Nằm mơ thấy gián là điềm gì? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nếu Liêm Trinh có Đào Hoa Hóa Khoa kèm bên thì phần cảm tình nặng. Nếu Liêm Trinh gặp Hỏa Linh Phụ Bật đồng hội, độ phần lý trí nặng hơn.
Liêm Trinh Hóa Lộc mà phần cảm tình nặng, vấn đề tích tụ tài sản khó hơn. Liêm Lộc mà phần lý trí nặng thì con người duy lợi với nhiều thủ đoạn kiếm tiền.
Như vậy, Liêm Lộc hợp với các cung Mạng Tài Quan. Đóng vào cung Phúc thành ra ý hướng chỉ ham hưởng thụ, phá của hơn làm ra của.
Trường hợp Liêm Lộc đứng thế hãm mà gặp các sao Sát Hỏa Linh Không Kiếp lại khiến cho vì tiền bạc ma hệ lụy, tỉ dụ có bạn phản, đam mê cờ bạc hút sái, sắc tình để bị phá sản.
Liêm Lộc lạc hãm đóng cung Tật ách. Liêm Trinh chủ phế bệnh và thận bệnh. Khi tâm thần bất giao còn gây ra thần kinh bệnh.
Liêm Lộc vào cung Phụ mẫi không nhất định là cha mẹ giàu có mà nhất định quan hệ tình cảm với bố mẹ đầy đặn.
Liêm Lộc đóng phối cung thì Phu Thê đắc lực cùng nhau gây cơ nghiệp. Liêm Lộc vào cung Bào hay Cung Nô thì anh em hay bạn bè đắc lực nếu không ở thế hãm.
Liêm Lộc phải nhất diện đảo, không nên đứng với vừa cát tinh vừa hung tinh gây thành tình trạng xung đột giữa cảm tình với lý trí cung cách xử thế vì vậy mà lắm khuyết điểm.
Liêm Lộc không nên hội xung với Vũ Khúc Hóa Kị (Tỉ dụ nguyên cục Vũ Kị gặp đại hạn Liêm Lộc) gây ra hao tài tốn của vì tình cảm hoặc vì tranh chấp tiền bạc mà mất cảm tình.
Trái lại Liêm Lộc sẽ tốt hơn nếu gặp Tham Lang Hỏa Tinh, làm cho Tham Hỏa bạo phát. Nhưng phải coi chừng Không Kiếp vì có cả Không Kiếp tất bạo phát với bạo bại đi đôi. Bạo phát do may mắn rồi bạo bại lại do rủi ro. Trí tuệ và tài năng không tham dự bao nhiêu.
Liêm Trinh Hóa Lộc hay hơn hết là thất Lộc Mã giao trì. Nguyên cục Liêm Lộc tới vận giao trì Lộc Mã dễ làm giàu, với điều kiện không bị Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp nhảy vô phá.
Hóa Lộc – Thiên Cơ
Thiên Cơ là sao mang tính phù động, dù gặp Hóa Lộc, tính chất động ấy vẫn nguyên vẹn. Lộc là sao tiền bạc, mà tiền bạc cần chuyển động luân lưu, cho nên Cơ gặp Lộc kể làm tốt.
Có Lộc đóng Mệnh hay Tài Bạch cho người Thiên cơ khả năng kinh thương cao. Ở thời đại này, Cơ Lộc khả dĩ phục vụ cho những việc liên hệ đến kinh doanh tài chánh, với bổng lộc cao không nhất thiết phải chính mình đứng chủ kinh doanh.
Điểm chú ý: Cơ Lộc không phải là số cự phú, không thể tuyệt đối độc lập, cần dựa vào thế lực hậu trường, đầu cơ thế lực, nghe ngóng cơ hội.
Thiên Cơ bản sắc biến động, bởi vậy có những trường hợp Cơ Lộc nói lên một sự thay đổi mới, nhờ cơ hội mới mà phấn phát hơn.
Cơ Lộc gặp Tả Phụ thường đuợc kiêm chức. Lại thêm Quyền Khoa thì chức vụ mở đường cho sự hanh thông trong tương lai.
Thiên Cơ Hóa Lộc tối kị gặp Hỏa Linh, Hỏa Linh tất làm tăng tính phù động của Thiên Cơ, nhờ Hóa Lộc sở dĩ phấn phát nhưng rất mau tiến vào thất bại.
Cơ Lộc bị Không Kiếp cũng thế, càng trèo cao càng ngã đau. Mở ra năm bảy tiệm đùng một cái vỡ nợ vì thiếu hoặc vì căng ra quá mà đứt vỡ.
Cơ Lộc cùng gặp một lúc cả hung lẫn sát tinh vây bọc thì nên giữ thái độ “Bất cảm vi thiên hạ tiên” đứng xuống hàng hai để tránh xung sát đưa đến kết quả bất toàn.
Cơ Lộc mà Cơ đi cùng Thái Âm bén nhậy hơn trong công chuyện làm ăn. Cơ Lộc mà đi với Thiên Lương dễ gặt hái tín nhiệm khi vào kinh doanh. Cơ Lộc mà Cơ đứng với Cự Môn không bị hung sát tinh có thể làm giàu nhưng thường không bền.
Hóa Lộc – Thiên Đồng
Thiên Đồng là phúc tinh, ngụp lặn trong lãnh vực tinh thần. Đồng đứng với Hóa Lộc thường được dễ có cuộc sống thoải mái với con người tri túc, Đồng Lộc đi với nhau không đưa đến phú quý. Cái tri túc giống như một con ngừơi đã trải trăm cay ngàn đắng. nay có cuộc sống đầy đủ bình ổn.
Bởi lẽ trên, Thiên Đồng Hóa Lộc phát muộn, tuổi về già mới an định hoặc phấn phát lên, còn tuổi trẻ gian lao vất vả thành bại vô thường.
Thiên Đồng Hóa Lộc bị Không Kiếp hay các sát diệu khácthì gian lao vất vả hơn lúc già sự an định hay phấn phát chỉ tương đối.
Vì Thiên Đồng chủ về tình tự, nên hay gặp cái vui đột nhiên tỉ dụ đánh canh bạc được kha khá, mua sổ số trúng vừa vừa.
Đồng Lộc được thêm Lộc Tồn xung chiếu hay tam hợp thì tài khí vượng hẳn, đột nhiên biến đổi từ nghịch sang thuận. Có cả Tả Hữu Khôi Việt nữa càng hay, cơ hội trợ lực càng nhiều và phấn phát không nhỏ.
Đồng Lộc tối kị đồng cư với Không Kiếp, cũng đột biến nhưng mà thuận sang nghịch, dễ dàng vỡ nợ. Trường hợp vừa có Tả Hữu Khôi Việt lại vừa có cả Không Kiếp thì sao? Tả Hữu Khôi Việt không thể địch lại Không Kiếp.
Thiên Đồng Hóa Lộc cũng đừng nên hội với Đào Hoa, nhất là còn thấy thêm cả Xương Khúc nữa thì phiền, sớm muộn gì rồi cũng thành phong lưu đãng tử. Không thiếu tiền, nhưng tiền bao nhiêu rơi vào đĩ bợm hết. Nói khác đi, đây là số công tử con nhà giàu hoặc là ngừơi làm cái nghề “ăn chơi”. Có số này nên mở quán rượu nhà nhảy, nhà tắm hơi hợp cách. Có điều là không bao giờ giữ được của.
Thiên Đồng Hóa Lộc Đào Hoa Xương Khúc vào cung tật ách, trai gái dễ mắc bệnh phong tình. Thiên Đồng Hóa Lộc đóng thê cung trước đắm thắm, sau nhạt tình.
Hóa Lộc – Thái Âm
Thái Âm là tài tinh, Hóa Lộc chủ về điền tài. Như vậy, Âm Lộc kể là đồng khí. Hóa Lộc tăng cường lực lượng cho Thái Âm với điều kiện Thái Âm phải đứng ở miếu địa. Hóa Lộc được Thái Âm miếu khiến cho thuận toại về tiền bạc mạnh hơn.
Nếu Thái Âm đứng thế hãm, thường chỉ mãn nguyện trên tinh thần chứ không trên thực chất nghĩa là phong lưu vui sướng mà không có nhiều tiền.
Hóa Lộc Thái Âm khác với Hóa Lộc Thiên Đồng ở điểm không bị đột biến rơi vào nghịch cảnh. Nói khác đi, Đồng Lộc thường gian truân hơn Âm Lộc.
Hóa Lộc Thái Âm lúc khá giả, tính trên con số thì không hơn thiên hạ nhưng tâm tình cung cách hưởng thụ hơn hẳn Đồng Lộc, ngay cả lối kiếm tiền cũng ung dung thanh thản hơn.
Thái Âm là sao tiền bạc, Vũ Khúc cũng vậy, nhưng Thái Âm chủ tĩnh - thiên về tiềm tàng kiếm tiền bằng kế hoạch cho nên không sôi nổi bôn ba như Vũ Khúc.
Khi Thái Âm đóng hãm cung, lại kèm bên sát diệu hoặc đứng với Không Kiếp thì dù có Hóa Lộc kế hoạch cũng thường bị hư, hoặc chỉ nói thôi mà chẳng làm vẽ rồng vẽ rắn, thực tế chỉ là số không, tính giỏi mà không xong.
Âm Lộc đương nhiên cung Phúc có Cự Môn Hóa Kị, bởi vậy Âm Lộc không bao giờ được đặt vào tình cảnh đột biến từ nghịch sang thuận để hoạnh tài (được bạc hay trúng số).
Cũng như Đồng Lộc, Âm Lộc không nên đứng với Đào Riêu Xương Khúc sẽ vì mê đắm sắc tình bê trễ làm ăn. Âm Lộc vào cung Tật đứng thế hãm hay mắc bệnh trên bộ phận tiêu hóa, tỳ vị và ruột.
Hóa Lộc – Tham Lang
Tham lang giỏi về giao tế thù ứng, thủ đoạn tròn chặn, đối với người thường sẳn sàng giúp đỡ những ân huệ nhỏ. Tham Lang không có tài lãnh đạo nhưng có tài qui tụ. Tham Lang đi với Hóa Lộc khả năng giao tế càng tốt hơn, nhất là giao tế để tìm ra cơ hội kiếm tiền.
Tham Lang Hóa Lộc có Đào Hoa Thiên Riêu, Đại Hoa Mộc Dục kèm bên, chuyển ra con người đam mê tửu sắc, khách quen của vũ trường, hoan trường, thường do rượu chè trai gái mà mắc thị phi.
Tham Lang Hóa Lộc đứng với Tả Hữu, bạn bè đông mà toàn bạn bè được việc. Nhưng Tham Lang Hóa Lộc đứng với Kiếp Sát, Thiên Hư, Tai Sát, Chỉ Bối, Âm Sát thì chỉ gặp toàn kẻ tiểu nhân phản bội, kéo bè kết đảng.
Tham Lang không Hóa Lộc gặp những sao trên, thị phi phản bội nhẹ hơn. Tham Lang được Hỏa Linh đồng cư hay xung chiếu gọi là Tham Hỏa, Tham Linh thêm Hóa Lộc thì hoạnh tài, tiền bạc vào tay bất ngờ và được mất đều mau chóng, Tham Hỏa hay Tham Linh rất sợ gặp Không Kiếp phải đề phòng đột nhiên phá bại, phú quý chỉ như đoá hoa đàm mà thôi.
Bản chất Tham Lang ưa cạnh tranh (đánh bạc cũng là một tâm tính ưa cạnh tranh). Tham Lang Hóa Lộc vào cạnh tranh dễ có lợi. Thêm sát tinh thì cạnh tranh gian khổ hơn. Công việc sắp thành gặp đột biến phải gắng công một lần nữa rồi mới được như ý nguyện. Sát thì Đà la mạnh nhất rồi đến Kình Không Kiếp.
Tham Lộc đứng với sát tinh đang thắng chuyển thành bại, nhưng mặt khác lại đang bại chuyển thắng. Bởi vậy ở tình trạng thất cơ lỡ vận nên liều, đã ăn nên làm ra rồi thì hết sức thận trọng.
Tham Lộc ở Mệnh, Tài đẹp hơn ở Quan lộc, vào Quan lộc chức nghiệp thăng giáng luôn.
Tham Lộc đóng cung Phu/Thê không mấy hay, nếu gặp cả Đào Hoa Xưong Khúc ở đấy thì người phối ngẫu không trung trinh. Nhưng lại thấy cả sao Thiên Hình hay Tuần Triệt thì phải đoán là người phối ngẫu ở trong giới nghệ sỹ, hoặc có công việc dính líu đến hoan trường chứ không nhất định là bất trung bất trinh.
Tham Lộc đóng vào Tật ách về gia hay suy kiệt, số nữ thường mắc bạch đới đường kinh lộn xộn.
Hóa Lộc – Vũ Khúc
Vũ là tài tinh, gặp tài tinh Hóa Lộc, xông xáo nhiệt tâm phấn đấu kết quả đắc tài. Đồng Lộc, Âm Lộc thường có may mắn thừa hưởng, riêng Vũ Lộc phải đổ mồ hôi của chính mình.
Vũ Khúc Hóa Lộc không bị Sát Kị Hình Hao lại có Tả Hữu Khôi Việt, Thai Tọa, Quang Quý thông qua chức quyền mà có tiền. Vũ Khúc gặp Sát Kị Hình Hao thì sự thành công trên tiền bạc phải kinh qua vất vả gian truân, nhất là đối với nữ mạng.
Tài tinh rất ngại Không Kiếp, Vũ Lộc cũng thế. Vũ Lộc bị Không Kiếp đồng hội, quá trình làm ăn tiền bạc bất ngờ hao tán làm mất luôn thăng bằng dự đoán của mình, gặp Văn Khúc Hóa Kị cũng vậy.
Câu phú:
Văn Khúc Vũ Khúc rất hay
Gặp Khoa Quyền Lộc là tay anh tài.
Câu này có lẽ là Văn Xương chứ không phải Văn Khúc, Vì Vũ Khúc không hợp với Văn Khúc, nhất là Văn Khúc đi cùng Hóa Kị.
Vũ Khúc gặp Văn Khúc biến Vũ khúc thành hư phù hữu danh vô thực có chức danh nhưng không quyền hành, có tiền lương cao, lộc to lời lớn nhưng không bền lâu. Với Văn Xương thì không vậy.
Vũ Khúc không sợ Hỏa Linh Dương Đà, trái lại những sao này còn trợ lực cho ý chí phấn đấu của Vũ Khúc, tất nhiên phải gặp nghịch cảnh, gặp khó khăn thì mới cần trợ lực, nhưng kết quả là thành, chỉ mất nhiều công sức thôi, không bị phá hao như Văn Khúc Hóa Kị gây ra.
Vũ Khúc Hóa Lộc Tham Lang đứng chung tuy không được Hỏa Linh vẫn phát đạt (như đã nói ở chương trên). Trường hợp gặp Hỏa Linh thì bạo phát, bạo bại khi đối đầu Sát Kị Hình Hao kể cả gặp trên vận hạn.
Vũ Lộc đóng cung Tật làm giảm đi những hung hiểm của bệnh tật. Vũ Lộc đóng cung Phối, nhất là Vũ Tham đưa đến tình trạng vợ chồng đột nhiên sinh biến, nếu thấy luôn những tinh diệu đào hoa ắt hẳn có kẻ thứ ba xâm nhập.
Hóa Lộc – Thái Dương
Thái Dương chủ quý không chủ phú, nên dù gặp Hóa Lộc thì tiền bạc không đến từ cuộc phấn đấu kinh doanh mà đến từ địa vị xã hội như người xưa nói “Tiền quí hậu phú !”.
Tính chất của Thái Dương là phát tán tựa ánh dương quang chiếu tỏa chứ không thâu liễm góp nhặt. Hóa Lộc đứng bên càng khiến cho phát tán tăng cường.
Thái Dương Hóa Lộc cùng một lúc phải được cả Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc thì mớ toàn hảo, cục diện mới lớn lao. Chỉ độc Thái Dương Hóa Lộc thôi dễ bị ganh ghét đố kị, để trở thành cô lập tứ diện thọ địch khó bề phát triển mạnh.
Trường hợp Thái Dương Hóa Lộc gặp Không Kiếp thì tình trạng cô lập lại trở nên tuyệt đối lại phát sinh ý đồ lỗi lạc vượt hẳn thiên hạ trong tình cảnh nhiễu nhương tao loạn, nhất là Thái Dương hãm địa (Hợi, Tuất) với điều kiện không gặp sao Hóa Kị.
Vì tính chất Thái Dương phát tán nếu đứng vào cung làm cho sự phát tán rực rỡ quá, tỉ dụ Tị hay Ngọ, địa vị rõ ràng khiến người chói mắt mà sinh bực bội ngứa mắt. Cách “Nhật lệ trung thiên hữu chuyên quyền chi quí “ mang khuyết điểm này, đôi khi rực rỡ bên ngoài quá mức lại chỉ là hữu danh vô thực.
Mặt trời ban mai, mặt trời hoàng hôn quang huy phát tán không quá mạnh khiến con mắt người đời thoải mái hơn mà không bị đố kị cô lập, quyền chức vẫn cao, tiền vẫn đến chẳng ai hay. Trường hợp này Thái Dương không cấp thiết cần Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt nữa.
Thái Dương Hợi Tuất là Thái Dương phản mục, thất huy nhưng vẫn có trong nó ánh sáng tiềm ẩn khả dĩ âm thầm xây dựng quyền lực địa vị bằng tựa vào địa vị nói nôm na là số cận quý để gây cơ dựng nghiệp.
Chuyên quyền chi quí của cách Nhật lệ trung thiên đưa đến kết quả chức lớn quyền trọng rút cục không tiền. Thái dương Hóa lộc vào cung tật ách nếu ở Tị Ngọ Thìn hay bị chứng nhức đầu.
Hóa lộc – Cự Môn
Cự Môn là ám diệu, nếu hung thành lao lực, cát thành lao tâm. Có Hóa Lộc đứng bên, tính chất ám diệu không thay đổi.
Bởi thế Cự Môn - Hóa lộc phải cần Tả Hữu Khôi Việt để mà giảm bớt gian lao. Xương khúc chỉ làm tăng tài trí chứ không làm giảm bớt gian lao.
Cách Ngọc ẩn trong đá càng rất cần Hóa lộc để làm giàu. Cự môn Hóa lộc khi thành công phải khiêm tốn thì mới bớt tai họa do người đời ganh ghét mà đánh phá.
Cự Lộc hội được với Thái dương Hóa quyền ví như gấm thêm hoa, làm ăn với người nước ngoài thành công. Đời nay giao thương quốc tế phồn thịnh nên số Cự Lộc Dương Hóa quyền rất hợp thời.
Cự Lộc mang một nhược điểm: hay bị suy hao do thiếu lỳ lợm gan góc trong chuyện làm ăn. Tỉ dụ: mua cổ phiếu chưa cao giá lắm đã bán, bán xong giá lên mạnh lại hốc hận mua vào lúc giá cao, mua rồi giá lại xuống dốc.
Cự Lộc có một sở trường: “Khẩu thiệt sinh tài” ăn nói ra tiền giỏi thương thuyết. Nhưng nếu Cự Lộc mà gặp Văn Xương Hóa Kị lại thành phản cách, tính tình bất lương và dễ bị phá bại, không thể kinh doanh và cẩu thả trong giao tế.
Cự Lộc nhất là Cự Nhật Lộc ở miếu vượng vào các cung Phụ, Bào, Tử tức rất hợp, đưa đến sự thân ái với lục thân, đồng thời được trợ lực của họ, có thêm 3 sao Đức hay Tả Hữu càng hay; trường hợp bị Sát Kị, cái tốt của Cự Lộc giảm hẳn.
Cự Lộc vào cung tật ách thường gây khó cho cơ quan hô hấp, phổi hay khí quản, bị bệnh thận hay bệnh dạ dày thì không nặng.
Hóa lộc – Thiên lương
Thiên lương hóa khí là “ ấm ”, ấm có nghĩa là được bóng che của phúc đức. ấm đặt trên hai nghĩa:
Phúc ấm cha mẹ
Che chở của quý quyền.
Thiên lương có Hóa Lộc thường là phúc ấm của mẹ cha không phải che chở quyền quý. Bởi vậy Lương Lộc lợi nhất là nên theo đuổi tổ nghiệp hoặc làm cho cơ sở kinh doanh đã có tiếng tăm.
Lương lộc không bao giờ tự mình sáng cơ lập nghiệp, chỉ nên rào cây táo, ăn trái táo và hưởng bóng mát của cây táo.
Ý nghĩa của ấm là nương vào thế lực, phục vụ xã hội để có địa vị danh dự rồi tài lộc do đó mà nên. Các cung Mệnh Tài Quan xuất hiện Lương Lộc vào ngành hành chánh xí nghiệp hay chính phủ khả dĩ có một địa vị cao. Ý nghĩa “ấm” là phục vụ để đến địa vị rồi tài lộc từ đấy mà tới.
Thiên lương Hóa Lộc không nên xoay sở về mặt tài lợi sẽ gặp phiền, chỉ nên hưởng bổng lộc do phục vụ xã hội, cơ quan thôi.
Thái độ tròn trịa ôn hòa là thái độ của Lương Lộc. Trường hợp Thiên lương Hóa lộc đóng cung Thiên di mà gặp Thiên mã lại khác, đó là số buôn bán với nước ngoài, có thêm Lộc tồn thì làm giàu.
Các cung về lục thân như cung Bào, Phụ, Tử tức, Phu thê, Nô bộc không nên thấy Thiên lương Hóa lộc vì sẽ đưa đến phân tranh tiền bạc, càng gay gắt hơn nếu có cả Thiên hình.
Lương Lộc đóng Tật ách thì bị trọng bệnh rồi được giải cứu nhưng hao tán tiền của.
Hóa Lộc – Phá Quân
Phá Quân, sao của biến hóa đột ngột. Phá quân đứng một mình vấn đề biến hóa không đáng ngại. Phá quân đứng cùng Hóa lộc bất cứ biến hóa nào cũng bắt đầu từ tình trạng bị đẩy vào thế bí, rồi vượt qua mọi nỗi khó khăn để mà bước sang một cảnh ngộ tốt đẹp hơn.
Phá quân Hóa lộc thấy luôn cả Không Kiếp sự biến đổi còn gian nan hơn nhưng cuối cùng cũng đạt thành quả.
Phá quân đứng với Hóa Lộc tại mệnh hoặc gặp Hóa lộc theo thế tam hợp khi làm ăn hãy hợp tác với những người khác thì có thể giảm trừ được biến hóa. Bởi vậy Phá quân Hóa lộc có Tả Hữu sẽ hay đẹp hơn.
Phá quân Hóa Lộc cũng cần phối hợp với Nô cung và Bào cung để đoán định sự hơn kém của thành công. Lý do: Trợ lực từ những người cộng tác vững mạnh ắt kết quả sáng sủa hoặc ngược lại.
Phá quân Hóa lộc cần làm nhiều công việc khác nhau cùng một lúc hoặc kiêm nhiệm chức vụ hay hơn là ôm lấy một nghề, một việc, một chức.
Phá quân vào số nữ vì những lý do trên không tốt bằng vào mệnh nam. Lộc Phá của người nữ thường vất vả bôn ba.
Trường hợp Phá Lộc đóng cung bào huynh phải luận đoán theo hai ý nghĩa tương phản:
Hợp tác với người để kiếm tiền
Đồng thời từ hợp tác ấy mình phải chịu một sự khống chế nào đó.
Trường hợp Phá Lộc đóng vào Nô bộc cung, cổ nhân gọi đây là hiện tượng: “Ác nô khi chủ” thì phải cẩn thận vì dễ bị phản bội vì tiền bạc.
Trường hợp Phá Lộc đóng cung Tật ách thì phải đề phòng lúc vào đại vận ấy bị một chứng bệnh nguy hiểm đột nhiên xuất hiện.
Nguồn Tử Vi Phong bao màu đỏ Đây là món đồ phong thủy bắt nguồn từ Trung Quốc, được coi là mang lại nhiều may mắn, sức khỏe và tài lộc. Bạn có thể bao gói món quà của mình như một chiếc phong bao màu đỏ hoặc bỏ vài đồng tiền xu, vài viên tinh thể đá trong suốt vào phong bao đỏ làm quà. Khi bạn gửi đến mừng tân gia, khai trương nó mang tới sự thịnh vượng; nếu tặng cho người bệnh nó có nghĩa là một lời chúc mau chóng bình phục.
Vật phẩm đôi Các vật phẩm đôi là một trong những món quà phong thủy rất hữu hiệu để thu hút, tăng cường năng lượng của tình yêu và hôn nhân. Biểu tượng phong thủy này có năng lượng của sự hòa hợp hoàn hảo và sự cân bằng. Nó thường được đặt ở phía Tây Nam của ngôi nhà. Cốc đôi, đôi uyên ương bằng sứ, cặp kim đồng ngọc nữ,… là những món quà rất ý nghĩa cho các cặp đôi mới cưới.
Đồng xu may mắn Những đồng tiền xu Trung Quốc cổ hình tròn với một lỗ vuông ở trung tâm được làm bằng đồng hoặc đồng thau ẩn chứa trong nó nguồn năng lượng bảo hộ, may mắn, sức khỏe và tài lộc. Đồng xu may mắn được sử dụng phổ biến nhất trong phong thủy bằng cách cho tiền. 3 đồng tiền xu xâu bằng một sợi dây màu đỏ là món quà đặc biệt ý nghĩa nếu bạn muốn gửi tới người ấy sự bảo vệ và vận may tài chính.
Cây tiền
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Ngón cái thẳng mảnh mai
Những cô nàng có ngón cái dài, thường thông minh, suy nghĩ cẩn thận. Họ làm việc đâu vào đấy, có tinh thần trách nhiệm cao, không đừng đặt ra mục tiêu trong cuộc sống, không bao giờ hài lòng với thực tại. Những người này thường rất chú trọng sự nghiệp, nếu chọn buôn bán, họ sẽ thuận buồm xuôi gió, phất tài phất lộc trong thời gian ngắn.
![]() |
Ngón trỏ dài hơn ngón vô danh (ngón nhẫn)
Con gái có ngón trỏ dài hơn ngón vô danh, thường sở hữu vẻ ngoài đơn thuần, kỳ thực rất thông minh lanh lợi, suy nghĩ thực tế. Họ làm việc nhanh nhẹn, quả quyết, không lưỡng lự, tài năng hơn người nên chắc chắn sẽ có cuộc sống đầy đủ mỹ mãn.
Ngón út dài hơn ngón cái
Những cô nàng có ngón út dài hơn ngón cái, cả đời liên tiếp gặp vận may. Không chỉ vậy, tài lộc của họ cũng rất ổn, vận đào hoa tốt, được nhiều đối tượng khác giới theo đuổi. Sau khi kết hôn, họ thường được chồng yêu chiều, cưng nựng, cuộc sống đại cát đại lợi, không phải lo lắng gì cả.
Ngón giữa dài hẳn lên
Ngón giữa đại diện cho sự nghiệp. Con gái có ngón giữa dài, cả đời tài lộc không ngừng mở rộng. Hơn nữa họ tính cách hài hòa, dễ gần, làm việc chăm chỉ. Bất luận làm gì, đều có thể trở thành nhân vật quan trọng. Không những thế, họ còn có số vượng phu - lấy được chồng giàu, ngày càng sung sướng, hạnh phúc.
Anh Anh (theo Meiguoshenpo)
Xem thêm: Khi nào hạnh phúc gõ cửa trái tim bạn
Tiền bạc nằm ngay trước mắt bạn, chỉ là bạn có biết cách giành lấy chúng hay không mà thôi. Ai ai cũng đều ngưỡng mộ người có tiền và mong ước mình cũng trở nên giàu có như họ, nhưng không phải ai cũng biết cách kiếm tiền. Cơ hội đến với tất cả mọi người, nhưng không phải ai cũng biết cách nắm bắt. Những người thành công là người có tham vọng, có ý chí và có đầu óc tư duy sắc sảo hơn người. Họ nhanh nhạy trước thời cuộc, lanh lẹ nắm bắt thời cơ. Trong lúc những người khác còn đang e ngại và do dự thì họ đã mạnh dạn tiến lên, bất chấp tất cả để giành lấy mục tiêu đã định. Vậy bạn có biết rằng xem bói tử vi 12 con giáp, ai là người kiếm tiền giỏi nhất, vô địch thiên hạ hay không? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► ## giúp bạn tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Thời Bắc thuộc, Thanh Hóa được gọi là Cửu Chân, sau này gọi là Ái Châu. Đến thời nhà Lý, Ái Châu mới được đổi tên thành phủ Thanh Hoa, tên gọi này tồn tại đến triều Nguyễn. Do kiêng tên húy của bà Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên Thanh Hoa được đổi gọi là Thanh Hóa.
Thanh Hóa là tỉnh lỵ của tứ sơn: Bỉm Sơn - Nghi Sơn - Sầm Sơn - Lam Sơn. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú viết: “Thanh Hoa… các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Vẻ non sông tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường…”.

Từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng - nhà Nguyễn - vào năm 1945, nhiều dòng họ vua, chúa đều khởi nguồn, phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra. Đặc biệt, đất Thanh Hóa đã sinh ra hai vị hoàng đế - anh hùng dân tộc: Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đánh thắng quân xâm lược Tống vào cuối thế kỷ 10 và vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đánh thắng quân Minh vào đầu thế kỷ 15.
Thanh Hóa là nơi phát tích của 4 triều đại phong kiến: Tiền Lê, Hậu Lê, nhà Hồ, nhà Nguyễn và hai dòng chúa là Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Theo Thánh Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện: “Ngũ tinh cách tú triều nguyên/Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn/Thổ tinh kết huyệt trung ương/Ấy đất sinh thánh, sinh vương đời đời. Địa danh Lam Sơn thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) có hai nơi “tụ khí tàng phong”, nguyên khí hun đúc, đảm bảo đủ các tiêu chí trên. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “Đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định dời nhà đến ở đấy”.
Tổ nhà Lê dời về đất Lam Sơn chỉ 3 năm đã tạo sản nghiệp lớn. Họ Lê làm trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra Lê Lợi.
Cuốn sách đầu tiên đề cập đến ngôi đất phát dưới chân núi Lam Sơn chính là sách “Lam Sơn thực lục”. Sách ban đầu do Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sai soạn và tự viết lời tựa, trong đó có câu: “Trẫm gặp đời nhiều hoạn nạn, mở nước, dựng nền, càng thấy khó khăn! May mà Trời cho, dân theo, gây nên được công nghiệp, ấy thực là nhờ ở các bậc Tổ tông tích lũy mãi nhân đức, mà đi tới cả! Trẫm nghĩ về chuyện đó mãi bèn chép vào sách, gọi là Lam Sơn thực lục (Sách ghi chuyện thực núi Lam) cốt là để trọng nghĩa đầu gốc. Và cũng để kể rõ sự nghiệp gian nan của Trẫm, truyền bảo lại cho con cháu vậy”.
Theo sách "Lam Sơn thực lục”, nhà họ Lê còn được một nhân vật kỳ bí là nhà sư cho biết một huyệt đất phát vương ở động Chiêu Nghi, cũng thuộc vùng Lam Sơn. Lê Lợi sau đó đã quyết định đem di cốt của thân phụ mình chôn ở đó, nhờ vậy mà sau này mới phát tích, trở thành đế vương.
Long mạch đế vương ở Lam Sơn
“Lam Sơn thực lục” viết: “Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng: - Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn! Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng: - Sư già đã đi xa rồi.
Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ Lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thì thấy một cái thẻ tre, đề chữ, dịch nghĩa là: “Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới ... tiếc thay!”. Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng: - Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!
Nhà vua quỳ xuống thưa rằng: - Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho? Nhà sư nói: - Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.
Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy”.
Chuyện kể rằng mặc dù chôn di cốt vào ngôi đất phát đế vương ấy được Lê Lợi giữ bí mật nhưng giặc Minh vẫn biết được. Chúng đê hèn cho quân đến xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi đào lấy hài cốt linh xa cha của Lê Lợi mang về treo sau một chiếc thuyền đậu giữa dòng sông để dụ Lê Lợi ra hàng, hẹn rằng nếu đến quy thuận sẽ trọng thưởng và ban quan tước lớn.
Lê Lợi sai các thân thuộc của mình gồm 14 người đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc Minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt linh xa đem về cho chủ tướng, Lê Lợi bí mật đem chôn cất ở động Chiêu Nghi như cũ.
Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi. Tuy không liên tục, quyền bính có lúc bị ngắt quãng nhưng trước sau, xét về danh nghĩa nhà Hậu Lê là triều đại có nhiều đời vua nhất, truyền ngôi lâu dài nhất so với các triều đại trước và sau đó.
Bí ẩn vùng đất “Rồng không chân”
Các phù thủy phương Bắc nhận thấy hình thế đắc địa của vùng đất Thanh Hóa, lo sợ nơi đây sẽ xuất hiện những bậc đế vương làm thất bại tham vọng bá chủ của chúng nên đã trấn yểm, tìm mọi cách phá bỏ phong thủy xứ Thanh.
Dãy núi Đông Sơn - Hàm Rồng bắt nguồn từ làng Dương Xá men theo sông Mã uốn lượn thành 99 ngọn núi đất, núi đá nhấp nhô như một bức tường thành hình con rồng đồ sộ. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa hình đầu rồng nên gọi là Hàm Rồng (tên chữ Long Hạm). Ở đó có động Long Quang (mắt rồng). Thông ra phía sau động có một hang nhỏ là hang mắt Rồng. Trên vòm hang mắt Rồng có một lỗ ăn thông lên trên. Mỗi khi mưa, nước màu gạch cua chảy xuống, người xưa bảo đó là nước mắt rồng. Bên phải vòm hang có một mũi đá nhô ra gọi là đỉnh Long Tỵ (mũi rồng). Mạch đá ngoằn ngoèo chạy sát chân núi rồng rồi ăn ngầm xuống dòng sông Mã tới ngọn Châu Phong là bến Hàm Rồng.
Non nước Hàm Rồng dưới bàn tay xếp đặt của tạo hóa, đã tạo nên những hình thù kỳ dị, độc đáo và đa dạng, có người ví như một “Hạ Long trên bộ”. Từ đuôi Rồng đi lên, ngọn Ngũ Hoa Phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn Tả Ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng Đông. Ở sát cạnh ngọn con Mèo đang trong tư thế rình mồi, núi Cánh Tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm Ba Hiệu, rồi núi Con Cá, Con Phượng, núi Đồng Thông, núi con Voi...
Hàm Rồng được phát hiện như một cõi thần tiên từ lâu qua thư tịch cổ. Sách “Đại Nam nhất thống chí”của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi “A núi này cao và đẹp trông ra sông Định Minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”. Dưới các triều đại phong kiến, Hàm Rồng bao giờ cũng là vị trí trọng yếu của xứ Thanh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập.
Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất “chu tước bi khốc” (chim cất tiếng kêu sầu), hoặc đất “bạch hổ hàm thi” (con hổ đang ngậm xác chết trong miệng), hoặc “xương long vô túc”(rồng không có chân, rồng bị tật nguyền)… Truyền thuyết cho rằng khi cưỡi diều giấy bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Cao Biền nói rằng địa thế này là hung địa “xương long vô túc”, không phải rồng không chân mà là con rồng què chân, không phải đất cực quý rồi bỏ đi. Nhưng thực tế không phải vậy. Sau đó, Cao Biền đã âm thầm quay trở lại, mang theo hài cốt cha y để táng vào huyệt Hàm Rồng (mả táng hàm rồng) mong sau này có thể phát đế vương. Song dù nhiều lần Cao Biền cho mả cha vào, bộ xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận. Biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý nên y rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương rồi tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh rào rào làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán hết. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu.
Cuộc chiến phong thủy “độc nhất vô nhị”
Theo mật lệnh của vua Đường, Cao Biền sau khi xem, phát hiện và trấn yểm các kiểu đất kết, đất phát, long mạch của nước Nam đã viết “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” tấu lên nhà vua. Cao Biền trấn yểm Thanh Hóa vào thế kỷ IX thất bại. Hơn 500 năm khi giặc Minh xâm lược nước ta, một phong thủy sư nổi danh của Trung Quốc là Hoàng Phúc cũng sai người đục núi, lấp sông để hòng trấn yểm các huyệt mạch đế vương, hình thành một cuộc chiến phong thủy có một không hai trong lịch sử nước Việt.
Hoàng Phúc xuất thân Tiến sĩ, mang chức Thượng Thư, giữ việc Bố chính và Án Sát trong chiến dịch cai trị đồng hóa Việt Nam. Trong 20 năm thuộc nhà Minh (vào khoảng 1407-1427), Hoàng Phúc bắt khắp nơi lập đền miếu thờ bách thần, thổ thần, sơn thần, thần sông, thần gió... bên cạnh văn miếu. Lập Tăng cương ty và Đạo kỳ ty để truyền bá đạo Phật và Lão cùng với đạo Nho...
Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”.
Hoàng Phúc khi sang đất Việt đã mang theo cuốn “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” để làm bản đồ nghiên cứu địa hình, địa vật nước ta. Thời xưa, sách địa lý là một tài liệu quân sự quan trọng, ghi rõ hình thể sông, núi, đồi, gò, cao điểm, hạ lưu, mạch núi, thời tiết... nên Hoàng Phúc đã tới những tới những linh địa mà Cao Biền ghi nhận. Hoàng Phúc đã xem xét và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại nhưng y cũng đã thất bại.
Bình luận về việc này, sử thần Ngô Sĩ Liên viết trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không?”.
Việc phá hủy long mạch tốt, huyệt đất hay của các phù thủy phương Bắc cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi xứ Thanh vẫn đời đời sinh nhân tài hào kiệt.
Nhiều vị vua ở các triều đại phong kiến của Việt Nam và Trung Quốc sau khi chết vẫn thường để lại một số mộ giả, còn mộ thật được chôn ở một nơi khác, kín đáo và bí mật. Từ lâu khu Vĩnh Lăng ở Thanh Hóa được xem là nơi yên nghỉ của vua Lê Thái Tổ. Thế nhưng phát hiện khảo cổ học cho thấy nơi đó chỉ là mộ giả. Vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, một người nông dân đi vào khu rừng bạt ngàn cạnh Vĩnh Lăng đã vô tình tìm thấy một phiến đá phẳng. Lật hòn đá lên thấy có khắc dòng chữ “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt”, nghĩa là:“Hòn đá mốc ở phía Tây của Vĩnh Lăng”. Lần theo cột đá mốc phía Tây, các nhà khảo cổ đã tìm được cột mốc các phía Đông, Nam, Bắc của khu lăng mộ nhà vua. Điều đặc biệt là riêng khu cột mốc phía Tây, nơi đặt phiến đá “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt” đất có màu lạ, cây to không mọc được. Các nhà khảo cổ đã đào sâu xuống đất nơi đặt phiến đá. Thật bất ngờ, những nhát cuốc đã làm lộ ra một chiếc quách tam hợp. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu, các nhà khảo cổ học đã kết luận: Chiếc quách tam hợp tìm thấy chính là mộ thật của vua Lê Lợi. Lần giở lại lịch sử, mới hay, một học giả người Pháp sau khi bỏ nhiều thời gian và công sức, cuối cùng cũng đã tìm được mộ thật của vua Lê Lợi dưới phiến đá “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt”.
| ► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
![]() |
Mơ thấy người thân đã mất là giấc mơ thường gặp và cũng là giấc mơ rất được người xưa xem trọng. Y học Trung Quốc cho rằng, mơ thấy người chết là một biểu hiện cho biết nội tạng cơ thể có bệnh. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bệnh, bộ phận mắc bệnh và phương pháp chữa trị thì lại tùy thuộc vào những nhận thức khác nhau của các nhà y học cổ xưa.
Trần Tự Minh – chuyên gia trứ danh về phụ sản khoa đời Nam Tống (Trung Quốc) – cho rằng, mơ thấy người chết là biểu hiện của chứng “tỳ hàn”, thường đi kèm với các triệu chứng như hơi thở ngắn, đi lại bất tiện, nôn mửa chóng mặt, miệng lạnh, tâm trạng bi thương. Lý Đông Viên, một trong bốn thầy thuốc lớn đời Kim Nguyên (Trung Quốc) thì cho rằng, đêm tối mơ thấy người chết là nguyên nhân gây chứng can hỏa, người bệnh mắt mờ, tai lãng, dẫn đến mệt tim.
Trên thực tế, mơ thấy người chết có hai tình trạng: thứ nhất, bản thân có bệnh dẫn đến tâm trạng lo lắng, nên thường mơ thấy người đã chết; hai là trong gia đình có chuyện không vui, như mất người thân, tâm trạng không thoải mái, sẽ mơ thấy người chết. Đây là biểu hiện của can khí uất kết, triệu chứng bệnh là không thiết ăn uống, trầm ngâm ít nói, ưa thở dài, lo lắng về đêm. Và thứ ba, chính là điềm báo của giấc mơ gặp lại người thân.
Nhiều giấc mơ liên quan đến cái chết lại là điềm báo tốt hoặc mang ý cảnh báo cho bạn.
1. Nếu bạn mơ thấy mình trò chuyện với người thân đã khuất, đó là điềm báo bạn sẽ nhận được sự phù hộ của người đó, gặp nhiều may mắn.
2. Nếu mơ gặp lại và trò chuyện với người cha đã khuất, dự báo bạn cần cẩn thận với người mà mình tiếp xúc, đề phòng mất tiền hay tổn hại danh tiếng.
3. Nếu mơ gặp lại người mẹ đã khuất, tức là cảnh báo bạn đừng để bị bạn bè lôi kéo vào đường xấu hay tạo thói quen xấu.
4. Nếu mơ thấy người đã khuất cười nói vui vẻ như khi còn sống, dự báo một ảnh hưởng xấu sẽ tác động vào cuộc sống của bạn, nếu không có nghị lực, bạn sẽ gặp tổn thất.
5. Nếu mơ thấy trò chuyện với người thân, người đó yêu cầu bạn phải hứa hẹn, tức là cảnh báo bạn nếu không chịu nghe lời khuyên tốt của người khác thì sẽ gặp phải chuyện tồi tệ.
6. Nếu mơ thấy bạn đến tham dự đám tang của người thân, dự báo mọi chuyện sẽ thuận lợi, chuyện tốt liên tục xảy đến, ví dụ như lấy lại được đồ vật đã mất, mâu thuẫn với bạn bè được hóa giải...
7. Nếu mơ thấy chiếc xe tang đi vượt qua mình, dự báo tài vận có khởi sắc, giảm bớt việc mất tiền vô ích, không gặp phải tình cảnh rỗng túi.
8. Nếu mơ thấy cảnh hỏa táng, dự báo đường học hành sẽ thuận lợi, nếu biết chăm chỉ học tập thì thành tích sẽ tiến bộ nhanh chóng.
9. Nếu mơ thấy quan tài, tức là điềm báo sự phục sinh, tư tưởng hay linh hồn có sự thay đổi lớn lao, từ bỏ được thói quen xấu, rời xa môi trường cũ...

Đối với những người có nhân duyên, thường nằm mơ thấy người thân đã mất, dù họ không nói không làm gì hết, ta cũng phải tự hiểu rằng họ âm phần muốn gửi gắm cho bạn một nguyện vọng tha thiết, mong cầu này là tín hiệu các vong hồn muốn người sống quan tâm cầu nguyện cho họ và ông bà tổ tiên được siêu thoát. Cũng cần nhắc lại về nỗi thống khổ dai dẳng triền miên của vong hồn ở cõi ma như trong Kinh Kệ cũng diễn tả, là sự khổ đau không có bút mực nào tả xiết, cùng nỗi ân hận khôn nguôi vì không còn cơ hội làm người để chuộc lại tội lỗi và làm việc thiện lành. Họ chỉ còn một hy vọng mong manh là nương tựa vào sự tu dưỡng phước đức của con cháu, của người thân quen.
Tạp chí tâm linh huyền bí
Người mệnh Thổ hợp với các màu đỏ, vàng và các đồ dùng bằng gốm, sứ. Tìm hiểu đặc tính của thổ, chủ nhân mang mệnh này sẽ lựa chọn được những cách trang trí nhà mang tới tài lộc và cuộc sống thoải mái cho mình.
Trong phong thủy, màu sắc của Thổ là màu vàng. Đây là sắc màu của niềm vui và sự lạc quan. Màu vàng còn có các màu phái sinh khác như vàng nhạt, vàng cam, vàng nâu…
Theo nguyên lý tương sinh, Hỏa sinh Thổ, vì thế, người mệnh Thổ còn có thể sử dụng các gam màu đỏ cho không gian nội thất của mình. Như vậy, về lâu dài, cuộc sống và sự nghiệp của người mệnh Thổ sẽ hết sức thuận lợi.

Ngoài ra, do Thổ sinh Kim, chủ nhân có thể dùng màu trắng nhưng chỉ nên vừa phải. Mộc khắc Thổ, nên màu kị nhất cho mệnh này là các gam màu xanh: xanh lá, xanh dương, xanh nhạt…, không nên sử dụng chúng trong trang trí nhà.

Nhóm màu Thổ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi thiên nhiên hoang dã, thô mộc mà gần gũi, ấm áp. Nếu bạn dùng giấy dán tường, hãy lựa chọn các mẫu có hoa văn cây cỏ, hoa lá để tạo cảm giác kết nối với tự nhiên.

Người mệnh Thổ nên sử dụng các đồ vật có nguồn gốc từ đất, điển hình là chất liệu gốm sứ cho không gian nội thất. Đó có thể là các loại đồ đựng, bình cắm hoa, đồ trang trí. Đặc biệt, đá cẩm thạch sẽ hỗ trợ rất tốt cho mệnh này. Bạn có thể lát đá trên mặt tủ, bàn ăn hay bàn uống nước…

Với người mệnh Thổ, hãy thêm màu đỏ bằng cách thay đổi họa tiết của gối tựa, rèm cửa, thảm trải sàn hay các vật trang trí nho nhỏ trong phòng để có được màu sắc tương sinh cho chủ nhân của nó.
Trang trí nội thất theo bản mệnh sẽ gia tăng sự thoải mái cho chủ nhân, đồng thời giúp cuộc sống suôn sẻ. Hi vọng rằng những thông tin trên đây sẽ giúp cho những gia chủ mệnh Thổ có được không gian sống tuyệt vời nhất cho mình.
Má phải
Chức năng phổi hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến hệ hô hấp, hạn chế ăn xoài, khoai môn, hải sản và những thức ăn dễ gây dị ứng.
Cánh mũi
Liên quan đến chức năng của buồng trứng và cơ quan sinh sản, hạn chế sống phóng túng hoặc kiêng khem quá mức, cần ra ngoài hít thở không khí trong lành nhiều hơn.

Giữa hai lông mày
Dễ đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim, tim đập nhanh, hạn chế vận động mạnh, tránh hút thuốc, đồ ăn cay.
Mũi
Nóng dạ dày, hệ tiêu hóa hoạt động không bình thường, cần hạn chế ăn đồ lạnh.
Trán
Áp lực nhiều, tính tình nóng nảy, dễ tạo nên các vấn đề về tim mạch và hệ tuần hoàn máu, nên ngủ sớm và uống nhiều nước hơn.
Má trái
Chức năng gan hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến những thói quen hàng ngày, duy trì tâm trạng vui vẻ, cần hít thở không khí trong lành, tránh các tụ điểm quá náo nhiệt, ồn ào.

Xung quanh môi
Dễ táo bón, cơ thể bên trong tích tụ nhiều độc tố, nên ăn nhiều hoa quả và rau xanh, cần điều chỉnh lại thói quen ăn uống.
Cằm
Rối loạn nội tiết tố, cần hạn chế ăn đồ lạnh.
Chòm sao nam nào luôn coi vợ là ‘number one’? Câu hỏi này rất được nhiều cô gái đặt ra. Vì những ai mà có được những chòm sao này làm chồng thì quả là may mắn lắm. Củ thể ra sao chúng ta cùng đọc bài viết sau để hiểu sâu thêm nhé!
Nội dung
Là chàng trai luôn đứng ra bảo vệ và bênh vực vợ mình trong mọi trường hợp

Là chàng trai chung thủy, sẵn sàng từ chối mọi mê hoặc, cám giỗ bên ngoài để về bên vợ

Là chàng trai siêng năng, chịu khó. Những việc lớn nhỏ trong nhà đều dành làm hết.

Thiên bình lại là chàng trai luôn ân cần chu đáo.

Chàng trai cung bò cạp là người hay sợ vợ, và coi vợ là số một.

Song ngư là chàng trai yêu vợ, tất cả tiền bạc đều muốn vợ giữ, khi làm việc gì,

![]() |
![]() |
Hành: Hỏa
Loại: Phù Tinh, Hình Tinh
Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén
Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.
Sao Quan Phủ có ý nghĩa giống sao Quan Phù, tuy nhiên không hội chiếu với Thái Tuế. Chính vì điều này mà có thể phân biệt điểm khác biệt giữa Quan Phủ - Quan Phù.
Ngoài các ý nghĩa tương tự sao Quan Phù, sao Quan Phủ nếu đồng cung (hội chiếu) với Thái Tuế sẽ khiến việc khiếu kiện, việc công vô cùng trắc trở, đặc biệt là kiện tụng, đấu tranh pháp lý...
Quan Phủ Thái Tuế một cung
Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Không chỉ các quốc gia phương Tây mà một số quốc gia khác trên thế giới cũng rất sợ con số 666.
Con số đáng sợ trên xuất hiện ở trong quyển cuối cùng của bộ kinh Tân Ước hay còn gọi là sách Khải huyền. Nó được coi là dấu ấn hiện thân của quỷ Sa-tăng. Do đó, con số 666 là biểu tượng của sự không hoàn hảo đối lập với con số 7 – dấu ấn của Chúa Trời. Những con số của Chúa trời được cho là hoàn hảo bởi vì một tuần có 7 ngày, 7 lưỡi lửa, 7 linh hồn...
![]() |
Ngoài ra, 666 còn được coi là con số tượng trưng cho một cuộc tấn công chống lại Jesus Christ. Trong tiếng Hy Lạp, chữ Christ khi được viết bằng tay sẽ có hình dạng khá giống những vật nhọn hay mũi tên. Nó được coi là một vũ khí nhằm chống lại Chúa trời.
Ngoài ra, con số 666 còn được cho là hiện thân của con rắn thuộc quỷ Sa-tăng – loài vật đã dụ dỗ Adam và Eva ăn trái cấm. Chính vì hai con người trần thế lén ăn vụng trái cấm nên Chúa đã nổi giận đuổi họ khỏi vườn địa đàng rồi đày người đàn ông xuống trần gian. Vì vậy, người ta cho rằng, con số 666 có khả năng là biểu tượng của sự cám dỗ, khiến con người lầm đường lạc lối và phạm phải những sai lầm khủng khiếp khó cứu vãn tình thế.
Theo một truyền thuyết cổ khác, nếu đem cộng 3 con số 6 sẽ tạo ra một kết quả và suy đoán đáng kinh ngạc: 6+6+6 = 18. Và con số 18 tượng trưng cho 18 trinh nữ hay còn được gọi là những thiên thần đồng trinh được dâng lên trong những lễ tế quỷ Sa-tăng. Những người tin theo truyền thuyết này cho rằng, nếu họ tìm được đủ 18 trinh nữ và thực hiện việc tế lễ theo đúng phong tục thì quỷ Sa-tăng sẽ trở về từ địa ngục.
Một số người tin rằng, con số 666 là dấu ấn của quỷ Sa-tăng nên chỉ đem lại điềm gở, tai họa cho con người.
Tuy nhiên, một số người lại cho rằng, con số 666 không phải là hiện thân của quỷ Sa-tăng mà là số 616. Các nhà khoa học tìm thấy một bộ sưu tập các tài liệu cổ ở Ai Cập trong đó có bản thảo lâu đời nhất của sách Khải huyền chỉ ra rằng, 616 mới đúng là con số của quỷ Sa-tăng. Theo thời gian, không biết vì lý do gì đã dẫn đến sự thay đổi.
Dù vậy, người ta vẫn tin 666 mới là con số của quỷ bởi nó có vẻ huyền bí, hấp dẫn và dễ nhớ hơn con số 616.
Giáo sư khoa nhân chủng học thuộc Đại học Khoa học và Mỹ thuật Phillips Stevens Jr cho biết: “Khải huyền là một cuốn sách phức tạp và khó hiểu. Các học giả đã tìm thấy nhiều “con quỷ” xuất hiện trong chương 13 và nhiều chương khác của cuốn sách cổ đó”.
Vị giáo sư này cũng nhận định rằng, đây chẳng qua là kiểu mê tín dị đoan và hoàn toàn không tồn tại con số của quỷ. Những cụm từ chỉ con quỷ trong sách Khải huyền đề cập đến rất nhiều loại quỷ khác nhau không cứ gì chỉ có mỗi Sa-tăng.
Chính vì vẻ huyền bí của nó mà có người tin, có người lại cho đó chỉ là trò bịp bợm. Những người tin thì thường kiêng khem những ngày rơi đúng vào chu kỳ 666, hoặc không chọn những con số đó làm số nhà, biển số xe… Thậm chí có người còn kiêng không sinh nở vào những ngày đó vì lo sợ sẽ sinh ra một đứa con là hiện thân của quỷ.
Đặc biệt, một công trình nổi tiếng của Ai Cập còn được coi là hiện thân của quỷ Sa-tăng vì nó có những điểm tương đồng với con số 666. Đó là kim tự tháp kính Lourve. Người dân đồn thổi, công trình này được xây dựng cho quỷ bởi nó được tạo thành từ 666 miếng kính.
Câu chuyện ly kỳ trên xuất hiện từ những năm 1980. Tuy nhiên, lãnh đạo bảo tàng Louvre khẳng định rằng, kim tự tháp trên không hề có liên quan gì đến con số 666. Thực ra, nó được tạo thành từ 673 tấm kính trong đó có 603 tấm hình thoi và 70 tấm hình tam giác.
Dù vậy, nhiều người vẫn tin vào giả thuyết con số của quỷ Sa-tăng “hiện hình” ở kim tự tháp kính Lourve. Họ cho rằng, nếu lấy con số chính thức 673 cộng với cánh cửa Kim tự tháp lớn, cộng thêm 112 miếng kính của Kim tự tháp ngược rồi trừ đi 120 miếng kính của hai kim tự tháp con nằm trong đó thì vẫn cho ra kết quả 666 (674 + 112 - 120 = 666).
Chưa dừng lại ở đó, câu chuyện lại “dậy sóng” trở lại vào năm 2003 khi tác giả Dan Brown nổi tiếng đã viết trong cuốn tiếu thuyết Mật mã Da Vinci lừng danh khắp 5 châu 4 biển với nội dung khá “nhạy". Trong đó, nhân vật chính của tác phẩm là Robert Langdon cho rằng: "Kim tự tháp này đã được xây từ chính xác 666 tấm kính, theo yêu cầu kỳ cục của Tổng thống xuất sắc nhất Nền cộng hòa thứ 5 của Pháp là Francois Mitterrand". Chính vì vậy, chủ đề về con số của quỷ lại gây xôn xao dư luận một thời gian.
Đến ngày 6/6/2006, nhiều người tin rằng đó là ngày của quỷ Sa-tăng hiện về và sẽ có tai họa ập đến. Những tin đồn về ngày khủng khiếp đó lan truyền với tốc độ chóng mặt giống như Ngày tận thế. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, ngày hôm đó không hề xảy ra thảm kịch to lớn nào. Và thế giới vẫn bình yên.
Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những lần xác xuất không chuẩn tính theo chu kỳ 666 ngày. Thực tế chỉ ra rằng, có một số sự kiện rơi đúng vào chu kỳ đó nhưng có xác xuất cộng trừ trùng khớp với thời điểm xảy ra những thảm họa kinh hoàng trong lịch sử nhân loại.
Cụ thể, nếu tính từ ngày 1/8/1914 – thời điểm bùng nổ thế chiến thứ nhất, thế giới xảy ra những sự kiện đặc biệt xảy ra với xác xuất cộng trừ vài tuần lễ. Nếu lấy 5 x 666 sẽ ra thời điểm là tháng 9/1923. Tại thời điểm đó, trận động đất mạnh 8,9 độ Richter tàn phá một khu vực lớn ở Tokyo, Nhật Bản đã diễn ra. Thảm họa kinh hoàng này xảy ra vào đúng vào ngày 1/9.
Nếu lấy 11 x 666 sẽ ra thời điểm là tháng 12/1941. Theo lịch sử, Nhật tấn công Trân Châu cảng gây thiệt hại nặng nề cho Hải quân Mỹ vào ngày 7/12/1941. Sự kiện này đánh dấu thời điểm Mỹ chính thức tham gia chiến tranh thế giới thứ hai.
Nếu lấy 17 x 666 sẽ ra thời điểm là tháng 8/1945. Vào ngày 6/8, Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản gây ra thảm họa hạt nhân đầu tiên trong lịch sử.
Nếu lấy 34 x 666 sẽ ra thời điểm tháng 8/1976. Mốc thời gian này đánh dấu sự bùng phát của một loạt thảm họa như bệnh Ebola ở châu Phi và xảy ra trận động đất lớn nhất thế kỷ ở Trung Quốc vào ngày 28/7.
Theo Kiến thức
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Ở xã Hoàng Tiến, thị xã Chí Linh – Hải Dương có một ngôi chùa cổ mà nhân dân thường gọi là Chùa Ngũ Đài, tên chữ là Kim Quang Tự. Ngôi chùa này do Thiền phái Trúc Lâm xây dựng từ thời nhà Trần (thế kỷ 14).
Chùa Ngũ Đài tọa lạc trên một khu đất cao, rộng ở chân núi Đống Thóc, tựa vào dãy núi Ngũ Đài Sơn. Ngũ Đài Sơn là một dãy núi cao,với năm ngọn nối tiếp, đỉnh cao nhất gần 400 mét so với mặt biển, người ta thường gọi là “Cổng trời”. Chùa Ngũ Đài hướng về phía tây nam, hai bên là hai ngọn núi, tạo thành thế tả thanh long,hữu bạch hổ rất uy nghi. Xung quang chùa là rừng cây bốn mùa xanh tốt.
Thời Trần, chùa Ngũ Đài là nơi tu hành, thuyết pháp của nhiều vị cao tăng của Thiền phái Trúc Lâm. Tăng ni, phật tử đến đây thọ giáo rất đông đúc. Nhiều lần các hoàng hậu, công chúa và con cháu Hoàng tộc mỗi khi từ Yên Tử trở về kinh đô đều không quên tới vãn cảnh chùa Ngũ Đài và thắp hương, niệm phật. Những ngày ấy, nhân dân trong vùng lại có dịp tề tựu về đây chào đón hoàng gia, không khí vô cùng nhộn nhịp, đông vui.
Sau những thăng trầm của lịch sử và biến đổi khắc nghiệt của thời gian, chùa Ngũ Đài cũng đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Đặc biệt là lần đại trùng tu vào thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) do đóng góp của nhân dân và các vị chức sắc đương thời.
Chùa Ngũ Đài hiện nay có kiến trúc hình chữ Đinh (I), gồm 5 gian tiền đường và 2 gian hậu cung. Các vì kèo kết cấu bằng bê – tông cốt thép. Phần gần nóc tạo dáng con chồng giá chiêng truyền thống. Mái dán ngói vẩy cá, nền lát gạch đỏ Giếng Đáy. Hai gian hậu cung chỉ có một vì kèo, trốn cột quân. Ngoài công trình chính của chùa, ở phía bắc có nhà thờ Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Liễu Hạnh, phía nam chùa có nhà thời tổ, phía đông có nhà thờ Công đồng; phía trước chùa có tháp mộ các vị cao tăng đã từng trụ trì ở đây qua các thời kỳ.
Hệ thống tượng phật được bày xếp theo nghi thức truyền thống của các chùa miền Bắc. Các pho tượng được chế tác công phu, đặc biệt là các pho tam thế, A di đà, Đức Thánh Ông… với tỷ lệ cân đối và rất sinh động. Ngoài các pho tượng gỗ sơn son, thiếp vàng, chùa còn lưu giữ được một tấm bia đá thời Lê được dựng vào tháng 12 năm Nhâm Tý, niên hiệu Hoàng Định thứ 13 (1612). Ngoài ra, chùa Ngũ Đài hiện còn lưu giữ được một số cổ vật quý giá khác có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19.
Hằng năm, cứ vào dịp từ 15-3 đến 18 – 3 âm lịch là nhân dân địa phương lại tưng bừng mở hội chùa Ngũ Đài với nhiều hoạt động lễ hội phong phú, hấp dẫn. Du khách bốn phương về đây trảy hội rất đông…
Hiện nay, chùa đang trong quá trình trùng tu tôn tạo. Con đường nhỏ độc đạo vào chùa trước đây sẽ được mở rộng 14 mét, mặt được trải nhựa hoặc đổ bê – tông, phía sau chùa sẽ mở rộng hai con đường lên Ngũ Đài Sơn. Làm lại không gian phía trước chùa cho rộng rãi, khang trang hơn. Dựng lại mấy tháp bia và đặc biệt là sẽ dựng một tượng đài Phật bà Quan âm cao 18 mét ở sau chùa, trên đường lên “cổng trời” của Ngũ Đài Sơn…
Chùa Ngũ Đài đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2005.
Dưới đây là 3 con giáp nhiều phúc đức luôn gặp dữ hoá lành:
1. Tuổi Sửu Có câu “ngốc nghếch có cái phúc của ngốc nghếch”, câu này có vẻ khá đúng với trường hợp của người tuổi Sửu. Họ cứ sống vô tư thoải mái, hết lòng vì người khác, tới lúc gặp hoạn nạn sẽ có quý nhân đưa tay giúp đỡ.
![]() |
![]() |
![]() |
Theo ông bà ta xưa làm nhà là một trong những việc quan trọng nhất của một đời người. Để những người sống trong ngôi nhà mới xây cất được khỏe mạnh, gặp mọi sự may mắn tốt lành thì khi tiến hành làm nhà nhất thiết phải tuân thủ một số nghi thức quy định về mặt phong thuỷ, chọn ngày tốt (Hoàng đạo, Sinh khí, Lộc mã, Giải thần. …) tránh ngày xấu (ngày Hắc đạo, Sát chủ, Thổ cấm, Trùng tang, Hùng phục…..) và phải chọn giờ Hoàng Đạo để làm lễ động thổ (lễ cúng Thần Đất) để xin được làm nhà trên mảnh đất đó.
Trong lễ động thổ ngày xưa phải cúng tam sinh, ngày nay đơn giản hơn, nhưng phải là con gà, đĩa xôi, hương, hoa quả, vàng mã…
Sau khi làm lễ gia chủ là người cầm cuốc bổ những nhát đầu tiên, trình với Thổ thần xin được động thổ, tiếp sau đó, mới cho thợ đào. Trước khi khấn phải thắp nén nhang vái bốn phương, tám hướng rồi quay mặt vào mâm lễ mà khấn.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy Quan Đương niên.
- Con kính lạy các Tôn phần bản xứ.
Tín chủ (chúng) con là:................ Ngụ tại:……………
Hôm nay là ngày… tháng….năm….. tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương, dâng lên trước án, có lời thưa rằng:
Hôm nay tín chủ con khởi tạo…. (nếu cất nóc thì đọc là cất nóc, nếu xây cổng thì đọc là xây cổng, nếu chuyển nhà thị đọc là chuyển nhà) ngôi đương cơ trụ trạch để làm nơi cư ngụ cho gia đình con cháu.
Nay chọn được ngày lành tháng tốt, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép được động thổ (hoặc cất nóc).
Tín chủ con lòng thành lễ vật dâng lên trước án thành tâm kính mời: ngài Kim Niên Đường Thái tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa Long Mạch Tôn thần và tất cả các vị Thần linh cai quản trong khu vực này.
Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con được vạn sự tốt lành, công việc hanh thông, Chủ thợ được bình an, ngày tháng hưởng phần lợi lạc, âm phù dương trợ, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh, cô hồn y thảo phụ mộc, phảng phất quanh khu vực này, xin mời các vị tới đây thụ hưởng vật, phù trì tín chủ, cũng như chủ thợ đôi bên khiến cho an lạc, công việc chóng thành, muôn sự như ý.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
![]() |
| Ảnh minh họa |
Đó là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Bên cạnh đó là khao khát sự trường tồn cuộc sống, sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân, sự gắn kết trong cộng đồng, gia tộc và gia đình. Tết Nguyên đán còn là dịp để hướng về cội nguồn. Đó là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm sâu sắc của người Việt, trở thành truyền thống tốt đẹp.
Tết Nguyên Đán - hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết. “Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”. Tết Nguyên Đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương “Tết Ta”, là để phân biệt với “Tết Tây” (Tết Dương lịch).
Tết Nguyên Đán được tính từ ngày nào?
Do cách tính lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.
Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

Nguồn gốc của Tết Nguyên Đán
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hoa Trung Quốc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, Tết Nguyên Đán cũng là một trong những nét văn hóa được du nhập trong thời điểm đó. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.
Đến thời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày Mồng một cho đến hết ngày mồng Bảy.

Ý nghĩa của Tết Nguyên Đán
Tết Nguyên Đán không chỉ thể hiện sự giao giao cảm giữa trời đất và con người với thần linh trong quan niệm của người phương Đông. Mà thiêng liêng hơn cả đó chính là ngày đoàn viên của mọi gia đình. Mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà,… được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.

Tết Nguyên đán với ý nghĩa sâu xa và mang tính thiêng, trang trọng là tiễn đưa năm cũ, chào đón, chúc tụng năm mới sức khỏe con người tốt hơn, sinh kế khá hơn, hạnh phúc cá nhân – gia đình bền vững hơn và khởi đầu từ ý thức hệ nông nghiệp, sau dần tỏa rộng trong đời sống con người toàn xã hội, song vẫn mang ý nghĩa nhân văn tốt đẹp.
Người Việt cho rằng, Tết Nguyên đán là cơ hội để thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” một cách sâu sắc, cụ thể nhất. Giá trị hướng về cội nguồn là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm của người Việt với Tết Nguyên đán. Giá trị này đã trở thành nếp sống truyền thống tốt đẹp, bền vững.
Người ta tin rằng, vào dịp Tết Nguyên đán, tổ tiên cũng sẽ hiện diện trên bàn thờ gia tiên, ở nhà thờ họ để chứng kiến lòng thành của con cháu, và từ đó sẽ phù hộ cho con cháu được khỏe mạnh, làm ăn ổn định và sống hạnh phúc trong tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ, con cháu, vợ chồng. Đó là ý nghĩa tâm linh của Tết Nguyên đán.
Khi thắp nén hương, bày mâm cỗ cúng dâng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên đán, người Việt mới thấy thỏa mãn và yên lòng trong cuộc sống tiếp theo khi bước vào năm mới.
Tết đến, người Việt chuẩn bị mọi điều kiện sống đầy đủ, có đạo đức, có truyền thống tốt. Chẳng hạn: ăn phải ngon, bổ dưỡng, khác hẳn ngày thường. Mặc phải đẹp, bất kể lứa tuổi nào, bất cứ giới nào: nam hay nữ, nông dân, thợ, kẻ sĩ hay chức sắc, lão bà hay lão ông.
Ai cũng thấy như phải gần gũi nhau hơn, nói những điều hay với ngôn ngữ chọn lọc. Chẳng hạn, Tết là phải chúc mừng nhau: sức khỏe, tuổi tác (trường thọ), chúc “làm ăn bằng năm, bằng mười năm ngoái”… Có phần ngoa ngôn, song vẫn êm tai và thực lòng. Cho nên, Tết đến, người ta vui vẻ, dịu hiền, là cơ hội để hòa giải những bất đồng, “giận đến chết đến Tết cũng thôi”.
Đó là giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ mà người Việt muốn đạt tới và thường đạt tới. Cho nên, những ngày trong dịp Tết Nguyên đán thực sự là những ngày vui vẻ, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
10 câu nói hay và nổi tiếng nhất của Tào Tháo. Tào Tháo – tên ông thường dùng để mô tả cho sự dối trá, vô liêm sỉ nhưng không thể phủ nhận tài năng của Tào Tháo. Sau đây là 10 câu nói nổi tiếng của ông vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
Tào Tháo sinh năm 155 và mất năm 220, tự là Mạnh Đức. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở vững chắc cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc và trở thành đối trọng lớn nhất với nhà Thục (do Lưu Bị đứng đầu) và nhà Ngô (do Tôn Quyền đứng đầu). Trong lịch sử gần 2000 năm qua, hình tượng về Tào Tháo vẫn là một chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử Trung Quốc, hầu hết đều bị ảnh hưởng tiêu cực do tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa”.
Tuy người đời thường lấy tên ông để mô tả cho sự dối trá, vô liêm sỉ, bất nhân, bất nghĩa nhưng không thể phủ nhận tài năng của con người này. Và những câu nói của ông dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử vẫn được lưu truyền và để lại rất nhiều bài học cho hậu thế sau này.
Các bạn hãy cùng mình điểm lại 10 câu nói nổi tiếng nhất của Tào Tháo được lịch sử ghi chép lại dưới đây nhé.



Nghe giai thoại rằng Tào Tháo hỏi Tư Mã Ý:
“Tại sao lòng bàn chân trắng hơn mặt và tay?”
Ý nghĩ hoài không biết trả lời làm sao. Tháo lại bảo:
“vì lòng bàn chân nó biết giấu mặt.”

Lòng bàn chân ai cũng có phần lõm vào, có thể giấu được cái gì đó. Vậy nên ở đời đừng để người ta nhìn rõ hết ruột gan. Ám chỉ Tào Tháo biết Ý có lòng riêng nên cảnh cáo

Người đời đều nói ta là gian hùng nhưng không làm được gì một kẻ gian hùng như ta, các ngươi tự khoe mình là quân tử nhưng đều thua trong tay một kẻ gian hùng như ta. Nếu cái giá của việc làm quân tử là bị lăng nhục, bị giẫm đạp, bị tiêu diệt, thậm chí là bị giết thì ta làm một kẻ gian hùng có thể thực hiện được hoài bão của mình. Từ trước tới nay gian xảo như trung hiền, trá ngụy tựa chân thật, trung nghĩa và gian ác đều không thể nhìn thấy được dựa trên biểu hiện bên ngoài. Có thể trước nay các ngươi đã nhìn nhầm Tào Tháo ta bây giờ lại nhìn nhầm nhưng ta vẫn là ta. Trươc đây ta vốn không sợ người khác nhìn lầm ta.
Những bức ảnh có thể giúp mẹ bầu giữ lại những kỉ niệm đẹp khi em bé còn nằm trong bụng mẹ. Song cũng có những điều kiêng kị khi chụp ảnh bầu mà chưa chắc bạn đã biết, cùng theo dõi nhé. Giờ ngày càng có nhiều bà mẹ thích chụp ảnh để lưu giữ lại những khoảng khắc khi mang bầu, khi em bé vẫn còn nằm trong lòng mẹ. Tuy nhiên, xét về yếu tố phong thủy thì việc chụp ảnh bầu cũng có những điều kiêng kị nhất định.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Người phương Tây thường kiêng kỵ con số 13 vì sao?
Nói đến con số 13, nhiều người kiêng kỵ, cho rằng đó là một con số không may mắn? Vậy nguyên nhân là vì sao?
Từ trước tới nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra, người phương Tây rất kỵ con số 13. Nếu đến Vương quốc Anh, Canada hay Australia, chúng ta không thể tìm thấy một ngôi nhà có địa chỉ số 13. Trên máy bay của tất cả các hãng hàng không Đức đều thiếu hàng ghế thứ 13. Trên các đường phố Mỹ cũng không bao giờ nhìn thấy những xe buýt mang con số 13, không bao giờ được ở trên tầng thứ 13, cũng không phải tá túc ở những căn phòng có ghi số 13.
Cũng vì lý do đó mà, rất nhiều tòa nhà cao tầng xây dựng phục vụ cho thuê và làm việc với người nước ngoài, người ta cũng kiêng kỵ không xây tầng 13. Thay vào đó sẽ là tầng 12A hoặc là nhảy cóc luôn lên con số 14.
Con số Judas
Con số 13 được người ta liên hệ với sự tích Tiệc Ly trong sách Phúc Âm, tức là bữa ăn sau cùng của chúa Jesus với các môn đồ trước khi ngài chết. Đã có 13 môn đồ ngồi với chúa hôm đó, trong số này có Judas. Trong Phúc Âm kể rằng, chúa Jesus hướng về phía môn đồ nói: "Không phải Ta đã chọn 12 người các con ư? Nhưng một trong số các con là quỷ". Và chính chương 13 của Phúc Âm John kể về sự phản bội của Judas. Trong chương 13 cuốn sách cuối cùng của Tân Ước - Khải Huyền đã mô tả con số đáng sợ của con thú 666.
Từ trước tới nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra, người phương Tây rất kỵ con số 13.
(ảnh minh họa)
Và từ đó, người ta tin rằng, trong một bàn tiệc có 13 người thì ắt đó là điềm xấu. Và người ta thường không bao giờ để tồn tại con số này trên bàn tiệc. Chỉ là 12 hoặc là 14.
Mọi người đã sợ hãi và tin vào sự xui xẻo của con số 13 tới mức nghĩ ra cái nghề làm vị khách thứ 14. Tại Pháp, người đóng vai vị khách thứ 14 được mời tới khi không may gia chủ chỉ có 13 khách tới dự tiệc. Và cho đến nay trong khách sạn Statler ở Chicago vẫn có lệ: nếu tình cờ quanh bàn chỉ có 13 vị khách thì những người phục vụ ở đây sẽ đặt thêm một cái ghế thứ 14 và xếp vào đó một hình nộm trong y phục thực khách rất đàng hoàng cho "đẹp cỗ". Hình nộm này cũng được phục vụ ăn uống chu đáo như những vị khách khác và được gọi đùa bằng cái tên ngài Louis XIV.
Thứ 6 ngày 13 ở Phương Tây được cho là ngày đen tối, là ngày mà người ta kiêng làm tất cả những việc quan trọng. Từng có nhiều bộ phim phản ánh về việc này. Đây là một quan niệm đám đông, ảnh hưởng của nhiều người và đến bây giờ, nó vẫn còn là nỗi ám ảnh của rất nhiều người dân các nước phương Tây.
Vì sao người châu Á kiêng kỵ con số 4?
Cũng giống như con số 13 ở phương Tây, nhiều quốc gia châu Á cũng kiêng kỵ con số 4.
Do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, nên từ xưa đến nay, số 4 luôn được coi là con số xấu, mang lại vận rủi. Theo dân gian con số này xấu bởi vì hiệu ứng đám đông (bầy đàn, quần tụ). Mặt khác, số 4 là “Tứ” đọc âm như “Tử”, đứng vào thứ tự “Sinh – Lão – Bệnh – Tử” nên khiến con người có tâm lý sợ hãi. Tuy nhiên, đây chỉ là tâm lý lo sợ có tính dị đoan. Thực chất, con số 4 hay bất kì con số nào, may rủi cũng là chuyện của con người, không liên quan tới nó.
Cũng giống như con số 13 ở phương Tây, nhiều quốc gia châu Á cũng kiêng kỵ con số 4.
(ảnh minh họa)
Vì tư tưởng này mà rất nhiều người kiêng dùng biển số xe có con số 4. Hay nếu chẳng may gặp vận rủi mà có con số 4 ở bất cứ nơi đâu, họ sẽ nghĩ ngay đó là do con số này mang lại.
Lý giải về con số 4 và số 13
Thực chất, việc may rủi không hề phụ thuộc vào các con số.
Ý nghĩa về con số 4:
Ý thứ nhất về số 4 (quẻ “Tốn”, trong phong thủy): Tứ Lục Văn Khúc, hay sao Văn Xương, Ngũ hành thuộc Mộc, đại diện quẻ Tốn (4). Quẻ Tốn tượng trưng cho phương đông nam, tượng trưng Mộc trong ngũ hành, tượng trưng về người là trưởng nữ trong nhà, đạo sỹ, quả phụ, tăng ni,...
Ý thứ hai về số 4 (quẻ 4 trong dịch: “Sơn thủy Mông”: Trên Cấn dưới Khảm, non yếu và mù mờ, còn u tối cần hướng dẫn), khi gieo ra Quẻ “Mông” này thì tùy theo sự việc mà luận đoán, nhưng ý nghĩa của nó là chưa có gì rõ ràng (còn mờ mịt), cần chờ đợi và kiên nhẫn.
Ý thứ ba về số 4 (trong 60 Hoa Giáp: “Đinh Mão”, Thiên can: Đinh hỏa, Địa chi: Mão mộc) trên dưới một lòng, có tôn ti trật tự, dưới phục tùng trên. Sự so sánh hay ứng dụng khi dự đoán nó tốt hay xấu, chúng ta phải căn cứ vào đối tượng cụ thể thì mới kết luận rõ ràng được, chẳng hạn: một người sinh vào ngày “Tân Dậu” sẽ gặp thiên khắc địa xung, Đinh khắc Tân, Mão trực xung/khắc Dậu, nhưng có khi trên mệnh cục đây là hỷ, dụng thần của người này thì nó vẫn là tốt, điều đó có nghĩa là thấy xung/khắc không phải lúc nào cũng xấu.
Ý nghĩa của số 13
1. Ý thứ nhất về số 13 (trong phong thủy: 1 + 3 = 4 hay 13 – 9 = 4): chúng ta thấy nó lại quay về số 4.
2. Ý thứ hai về số 13 (trong dịch học quẻ 13 là “Thiên Hỏa Đồng Nhân”: Trên Càn dưới Ly, ý nghĩa đồng tâm hiệp lực, chiến hữu, cộng tác), cùng chung với người, đồng tâm với người.
3. Ý thứ ba về số 13 (theo 60 Hoa Giáp: “Bính Tý”, thủy khắc hỏa, trên dưới chưa đồng lòng hay còn gọi là “Thủy Hỏa vị tế”, sự việc còn tiếp tục, chưa hoàn thành, sự việc chưa dừng lại tiếp tục biến chuyển.
Chuyện may rủi hoàn toàn không phụ thuộc vào các con số. Nhưng vô tình một số chuyện trùng lặp đã khiến người ta có tâm lý đám đông, bài trừ, lo sợ. Thế nên, nếu như gặp phải những con số này mà đó là cơ hội của các bạn, giống như một căn hộ đẹp hay một địa điểm đẹp có mang con số này thì đừng bao giờ từ bỏ cơ hội. Vì đó có thể sẽ là một cơ hội tốt đến với bạn nếu như bạn không mang tâm lý lo sợ đám đông, bài trừ con số rủi ro giống như người khác. Vận may hay rủi là do bản thân mình nắm bắt...