Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Làm gì để tích lũy tài sản phước báu?

Mong ước hạnh phúc của Phật tử trong đời không phải là mơ uớc suôn. Cầu xin ai đó ban phước nhưng phải xây dựng phước báu cho mình bằng cách sống thật tốt
Làm gì để tích lũy tài sản phước báu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Có tài mà cậy chi tài”, có nhiều thứ nhưng ai chắc rằng chúng là của ta mãi mãi ? Chỉ có phước báu sâu dày, may ra mới đem lại bình an, hạnh phúc trong cuộc mưu sinh đầy biến động này

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika:

Có bốn pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời. Thế nào là bốn? Đây là bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó được ở đời.

  1. Mong rằng tài sản khởi lên cho ta đúng pháp
  2. Mong rằng tiếng tốt được đồn về ta, cùng với bà con
  3. Mong rằng ta được sống lâu, thọ mạng kéo dài

Mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta được sanh lên cõi thiện, cõi trời và cõi đời này.

Này gia chủ, đối với bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời này, có bốn pháp đưa đến chứng được những pháp ấy. Thế nào là bốn ? Đó là đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới, đầy đủ bố thí và đầy đủ trí tuệ.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm Nghiệp công đức, phần Bốn nghiệp công đức [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.676)

LỜI BÀN:

Sống ở đời, ai cũng mong muốn được đầy đủ, sung túc và thịnh phát. Không những thế, họ còn mong ước được danh thơm, khỏe mạnh và sống lâu, xa hơn nữa là mong rằng sau khi từ giã cõi đời được sanh về thế giới an lành. Những hoài mong đó thật chính đáng, thiện lành nhưng khó được, bởi không mấy người có đủ phước báo tròn đầy.

Thường thì chúng ta được cái này lại mất cái kia, Tuy vậy, có cái để được cũng quý hóa lắm rồi, vì xung quanh ta có khá nhiều người chẳng còn gì để mất. Chính những thăng trầm vinh nhục trong đời, trải nghiệm về sự được mất có đó rồi không đó, khiến chúng ta nhận ra giá trị của phước đức. “Có tài mà cậy chi tài”, có nhiều thứ nhưng ai chắc rằng chúng là của ta mãi mãi ? Chỉ có phước đức sâu dày, may ra mới đem lại bình an, hạnh phúc trong cuộc mưu sinh đầy biến động này.

Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã rút ra kinh nghiệm sống quý giá “Có phước, có đức mặc sức mà hưởng”. Phước đức ấy chính là sự tiếp nối tuệ giác của Thế Tôn, ứng dụng trong đời sống hằng ngày thông qua những biểu hiện thiết thực: có đầy đủ niềm tin, giới hạnh, bố thí và trí tuệ. Niềm tin Tam bảo là cội nguồn của mọi phước báu.

  • Vì ba ngôi quý báu Phật Pháp Tăng là ngọn đuốc sáng soi đường cho mọi nẻo lành.
  • An trú vững chắc vào niềm tịnh tín Tam bảo thì tự khắc chúng ta sẽ thiết lập được đời sống đạo đức, lương thiện và hân hoan với thí xả, mở rộng lòng ra với mọi người.
  • Biết sống với niềm tin, đạo đức và buông xả, sống cho mình và mọi người, sống với an vui hiện tại và tương lai, đó chính là tuệ giác.

Vì thế, mong ước hạnh phúc của hàng Phật tử không phải là mơ uớc suông, tin tưởng mơ hồ, cầu xin ai đó ban phước báu mà phải tích lũy, xây dựng phước báu cho mình bằng cách tốt trong từng ngày, từng giờ. Một khi phước báo đã đầy đủ thì mọi việc tùy duyên thành tựu như ý, an vui và hạnh phúc bền lâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm gì để tích lũy tài sản phước báu?

Duyên âm - một cách lý giải

Nhiều chàng trai, cô gái dù đã nhiều tuổi nhưng mãi vẫn chưa lập gia đình. Đi xem bói, thầy phán là có duyên âm, cần cắt tiền duyên. Vậy hiện tượng tâm linh
Duyên âm - một cách lý giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

duyên âm có thể lý giải như thế nào?

Duyen am - mot cach ly giai hinh anh
 

Các chuyên gia nghiên cứu về tâm linh cho rằng, tiền duyên là những mối nhân duyên của một người trần tục với người ở thế giới khác từ những kiếp trước đây. 
 

Nó được chia thành hai loại: Thứ nhất là tình duyên giữa người trần và những người ở thế giới khác từ những kiếp trước còn ảnh hưởng đến bây giờ, thường gọi là tiền duyên. Còn tình duyên hiện tại giữa người trần và những người ở thế giới khác (thường là với các vong hoặc tà) nên có thể gọi là duyên âm.
 

Giải thích về vấn đề này, GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, tác giả cuốn sách Khoa học và vấn đề tâm linh cho rằng, linh hồn tồn tại bất tử sau khi chết.
 

Nhiều nhà nghiên cứu như GS.TS Y khoa, Giám đốc Trung tâm phẫu thuật và tạo hình nhãn khoa (CHLB Nga), nhà y học L.Putsko (Mát-xcơ-va) nghiên cứu các kiến thức y học Đông Phương và Tây phương kết hợp đều cho rằng, cấu tạo con người gồm 7 phần: Cơ thể thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình được y học chính thống giảng dạy (năng lượng đặc).
 

Sáu phần còn lại là năng lượng độ đặc khác nhau (vía) là năng lượng không đặc như thể xác. Khi chết chỉ là phần thể xác mất đi. Sáu phần còn lại mãi và giữ được nhân cách của con người – linh hồn.
 

GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, một công trình điều tra của Viện Gallup (Mỹ) trên 12.000 người đã từng cận tử và chết lâm sàng cho hay, trong lịch sử tồn tại của loài người trên quả đất đã có khoảng 70 tỷ người đi qua cửa tử, tức là nhiều gấp 10 lần dân số thế giới hiện nay.
 

Sau khi chết con người từ cõi trần vào cõi trung giới vô hình. Cõi này gồm 7 cảnh giới khác nhau từ nhẹ đến nặng. Tùy theo nhân cách tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người khi sống mà sau khi chết họ ở duyên âm cảnh giới tương ứng. Đa số vong linh có hình dáng như khi sống nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi trần.
 

Đặc biệt, TS vật lý Hamoud (Anh), người chuyên nghiên cứu và đã có 10 năm tu luyện ở Viện Lạt – ma, Tây tạng cho hay, đối với một số người chết yểu, bất đắc kỳ tử, vong linh không chấp nhận mình đã chết, cố bám lấy sự sống ở trên đời. Vì thế, họ cứ nguyên trạng giống như khi còn sống, trong khi họ ở cõi âm.
 

Duyên âm thường xảy ra ở những người lúc còn sống có thú tính mạnh mẽ. Sau khi chết, hình dáng vong linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn, thường hay tìm cách trở về cõi trần theo “người cũ” hoặc một ai đó. Cũng có trường hợp tìm dục tính ở nơi buôn hương bán phấn và rung động theo những khoái cảm của những cặp trai gái.
 

Cắt tiền duyên là để cầu siêu cho linh hồn. Từ cổ chí kim đã có tục lệ cầu siêu cho oan hồn. Cầu siêu có sức mạnh tư tưởng mãnh liệt bất kể đối với người theo một tôn giáo hay một người vô thần. Liên Hiệp Quốc cũng làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân thảm họa quốc tế. 
 

Cầu siêu không đòi hỏi nghi thức cầu kỳ, chỉ cần thành tâm và tiến hành trong 49 ngày đầu sau khi chết là lúc người chết đang ở trong trạng thái bất định, hoang mang, sự cầu nguyện khiến họ được an ủi, linh hồn trở nên sáng suốt hơn, để siêu thoát.
 

Duyên âm thường xảy ra ở những người lúc còn sống có thú tính mạnh mẽ. Sau khi chết, hình dáng vong linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn, thường hay tìm cách trở về cõi trần theo “người cũ” hoặc một ai đó. Cũng có trường hợp tìm dục tính ở nơi buôn hương bán phấn và rung động theo những khoái cảm của những cặp trai gái.
 

Duyên âm cũng giống như linh hồn, là hiện tượng mà dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều nhà khoa học vào cuộc nhưng vẫn chưa có lời giải đáp ngã ngũ. 

ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Duyên âm - một cách lý giải

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1984 Giáp Tý –

Hướng kê giường người sinh năm 1984 Năm sinh dương lịch: 1984 - Năm sinh âm lịch: Giáp Tý - Quẻ mệnh: Đoài Kim - Ngũ hành: Hải Trung Kim (Vàng trong biển) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông B

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường người sinh năm 1984

Năm sinh dương lịch: 1984

– Năm sinh âm lịch: Giáp Tý

– Quẻ mệnh: Đoài Kim

– Ngũ hành: Hải Trung Kim (Vàng trong biển)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);

– Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ);

???????????????????????????????????????????????????????????????????????????????

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Kim, Thổ sinh Kim, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thổ, là hướng Đông Bắc; Tây Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Vàng, Nâu, đây là màu đại diện cho hành Thổ, rất tốt cho người hành Kim.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1984 Giáp Tý –

Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu

Xem bói tình duyên về tuổi Tý và tuổi Sửu tiết lộ cho bạn biết bạn hợp với con giáp nào với tháng sinh nào để khi hai bạn kết đôi sẽ thuận vợ thuận chồng.
Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tình duyên 12 con giáp về tuổi Tý và tuổi Sửu tiết lộ cho bạn biết bạn hợp với con giáp nào với tháng sinh nào để khi hai bạn kết đôi sẽ thuận vợ thuận chồng, gia đình hài hòa, êm ấm.   Bạn đang tìm bạn đời nhưng không biết nên chọn theo tiêu chí nào, tướng tá ra sao. Bài viết này sẽ giúp bạn xem các tiêu chí lựa chọn bạn đời phù hợp nhất dựa theo tuổi và tháng sinh của mỗi người.

 
Theo bài viết sau, bạn sẽ có thể tự xem bói tình duyên qua 12 con giáp dựa trên tháng sinh của mình.
 
Sau đây là hôn nhân hợp duyên của nam và nữ theo tháng sinh của 12 con Giáp. Tháng sinh ở đây là tháng theo Âm lịch.
 

1. Xem bói tình duyên: Hôn nhân của người tuổi Tý

 

Người tháng Giêng

  Đàn ông nên kết hôn với phụ nữ tuổi Sửu sinh tháng 10 hay người phụ nữ tuổi Tý sinh tháng 3.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Suru sinh tháng 1.
 

Người sinh tháng Hai

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thìn sinh tháng 9.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn sinh tháng 7.
 

Người sinh tháng Ba

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 5 hay tuổi Ngọ sinh tháng 5.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tỵ sinh tháng 3 hay tuổi Tuất sinh tháng 8.
 

Người sinh tháng Tư

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tuất sinh tháng 11.
 

Người sinh tháng Năm

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Sửu sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn sinh tháng 9 hay tuổi Dần sinh tháng 6.
 
 
boi tinh duyen3
 
 

Người sinh tháng Sáu

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thân sinh tháng 2.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 2.
 

Người sinh tháng Bảy
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi hay tuổi Mão sinh tháng 6.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn sinh tháng 4 hay tuổi ngọ sinh tháng 2.
 

Người sinh tháng Tám
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 3.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu sinh tháng 6.
 

Người sinh tháng Chín 
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 1.  

Người sinh tháng Mười
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thân sinh tháng 4.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thân sinh tháng 8.
 

Người sinh tháng Mười Một
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 6.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn sinh tháng 10.  

Người sinh tháng Chạp
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thân sinh tháng 3.
 

Xem thêm tất cả về người tuổi Tý: TẠI ĐÂY
 
boi tinh duyen2
 
 

2. Xem bói tình duyên: Hôn nhân người tuổi Sửu theo tháng sinh 


Người sinh tháng Giêng 
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 6.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thìn sinh tháng 9.
 

Người sinh tháng Hai
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 9.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 8.
 

Người sinh tháng Ba
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dậu sinh tháng 7.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị sinh tháng 9.
 

Người sinh tháng Tư
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 4.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu hay Thìn sinh tháng 4.
 

Người sinh tháng Năm 
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu hay Thìn sinh tháng 4.  
boi tinh duyen
 

Người sinh tháng Sáu 
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Hợi sinh tháng 7.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu sinh tháng 12.
 

Người sinh tháng Bảy
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 6.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu sinh tháng 12.
 

Người sinh tháng Tám
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Hợi sinh tháng 5.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị sinh tháng 4.
 

Người sinh tháng Chín 
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 9.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Ngọ sinh tháng 1.  

Người sinh tháng Mười
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thân sinh tháng 3.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tuất sinh tháng 4.
 

Người sinh tháng Mười Một
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thìn sinh tháng 1 hay tuổi Dậu.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu sinh tháng 1.  

Người sinh tháng Chạp
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dậu sinh tháng 7.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tý sinh tháng 8. 
 
Xem thêm về người tuổi Sửu: TẠI ĐÂY

 
Lichngaytot.com
Tuổi Tý cung Bảo Bình: hiểu biết rộng và phóng khoáng Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tý Tuổi Sửu cung Song Ngư: Sáng tạo và lương thiện Tuổi Sửu cung Ma Kết: Bảo thủ và sống thực tế

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu

10 câu nói mang lại nghị lực cho bất kì ai

Chỉ cần đọc 10 câu nói sau, bạn sẽ được tiếp thêm nghị lực để vượt qua khó khăn và đạt tới những thành tựu tiếp theo.
10 câu nói mang lại nghị lực cho bất kì ai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Không quan trọng quá khứ bạn khắc nghiệt thế nào, bạn luôn luôn có thể bắt đầu lại.

2.Những điều tốt đẹp đến với ai tin tưởng, những điều tốt hơn đến với ai kiên nhẫn và… những điều tốt nhất chỉ đến với người không bỏ cuộc.

3.Cuộc hành trình ngàn dặm …phải bắt đầu từ những bước đầu tiên.

4.Cuộc sống không có nghĩa là dễ dàng. Nó luôn luôn biến động. Đôi lúc hạnh phúc, có lúc lại khổ đau… Nhưng với tất cả những bước ” THĂNG TRẦM” trong cuộc sống, bạn lại học được những bài học làm cho bạn MẠNH MẼ LÊN.

5.Khi cuộc sống đặt bạn vào tình thế khó khăn, đừng bao giờ nói ” Tại sao lại là tôi..?” mà hãy nói ” Tôi sẽ cố gắng …!”.

6.Rất nhiều người sợ nói ra những gì họ muốn, đó là lý do tại sao họ không có được những gì mình muốn.

7.Bạn không thể chặn những con sóng… nhưng bạn có thể học cách làm thế nào để lướt sóng.

8.Một trong những điều tốt nhất trong cuộc sống là: nhận ra rằng bạn hoàn toàn hạnh phúc mà không cần đến những thứ mà bạn cứ ảo tưởng là mình buộc phải có.

9.Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt. Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ. SỐNG Ở HIỆN TẠI VỚI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.

10.Mỗi khi mỏi bước trên con đường mình đã chọn, hãy tự nhủ mình: ”Tiếp tục đi… đừng dừng lại. Mỗi bước có thể khó khăn hơn nhưng đừng dừng lại. Viễn cảnh đẹp nhất là lúc ở trên đỉnh”.

Hãy luôn thúc đẩy mình bằng cách nghĩ về viễn cảnh hạnh phúc ở tương lai bạn nhé. Tự tiếp thêm nghị lực cho chính mình !!!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 câu nói mang lại nghị lực cho bất kì ai

Xử lý ô nhiễm để có phòng bếp sạch –

Với 3 bữa ăn mỗi ngày, bếp là nơi dễ bẩn nhất trong nhà và cũng là nơi khiến người phụ nữ trong gia đình đau đầu nhất. Thực ra, chỉ cần nắm chắc mấy biện pháp đơn giản thôi là có thể loại bỏ được ô nhiễm ở những nơi dễ bị bẩn trong bếp. (1) Kính cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với 3 bữa ăn mỗi ngày, bếp là nơi dễ bẩn nhất trong nhà và cũng là nơi khiến người phụ nữ trong gia đình đau đầu nhất. Thực ra, chỉ cần nắm chắc mấy biện pháp đơn giản thôi là có thể loại bỏ được ô nhiễm ở những nơi dễ bị bẩn trong bếp.

bep dep 1

(1) Kính cửa sổ

Đầu tiên lau sạch bụi bám trên kính bằng giẻ ướt, sau đó lau tiếp bằng giấy báo củ, mực in trên báo sẽ nhanh chóng làm sạch bẩn bám trên kính. Nếu như kính bị đen và có nhiều hơi dầu mỡ bám thì có thể lau bằng bột tẩy tính kiềm mạnh, cũng có thể lau bằng giẻ nhúng dầu hoả hoặc rượu trắng hoặc giấm nóng, kính sẽ rất nhanh sạch.

(2) Rèm cửa sổ

Đầu tiên dùng chổi quét sạch bụi bám trên cứa, pha đều 15 gam thuốc tẩy với nửa lít nước trong, dùng bàn chải nhúng vào và xoa nhẹ lên cửa, tiếp tục dùng giẻ lau khắp một lượt, bụi sẽ hết.

(3) Bể nước

Bể nước rất dễ bị vật bẩn tích tụ, khi vệ sinh bể, trước tiên cho vào bể một ít muối và xoa đều lên thành bể, đợi một lát rồi dùng nước nóng phun rửa. Bể dạng có góc thì dùng bàn chải nhúng vào nước muối để cọ.

(4) Bóng đèn

Bóng đèn dùng trong nhà bếp lâu ngày sẽ bị khói bụi bám bẩn, muôn làm sạch có thể dùng giẻ lau nhúng với thuốc tẩy hoặc giấm nóng lau sẽ sạch.

(5) Nồi áp suất, nồi nhôm

Ngâm nồi trong nước một lúc, sau đó chùi bằng kem đánh răng, cuối cùng rửa sạch bằng nước; cũng có thể chùi nồi bằng giấm, sau nửa giờ lau lại. Còn có thể ngâm nồi vào nước nóng sau đó dùng lông gà làm sạch, rất hiệu quả.

(6) Bình đựng dầu, mỡ

Rửa sạch bình, cho vào bình một ít vỏ trứng đã đập nát, một chút nước rửa, cho nước nóng vào, lắc qua lắc lại nhiều lần, rửa lại bằng nước sạch.

(7) Gạch men trắng

Nếu gạch có vết bấn có thể lau bằng xơ dừa sau khi đã làm ướt gạch bằng rượu rồi dùng vải lau khô. Nếu vết bấn do dầu mỡ hay đồ ăn bám lại thì có thể lau bằng nước nóng với xà phòng, sau đó lau sạch bằng nước. Một số vết bẩn khó sạch có thể cọ bằng lông gà nhúng với nước nóng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xử lý ô nhiễm để có phòng bếp sạch –

Phong thủy điện thoại: Xem điện thoại hung cát

Điện thoại là vật không thể thiếu đối với nhiều người trong cuộc sống hiện đại. Theo góc nhìn phong thủy điện thoại để xác định hung cát đối với điện thoại của
Phong thủy điện thoại: Xem điện thoại hung cát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điện thoại là vật không thể thiếu đối với nhiều người trong cuộc sống hiện đại. Theo góc nhìn phong thủy, dựa theo nhiều yếu tố khác nhau để xác định hung cát đối với vận thế của gia chủ. 


Phong thuy dien thoai Xem dien thoai hung cat hinh anh
 

1. Hung cát với số điện thoại

 
Số điện thoại giống với mệnh lý trong phong thủy đều ảnh hưởng đến vận thế của con người, mỗi con số đều có liên quan đến cuộc sống của gia chủ.   Để dự đoán hung cát của số điện thoại cần phải làm theo các bước sau: lấy 4 số cuối chia cho 80, sau đó trừ đi phần nguyên, chỉ còn phần thập phân, tiếp tục lấy phần thập phân nhân với 8 sẽ được số vận mệnh của gia chủ. Ví dụ, 4 số cuối là 8888, ta có 8888:80=111.1, tiếp tục 111,1-111=0,1, sau đó 0,1x80=8, đây là số vận mệnh. 
Các con số vận mệnh đem lại may mắn cho gia chủ là: 1, 3, 5, 6, 7, 8, 11, 13, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 28, 29, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 47, 48, 52, 57, 63, 65, 67, 68, 73, 81
 
Các con số vận mệnh đem lại xui xẻo cho gia chủ là: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 30, 34, 36, 44, 46, 49, 54, 56, 59, 60, 62, 64, 66, 69,70, 72, 74, 76, 79
 
Các con số vận mệnh trong cát có hung là: 40, 42, 43, 50, 51, 53, 55, 61, 71, 75, 77,78, 80
 
Các con số vận mệnh trong hung có cát là: 27, 38, 58  

2. Yếu tố nội tại của điện thoại


Phong thuy dien thoai Xem dien thoai hung cat hinh anh 2
 
Các yếu tố nội tại của điện thoại cũng ảnh hưởng đến vận thế của gia chủ, đó chính là: màu nền, hình dáng, màu sắc, nhạc chuông. Điều này phải dựa vào nguyên tắc ngũ hành mệnh lý để đưa ra kết luận hung cát   - Sinh tháng Dần, Mão, Thìn: màu trắng, vàng, bạc - Sinh tháng Tỵ : màu xanh lam, đen - Sinh tháng Ngọ, Mùi: màu xanh lam, đen, xanh sẫm - Sinh tháng Thân, Dậu, Tuất: màu xanh lá, vàng, cà phê - Sinh tháng Hợi, Tý, Sửu: màu đỏ, cam, hồng

Có thể bạn quan tâm: Chọn đuôi số điện thoại hợp mệnh, 12 con giáp tha hồ hốt bạc

Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp Chọn điện thoại hợp mệnh tăng thêm may mắn Chọn smartphone chuẩn ngũ hành, sành điệu mà vẫn hợp phong thủy Chọn sim số đẹp, thuận phong thuận thủy
Chi Nguyễn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy điện thoại: Xem điện thoại hung cát

Xem phong thủy quanh ngôi nhà hút nhiều tài lộc

Phong thủy quanh ngôi nhà cũng quan trọng không kém phía trong nhà. Nếu phong thủy tốt sẽ kích hoạt tài lộc thêm vượng và ngược lại.
Xem phong thủy quanh ngôi nhà hút nhiều tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Phong thủy quanh ngôi nhà cũng quan trọng không kém phía trong nhà. Nếu phong thủy tốt sẽ kích hoạt tài lộc thêm vượng và ngược lại.



1. Phía sau ngôi nhà là núi


Trong phong thủy nhà ở, phía sau ngôi nhà có núi non tươi đẹp, tức nó đã ở thế “tựa sơn” (tựa vào núi). Thế đất này vô cùng tốt trong phong thủy, nó mang tới cảm giác chắc chắn, như được quý nhân nâng đỡ, từ đó thúc đẩy tài lộc hưng vượng.

Xét theo phong thủy truyền thống, núi phía sau nhà gọi là Huyền Vũ sơn. Huyền Vũ là tổ hợp quy xà, chủ tĩnh vi cát (yên tĩnh là cát tường). Người sống trong ngôi nhà như vậy có con đàn cháu đống, tài vận hanh thông.

phong thuy quanh ngoi nha2
 
2. Phía bên trái và bên phải của ngôi nhà có núi


Theo phong thủy quanh ngôi nhà, phía bên trái ngôi nhà có núi được gọi là Thanh Long sơn, bên phải ngôi nhà có núi thì gọi là Bạch Hổ sơn.

Dân gian có quan niệm, Thanh Long được phép cao vạn trượng, nhưng Bạch Hổ chỉ hơi ngẩng đầu lên cũng không được. Điều này không đúng về mặt phong thủy.

Chỉ khi ngôi nhà nằm ở hướng Bắc nhìn sang Nam mới có thể đo đạc độ cao của Thanh Long và Bạch Hổ như vậy. Còn bên trái bên phải là Thanh Long và Bạch Hổ chủ phú quý, lợi quan vận.

Tuyệt chiêu phong thủy khai vận tình yêu dịp 8/3
– Áp dụng tuyệt chiêu phong thủy khai vận tình yêu dưới đây, đảm bảo dịp 8/3 bạn sẽ có gấu để tay trong tay cùng mê say, yêu thương nồng nàn.
3. Phía trước ngôi nhà thông thoáng

Phía trước ngôi nhà còn gọi là minh đường. Minh đường rộng rãi, thông thoáng tạo cảm giác khoan khoái, thư thái, tốt về mặt phong thủy. Bên cạnh đó, nó còn có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp thăng tiến, ví như không có trở ngại nào.

Nếu là mở cửa nhìn thấy núi hay thấy nhà cao tầng khác án ngữ trước mặt thì lại là điều đại kỵ trong phong thủy.

phong thuy quanh ngoi nha1
 
4. Phía Tây Bắc thông thoáng, rộng rãi


Phía Tây Bắc thuộc quẻ Càn, cũng được gọi là Tài quan khố. Nếu phương vị này thông thoáng, rộng rãi ý chỉ Tài quan khố lớn, có thể tích trữ nhiều tiền bạc và quyền năng.

Nếu phía Tây Bắc của ngôi nhà có cây to, nhà cao tầng án ngữ là dấu hiệu không tốt trong phong thủy. Trái lại, nếu hướng này có ngân hàng, trung tâm tài chính thì tài lộc vượng, có cơ quan chính phủ thì quan vận vượng.

phong thuy quanh ngoi nha3
 
5. Phía chính Tây ngôi nhà có dòng chảy của nước


Dòng chảy của nước ở đây ý chỉ sông, hồ, biển... Xét về mặt phong thủy, nước đại diện cho tài lộc. Hướng chính Tây thuộc cung Đoài, là vị trí của Bạch Hổ. Sợ nhất là Bạch Hổ vào núi sâu, vô cùng hung ác.

Vì thế, tại hướng này có dòng chảy của nước sẽ rất tốt, giúp Bạch Hổ dễ dàng chiêu tài và thủ tài bền vững.

6. Phía Đông Nam ngôi nhà có bảo tháp

Trong phong thủy, hướng Đông Nam là vị trí Văn Xương. Nếu có tòa tháp cao, bảo tháp thì học hành tấn tới, thi cử đỗ đạt.

Hoàng Lam

Phải chăng cứ không biết là không có tội?
– Nhân gian chính tà bất phân, thiện ác bất minh, “không biết không có tội” chỉ là lời nói dối lừa mị, cách thoái thác tội lỗi mà thôi, hậu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem phong thủy quanh ngôi nhà hút nhiều tài lộc

GIA ĐẠO BẤT HÒA, TÀI VẬN SUY BẠI DO PHONG THỦY XẤU

Nghiệm lý Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một căn nhà nằm trên bờ sông X, được xây dựng trong vận 7 (năm 1988). Căn nhà này có địa hình và hướng 284 độ la bàn. Địa hình căn nhà như sau:

  Nghiệm lý phong thủy tại phongthuyso.vn

Sơ đồ địa thế của căn nhà

Căn nhà đang được nói tới là căn nhà số 1 trên hình vẽ.

Tinh bàn Phong thủy huyền không của căn nhà số một

Dựa vào tọa độ căn nhà có thể lập ra tinh bàn Phong thủy huyền không như sau:

  Nghiệm lý phong thủy tại phongthuyso.vn

Sơn Ất hướng Tân vận 7 - Căn nhà hướng 284 độ, xây vận 7

Căn cứ vào đặc điểm của địa hình đằng trước căn nhà có núi đồi. Đằng sau căn nhà là một bãi ruộng có địa hình thấp và một dòng sông uốn lượn. Dựa vào tinh bàn vận 7 của căn nhà ta sẽ thấy tinh bàn này đắc cách vượng sơn, vượng hướng. Tuy nhiên cách cục vượng sơn vượng hướng thường phải tựa núi kề sông mới là cát cục. Địa hình căn nhà hoàn toàn không phù hợp với kết cấu tinh bàn. Nên xảy ra nhiều bất cập trong cuộc sống, gia đạo và tài vận cần phải nói tới.

  • Vì tại hướng địa hình khá rộng rãi, gặp vượng tinh 7 của vận bay tới, với bản chất là võ tinh cương cường nên chủ nhà kinh doanh phát tài đặc biệt là các mặt hàng nhu yếu phẩm và xăng dầu phục vụ đội ngũ khai thác khoáng sản.
  • Tại phương tọa vương tinh 7 tới sơn, tuy là cát cách nhưng địa hình thấp trũng không phù hợp nên chủ về khan hiếm nhân đinh. Bà chủ nhà 2 lần hư thai mà đều là con trai.
  • Sau một thời gian kinh doanh phát đạt mạnh mẽ với bản chất võ tinh của sao 7 thì căn nhà bộc lộ nhiều những bất cập khiến gia đạo, tài vận và sức khỏe bị ảnh hưởng nghiêm trọng, lớn lao.

+ Toàn bộ sơn tinh phản ngâm đặc biệt tại phương tọa sơn tinh 7 phản ngâm. Thất xích là một Kim tinh chỉ vấn đề hô hấp, răng miệng, xương khớp, sao này phục ngâm nên ông chủ gia đình mắc bệnh viêm họng hạt phải chạy chữa bằng các loại biện pháp khoa học hiện đại như đốt điện, và các phương pháp đông tây y kết hợp, tốn kém khá nhiều, may sao khỏi bệnh.

+ Tại hướng tinh sao 3 phản ngâm nên bà chủ gia đình mắc bệnh gan mãn tính, thường xuyên phải chạy chữa và ăn kiêng, sức khỏe suy giản nhiều.

+ Tại vị trí trung cung xuất hiện tổ hợp phi tinh 5 – 9 nên trong gia đình có người bị bệnh về mắt.

+ Trong căn nhà có những tổ hợp số sinh thành như 2 – 7, 1 – 6, 3 – 8, 4 – 9 tuy nhiên so với địa hình không hợp cách và hệ thống sơn tinh phản ngâm, ngũ hoàng nhập trung cung (ngũ hoàng thất lệnh) thì nhận thấy rằng hung nhiều hơn cát, nên dù gia đình này có người học hành khoa cử nhưng công danh chậm lụt, khó khăn, không hiển đạt, phú quý.

SANG VẬN 8

Bước sang vận 8, gia đình nhà này xây thêm một căn nhà thứ 2 vào năm 2006 (Bính Tuất).

Phi tinh năm Bính Tuất như sau:

  Nghiệm lý phong thủy tại phongthuyso.vn

Năm 2006 Ngũ hoàng đại sát tinh bay tới phương vị chính Tây.

Địa hình của căn nhà thứ hai tương tự như căn nhà thứ nhất về phương vị tuy nhiên có điều khác biệt đó là phía trước cửa có một con đường xung thẳng hướng cửa, xét về loan đầu hình thể thì căn nhà đó phạm thương sát, hay bạch hổ khai khẩu.

Tinh bàn phong thủy huyền không của căn nhà thứ hai

  Nghiệm lý phong thủy tại phongthuyso.vn

                                                          Sơn Ất hướng Tân vận 8

Sau khi phân tích kỹ lưỡng về hình thể, lý khí ta thấy được một số đặc điểm lớn như sau:

  • Thứ nhất năm khởi công xây dựng hướng căn nhà đã gặp ngũ hoàng lưu niên tại chính Tây, phương vị chính Tây thuộc cung Đoài, ứng với ngôi con gái út. Năm đó khi vừa xây nhà xong không bao lâu thì cô con gái út trong nhà té xe gãy tay.
  • Thứ hai kết hợp tinh thì căn nhà này gặp cách song tinh hội hướng, phía trước căn nhà là một bãi bằng xa hơn có núi đồi đáng lý ra phải phát mạnh về đinh, tài, vì sơn tinh gặp cách thượng sơn, phù hợp với địa hình thấp trũng phía sau, hướng tinh có vượng tinh đương lệnh gặp bãi bằng xa hơn có gò đồi. Tuy nhiên, con đường phía trước là một dạng sát khí về hình thể nên cát khí bị tản đi hết. Nhà gặp nhiều khó khăn trong việc làm ăn kinh tế, tài vận trì trệ, cuộc sống khó khăn, con cái xa lìa nhà cửa quê hương bản quán.
  • Bếp của căn nhà ở phương vị cung Tốn (Đông Nam) nơi giao hội giữa Ngũ hoàng và Nhị hắc, ôn hoàng bệnh phù gặp nhau mà hai sao này đều thất lệnh mà dùng để xây dựng bếp, nên đương nhiên hệ quả của nó là các bệnh về dạ dày tiêu hóa. Trên thực tế, chủ nhà bị bệnh dạ dày, dịch tiết không đều, thường xuyên nôn ói, từ khi xây dựng bếp ở phương vị này sức khỏe của chủ nhân suy giảm đáng kể. Không những thế, còn có những nguy cơ về ung thư dạ dày, ngộ độc thực phẩm luôn luôn cận kề.
  • Tại sơn tọa gặp tổ hợp sao 4 – 3 đều là các sao mộc, đặc biệt hơn nữa là sao 3 hướng tinh phục ngâm nên phát sinh nhiều chuyện thị phi, miệng tiếng, bệnh về gan mật cũng không phải là không có nguy cơ.
  • Tại trung cung, phương Nam tạo nên các tổ hợp số sinh thành 1 – 6, tại phương Bắc vận tinh kết hợp với địa bàn nguyên đán tạo nên tổ hợp nhất tứ đồng cung, nên trong nhà có người học hành khoa cử đỗ đạt, tuy nhiên với bối cảnh như vậy mà không cải tạo, sửa sang, hóa giải sát khí và tăng cường cát khí thì sức khỏe, gia đạo và công danh sự nghiệp của những thành viên còn gặp nhiều trở ngại liên tục và kéo dài lâu hơn nữa.
  • Trên cơ sở phân tích những đặc điểm trên còn rút ra được một vấn đề nữa đó là nghiệm lý hay xem bói về con đường xung trước cửa, nội bộ mâu thuẫn, bất hòa, thường xuyên xung đột, cãi vã…
  • Tại phương vị cung Ly, sơn tinh 1 phản ngâm nên phát sinh những việc đào hoa, ong bướm tai tiếng.

Trong báo cáo tại đại hội 7000 người tháng 1 năm1962 Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa có viết về những khó khăn sau thời kỳ đại nhảy vọt của Trung Quốc là: “ba phần do thiên tai, bảy phần do nhân họa”. Gặp hoàn cảnh bĩ cực về vận số, con người ta mất đi bảy phần, nhưng gặp thêm bối cảnh sinh hoạt, môi trường làm việc không tốt đẹp thuận lợi nữa thì 7 phần tai họa đó cộng gộp với 3 phần nhân tố khách quan, môi trường hoàn cảnh nữa thì tình hình càng trở nên đen tối bí bách hơn.

Hải Triề


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: GIA ĐẠO BẤT HÒA, TÀI VẬN SUY BẠI DO PHONG THỦY XẤU

Ý nghĩa sao Thiên Thương

Sao Thiên Thương có nghĩa là buồn thảm, xui xẻo, không may, ngăn trở mọi công việc, mang lại tang thương, bệnh tật, tai họa. Ý nghĩa này chỉ có khi xét vận hạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thiên Thương

Ý nghĩa sao Thiên Thương

Hành: Thổ

Loại: Hung Tinh

Đặc Tính: Đau thương, nguy khốn, mang lại tang thương, bệnh tật, tai họa.

Sao Thiên Thương đóng ở vị trí cố định là cung Nô. Sao này là hung tinh, chỉ dùng để xem hạn, đặc biệt là tiểu hạn, chớ không có ý nghĩa lắm trên toàn cuộc đời. Thành thử, bao giờ cần giải đoán vận hạn, thì mới nên lưu ý đến vị trí và sự hội tụ của Thiên Thương với các sao khác.

Thiên Thương có nghĩa là buồn thảm, xui xẻo, không may, ngăn trở mọi công việc, mang lại tang thương, bệnh tật, tai họa. Ý nghĩa này chỉ có khi xét vận hạn.

Ý Nghĩa sao Thiên Thương Ở Cung Hạn:

Thiên Thương, Văn Xương hay Văn Khúc: Tác họa khủng khiếp có thể chết non nếu hai hạn cùng xấu.

Thiên Thương, Kình Dương, Hỏa Tinh, Thiên Riêu, Cự Môn: Hại của, hại người.

Thiên Thương, Thiên Sứ: Hay ốm đau (Thiên Sứ) hay rắc rối vì hạn.

Thiên Thương ở Tý, Dần: Độc.

Thiên Thương, Thiên Hình: Bị đánh.

Thiên Thương, Tang Môn: Có tang, có sự biến đổi phi thường

Thiên Thương, Thiên Khốc: thi cử lận đận.

Họa sẽ đến mau nếu Thiên Thương ở Dần,Thân,Tỵ, Hợi.

Họa sẽ đến thật mau nếu: Thiên Thương ở Sửu, Mão, Thìn, Dậu, Tuất;Thiên Sứ ở Tý, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi.

Những Sao Giải Thiên Thương

Chính Tinh:

Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thiên Đồng.

Bàng Tinh:

Hóa Khoa, Hóa Lộc, Tả Phù, Hữu Bật, Quang Quý, Khôi Việt.

Thiên Giải, Địa Giải, Giải thần.

Thiên Quan, Thiên Phúc.

Tuần, Triệt.

Cung Phúc Tốt:

Ngoài ra nếu Phúc có nhiều sao tốt và mạnh thì sẽ chế giải khá mạnh và toàn diện.

Tuy nhiên, việc chế giải ở đây không có nghĩa là sự việc đó hoàn toàn không xảy đến, mà là nếu có đến, chuyện chẳng may đó không tác họa đúng mức, nếu gặp sao giải hiệu lực.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thiên Thương

Dựa vào đầu để luận đoán cát hung

Xem khí sắc thì đều căn cứ vào khí sắc hiển lộ ra ở bốn mùa để luận đoán cát hung. Thần sắc đã phát ra hay chưa của một người mỗi ngày đều hiển lộ ra.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem khí sắc thì đều căn cứ vào khí sắc hiển lộ ra ở bốn mùa để luận đoán cát hung. Thần sắc đã phát ra hay chưa phát ra của một người mỗi ngày đều hiển lộ ra. Nếu hiển lộ ra màu xanh sẽ có việc buồn, màu đen sẽ có bệnh, màu trắng sẽ có tang, màu đỏ sẽ có việc liên quan đến kiện tụng, màu tía hoặc vàng đều là cát lợi. 

luan-doan-khi-sac-theo-mua

Trong Hựu tập giải viết: Xem khí sắc bốn mùa của con người chủ yếu xem 5 màu là xanh da trời, đỏ, vàng, trắng, đen, đây là chính khí của bốn mùa. Chúng hiển hiện ở trên da gọi là màu da, chúng ẩn ở trong da gọi là khí. Khí là ẩn giải trong lông tóc của con người, như thóc như đỗ, khí nhỏ như sợi tơ của tằm vào mùa xuân. Nếu muốn xem con người thuộc loại khí sắc nào thì do chúng cũng có sự thay đổi rất nhỏ như mây trôi che lấp mặt trời nên cần xem xét kỹ.

Mùa xuân xem màu xương gò má

Ba tháng của mùa xuân sao Mộc ở phía Đông, thuộc Giáp Ất, ứng với nó là vị trí xương gò má. Nếu vị trí này có màu xanh da trời là vượng tướng. Nếu có sắc đỏ thì trước buồn sau vui. Màu đỏ là màu tương sinh của Mộc, tuy tương sinh nhưng do xuất hiện ở miệng và đầu lưỡi trước nên sẽ phát sinh kiện tụng. Đến cuối cùng mới đại hỷ.

Nếu chỗ này có màu trắng thì sẽ gặp họa lao ngục, bởi vì màu trắng là màu Kim, mà Kim khắc Mộc, do đó sẽ gặp tai họa liên quan đến lao ngục. Nếu có màu vàng nâu thì vận mệnh chẳng thể dài lâu, bởi vì vàng nâu là màu Thổ, mà Mộc khắc Thổ, do đó khó thoát khỏi hung họa.

Lại nói: Mùa xuân được Mộc mà màu xanh là màu gốc của nó, không phải tương phản. Nếu là màu trắng là Kim khắc Mộc chủ về trong nhà trong vòng 90 ngày sẽ có tang. Nếu mũi của người này có màu đỏ thì tự bản thân sẽ bị phạt đòn, người nhà sẽ bị ngứa, bệnh về máu. Vị trí giữa 2 mắt có màu đen thì anh em của người đó có tai họa, người hầu và của cải đều mất. Giữa 2 lông mày có màu đen sẽ làm quan không thuận lợi. Từ dưới mắt cho đến tai nếu có khí đen chạy ngang thì trong nhà phòng có tang, nếu tai nạn nặng thì bản thân khó thoát khỏi tai họa.

Hai gò má gọi là Chu tước, Huyền vũ, nếu có màu đen sẽ phá tài, nếu có màu đỏ sẽ gặp họa kiện tụng. Nếu vị trí Tam âm của nữ và Tam dương của nam có màu xanh sẽ có tai họa. Nếu Tam dương có màu xanh mịn, nhiều ánh vàng thì sinh con gái, nếu chỗ Tam dương có màu đỏ vàng mà bóng sáng sẽ sinh con trai. Nếu chỗ âm dương đều có màu đen không sáng thì trong vui có buồn, có thể sẽ gây ảnh hưởng đến mẹ.

Từ Chuẩn đầu đến phần giữa 2 mắt, từ giữa 2 lông mày đến giữa trán đều có màu đỏ vàng mà không sáng thì trong 21 ngày hoặc 28 ngày sẽ phát tài, hoặc có thếm ruộng đất hoặc có việc vui như lấy vợ sinh con. Môi trên có màu trắng thì có bệnh ở bụng.

Mùa hạ xem sắc trán

Ba tháng mùa hạ sao Hỏa ở phía Nam, thuộc Bính Đinh, ứng với trán. Nếu trán có màu đỏ là vượng tướng. Tuy là vượng tướng nhưng đầu tiên cũng có kiện tụng sau đó mới cát lợi. Nếu có màu vàng trắng thì tương sinh, tuy tương sinh nhưng do có màu trắng nên cát lợi trước mà hung họa sau, nếu xuất hiện màu vàng thì hung họa trước cát lợi sau. Nếu có màu đen là tù, chủ về sinh bệnh. Nếu có màu xanh thì vận mệnh chẳng thể dài lâu.

Lại nói: Mùa hạ thì Hỏa là chính sắc, nếu hiển lộ màu đỏ sẽ không có phương hại, nhưng kỵ nhất màu đen quá nặng, bởi vì nó thuộc Nhâm Quý Thủy ở phía Bắc, sẽ tưới nước. Nếu hiển lộ màu tía sẽ gặp tai họa không thể lường trước trong kiện tụng và sẽ mất của. Nếu 2 mắt, lông mày và giữa Pháp lệnh có khí tối thì dễ gây ra chuyện thị phi, người nhà sẽ có bệnh. Nếu hai bên cánh mũi có màu đen tía sẽ có bệnh về máu.

Nếu phần giữa 2 mắt có màu đen thì anh em bị kiện tụng, người hầu và ngựa trong nhà sẽ sinh bệnh. Nếu vành tai có màu đen thì người này vận mệnh chẳng thể dài lâu. 2 gò má có màu tía mà Chu tước động và Huyền vũ vượng, từ Chuẩn đầu đến giữa 2 mắt và giữa trán có màu đỏ sáng thì chủ làm quan văn, có hỷ khí, làm việc thuận lợi, phát tài nhanh. Nếu những vị trí này có màu xanh đen thì cầu tài, đi lại không thuận lợi, cầu quan cũng không thành. Nếu sống mũi có màu đen đậm thì sẽ có bệnh. Nếu màu đen xuất hiện ngày càng nhiều thì người này vận mệnh sẽ chẳng thể dài lâu. Nếu chỉ có phần Chuẩn đầu sáng bóng thì họa phúc đan xen.

Mùa thu xem màu ở gò má trái

Ba tháng mùa thu, sao Kim ở phía Tây, thuộc Canh Tân, ứng với gò má trái. Vị trí này có màu trắng là vượng tướng, người này trước sẽ gặp việc bi thương nhưng sau sẽ đại hỷ. Nếu có màu đen thì tương sinh, do đó người này trước sinh bệnh sau cát lợi. Nếu có màu xanh thì người này sẽ gặp họa lao ngục, nhiều tai họa ập đến. Nếu có màu đỏ chủ đoản mệnh.

Lại nói: Mùa thu lấy màu trắng làm màu chính, kỵ nhất là quá đỏ, bởi vì đỏ là Hỏa, như vậy Hỏa khắc Kim. Nếu Chuẩn đầu có màu đỏ sẽ gặp họa kiện tụng, phá tài và bị gông cùm, đòn roi. Từ Chuẩn đầu đến giữa 2 mắt có khí sắc đỏ vàng thì sẽ làm quan văn thư, có quý, làm quan như ý muốn. Nếu là nam dưới mắt trái có màu đỏ sẽ ưu sầu, nếu là nữ ở dưới mắt phải có màu đỏ sẽ có tai họa.

Chỗ đuôi mắt có màu đen sẽ gặp họa liên quan đến nước. Chỗ giữa 2 mắt có màu đen tím lại tối sạm thì anh em, người hầu, ngựa sẽ bỏ đi mất. Khóe miệng và quai hàm có màu đen thì tạng phủ của người này có bệnh. Khóe miệng nếu có màu đen sẽ có bệnh khó chữa. Khóe miệng có màu đen thường chỉ có thể sống trong khoảng thời gian ngắn. Vị trí xương gò má trái có màu xanh đen phòng gặp hung họa lớn.

Mùa đông xem khí sắc của cằm

Ba tháng của mùa đông có sao Thủy ở phía Bắc, thuộc Nhâm
Quý, ứng với cằm. Nếu vị trí này có màu đen là vượng tướng. Tuy
là vượng tướng nhưng trước hung họa sau mới cát lợi. Vị trí này nếu có màu vàng đỏ sẽ có phát sinh hung họa. Nếu có màu trắng chủ đoản mệnh.

Lại nói: Mùa đông lấy màu đen làm chính sắc, kỵ nhất có Thổ khắc Thủy. Nếu cằm có màu đen vàng thì người trong nhà sẽ khốn đốn, trắc trở và có thể sẽ mắc bệnh. Nếu xương gò má có màu đen thì sẽ có quan tai, phá tài và còn gặp họa mất của. Nếu dưới 2 mắt có màu đen tím thì sẽ vì việc liên quan đến nam nữ mà gặp tai họa.

Nếu vị trí giữa 2 lông mày có màu xanh vàng thì người này làm chức văn thư sẽ gặp trở ngại. Nếu có màu đen thì phòng ngã xuống nước. Môi có sắc trắng thì sẽ bần khốn. Nếu mắt có màu xanh thường bị người khác coi thường, trán có màu vàng thì trong 1 tháng sẽ có chuyện vui. Nếu có màu tía thì người này trong 60 ngày sẽ có việc vui, lại có quan vinh.

Nếu có màu xanh thì người này trong 60 ngày trong nhà sẽ có tang và sinh kiện tụng, do đó tốt nhất nên tránh đi xa. Nếu có màu đen thì trong vòng 100 ngày sẽ có việc ưu sầu và có bệnh khó chữa. Nếu dưới mắt có màu xanh người này khó tránh khỏi tai họa. Nếu có màu đỏ chủ bị kiện tụng. Nếu có màu vàng thì trong nhà sẽ có việc vui. Nếu có màu đen sẽ vì bệnh mà khó bảo toàn tính mạng. Nếu đầu lông mày có màu đỏ thì người này sẽ gặp việc mờ ám.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dựa vào đầu để luận đoán cát hung

Tướng người hay thất bại trong cuộc sống –

Trong tướng số có nhiều dấu hiệu để nhận biết được số mệnh của người thường gặp long đong vất vả, không bao giờ có thể thành công, làm gì cũng hỏng, có tiền cũng mất, sức khỏe yếu kém, kết cuộc thảm thương. Đứng về mặt hình tướng, tướng người hay th
Tướng người hay thất bại trong cuộc sống –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người hay thất bại trong cuộc sống –

Phong thủy cho biệt thự

Khi chọn mua biệt thự, bạn cần nắm vững mối quan hệ giữa địa hình và môi trường, sự kết hợp giữa cảnh quan môi trường và kiến trúc biệt thự. Việc chọn địa hình
Phong thủy cho biệt thự

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi chọn mua biệt thự, bạn cần nắm vững mối quan hệ giữa địa hình và môi trường, sự kết hợp giữa cảnh quan môi trường và kiến trúc biệt thự. Việc chọn địa hình là điều rất quan trọng. Nó thường xuất phát từ các yếu tố:

Thế đất phải bằng phẳng

Bạn nên chọn thế đất bằng phẳng để xây biệt thự. Tránh xây nhà trên thế đất bị nghiêng hoặc hình tam giác vì ở thế đất này sẽ khiến mọi người luôn có cảm giác lo âu, thậm chí có thể xảy ra tai nạn tàu xe.

Nên xây biệt thự ở thế đất bằng phẳng

Nếu phải xây biệt thự trên mảnh đất dốc thì khi lựa chọn cần đặc biệt chú ý quan sát môi trường xung quanh.

Xét từ góc độ khoa học, ngôi nhà được xây trên thế đất bằng phẳng sẽ có khả năng chịu lực tốt và công trình sẽ có tuổi thọ lâu hơn.

Mảnh đất trước cửa nhà rộng rãi, có nguồn nước. Theo phong thủy, nước là tượng trưng cho nguồn tài sản. Đây được xem là nơi lý tưởng để xây nhà.

Nếu cửa chính của ngôi nhà đối diện với vách núi dốc thì đấy không phải chỗ ở thích hợp. Theo phong thủy, thích hợp nhất là khi bạn xây nhà có phần lưng tựa vào núi. Nó tượng trưng cho chỗ dựa để phát triển về sự nghiệp của gia chủ.

Phương hướng

Nhà nên tọa Đông triều Tây, tọa Tây triều Đông, tọa Tây Bắc triều Đông Nam, tọa Đông Nam triều Tây Bắc, tọa Đông Bắc triều Tây Nam, tọa Tây Nam triều Đông Bắc, tọa Nam triều Bắc và tọa Bắc triều Nam.

Biệt thự phải ở hướng chính

Khi xây biệt thự nên để một chút đất trống ở hướng Nam, điều này sẽ rất tốt đối với gia chủ. Dù cho mảnh đất đó để không hoặc sử dụng làm vườn hoa đều đem lại điều tốt cho mọi người trong nhà. Nếu mặt phía Nam của ngôi nhà đối diện với vườn hoa thì càng tốt. Nó sẽ tạo không gian thư thái, thoáng mát.

Hướng Nam nên để khoảng đất trống

Không nên chọn nơi “tàng phong”

Nếu xây nhà ở gần nơi có gió to, theo phong thủy thì khí sẽ bị gió thổi tán đi.

Không xây biệt thự ở nơi "tàng phong"

Khi chọn đất cho biệt thự tốt nhất là nên quan sát xung quanh. Nếu cảm giác đầu tiên của bạn về khu đất đó là nơi gió nhẹ thì đây chính là nơi đất lành để ở.

Chất đất phải sạch sẽ

Đối với những tòa biệt thự ít tầng thì vấn đề chất đất có sạch hay không. Nếu đất này trước đây là ao hồ hay sông nhỏ thì sau khi xây, khí dưới đất sẽ bay lên rất nhiều. Nếu xây nhà trên đất trước đây là bệnh viện hay nhà thờ, đền miếu… sẽ khiến cho người ở trên đất đó luôn có tâm trạng bồn chồn, bất an.

Nền kiên cố

Đất cát được xem là nền kiên cố

Nền đất cát được coi là nền tương đối kiên cố, không sợ nguy cơ sụt lún. Một ưu điểm nữa của loại đất này là sự khô ráo, rất tốt đối với việc phát triển của những vi khuẩn có ích và có thể tự mình làm sạch thổ nhưỡng. Nước dưới đất ít nhất phải cách móng nhà 0,5m. Như vậy mới có thể phòng trừ khí lạnh đồng thời ngăn chặn nguồn nước bị ô nhiễm.

Đất phải trồng nhiều cây xanh

Trồng nhiều cây xanh tạo không khí trong lành

Nếu chọn đất xây biệt thự bạn cũng nên lưu ý đến quỹ đất cho cây xanh. Cây xanh là vành đai ngăn khí độc, giữ khí lành, cùng với mặt nước điều hòa khí hậu cho nơi ở của bạn. Không chỉ vậy, việc trồng nhiều cây xanh xung quanh biệt thự sẽ mang đến cho bạn sự thư thái, yên bình sau những áp lực của cuộc sống thường ngày.

(Theo Landtoday)

 
 
 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho biệt thự

Đền Trần - Hưng Yên

Đền Trần - Hưng Yên được khởi dựng từ đời Trần, trải qua nhiều lần trùng tu. Đến thời Nguyễn được trùng tu với quy mô lớn và kiến trúc như ngày nay
Đền Trần - Hưng Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Trần nằm trên đường Bãi Sậy, phường Quang Trung, thị xã Hưng Yên ngày nay và là trung tâm của Phố Hiến xưa.

Tương truyền mảnh đất này trước đây là nơi đóng quân của Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn, thấy rằng đây là nơi hội tụ của 3 dòng sông: sông Hồng, sông Châu Giang và sông Luộc, đoạn trước cửa đền có tên gọi là Phú Lương (tên cổ của sông Hồng) nên ông đã chọn nơi đây làm căn cứ.

Đền Trần được khởi dựng từ đời Trần, ban đầu quy mô nhỏ, trải qua các triều đại đều được trùng tu, tôn tạo. Đến thời Nguyễn được trùng tu với quy mô lớn và kiến trúc như ngày nay. Năm 1992, Đền Trần được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đền có kiến trúc kiểu chữ Tam gồm: Tiền tế, trung từ và hậu cung. Từ ngoài vào là cổng nghi môn xây kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cửa vòm cuốn, trên cổ diêm ghi 4 chữ: “Kiếm Khí Đẩu Quang” (tinh thần yêu nước toả sáng); phía dưới cửa cuốn đề: “Trần Đại Vương từ” (Đền Trần Đại Vương).

Toà đại bái gồm 5 gian, kết cấu kiến trúc kiểu vì chồng rường giá chiêng, các con rường được chạm hình đầu rồng cách điệu, gian giữa treo bức đại tự “Thân hiền tại vọng” (Ngưỡng vọng người hiền tài). Nối tiếp đại bái là 5 gian trung từ, kiến trúc vì kèo quá giang đơn giản, bào trơn đóng bén, không có hoa văn. Phía tiếp giáp với hậu cung treo bức đại tự: “Công đức như Thiên” (Công đức của thánh rộng lớn như trời). Giáp với trung từ là ba gian hậu cung, thờ Trần Hưng Đạo và toàn bộ gia thất của ông.

Đền Trần - Hưng Yên
Một dãy hành lang trong Đền Trần

Hàng năm, lễ hội đền Trần được tổ chức vào ngày 20/8 và ngày 8/3 âm lịch, để tưởng nhớ tới ngày mất của ông và ngày chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, ngoài tổ chức rước kiệu du quanh thị xã còn tổ chức thi bánh dày, bánh chưng, thu hút đông đảo khách thập phương về dự lễ hội.

Đền Trần là di tích tưởng niệm Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn, một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của nhân loại. Đền Trần có ý nghĩa rất lớn với Phố Hiến nói riêng, tỉnh Hưng Yên nói chung. Vì vậy đền sẽ được đầu tư quy hoạch trở thành điểm du lịch văn hoá với mục đích giáo dục thế hệ trẻ hôm nay về truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân ta từ xa xưa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Trần - Hưng Yên

Gợi ý vị trí két sắt hợp phong thủy hút tài lộc

Trong căn nhà, nơi thu hút tài vượng nhiều nhất là két sắt. Vị trí két sắt hợp phong thủy rất quan trọng, giúp quyết định tài vận nên rất cần được chú ý.
Gợi ý vị trí két sắt hợp phong thủy hút tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong căn nhà, nơi thu hút tài vượng nhiều nhất là két sắt. Vị trí két sắt hợp phong thủy rất quan trọng, giúp quyết định tài vận nên rất cần được chú ý.


► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

Vi tri dac dia dat ket sat hut tai loc hinh anh
 
Đối với nhiều gia đình và doanh nghiệp, két sắt được chú ý trong vị trí sắp đặt với quan niệm là nơi lưu giữ tiền của cả gia đình, doanh nghiệp. Theo nguyên tắc phong thủy, khi đặt két tiền, cần quan tâm đến hai điều: phương vị tức là vị trí và hướng mở cửa két hay hướng nạp khí. 
  Vị trí đặt két sắt hợp phong thủy là ở hướng Đông Nam, hướng Tây vì hai hướng này là hai phương hướng mạnh nhất cho tài vượng.    Két sắt cần đặt ở nơi vượng khí hay đón được nhiều năng lượng nhất trong phòng thì hợp phong thủy. Thông thường đó là những vị trí chéo góc với cửa chính. Trong trường hợp có nhiều lựa chọn, ưu tiên đặt két tại các cung Đông Nam (tài lộc) hoặc những cung tốt so với tuổi của chủ nhân.    Về hướng nạp khí, nên quay về hướng tốt so với tuổi của chủ nhân, đẹp nhất là hướng Sinh khí, thuộc về Đông tứ trạch hoặc Tây tứ trạch thì quá tuyệt vời. Trong trường hợp không quay được về hướng tốt thì nên ưu tiên quay ra cửa phòng, chú ý không trực tiếp đối diện với cửa phòng.    Trước mặt két cần phải rộng rãi, sáng sủa không bị cản trở bởi đồ đạc trong phòng. Bên trên két không nên đặt nhiều đồ đạc lộn xộn. Đặt 1 con Tỳ Hưu hoặc Thiềm Thừ và 2 đồng tiền hoa mai trên và trong két tiền sẽ mang lại tiền tài bất ngờ. 
 
Vị trí đặt két sắt đẹp sẽ mang tới năng lượng dồi dào và vận may liên tiếp cho đường tài lộc của gia chủ.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gợi ý vị trí két sắt hợp phong thủy hút tài lộc

Tổng luận về cát, hung của Đại vận

Đương nhiên tốt hay xấu đến mức nào không phải là nói một cáchchung chung mà phải căn cứ vào quan hệ sinh khắc hình xung giữa các tổ hợp củachúng để đoán cho chính xác. Nếu nắm vững được mức độ sinh khắc hình xung đócàng cao thì sự dự đoán càng chính xác. Hỉ, kỵ của mười thần đại vận lại cóquan hệ đến vận khí tốt xấu của từng năm (tức lưu niên). Nắm vững được hỉ kỵcủa đại vận cũng tức là nắm được mạch chính của mệnh. Chỉ có như thế mới có thể gọi là biết được mệnhvà vận một cách chân chính. Chỉ trên cơ sở cảm nhận được một cách chắc chắn sựtồn tại của vận mệnh thì mới có thể đi đến hướng về cái tốt, tránh xa cái xấu.
Tổng luận về cát, hung của Đại vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây sẽ đưa ra các ví dụ về nữ sinh năm âm và nam sinh năm âm, cách sắp xếp Tứ trụ, thiên can Tứ trụ lộ ra và mười thần của các can tàng trong các địa chi, cách lấy số đại vận, sắp xếp đại vận, can của các đại vận thấu ra mười thần và cách sắp xếp chúng. Đến đó thì cc bước cơ bản để đoán Tứ trụ đ hồn thnh. Những dự đoán  cát hung về sau đều được tính toán trên cơ sở đó  (thần sát được chú thích ở một bên Tứ trụ hoặc cũng có thể chú thích riêng ).

Ví dụ . Nữ sinh năm âm.

                       

Năm 1995                               tháng 2 âl                    ngày 4 âl                      8 giờ

     Kiếp                                         ti                                   nhật                          ti

 At hợi                                      mậu dần                       gip ngọ                      mậu thìn

Mệnh : nhâm giáp                               giáp bính mậu                  đinh tị               mậu  ất   quý

            Kiêu tỉ                                     tỉ  thực   tài                    thương tài          ti  kiếp   ứng

 

            Ti         st         quan    kiu       ấn        tỉ          kiếp     thực

            Tị         canh     tn         nhm     quý      gip       ất         bính

Vận:    mo       thìn      tị          ngọ      mi        thn       dậu      tuất

            1          11        21        31        41        51        61        71

 

Ví dụ : nam sinh năm âm :  năm 1995 tháng 2 ngày 4 lúc 8 giờ sáng. Mười thần của Tứ trụ lộ ra và mười thần của các can tàng chứa trong chi cũng giống như trên. Can đại vận lấy trụ tháng Mậu làm chuẩn xếp ngược, lấy số vận và cách tính đại vận đếm ngược. Mỗi đại vận 10 năm, cụ thể như sau:

thương            thực        kiếp          tỉ           ấn             kiêu            quan              sát

đinh                 bính         ất              giáp      quý           nhâm tân              canh

Vận:    sửu                  tí              hợi            tuất         dậu         thân                mậu                ngọ

            10                    20            30            40            50            60                 70               80


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng luận về cát, hung của Đại vận

Phương pháp bài trí phòng ăn có phong thủy tốt –

Nhà ở hiện đại thiết kế hầu như không có khu vực ăn chuyên dùng, mà nơi ăn uống thường là phần kéo dài thêm ra bên ngoài phòng bếp hoặc khu vực bên ngoài phòng khách, kết cấu hoàn toàn theo kiểu mở, nếu có tủ rượu hoặc bàn bar thì cũng được bố trí ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đó. Phòng ăn trong nhà không cần thiết phải thiết kế thành một gian khép kín, nếu ghép nó với các khu sinh hoạt chung sẽ thuận tiện hơn. Thiết kế và bố trí mặt bằng phòng ăn phải xem xét đến kích thước không gian lưu động cho người sử dụng và kích thước cự ly đến tủ bát, tủ lạnh, bàn ghế, mọi thứ cần được sắp đặt một cách hợp lý nhất, đồng thời cần chú ý đến sự thông thoáng tự nhiên của phần không gian đi qua các khu khác, không làm cản trở hoạt động của các khu khác.

Phòng ăn được bố trí tốt không những tụ tập được tâm sức của mọi thành viên trong gia đình, làm cho mọi người vui vẻ mỗi khi ở phòng ăn, mà còn có tác dụng giao lưu tình cảm tăng cường đoàn kết đối với mọi thành viên trong nhà.

chon-mau-son-cho-phong-an3

(1) Bố cục và phong cách

Xét về góc độ phong thuỷ, phòng ăn cũng như các phòng khác, bố cục và phong cách phải vuông vắn, không được thiếu góc hoặc lồi ra lõm vào. Bố cục theo hình vuông hay hình chữ nhật là tốt nhất và cũng dễ cho việc bài trí, trang hoàng nhất.

(2) Vị trí

Nhà ở hiện nay phần lớn không tách riêng với phòng khách và phòng ăn. Nếu như phòng khách và phòng ần ghép liền nhau, hướng cùng có hướng tốt hướng xấu. Theo quan điểm phong thuỷ học, hướng Đông Nam được gọi là ‘Thìn Ty hoàng kim thuỷ”, nếu thiết kế phòng ăn theo hướng này, gia vận sẽ được hưng vượng. Nhưng hướng Tây Nam thì lại xấu, vì vậy, không nên để phòng ăn ở hướng này.
Ngoài ra, phòng ăn nên đặt giữa phòng khách và phòng bếp – vị trí trung tâm của nhà. Bố cục như vậy sẽ làm tăng sự hoà hợp giữa mọi người trong nhà. Với nhà tầng, kị nhất là bố trí kiểu phòng ăn tầng dưới, thẳng lên tầng trên là nhà vệ sinh.

(3) Trang hoàng

Năng lượng mọi thành viên trong gia đình có được từ việc ăn uống. Do phòng ăn là khu vực ăn uống nên nó có quan hệ rất lớn đến sự giàu nghèo của gia đình. Để tăng năng lượng hoả hành và tích tụ dương khí, phòng ăn nên trang trí gam màu sáng và phái đủ ánh sáng. Tại phòng ăn bài trí thêm một vài cây xanh sẽ càng làm tăng dương khí và tài phú.

(4) Tránh vị trí hung (xấu)

Phòng ăn nên đặt ở vị trí trung tâm của nhà nhưng không được đối diện với cửa trước hoặc cửa sau. Còn một số bố cục nữa cũng cần phải tránh, ví dụ nếu như thiết kế nhà tầng thì phòng ăn nên ở tầng trên; cửa sổ ở hai mặt tường phòng ăn không được đối diện nhau, vì như vậy khí sẽ vào cửa này và ra ngay cửa kia, không tụ lại, sẽ không có lợi cho vận khí trong nhà. Không dùng không gian gần nhà vệ sinh làm phòng ăn, trường hợp khó tránh thì bàn ăn phải kê thật xa phòng vệ sinh.

(5) Điều hoà âm dương

Bố trí phòng ăn thành không gian cân bằng âm dương, tuy nhiên nên thiên về dương hơn. Để tăng cường dương khí, tốt nhất không được treo bầy các vật như ảnh các bậc tổ tiên hay các đồ dùng gia đình cổ trong phòng ăn. Mặt khác, dương khí quá thịnh sẽ gây bất hoà trong gia đình.

(6) Tránh đặt dưới xà nhà

Gặp trường hợp góc nhà và xà nhà nhọn có thể hoá giải bằng đồ dùng trong nhà và các chậu cây cảnh. Nơi ăn uống tránh thẳng dưới xà nhà, nếu không thể làm khác thì có thể dùng đèn chiếu, làm sao để ánh sáng đèn chiếu thẳng vào xà nhà.

(7) Tạo hình bàn ăn

Hình dạng bàn ăn có ý nghĩa phong thuỷ rất quan trọng. Tốt nhất là dùng bàn ăn hình tròn hoặc hình bầu dục, tránh bàn có góc nhọn. Nếu dùng bàn hình vuông khi ăn nên tránh ngồi ở góc bàn.

(8) Số may mắn (con số hành vận)

Vị trí đặt bàn ăn cùng ảnh hưởng đến vận hạn trong nhà. Các số 6, 8, 9 về lý thuyết đều thuộc các số mang lại may mắn. số người ăn cơm trong nhà là cố định, nhưng khi có tiệc số người ăn được quyết định bởi chủ nhà.

(9) Khéo dùng gương

Bố trí gương ở phòng ăn, khi gương chiếu vào thức ăn trong bàn ăn sẽ có hiệu quả làm tăng tài phú (của cải) trong nhà. Điều này chỉ hợp với những phòng bếp có thể treo được gương ở vị trí nó có thể soi được vào thức ăn trong bàn ăn, các trường hợp khác treo gương trong phòng ăn là không tốt.

(10) Đồ vật may mắn

Phòng ăn thích hợp với tranh, tượng Phúc, Lộc, Thọ. Ngoài ra, tranh hoa quả và thực phẩm cùng mang lại vận tốt. Cam tượng trưng cho sự giàu có, dào tượng trưng cho sức khoẻ và trường thọ, quả lựu trượng trưng cho đông con nhiều cháu.

(11) Dụng cụ ăn uống

Người nước ta thường quen dùng đũa, thìa, môi trong ăn uống, những đồ dùng quá nhọn cần được xếp đặt cẩn thận. Bát dĩa nên chọn dùng loại trên cỏ in những hình ảnh mang lại cát tường như hoa, rồng, con dơi hoặc quả đào.

(12) Lễ nghi

Lúc ăn cơm là thời khắc mọi người trong nhà đoàn tụ, gia đình có êm ấm, hoà thuận thì vận khí trong nhà mới vượng. Trong bữa ăn việc người trẻ phải mời người già ăn trước không chỉ là lễ nghĩa mà còn có ý nghĩa tạo phúc cho người trẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp bài trí phòng ăn có phong thủy tốt –

Bài học cuộc sống : Gieo nhân nào gặp quả ấy

Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.
Bài học cuộc sống : Gieo nhân nào gặp quả ấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị ‘pan’ đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối, anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề, đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống xe. Chiếc xe Pontiac cũ kĩ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.

Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta…
Anh nói: ‘Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson.’

Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chỗ khuỷ tay cũng như lòng bàn tay một hai lần gì đó.

Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe. Nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau rát.

Trong khi anh đang siết chặt mấy con ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kiếng và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cám ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến điều là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ giúp người đang cần được giúp đỡ vì Chúa, Phật hay chính bản thân anh cũng biết rằng đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó, và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại.

Anh nói với bà cụ, nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ, bà có thể sẵn sàng cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: ‘Và hãy nghĩ đến tôi’

Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu lean xe của mình đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà.

Chạy được vài dặm trên con lộ, bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ.. Bà ghé lại, tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào, trước khi bà đi đoạn đường chót về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà.. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi, mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù đã phải đứng suốt ngày nay để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ ra sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ.

Rồi tự nhiên bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy. Và bà cụ vẫn còn thắc mắc, không hiểu tại sao một người có ít đến độ thiếu thốn mà lại sẵn long cho một người lạ mặt rất nhiều…

Sau khi ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc một trăm của bà cụ.. nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa mất rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi khuất . Chị hầu bàn thắc mắc, không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi dọn dẹp, chị để ý trên bàn thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng…

Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: ‘Cô sẽ không nợ gì tôi cả. Tôi cũng đã từng ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô hiện nay. Có ai đó đã một lần giúp tôi, giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô.’
Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng, bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô-la nữa.

Thật ra, còn có những bàn ăn cần lau dọn, những hũ đường cần đổ đầy, và những khách hàng để phục vụ… Và chị hầu bàn đã hoàn tất những việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai.

Tối hôm đo,ù khi đi làm về và leo lên giường nằm, chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào mà bà cụ đã biết chị và chồng của chị hiện đang cần số tiền ấy? Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn… Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào, và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh, ‘Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan Anderson, ạ.’

Theo Bài Học Cuộc Sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học cuộc sống : Gieo nhân nào gặp quả ấy

Tam cát và Ngũ cát trong Phong thủy Huyền Không

Tam cát là 3 sao Nhất Bạch (số 1), Lục Bạch (số 6) và Bát Bạch (số 8). Những sao này đều được coi là những sao tốt, vì vậy nên mới được gọi là “Tam cát” (tức 3 sao tốt). Lý do vì Huyền Không xuất phát từ Kỳ Môn - Độn Giáp, một phương pháp dùng Bát Môn (tức 8 “Cửa”) để đoán định cát, hung của mọi sự việc. Trong 8 “Cửa” đó, chỉ có 3 “Cửa” Hưu (trùng với phương KHẢM của số 1), Khai (trùng với phương CÀN của số 6), và Sinh (trùng với phương CẤN của số 8) là tốt nhất, sẽ đem lại nhiều thuận lợi, may mắn. Chính vì vậy nên 3 số 1, 6, 8 mới được xem là “Cát”.
Tam cát và Ngũ cát trong Phong thủy Huyền Không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một điểm nữa là sao Nhất Bạch vừa là khởi đầu của 9 sao, lại là chủ của Thượng Nguyên, lấy Thủy nuôi dưỡng Tam Bích Mộc (vì Thượng Nguyên gồm có 3 vận 1, 2, 3) mà khắc chế Nhị Hắc Thổ. Vì Nhị Hắc là Bệnh Phù, chủ ôn dịch, tật bệnh, nếu không bị kềm chế thì độc khí của nó sẽ lan tràn mà hủy diệt hết sự sống. Chính vì vậy nên những cơn dịch bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử thế giới đều xuất hiện trong Thượng nguyên. Chẳng hạn như cơn dịch cúm “Influenza” (còn gọi là “Cúm Tây ban Nha” hay “Spanish Flu”) vào các năm 1918 - 1919 (tức trong Vận 3 Thượng Nguyên), làm cho từ 50 đến 100 triệu người chết. Hay như “Cơn dịch lớn” (Great Plague) trong các năm 1348 - 1353 (tức thuộc Vận 2 Thượng Nguyên) thời Trung cổ (Middle Ages) làm chết 75 triệu người từ Á sang Âu... Cho nên nhờ có Thủy của Nhất Bạch nuôi dưỡng Mộc khí của Tam Bích để kềm chế Nhị Hắc, nên độc khí của nó mới được ngăn chặn mà không hủy diệt hết sự sống trên trái đất. Nhờ vậy Thượng Nguyên mới có thể đảm nhiệm được vai trò khởi đầu, cũng như duy trì được sự tồn tại của chính nó, cũng như của Trung Nguyên và Hạ Nguyên sau này.

Đến Trung Nguyên gồm có các vận 4, 5, 6. Trong đó số 4 vừa là Mộc khô, vừa là gió lớn (vì số 4 thuộc quẻ Tốn = gió theo Tiên thiên Bát quái). Còn số 5 vừa là Ngũ Hoàng đại Sát Thổ, vừa là Liêm Trinh Hỏa, gặp Mộc khô, gió lớn của Tốn Tứ nên lửa càng mạnh mà sẽ thiêu rụi hoặc hủy diệt tất cả, chỉ còn lại tro bụi mà thôi. Chính vì vậy nên trong Trung Nguyên mới có nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt, những chế độ tàn bạo như thời Đệ nhị Thế chiến với Hitler, Stalin, Mao trạch Đông... Hoặc thời kỳ quân Mông cổ bành trướng khắp Á - Âu, gieo rắc bao chết chóc, kinh hoàng cho cả Thế giới thời đó (từ năm 1206, lúc Thiết Mộc Chân xưng đế hiệu là Thành cát tư hãn, cho đến khi quân Mông cổ tràn qua tới Hungary vào năm 1241 đều thuộc các vận 4, 5 và 6 Trung Nguyên). Hay Tần thủy Hoàng từ lúc lên ngôi diệt chư hầu, cho đến lúc mất vào năm 210 B.C. là thời gian ở trong các vận 4 và 5 Trung nguyên). Cho nên sao Lục Bạch ở Trung Nguyên vừa là Thủy của Tiên thiên, vừa là Kim của Hậu thiên, có thể điều tiết được Hỏa nóng, Thổ khô, cứng của Ngũ Hoàng, vừa cai quản được gió (vì CÀN là Trời, mà Trời thì cai quản gió, mưa), cũng như tưới nhuận được Mộc khô của Tốn, hầu bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Trung nguyên.

Bước vào Hạ Nguyên gồm có các vận 7, 8, 9. Trong đó các số 7 và 9 đều là Hỏa Tiên thiên hay Hậu thiên, lại cùng nằm trong 1 Nguyên nên Hỏa khí cực thịnh. Do đó, trong giai đoạn này cũng thường có những cuộc chiến tranh khá quy mô và rộng lớn như 2 cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và 2001 (tức vận 7). Hoặc cuộc chiến tranh của Napoleon ở Âu châu (từ năm 1800 đến 1815, tức từ cuối vận 6 sang giữa vận 7). Hay cuộc chiến tranh giữa Mông cổ với Việt Nam (1284 - 1288 tức trong vận 8). Ngoài ra, trong Hạ Nguyên thường có nhiều thiên tai, do Hỏa mạnh thì Thủy sẽ bùng dậy để tái lập lại thế quân bình, gây ra tình trạng gió bão, lụt lội... Mặt khác, vì Hỏa khí trong Hạ Nguyên nhiều và thịnh, nên nhiệt độ trên trái đất cũng sẽ tăng lên, dẫn đến tình trạng hạn hán, mất mùa ở nhiều nơi. Cho nên sao Bát Bạch ở Hạ Nguyên là Thổ ướt, vừa có thể điều tiết được Hỏa khí, vừa có thể giúp cho 2 số Thất Xích và Cửu Tử cùng đứng chung trong 1 Nguyên, đang từ thế xung khắc, hủy diệt lẫn nhau (vì Cửu Tử Hỏa khắc Thất Xích Kim) sẽ trở thành thế tương sinh (Hỏa sinh Thổ để Thổ sinh Kim) mà giúp cho Hạ Nguyên được tồn tại, duy trì và phát triển qua Thượng Nguyên, tức là vòng sinh thái được tái lập lại từ đầu và tiếp tục luân chuyển không ngừng vậy.

Chính vì chức năng điều hòa, cũng như khả năng duy trì sự tồn tại và phát triển của chúng trong các Nguyên Thượng, Trung, Hạ, cho nên các sao Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch mới được xem là tốt trong bất cứ Nguyên, vận nào, và mới được liệt kê thành “Tam cát”.


Nói về Ngũ cát

Ngoài 3 sao Nhất, Lục, Bát thì còn có những sao là vượng khí, sinh khí và (hay) tiến khí của vận đó, nên khi gộp lại sẽ có tối đa là 5 sao tốt (nên gọi là “Ngũ cát”).

- Thí dụ: vận 1 Thượng Nguyên thì Nhất Bạch là vượng khí, Nhị Hắc là sinh khí, Tam Bích là tiến khí. Cộng với Lục Bạch và Bát Bạch (còn Nhất Bạch vì đã là vượng khí nên không thêm vào nữa) sẽ thành Ngũ Cát (tức 5 sao tốt).

Tuy nhiên, không phải vận nào cũng có đủ Ngũ cát, mà đôi khi chỉ có 4 sao tốt (tức “Tứ cát”) mà thôi.

- Thí dụ: trong vận 6, Lục Bạch là vượng khí, Thất xích là sinh khí, cộng với Nhất Bạch và Bát Bạch nên chỉ có Tứ cát.

Cho nên, tùy theo từng thời vận mà có lúc 1 căn nhà chỉ được Tứ Cát, có những lúc lại hội đủ Ngũ Cát, tức là mức độ sao tốt tối đa có thể có được như sau:

* Vận 2 thì Nhị Hắc là vượng khí, Tam bích là sinh khí, cộng với 3 sao Nhất, Lục, Bát thành Ngũ Cát.

* Vận 3 thì Tam Bích là vượng khí, Tứ lục là sinh khí, cộng với Nhất, Lục, Bát thành Ngũ Cát.

* Vận 4 thì Tứ Lục là vượng khí, Ngũ Hoàng là sinh khí, Lục Bạch vừa là cát tinh, vừa là tiến khí, cộng với Nhất Bạch và Bát Bạch thành Ngũ Cát.

* Vận 5 thì Ngũ Hoàng là vượng khí, Lục bạch là sinh khí, cộng với Nhất, Bát thành Tứ Cát.

* Vận 7 thì Thất Xích là vượng khí, Bát Bạch là sinh khí, Cửu tử là tiến khí, cộng với Nhất, Lục mà thành Ngũ Cát.

* Vận 8 thì Bát Bạch là vượng khí, Cửu Tử là sinh khí, cộng thêm Nhất Bạch, Lục Bạch mà thành Tứ cát.

* Vận 9 thì Cửu Tử là vượng khí, Nhất Bạch là sinh khí, cộng với Lục và Bát Bạch mà thành Tứ Cát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam cát và Ngũ cát trong Phong thủy Huyền Không

Những chòm sao si tình hay nhận trái đắng trong tình yêu

Tình yêu không chỉ có ngọt ngào, say đắm mà còn lắm khổ đau, như 4 chòm sao si tình dưới đây, luôn dốc hết lòng, bỏ hết tình cho mỗi mối quan hệ.
Những chòm sao si tình hay nhận trái đắng trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu không chỉ có ngọt ngào, say đắm mà còn lắm khổ đau, có hạnh phúc cũng có tổn thương. Người càng bỏ ra nhiều càng dễ lâm vào buồn bã, như 4 chòm sao si tình dưới đây, luôn dốc hết lòng, bỏ hết tình cho mỗi mối quan hệ.


► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu và tử vi hàng ngày của bạn

Nhung chom sao si tinh hay nhan trai dang trong tinh yeu hinh anh 2
 

Kim Ngưu

 

Trong chuyện tình cảm, Kim Ngưu là chòm sao si tình, nghiêm túc và vô cùng chân thành. Khi đã quyết định bắt đầu, họ sẽ cố gắng để có kết thúc hoàn hảo, viên mãn, chấp nhận hi sinh nhiều hơn để đổi lấy cuộc vui. Họ cũng là người trọng tình trọng nghĩa nhất, ngang đời nhau rồi không thể thành người dưng.    Cũng vì như vậy mà Kim Ngưu dễ chịu tổn thương trong tình yêu. Xảy ra bất cứ chuyện gì họ cũng đứng mũi chịu sào, cố gắng nhiều hơn, nỗ lực nhiều hơn, thậm chí trả giá nhiều hơn. Dẫu bị người khác nói là ngốc nghếch nhưng Ngưu chan tình nguyện, không oán không trách.

Xử Nữ

  Đối với Xử Nữ, yêu là nghiêm túc, họ chọn đối tượng vô cùng kĩ lưỡng và coi đối tượng của mình hoàn mĩ, tuyệt vời. Không dễ dàng gì mới xác định được một người nên nắm thật chắc, giữ thật kĩ, trở thành chòm sao si tình lúc nào không hay.   Chuyên nhất với chuyện tình cảm nhưng Xử Nữ không phải lúc nào cũng gặp may mắn. Họ thường xuyên là người đau khổ hơn khi yêu vì tính cố chấp và có phần sĩ diện của mình. Thà rằng yêu khổ còn hơn là chia tay, đây chính là ý nghĩ thường trực của Xử Nữ.
 

Nhung chom sao si tinh hay nhan trai dang trong tinh yeu hinh anh 2
 
Hổ Cáp

  Lạnh lùng mà nặng lòng, chòm sao si tình Hổ Cáp chỉ lý tính lúc bình thường còn dính vào chuyện tình cảm, chắc chắn sẽ rối tinh rối mù. Hổ Cáp thận trọng nhưng lại không khống chế được bản thân trong tình yêu, nhất định sử dụng những biện pháp cực đoan nhất.   Vì thế, Hổ Cáp bị tổn thương, cực khổ yêu, đau lòng mà yêu. Có khi, chỉ do mình tự tưởng tượng ra thôi, tự huyễn hoặc thôi chứ đối phương chẳng làm gì có lỗi cả. Đúng là tự mình làm khổ mình.  

Ma Kết

  Suy nghĩ quá nhiều, quá sâu sắc cũng là một loại tổn thương mà Ma Kết chính là đại diện tiêu biểu. Không dễ dàng gì trao tình cảm cho một người nên cũng chẳng dễ dàng gì để họ từ bỏ. Yêu nhau, dù thăng trầm ra sao, vẫn cứ là quyết không buông tay.   Tình cảm vốn là thứ không nói rõ ràng được như thế đấy, cũng chẳng lý giải được. Đến người thông minh, lý trí như Ma Kết rồi cũng biến thành chòm sao si tình thôi.
Học 3 chòm sao mạnh mẽ cách trút bỏ áp lực công việc Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Học tập 4 chòm sao tốt bụng, phúc đến đời sau

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao si tình hay nhận trái đắng trong tình yêu

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Rùa có thể hóa giải sát khí

Nhiều chuyên gia phong thủy nhận định, đặt các vật trang trí hình rùa trong nhà sẽ có lợi. Mai rùa gồ lên trông giống như chiếc gương lồi, bởi vậy,
Rùa có thể hóa giải sát khí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rùa ngọc

Nhiều chuyên gia phong thủy nhận định, đặt các vật trang trí hình rùa trong nhà sẽ có lợi. Mai rùa gồ lên trông giống như chiếc gương lồi, bởi vậy, mai rùa có thể hóa giải sát khí.

Ngoài ra, rùa còn là một loại động vật có tuổi thọ cao, được liệt vào trong “tứ linh”, là động vật tượng trưng cho phúc lành. Bởi vậy, các vật trang trí hình rùa có thể được trưng bày trong nhà như một biểu tượng cát tường. Nếu đặt tại nơi phạm xung sát, sẽ có tác dụng hóa giải sát khí.

(Theo Bát Trạch Minh Kính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rùa có thể hóa giải sát khí

Những điều cơ bản cần nắm vững tránh sinh tà khí trong nhà

Tà khí là gì và cách hóa giải tà khí trong nhà như thế nào?
Những điều cơ bản cần nắm vững tránh sinh tà khí trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tà khí là gì?

Tà khí là những luồng khí có thể giết chết năng lượng tích cực xung quanh ngôi nhà.  Tà khí sinh ra chủ yếu do bố cục nội thất bất hợp lý và địa thế đất xung quanh. Tuy nhiên, những thực thế sống như những đối thủ cạnh tranh hay những người vô đạo đức, những tên đầu trộm đuôi cướp cũng có thể tạo thêm sát khí xung quanh nhà của bạn. 

Vì khí tự nó có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác nên sinh khí rất có thể chuyển thành tà khí. Ví dụ như đối diện nhà là hồ nước, điều này tưởng chừng như rất tốt nhưng lại có thể hóa thành tà khí nếu nhà ở vị trí ngã ba.

Tà khí đến từ đâu?

'Mũi tên độc' được tạo ra từ các vật sắc nhọn

Nhà gần nghĩa trang

Khí di chuyển với một tốc độ quá nhanh

Hàng xóm xấu

Không gian sống bức bối (Ví dụ: trần nhà thấp)

Đồ đạc bị nứt, vỡ

Tà khí có thể dễ dàng chuyển đổi trở lại sinh khí bằng cách sử dụng các pháp khí hóa giải. Hành lang dài có thể dễ dàng tạo ra tà khí do đường thẳng của mình, hãy thử đặt đèn sáng hoặc cây xanh để làm chậm lại luồng khí nhanh và mạnh. 

Các bảo bối phong thủy nào giúp hóa giải tà khí?

Tượng Quan Công cưỡi ngựa: Quan Công với vẻ mặt hung dữ, tay cầm đại đao và gươm giúp trấn yểm tà khí. 

Đèn ngũ hành: Đèn ngũ hành có vai trò lớn trong việc ngăn chặn khí xấu ảnh hưởng đến ngôi nhà, hóa giải được sao Ngũ Hoàng đại sát (ngôi sao mang lại bất hạnh, bi kịch và rủi ro). 

Chuông chày Kim Cang:


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cơ bản cần nắm vững tránh sinh tà khí trong nhà

Truyền Thuyết Cóc Ba Chân

Thần tài lộc cóc 3 chân Theo truyền thuyết của người Hoa, thì Thiềm Thừ vốn là yêu tinh, được tiên ông Lưu Hải thu phục, theo Tiên ông Lưu Hải để tu hành nên không làm hại nhân gian như trước, mà ngược lại dùng phép thuật của mình đi khắp nhân gian để nhả tiền giúp đỡ mọi người, để thể hiện sự phục thiện, sự cải tà quy chính với tiên ông Lưu Hải.
Truyền Thuyết Cóc Ba Chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì vậy Thiềm Thừ được người Hoa trân trọng như một trong những con vật linh thiêng trong phong thủy về tài lộc và yên lành.

Nó thường ngậm đồng tiền cổ trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc vào nhà. Người Hoa từ xưa tới nay đều tin rằng nếu họ nhà có ở dưới giếng, ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập. Như vậy cóc biểu tượng cho điềm lành. Đã vậy đây lại là cóc tài lộc nên giữ trân trọng ở hàng thứ 2 sau vật phong thủy số 1 là Tỳ Hưu.

Do đó Thiềm Thừ là biểu tượng của tài lộc và yên lành, là vật phẩm may mắn trong công việc làm ăn, sự bình an cho gia đạo. Nên mọi người thường hay dùng để biến xấu thành tốt trong phong thủy nhà cửa, hoặc để tặng bà con, bạn bè thân hữu khi có dịp hỷ sự.

Nhưng khác với người Hoa người Việt mình thương chưng bày Thiềm Thừ trên bàn thờ Thổ Địa, Thần Tài ngậm đồng tiền cổ quay ra ngoài để kiếm tài lộc, tối quay đầu vào trong để đem tài lộc vô nhà. Thực ra những con vật thiêng liêng trong phong thủy, nguồn gốc là của người Hoa, là phong tục tập quán lâu đời của mọi người dân xứ sở này. Vì vậy ta cần phải theo những trải nghiệm của họ trong việc sử dụng những con vật thiêng liêng vào phong thủy nhà cửa, sao cho có hiệu quả thiết thực nhất và tránh sự phản tác dụng.

Trong đó việc an vị Thiềm Thừ ở vị trí nào trong nhà sao cho có hiệu quả, thì chúng ta đã biết như trên, tốt nhất là tại 2 góc của chính phía trên trong phòng khách, và đầu của Thiềm Thừ đang ngậm đồng tiền cổ quay vô nhà, như thế Thiềm Thừ đang nhảy vô nhà để mang của cải tài lộc vô nhà chủ.

Tương tự như vậy chúng ta đặt Thiềm Thừ ở của hàng, ở công ty, nhưng phải nhớ là đầu của Thiềm Thừ phải quay vô phía trong cửa hàng hoặc công ty. Cũng có thể đặt Thiềm Thừ nằm ở dưới gầm bàn, bên trong tủ, nhưng đầu phải qua vô trong. Tất nhiên, không ai làm ngược cách trên, là đặt đối diện với cửa chính, chẳng hạn như đặt Thiềm Thừ tại trang Thổ Địa – Thần Tài, đầu quay ra ngoài cửa chính với miệng đang ngậm đồng tiền cổ. Đây là biểu tượng cho sự hao tài, như vậy Thiềm Thừ thay vì tài lộc vô nhà cho gia chủ, thì ngược lại mang tài lộc của gia chủ ra hết ngoài.

Nhưng Thiềm Thừ thế nào mới được linh khí ?

Nếu làm bằng bột đá được nghiềm nát và trộn với keo đặc biệt và cho vào khuôn đúc, để sản xuất hàng loạt theo công nghệ thay vì thủ công tuy hình rất đẹp và giá thành rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất thủ công.

Nhưng linh khí của loại tượng bột đá này rất ít vì đá thiên nhiên đã bị nghiền nát, đã phá vỡ linh khí đã tích tụ hàng triệu năm, chỉ còn lại một ít linh khí mà thôi.

Có những hình tượng Thiềm Thừ bằng đồng, Thuộc loại hành Kim, trong Hạ Nguyên Vận 8 thuộc Bát bạch( hành Thổ) này được “tương sinh”. Vì Thổ sinh Kim. Nhưng linh khí không đầy đủ bằng đá thiên nhiên, vì đồng đã được nung chảy để đổ vào khuôn đúc.

Hơn nữa khi đến Hạ Nguyên Vận 9 thuộc Cửu Tử(hành hỏa): Từ năm 2024 đến năm 2043(chu kỳ 20 năm). Mà hỏa thì khắc Kim, nên vật liệu bằng đồng(hành Kim) đến đầu Hạ Nguyên Vận 9, tức năm 2024 thì hình tượng bằng đồng(hành kim) người ta sẽ không sử dụng nữa. Thay vào đó người ta sẽ sử dụng hình tượng bằng đá thiên nhiên để có thời gian lâu dài, và ở Hạ nguyên Vận 9 thuộc Cửa Tử( hành Hỏa) thì được “tương sinh” , vì Hỏa sinh Thổ. Và hơn nữa đá thiên nhiên thuộc hành Thổ, còn giữ trọn vẹn linh khí của Trời Đất qua hàng triệu năm, và được sử dụng vào cả Hạ nguyên Vận 8 và Vận 9(2004 đến năm 2043) được “ Tương vượng và tương sinh” rất phù hợp, vì vậy việc sử dụng vật phẩm phong thủy đá thiên nhiên là cách lựa chọn tốt nhất

Thiềm Thừ – Cóc Tài lộc

Chỉ đứng sau Tỳ hưu, Thiềm Thừ hay Cóc ba chân (Cóc tài lộc) được xem là linh vật phong thủy chiêu tài, tịch tà và hộ gia.
Cóc vàng mời gọi tiền tài.

Thiềm Thừ ngậm tiền thường có thể nhìn thấy gần máy tính tiền, két sắt, nơi tiếp khách, bàn làm việc và văn phòng tại các nước phương Đông.

Riêng nếu có dịp du lịch sang Trung Quốc, bạn sẽ thấy trong gia đình Trung Quốc, nhà ai cũng chưng Tỳ Hưu để chiêu tài khí bốn phương, tạo may mắn cho gia chủ về tài lộc, công danh và sức khỏe. Tuy nhiên, khi được chủ nhà mời nước tại phòng khách, nếu để ý một chút ở phía cửa ra vào bạn sẽ thấy hai chú cóc ngậm đồng tiền cổ đang quay đầu vào nhà.

Nhìn kỹ hơn, bạn sẽ thấy trên đầu cóc có hình tròn, bên trong là hình tựa như hai con cá quay đầu lại với nhau (gần giống vòng tròn Bát Quái).

Trên lưng cóc có những nốt sần đặc biệt gọi là chòm sao Đại Hùng. Cóc ngồi trên giá tài lộc, mang một đồng xu trên miệng và hai bên sườn đeo hai xâu tiền cổ.

Người Trung Quốc gọi đây là Cóc tài lộc hay Cóc ba chân, tên là Thiềm Thừ. Đây là vật phẩm phong thủy đứng thứ 2, sau Tỳ Hưu, được cho là mang lại điềm lành và tài lộc. Lúc quay đầu cóc vàng ra nói: “đi ra ngoài kiếm tiền đi”, còn khi quay đầu vào, nói: “đem tiền về nhà nhé”!

Truyền thuyết cóc ba chân

Theo truyền thuyết cóc ba chân hay cóc vàng, có thể nhả ra vàng, là vật vượng tài.

Tương truyền ngày xưa có một tu sĩ tên là Lưu Hải đã dùng kế để thu phục cóc vàng yêu quái và thành tiên. Lưu Hải vốn là đệ tử của Lã Động Tân, thích chu du tứ hải, hàng yêu phục ma, bố thí tạo phúc nhân thế.

Lúc Lưu Hải hàng phục được con yêu tinh cóc, nó đã bị thương và cụt mất một chân, cho nên sau này cóc vàng chỉ có ba chân. Từ đó, cóc vàng thuần phục dưới trướng của Lưu Hải, chuyên nhả ra tiền vàng để giúp cho dân nghèo và được gọi là CHIÊU TÀI THIỀM (cóc vàng mời gọi tiền tài ).

Tạo hình của cóc vàng rất nhiều, thường là ngồi trên thỏi vàng, trên lưng của cóc vàng đeo xâu tiền vàng, thân thể béo tròn, toàn thân toát lên vẻ phú quý sung túc.

Điều này có ngụ ý: “Thổ bảo phát tài, tài nguyên quảng tiến” (nhả ra của quý làm cho chủ nhân phát tài, có cóc vàng trong nhà tiền bạc cứ lũ lượt theo vào), cho nên trong nhân gian có câu: ” đắc kim thiềm giả tất phú quý” (người có được cóc vàng chắc chắn sẽ giàu to).

Người xưa cũng lưu truyền câu “thiềm cung triết quế” dùng để ví von với người thi đỗ tiến sĩ, theo truyền thuyết trong Nguyệt Cung có con Cóc ba chân vì thế mà người ta gọi Nguyệt Cung là Thiềm Cung (nghĩa hán việt: thiềm là cóc ).

Thiềm Thừ xuất hiện vào đêm trăng tròn ở gần nhà ai, thì đó là sự báo tin gia chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý. Vì vậy, Thiềm Thừ được người đời tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài.

Trình tự “khai quang điểm nhãn” cho Thiềm Thừ: 1. Chon một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ. 2. Lấy nửa thùng nước giếng, lấy tiếp nửa thùng nước mưa. 3. Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó phải sạch sẽ. 4. Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm. 5. Sau khi lấy ra dùng khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ. 6. Lấy một chút nước chè vẩy vào mắt Thiềm Thừ – đây còn gọi là “khai quang điểm nhãn”. 7. Khai quang hoàn tất.

Thiềm Thừ khi “thỉnh” về cũng cần làm thủ tục “khai quang điểm nhãn” tương tự như Tỳ Hưu, tuy nhiên vẫn có chút khác biệt.

Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ nên có mình gia chủ. Thiềm Thừ sau khi được khai quang, nhìn thấy ai đầu tiên sẽ mãi mãi “phù hộ” cho người đó. Vì thế, có người dùng rất tốt nhưng đem tặng cho người khác thì lại không linh là vì lí do này.

Có ý kiến cho rằng nên chưng Thiềm Thừ trong phòng khách, buổi sáng nên quay đầu Thiềm Thừ ra phía cửa, buổi tối thì quay ngược đầu cóc vào nhà. Điều này hàm ý “đớp” tiền ở ngoài rồi “nhả” vào nhà mình.
  Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

1, Chon một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ.

2, Lấy nửa thùng nước giếng, lấy tiếp nửa thùng nước mưa.

3, Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó phải sạch sẽ.

4, Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm.

5, Sau khi lấy ra dùng khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ.

6, Lấy một chút nước CHÈ vẩy vào mắt Thiềm Thừ – đây còn gọi là khai quang điểm nhãn.

7, Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ có mình ở đó, Thiềm Thừ sau khi khai quang người đầu tiên nó nhìn thấy là bạn sẽ mãi mãi “phù hộ“ bạn. (Vì thế có lúc người khác dùng rất tốt nhưng tặng bạn lại không linh là vì lí do này!).

Nguồn: SaiMonThiDan.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Truyền Thuyết Cóc Ba Chân

Người tuổi nào sẵn sàng hy sinh vì bạn bè

Người tuổi Dần, Tuất, Thìn đôi khi còn coi trọng bạn bè hơn tình yêu. Do vậy, với họ, lệnh của người yêu chưa chắc đã to bằng nhu cầu cần giúp đỡ của bạn bè.
Người tuổi nào sẵn sàng hy sinh vì bạn bè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Dần

Dan-6873-1414603130.jpg

Ít khi con giáp này chịu thua thiệt với người khác, nhưng nếu vì bạn bè thân thiết thì khả năng đó có thể xảy ra. Chỉ cần nhắc tới hai chữ “bạn bè”, người tuổi Dần sẽ thể hiện ngay nghĩa khí và sự nhiệt tình gần như vô điều kiện. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân mà không chờ ngày được báo đáp.

No2: Tuổi Tuất

Người tuổi Tuất không giỏi trong việc biểu đạt suy nghĩ của mình. Do đó, họ chọn cách hành động hơn là nói nhiều. Tuy nhiên, vẻ ngoài trầm tư và có vẻ như bí ẩn của họ khiến không ít người tỏ vẻ e ngại khi kết giao hoặc cho rằng họ chỉ biết nghĩ tới bản thân.

Trên thực tế, chỉ cần bạn bè nhờ giúp đỡ, con giáp này sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu mà không toan tính thiệt hơn. Nếu không tin, hãy kết thân với người tuổi Tuất thử coi, bạn sẽ cảm nhận điều đó rõ hơn bất kỳ ai.

No3: Tuổi Thìn

Thin-9578-1414603130.jpg

Để giữ hình tượng oai nghiêm và chuẩn về đạo đức của mình, đôi khi người tuổi Thìn tỏ ra nghiêm túc đến khó chịu. Nếu chưa hiểu rõ bản tính của họ, nhiều người sẽ cho rằng con giáp này vô tình, không biết chia sẻ.

Thực tế lại trái ngược. Họ vô cùng tôn trọng tình bạn, thậm chí còn coi trọng hơn tình yêu. Họ có thể hy sinh tình yêu để giữ được tình bạn trong sáng và tràn đầy sự cảm thông.

No4: Tuổi Ngọ

Những hành động của người tuổi Ngọ có phần hơi cứng nhắc nhưng họ lại vô cùng chân thành với tình bạn. Xét về mức độ nghe lời, con giáp này xứng đáng là bạn tốt nhất vì đôi khi "mệnh lệnh" của người yêu chưa "to" bằng nhu cầu của bạn bè.

Bởi vậy, họ thường bị đối phương trách móc là quá quan tâm tới bạn bè mà bỏ bê vun vén tình cảm lứa đôi. Nếu thực sự yêu người tuổi Ngọ, bạn nên học cách thông cảm và tạo điều kiện để họ thể hiện dũng khí và sự chân thành với chiến hữu.

No5: Tuổi Mùi

Mui-4264-1414603130.jpg

Dù có chút rụt rè, hay xấu hổ nhưng khi nói tới việc giúp đỡ bạn bè, người tuổi Mùi sẽ lấy hết dũng khí và nỗ lực để giúp đỡ họ. Điều đặc biệt nữa ở con giáp này là sẵn sàng "nhường bát cơm manh áo" cho bạn bè mặc dù "bụng đang đói cồn cào. Họ có thể hy sinh tất cả vì tình bạn tốt đẹp của mình.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi nào sẵn sàng hy sinh vì bạn bè

Trai mùng một gái hôm rằm là tốt hay xấu?

Thực hư trai mùng một gái hôm rằm là tốt hay xấu như thế nào? Hãy cùng ## tìm hiểu rõ vấn đề này nhé.
Trai mùng một gái hôm rằm là tốt hay xấu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Theo quan niệm dân gian, những bé trai sinh ngày mùng một, bé gái sinh ngày rằm thường khó nuôi, khó dạy vì tính khí bướng bỉnh khác thường. Vậy điều này thực hư thế nào?


► Tham khảo thêm: Đặt tên con theo phong thủy để có vận mệnh tốt đẹp
  1. “Trai mùng một, gái hôm rằm” là tốt hay xấu   Dân gian có câu “Trai mùng một gái hôm rằm, nuôi thì nuôi vậy chứ căm dạ này”, ý chỉ những đứa trẻ sinh vào hai ngày này trong tháng khó nuôi, khó dạy, tính cách ngang bướng, vận thế, cuộc sống cũng nhiều thăng trầm.   Xét theo khía cạnh ngũ hành, những đứa trẻ sinh vào ngày mùng một âm lịch, nhất là vào buổi sáng, trong tháng vận khí ngũ hành bản mệnh vượng (ví dụ người mệnh Hỏa, Hỏa khí vượng vào tháng 4, 5, 6), Thiên can, Địa chi của ngày và giờ sinh đều vượng, tốt cho bản mệnh nhưng lại không có lợi cho sự phát triển cân bằng xã hội.  
trai mung mot gai hom ram hinh anh
 
Mùng một là ngày đầu tháng, dương khí cực thịnh (ý chỉ mặt trời chiếu sáng mạnh nhất), con trai lại vốn thuộc dương, sinh ngày này thì tính cách cực thịnh về dương.    Còn ngày rằm (ngày 15 âm lịch) có âm khí cực thịnh (vì mặt trăng tròn nhất), con gái lại thuộc âm, sinh ngày này tính cách cực thịnh về âm.    Về mặt phong thủy, âm dương cân bằng luôn là yếu tố tiên quyết để mang tới vận khí tốt. Vì thế, dù là âm hay dương, khi đã ở mức cực thịnh đều là điều bất thường. Những đứa trẻ sinh ra vào hai ngày này sẽ có biến đổi sinh học đặc biệt hơn người khác, tạo ra tính khí mạnh mẽ, khó dạy bảo, cuộc sống sau này vì thế mà nhiều thăng trầm, khó khăn.

Chọn năm sinh con theo ngũ hành Nhìn tướng mẹ là biết sinh con trai hay con gái Tục kiêng kỵ sinh con “Trai mồng một, gái ngày rằm”
  2.  “Gái mùng một, trai hôm rằm” thì sao?   Theo quan niệm dân gian, mặt trăng biểu trưng cho âm khí, tương đồng với âm tính (con gái), còn mặt trời biểu trưng cho dương khí, tương đồng với dương tính (con trai). Ngày rằm trăng sáng nhất, đẹp nhất thì âm khí cũng vượng nhất.Con gái sinh vào đêm đó được hội tụ cao nhất những đặc tính này, và một phần được chuyển hóa vào trong tính cách…   Ngược lại, ngày mùng một trăng mờ nhất (thậm chí không nhìn thấy), dương khí sẽ thịnh nhất. Con trai sinh vào đêm đó sẽ hội tụ những đặc tính mạnh mẽ của dương khí vào tính cách.   
trai mung mot gai hom ram hinh anh 2
 
Vì thế, không chỉ trai mùng một gái hôm rằm mới khó nuôi, khó dạy, mà tất cả những đứa trẻ sinh vào hai ngày này đều có tính khí rất khác biệt, khác người, đương nhiên có những nét hoặc tích cực hoặc tiêu cực chứ không hoàn toàn thiên về một bên nào.   “Gái mùng một”: Bé gái sinh vào ngày mùng một, nếu sinh vào tháng, ngày và giờ vượng thì tính cách ngang ngược, mạnh mẽ, bướng bỉnh, hệt như con trai chứ không hề nữ tính, sau khi kết hôn gây bất lợi cho chồng. Vận mệnh của người này không cát lợi, hậu vận cô độc, gia đình không hoàn mĩ, mắc bệnh tật.    “Trai hôm rằm”: Con trai sinh vào ngày rằm cũng không gặp nhiều may mắn trong cuộc đời, sinh vào lúc nửa đêm thì khá hơn đôi chút, trung vận tốt đẹp. Người này tính tình nhu nhược, thiếu quyết đoán, bị động. Ngày rằm là thời điểm mặt trăng tròn nhất, âm khí cực vượng, mà nam giới là dương khí, âm dương tranh đấu, vận khí ắt đi xuống. 
Ngọc Diệp Sinh con trai con gái như ý muốn theo phương pháp Thanh Cung
Hôm nay ## sẽ giới thiệu cho các bạn phương pháp sinh con trai con gái chuẩn nhất dựa theo khoa học tử vi Trung Quốc. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trai mùng một gái hôm rằm là tốt hay xấu?

Chùa Thiền Lâm - Huế

Chùa Thiền Lâm do ngài Hộ Nhẫn lập ra năm 1960. Lúc đầu nơi đây chỉ là cốc đá đơn sơ, nhờ đức độ tu hành của Ngài khiến một số đông Phật tử
Chùa Thiền Lâm - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Thiền Lâm còn có tên gọi khác là chùa Phật đứng – Phật nằm. Chùa thuộc hệ phái Theravada – Nam tông. Chùa Thiền Lâm tọa lạc ở trên đồi Quảng Tế, ấp Cư Sĩ, xã Thuỷ Xuân, Huế.

Chùa Thiền Lâm do ngài Hộ Nhẫn lập ra năm 1960. Lúc đầu nơi đây chỉ là cốc đá đơn sơ, nhờ đức độ tu hành của Ngài khiến một số đông Phật tử khởi tín tâm cúng dường để lập nên chùa Thiền Lâm năm 1966.

Ðến chùa Thiền Lâm, trước khi vào khuôn viên chùa, tại ngã ba dưới chân đồi Quảng Tế sẽ trông thấy một pho tượng “Thế Tôn khất thực” cao khoảng 8 mét, rất uy nghiêm và từ ái. Bảo tượng này gợi nhớ lại hình bóng Thế Tôn cách đây hơn 25 thế kỷ – một đời Thế Tôn trì bình khất thực để nuôi mạng và hoá độ chúng sinh.

Trên đường vào khuôn viên chùa là bảo tượng Thế Tôn Niết Bàn nằm ở phía bên trái. Bảo tượng này được tôn trí trên nền đàn bê tông ba cấp, dài khoảng hơn 7 mét, ẩn hiện giữa rừng thông và dương liễu. Dáng nằm và gương mặt của bảo tượng thể hiện được vẻ an lạc giải thoát của Ðức Thế Tôn. Chính từ hai tôn tượng này mà đồng bào Phật tử và cư dân ở Huế gọi chùa Thiền Lâm là “chùa Phật đứng – Phật nằm”.

Vào trước khuôn viên chùa, ngay dưới chân đồi, phía bên trái, là bảo tượng Ðức Phật toạ thiền, quay mặt về hướng Ðông. Tượng và toà sen cao 5,2 mét, tôn trí trên bảo đài 3 tầng cao 9 mét.

Vào đến chùa, tận cùng khuôn viên ở bên trái là ngôi bảo tháp màu trắng cao vút, uy nghi mà thanh thoát giữa nền trời. Bảo tháp có 2 phần: Tầng dưới là chánh điện, tầng trên tôn trí Xá lợi Phật Thích Ca và chư Thánh Tăng. Bố cục tháp phía dưới hình tròn cắt cạnh trước và sau. Phần sau nối thêm hậu điện để thờ Phật và chỗ chư Tăng hành lễ. Phía trên tháp có dáng hình chuông úp với đỉnh nhọn, được trang trí bằng một số phù điêu, hoa văn giản dị. Dáng dấp bảo tháp được mô phỏng theo kiểu chùa Sirimagalà ở Myanmar – nơi Hoà thượng Hộ Nhẫn thọ đại giới nhưng đơn giản hơn nhiều.

Tháp cao khoảng 15m. Trong nội điện, tầng dưới tôn thờ tượng Ðức Phật Thích Ca cao 1,6m trên bảo toạ cao hơn 2m. Chung quanh tường chánh điện trưng bày một số tranh vẽ về cuộc đời Ðức Phật Thích Ca và một số chuyện tiền thân. Một đại hồng chung nặng cỡ 7 tạ dặt ở tay trái. Cách bảo tháp khoảng 10m về hướng đông là cổng tam quan không mái có biển đắp nổi dòng chữ: SAMÀDHIVARAVIHÀRA và tên chùa bằng tiếng Việt: Thiền Lâm tự.

Sau lưng chánh điện là thiền thất của Hoà thượng và phòng khách (nay làm nơi thờ phụng y bát, di ảnh Hoà thượng). Tiếp đó là một dãy Tăng xá nhỏ được xây cất, chắp nối thêm từ năm 1965 – 1994. Một dãy Tăng xá mơiỳ được xây dựng vào năm 1998 – 1999 nằm về hướng Tây. Trai đường và cũng là linh đường nằm giáp góc của hai dãy Tăng xá.

tượng niết bàn
Đức Phật nhập Niết Bàn

Sau khi Hoà thượng Hộ Nhẫn viên tịch, người đứng ra đảm nhiệm công việc giám tự hiện nay và trụ trì tương lai là Thượng tọa Hộ Tịnh. Ngôi Tam Bảo này mới chỉ có một đời trụ trì là Hoà thượng Hộ Nhẫn.

Với vị trí địa lý tự nhiên thuận lợi phong cảnh u tịch, thoáng mát, nhiều cây cao bóng cả, môi trường sinh thái rất tốt chùa Thiền Lâm là điểm thu hút khách thập phương và Phật tử các giới. Ở đây, không khí trong lành, tĩnh lặng rất phù hợp cho những bậc chân tu dừng chân để hành đạo và xiển dương Giáo pháp. Du khách đến đây tham quan, viếng chùa lễ Phật được hưởng không khí an lành, có thể quên đi những tháng ngày mệt nhọc và phiền não.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Thiền Lâm - Huế

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd