Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè. Mùa hạ - mùa xa cách của lứa tuổi học trò, mùa của những chú ve sầu kêu da diết
Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè. Mùa hạ – mùa xa cách của lứa tuổi học trò, mùa của những chú ve sầu kêu da diết. Chính vì thế, mùa hạ là cảm hứng của biết bao câu nói hay, vần thơ đầy xúc động.

Mời bạn tham khảo những câu nói hay và vần thơ hay nhất về mùa hè sau đây!

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

ĐÀN CHIM SẺ

Hót trên cánh đồng
Bạn ơi biết không
Hè về rồi đó

Chiều nay bạn gió
Mang nồm về đây
Ôi mới đẹp thay!
Phượng hồng mở mắt

Dòng sông trong vắt
Trườn lên bãi xa
Một chuyến đò qua
Mang theo lũ bướm

Cánh diều bay lượn
Thênh thang lúa đồng
Bạn ơi thích không?
Hè về rồi đó!

MÙA HÈ

“… Mùa hè hoa rau muống
Tím lấp lánh trong đầm
Cơn mưa rào ập xuống
Cá rô rạch lên sân …”
—Tạ Vũ—

Mùa hè còn chan chứa bao nhớ thương, bao vấn vương và lưu luyến của bao cô cậu sinh viên, học trò. Mùa hè – mùa thi – mùa chia ly. Không ít những ánh văn bất hủ, bài thơ, những câu nói hay và ý nghĩa nhất vẽ lên những kỷ niệm, những tâm trạng đầy lưu luyến nơi mái trường xưa yêu dấu.

Có ai đi xa rồi không nhớ những tháng năm học trò, những kỷ niệm góc sân trường thân quen, tiếng ve hè râm ran, nhưng kỳ thi, nét bút nghiêng nghiêng. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Trường xưa”

TRƯỜNG XƯA

Cứ ngỡ rồi đây xa lắm một mái trường
Ta không đủ sức níu thời gian gần lại
Mái ngói mờ rêu, tán lá bàng xa ngái
Những con đường, sỏi đá nhịp buồn tênh

Tháng năm rơi trên bậc thềm chênh vênh
Sân trường cũ, và bài thơ cũng cũ
Ô cửa sổ bốn mùa nắng rủ
Và cơn mưa trong trẻo mắt bạn bè

Một mùa xa hoa phượng chật vòng xe
Nét mực tím vương dấu tay mùa hạ
Màu xanh dịu thân thương trên vòm lá
Nhạt sắc trời, con chim sẻ nào bay…

Qua những mùa thu vương lối heo may
Hoa cỏ tím góc sân trường thầm lặng
Ai không nhớ những vòm trời mây trắng
Mùa tựu trường gom gió hát vu vơ…

Gốc bàng xưa im lặng đến bây giờ
Mong mỏi phía hành lang xa vời vợi
Chỉ một câu thơ cũng thành tiếc nuối
Chuyện giận hờn, viên sỏi nhỏ màu xanh

Ta cứ ngỡ rồi tất cả qua nhanh
Mái tóc xưa chắc giờ không còn ngắn
Đã đơn giản như ta từng ngộ nhận
Một điều gì, mà nào có gì đâu…

Bàn ghế xưa rưng rưng ngả màu
Mùa xưa cũ bâng khuâng như thần thoại
Hoa cỏ may buồn đi vào xa mãi
Kỷ niệm giăng đầy rợp một mái trường quê

Bạn bè xưa chẳng có lúc tìm về
Trái bàng chín nằm ngơ trong mùa cỏ
Giọng thầy khan, trầm ngâm trong gió
Mái tóc thầy điểm bạc hoa lau

Ta cứ ngỡ rồi tất cả qua mau
Tuổi thời gian nhòe lem như giọt mực
Thương nhớ ấy nhuộm màu mây ngũ sắc
Lá học trò vụng dại trốn nơi nao…

Ô cửa mùa thu mây trắng lại bay vào
Ta lại thấy mình những ngày thu lớp trước
Con đường mùa xa, bàn tay nào với được
Giấc mơ một mái trường màu ký ức phong rêu

Hiên lớp xưa lời thầy vọng đều đều
Bụi thời gian phủ đầy lên kỷ niệm
Bài thơ cũ đợi ta về viết tiếp
Tuổi vụng về hát gọi tháng năm ơi…

Ta bước đi tiếng trống giục bồi hồi…
— Phạm Trung Kiên –

MÙA HÈ

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh
Mùa hè nào gặp gỡ
Mùa hè nào chia ly
Mùa hè nào hội ngộ
Tôi cầm trên tay hai mùa hè rực rỡ
Còn mùa hè cuối cùng rơi đi đâủ
Ai nhặt được mùa hè tôi đánh mất
Xin trả lại cho tôi
Xin trả lại cho tôi người yêu tôi
Dẫu chỉ là xác con ve sầu chết khô
Ấy chính là mùa hè của tôi
Ngủ quên trong nách lá
Những ngọt bùi tôi đã nếm trải
Những đắng cay tôi đã nếm trải
Những mùa hè bỏng rát sau lưng
Còn mùa hè cuối cùng tôi gặp lại
Trốn đi đâu ngoài tầm mắt tôi tìm ?

MÙA HÈ KỶ NIỆM

Tác giả: Dung Nguyên
Sân trường văng vẳng tiếng ve
Kìa cây phượng vĩ hoa che kín cành
Xuân qua hè đến phải đành
Xa thầy xa bạn độc hành lẻ loi …..

Thời gian thoăn thoắt như thoi
Chợt đi chợt đến khiến tôi chạnh buồn
Hai mươi năm xa mái trường
Chưa ngày về lại cội nguồn tuổi thơ

Học trò đầy ắp mộng mơ
Nhưng đời như sỏi trơ trơ gót mòn !

MỘT SÁNG MÙA HÈ

Tác giả: Trường Phi Bảo
Một sáng mùa hè đẹp biết bao
Giở trang lưu bút tuổi ước ao
Một bầy bướm phượng xôn xao múa
Kỷ niệm còn vương nét chữ nào

Có phải là anh của em không?
Cho yêu thương năm tháng chất chồng
Thuở học trò gói mơ ươm mộng
Áo trắng nào đẹp trong mắt trong

Bạn bè thân ơi giờ nơi đâu?
Có về họp nhau trên đỉnh sầu
Quay quắt ấu thơ quay quắt nhớ
Giấu nụ cười sau nét ngây ngô

Một sáng mùa hè ngập nắng vàng
Hồn thơ thanh thoát ý mênh mang
Kỷ niệm em cài trên ngực áo
Nghe trái tim mình đập rộn ràng

Sao anh chẳng về lại ngày xưa
Đôi bóng kề nhau đếm sao thưa
Đôi bóng quyện vào trang sách mới
Mở một chương đời chuyện nắng mưa

Mùa hạ xin cho lời nhắn gởi
Với người năm cũ lắm xa xôi
Rằng em vẫn chờ bên song cửa
Một tình yêu tha thiết mà thôi

Mùa hè đến rồi đi chứng kiến bao kỷ niệm, bao yêu thương của lứa đôi. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Tình yêu giữa mùa hè”

TÌNH YÊU GIỮA MÙA HÈ

Tác giả: Đông Hòa

Hân hoan mùa hè cùng nhau đón
Trên tay cầm những cánh diều hoa
Vẽ lên con bướm màu xanh tím
Vươn bay trên bầu trời cao xa

Hân hoan đây mùa hè hãy đến
Cùng lắng nghe dế lúc tờ mờ
Trong hộp nhỏ khoe anh , khoe bạn
Vui sướng một thời của tuổi thơ

Hè về nhìn phượng đỏ đầy sân
Chân đứng ngước nhìn mắt bâng khuâng
Thấy em đã thành cô thiếu nữ
Đã qua thời đuổi bướm hái trâm

Và giờ đây anh đã yêu nàng
Yêu mái tóc thề buông gió sang
Yêu hình dáng bao ngày thầm ước
Một đời với tiếng hẹn trăm năm

Mùa hè cùng bao những vất vả nhọc nhằn của mẹ ngày ngày gánh hàng đi bán, bất chấp cái nắng oi bức, như thiêu như đốt. Mẹ luôn là người che chở, lo lắng cho con từng miếng cơm, manh áo. Đâu đó nơi góc phố có dáng người mong manh của mẹ. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Mùa hè và tiếng rao của mẹ”

Mùa Hè Và Tiếng Rao Của Mẹ
Tác giả: Ngưng Thu
Sáng lên hạ chuyền cánh phượng
Ve ran tình khúc mùa hè
Nắng vàng ngẩn ngơ bờ giậu
Dế mèn râu vểnh lắng nghe

Gió cõng mưa về ngang lối
Ướt nhòe áo gánh hàng rong
Liêu xiêu dáng gầy bóng mẹ
Tiếng rao thảng thốt chạnh lòng

Sáng nay nắng tràn góc phố
Em tung tăng với điểm mười
Trong veo ánh cười mắt mẹ
Gói hành trang tuổi đôi mươi

NHỚ MÃI HÈ ƠI

Tác giả: Khuất Việt Hưng
Thẫn thờ giữa buổi trưa hè
Chạnh lòng thương những tiếng ve học trò
Phượng hồng nhớ đến ngẩn ngơ
Tuổi thơ trong sáng bây giờ lùi xa.
Nhớ sao ngày ấy đã qua
Trèo lên cây bẻ nhành hoa trong trường
Tặng người bạn gái yêu thương
Đến giờ còn đọng vấn vương trong lòng.
Rời tuổi thơ với phượng hồng
Gói vào nỗi nhớ mênh mông đường dài
Mang theo khát vọng tương lai
Giảng đường đại học miệt mài luyện chăm.
Thương ôi năm tháng khó khăn
Sinh viên toàn nói chuyện ăn suốt ngày
Trưa hè ngồi dưới hàng cây
Ngắm thềm nắng rải đong đầy vần thơ.
Mang lòng yêu đến ngẩn ngơ
Mà không dám nói phải nhờ cành hoa
Rợp bằng lăng tím chiều tà
Là tình yêu của riêng ta gửi nàng.
Ước gì quay ngược thời gian
Để mình lại được mơ màng trộm yêu
Thả hồn như những cánh diều
Chao nghiêng giữa lộng gió chiều mênh mang.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Sinh mệnh nhân thể học có quan hệ như thế nào với phong thủy? (Phần 2) –

Y học, kỳ thực cũng là một loại phương pháp đối ứng điều tiết hài hoà tin tức cơ thể con người với tin tức tự nhiên. Đông y là trực tiếp áp dụng vật dẫn năng lượng tin tức không giống nhau của tự nhiên, Tây y cũng gián tiếp bắt nguồn từ tự nhiên. Có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

các chất khoáng sản, suối nước khoáng có thể trực tiếp dùng để chữa bệnh cho con người. Đối với một thang thuốc, chính là kết hợp điều tiết, giao hoán hài hoà giữa năng lượng tin tức tự nhiên với tin tức năng lượng cơ thể con người, có tác dụng sản sinh ra một loại hiệu ứng hài hoà, mạnh khỏe đối với cơ thể con người.

human

Con người có lục phủ ngũ tạng, thiên địa có âm dương Ngũ hành. Ngũ tạng là tim, gan, phổi, lá lách, thận, Ngũ hành gồm Kim, Mộc,Thủy, Hoả, Thổ, hai loại này tương ứng kết hợp. Nếu như ngũ tạng của con người quan hệ không cân đối với thiên địa ngũ hành thì sẽ sinh ra bệnh tật, xuất hiện các vấn đề về sức khỏe. Còn nếu áp dụng tin tức tự nhiên điều chỉnh (trị liệu) tin tức sinh mệnh nhân thể thì sẽ được hài hoà, sức khỏe.

Nếu như nói, y học là bắt đầu từ điều tiết thông tin trong sinh mệnh nhân thể, thích ứng với tin tức tự nhiên; như vậy điều chỉnh phong thủy kiến trúc chính là bắt đầu từ điều tiết tin tức tự nhiên, có lợi cho sự vận hành tin tức sinh mệnh nhân thể. Có một số phương vị, kết cấu bố cục, tài liệu, màu sắc… của kiến trúc nhà cửa sinh ra các loại tin tức năng lượng, sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, tâm lí, tư duy và hứng thú của con người, tự nhiên tổn thất đến sự nghiệp và gia đình. Các loại kiến trúc này nhất thiết nên điều chỉnh, cải tạo tin tức phong thủy.

Mỗi một tin tức (thông tin) sinh mệnh của cơ thể con người đều là các tiểu vũ trụ, tức là chịu ảnh hưởng của các vật thể tự nhiên xung quanh với năng lượng tin tức của con người, cũng có thể ảnh hưởng đến tin tức của con người và sự vật xung quanh. Ví dụ, cơ thể con người có vi rút thì sẽ sản sinh ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe những người xung quanh. Mà có thể tin tức sinh mệnh mang năng lượng tương đối lớn, cũng sản sinh tác dụng lực có lợi đối với con người và sự vật xung quanh. Nếu như thấy khí công tu luyện đắc đạo thì có thể thông qua các phương thức di truyền tin tức mà tiến hành điều chỉnh có lợi đối với nhân thể xung quanh thậm chí là cả các tin tức tự nhiên.

Do đó, mỗi tin tức sinh mệnh của cá thể con người cũng có thể thông qua phương pháp rèn luyện thân thể và tu luyện khí công tiến hành điều chỉnh và ưu hoá bản thân.

Vật cái tướng: Ngọc như ý

Giải thích: Như ý là một pháp khí có hình thái uốn cong, chính là ý nghĩa như ý nguyện. Lộc tinh trong tam tinh Phúc, Lộc, Thọ tay cầm như ý. Chất liệu ngọc như ý không giống nhau thì công hiệu cũng không giống nhau. Mọi người thường thích ngọc như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh mệnh nhân thể học có quan hệ như thế nào với phong thủy? (Phần 2) –

Cách bày bàn thờ thần tài ông địa hợp phong thủy

Hướng dẫn cách bày bàn thờ thần tài, ông địa hợp hướng, hợp mệnh gia chủ, hợp phong thủy để mang lại tài lộc
Cách bày bàn thờ thần tài ông địa hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu ý : Bàn thờ Thần tài chỉ được lập ở những nơi góc nhà, xó nhà chứ không phải nơi sạch đẹp, trang trọng như bàn thờ Tổ Tiên hay bàn thờ Thổ Công. Bản chất Trường Khí phòng thờ (hay bàn thờ) thuộc tính Âm, không ưa sự phô trương, mang tính đối nội (ngay cả trong ngày giỗ hay Tết thì thờ cúng cũng là việc riêng của gia đình đó, người ngoài đến muốn thắp nén nhang phải xin phép gia chủ).

Về Ngũ Hành thì bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc là 2 hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày. Trừ bàn thờ Ông Địa Thần Tài là tín ngưỡng dân gian mọi nhà giống nhau, đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, còn lại bàn thờ gia tiên và tôn giáo riêng của mỗi gia đình (thờ Phật, thờ Chúa…) nên mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách.

Ngoài bàn thờ gia tiên, ở Nam bộ, người ta còn có trang thờ, bàn thờ ông Táo, thờ ông Địa, ông Thần Tài. Trang thờ được bố trí ở trên cao, nơi gian giữa. Trên trang thờ có đôi chân đèn nhỏ, lư hương, bình bông, mâm dĩa trái cây, chung rượu, tách nước.

Bàn thờ ông Táo được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định họa phước, trừ ma diệt quỷ.

Riêng các vị Thần Tài, Ông Địa chỉ thờ dưới đất, trong góc hẹp, được lý giải bởi một truyền thuyết sau: Ngày xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt. Âu Minh đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to. Về sau, đúng vào một hôm ngày tết, Âu Minh giận, bèn đánh Như Nguyệt. Sợ hãi, Như Nguyệt chui vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết.

Người ta bảo Như Nguyệt là Thần Tài và người ta lập bàn thờ Như Nguyệt. Từ đó, ngày tết ta có tục kiêng hốt rác ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt, tiến tới được.

Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một phiên bản của Thần Đất (Thổ Địa) – vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời, đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng, mùa màng bội thu. Khi những cư dân từ miền Trung vào khai khẩn vùng đất Nam bộ, họ gặp phải rất nhiều khó khăn (thiên nhiên khắc nghiệt, thời tiết thất thường, thú dữ hoành hành…) và ý niệm trông mong vào các vị thần bắt đầu hình thành để giúp họ trấn an trên con đường mưu sinh.

Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.

Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng.

Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lai lộc tấn. Vì vậy, cư dân Nam bộ hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa – vị thần cai quản đất đai, nhà cửa. Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.

Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.

HƯỚNG DẪN SẮP ĐẶT BÀN THỜ THẦN TÀI – ÔNG ĐỊA

Theo sơ đồ trên ta thấy : Trong cùng bàn thờ , dán trên vách là một tấm Bài vị như đã nói ở phần trên . Hai bên , bên trái ( từ ngoài nhìn vào ) là ông Thần tài , bên phải là Ông Địa . Ở giữa hai ông là một hũ gạo , một hũ muối và một hũ nước đầy . Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay . Giữa bàn thờ là một bát nhang , bát nhang này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định ( sẽ nói rõ ở phần sau ) . Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ , các bạn nên dùng keo 502 dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang , mọi chuyện trở nên trục trặc liền . Theo nguyên lý ” Đông Bình – Tây Quả ” , các bạn đặt lọ hoa bên tay phải , đĩa trái cây bên tay trái ( Nhìn từ ngoài vào ) . Thường nên cắm hoa hồng , hoa cúc , hoa đồng tiền . Trái cây nên xắp ngũ quả ( 5 loại trái cây ) . Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng , người ta có một cái khay xếp 5 chén nước hình chữ Nhất – , các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập , tượng trưng cho ngũ phương , và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển . Ông Cóc để bên trái ( Từ ngoài nhìn vào ) , sáng quay Cóc ra , tối quay Cóc vào . Ngoài cùng trên mặt đất , các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp , nông lòng , đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước ( Cái này làm Minh Đường Tụ Thủy – Một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi .

Một số người trong miền Nam , khi cúng Thần Tài – Ông Địa , thường cúng kèm theo một đĩa tỏi có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi . Họ cho rằng : ông địa thích tỏi lắm nên ta đặt trước mặt ổng là đúng cách , cho ổng có phương tiện để bài trừ ” các đạo chích vong binh ” ám muội . Người âm chớ cũng có người tốt kẻ xấu như thường , giống y người dương mình vậy . Tuy nhiên , qua nghiên cứu , dienbatn cho rằng , họ dùng bó tỏi đó để phòng chống các Tà sư làm ác , phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa , Ngải . Tỏi có tác dụng tránh được điều đó ( Các người luyện Bùa , Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân : Hành , Hẹ , Tỏi ,nén , Kiệu ) .

CÁCH ĐẶT BÀN THỜ :

 

Hướng dẫn cách bày bàn thờ thần tài ông địa hợp phong thủy

Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài – Ông Địa là phải từ bàn thờ , ông Địa và Thần Tài phải quán được hết sự vào ra của khách . Có thể đặt theo hướng tốt của chủ nhà , có thể đặt theo cách hứng lấy dòng Khí bên ngoài khi vào nhà . Có thể dùng phương pháp Điểm Thần Sát để tính , chọn lấy các cung THIÊN LỘC ,QUÝ NHÂN để đặt vị trí bàn thờ . HƯỚNG BÀN THỜ THEO CUNG TỐT CỦA GIA CHỦ.

1/ THIÊN LỘC :

Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá .

Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh – Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp .

2/ QUÝ NHÂN : Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù .
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận , hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên , tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc , nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình .

Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý , nên gia vào cung nào cũng rất tốt , ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm , cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường .

Nhưng muốn đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ phải quang đãng , sạch sẽ ( Không như nhiều người nghĩ và đặt bàn thờ vào gầm , vào chỗ tối tăm ) . Ông Địa và Thần tài tuy thờ dưới đất nhưng tính rất thích thơm tho , sạch sẽ . Thường nên để sẵn một lọ nước hoa , lâu lâu lại xịt vào bàn thờ cho thơm 

SINH TÀI VƯỢNG VỊ VÀ VIỆC ĐẶT THẦN TÀI

Hôm nay tôi muốn bàn về vấn đề mà có lẽ từ nhà thường cho đến cơ sở kinh doanh mua bán đều quan tâm : Đó là phương Sinh Vượng và cách đặt Tài Thần.
Phương vị này còn được gọi là ” TÀI VỊ ” , nó khác với phương Chính Thần trong Huyền Không học. Có 3 thuyết nói về phương vị này khác nhau :
_ Thuyết thứ nhất là theo trường phái Huyền Không , chọn phương Chính Thần làm phương của TÀI VỊ
_ Thuyết thứ hai là theo Phi Tinh của Huyền Không , cho rằng phương của Tam Bạch phi đến mới là phương của TÀI VỊ. Tam Bạch chính là : Nhất Bạch , Lục Bạch và Bát Bạch
_ Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm phương TÀI VỊ.
Riêng bản thân NCD thì chọn theo thuyết thứ 3. Hai thuyết trên nói cũng có lý nhưng không thích hợp lắm. Nếu 1 lúc nào đó Vương Khí Chính Thần hay Tam Bạch Tinh phi đến phương vị Cửa , chẳng lẽ đem Tài Thần ra đặt ở đấy à ? Huyền Không Phi Tinh có nhiều điểm rất hay , nó có thể giải thích các hiện tượng động đất , sụp lỡ , hỏa hoạn , trộm cướp , chết người , đau bệnh , làm ăn thua lỗ…vv…mà các trường phái Bát Trạch Minh Cảnh và Dương Trạch Tam Yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì các trường phái kia thuộc TĨNH , các phương vị , an sao đều cố định nên gặp nạn tai thì không thể nói được khi nhà và Sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như lúc đầu. Còn trường phái Huyền Không thì các Phi Tinh luân chuyển , khó có được năm tháng ngày giờ trùng Sao lại như nhau ( năm và tháng còn có thể nhưng thêm ngày và giờ thì rất hiếm hoi ). Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác , đi kèm với Sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi , hoặc còn ảnh hưởng với Sao của Trạch Vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau , Thiên hình Vạn trạng. Sự huyền diệu của Phi Tinh là vậy , nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các Vượng Khí , Phi Tinh vào Dương Trạch , phải biết lúc nào áp dụng PP nào cho thích hợp. Không phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào , bởi nó là nơi tập trung Quyền lực trong 1 căn phòng .
Theo khoa PT thì tại phương TÀI VỊ này , người ta thường đặt các cây xanh lá to hay các tượng Tài Thần . Phương TÀI VỊ này có 1 số điều nên và không nên như sau :

1/. Các điều NÊN ở TÀI VỊ :
_ Nơi phương TÀI VỊ nên sáng sủa , quang minh , không thể để tối ám. Sáng là năng lượng Dương , thích Hợp với Dương Khí. Sinh Khí không ưa nơi tối tăm , nên phương này tuyệt đối không nên để tối , nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn
_ Nơi phương TÀI VỊ nên có Sinh Cơ , tức là chỉ nơi đây thiết bày cây xanh là tốt , phải nhớ là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn ( nê thổ ) , không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên kiếm các loại cây lá to , dầy , lá xanh mãi như cây Vạn Niên Thanh chẳng hạn
_ Nơi phương TÀI VỊ tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy , để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó , hít thở không khí của TÀI VỊ hay nói cách khác là được thấm nhuần nguồn TÀI KHÍ nơi đó , sẽ giúp ích cho Tài Vận ngườitrong nhà
_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán trên thị trường luôn khuyên ” đặt giường chéo góc với cửa phòng ” , có điều họ không nói rõ ra nguyên ủy bên trong thôi. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghĩ nơi đó , thường xuyên hít thở nguồn TÀI KHÍ nơi đó cũng rất tốt cho Tài Vận vậy.
_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt vật hay biểu tượng Cát lành. Bởi phương này là nơi VƯợng Khí ngưng tụ , nếu ta đặt thêm 1 biểu tượng Cát Lành thì tốt càng thêm tốt , như gấm thêu thêm hoa vậy.

2/. Các điều KỴ của TÀI VỊ :
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách , kệ sắt , máy móc nặng sẽ làm tổn hại đến Tài Vận của phòng đó
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ THỦY. Đấy cũng là lý do vì sao ở trên kia lại bảo nơi đây không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là Cát Thần tọa vị , nay ta đem nước đến là Cát Thần lạc Thủy , khéo hóa ra vụng đấy !
_ Nơi phương TÀI VỊ phía sau nên có tường che chắn , không thể trổ cửa , trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục ” Tàng phong Tụ khí ” trong PT , Tài Vận mới tụ được
_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn , cạnh tủ….vv..sẽ làm tổn hại Tài Khí nơi đó
_ Nơi phương TÀI VỊ là nơi Cát Thần tọa vị nên ĐẠI KỴ ô uế , dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế , bụi bậm nơi đây
_ Nơi phương TÀI VỊ không nên để tối tăm , vì u tối thì Sinh Khí không sinh sôi được , sẽ ảnh hưởng đến Tài Vận , sinh kế

3/. Tài Thần
Nói đến Tài Thần thì có lẽ không ai không biết đấy là vị Thần ban phước lộc , tiền tài , của cải cho mọi người. Thần Tài mà hôm nay NCD đề cập đến không phải là Địa Chủ Tài Thần mà mọi người hay thờ. Địa Chủ Tài Thần là 1 khuôn bài vị với 2 dòng chữ ở giửa là : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN mà mọi người hay thờ , 2 bên có 2 câu đối ( ” Kim chi sơ phát diệp _ Ngân thụ chánh hoa khai ” , hay là ” Thổ vượng nhân tòng vượng _ Thần an trạch tự an ” , hay là ” Thổ năng sinh Bạch ngọc _ Địa khả xuất Hoàng kim ” ). Ngày xưa người ta thường thờ Địa Chủ Tài Thần bên trong , bên ngoài thờ Môn Thần ; ngày nay do nhiều nơi không cho thờ cúng bên ngoài nên chỉ còn thờ mỗi Địa Chủ Tài Thần bên trong , coi như vị Thần này kiêm luôn việc bảo hộ cho Trạch Chủ , không cho tà ma xâm nhập.
Tài Thần mà NCd đề cập ở đây là tượng Văn-Võ Tài Thần theo quan niệm người Hoa ( vì vốn dĩ thuật PT truyền từ TQ sang đây nên NCD cũng soạn theo tư liệu gốc của người Hoa vậy ).

a/VĂN TÀI THẦN :
Chia làm 2 là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa Tinh
_ Tài Bạch Tinh Quân : Ngoại hình như 1 vị trưởng giả giàu có , mắt trắng râu dài , người mặc áo gấm thắt đai ngọc , tay trái ôm 1 thỏi Kim Nguyên Bảo ( thỏi vàng mả người ta hay để chưng nơi Thần Tài , nó cũng là 1 dụng cụ hóa sát trong PT đó chứ ) , tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ ” Chiêu Tài Tiến Bảo ”
Theo truyền thuyết ông vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới , chức tước là ” Đô Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân ” chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ. Nên người ta hay đặt tượng ông nơi TÀI VỊ , có người còn thờ ông nữa (TƯỢNG DI LẶC PHẬT VƯƠNG Ảnh)

_ Tam Đa Tinh : Nghe tên thì thấy lạ , nhưng thật ra đó là Phước Lộc Thọ Tam Tinh đấy thôi.
Phúc Tinh tay ôm đứa bé tượng trưng có con thì vạn sự đủ phúc khí. Lộc Tinh mặc triều phục sặc sỡ , tay ôm Ngọc Như ý , tượng trưng thăng quan tiến chức , thêm tài tăng lộc. Thọ Tinh tay ôm quả đào thọ , mặt lộ vẻ hiền hòa , hạnh phúc tượng trưng cho an khang trường thọ. Trong 3 vị chỉ có Lộc Tinh mới là Tài Thần , nhưng do xưa nay Tam vị nhất thể đi chung không rời , nên người ta luôn làm chung tượng của 3 vị. Nếu đặt cả Tam Tinh vào TÀi VỊ thì cả nhà an vui , hạnh phúc , phúc lộc song thu
Những người giữ chức văn , những người làm công nên đặt tượng Văn Tài Thần nơi TÀI VỊ , hay thờ Văn Tài Thần
Các tượng Văn Tài Thần nên đặt quay mặt vào

b/ VŨ TÀI THẦN :
Cũng chia làm 2 là : Triệu Công Minh miệng đen mặt đen , và Quan Thánh Đế ( còn gọi là Quan Công ) mặt đỏ râu dài
_ Triệu Công Minh : Vị thần này nếu quý vị nào có xem qua truyện Phong Thần ắt biết tiểu sử ông. Sau khi tử trận lên bảng Phong Thần , ông được Khương Tử Nha sắc phong làm ” Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân ” thống lĩnh 4 vị Thần : Chiêu Bảo , Nạp Trân , Chiêu Tài , Lợi Thị
Ông vừa giúp tăng tài , tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu , nên 1 số người Hoa cũng thích thờ ông , hay đặt tượng ông nơi TÀi VỊ , vừa giúp vượng tài , vừa giúp bình an.
_ Quan Thánh Đế : Nói đến Ngài , có lẽ không cần xem truyện Tam Quốc thì ai cũng từng nghe và biết. Gần như 99% người Hoa đều có thờ Quan Thánh Đế trong nhà cả ! Ông không không chỉ tượng trưng chio Chính Khí sáng lòa , mà còn có thể giúp cho người chiêu tài , tiến bảo , làm ăn thuận lợi , tai qua nạn khỏi , trừ tà hộ thân.
Những người làm quan võ , theo nghiệp lính , những ông chủ kinh doanh nên thờ Vũ Tài Thần hoặc đặt tượng Vũ Tài Thần nơi phương TÀI VỊ.
Các tượng VŨ Tài Thần nên đặt hướng ra cửa.

Trên nóc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa , người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự ( tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần ). Mục đích là để có sự quản lý , không cho các vị Thần làm điều sai trái .


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bày bàn thờ thần tài ông địa hợp phong thủy

Tam, trí lực lấy tài

Trí lực lấy tài, một bực như nhau là dựa vàongười đích tư tưởng, kỹ thuật, tri thức đến thu hoạch tài phú, nghềnghiệp kể cả: Cố vấn nghiệp, luật sư, nghệ thuật gia, tác giả chờ.Nói chung, dựa vào trí lực lấy tài, viện tố công chi thần vốn làthương quan, thực thần tinh, mà thương thực tinh vốn là chiếm được rồichủ vị, hoặc theo chủ vị đích tinh tố công; còn có một loại loạihình vốn là mộc hỏa thành khí thế, mộc hỏa vi văn hóa tư tưởng, dễdàng thành danh, cũng là tiến hành trí lực chức nghiệp giả.
Tam, trí lực lấy tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Càn: Quý giáp bính mậu

Mão dần tuất tuất

Này tạo chủ vị thực thần, mà thực thần tinh nhiều, thực thần vốn là kỹ năng, ý nghĩ, thực thần hợp ấn, ấn vốn là công việc, nói rõ là dựa vào kỹ thuật tại đơn vị công việc, ăn chính là kỹ thuật cơm. Thêm nguyên nhân quý mão một trụ ấn mang quan tượng, mậu quý hợp, quan thêm hợp đến chủ vị, cho nên vốn là một quan viên. Thực tế hắn là một nhà kiến trúc xếp đặt sân viện trưởng.

Khôn: Nhâm đinh nhâm ất

Dần mùi thân tị

Này tạo( Thân vốn là có thể bị hợp đích, chế về phía sau thân thể không có ảnh hưởng) niên thượng thực thần dần mộc, thực thần tinh mang tỉ kiên, nói rõ vốn là chính mình đích thực thần. Dần nhập mùi mộ, vốn là thực thần nhập quan mộ, ý tứ vốn là chính mình đích trí lực bị quan phương sở dụng đích ý tứ. Đinh nhâm tướng hợp, thân nhược hợp tài, tài có công, cho nên phú. Mùi cũng hợp đến, quan làm tài, tránh tiền lương đích. Làm quan tinh hợp đến nhật chủ chính mình, cho thấy nàng có thể được đến đơn vị trọng dụng, có nhất định chức vị. Thực tế bản thân vốn là một nhà bệnh viện đích chủ trì y sư. Nhưng nguyên nhân chủ vị thân kim thiên ấn xung thực thần, nói rõ nàng đối với chính mình đích nghề nghiệp không quá thích, tị thân hợp, thích bên ngoài vừa làm cho tiền. Quả vu mão vận giáp thân năm cách chức hạ biển, tự mình kiếm tiền rồi, hàng năm100 vạn. Ứng mão vận người, nguyên nhân thương quan vận có thể sinh ngoài tài. Khẩu tài tốt lắm.

Càn: Canh canh canh mậu(闫 Kế vượng)

Tử thìn thìn dần

Này tạo niên thượng thương quan tử thủy, thương quan tinh mang tỉ kiên, nói rõ vốn là chính mình đích tài trí, tử cùng nhật chủ tương liên rồi, cố tử thủy thương quan cần. Tử thìn tướng củng, hội vượng thủy cục, có điểm công nhưng không lớn. Thương quan còn có thể sinh thời thượng tài tinh,( Dần vốn là tài, tài cần, dần khắc thìn, nhưng công cũng không lớn, chủ yếu là dụng tử thủy, tử thương quan chủ ý nghĩ, dần khắc thìn, trồng trọt rồi, thìn phục ngâm, mẫu nhị giá) cho nên hắn xác nhận [một người/cái] dựa vào trí lực lấy tài đích mệnh. Hành nhâm ngọ, quý mùi vận, thương quan bị quản chế, không thể lấy tài trí mưu sinh, mùi vận chi mùi năm, mặc tử, thiếu chút nữa muốn chết. Đến giáp thân vận hội vượng thương quan chi cục, tiến hành dự trắc cố vấn, hàng năm lấy được tài mấy vạn. Bính tử năm bắt đầu thầy tướng số, thừa số thủy tới rồi.

Liên quan tư liệu:闫 Có một đồng mẫu khác phụ đích ca ca, có một nhân một nữ, người thứ hai chảy sản rồi.( Còn có một người cùng闫 vốn là bốn đồng đích bát tự, cũng là một nhân một nữ, người thứ ba không phải chảy sản, mà là tặng người rồi.闫 Cùng hắn bất đồng chỗ vốn là hai người vóc dáng không giống với, tên còn lại vi tố mua bán đích. Kỷ mão năm hai người tính qua mệnh sau lúc, hai người đích vận mệnh sẽ không giống nhau rồi. Thừa số mão phá, giáp thân vận tên còn lại vi việc buôn bán phá tài,闫 thì không làm mua bán rồi, chuyên chức làm cho rồi thầy tướng số. Nguyên nhân thân xung dần, thêm đại vận hư thấu, tài cũng chạy, không phát tài. Như thế đơn thuần đích thân dần xung, ngược lại vốn là lộc xung tài, chủ được tài.闫 Nơi sinh có thủy, tên còn lại còn lại là đất bằng phẳng không có thủy, cố闫 có thể sử dụng tử, có ý nghĩ, tên còn lại thì nguyên nhân không có thủy sẽ không thầy tướng số, theo phong thủy có liên quan. Giáp thân vận闫 nguyên nhân thân sinh rồi thủy, cho nên thầy tướng số hội làm tốt lắm.

Càn: Canh canh canh ất

Tử thìn ngọ dậu

tân nhâm quý giáp ất bính

tị ngọ mùi thân dậu thú

Này tạo cùng thượng tạo tương tự, chỉ là niên thượng thương quan tinh xung chế ngồi chi chi quan tinh tố công, như vậy công khá lớn. Quan sát chế bất hảo làm tài xem, nguyên nhân cách vọt, dụng tử thủy thương quan, vi ý nghĩ lấy tài. [hai người/cái] công, ất canh hợp, tử ngọ xung, bản thân yêu thích thư pháp, viết một tay hảo chữ, tử vi mực. Hành nhâm ngọ, quý mùi vận, vận mệnh không đông đảo, rất nghèo, dựa vào đầu đường bán chữ duy sinh; giáp thân vận hội khởi thương quan cục, trở thành địa phương nổi danh đích thư pháp nhà, cầu chữ người đông đảo, chính mình cũng bởi vậy giàu có đứng lên. Hắn hoàn lại tố mặt tiền, bán trang phục, vài một mặt tiền, hiện vi ất vận, dậu vận nhân tiện xong hết rồi, chính là thân vận hảo, ất dậu vận sinh không dậy nổi thủy đến, trước mắt hắn làm đích thư pháp bồi huấn ban đã không được, chiêu không đến người.( Chú: Vấn đề: Ngọ vận vi nguyên cục đích ngọ tới rồi, ứng vi chế ngọ đích ứng kì, vì sao không cát?)

Càn: Nhâm quý quý tân(Thái Dịch Sinh)

Dần sửu sửu dậu

Này tạo cũng là niên thượng thương quan, dần sửu ám hợp, hợp đến chủ vị, thương quan tinh có công, cần dần, chính ấn làm cho xếp đặt, thiên ấn làm cho huyền học, lệch môn. Ngồi chi sửu thổ, có huyền học đích hàm nghĩa, gia tăng chi vừa là thiên ấn khố, thiên ấn chủ lệch môn, hắn là một làm cho huyền học đích, nổi danh đích phong thủy sư. Nguyên nhân sửu dậu đều là âm gì đó. Dần sửu ám hợp sửu vi phu thê cung, cha mẹ cung, huynh đệ cung, điển hình đích nhị hôn tổ hợp, [hai người/cái] cung, [một người/cái] tinh, dần làm vợ, hai lần hợp, lần thứ hai hôn nhân, không có đang lúc nghề nghiệp, lần đầu tiên ly hôn sau khi, tài sản đều bị thê lấy đi, dần hợp không tới nhật chi rồi. Bây giờ đến phía nam hỗn đi. Sau khi ngộ một giống nhau sinh nhật, canh giờ Thân đích nữ mệnh, vốn là một vị xếp đặt sư, nguyên nhân chính ấn ngoại thấu, đó là chính thống hành trình nghiệp. Có đang lúc nghề nghiệp, nữ đích không nhất định nhị hôn. Nhưng chúng ta chứng kiến, bọn họ đều là dựa vào trí lực lấy tài đích.

Càn: Đinh nhâm canh đinh 

Mùi tử tuất hợi  

tân canh kỷ mậu đinh bính

 hợi thú dậu thân mùi ngọ

Này tạo đinh nhâm hợp, đinh hợi tự hợp, dụng thực thần chế quan, tử mùi hại, đinh vốn là tuất trung lộ ra tới, thượng vừa chế rồi nhưng phía dưới chế không sạch sẽ, nhưng quan cũng vượng, chế không sạch sẽ, nơi này quan tinh làm tài phú xem( Quan sát chế không tịnh làm tài xem). Thực thần chủ ý nghĩ, ứng vi trí lực lấy tài mệnh. Tử mùi hại quan rồi, không lo quan, thực chế quan, tại môn hộ thượng, cố vấn nghiệp, nguyên nhân vốn là quan, cố vốn là pháp luật cố vấn, thực tế bản thân vốn là luật sư, hành phương tây kim vận, sinh thực thần mà chế quan sát, tài vận tốt lắm( Kim cả đời thủy, thủy một vượng nhân tiện phát tài).

Càn: Canh tân canh nhâm

Tử tị thân ngọ

nhâm quý giáp ất bính đinh

ngọ mùi thân dậu thú hợi

Này tạo niên thượng thương quan, ngồi chi lộc thần sinh hợp thương quan cục( Củng). Nguyệt lệnh sát tinh hợp lộc, mặc dù có thể bị tử thủy chế chi, nhưng chế phục bất hảo; thời thượng quan tinh hợp nhâm, quan tinh có chế vi cát, thương quan thực thần tố công, này đây trí lực lấy tài mệnh. Quan sát tinh chế bất hảo, làm tài phú xem. Tiến hành hội kế sư sự vụ, phát tài mấy trăm vạn. Hiện vi bính tuất vận, bính vận hảo, sát hợp rồi dương nhận, chủ nổi danh, chính mình mở [một người/cái] hội kế sư sự vụ viện, phỏng chừng một năm tránh200 vạn không thành vấn đề. Bát tự không có tài, lấy thương thực làm tài. Tuất vận hỏa nhập mộ, một bực như nhau. Hạ vận đinh hợi vận thì tốt rồi. Dậu vận khẳng định hảo.

Khôn: Tân tân kỷ bính

Dậu mão sửu tử

[một người/cái] nữ sĩ cầm nữ nhi đích mệnh tới hỏi ta, muốn nhìn một chút nàng lấy sau khi vốn là làm gì công việc đích? Ta nói cái này cô gái vốn là can luật sư này một chuyến đích, nhưng lại làm luật sư sự vụ viện đích. Nàng nói đúng đích có thể tính chất thật lớn, vì vậy hài tử bây giờ đang ở đọc pháp luật hệ đích thạc sĩ. Như vậy tòng bát tự trung vốn là như thế nào biết nàng vốn là can luật sư này hành đích? Đầu tiên xem tân kim vốn là thực thần, thực thần có cái gì hàm nghĩa? Thực thần có thể tố sư phụ, cũng có thể tố thầy thuốc, nhưng mão dậu một xung, thực thần đích mục đích nhân tiện phi thường minh xác-- muốn đi chế quan, cũng nên tỏ vẻ xuất nó đích hàm nghĩa rồi. Có người sẽ nói, thực thần chế quan có thể làm quan, tại sao nàng sẽ phải luật sư đây? Cũng nên muốn xem thực thần là từ đâu tới. Nhật chủ phía dưới ngồi sửu, sửu vốn là thực thần khố, thực thần tự nhiên là tòng sửu trung tới. Dưới thân ngồi một khố tỏ vẻ nàng có rất nhiều rất nhiều vật như vậy, cũng nên có thể bắt nó loại tượng vi pháp luật văn thư, pháp luật văn kiện ... đồ vật, cái này đồ vật vốn là đang làm gì đây? Đương nhiên vốn là chế quan đích, tỏ vẻ biện hộ, chính là lợi dụng này đó điều văn khứ thuyết phục quan. Nọ vậy tại sao chính cô ta không lo quan? Bởi vì nàng cái này thực thần quá nặng rồi, thực thần chủ tự do, thực thần quá nặng đích người vốn là một thích tự do đích người, không có khả năng khứ chịu ước thúc, hơn nữa tử sửu hợp lại, thực thần khố hợp rồi [một người/cái] tài, tỏ vẻ nàng nên thông qua thực thần đích thủ đoạn khứ lấy tiền, chỉ cần cấp tiền, có thể làm một một phạm tội phần tử biện hộ, ngoài cuối cùng mục đích vốn là lấy tài, mà sẽ không đi làm quan. Nhật chủ ngồi chính là một khố, hay là một khai luật sư sự vụ viện đích, không phải đơn thuần đích luật sư, sửu khố có thể loại tượng vi xí nghiệp, vào chủ vị, vốn là chính mình đích xí nghiệp. Làm cho pháp luật đích tư nhân xí nghiệp, chỉ có thể vốn là luật sư sự vụ viện. Thông qua này đó quan hệ trên cơ bản có thể định của nàng nghề nghiệp.

( Vốn dậu nhập sửu mộ rồi, mão một xung, dậu nhân tiện khả dụng rồi, tương đương với sửu mở khố rồi, dậu cũng hãy nhìn làm vốn là sửu trung dẫn ra tới. Dậu xung mão, nhưng có tử thủy vốn là mão chi nguyên thần, cố chế không sạch sẽ quan, không lo quan, lấy sau khi muốn làm đại luật sư, năm ngoái ất dậu năm khảo thượng pháp luật hệ, thực quá nặng, chủ tự do, không bị ước thúc. Cái này không sợ tử sửu hợp, nhưng nên lược chịu điểm ảnh hưởng. Dậu sửu tổ hợp vốn là cùng pháp luật có liên quan đích, như pháp luật, phạm tội chờ.)

Thổ nhật chính chi toàn thể hỉ hình xung, chủ yếu là kỷ sửu, kỷ mùi, mậu thìn, mậu tuất không giống kỷ nhật chủ, hắn còn có khác đích thuyết pháp.

Tái như:

Bính tân kỷ tân

Ngọ sửu mùi mùi

Tượng kỷ nhật chủ ngồi sửu, mùi, có tái nhiều gì đó nhập tiến vào cũng không phải ta đích, đinh sửu nhưng lại có thể đi vào đến trở thành ta đích.

Thêm như:

Khôn: Mậu giáp kỷ tân

Thân dần mùi mùi

Dần vốn là mùi trung dẫn ra tới, dần thân xung, vi khai mùi khố, luận cát, cự phú. Giáp kỷ hợp, nhưng thân dần xung, cố mậu vốn là lão công giáp đích người thứ nhất lão bà, nói rõ nàng phải gả [một người/cái] nhị hôn đích.

Càn: Đinh quý kỷ kỷ

Dậu sửu sửu sửu

Hiện vi rất nguyên trung cấp pháp sân đích phó viện trưởng, quý vốn là sửu trung dẫn ra đích, đinh quý xung, khai khố rồi, đinh đại biểu mùi, huynh đệ [ba người/cái] đều là pháp sân đích viện trưởng. Khi còn bé manh sư đoạn đại sau khi muốn làm công kiểm pháp đích quan. Dậu sửu tổ hợp, thấy đinh quý một xung, hàng ngày chuyển chính rồi. Niên thượng đinh vi tổ phần, nói rõ tổ phần hảo, quý mùi năm lên chức đích quan, ca ca cho hắn ra50 vạn nguyên tư trợ giúp hắn làm quan. Hắn nguyên tại ti pháp cục, hắn đích hôn nhân không có vấn đề.

Nhàn chú: Thiên can cái chìa khóa mở địa chi đích khóa rồi!

Càn: Giáp bính kỷ mậu

Thìn tử mùi thìn

Tử mùi hại, không có hôn nhân, giáp kỷ hợp, thiên can tố công.

( Hại không phải khai mộ, xung, hình thì có thể lái được mộ, hại vốn là hại mộ thân mình, vốn là đạp đổ, mà xung hình vốn là mở ra cái này mộ.)

Càn: Mậu kỷ kỷ tân

Tuất mùi hợi mùi

canh tân nhâm quý giáp ất bính

thân dậu thú hợi tử sửu dần

Này tạo tỉ kiếp đông đảo, một điểm thực thần phù vu thời can, vi cả bát tự chi tinh thần. Nhưng nguyên nhân sinh vu quý hạ, cục rất sốt ruột táo, cố hỉ dụng thủy đến nhuận cục, hợi thủy có công. Thực thần tiết tú, tài hoa hơn người. Bát tự lấy tân kim vi bút, hợi thủy vi mực, cố hắn là [một người/cái] tác giả. Hành nhâm tuất vận, thủy không thông căn, tuất khắc hợi thủy, sự nghiệp chịu tỏa, hôn nhân vỡ tan, trôi giạt khấp nơi; vận chuyển quý hợi, cục chuyển cùng nhuận, thực thần được tư dưỡng, cuống quít phát biểu thi văn cũng nhiều lần lấy được thưởng, danh lợi đều toại.( Kỷ sinh rồi tân, hảo, hợi thủy nhuận táo, tân thực xứng hợi thủy vi tác giả. Thực chủ văn chương, tân vi bút the thé, hợi vi mực thủy. Nhâm tuất mười năm rất kém cỏi, quý hợi sau khi hai mươi năm thủy vận hảo, tuất vận phá tài, ly hôn, chính tài chính tinh được chính vị không thể chế, lệch đích có thể chế.) nhàn chú: Tân vi bút tại môn hộ, ngộ hợi thủy vi viết làm! Thú vận ngồi xuống chính tài bị khắc, không rời thì tử!

Càn: Canh đinh kỷ canh

Tuất hợi mùi ngọ

Này tạo hỏi hôn nhân như thế nào. Đáp hôn nhân không có vấn đề, nhưng thường ầm ĩ cái. Nhàn chú: Thú hình mở mùi khố, vi có hôn!

Càn: Đinh bính bính quý

Mùi ngọ dần tị

Này tạo mộc hỏa thế, khứ thời thượng quý thủy quan tinh. Quan tinh hư thấu chủ danh tiếng, mộc hỏa thành xu thế thêm chủ văn hóa, cho nên xác nhận [một người/cái] danh lưu. Thực tế bản thân vốn là [một người/cái] danh luật sư, thời thượng chi lộc làm tài xem, hành quý mão vận, phát tài mấy trăm vạn. Nhàn chú: Lấy lộc làm tài

Càn: Giáp Đinh Đinh nhâm

Ngọ mão mão dần

Này tạo cũng là một danh luật sư, tỉ thượng tạo danh khí lớn hơn nữa, chúng ta xem hai người đích loại hình vốn là giống nhau đích. Này một tạo lộc tại niên thượng, cho nên chủ yếu là hải ngoại lấy tài. Giúp quốc nội xí nghiệp tại hải ngoại thành công Thượng Hải, buôn bán lấy tiền thuê, phú qua ngàn vạn lần. Nhàn chú: Lấy lộc làm tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam, trí lực lấy tài

Sắp xếp giá giày dép ở Huyền quan như thế nào cho hợp lý? –

Để góp phần giữ cho cửa nhà luôn sạch sẽ, gọn gàng, tránh được các mùi khó chịu do giày dép mang lại, bạn nên bô" trí một tủ hoặc giá để giày dép ở Huyền quan. Công việc này rất đơn giản nhưng khi bố trí tủ hoặc giá để giày dép cần chú ý: - Nên chọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để góp phần giữ cho cửa nhà luôn sạch sẽ, gọn gàng, tránh được các mùi khó chịu do giày dép mang lại, bạn nên bô” trí một tủ hoặc giá để giày dép ở Huyền quan. Công việc này rất đơn giản nhưng khi bố trí tủ hoặc giá để giày dép cần chú ý:

–   Nên chọn loại tủ hoặc giá để giày dép có kích thước thấp và nhỏ vì nếu tủ cao quá sẽ mất thẩm mỹ và gây bất lợi cho người sử dụng.

file.408851

–  Tủ giày kiêng kị nhất là không có cửa. Giày dép mà để lộn xộn trong tủ lại không có cửa để che chắn thì trông rất chướng mắt. Có cửa để che chắn mới phù hợp với nguyên lý của phong thuỷ Hơn nữa, phong thuỷ rất coi trọng việc lưu thông không khí, nên giày dép không được có mùi lạ, nếu có mùi lạ mà phân tán ra xung quanh sẽ làm giảm phong thuỷ cho ngôi nhà. Bạn nên chọn loại tủ có cửa hoặc dạng ngăn kéo phân chia các ngăn để giày dép riêng biệt. Không nên hướng mũi giày xuống phía dưới. Những tầng trong tủ giày phần lớn có độ nghiêng lệch, nên khi đặt giày vào trong tủ thì phải chú ý hướng mũi dép lên trên. Nếu dùng giá để giày dép thì hãy khéo léo đặt ở vị trí mà khi mở cửa ra sẽ che khuất được giá giày.

–   Khi kê tủ, không nên kê vào giữa hai vật hoặc ở vị trí trung tâm, chỉ nên đặt ở một bên và cho góc nghiêng của giá để giày dép hướng lên trên, làm như vậy sẽ rất đẹp mắt.

Tủ giày không nên đặt ở chính giữa. Mặc dù tủ đựng giày đẹp cũng không nên đặt ở giữa cửa Huyền quan, điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến phong thuỷ của ngôi nhà. Bởi thế tủ giày chỉ nên đặt ở bên cạnh Huyền quan, như thế mới phù hợp với những nguyên lý của phong thuỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sắp xếp giá giày dép ở Huyền quan như thế nào cho hợp lý? –

Loài hoa biểu trưng của 12 con giáp

Trong loài hoa biểu trưng cho 12 con giáp, tuổi Tý được ví như hoa sơn trà bởi sự đối lập giữa vẻ ngoài mỏng manh, nhưng sức sống mãnh liệt... Loài hoa của bạn
Loài hoa biểu trưng của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong loài hoa biểu trưng cho 12 con giáp, tuổi Tý được ví như hoa sơn trà bởi sự đối lập giữa vẻ ngoài mỏng manh, nhưng sức sống bên trong vô cùng mãnh liệt...

► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

Tuổi Tý – Hoa sơn trà

 

Trong loài hoa biểu trưng của 12 con giáp, hoa sơn trà thường mọc ở vùng núi cao. Dù sở hữu vẻ ngoài mỏng manh, nhưng sức sống vô cùng mạnh mẽ, chịu được khí hậu khắc nghiệt nhất. Điều đó khá giống với tính cách của người tuổi Tý, bên ngoài khéo léo, hòa đồng, bên trong nhẫn nại, sắc sảo. 

 

Loai hoa bieu trung cua 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Sửu – Hoa mai

  Hoa mai trông mỏng manh là thế,  nhưng lại có khí chất mạnh mẽ, quật cường. Đó chính là nét đặc trưng trong tâm hồn người tuổi Sửu. Trong công việc và cả chuyện tình cảm, tuổi Sửu luôn nhẫn nại theo đuổi mục tiêu, dù khó khăn thế nào đi nữa vẫn cố gắng tới cùng.    Dẫu vậy, cũng giống như hoa mai mong được người hiền thưởng thức, người tuổi này cũng cần ai đó ngợi ca và công nhận sức đóng góp của họ.  

Tuổi Dần – Hoa mẫu đơn

  Hổ là chúa tể sơn lâm, tương ứng với con giáp này nên là một loài hoa cũng xứng danh là “vua của các loài hoa”, hoa mẫu đơn. Loài hoa lộng lẫy được người người yêu mến, cũng giống như tính cách sôi động, nhiệt tình của tuổi Dần.    Con giáp này tính tình bộc trực, yêu ghét rõ ràng, cuộc sống ngập tràn nét tươi vui, lúc nào cũng rộn ràng phơi phới hệt như đóa hoa mẫu đơn đang tỏa sắc hương trong ánh nắng chan hòa. Mẫu đơn đẹp nhưng khó thích nghi với điều kiện sống khắc nghiệt, chẳng khác nào tuổi Dần có ý chí nhưng lại nóng vội nên dễ làm hỏng việc lớn.  
Loai hoa bieu trung cua 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Mão – Hoa sen

  Hoa sen mang nét đẹp thanh tao, cảm giác dịu êm nên có điểm tương đồng với tính cách hài hòa, dịu dàng trong con người tuổi Mão.    Hoa sen lại “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, tuổi Mão dễ dàng thích nghi với điều kiện sống, nhưng nhất quyết chỉ hòa nhập mà không hòa tan, lúc nào cũng giữ được bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được.  

Tuổi Thìn – Hoa phong lữ

  Tuổi Thìn hướng ngoại, năng nổ và chút chút kiêu ngạo, giống như hoa phong lữ chỉ có thể sinh trường trong điều kiện ánh sáng cao, hào quang rực rỡ.    Hơn thế, con giáp này luôn hành động sao cho mình trở thành tâm điểm mọi sự chú ý hay cá nhân xuất sắc trong tập thể, để như hoa kia không chỉ góp hương sắc cho đời mà còn mang tới công dụng trị bệnh hiệu quả.  
Cách tránh tà trong tháng ma quỷ dành cho 12 con giáp Khai vận ngày Lục tà xâm chiếm cho 12 con giáp Những cặp đôi con giáp hễ kết thân ắt thành tri kỉ

Tuổi Tỵ - Hoa cà độc dược

  Trong danh sách loài hoa biểu trưng của 12 con giáp, đây là loài hoa hiếm gặp, mang tới cảm giác bí ẩn hệt như tuổi Tỵ. Con giáp này đa tình, hành động bí ẩn, yêu điên cuồng, bất chấp cái giá phải trả.    Chính vì quá yêu mà sinh lòng đố kị, ghen tuông và khát khao khống chế nửa kia vô cùng mãnh liệt. Khi tình yêu đổ vỡ, trái tim và cả tâm trí họ bị bào mòn, tựa như độc dược của loài hoa này vậy.  

Tuổi Ngọ - Hoa diên vĩ

  Hoa diên vĩ mang biểu tượng về sự thẳng thắn và tự do, rất hợp với cá tính của người tuổi Ngọ. Họ thích tự do bay nhảy, chúa ghét những điều khô cứng, không gian bí bách.    Thêm nữa,  diên vĩ có khả năng sinh sống ở những nơi tối tăm ẩm ướt, sự vươn lên từ trong khó khăn của hoa diên vĩ như lời nhắc nhở cho người tuổi Ngọ rằng đừng bao giờ biến suy nghĩ của mình trở nên cực đoan khi phải đối mặt với khó khăn, thử thách.

 

Loai hoa bieu trung cua 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Mùi – Hoa lan hồ điệp

  Lan hồ điệp tuy đẹp và cao quý, nhưng lại khó thích nghi với điều kiện sống. Tuổi Mũi cũng vậy, rất dễ chịu tác động từ môi trường sống xung quanh, tâm trạng lúc nào cũng nặng nề, suy tư quá nhiều vấn đề trong cuộc sống.   Vẻ đẹp tinh tế của lan hồ điệp còn gợi nhớ tới sự chỉn chu, tỉ mỉ của tuổi Mùi trong cách ăn mặc cũng như mọi hoạt động trong đời sống thường nhật.  

Tuổi Thân – Hoa lê

  Hoa lê trắng muốt, nở rộ mỗi khi xuân về, mang vẻ đẹp cuốn hút, thanh cao như sự thông tuệ, nhanh nhẹn và dễ mến của người tuổi Thân.    Tuổi Thân nhạy cảm với môi trường xung quanh, thông minh nhưng không hề ngạo mạn. Họ chọn cách âm thầm “tỏa hương” như hoa lê trắng, để ai nấy cũng dành lòng yêu mến thiết tha.  

Tuổi Dậu – Hoa lan quân tử

  Lan quân tử có màu sắc rực rỡ, hình dáng bắt mắt, giống như người tuổi Dậu thích “đỏm dáng” như thế. Phong cách thời trang của con giáp này chú trọng vào màu sắc và kiểu dáng, sao cho có thể tôn được nét đẹp tiềm ẩn trong con người họ, tạo hiệu quả thu hút ở mức cao nhất.   

Tuổi Tuất – Hoa xấu hổ

  Trong loài hoa đặc trưng của 12 con giáp, hoa xấu hổ có kích thước nhỏ bé, hay ẩn mình trong bụi cỏ để không bị chú ý nhiều. Tuổi Tuất lại khiêm tốn, biết chừng biết mực, không muốn bản thân quá nổi bật, nên có nhiều điểm tương đồng với loài hoa này.   Thêm nữa, bản năng tự bảo vệ bản thân của người tuổi Tuất khá cao, hơn ai hết, họ chỉ mong có được một cuộc sống yên bình, do đó làm mọi cách để không dính vào thị phi, ghen tị, phiền toái từ bên ngoài. Cẩn trọng và đúng mực, tuổi Tuất thật giống với tính cách loài hoa xấu hổ.  
Loai hoa bieu trung cua 12 con giap hinh anh
 

Tuổi Hợi – Hoa anh đào

  Không có vẻ ngoài nổi bật như hoa anh đào, loài hoa mang biểu tượng của sự cao thượng, nhưng tuổi Hợi lại có tâm lòng chân thành và cao thượng không thua kém bất cứ ai.    Hơn thế, con giáp này sống nguyên tắc, ít khi phá vỡ quy tắc sống mà bản thân đặt ra. Điều đó giống như loài hoa anh đào cao quý, tôn nghiêm, gợi nhắc về tính kỷ luật cao. Bởi thế cho nên, anh đào đã trở thành quốc hoa, biểu tượng của cả một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời Nhật Bản.
 
Hoàng Lam
Những con giáp có vận thế mạnh và yếu nhất tháng 8 năm 2016
Đứng đầu con giáp có vận thế mạnh nhất trong tháng 8 không ai khác chính là tuổi Tý, nhưng chia buồn với người tuổi Dần khi xếp ở vị trí “độn sổ”.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loài hoa biểu trưng của 12 con giáp

Người tuổi Dần có đáng ngại?

Người tuổi Dần có sức thu hút và dễ trở thành trung tâm của sự chú ý. Họ thường hành động rất nhanh nhưng cũng hay đa nghi, dễ dao động nên nhiều lúc đưa ra
Người tuổi Dần có đáng ngại?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

quyết định vội vàng, bồng bột.

 
Tuoi Dan (6)
 

Người tuổi Dần không bao giờ chịu để ấm ức trong lòng, họ là người thành thật, giàu tình cảm, khảng khái và có khiếu hài hước. Họ nhân từ, yêu trẻ con, yêu động vật hay những thứ có thể khơi gợi trí tưởng tượng và sự chú ý. Họ toàn tâm toàn ý trong công việc.

Người tuổi Dần có đời sống tình cảm rất phong phú. Ngoài tính ham vui, họ còn sống rất thực tế, không ngại hiểm nguy và luôn muốn thể hiện bản thân. Khi đau buồn, những người này cần sự cảm thông, chia sẻ ở người thân. Họ là những người có lập trường vững vàng, ít khi chịu đầu hàng trước khó khăn, thử thách.

Giai đoạn đầu trong cuộc đời người tuổi Dần có lẽ là êm đềm nhất. Khi mới trưởng thành, họ học cách kiềm chế tính nóng nảy của mình. Họ sẽ mải miết theo đuổi mơ ước. Nếu biết vứt bỏ áp lực, thả lỏng mình cho nhẹ nhõm thanh thản, thì tuổi già của họ sẽ bình yên. Cuộc đời của người tuổi Dần ít khi gắn với sự bình yên. Đó là cuộc sống sôi nổi, nhiệt thành và đôi khi có cả những trải nghiệm sóng gió nhưng cũng đầy ý nghĩa.

Nữ giới tuổi Dần

Phụ nữ tuổi Dần có sức hấp dẫn mạnh. Họ có thể kết hợp hài hòa cuộc sống xã hội và cuộc sống gia đình. Họ hoạt bát, vô tư, dễ mến. Những hành động của họ thường được mọi người đánh giá tốt.

Những cô nàng tuổi này còn có khả năng giao tiếp tốt. Họ ưa cuộc sống tự do và rất thích thời trang, thậm chí có thể tốn mấy tiếng đồng hồ để thử kiểu tóc mới, đồ mỹ phẩm hay quần áo... Ngoài ra, họ còn rất dễ gần gũi và yêu trẻ nhỏ, biết kể những câu chuyện thú vị khiến chúng bật cười.

Đàn ông tuổi Dần

Bản tính của đàn ông tuổi Dần có phần ích kỷ. Tuy có tính kiên cường nhưng cũng không ít người khi gặp thất bại lại trở nên thay đổi và liền sau đó ham muốn phục thù dễ khiến họ trở nên liều lĩnh. Hãy nhớ rằng anh chàng rất ghét bị người khác coi thường.

Đàn ông tuổi Dần ham chơi, nhiệt tình. Khi ghen, anh ta thường tỏ thái độ chiếm hữu quá mức hoặc ưa cãi cọ.

Ai hợp với người tuổi Dần?

Người tuổi Dần hợp tác ăn ý với người tuổi Tuất. Vốn tính thực tế, thẳng thắn, người tuổi Tuất sẽ trung thực với người tuổi Dần, không chỉ kiềm chế mà còn giúp nhau trở nên lý trí hơn.

Người tuổi Ngọ đầy sức hấp dẫn và tôn trọng sự thật cũng rất hợp với người tuổi Dần. Họ sôi nổi trong cuộc sống và đều rất nồng nhiệt. Người tuổi Ngọ nhạy bén sẽ cảm nhận được những điều không tốt sẽ đến với người tuổi Dần và giúp họ nhanh chóng thoát khỏi nguy hiểm.

Người tuổi Dần sống với người tuổi Tý, tuổi Mùi, tuổi Dậu, hay một người tuổi Dần khác sẽ không gặp phải khó khăn. Người tuổi Dần đừng bao giờ khiêu chiến với người tuổi Sửu đầy quyền uy. Đây là một đối thủ nghiêm khắc, không biết thỏa hiệp, họ sẽ không cho phép người tuổi Dần làm bừa, làm ẩu.

Người tuổi Tỵ cũng không thích hợp liên minh với tuổi Dần. Hai bên có tính cách chung duy nhất là sự đa nghi. Người tuổi Tỵ ôn hòa, trầm tính, nhát gan, còn người tuổi Dần lại hay lớn tiếng chỉ trích người khác.

Người tuổi Thân là đối thủ không thể nắm bắt của người tuổi Dần. Anh chàng Khỉ láu cá, thông minh ấy sẽ suốt ngày trêu chọc Hổ, khiến Hổ phát cáu. Song, người tuổi Dần sẽ học hỏi được khá nhiều mưu kế từ chàng Khỉ này.

Theo Tintuconline


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dần có đáng ngại?

Nên chọn địa điểm mở cửa hàng rộng rãi, tránh chật hẹp –

Khi lựa chọn căn nhà theo phong thủy, yêu cầu trước mặt căn nhà phải rộng rãi để tiếp nhận sinh khí từ bốn phương tám hướng, cũng có nghĩa là chào đón khách hàng từ khắp nơi đến ký hợp đồng. Đối với cửa tiệm có mặt tiền chật hẹp hoặc bị cửa hàng khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chắn mất, có bốn cách cải thiện như sau:

– Cố gắng dẹp bỏ vật cản trước cửa hàng để mặt tiền hiện ra.

– Đối với mặt tiền chật hẹp không thể sửa chữa được thì nâng cao mặt tiền lên để cho khách hàng từ xa cũng có thể nhìn thấy cửa hàng.

– Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, vô tuyến, biển quảng cáo để tuyên truyền, quảng cáo cố gắng làm cho khách hàng biết được địa chỉ cửa hàng, hàng hóa kinh doanh và đặc điểm dịch vụ của cửa hàng.

– Tích cực tham gia những hoạt động từ thiện để quảng bá danh tiếng của cửa hàng.

Năm 2004 quẻ Cấn bát vận bắt đầu chuyển động, quẻ Cấn tượng trưng cho núi cao. Bát vận chuyển động, núi cao cũng chuyển động, các cao nhân sống trong núi cũng thay đổi tâm lý, cùng xuống núi mưu cầu công danh. Điều này có nghĩa là ngũ thuật: sơn, y, mệnh, bặc, tướng của các sơn nhân nêu lên chắc chắn sẽ tung hoành thiên hạ trong năm bát vận (2004 – 2023).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên chọn địa điểm mở cửa hàng rộng rãi, tránh chật hẹp –

Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài sưu tập các bài viết của anh AlexPhong để tiện theo dõi.
Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

...

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết "đức vua" của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

...

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

...

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói "Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên "Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm" có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là "Hỏa Linh Hình Việt".

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

...

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

...

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla...

Tóm lại nguyên tắc xét là:

- Chính tinh MVĐ hay hãm

- Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla...

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB - trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh...

Chém, chém, chém, chém hết cho anh...

...

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: "Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành."

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì "chẳng lành". Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự "chẳng lành" là "độc đoán" và "chuyên quyền" chứ không có các ngôn từ của địa ngục như "bại liệt" "tan xác" "hỏng người"...

Nếu coi hai lời phán "độc đoán" và "chuyên quyền" là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm "xấu" là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là "nếu gặp Tuần Triệt án ngữ" thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

"Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm".

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

- Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

- Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

- Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ--->phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

...

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

...

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có "lưu tinh" thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

...

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân-->Địa--->Thiên;

vận--->thân--->mệnh;

xinh gái--->đằm thắm--->nhân hậu;

đẹp trai--->tài cao------->dũng cảm;

bằng giỏi--->kiến thức rỗng--->giả dối;

có học--->thiếu tư duy--->trí thức rởm;

giao tiếp vụng--->hảo ý--->chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

...

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm "đẹp" của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là "đẹp". Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

...

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

...

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

- Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với "phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt". Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

- Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi...Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

- Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

- Mệnh cục tỉ hòa

- Mệnh cục tương sinh

- Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

...

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

.........

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

.........

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại "sao". Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

....

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

....

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

...

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

....

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

....

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

....

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: "cái áo" cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

...

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

- Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

- Khổ trước sướng sau.

- Vì sao có thể biết như vậy?

- Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

...

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

- Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

...

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

...

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: " hỏa không phát, kim không minh". Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

...

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

...

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

...

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: "Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm". Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

...

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

...

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

...

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

...

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

...

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

...

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

...

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

...

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

...

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự "tỏ vẻ nguy hiểm" này?

...

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

...

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

...

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

...

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

...

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

...

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

...

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

...

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

...

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

...

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

...

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là "của thiên trả địa". Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

...

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

...

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

...

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

...

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

...

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

....

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

....

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

....

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

....

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

...

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

...

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

...

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

...

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

...

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

...

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

...

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

...

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

...

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

...

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

...

"Lộc tùy Kị tẩu" cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

...

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

...

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

...

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH ---> HỌA --->PHÚC

PHỤ--->TÀI--->ĐIỀN

PHỐI--->NÔ--->MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

...

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

...

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

...

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

...

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

...

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

...

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

...

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

...

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

...

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

...

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. "Mày cũng chẳng bằng con người ta".

...

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan ---> mệnh ---> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

...

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

...

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

...

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

...

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

...

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép "phối chéo", âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

...

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

...

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng "đúng" như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là "sai", cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

...

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

...

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

...

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

...

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

...

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

...

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

...

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. "Số tôi không giàu" từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

...

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

...

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

...

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

...

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều "ra đi" trong đại vận Thái Tuế.

...

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

...

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

...

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

...

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị... Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

...

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

...

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

...

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

...

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

...

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

...

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

...

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

...

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

...

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

...

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

...

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

...

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

...

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

...

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

...

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

...

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

...

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

...

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

...

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

...

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

...

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Xem tướng nốt ruồi trên mặt –

Nốt ruồi ai cũng có nhưng nốt ruồi ở vào các vị trí “đắc địa” mới cho ta những thông tin giá trị. Không phải bất cứ nốt ruồi nào ở đâu cũng có ý nghĩa. 1. Có nốt ruồi mầu đen, màu đỏ, màu vàng, xanh. Nốt ruồi phải nổi cao, chủ các điểm đen, bớt không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi ai cũng có nhưng nốt ruồi ở vào các vị trí “đắc địa” mới cho ta những thông tin giá trị. Không phải bất cứ nốt ruồi nào ở đâu cũng có ý nghĩa.

1. Có nốt ruồi mầu đen, màu đỏ, màu vàng, xanh. Nốt ruồi phải nổi cao, chủ các điểm đen, bớt không có ý nghĩa trong phần xem tướng nốt ruồi.

2. Nốt ruồi ở nữ giới có giá trị khác nốt ruồi ở nam giới về ý nghĩa.

Ý nghĩa nốt ruồi ở mặt nữ giới

not_ruoi_nu

1. Lấy chồng sang

2. Nhiều chồng 3. Chú ý khắc cha, mẹ 4. Có bạn quý 5. Nguy hiểm 6. Phòng chồng phản bội 7. Thông minh 8. Có con quý 9. Bỏ chồng 10, 13. Khóc chồng 11. Thông minh 12. Tai nạn 14. Thích ngao du 15. Sinh đôi 16. Nhiều chồng 17. Thủy nạn 18. Bệnh tật 19. Ít xa quê 20. Sát chồng

Ý nghĩa nốt ruồi ở nam giới.

not_ruoi_nam

1, 2. Chú ý cha, mẹ

3. Quan chức 4. Thông minh đa tài 5. Tán gia sản 6, 7. Quan chức 9. Ðại cát 10. Mau nước mắt 11. Dâm đãng 12. Không tốt 13, 14. Không con 15. Gian 16. Thông minh 17. Lộc tài tốt 18. Cô đơn 19. Không có người giúp việc tốt 20. Thông thái, hay ăn 21. Hay rượu Chè

22. Quan to.

Nốt ruồi thuộc “Duy biến”, người có tư nhất tốt thì sinh ra nốt ruồi quý hiếm, người mà tư chất xấu thì sinh nhiều nốt ruồi xấu. Nó bắt đầu xuất hiện theo thời vận. Nốt ruồi không có ở trẻ sơ sinh. Tướng nốt ruồi cho rằng nốt ruồi tượng trưng cho một mô đất xấu. Vì thế nếu nó mọc chỗ kín thì được, nó mọc chỗ lộ liễu thì không hay, nó ở các đường giao tiếp các bộ phận của mặt là sự trở ngại. Nốt ruồi mọc ở nơi khó thấy như: tóc, mày, râu, tóc mai, thì tốt. Mặt không có nốt ruồi thì tốt và trong người không có nốt ruồi thì xấu, vì trong người toàn là chỗ kín.

Màu sắc nốt ruồi có nhiều kiến giải.

– Nốt ruồi đen thì phải như mụn sinh ở chỗ lộ liễu thì quá xấu, nó đem đến điều chẳng lành. Nhưng nếu nó ở chỗ kín thì lại nhiều điều cát hơn hung. Nốt ruồi này mà ở mặt thì bất lợi. – Nốt ruồi đỏ thì phải đỏ như son mới tốt. Và tất nhiên nó phải ở nơi kín bị lấp mới tốt. – Nốt ruồi đen mà pha trắng thì hay có việc lo sợ tai ách. – Còn pha màu đỏ: Thì sẽ gặp nhiều lời hay tranh biện. – Có pha màu vàng: Hay quên, bỏ mất đồ đạc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi trên mặt –

Chân ý nghĩa của Tử Vi Đẩu Số

Một bài viết trích lại phần giới thiệu cuốn sách Tử Vi Đại Toàn của Thái Đình Nguyên. Mời các bạn cùng đọc.
Chân ý nghĩa của Tử Vi Đẩu Số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi lại từ phần giới thiệu cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Xem qua phần trên này, thì ai cũng dễ có 1 nhận xét về những ngày gần đây là những khám phá trên địa hạt Sinh Vật Học, Hóa Lý Học, về các chủng tử, thuộc di truyền tính, nhiễm sắc thể quang đại hợp tử (helredite, genes, chromosomes, macromolecules) đều đem lại 1 kết quả bất ngờ. Người ta đem Khoa Học để hạ bệ lý số, khoa học đã phản pháo mà trình bày: Quả thực có số kiếp, 1 thứ số kiếp nó hết mực độc tài, hơn cả các nền chuyên chế, nó trói buộc thuộc dân của nó 1 cách chặt chẽ, nó theo đuổi người ta ròng rã suốt 1 đời người, từng giờ, từng ngày, từ cái lúc hung tinh gặp noãn châu, rinh thần liên minh với thê chất lúc mà noãn châu mới thành trứng, chưa có tên là Thai

Quay về phía tín ngưỡng về một Tôn giáo mà có một vị Giáo Chủ được tôn xưng là Đại Giác, Đại Trí Tuệ, thì Giáo Lý thuộc bộ môn duy thức lại ăn ý với bộ môn Khoa học về môn chùng tử di truyền, về những sợi dây truyền kiếp nhiễm sắc thể. Những chủng tử vô kiến, vô đối nơi ALaiDa thức cùng với những chùng tử hữu kiến hữu đối nơi các sợi nhiễm sắc thể chiomosomes lại chi như hai bóng 1 hình, hai mặt ẩn hiện của một chân lý. Cái chân lý của dòng đời sinh tử mang các chủng tử xuyên qua Thời, Không, khiến cho có người, có vật, có cây có, và rau lại sinh rau, đậu lại nở đậu, và.... bò lại đẻ ra bò

Thì ra quan niệm về nghiệp, kiếp, tín ngưỡng và nhân quả, ý tường và lý số nó vẫn bao trùm nhân loại, bàng bạc trong Thời, Không. Duy chỉ có điều là làm thế nào đọc được sô mệnh. Ta hãy gác qua một bên các môn hà Lạc, Tử Bình mà chi muốn khiêm tốn đụng chạm riêng có một mình môn Từ Vi Đẩu số

Tìm ra nguồn gốc Đẩu số thì được biết là phần đông chủ trương là do một vị Tiên Trần Đoàn, chẳng rõ có phải là khai sơn Tổ Sư của bộ môn lý học này hay không? Chi nghe nói Trần Đoàn tên tự là Hi Di, một ẩn giả ở núi Hoa Sơn hồi đại loạn ở TQ chia thành 4,5 mảnh đất đai thuộc các lãnh chúa cai quản, dân chúng loạn lạc nháo nhào chạy từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc lại từ Bắc xuống Nam, loanh quanh như kiến bò miệng chén, thì ông bỗng nhìn thấy bà cụ gánh đôi quang thúng, mỗi bên một cậu bé ngồi, bà cụ hớt hãi chạy loạn như ai. Tiên Sinh tủm tìm cười, về đạo quán uổng một chén rượu và ngủ một giấc dài. Khi tỉnh dậy thì thiên hạ đã thái bình. Sau này, cái thiên hạ thái bình ấy mới hiểu nổi cái nụ cười của Tiên Sinh, vì ông đã biết trước hai chú nhỏ kia sẽ là hai vị Thái Bình Thiên Tử, một người là vua Thái Tổ nhà Đại Tống Triệu Khuông Dẫn, còn một người là vua Thái Tôn Triệu Khuông Nghĩa

Thì ra cải Nhân thái bỉnh nó đã chực sẵn trong cái Duyên tao loạn. Xung quanh có thái bình, có ai biết, ai hay? Ngay cái người sinh ra nó, gồng gánh nó, cũng chẳng rõ nốt. Bà cụ đã đeo cái thái bình trên cổ mà vẫn còn chạy rối lên đi tìm cái thái bình. Vì thế Tiên Sinh đã lưu lại cho hậu thế một phương pháp giản dị để đọc trước được số mệnh từng người

Chắc chắn về phần Tiên Sinh thì tiên sinh đã nắm vững những lý tắc về số mệnh, nếu lại đem diễn tả ra bằng Dịch Lý, huyền học thì thành ra môn Tử Vi Đẩu số sẽ thành ra của riêng lý số gia, không phổ biến, không phổ cập quần chúng. Cho nên Trần Đoàn tiên sinh đã dùng phương tiện cụ thể hóa những quan niệm trừu tượng đưa lý vào sự, đưa các định tắc u huyền vào các công thức để áp dụng

Đại để ta thấy; Hi Di tiên sinh đã:

1. Đặt ra một số tổng tụ ý niệm, rồi mượn danh các đẩu tinh làm ký hiệu để đưa vào bàn toán

2. Chiếu quy ước dịch lý đế phân vi và bổ liệt các ký hiệu ấy

Ta đã rõ, một khi cụ thể hóa một ký hiệu khiến chữ nó sinh ra nghĩa, thành sự, thành vật là sự ấy, vật ấy lọt vào suy tư của thế gian. Lọt vào suy tư của thế gian là có hình bóng trong tâm tư của cá nhân, trong công tâm của cộng đồng nhân loại và đương nhiên phải chịu làm thuộc dân của các quy luật chi phối thế gian sự vật

a.    Luật tiến hóa: đó là ký hiệu liên quan đến các sao Vòng Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan (tức là Lộc Thần, là lớn lên, làm ra tiền của), rồi Suy, Bệnh, Tử Mộ, Tuyệt (tức là ốm đau, già, chết, tan biến)

b.    Luật Cung Cầu: tức là các sao vòng Quý Nhân, mình thiếu môn gì thì đối với mình mong cầu là của quý, người giúp đỡ mình là quý nhân

c.    Luật Hỗ Tương Ảnh Hưởng: theo phương vị nhìn nhau thì có Hình, Xung, Phá, hợp, và Hại. Đứng ở Tí thì xung với Ngọ Nhưng Tí lại hợp với Sửu. Sửu lại xung với Mùi. Tí xung Ngọ thì phải phá lại Mùi, vì Mùi nó là đồng minh của Ngọ, là kẻ thù của mình. Cứ chiếu bộ vị đứng ngồi mà hiểu việc đời. Ngang với nhau thì tìm cách liên kết gọi là hợp lực, như Mão hợp Tuất, Thìn hợp Dậu. Chéo cẳng nhìn xéo nhau thì xung đột Dần, Thân, đứng che mặt nhau thì tìm cách phá nhau, phải hạ bệ cái món kỳ đà cản mũi ấy đi, tức Dần phá Tỵ, Hợi phá Thân....

d.    Luật Ngũ hành xung khác, theo tình thế mà luận như anh Kim thì khắc anh Mộc. Theo thời tiết mà luận thì anh Kim từ về mùa Hạ, khỏe về mùa Thu, ứng dụng về mùa Đông và khó chịu với anh mùa Xuân vì nó thuộc hành Mộc

e.    Luật Ngũ hành Vượng, Tướng: theo Sinh, Vượng, Bại địa....

f.    Luật thăng hoa, phản tỉnh: như Địa Không, Địa Kiếp là hai sao khốc hại, nhưng đến chỗ tuyệt địa của nó là nó tắt hết lửa thì nó bật nên tốt đặc biệt, vì lẽ tuyệt xứ phùng sinh nên các cụ ta dẫn câu: Không Kiếp ư hiềm Tị hợi

g.    Luật biển tướng, hóa nghĩa: sao Hồng Loan là cỗ kiệu, là xe. Đào hoa là các loài hoa. Nhưng về già gặp chúng nó hóa ra thành đòn đảm ma và nhà tang Đại khái như thế, mỗi vì sao là một ký hiệu, một tổng tụ ý nghĩa, để nói lên một sự, một vật, một bộ phận trên cơ thể con người, tùy vật mà lệ thuộc những hình ảnh, những luận điệu tin tưởng, những công năng hiệu lực hoặc các úy, kỵ, khắc tính của sự vật ấy

Đó là đơn độc từng sao, rồi lại đến bộ sao tập hợp với nhau, như Thiên mã ngộ Đà La là ngựa vướng dây, tức là phải vấp ngã. Đào Hồng ngộ Thái Dương ờ Mão là mùa xuân, Đào Hồng hướng dương, trai sớm nhân duyên, gái đắt chồng bằng các quy lệ trên đây, một khi người ta tìm thấy phương pháp để đạt những dữ kiện vào trong tọa độ đích danh của chúng để biết rõ mặt mũi, tâm sự, thực lực, hiệu năng của mọi sự vật thì việc áp dụng các định luật Dịch lý để rút tỉa ra từng mớ suy tư về các hiện tượng tương lai, căn cứ vào các tông tụ ý nghĩa mà con toán hô danh không còn là chuyện không thể làm được.

Trong cái pháp giới trùng trùng chuyên khởi mà cả Khoa học lẫn Tôn Giáo đã ý niệm được, thì cả vũ trụ mênh mông chỗ nào cũng chi là một góc bàn cờ, mỗi phép, mỗi sự, tức như mỗi người, mỗi vật đều thành từng con cờ có vị trí, có thực lực, có hoàn cảnh, chịu quy tắc sinh hoạt có luật lệ để đi đứng, nằm ngồi, hò hét nhảy múa....

Vậy cho nên, một khi biết được con cờ thuộc loại nào ở chỗ nào, trên bao la phương vị của bàn cờ, là chúng ta có tọa độ để lược giải cá nhân chúng nó

Nhưng hiền thánh khai thị ra lý số là những siêu nhân có sự hiểu biết phi phàm, đã nắm vững công thức ngõ hâu đặt ra mọi loại tọa độ, đê khám phá số mạng của người, của sự vật

Biết Thái Ất thì tỏ việc 500 năm về trước, 500 năm về sau

Biết Lục Nhâm thì chiếu theo giây phút mình động tâm mà rõ sự gì đến sẽ đến

Biết Tử Vi thì có thể theo dõi việc nhãn tiền xảy ra cho 1 kiếp nhân sinh

Trong thâm tâm chúng ta, đều luôn luôn giao động theo dịch lý. Ngoại cánh luôn biến chuyển. Vũ trụ của Sát na trước không phải là vũ trụ của sát na sau. Thâm tâm chúng ta luôn chịu sự chi phối của nghiệp lực mà biến chuyển theo dịch lý, kể từ giây phút mà quả trứng mới thành hình cho đến lúc có mày râu hiện tại.... để luôn luôn trong ngoài hòa hợp

Trong cái vũ trụ của Hoa Nghiêm Pháp Giới, như trên đây đã được trình bày:

Nhất pháp biển ư nhất thiết pháp Nhất thiết pháp nhập ư nhất pháp

Thì lúc nào thánh nhân cũng có thể biết rõ rang tất cả mọi sự, mọi việc từ trước đến sau, từ quá khứ đến tương lai

Nhưng chúng ta chi là người có nghiệp báo. Các cảm giác của chúng ta bị ngũ quan vật chất nó hạn chế, suy tư ta lọt vào vòng hạn lượng của tỷ số và bị giam giữ trong một mô thức Thời Không

Cho nên từ chính đáng hay không chính đáng, dù ước muốn hay không ước muốn, chúng ta không có cách gì TẬN CÙNG HIỂU BIẾT VỀ TA, và chúng ta phải rõ, không phải số không đúng, mà chính yếu là ở chỗ: CHUNG TA KHÔNG CÓ QUYỀN ĐUỢC BIỂT HẾT

Đó là một công lệ

Tài giỏi như bao nhiêu bác học đã lĩnh giải Nobel cũng thấm thía về cái môn tạo hóa đành hanh. Họ nghiên cứu, tìm tòi về sắc trần (particules) trên môi trường cực vi của chúng, mà tất cả đều phải khóc, vì không có cách gì biết đầy đủ về thân thế của một sắc trần. Khi ông thấy Tướng của nó, thì ông không thấy được Tính của nó. Khi ông tìm ra Tính, thì nó đã lại mất hết Tướng Khi thấy đất nó đứng, thì không biết nó làm gì, khi nhận được lý lịch của nó, thì không biết chỗ nó trú ngụ. Định tác về phạm vi hiểu biết này mang tên là Principe d’incertitude d’Heisenberg":

DP x DQ > H

(DP là tính; DQ là Tướng)

Theo công thức này thì biết môn nọ, phải bỏ môn kia, muốn được cả hai thì không bao giờ toàn bộ. Bao giờ cũng còn sót lại một phần lơ mơ ước lượng bằng một thái nhất H, gọi là hằng số Plank

Định tắc này là 1 trong những cột trụ của Kiến trúc khoa học nguyên tử hiện tại. Như vậy, cái khoa học tiến triển hiện tại nó cũng không hơn gì khoa huyền học của Đông Phương, nếu có chịu thua trời đất, cũng chi đến mức ấy mà thôi. Vì chủng ta chỉ là con người, mà đã là con người thì bị cái nghiệp người nó hạn chế, nó che đậy và nó đánh lừa...

Vậy làm thế nào để tranh đạt với nó?

Thành ra giá trị của Lý số chính danh lại chuyển bộ sang đất Chân Giá Trị của người đoán số. Chân giá trị của người đoán số là đem áp dụng các quy luật đã nói trên đây (mới có một phần nhò được trình bày) cho các tổng tụ ý nghĩa để tia rút ra những biệt nghĩa cho mọi trường hợp

Ví dụ thứ nhất: Xét về sao Bạch Hổ, vốn là sao Kim có hai nơi vượng địa là Thân, Dậu (Kim cung) là thể tinh vượng, và Dần Mão là núi non, là đất dụng võ. Từ Hợi đến Thân là ban đêm đi kiếm ăn được là hay, nhập Ngọ bị tiêu đốt là bất lực. Hổ mà gặp Hóa Kỵ ở Vượng cung là hét ra khói. Hổ ở cung Tuất là con chó, ngộ Riêu Y là chó dại (???); hổ gặp Thai là hổ cắn cơ quan sinh dục, đàn bà gặp nguy lúc có thai, mãn nguyệt.... Lại cần xét nếu nó khỏe thì lợi cho ai, nó yếu thì có ích cho mình hơn là nó khỏe không?

Ví dụ thứ 2: Sách Ma Thị dạy rằng "mệnh VCD đắc tam không nhi phủ quý khả kỳ". Như thế một câu mà có 2 nghĩa. Khả kỳ là giàu sang được cũng là lạ? hoặc giàu sang đến mức kỳ lạ?

Phần đông mới học tử vi thì chỉ hiểu được là: giàu có đến mức kỳ lạ, nên sai tuốt luốt. Thực ra, món gì không bị đè nén thì bốc: Lửa. Món gì không bị che đậy thì sang chói: Kim Khí. Thế cho nên cách này chỉ đẹp với người tuổi Hỏa, hỏa cục và người mệnh Kim, Kim cục

Ngoài ra, nước mà không đáy thì nước tung tóe, và ướt hết sạch. Thổ (Đất) không được hứng đỡ thì rơi mất tăm. Mệnh Thủy mệnh Thổ mà đắc tam Không là cách chết non, nghèo khổ, có lẽ nào mà phú quý được? Thì chữ Khả Kỳ có nghĩa là đâu có chuyện ấy?

Thói thường, các cụ đầu sách viết một câu, cuối sách viết một câu, rồi lại dấu một ít nghĩa vào giữa sách hoặc cắt đầu xén đuôi chữ nghĩa.

Tại sao các cụ lại làm như thế?

Chữ nghĩa chỉ đãi người có thiện chí, không thể khinh suất trao tay cho cả nhà để họ bàn suông làm giảm giá trị của bộ môn học thuật. Sau nữa để cho giảm thiểu cái loạn vọng của người đời, làm cho xã hội bị tai bay vạ gió vê sau

Phú giải rằng một Phá quân Tí Ngọ. Lại ghi Xương Khúc Sửu Mùi, văn chương linh thịnh. Tức là văn chương mà được Xương Khúc cư cung Sửu hay Mùi là hay tuyệt, mà võ tướng được cách Phá Quân cư Tí, cư Ngọ thì lừng lẫy anh hung

Khốn nồi biết bao anh Phá Quân Tí Ngọ mà chi lừng lẫy ở chồ giết heo, mổ bò, còn biết bao bậc Xương Khúc Sửu Mùi mà đọc không nổi mấy chữ trong gia phả. Thì ra các cụ bắt con cháu kéo cái Phá Quân ấy đến giữa sách, mà đòi hỏi lá sổ ấy phải là người "Trương chiêu lưu thủy", theo câu "Phá Quân Tí Ngọ, Trường chiêu lưu thủy", nghĩa là phải hợp với mệnh Thủy thì mới thành công. Cũng như người Xương Khúc Sửu Mùi thì phải là mệnh Kim hay cục Kim mới được hưởng lộc. Nên câu phú giải giữa quyển: "Xương Khúc Sửu Mùi, văn chương linh thịnh", lại cần được đối chiểu với câu phú, Kim hợp cục Sửu, Mùi Khúc Xương nó ở trang sách gần bìa

Nếu khách không phải cục Kim, mệnh Kim thì chớ mang cái Sửu Mùi Khủc Xương của khách ra mà phân bua với làng, lá số sai nhiều quá

Qua vài ví dụ trên, chúng ta cũng tạm ý niệm, được tầm quan trọng của phép đoán số. Số chỉ hay ở chỗ có người biết đoán. Muốn đoán đúng, phải biết đọc sách, mà sách cổ thì khó xem như thế đó.

Sách cổ khó xem, người đoán phải lạc. Cái lạc ấy nó sẽ đi xa, làm cho tàn lụi cái tinh hoa cổ của Đông phương. Thế thì tương lai khoa Tử Vi sẽ đi về đâu?

Căn cứ vào tài liệu biên khảo, tôi nhận thấy rằng ông bạn Thái Đình ghét chuyện bùn lầy nước đọng, có ý kiến canh tân. Gộp hai nền văn hóa Đông Tây, ông muốn phá vỡ cái màn huyền bí về khoa Tử Vi, qua sự chiêm nghiệm lâu năm của chính bản thân mình để cho khoa này được bồi bổ và biến ra thành thực dụng, hữu ích cho sự tu dưỡng tâm linh và sự hòa đồng xã hội, đưa từ vị kỷ lên thành vị tha tốt đẹp

Những suy tư của ông thật mới lạ, nhưng rất hợp lý bởi đường hướng văn minh của con người phải là sự thăng hoa năm trong Duy Thức mà khoa tử vi là một khoa học của Duy Thức và Thực Dụng.

Ông nghĩ đến chuyện giúp độc giả tự mình lập được lá số cho mình, chong than và đoán được nữa. Đi xa hơn, ông muốn cải bổ số mệnh, uốn nắn số mệnh để gạt bỏ bớt cái xấu, chiêu thêm cái tốt... Vừa bàng sự tu dưỡng nội tâm, tạo cái nghiệp tốt đẹp cho số mệnh, vừa bằng hình thức cụ thể, đem ngũ hành sinh khắc chể hóa cho nhau, lấy màu sắc, phương hướng, thời tiết để tăng cựờng cho mệnh, như kiểu tạo cái thắng để hãm, cái mộc để che, chẳng phải là đê đánh lừa sô mệnh, mà chính là để sửa chữa lại số mệnh theo đúng độ ăn nhập của nó, đúng cân, đúng lạng và kích thước để làm cho chệch đi, dù chi là một ly ông cụ, bé nhỏ li ti....

Cái tin tưởng mãnh liệt của ông đã thể hiện qua suốt hơn 50 trang về ý niệm mới mở về Tử Vi, làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Ít nhất cũng cho thấy sự nắm vừng Tử Vi của ông về mặt Khoa học Thực Dụng, nên cuốn Tử Vi Đại Toàn trong phần nguyên tắc đã được trình bày khúc chiết có hệ thống, làm cho dễ tra cứu, dễ hiểu và dề đoán. Đó là một chuyện đáng mừng ở chỗ bên thiện chí là người có đủ tư cách, sách là một tài liệu đứng đắn, không phụ bút hiệu TRÚC SỸ của ông.

Còn lại vấn đề lãnh hội và thực hành thì tất nhiên là phải trông đợi ở quý.

Biết đâu may mắn, sau khi đọc sách của Thái Đình, lại có nhiều vị tránh được tai nạn nhờ phương pháp kê bằng nghiệp lực, thăng hoa linh hồn, tìm được những điều lợi ích hữu lý của sách để hành động, cũng như biết đâu có vài độc giả sáng suốt có thêm ý niệm cần thiết để bổ túc cho sách Thái Đình, làm khoa Tử Vi được rạng rỡ như tác giả mong muốn

Đó là điều tâm niệm của tôi, và chắc cũng là điều tâm niệm của bạn Thái Đình vậy

PORTLAND, ngày 15 tháng 9 năm 1979

NGUYÊN VĂN THƯ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chân ý nghĩa của Tử Vi Đẩu Số

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Dậu với các tuổi khác

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Dậu như thế nào với các tuổi khác. Cuộc sống gia đình của người chồng tuổi Dậu hay người vợ tuổi Dậu ra sao sau khi kết hôn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ giới tuổi Dậu thường là những người dễ khiến đàn ông xiêu lòng, đam mê nhất. Điều này có thể là do họ đều là những người phụ nữ chung thủy trong tình yêu, biết chăm lo cho con cái, là một người vợ, người mẹ tương đối lý tưởng. Tuy nhiên, dù thông minh và rất có khả năng sắp xếp mọi việc nhưng họ lại thiếu một năng lực quan trọng, đó là khả năng tự lập. Nếu có thể kết hôn với một người chồng có tiềm lực vững vàng về kinh tế thì họ sẽ vui vẻ trợ thành người vợ đảm đang, gìn giữ hạnh phúc gia đình và cùng chồng xây dựng một gia đình đầm ấm, hòa thuận.

Trong gia đình, những người vợ tuổi Dậu luôn thể hiện cho chồng biết rằng mình người vợ tốt. Họ cũng rất giỏi trong giao tiếp xã hội. Những người phụ nữ tuổi Dậu biết  cách làm tốt những công việc trong gia đình và luôn thương yêu chồng con. Họ cũng làm tốt trong việc chăm sóc và giáo dục con cái. 

Người tuổi Dậu cũng luôn đòi hỏi sự bình đẳng, tự do một cách tuyệt đối. Họ cho rằng, cả hai người luôn cần sự tôn trọng lẫn nhau trong bất cứ công việc gì, từ chuyện cá nhân đến công việc gia đình, bên nội cũng như bên ngoại. Trong cuộc sống gia đình, một người vợ thích vận động, thể dục thể thao sẽ là sự lựa chọn tuyệt vời nhất cho những người đàn ông tuổi Dậu. Hơn nữa, người có nhiều khả năng trở thành bạn đời của họ nhất chính là người đã cùng lớn lên, trưởng thành với họ, đó có thể là người bạn thuở thiếu thời, bạn học. Tình bạn thân thiết của họ sẽ trở thành nền tảng của tình yêu để xây dựng nên một gia đình hạnh phúc.

Trong cuộc sống gia đình, những người phụ nữ tuổi Dậu đều đủ tiêu chuẩn để trỏ thành những người vợ tốt. Tuy bề ngoài họ có vẻ hướng ngoại nhưng thực ra lại có khả năng chăm lo rất tốt cho gia đình của mình.

Trong tình yêu, người tuổi Dậu đều sẽ phải dành khá nhiều thời gian và công sức để theo đuổi đối tượng của mình. Họ cũng có những sự xung đột khá mạnh mẽ trong nội tâm, nhưng họ cũng rất chú trọng đến việc tạo ra bầu không khí lãng mạn những khi nói chuyện tình yêu để cả hai người dần dần có mối quan hệ thân mật hơn. Nhìn chung, đa số người tuổi Dậu sẽ đều có được nhân duyên mỹ mãn, gia đình hạnh phúc, đầm ấm.

Nam giới tuổi Dậu thường thích thể hiện được những đặc điểm của mình trước mặt nhiều người phụ nữ khác. Trong cuộc sống của họ, nghĩa vụ mà họ phải thực hiện chính là chăm lo tốt cho gia đình và tạo dựng một sự nghiệp vững vàng. Họ rất yêu gia đình nhỏ của minh. Sau khi đã kết hôn, họ luôn sẵn lòng giúp vợ làm việc nhà, tạo nên bầu không khí hạnh phúc, hòa thuận trong gia đình.

Đối tượng kết hôn của người tuổi Dậu

Đa số người tuổi Dậu đều có được nhân duyên tốt, tình yêu thuận lợi, dễ tìm được người ưng ý. Sau khi kết nghĩa vợ chồng, lập thành gia thất nếu biết chăm lo cuộc sống gia đình thì người tuổi Dậu thường có được hạnh phúc viên mãn.

Đường tình yêu hôn nhân của nam giới tuổi Dậu với các tuổi khác

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Tý: Tuy cuộc sống không phải thật hài hòa, vừa ý hai người nhưng người chồng tuổi Dậu rất hòa nhã và có trách nhiệm với gia đình nên người vợ dù có không vừa lòng vẫn yêu thương chồng.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giỏi tuổi Sửu: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Tuy nhiên, người chồng cần biết quan tâm hơn tới gia đình và con cái hơn.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Dần: Tính tình của hai người có nhiều điểm khác biệt. Cuộc hôn nhân đầm ấm và lâu dài hay không nếu biết nhường nhịn nhau, lắng nghe và tôn trọng nhau hơn nữa.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Mão: Hai người cũng có một số điểm khác biệt và cũng rất thẳng thắn với nhau nên dễ dẫn đến xung đột, tranh cãi nếu không biết cách kiềm chế. Nên học cách lắng nghe ý kiến của nhau trước khi bày tỏ quan điểm của bản thân thì mọi chuyện luôn ổn thỏa.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Thìn: Hai người có thể chung sống với nhau. Tuy nhiên, người chồng khá coi trọng công việc nên nhiều lúc lơ là chuyện gia đình. Người vợ nên khéo léo giúp chồng nhận ra điều đó.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Tỵ: Tình yêu, hôn nhân giữa hai người tương đối bình lặng, yên ổn. Cả hai đều biết cách khen ngợi, giữ thể diện cho đối phương và ít khi xảy ra xung đột.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Ngọ: Tình cảm mà người chồng dành cho người vợ tuổi Ngọ lại rất chân thực. Hai người cũng tình nguyện hy sinh tất cả mọi thứ để làm hài lòng người bạn đời của mình. Người chồng cần phải biết trân trọng, gìn giữ điều này.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Mùi: Hai người đều biết được mình đã tìm được người bạn đời lý tưởng. Người chồng luôn cảm thấy mình may mắn còn người vợ biết rằng đây chính là tình yêu đích thực.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Thân: Người chồng luôn mang lại cho người vợ tuổi Thân những điều tốt đẹp. Với sự lo lắng, trách nhiệm của người chồng tuổi Dậu với gia đình thì người vợ không phải lo lắng gì nhiều.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Dậu: Cả hai người đều rất có trách nhiệm với gia đình và người bạn đời của mình. Tuy nhiên nên biết cách làm thư giãn cuộc sống, làm tươi mới lại tình yêu để bỏ đi những áp lực thường nhật.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Tuất: Người vợ tuổi Tuất khá mạnh mẽ và tháo vát nên luôn giúp ích cho người chồng tuổi Dậu trong công việc. Thường thì người chồng tuổi Dậu sẽ đảm trách công việc gia đình nhiều hơn người vợ.

- Nam giới tuổi Dậu với Nữ giới tuổi Hợi: Hai người đều biết cương nhu trong đối nhân xử thế, khéo léo trong cuộc sống và trách nhiệm cao với con cái và hai bên gia đình nội ngoại.

Đường tình yêu hôn nhân của nữ giới tuổi Dậu với các tuổi khác

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Tý: Cuộc sống của hai người tương đối hòa hợp. Người vợ tuổi Dậu sẽ giúp người chồng tuổi Tý điều chỉnh được cuộc sống của mình nên khiến gia đình luôn tốt đẹp.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Sửu: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Ngưòi vợ sẽ thoải mãi thể hiện tài năng của mình trong cuộc sống hạnh phúc, bình an.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Dần: Nếu người chồng tuổi Dần luôn tạo điều kiện cho người vợ thực hiện những mong muốn của mình thì không những gia đình hạnh phúc mà tiền tài vật chất sẽ ngày càng tốt đẹp.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Mão: Cuộc sống của cặp đôi này khá phức tạp nhưng cũng nhiều điều thú vị. Cơ bản hai người biết kiềm chế cái tôi cá nhân thì luôn luôn có được niềm vui trong cuộc sống.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Thìn: Hai người có thể sẽ là cặp đôi ăn ý. Người vợ sẽ hưởng được rất nhiều lợi ích từ những thành tựu của người chồng. Luôn dành sự ưu tiên cho công việc, tiền đồ của người chồng.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Tỵ: Cuộc hồn nhân giữa hai người sẽ rất hạnh phúc. Cả hai thường xuyên cùng nhau thảo luận về những quan điểm sống để hiểu nhau nhiều hơn.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Ngọ: Hai người có thể chung sống được với nhau. Tài năng và sự năng động của người chồng khiến người vợ rất yên tâm về cuộc sống gia đình của mình.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Mùi: Gia đình đầy tiếng cười vì tình yêu mà hai người dành cho nhau luôn là liều thuốc tinh thần động viên nhau trong những lúc khó khăn.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Thân: Người chồng nên biết cách tạo dựng niềm tin, thể hiện trách nhiệm với gia đình cho dù thực lòng yêu thương vợ con. 

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Dậu: Buông bỏ những lúc cần thiết sẽ giúp hai người giảm bớt được áp lực trách nhiệm do chính bản thân tạo ra. Hãy trân trọng những lúc bên nhau, giành nhiều thời gian nghỉ ngơi, du lịch giúp làm tươi mới cuộc sống của hai người.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Tuất: Người chồng năng động, cần mẫn trong công việc bởi luôn mong muốn gia đình sung túc, giàu có. Tuy nhiên, cần gần gũi con cái, chia sẻ suy nghĩ với người vợ hơn nữa.

- Nữ giới tuổi Dậu với Nam giới tuổi Hợi: Cuộc sống của hai người tương đối hòa hợp. Người chồng rất biết cách chăm lo cho gia đình, khiến cho ngưòi vợ cảm thấy hài lòng và vui vẻ.

Vận giúp chồng, giúp vợ của người tuổi Dậu

Những người vợ tuổi Dậu có thể giúp chồng làm được rất nhiều việc, sắp xếp ổn thoả mọi việc trong gia đình, khiến người chồng an tâm chuyên chú vào sự nghiệp của mình.

Người vợ tuổi Dậu luôn ủng hộ và giúp đỡ để chồng có thể tạo dựng sự nghiệp. Họ cũng có thể ăn mặc rất tuềnh toàng, nhưng lại luôn để ý chăm chút cho vẻ bề ngoài của chồng. Những người phụ nữ tuổi Dậu và sinh vào mùa xuân thì còn có thế giúp được chồng mình nhiều việc hơn thế nữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu hôn nhân của người tuổi Dậu với các tuổi khác

Tướng phụ nữ cao số |

Hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài. Hai cằm Rất nhiều cô gái có hai cằm nhưng đã giảm cân vì muốn xinh đẹp hơn, thậm chí còn đi phẫu thuật thẩm mỹ để
Tướng phụ nữ cao số |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ cao số |

Ngũ hành trong phong thủy – Kỳ 2: Ngũ hành và hình dạng

Khi mới áp dụng thuyết ngũ hành trong phong thủy, bạn có thể sẽ nhầm lẫn rằng mỗi hành được đại diện bởi một đồ nội thất hoặc vật trang trí cụ thể.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn cũng có thể liên hệ ngũ hành với hình thù cụ thể, và dưới đây là những hình dạng đại diện cho mỗi hành:

Mộc: Hình chữ nhật

Hỏa: Hình tam giác

Thổ: Hình vuông

Kim: Hình tròn

Thủy: Hình lượn sóng

Khi mới áp dụng thuyết ngũ hành trong phong thủy, bạn có thể sẽ nhầm lẫn rằng mỗi hành được đại diện bởi một đồ nội thất hoặc vật trang trí cụ thể.

Vậy giữa màu sắc, hình thù và chất liệu, bằng cách nào ta có thể xác định được hành ẩn trong một đồ vật cụ thể?

Hãy lấy ví dụ về một chiếc bàn cà phê – màu xanh dương, hình vuông, làm từ gỗ. Màu xanh dương là màu của hành Thủy, vậy có phải chiếc bàn này sẽ đem hành thủy vào nhà bạn, hay nó mang hành mộc bởi được làm từ gỗ? Hay với hình vuông, nó sẽ mang hành thổ ?

Thông thường, khi gặp khó khăn trong việc xác định hành của một vật trang trí nào đó, màu sắc sẽ được chọn làm tiếu chí đầu tiên, tiếp đến là hình thù và chất liệu làm nên đồ vật đó.

Tất nhiên, nếu hành được thể hiện quá rõ ràng, như cầu thanh bằng kim loại mang hành Kim, hay một cái cây mang hành Mộc, thì không cần phải đoán. Tuy vậy, trong hầu hết các trường hợp, bạn sẽ thấy mỗi đồ vật đều mang trong mình 2 hay nhiều hành, và lúc đó bạn sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc cảm nhận hoặc hiểu được biểu hiện của các hành thông qua nội thất trong nhà bạn.

Một khi biết cách cân bằng ngũ hành trong nhà bằng việc sử dụng những đồ trang trí đơn giản, cùng với các mẹo phong thủy khác, căn nhà của bạn sẽ trở nên thực sự hài hòa.

Khánh Ngọc (Dịch)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành trong phong thủy – Kỳ 2: Ngũ hành và hình dạng

Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Mỗi năm Giáng Sinh về, hình ảnh Ông Già Noel xuất hiện khắp mọi nơi. Ông Già Noel thân thương gần gũi vui vẻ trao quà cho trẻ em. Ông Già Noel thăm viếng và chia sẻ cho những người kém may mắn.Tuy nhiên, không phải ai cũng biết ông già tuyết là ai và tại sao lại có ông già tuyết?
Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

1./ Nguồn gốc Lễ giáng sinh

Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas (từ tiếng Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta") là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo.

Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6. Một số nước ăn mừng ngày này vào 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12.

Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là "lễ chính ngày", còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là "lễ vọng". Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory (lịch dương).

Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (Đấng chịu sức dầu) là tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.

Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos,Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.

Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2, 3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.

Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.

Những người La Mã, hàng năm ăn mưng "Thần Mặt trời" đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt trời" của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu. Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt trời" và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.

Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với Đông Chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.

2./ Ý nghĩa lễ giáng sinh

Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noel là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ: chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noel…

Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noel trở thành một buổi lễ của trẻ em: một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.

Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình: ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ” - đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noel cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu….

3./ Giáng sinh ở Việt Nam thường diễn ra như thế nào?

Giáng sinh du nhập vào Việt Nam và được đông đảo mọi người hưởng ứng rất nhiệt tình. Dù không phải là ngày nghỉ chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12.

Trong những ngày này, cây thông Noel được trang trí ở nhiều nơi, có thể là cây nhân tạo làm bằng nhựa, hoặc cây thật thường là thông ba lá hoặc thông đuôi ngựa, trong khi ở các nước phương tây dùng đa dạng các loài thông, vân sam, lãnh sam. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây.

Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp. Trong đêm Giáng Sinh, những đôi tình nhân tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc, hát karaoke,... và đặc biệt là những người Công Giáo thì chuẩn bị tham dự thánh lễ tại thánh đường giáo xứ hoặc giáo họ của mình.

3./ Ông Già Noel là nhân vật lịch sử hay chỉ là huyền thoại ?

Một nhân vật không thể thiếu trong ngày Lễ giáng sinh là Ông già Noel. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu xem nhé.

** Nguồn gốc của Ông già Noel

Thánh Nicôla và Ông Già Noel là cùng một người. Thánh Nicôla là một Giám Mục của Giáo Phận Myra, bên Thổ Nhĩ Kỳ.

Người Pháp gọi là:  Le Père Noel (ông Cha, linh mục Noel), người Anh gọi trực tiếp là Santa Claus (Thánh Nicôla), Thánh Giám mục, lễ mừng ngày 6 tháng 12 hàng năm.

Người Pháp thân mật gọi Ngài là “Le Père Noel” (ông cha Noel) vì ngài liên hệ nhiều đến lễ Noel, nhất là với trẻ em, đến nỗi sau khi Ngài qua đời đã lâu rồi, mà hình ảnh Ngài còn được lưu truyền cho hậu thế.

Đầu tiên ở Châu Âu, rồi tới toàn thế giới qua bóng dáng một cụ già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, mặc áo choàng đỏ viền trắng, thắt lưng da đen,đội mũ chóp đỏ, lưng vác một giỏ lớn đây đồ chơi và bánh kẹo cho thiếu nhi.

Người ta còn thi vị hóa, đem niềm vui cho trẻ em, bằng cách “bắt ông cha Noel đêm 24 tháng 12 chui qua lò sưởi vào phòng ngủ của các em, bỏ đồ chơi, bánh kẹo vào những chiếc giày các em để bên lò sưởi, hay bỏ vào những chiếc vớ mà các em treo ở chân giường”. Thật ra là cha mẹ các em bỏ vào đó để khuyên các em phải ngoan thì “Cha Noel” mới cho quà!  Một cách giáo dục hay!

Khi tới Việt Nam, dân chúng không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình cụ già râu tóc bạc phơ, nên gọi là Ông Già Noel.

Ông Già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị Giám mục thánh thiện, Thánh Nicôla.

Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài. Có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicôla là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư. Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á. Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô hữu dành cho ngài. Sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.

Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicôla là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicôla đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicôla trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là Ông Già Noel 

** Cuộc đời Thánh Nicôla

Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicôla. Ngài là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại?

Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng Ngài là một nhân vật có thật.

Thánh nhân sinh năm 280 SCN, tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ). Cha mẹ đặt tên cho con trai bằng tiếng Hy Lạp là Nicôla. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicôla có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh tuy không giàu có lắm nhưng luôn giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ nền đạo đức bác ái từ cha mẹ : “Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình”, Nicôla đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm. Cha mẹ qua đời, lúc này Nicôla mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé vẫn tiếp tục đem tiền bạc giúp đỡ cho những người cùng khổ. Nicôla miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.

Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, có lẽ thánh Nicôla là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài biệt danh vui nhộn là “chú nhóc Giám Mục”. Ngài cười đón nhận và chẳng phiền lòng tí nào.

Năm 303, lúc Nicôla 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicôla và giáo dân địa phận Mira không chịu tuân phục. Ðối với Kitô hữu, chỉ có một Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicôla đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng Nicôla bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống.

Đến năm 313, hoàng đế Constantine lên ngôi, ra sắc chỉ Milan, đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicôla thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển Giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người về với Chúa.

Ngày 6 tháng 12 năm 343, Đức giám mục Nicôla từ trần, hưởng thọ 63 tuổi. Ngài để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Một thời gian ngắn sau khi Đức giám mục Nicôla từ trần, người dân Mira dựng lên một ngôi đền thờ tôn kính ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài.

Ðến năm 800 Giáo Hội Công Giáo Đông Phương chính thức tuyên dương ngài là thánh.

** Lý do ông già Noel trở nên nổi tiếng?

Như vậy, có thể thấy câu chuyện về ông già Noel xuất phát từ Cơ đốc giáo. Tuy nhiên ngày nay, nhân vật này xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới và nhiều người không theo tôn giáo này nhưng vào ngày lễ Giáng sinh vẫn thực hiện những phong tục giống những người theo đạo như: Tặng quà cho trẻ em hay hóa trang thành ông già Noel.

Vậy nhờ đâu mà người đàn ông bụng phệ mặc đồ đỏ này lại nổi tiếng đến vậy?

Trước hết, ông già Noel không chỉ là hóa thân của một vị thánh trong Cơ đốc giáo, mà ông còn là một hình ảnh tượng trưng cho lòng nhân từ, tình yêu thương giữa con người với con người. Câu chuyện về ông nhanh chóng lan truyền và được mọi người hưởng ứng.

Từ đó, ông già Noel cũng bắt đầu “làm việc” trong lĩnh vực quảng cáo. Hình ảnh ông già Noel trong chiến dịch quảng cáo của Cocacola. Cũng chính từ đây mà ông già Noel nổi tiếng khắp thế giới.

Tuy nhiên, hình ảnh về một nhân vật hiền hậu với chiếc bụng phệ trong bộ trang phục màu đỏ viền trắng cùng bộ râu trắng xóa chỉ trở nên nổi tiếng thế giới kể từ những năm 1930, khi hãng Cocacola sử dụng hình ảnh ông già Noel để thực hiện chiến dịch quảng cáo sản phẩm nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong quảng cáo này, ông già Noel trên chặng đường phát quà cho các bạn nhỏ đã dừng lại nghỉ chân và thưởng thức một chai Cocacola giải khát. Vì là một chiến dịch quảng cáo, nên nhờ đó mà hình ảnh ông già Noel tràn ngập khắp các phương tiện truyền thông đại chúng và dần trở nên quen thuộc.

Khi chiến dịch quảng cáo kết thúc, hình ảnh dễ thương này của ông già Noel vẫn được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác và kết quả là ngày nay, trên thế giới ai cũng biết tới ông già Noel với tạo hình là một ông lão râu trắng, bụng to, mặc đồ màu đỏ và có một điệu cười vô cùng thân thiện. Thú vị thay, trang phục của ông già Noel có màu sắc cũng tương ứng với logo của hãng nước giải khát này.

4./ Những biểu tượng trong ngày Lễ giáng sinh

** Vòng lá mùa vọng

Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.

Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là  màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng 

** Thiệp Giáng sinh

Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên  thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.

** Quà Giáng sinh

Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bạn bè. Đối với một số người, những món quà Giáng sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.

Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.

Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.

Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.

** Cây thông NOEL  

Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức từ thế kỷ 16. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu cả bên trong và bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu.

Đến thế kỉ 19 thì cây Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Đến những năm 1820 cây Noel được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.

** Quà tặng trong những chiếc bít tất

Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.

Câu truyện thần kỳ kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3 cô gái treo bít tất bên lò sưởi dể hy vọng nhận được quà.

Trẻ em hy vọng nhận được nhiều quà nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất bên cạnh lò sưởi dể nhận quà như ước mơ từ ông già Noel.

** Ngôi sao Giáng Sinh 

Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía,có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt. 

Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran va Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, 3 vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm trầm hương và vàng bạc châu báu.

Ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đem Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.

** Chiếc gậy kẹo

Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Giê su. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của chúa Giê su. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập ác. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì chúa Giê su chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên chúa Giê su (Jesus). Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được lễ Giáng Sinh nói về điều gì.

** Bài hát Giáng sinh 

Bài Jingle bell do nhạc sĩ J.Pierpont sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.

Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng sinh. Bài Silent Night, Holy night có xuất xứ từ Đức với tựa đề “Stille Natch, Heiligo Natch” do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến Đức – Áo - Phổ kết thúc. Sau này được phổ biến sang Áo, Mỹ... nay đã được dịch ra gần 100 thứ tiếng.

** Nến Giáng Sinh 

Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.

Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.

Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.

** Chuông Thánh Đường

Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc của ông già noel và ngày lễ giáng sinh

Động tác lễ Phật đầu Xuân thế nào cho đúng?

Nói đến lễ Phật thì ai cũng biết, nhưng động tác lễ Phật như thế nào và ý nghĩa của các động tác ấy ra sao thì nhiều người còn không rõ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu Xuân là lúc mà mọi người, mọi nhà đi lễ Phật đông nhất. Họ có thể tìm đến các nơi thờ tự linh thiêng và gửi gắm nhiều tình cảm, niềm mong muốn cho một năm mới an lành, may mắn.

Theo Hoà thượng Thích Gia Quang - Phó Chủ tịch HĐTS TƯ GHPGVN, Trưởng Ban Thông tin truyền thông Trung ương cho biết: "Lễ Phật không chỉ cầu sức khoẻ, tiền tài, hạnh phúc mà lễ Phật còn là để tĩnh tâm, hướng thiện. Tuy nhiên để hiểu đúng các động tác lễ Phật cho đúng và ý nghĩa của các động tác đó thì nhiều người còn không biết".

 dong tac le phat dau xuan the nao cho dung? - 1

Nhiều người đi lễ Phật đầu xuân vẫn không hiểu về ý nghĩa của các động tác. Ảnh: Đức Tuỳ

Lễ Phật đúng cách thì động tác phải đúng và theo các bước:

Thứ nhất: Đứng trước hoặc quỳ ngay ngắn trước bàn thờ tượng Phật. Đưa hai bàn tay từ hai bên chập lại làm một ở trước ngực.

Đây chính là nhắc nhở chúng ta sửa thân tâm cho ngay thẳng, buông bỏ cái cái tâm phân biệt để trở về cái Lý Nhất Như của nhà Phật. Đó cũng chính là quy về với bản thể của mỗi con người.

 dong tac le phat dau xuan the nao cho dung? - 2

Lễ Phật là kính Phật tức là bảo ta phải cung kính muôn loài. Ảnh: Đức Tuỳ

Thứ hai: Từ tư thế nhẹ nhàng đưa hai tay lên trán. Đó là dùng tâm Phật mà cung kính với Phật.

Ngoài tượng Phật ngay trước mặt chúng ta, thì Phật còn hiện hữu ở: Thính giác là bản thể của vũ trụ, có ở khắp mười phương hư không và trong muôn loài. Từ chim muông cây cỏ, côn trùng, con kiến cho đến loài người và tất cả muôn vật. Vậy lễ Phật là kính Phật tức là bảo ta phải cung kính muôn loài.

Đối với con người dù sang hay hèn, địa vị cao hay thấp, giầu hay nghèo, từ vua quan cho đến người cùng đinh, nghiện ngập, trộm cắp, ăn mày… ta đều phải cung kính không được coi thường ai.

Vì tuy hình tướng của họ có khác nhau nhưng bản thể của họ đều là Phật cả. Mà đã là người con của Phật thì ai cũng biết: “Tất cả những gì có hình tướng đều là hưng vọng” do nhân duyên và nghiệp sinh không thể tin vào đó được.

Với loài vật cũng vậy, cũng phải có tâm từ bi, yêu thương, chăm sóc, bảo tồn nó, không được làm tổn thương hay sát hại cúng một cách vô cớ hay vì tham ăn tục uống, vì phô thương thanh thế, vì cầu lợi…

Với các loài vô tình như cây cối và các đồ vật không được cẩu thả vô trách nhiệm, gây tổn hại đến chúng mà phải chân quý bảo vệ, giữ gìn chăm sóc chúng.

 dong tac le phat dau xuan the nao cho dung? - 3

Lễ Phật đúng động tác sẽ mang lại nhiều may mắn trong năm mới. Ảnh Đức Tuỳ

Thứ ba: Thân và đầu cúi rạp xuống là bảo ta phải khiêm tốn lễ độ không được kiêu căng, ngạo mạn và hạ thấp cái tôi xuống vì đó chính là nguyên nhân gây khổ đau cho ta và cũng là chúa tể của vô minh dẫn ta vào đắm chìm lục đạo luân hồi.

Ngửa hai lòng bàn tay lên và cúi đầu sát hai tay là để đón nhận những tinh hoa của vũ trụ chuyển nó vào tâm thức của mình, đẩy lùi cái xấu, cái ác, mang lại các phúc lành cho ta mà thường gọi là sự gia hộ của Phật và Bồ Tát.

Cũng theo Hoà thượng Thích Gia Quang thì Lễ tức là kính, Bái tức là phục. Nếu ai nhận được cái lí chân thật của việc lễ Phật thì đưa nó vào tâm thức, suốt ngày khiêm tốn lễ độ, không kiêu căng ngã mạn, hạ thấp cái tôi xuống, kính trọng muôn người, muôn loài, muôn vật đó mới là thực lễ Phật và còn ý nghĩa hơn khi chúng ta đi lễ Phật đầu xuân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Động tác lễ Phật đầu Xuân thế nào cho đúng?

Tháng 3 này, 3 con giáp sau sẽ luôn vạn sự như ý

Cùng xem Thần May Mắn sẽ đồng hành cùng ai trong suốt tháng này nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1: Tuổi Mùi

Những bạn cầm tinh con dê sẽ có một tháng ngập tràn may mắn và thành công chờ đợi ở phía trước. Bất kể bạn làm gì cũng đều vô cùng thuận lợi và suôn sẻ. Nhờ có nhiều quý nhân phù trợ giúp đỡ nên mọi chuyện đều diễn ra trong dự liệu của bạn, nhờ đó bạn sẽ luôn thong thả, thảnh thơi mà chuyện tình yêu hay túi tiền vẫn cứ luôn đong đầy không khi nào vơi. Bạn nên góp vốn đầu tư kinh doanh trong thời điểm này, rất dễ thu được thành công lớn. Bên cạnh đó bạn cũng có lộc về đường ngoại giao nên sẽ gặp được nhiều bậc cao nhân dẫn đường chỉ lối cho bạn cả trên con đường công danh lẫn trong cuộc sống. Hãy chào đón tháng 3 bằng cách hào hứng nhất có thể bạn nhé, không còn nghi ngờ gì nữa đây là tháng dành cho bạn đấy.

Tháng 3 này, 3 con giáp sau sẽ luôn vạn sự như ý - Ảnh 1.

Top 2: Tuổi Tỵ

Trải qua một tháng đầy bình yên của năm mới Đinh Dậu, tuổi Tỵ đã chuẩn bị sẵn sàng cho một năm với nhiều thử thách và cơ hội ở phía trước. Tháng 3 này sẽ mang lại cho bạn nhiều cơ may để bước đến những mục tiêu và thành công mà bạn hằng ấp ủ bấy lâu. Sự nhanh nhạy, sắc bén trong kinh doanh cùng với sự may mắn trời ban, bạn sẽ gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ trong công việc làm ăn. Đường tình duyên cũng vô cùng khởi sắc khiến cho tuổi Tỵ vui mừng không ngớt trong thời gian này. Hãy nắm bắt mọi cơ hội cũng như khó khăn mà cuộc đời dành cho mình, đây chính là thời điểm để bạn tỏa sáng và chứng minh năng lực mạnh mẽ của bản thân đấy.

Top 3: Tuổi Dần

Những bạn cầm tinh con hổ sẽ không có gì phải phàn nàn về tháng 3 đầy ắp những điều may mắn bất ngờ này. Bạn không phải cố gắng quá nhiều, cũng không hề phải lao tâm khổ tứ trong bất kì chuyện gì nhưng kết quả thu được thì lại vô cùng ngạc nhiên. Bạn sẽ dễ dàng đạt được những thành công mà người khác sẽ phải cố gắng gấp trăm lần mới đạt được. Thần May Mắn sẽ luôn dõi theo và đồng hành với bạn trên mọi nẻo đường nên bạn sẽ không phải lo lắng bất kì điều gì trong thời gian này. Tuổi Dần sẽ được tận hưởng tháng 3 một cách trọn vẹn và viên mãn nhất, điều mà biết bao người phải ghen tỵ với bạn.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng 3 này, 3 con giáp sau sẽ luôn vạn sự như ý

3 Kiêng kỵ trong phòng ngủ vợ chồng là gì ?

Kỵ mỗi người một chăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giường ngủ là nơi hai vơ chồng gần gũi nhất, bởi vậy việc chọn mua chăn đệm rất quan trọng. Trong gia đình, khi ngủ hai vợ chồng không nên đắp mỗi người một chăn vì điều này sẽ khiến cho tình cảm vợ chồng trở nên hờ hững, xa cách.

Kỵ để gương đối diện với giường ngủ và cửa ra vào

1358662885-q2

Rất khó tránh khỏi việc treo gương trong phòng ngủ, tuy nhiên bạn nên chú ý không để gương trong phòng đối diện với giường ngủ hoặc cửa ra vào phòng ngủ, nếu không sẽ khiến cho người chồng – chủ nhân căn nhà cảm thấy bất an. Nếu như không thể thay đổi được vị trí để gương, có thể dùng tấm vải che lên tấm gương, khi nào dùng mới vén lên.

Kỵ người thứ ba bước vào phòng ngủ của hai vợ chồng

1358662885-q3

Phòng ngủ là nơi dành riêng cho hai vợ chồng, vì thế nên tránh để người thứ ba bước vào bởi nó có thể đem đến khí vẩn đục cho căn phòng. Ngoài ra, nhiều người thường sử dụng phòng ngủ làm nơi thay quần áo, tuy nhiên điều này cũng không ổn vì dễ khiến người chồng ngoại tình ở bên ngoài.

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 Kiêng kỵ trong phòng ngủ vợ chồng là gì ?

Những kiêng kỵ khi lần đầu tiên mở cửa hàng –

Ngày nay có rất nhiều người lựa chọn đầu tư bằng cách mở cửa hàng. Nhưng điếu đó thật chẳng đơn giản chút nào, nó còn dính dáng đến nhiều quy trình như tìm địa điểm, vốn đầu tư, loại hàng để bán, cách tiêu thụ thế nào... Mà đối với những người lần đầ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay có rất nhiều người lựa chọn đầu tư bằng cách mở cửa hàng. Nhưng điếu đó thật chẳng đơn giản chút nào, nó còn dính dáng đến nhiều quy trình như tìm địa điểm, vốn đầu tư, loại hàng để bán, cách tiêu thụ thế nào… Mà đối với những người lần đầu tiên mở cửa hàng, sau nhiều tháng suy tính để quyết định mở vốn đầu tư mở cửa hàng thì lựa chọn địa điểm của cửa hàng là một yếu tố vô cùng then chốt. Vậy tìm cửa hàng thế nào đây?

Thông thường một cửa hàng sang trọng, có nhiều vượng khí trở thành sự lựa chọn đầu tiên của rất nhiều người. Nhưng với những ai khởi nghiệp lần đầu thì tiền thuê đắt đỏ và phí chuyển nhượng của nó khiến cho đồng vốn của họ vơi đi thấy rõ. Lúc này, vấn đề đầu tiên phải suy nghĩ chính là tính toán giá trị của cả cửa hàng. Đối với người mới thì giá thuê vị trí rất quan trọng, nhưng kinh doanh quản lý cả cửa hàng càng quan trọng hơn.

mo-cua-hang

Những ông chủ giỏi không nhờ dựa vào vị trí mà bán hàng thành công, họ suy nghĩ cách quản lý kinh doanh lâu dài bảo đảm đầu tư có lãi, tìm cách nâng tầm vị trí của cửa hàng mình lên.

Vì cửa hàng nhỏ mới khai trương nên mức độ danh tiếng và lượng khách hàng phải trải qua quá trình tích lũy. Có nhiều cửa hàng trong vòng một năm sau khi khai trương đã phải đóng cửa. Nếu cửa hàng của bạn mở ngay bên cạnh một cửa hàng nối tiếng thì xin chúc mừng vì bạn có thể được hưởng nhờ nó. Nếu hàng của bạn giống như hàng bán của cửa hàng nổi tiếng bên cạnh thì cửa hàng nhỏ của bạn vừa khai trương sẽ có ngay khách hàng tiêu thụ ban đầu.

Ưu tiên lựa chọn cửa hàng bên tay phải

Theo hướng dòng người đi thì hướng để người ta đến là bên tay phải. Nguyên nhân là do quy tắc giao thông của nước ta, phần lớn những người đi dạo thường đi bên tay phải của mình. Do vậy các cửa hàng, quầy hàng lớn nhỏ đều bày bên phải cao hơn bên tay trái là như vậy.

Không nên chọn cửa hàng ở gần những cửa hàng thường xuyên giảm giá

Nếu cửa hàng của bạn kinh doanh hàng tương đối chật chẽ chỉ giữ đúng giá thì bạn tuyệt đối không được chọn ở gần với những cửa hàng thuờng xuyên giảm giá (Ví dụ như cửa hàng quần áo, trang sức cho nữ giới…). Bởi vì người ta thích số đông, không khí mua sắm cũng vậy. Nếu một cửa hàng giảm giá thì các cửa hàng khác cũng phải làm theo thì khách hàng mới mua. Trong khi đó, cửa hàng của bạn không được giảm giá thì làm sao thu hút được khách hàng.

Không nên thuê truyền tay

Khi thuê cửa hãng, cố gắng tìm người chủ đích thực mà ký hợp đồng. Bởi vì nếu qua tay nhiều người sẽ gây tôn thất về tiền nong và nhiều vấn đề khác nảy sinh mà ta không giải quyết được.

Không nên tham thuê rẻ

Nếu nhà chủ đưa ra giá thuê rẻ hơn giá thuê bình thường thi bạn hãy cẩn thận. Có thể quyền sở hữu của ngôi nhà hoặc người chủ đang có vấn đề, hoặc ngôi nhà đó trong một thời gian ngắn sẽ bị giải tỏa. Nếu sau khi chứng minh ngôi nhà đó không nảy sinh vấn đề nào thì bạn đã may mắn rồi đó.

Cẩn thận thuê phải cửa hàng có lối đi ngang qua

Cửa hàng có lối đi ngang qua là chỉ cửa hàng có cửa nối thẳng với lối thoát của cửa, hình thành đường đi thông qua cửa hàng. Cửa hàng này luôn bị khách hàng cho rằng nó là một lối đi mà không chú ý gì đến hàng hóa bày trong cửa hàng. Ngoài ra, người qua lại rất nhiều, không những ảnh hưởng đến việc chọn lựa hàng của khách mà còn làm người bán hàng mất tập trung không giới thiệu được món hàng mình cần bán. Hơn nữa còn hay bị mất đồ gây nên tổn thất ngoài ý muốn cho doanh nghiệp.

Phải có tầm nhìn xa

Không phải cứ có địa điểm tốt là kiếm được tiền. Có khi vấp phải sự thay đổi trong quy hoạch của thị chính mà từ một nơi sầm uất cũng có thể trở nên vắng vẻ, tiêu điều.

Có rất nhiểu mảnh đất đang trong giai đoạn khai thác lại nhận được không gian đầu tư cực lớn. Do vậy, nhà đầu tư phải có tầm nhìn xa, hiểu biết được tình hình phát triển trong tương lai của mảnh đất mình cần sử dụng. Tất nhiên, ngoài việc tập trung tìm hiểu quy hoạch ra còn phải chú ý đến tình hình cạnh tranh đồng nghiệp trong tương lai.

Cùng liên minh biến khó thành dễ

Hiện nay có rất nhiều nhà cao tầng, khu đô thị mới mọc lên như nấm. Người ta dành những gian hàng ở tầng một để cho thuê. Tuy nhiên những gian hàng đó có diện tích rất to nên rất khó cho thuê mà giá cà thì không rẻ.

Trước tình hình như vậy, một số doanh nghiệp liên minh với nhau mua cửa hàng to đó rồi chia nhau. Tính ra thì họ tiết kiệm được một khoản tiền khá.
Tất nhiên các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào cửa hàng phải có tầm nhìn xa để hiểu rõ kinh tế khu vực đó, mức thu nhập của người dân, quy hoạch khu nhà… để từ đó đưa ra biện pháp kinh doanh thích hợp như cần phải bán hàng loại nào, chất lượng và giá cả ra sao để người dân ở đó có thể chấp nhận được mà mình lại có lợi nhuận… Bời vì chọn được địa điếm tốt kinh doanh cũng phải tốt mới là điều quan trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ khi lần đầu tiên mở cửa hàng –

Quý nhân trong cuộc đời 12 con giáp

Nếu may mắn gặp được quý nhân trợ giúp, 12 con giáp có thể gia tăng vận khí, hóa giải trở ngại trong cuộc sống.
Quý nhân trong cuộc đời 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1-7614-1432873824.jpg
2-9956-1432873824.jpg
3-1528-1432873825.jpg
4-5018-1432873825.jpg
Sửu Dần Mão
5-9843-1432873825.jpg
6-4101-1432873825.jpg
7-9861-1432873825.jpg
8-7347-1432873826.jpg
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
9-3938-1432873826.jpg
10-1957-1432873826.jpg
11-5103-1432873826.jpg
12-1467-1432873826.jpg
Thân Dậu Tuất Hợi

Tuệ Anh (theo Diyixz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý nhân trong cuộc đời 12 con giáp

Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

Vào ngày 9 tháng 1 âm lịch có tổ chức các lễ hội Hội Làng Túy Loan,Hội Vật Võ,Hội Xuân Hồ Ba Bể,Hội Yên Tử,Hội Tiên lục,Hội làng Triều Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

1. Hội làng Triều Khúc

Thời gian diễn ra: tổ chức từ ngày mùng 10 tới ngày 12 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: thôn Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công lao của Bố Cái đại vương Phùng Hưng, và Thánh sư họ Vũ (ông tổ của nghề dệt).

Nội dung diễn ra: Biển sáng ngày hội có, lễ tế chính thức được tiến hành ở đình lớn. theo truyền thuyết thì đây là lễ Tức Vị (lễ lên ngôi) của vua Phùng Hưng. Mở đầu hội là lễ rước long bào - triều phục của Hoàng đế Phùng Hưng từ đình sắc về đình lớn để bắt đầu cuộc tế gọi là lễ "Hoàn Cung".

Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình, các trò chơi vui cũng bắt đầu được tổ chức. Một trong những trò chơi vui được nhiều người yêu thích nhất là trò múa "Đĩ đánh bồng" hay còn gọi là múa trống bồng. Đây là một điệu múa cổ do hai chàng trai giả gái biểu diễn, trong bộ quần áo mớ ba mớ bẩy, cùng với hóa trang má phấn môi son, răng đen hạt huyền, mắt lá răm, khăn mỏ quạ. Hai "Cô gái" vừa nhún nhảy vừa vỗ trống Bồng đeo trước bụng. Tiết mục này thường thu hút người dự hội nhiều nhất và cũng là tiết mục sinh động và độc đáo nhất trong lễ hội.

Bên canh múa trống Bồng còn có một điệu múa rồng cầu mong mưa thuận gió hòa, thái quốc dân an, phồn vinh và thịnh vượng.

Ngoài ra, trong hội làng Triều Phúc còn có nhiều trò vui khác như: múa lân hí cầu, đấu vật, hát chèo Tàu. Sới vật Triều Khúc cũng là một trong những sới nổi tiếng, thu hút khá đông các đô vật từ nơi khác về tham dự: Bắc Ninh, Gia Lâm, Mai Động...

Ngày cuối của lễ hội có lễ giã đám và kết thúc bằng một điệu múa cờ (còn gọi là múa chạy cờ). Khi mọi nghi lễ kết thúc cũng là mọi người ngồi vào chiếu để hưởng lộc Thánh.

2. Hội Tiên lục

Thời Gian: được tổ chức vào các ngày 9 tháng 1, 20 tháng 5, 20 tháng 8 và 20 tháng 11 âm lịch.

Địa điểm: xã Tiên Lục, huyện Lạc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Nội dung: Hội Tiên Lục diễn ra 4 lần trong năm nhưng ngày mùng 9 tháng 1 âm lịch là ngày hội thu hút đông du khách nhất. Du khách về thăm hội Tiên Lục không chỉ được xem là trò vui mà còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của xóm làng, của cây dã hương ngàn năm tuổi,  bên cạnh mái đình Viễn Sơn. Hội Tiên Lục chủ yếu diễn ra ở khu vực đình cây dã hương, đình Thuận Hóa, đình Phục Quang và đình Tiên Lục.

Hội xuân bắt đầu từ 1h sáng ngày mùng 9 âm lịch với lễ khai thanh rồi đến lễ tranh chiêng, tranh chống giữa làng. Tiếp đến là lễ rước kiệu vào đền, rồi làm lễ tế thần Cao Sơn. Sau phần lễ sẽ là các trò chơi: thi cưới cầu, thi cỗ, thi kéo chữ, kéo co, chọi gà...

3. Hội Yên Tử

Thời Gian: Bắt đầu từ ngày mùng 9 tháng giêng và kéo dài tới hết tháng 3.

Địa điểm: Núi Yên Tử (xưa còn gọi là núi Voi hay Bạch Vân Sơn), xã Thượng Yên Công, tỉnh Quảng Ninh.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Phật và Trần Nhân Tông (Trần Khâm) - ông vua anh hùng của 2 cuộc kháng chiến đại thắng quân Nguyên - Mông (1285 - 1288) mang lại thanh bình cho đất nước, vào lúc triều đại đang hưng thịnh vẫn nhường ngôi cho con để yên tâm nghiên cứu đạo Phật và tìm đến Yên Tử để tu hành.

Nội dung diễn ra: Hội Yên Tử được tổ chức long trọng hàng năm ngay dưới chân núi Yên Tử, với cuộc hành hương của hàng trăm, hàng vạn người đến với chùa đồng ở trên đỉnh núi.

Du khách đến đây không chỉ là tìm đến cõi phật để thể hiện đức tin, ước vọng cầu lộc, cầu tài mà còn để ngưỡng cảm ý chí thông tuệ và đức độ thanh cao của các bậc cha ông, để du xuân vãn cảnh, thưởng ngoạn không khí thanh bình.

4. Hội Xuân Hồ Ba Bể

Thời gian: được tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

Nội dung: hồ Ba Bể nằm ở độ cao 145m so với mặt nước biển và được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi cao tới 1.754m. Người ta cho rằng nó được hình thành cách đây 200 triệu năm. Mang tên là Ba Bể là do 2 cái hồ thông với nhau với tổng chiều dài 8km và chiều rộng là 3km. Chính diện tích hồ Ba Bể như vậy mà người dân ở đây coi hồ Ba Bể như một cái biển thu nhỏ của họ. Trong hồ có rất nhiều hòn đảo nhỏ, đặc biệt là ao Tiên tương truyền rằng đây là nơi ngày xưa các tiên trên trời xuống tắm và chơi cờ.

Lễ hội xuân ở hồ Ba Bể là một lễ hội truyền thống phô diễn những bản sắc dân tộc của đồng bào địa phương nơi đây với nhiều trò chơi truyền thống như: đua thuyền, độc mộc, tung còn, kéo co, bịt mắt bắt dê... cùng nhiều hoạt động văn hóa và thể thao khác của đồng bào dân tộc như: đấu vật, thi hát. Người đi trảy hội có thể tham gia các điệu hát và múa trong điệu nhạc dân tộc du dương trầm bổng.

5. Hội Vật Võ

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Lại Ân, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nội dung: Hội vật võ là hội vật truyền thống, ngoài trai tráng của làng tham gia hội còn thu hút hàng ngàn thanh niên ở quanh vùng khác tham gia dự hội. Hội vật võ làng Sình diễn ra trong không khí rất hao hứng và sôi nổi. đây là một sinh hoạt mang tính truyền thống thượng võ của người dân Huế trong nhiều thế kỉ qua.

6. Hội Làng Túy Loan

Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Túy Loan, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tưởng nhớ tới 5 vị tiền hiền hà: Đặng, Lâm, Nguyễn, Trần, Lê (Tướng của vua Lê Thánh Tôn).

Nội dung: Phần lễ gồm lễ rước sắc phong, nhạc lễ dâng hương tế đình để tưởng nhớ 5 vị tiền hiền tuân chiếu vua Lê Thánh Tôn đi mở mang bờ cõi về phương nam (năm Hồng Đức nguyên niên 1470), dừng chân tại nơi đây để lập nghiệp khai khẩn và làm ăn, đặt tên cho làng Túy Loan.

Phần hội gồm có nhiều trò chơi dân gian vui nhộn như: đẩy gậy, vật tay, kéo co diễn ra ngay trước sân đình... Nghề làm bánh tráng vốn từ lâu đã góp phần làm nổi tiếng làng Túy Loan nên trong phần hội không thể thiếu cuộc thi nướng bánh tráng. Hai thôn Đông, Tây thường cử ra nhữn cô gái khéo tay nhất của thôn mình để tham gia cuộc thi này.

Con sông Túy Loan trở nên sôi động trong ngày hội với cuộc đua ghe truyền thống của các trai làng. Đội ghe nào chiến thắng sẽ mang lại một năm mới thịnh vượng cho làng. Ngày nay, lễ hội còn được bổ sung nhiều trò chơi vui khác như: thi gói bánh tét, thi đạp xa chậm... Càng làm cho không khí của lễ hội thêm phần náo nhiệt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 9 tháng 1 Âm Lịch - Hội Yên Tử

20 điều kiêng kị cơ bản trong nhà

Trong khi xây dựng và bố trí ngôi nhà có rất nhiều điều mà bạn cần chú ý để tránh mắc phải những sai sót không đáng có.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong khi xây dựng và bố trí ngôi nhà có rất nhiều điều mà bạn cần chú ý để tránh mắc phải những sai sót không đáng có.

1. Trong nhà, nền nhà nhất thiết phải bằng phẳng. Ở mọi chỗ (phòng ở, phòng tắm, gian bếp, lối đi), không được lồi lõm. 2. Nhà ở trong phạm vi diện tích 100 mét vuông, tốt nhất không nên dùng kiểu cửa vòm. 3. Trần nhà không nên dùng tranh ảnh, hoạ đồ có đường nét hình vuông, đường thẳng.



4. Màu sắc của trần nhà phải nhạt hơn so với bốn bức tường xung quanh. 5. Bất luận cao lầu, khách sạn, quán trọ …. phòng ngủ kị bố trí các vật kiểu hình tròn, như chậu cảnh, gương soi, bàn trang điểm…cũng nên dùng hình vuông hoặc chữ nhật, bởi vì hình tròn chủ về “động”. Phòng ngủ nên tĩnh, không nên động. 6. Trong cùng một căn phòng nếu có cửa hai cánh, đại kị mở sang hai bên, tốt nhất là mở về cùng một bên. 7. Kị dùng hai khoá trên một cửa. Nếu muốn an toàn, hãy dùng một chiếc khoá tốt. 8. Phòng vệ sinh kị liền với bếp, hoặc đối diện với bếp. 9. Kị dùng hai vòi nước mở về hai phía. 10. Cửa sổ trong phòng nhất thiết phải cao hơn cửa đi. 11. Bếp ga không được đối diện với đầu vòi nước. 12. Cửa phòng ngủ không đối diện thẳng vào phòng tắm. 13. Trong phòng ngủ, không nên có gian phụ làm toa lét, để bảo đảm hình vuông hoặc chữ nhật . Toa lét phải là gian riêng ở bên ngoài. 14. Giường ngủ nên là hình vuông hoặc gần hình vuông tối kị hình chữ nhật hẹp dài. 15. Các cửa sổ trong cùng một phòng ngủ có độ cao như nhau. 16. Nền phòng vệ sinh và phòng tắm, tối kị cao hơn nền phòng ngủ. 17. Hướng mở cửa của phòng tối kị ngược (tương phản) với hướng mở cửa phòng vệ sinh. 18. Phòng ngủ lấy tĩnh làm chủ. Tĩnh thuộc “Ngẫu”, vợ chồng là “Phối Ngẫu”, nên phải lấy hình vuông làm chủ. Vì thế phòng ngủ không nên có cửa sổ hình tròn, kị có cột hình trụ, bám trụ, bàn cũng tránh hình tròn. 19. Trong phòng ngủ, tuyệt đối không bố trí, bài trí thành hình tròn. 20. Phòng ngủ dù lớn hay nhỏ, hình chữ nhật hay hình vuông, không được có hình thức khác. Gương trên bàn trang điểm không nên đối diện với giường nằm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 20 điều kiêng kị cơ bản trong nhà

Các lễ hội ngày 3 tháng 3 Âm Lịch - Tết Hàn Thực

Vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch có diễn ra các lễ hội là: Tết Hàn Thực,Hội Quán Thánh,Hội Phủ Tây Hồ,Hội Điện Hòn Chén

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 3 tháng 3 Âm Lịch - Tết Hàn Thực

Các lễ hội ngày 3 tháng 3 Âm Lịch - Tết Hàn Thực

1. Tết Hàn Thực

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch.

Nội dung: Tết Hàn Thực là tết ăn đồ nguội, nghĩa là phải nấu đồ lễ từ hôm trước còn đến ngày thì cấm lửa.

Người Việt ăn bánh trôi, bánh chay lại liên tưởng đến hội vua Hùng mùng 10 tháng 3, hoặc hội đền thờ. Trưng Nữ vương ở Hát Môn ngày 5 tháng 3. Ở đây người ta làm những mâm bánh trôi gồm 100 chiếc tưởng nhớ tới chuyện bà Âu Cơ đẻ trăm trứng, nở 100 con từ buổi bình minh lịch sử.

Vào ngày này trên bàn thờ gia Tiên, trên mâm cỗ tại đền thờ hay ở một số chùa chiền người ta dang cúng bánh trôi, bánh chay.

2. Hội Quán Thánh

Thời gian: tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: đền Quán Thánh, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn đại thánh Huyền Thiên Trấn Vũ - là vị Thần trấn giữ phương Bắc của kinh thành thăng Long xưa.

Nội dung: Hội Quán thánh có lễ dâng hương Thần Đại Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ, tiếp đến là lễ Giáng bút, cầu lộc, cầu tài.

3. Hội Phủ Tây Hồ

Thời gian: tổ chức từ ngày 3 tới ngày 7 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: phường, Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bà chúa Liễu Hạnh, tam Tòa Thánh Mẫu.

Nội dung: ngày 3 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ Mẫu Liễu Hạnh, ở phũ Tây Hồ thường tổ chức rước kiệu các Mẫu từ phủ Tây Hồ qua đường Yên Phụ. Cổ Ngư, ngược lại đường Quán Thánh tới đền Nghĩa Lập (32 phố hàng đậu) lấy mã rồi quay lại.

Các ngày mùng 6 và 7 tháng 3 thường diễn ra các cuộc thi văn, đàn hát ở chùa Phố Linh (thôn Tây Hồ) thu hút nhiều người tham gia.

4. Hội Điện Hòn Chén

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch và tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: núi Ngọc Trản và đình làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na (mẹ xứ sở), vị thần sáng tạo ra đất đai, cây cối, và dạy cho dân cách trồng trọt.

Nội dung: Thiên Y A Na Thánh Mẫu, nguyên xưa là nữ Thần của người Chăm có tên là Pô Yang Inô Nagar, gọi tắt là Pô Nagar, tức Thần Mẹ Xứ Sở.

Mở đầu hội là lễ tế buổi sáng. Lễ rước Thánh Mẫu diễn ra vào ban đêm trên Sông Hương. Đám rước đi từ Điện Huệ Nam tới đình làng Hải Cát trên những chiếc thuyền được ghép lại thành bè với đèn nến sáng rực một góc, cờ xí sặc sỡ. Trên bè là các thiện nam tín nữ trong trang phục khăn trầu áo ngự lộng lẫy, muôn màu, muôn vẻ trông như những ông hoàng, bà chúa đời Nguyễn. Đám rước đem lại bàn thờ Thánh cùng long kiệu Thánh Mẫu và hòm sắc vua phong, cùng các khí tự như tán, tàn, cờ, quạt; đội hầu bóng, những người phục dịch và khách hành hương. Đám rước sôi động trong đám nhạc của phường bát âm, tiếp đó là tế Túc Yết, hát thờ, lên đồng hầu bóng diễn ra suốt đêm.

Sáng hôm sau là lễ đại tế tại đình. Buổi chiều các kiệu rước lại long trọng trở về điện Hòn Chén. Đêm kết thúc hội có lễ phóng sinh và thả đèn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 3 tháng 3 Âm Lịch - Tết Hàn Thực

Mộng thấy "người trong mộng" là tốt hay xấu?

Phải chăng vì quá yêu, lúc nào cũng nhớ tới người ấy nên người ấy mới xuất hiện trong giấc mơ? Không hẳn như vậy, đôi khi lo lắng về tình yêu hay có dự cảm
Mộng thấy "người trong mộng" là tốt hay xấu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

không hay thì bạn cũng mơ thấy người ấy.

giai ma giac mo, mo thay nguoi yeu hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy người yêu của mình trở thành chồng hoặc vợ ngụ ý nửa kia của bạn đang bị say nắng một người khác. 
 
Mơ thấy người trong mộng và kết hôn với họ ngụ ý bạn sắp gặp nguy hiểm. 
 
Mơ thấy mình nói chuyện với người yêu nhưng họ không trả lời ám chỉ do đôi bên ít giao tiếp nên bản thân có cảm giác bất mãn, thiếu tích cực.
 
Mơ thấy người mình yêu nói chuyện riêng với người khác giới ám chỉ nửa kia của bạn đã có người khác. Nửa kia phát sinh chuyện tình ái không trong sáng, có thể đôi bên đang gặp hiểu nhầm nhưng cũng có thể xuất hiện tình trạng đôi bên xa cách, khiến cho mối quan hệ trở nên căng thẳng.
 
Ôm người mình yêu biểu thị nửa kia có người yêu khác mà dần lạnh nhạt với mình.

giai ma giac mo, mo thay nguoi yeu hinh anh 2
Ảnh minh họa
Mơ thấy mình chiến tranh lạnh với nửa kia - ngụ ý sức khoẻ của người còn lại sẽ xuất hiện dị thường.
 
Mơ thấy người mình yêu bị người khác cướp đi - ngụ ý những vấn đề khó khăn trong cuộc sống sắp được quý nhân giúp đỡ mà đạt được thành công.
 
Mơ thấy mình ôm người yêu khóc - ngụ ý bạn sắp chia tay với người mình yêu. Nếu bạn khóc đau khổ trong giấc mơ thì bản thân bạn đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho chuyện này rồi.
 
Mơ thấy người mình yêu rơi xuống sông kêu cứu nhưng bản thân mình lại do dự không quyết - ngụ ý sự việc bạn đang suy tính rơi vào khó khăn.
 
Mơ thấy người yêu mình người đầy máu tươi không nói một lời nào mà rời đi - ám chỉ những nguy cơ tiềm tàng xung quanh bạn. Nhưng nếu người yêu vô tình mà rời xa bạn thì đây lại là một giấc mơ may mắn.

► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Tổng hợp

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mộng thấy "người trong mộng" là tốt hay xấu?

Mơ thấy bắp ngô: Hy vọng thành hiện thực –

Tất cả những hình ảnh có liên quan đến bắp ngô trong mơ đều tượng trưng cho niềm hy vọng của bạn đã trở thành hiện thực. Mơ thấy bắp ngô là điềm tốt, tượng trưng cho mọi thành công. Hình ảnh một đồng ngô xanh xuất hiện trong mơ có nghĩa những hy vọn
Mơ thấy bắp ngô: Hy vọng thành hiện thực –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bắp ngô: Hy vọng thành hiện thực –

Xem tử vi tháng 5 âm lịch của người tuổi Ngọ

Xem tử vi tháng 5 âm lịch của người tuổi Ngọ, vận trình sẽ chuyển tốt nếu biết cách vận động, trong động lấy tài. Dương khí thịnh vượng thúc đẩy công việc của
Xem tử vi tháng 5 âm lịch của người tuổi Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Xem tử vi tháng 5 âm lịch của người tuổi Ngọ, vận trình sẽ chuyển tốt nếu biết cách vận động, trong động lấy tài. Dương khí thịnh vượng thúc đẩy công việc của bản mệnh thăng tiến. 
 

Xem tu vi thang 5 am lich cua nguoi tuoi Ngo hinh anh goc
 
HAI NGỌ SONG HÀNH, ĐỐI DIỆN NHIỀU THỬ THÁCH

Vận tử vi của người tuổi Ngọ gặp tháng Giáp Ngọ, vận trình sẽ chuyển tốt nếu biết cách vận động, trong động lấy tài. Dương khí thịnh vượng thúc đẩy công việc của bản mệnh thăng tiến. Người làm chủ thì tiền đồ rộng mở, “chiêu binh mãi mã” sự nghiệp đạt nhiều thành tựu. Người làm công ăn lương có điềm thăng chức hoặc có chút thưởng nhỏ từ công ty.

Lúc này bản mệnh nên mạnh dạn ứng cử mình, dám nhận nhiệm vụ khó để được lãnh đạo chú ý và tin tưởng. Người còn đang tìm kiếm công việc có thể sẽ dừng bước tại một vị trí mình mong muốn. Chuyện tình cảm hòa hợp, đôi bên đều biết trân trọng lẫn nhau. 
  SỰ NGHIỆP    Bước vào tháng 5 âm lịch, hai Ngọ song hành khiến bản mệnh phải đối diện với nhiều thử thách bất ngờ. Quan hệ Ngọ Ngọ tương hình ám chỉ rằng, để thay đổi vận mệnh cần chủ động nắm bắt cơ hội mới, tích cực vận động trong khó khăn.    Tuy nhiên vì tương hình nằm trong mối địa chi tương khắc nên bạn cần chú ý công ty đối thủ chơi trò mờ ám. Mặt khác, sự tồn tại của Điêu Khách hung tinh nhắc nhở bạn nên chú ý mối quan hệ trong tập thể, chút bất hòa có thể gây cản trở công việc. Hãy nhẫn nại lắng nghe tất cả ý kiến của mọi người, kể cả những người có năng lực làm việc yếu nhất.    Ngoài ra, người đã lập gia đình phải lưu ý chuyện trong nhà, quan hệ mẹ chồng con dâu mâu thuẫn khiến gia đình có thể bị chia cắt tạm thời.   
Xem tu vi thang 5 am lich cua nguoi tuoi Ngo hinh anh goc 2
 
TÀI LỘC     Vận trình tài lộc của người tuổi Ngọ không được tốt, Thiên Tài tàng giấu trong Giáp Mộc lại bị Ngọ Hỏa thiêu đốt khiến vận tiền tài khó mà tốt lên được. Trong tháng bạn phải chi tiêu nhiều thứ linh tinh ngoài luồng như đồ điện hỏng, xe cộ gặp sự cố, bị phạt tiền… Điêu Khách hung tinh cũng sẽ gây tiêu hao tiền bạc vì vấn đề sức khỏe.   Nếu được, bạn nên kiên nhẫn chờ đợi, đồng thời hạn chế chuyện tiền nong qua lại với người thân trong nhà. Hãy quản lý tốt túi tiền của mình trước khi có suy nghĩ giúp đỡ người khác.    TÌNH CẢM    Trong tháng Giáp Ngọ này, vận trình tình cảm của người độc thân bình ổn, không có vấn đề hay trở ngại nào. Nếu biết cách quan sát và nhẫn nại chờ đợi thì cơ hội có tình yêu mới không phải nhỏ. Tuy nhiên đề phòng có kẻ cạnh tranh tình cảm, quan hệ tương hình thường đem tới dấu hiệu xuất hiện người thứ 3.    Người đã lập gia đình gặp nhiều vấn đề trục trặc về quan hệ vợ chồng, quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Đây sẽ là một tháng đau đầu vì chuyện nhà của người tuổi Ngọ. Nếu xử lý không khéo, vận công việc của bạn cũng bị ảnh hưởng, Điêu Khách lại có cơ hội làm càn.    SỨC KHỎE    Xem tử vi tháng 5 của người tuổi Ngọ, Bước vào tháng Giáp Ngọ, dương khí hưng thịnh dục tính mạnh mẽ. Người tuổi Ngọ nên biết tiết chế trong quan hệ vợ chồng, tránh xảy ra tình trạng quá sức, ngất hay thường xuyên mệt mỏi.   Đồng thời tháng Giáp Mộc vị trí dạ dày, miệng đều phải được lưu ý, nên thay đổi thực đơn hàng ngày. Bạn có thể ăn nhiều cá tôm để bổ sung tinh lực cho trí não. Thời tiết khô nóng cũng gây ra bệnh dị ứng cho ngũ quan, cần phải đề phòng.    Sau bữa ăn thì không nên uống trà nóng ngay. Nhiều người Việt ta có thói quen uống trà ngay sau bữa ăn, điều này hoàn toàn không khoa học. Trong lá trà có một loại a-xít kết hợp với chất sắt trong thức ăn tạo thành một loại muối khó tiêu, gây ảnh hưởng tới hô hấp của cơ thể. Thời gian dài, khiến bạn bị chảy máu cam, hoa mắt…    Nhìn chung, tháng Giáp Ngọ này bản mệnh có hung tinh Điêu Khách chiếu mệnh, gia trạch không thuận, cần chú ý tới sức khỏe người thân trong nhà. Vận tài lộc của gia đình cũng có dấu hiệu đi xuống.   Nếu có điều kiện, bạn nên thông qua việc bài trí hoặc tu sửa lại kết cấu hoặc đồ gia dụng trong nhà để tạo vận khí biến động mà đuổi được khí xấu đi. Người thân trong nhà thì xảy ra tranh cãi, nếu có mâu thuẫn nên thẳng thẳn giải quyết với nhau.   Người sinh ngày 1954 lưu ý hung tinh phá tài, thu nhập không tăng mà chi tiêu lại thêm nhiều. Người sinh năm 1966 thì chịu vận xung khá lớn, nhiều đối thủ cạnh tranh cả về công việc và tiền bạc. 
 
 
Xem tu vi thang 5 am lich cua nguoi tuoi Ngo hinh anh goc 3
 
► Tra cứu: Tử vi năm 2016 theo cung, mệnh bản thân chuẩn xác

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng 5 âm lịch của người tuổi Ngọ

Chọn màu trang phục ngày đầu năm để may mắn

Trong ba ngày Tết, người tuổi Tý nên mặc lần lượt màu trắng, sữa và màu sẫm, người tuổi Sửu nên chọn đen, sữa, lá cây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc khác nhau sẽ có năng lượng khác nhau, khi kết hợp tương ứng với thời gian và không gian, sức mạnh này sẽ gia tăng đáng kể. Ngày Tết, ngoài chọn quần áo đẹp, bạn cũng nên chú ý đến màu sắc.

Trong phong thủy, âm dương ngũ hành của các vật thể đều chịu ảnh hưởng bởi tiềm thức vũ trụ. Sự tồn tại của hình dạng, màu sắc cũng là sự tồn tại của năng lượng. Ứng với mỗi tuổi sẽ có một màu thích hợp, nếu mặc đúng sẽ tăng thêm năng lượng cho người mặc.

Dưới đây là màu sắc trang phục và trang sức may mắn cho 12 con giáp những ngày đầu xuân Bính Thân, có thể giúp cho mọi chuyện thuận lợi hơn.

- Mùng 1 Tết:


- Mùng 2 Tết:


- Mùng 3 Tết:


Tùy vào sở thích của từng người mà các bạn có thể chọn các tông màu đậm, nhạt hoặc kết hợp màu quần áo và trang sức thích hợp. Cũng không nhất thiết ngày nào cũng phải như vậy, hay cả ngày một màu mà chỉ khi có việc quan trọng trong ngày mới nên sử dụng. Ngoài ra khi phối màu không nên máy móc, hợp màu đen không có nghĩa là mặc quần áo đen, mà có thể chọn gam sẫm, kết hợp trang sức sẫm màu...

Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị - ĐHXD


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu trang phục ngày đầu năm để may mắn

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd