thấy bếp dễ hao tài. Vì thế khi mua nhà, các cô nàng còn độc thân cần xem kĩ vị trí phòng bếp.

Tài vị (vị trí của tài khí) chính là 2 góc phòng khách đối diện với cửa chính, đây là vị trí phong thủy quan trọng. Nếu bạn là cô nàng độc thân cần quan sát kĩ xem có đủ hai vị trí đó không. Bởi nếu không có đủ tài vị thì căn hộ của bạn không thể tích tụ được tài khí, gây hao tài tốn của liên miên.

Căn hộ dành cho người độc thân thường có diện tích nhỏ nên chỉ cần nhìn lướt qua là có thể bao quát được mọi thứ trong nhà. Phong thủy dành cho căn hộ của người độc thân cũng đơn giản hơn. Nhưng có một điểm quan trọng bạn cần chú ý, phong thuy khi mua nhà hoặc thuê nhà, cần chú ý không nên chọn những căn hộ khi mở cửa chính đã thấy ban công vì cách bố trí như vậy thường không thể giúp bạn tụ tài khí.

Trần nhà hoặc tường nhà nhất định không được ngấm nước. Nếu nhà thuê thì nên đổi phòng khác, nếu nhà mình thì phải gọi người vào sửa lại. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng xấu đến phương diện tình cảm, mà còn ảnh hưởng đến tiền tài của bạn.

Nếu trong nhà có ban thờ thì bên trái là thờ thần linh, bên phải là thờ tổ tiên. Nếu chỗ đặt bài vị của tổ tiên có dây điện, hay dính vào góc trần nhà cũng sẽ không có lợi cho nữ gia chủ.

Trần phòng ngủ không được trang trí quá rườm rà phức tạp, kẻo ảnh hưởng tới phương diện tình cảm của nữ chủ nhà. Trần phòng như vậy dễ khiến người yêu bạn có thiên hướng phân tâm hoặc ngoại tình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân - Phong thủy - Xem Tử Vi

Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt

Thông qua các nét tướng mặt, bạn có thể đoán biết phần nào tính cách, bản chất con người đối phương để có thể trao gửi tình cảm đúng người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Xem tướng mắt   Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn. Thông qua đôi mắt, bạn cũng có thể thấu hiểu phần nào tính cách, con người cũng như tâm tư, tình cảm của đối phương. Nhìn mắt chọn người, đây là cách đơn giản nhưng lại khá chính xác.   Nếu đối phương có mắt hình tam giác, chứng tỏ nội tâm đen tối, làm ít nhưng muốn hưởng lợi nhiều, chưa giúp người đã đòi báo đáp.  

Chop mat chon dung doi tuong phu hop qua tuong mat hinh anh
 
Hơn nữa, người này còn kén cá chọn canh trong việc lựa chọn bạn đời, đề ra tiêu chuẩn quá cao. Thường thì đối phương phải đáp ứng về điều kiện kinh tế và nhan sắc thì mới có thể lọt vào “mắt xanh” của người này.   Ngược lại, nếu quan sát thấy mắt đối phương có thần sắc, lòng đen và lòng trắng rõ ràng, chứng tỏ đó là người có tâm, trái tim nhân hậu, tốt bụng, có tinh thần trách nhiệm cao. Vì thế, nếu thấy tính cách có điểm tương đồng, bạn hoàn toàn có thể “bật đèn xanh” cho người này.  
2. Xem tướng mũi
  Thông thường, tướng mũi chủ về tài lộc, sự nghiệp. Người có sống mũi cao, thẳng thì tố chất thông minh, coi trọng sự nghiệp, có chí tiến thủ. Dù là trong sự nghiệp hay tình yêu, người này đều cảm thấy viên mãn, thuận lợi.   

 
Nếu sống mũi thấp, lại cong vẹo, khuyết hãm thì tài lộc khó vượng, làm việc dễ bỏ cuộc giữa chừng, dễ bị tác động bởi các yếu tố xung quanh. Ngoài ra, người này thuộc tuýp lãng mạn, làm việc theo hứng, không câu lệ tiểu tiết.   Nhìn chung, cuộc sống của người này khá vui vẻ, không nhiều áp lực. Bản thân họ không bao giờ tạo áp lực cho mình, lúc nào cũng tâm niệm sống vui vẻ, thoải mái là được.    3. Xem tướng gò má  
Chop mat chon dung doi tuong phu hop qua tuong mat hinh anh
 
Trong nhân tướng học, gò má đại diện cho quyền lực. Phần xương gò má quá cao, cho thấy chủ nhân có tính cách hung bạo, ngang ngược, làm việc gì cũng có dã tâm. Vì thế, đối tượng phù hợp với người này phải có tính kiên nhẫn cao độ, tính tình điềm đạm, cư xử khéo léo. Nếu không, hai bên dễ mâu thuẫn, cãi vã liên miên, hôn nhân khó mà viên mãn.   Ngược lại, người có gò má cân đối với toàn khuôn mặt thì lại luôn tìm kiếm cảm giác an toàn. Thế nên, họ rất cần những ai mạnh mẽ, can đảm ở bên cạnh để bảo vệ, che chở.  
4. Xem tướng cằm
 
Chop mat chon dung doi tuong phu hop qua tuong mat hinh anh
 
Chủ nhân của tướng mặt mà có cằm tròn đầy, tính tình chân thành nhưng khá thận trọng. Trong việc lựa chọn bạn đời, người này cũng khá kén chọn, nhưng không tới mức thái quá.   Còn những ai có cằm nhọn lại rất coi trọng vật chất, trước khi chọn đối tượng cho mình, họ sẽ cân nhắc điều kiện vật chất trước. Thói ham hư danh của người này dường như đã ăn sâu vào bản chất, khó lòng thay đổi.  
Ngân Hà
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt

Người tuổi Dậu và tuổi Hợi có hợp nhau?

Người tuổi Dậu là người ghét cay ghét đắng sự bừa bãi. Trong con mắt của họ, Hợi là mẫu người chỉ thích hưởng thụ. Trong khi đó, Hợi lại là con giáp khá dễ
Người tuổi Dậu và tuổi Hợi có hợp nhau?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tính, ít để ý tới những điều trên, chỉ thích sự xa xỉ, thừa thãi. Bởi vậy, khi kết đôi thì Dậu sẽ là người phải chịu trách nhiệm chính trong việc thu dọn mọi thứ. Đồng thời, là người giữ chúng nằm trong trật tự để duy trì mối quan hệ hài hòa.

 
Nếu Dậu và Hợi yêu nhau, mâu thuẫn giữa 2 con giáp này có xảy ra hay không phụ thuộc vào chính cách ứng xử và thiện ý của Hợi. Khi họ bên nhau, chuyện cãi vã có thể xảy ra như cơm bữa. Hợi thích sự tiện nghi, thoải mái như thưởng thức món ăn ngon, thích thú với “chuyện ấy” và ngủ trên chiếc giường thật êm… Ngược lại, Dậu thích những điều thực tế, thích hoàn hảo và không chịu được sự lười biếng. Do đó, dù Hợi rất chăm chỉ nhưng trong con mắt của Dậu điều đó vẫn chưa đủ. Để giữ được mối quan hệ tốt đẹp giữa 2 con giáp này cần đến sự hy sinh trong tình yêu. Về điều này, ưu điểm của Dậu là rất trung thành khi yêu, còn Hợi thì thường rộng lượng và yêu hết mình.

Khi là đối tác kinh doanh, Dậu và Hợi thường thành công khi biết phát huy thế mạnh của mình trong các mối quan hệ. Trong phân công lao động, người tuổi Dậu thích hợp đảm nhiệm các công việc tỉ mỉ hoặc liên quan đến tài chính. Hợi vốn chăm chỉ và định hướng tốt, rất phù hợp với việc tiến hành các kế hoạch mà Dậu đã lập. Bên cạnh đó, Hợi sẽ đảm nhiệm cả những nhiệm vụ liên quan đến khách hàng bởi trong lĩnh vực này, Hợi có khả năng làm tốt hơn Dậu.

(Theo Zing)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dậu và tuổi Hợi có hợp nhau?

Sao Thiên Lương - Uy dũng, sát phạt là một thọ tinh

Tìm hiểu về ý nghĩa sao Thiên Lương trong lá số tử vi. Thiên Lương Chủ về sự uy dũng và sát phạt, là một thọ tinh thuộc tính âm mộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên Lương - Uy dũng, sát phạt là một thọ tinh

Sao Thiên Lương - Uy dũng, sát phạt là một thọ tinh

Trong tử vi sao Thiên lương thuộc chòm sao chủ về sự uy dũng và sát phạt

Sao Thiên Lương thuộc chòm sao nam Đẩu Tinh, tên thường gọi là Lương (thuộc tính Âm mộc).

Thiên Lương miếu địa tại: Ngọ, Thìn, Tuất.

Vượng địa tại: Tý, Mão, Dần, Thân.

Đắc địa tại: Sửu, Mùi.

Hãm địa tại: Dậu, Tỵ, Hợi.

Cung mệnh có sao Thiên Lương tọa thủ là người thân hình thon gọn, cao, da trắng vẻ mặt thanh tú và khôi ngô, có tính khoan hòa.

Thiên Lương miếu địa, vượng địa hay đắc địa là người thông minh, có tính nhân hậu và từ thiện, được hưởng giàu sang trọn đời.

Lương hãm địa tại cung Tỵ và Hợi là người kém thông minh tuy nhiên vẫn có tính nhân hậu nhưng lại nông nổi thích chơi bời phóng đãng, ăn mặc hoang phí thích sống phiêu lưu nay đây mai đó.

Thiên Lương hãm địa tại cung Dậu là người kém thông minh, cũng có tính nhân hậu, nhưng không bền chí, làm bất cứ việc gì cũng không suy xét và hay nhầm lẫn.

Sao Thiên Lương hãm địa tại cung Tỵ, Hợi, Dậu suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, hay thay đối chí hướng và nghề nghiệp. Công việc lại thường phải ly tổ buôn ba khó tránh khỏi gặp những tai họa.

Thiên Lương miếu địa, vượng địa hay đắc địa gặp Xương, Khúc, Tả, Hữu, Tuế tất có văn tài lỗi lạc thường chuyên về ngành nhà giáo.

Thiên Lương miếu địa, vượng địa hay đắc địa gặp Tả, Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy hội họp là người giàu sang lỗi lạc, thường chuyên về ngành y.

Sao Thiên Lương gặp Tuần, Triệt án ngữ thì suốt đời phải chịu lao khổ phải sớm xa gia đình, hay gặp phải những tai họa, tuổi thọ bị triết giảm, nên đi tu hành để được yên thân.

Nam mệnh có Thiên Lương tọa thủ miếu địa tại Thìn và Tuất là người có nhiều mưu cơ, thích bàn luận về các chiến lược.

Nữ mệnh có sao Thiên Lương tọa thủ hãm địa là người có tính phóng đãng, ưa việc ong bướm đi về, suốt đời lo lắng buồn bực vì chồng con.

Cung mệnh an tại Ngọ có Thiên Lương tọa thủ, rất rực rỡ tốt đẹp. Tuổi Đinh, Kỷ, Qúy có cách này tất được hưởng giàu sang tới tột bậc uy quyền hiển hách. Các tuổi khác có cách này cũng được quan to chức lớn.

Cung mệnh an tại cung Mão có Thiên Lương Tạo thủ gặp Thái Dương đồng cung thì thật là tốt, được ví như mặt trời mọc phương đông hừng sáng. Người có cách này thì mặt vuông vắn, đầy đặn luôn tươi nhuận cả đời được hưởng phú quý và an nhàn.

Cung mệnh an tại Tý có sao Thiên Lương tọa thủ gặp Thái Dương xung chiếu và Xương, Lộc hội họp, hay an tại Ngọ có Nhật tọa thủ gặp Lương xung chiếu và Xương, Lộc hội họp là người rất thông minh, đi thi tất đỗ cao, sớm thành công danh được hưởng giàu sang và phú quý.

Cung mệnh có Thiên Lương hãm địa và tọa thủ gặp Nguyệt hợp xung chiếu hay có Nguyệt hãm địa tọa thủ gặp Lương hợp chiếu là người giang hồ suốt đời bôn tẩu nay đây mai đó, ví như lá bèo trôi trên mặt nước.

Cung mệnh an tại Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ có Lương tọa thủ gặp Nguyệt, Linh hội chiếu là người có nhiều tài năng và quý hiển.

Nam mệnh mà cung mệnh tại Tỵ, Hợi có Thiên Lương hay Thiên Đồng cùng tọa thủ là người phóng đãng thích phưu lưu nay đây mai đó.

Nữ mệnh mà có cung mệnh tại Tỵ, Hợi có Lương hay Đồng tọa thủ là một người dâm dật.

Cung mệnh, Thân có Thiên Lương hay Thiên Đồng miếu địa vượng địa hay đắc địa tọa thủ hay có Lương, Đồng tọa thủ đồng cung suốt đời không bao giờ mắc phải tai ương họa hại. (Ấm là tên riêng của Thiên Lương, cũng như phúc là tên riêng của Thiên Đồng).

Cung mệnh an tại Dần và Thân có Lương tọa thủ và đồng cung, gặp Cơ, Nguyệt hợp chiếu, nên rất thông minh và hưởng giàu sang trọn đời.

Cung mệnh có Lương miếu địa, Vượng địa tọa thủ, gặp Xương đồng cung, nên rất quý hiển.

Cung mệnh an tại Tý, Hợi có Lương tọa thủ gặp Mã đồng cung hay xung chiếu là người phiêu đãng thích chơi bời, ngao du nay đây mai đó, hay thay đổi chí hướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Lương - Uy dũng, sát phạt là một thọ tinh

Tam, sáu mươi can chi loại tượng

Sáu mươi can chi tổ hợp tự thân có tượng, thông qualiên hệ, tức sinh, khắc, hại, mộ, hợp chờ, thêm sẽ có tân đích tượngxuất hiện.
Tam, sáu mươi can chi loại tượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tự thân tượng:

Đinh sửu: Manh phái(?)

Ất mùi: Mộc thổ tổ hợp, biểu kiến trúc vật.

Giáp thân: Xương sống, cổ chuy.

Tân mùi: Đại toán, cay tiêu chờ.

Kỷ mão: Ấu miêu, đậu nha, mầm móng chờ.

Mậu tuất: Xi măng đôn tử, biểu kiến trúc vật.

Khẩu quyết: Giáp ngộ đinh ngọn lửa phát hi.( Dần mộc ngộ ngọ ngọn lửa phát hi sao?)

Khôn: Quý quý giáp đinh

Sửu hợi dần mão

Quý xung đinh hủy dung rồi. Giáp ngộ đinh vi diệt. Nhàn chú: Giáp vi đầu, đinh vi mặt,93 năm chính nguyệt mười sáu nhật vãn bị hủy sắc mặt, đinh sửu năm chỉnh sắc mặt, cái mông thượng đích thịt áp vào trên mặt. Nguyên cục dần hợi hợp diệt dần trung bính hỏa, chỉ có một chút đinh thấu thời, chủ mặt, lưỡng quý xung khắc, vị can đầu lặp đi lặp lại, chủ hung. Vì sao không chết? Là nguyên nhân giáp dần thân thể mùi bị thương! Hành sửu vận, quý đến, khác dần sửu ám hợp, bị thương đinh hỏa. Dậu làm quan sát vi kẻ trộm, củng sửu.

Giáp mộc phân chết sống, vi tử mộc thời, có thể đoạn cao lâu. Giáp cũng vi kinh mạch.

Càn: Giáp canh tân giáp

Ngọ ngọ hợi ngọ

Chế bất hảo, phát tài rồi. Tố đồ dùng trong nhà( Tử mộc). Lão bà khai dệt hán, chẳng khác không có việc gì.

Dương mộc ngộ hỏa vi đồ dùng trong nhà, âm mộc ngộ hỏa vi dệt. Nhàn chú: Chính mình có khi ngã ngã phảng cổ nhà đều, lão bà khai đích dệt hán. Hợi bị ngọ phá hủy, chính mình không có khác sự tình có thể tố.

Khôn: Quý đinh quý quý

Mão tị sửu hợi

Bán quần áo đích. Nhàn chú: Ất mộc vi dệt tuyến, mão mộc vi âm mộc ngộ hỏa vi dệt phẩm, này tạo tố trang phục sinh ý đích.

Càn tạo: Mậu giáp giáp bính

Thân tử dần dần

Bính hỏa, tình cảm mãnh liệt, tính tình người trong, hào phóng. Vi diễn thuyết.

Nữ mệnh hai tròng mắt đại( Nữ chủ xinh đẹp), nam mệnh hai tròng mắt không lớn( Nam tài hoa). Nhàn chú: Quý tại lấy ấn tử thủy hóa thân sát, làm quan. Lớn lên sửu, đôi mắt nhỏ con ngươi, nhưng rất có tài hoa! Hào sảng, khẩu tài hảo!

Hác kim dương tiên sinh:

Canh quý kỷ bính

Ngọ mùi mão dần

Quý gia tăng bính, chẳng khác đồng tử. Hác kim dương tiên sinh, quý thủy lấy hết.

Nhàn chú: Bính xứng quý tài xem như hai tròng mắt. Bính vi mắt khuông, quý vi đen, vi con ngươi, quý thủy nướng [phạm/làm], mắt manh.

Khác: Mậu vi kiến trúc, kỷ vi thân thể( Nữ tính thì đường cong khom, gợi cảm; biểu hiện lực cường, vũ đạo diễn viên, người mẫu); canh kim hệ nhược không thích vượng; tân kim vi âm kim, thật nhỏ kim loại, tân kim xứng quý thủy tổ hợp: Kim thủy thương quan xinh đẹp! Tân kim lấy tài vi năm kim ngành sản xuất, hỏa khắc kim vi dã luyện ngành sản xuất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam, sáu mươi can chi loại tượng

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd