Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bài trí phòng bếp như thế nào để hợp phong thủy ngũ hành?

Nhiều gia chủ không am tường về phong thủy thường rất lúng túng khi bài trí ngôi nhà của mình. Bài trí phòng bếp sao cho hợp phong thủy? Bài viết dưới đây sẽ giúp giải đáp được phần nào.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chỗ đặt bếp thích hợp hoặc không nên đặt bếp, không phải nhất thành bất biến mà còn phải xem quan hệ giữa phương vị của bếp với “trạch” và “mệnh”.

Ví dụ: “Phái bát trạch” xem phong thủy chủ yếu được chia nhà ở thành “Đông tứ trạch” và “Tây tứ trạch”, người cũng chia thành “Đông tứ mệnh” và “Tây tứ mệnh”.

Những điều lành dữ của phương vị bếp của “Đông tứ trạch” và “Đông tứ mệnh” thì lại ngược lại với “Tây tứ trạch” và “Tây tứ mệnh”. Phương vị mà “Đông tứ trạch mệnh” kiêng kỵ thì lại là thích hợp với “Tây tứ trạch mệnh”, và phương vị mà “Đông tứ trạch mệnh” thích hợp thì lại là điều kiêng kỵ đối với “Tây tứ trạch mệnh”.


Cần lựa chọn kỹ vị trí đặt bếp theo phong thủy

Vì vậy nếu bếp đặt vào trong phạm vi 8 phương vị không thích hợp thì cũng đừng vì thế mà quá lo lắng.

“Tọa hung hướng cát” (ngồi lên cái dữ, hướng về cái lành)

“Tọa hung” là nói bếp đặt vào phương vị không lành, trấn áp hung thần, nhưng lại phải hướng về hướng lành tức là cửa của bếp nhất định phải quay về hướng lành để thu nạp được khí lành.

“Bát trạch minh kính” giải thích việc này rằng “Cửa bếp là chỗ đưa củi vào đáy nồi để đốt, phải để nó quay về hướng lành, như thế nhanh có phúc”.

Cái gọi là “Hỏa môn” (cửa bếp) tức là cửa đốt lửa, nhưng nếu là bếp ga hoặc là bếp lò di động thì mặt có núm vặn là cửa bếp và đặt nó quay về hướng lành là được.

Nếu bếp đặt lên hướng lành:

Nếu đặt lên hướng Sinh khí ứng: Gia chủ khó về đường tử tức, bị người khác phỉ báng, không có tiền tài; người trong gia đình bị chết chóc, gia súc mất mát.

Nếu đặt lên hướng Thiên y ứng: Chủ nhà bị ốm yếu kéo dài.

Nếu đặt lên hướng Diên niên ứng: Chủ nhà không có tiền tài để dành, hôn nhân khó thành; vợ chồng bất hòa; người trong gia đình ốm đau, ruộng vườn, gia súc lụi bại.

Nếu đặt lên hướng Phục vị ứng: Chủ nhà không có tiền tài khốn khó; mọi việc không thuận lợi.

Nếu bếp đặt lên hướng dữ:

Nếu đặt lên hướng Tuyệt mệnh ứng: Chủ nhà khỏe mạnh, thêm con, dễ nuôi; phát tài, thêm nhân khẩu.

Nếu đặt lên hướng Lục sát ứng: Chủ nhà không bị rắc rối kiện tụng, có tiền tài; không bị hỏa hoạn, không bị mất người.

Chọn hướng bếp theo phong thủy cần chú ý “tọa hung hướng cát”

Nếu đặt lên hướng Họa hại ứng: Chủ nhà không bị kiện tụng rắc rố, không bị ốm đau; giữ được của cải.

Nếu đặt lên hướng Ngũ quỷ ứng: Chủ nhà không bị mất cắp, người ở trung thành; phát tài, không có hiểm họa, bệnh tật; ruộng vườn gia súc nhiều.

Bếp đặt “tọa hung hướng cát” tức là đặt ở hướng dữ nhìn về hướng lành thì tốt, khi sắp xếp trong nhà bếp cần lấy đây làm nguyên tắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí phòng bếp như thế nào để hợp phong thủy ngũ hành?

Đại Lâm Mộc - Cây lớn sống ở trong rừng

Tìm hiểu về khái niệm Đại Lâm Mộc, Cây trong rừng um tùm, rậm rạp khắp nơi một màu xanh nên tâm chất không mưu cầu đột xuất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Lâm Mộc - Cây lớn sống ở trong rừng

Đại Lâm Mộc - Cây lớn sống ở trong rừng

Tìm hiểu về khái niệm Đại Lâm Mộc:

Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Mậu Thìn Kỷ Tỵ, Thìn là giải bình nguyên rộng lớn, Tỵ là ánh thái dương chói chang tạo thành cây cối phồn vinh như rừng nên gọi bằng Đại Lâm Mộc. Cây trong rừng um tùm, rậm rạp khắp nơi một màu xanh nên tâm chất không mưu cầu đột xuất.

Trí tuệ minh mẫn với sự ngả theo thời thế, làm chức thừa hành tốt, vào cương vị chỉ huy không hay. Khả năng cũng như khuynh hướng không có màu sắc riêng của mình.

Số Mậu Thìn với Kỷ Tỵ, thì Mậu Thìn đều thuộc thổ, mộc khắc thổ làm nhược khí thế, trong khi Kỷ Tỵ thì Tỵ hỏa. Bởi vậy Kỷ Tỵ trong cuộc phấn đấu chống với hung vận dễ dàng hơn Mậu Thìn.

Một chút về ngũ hành của hành mộc

1. Tương sinh (Sinh: hàm ý nuôi dưỡng, giúp đỡ):

Giữa Ngũ hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy nhau để vận động không ngừng, đó là quan hệ Tương sinh. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương sinh như sau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Trong quan hệ Tương sinh, mỗi Hành đều có mối quan hệ với hai Hành khác (hai vị trí khác: Cái-Sinh-Nó và Cái-Nó-Sinh). Người hình tượng hóa quan hệ tương sinh cho dễ hiểu bằng hình ảnh quan hệ Mẫu - Tử: chẳng hạn Mộc (Mẹ) sinh Hỏa (Con)… Thí dụ: vận động chân tay (Mộc) làm cho người nóng lên (sinh Hỏa)…

Như vậy, người mệnh Mộc hợp nhất với mệnh tương sinh là mệnh Thủy, mệnh Hỏa

2. Tương khắc (Khắc hàm ý ức chế, ngăn trở):

Giữa Ngũ hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế quân bình, đó là quan hệ Tương khắc. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương khắc như: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Trong quan hệ tương khắc, mỗi Hành cũng có quan hệ với hai Hành khác (hjai vị trí khác: Cái-Khắc-Nó và Cái-Nó-Khắc). Người xưa hình tượng hóa quan hệ tương khắc thành quan hệ Thắng – Thua: chẳng hạn Mộc (kẻ thắng) khắc Khổ (kẻ thua). Thí dụ: khi vận động chân tay (Mộc) thì hoạt động của tiêu hóa sẽ giảm đi (khắc Thổ)…

Như vậy, Người mệnh Mộc khắc người mệnh Thổ, mệnh Kim

Với người mới tìm hiểu hoặc chỉ cần biết sơ sơ thôi thì cứ Mệnh cứ Sinh cho nhau là tốt, Mệnh khắc nhau là không tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại Lâm Mộc - Cây lớn sống ở trong rừng

Những bước luận đoán lá số Tử vi (phần 2) –

  Liên hệ giữa Mệnh-Thân và Hạn trong Tu Vi Mệnh Thân và Hạn tốt - Người có cung Mệnh tốt thì chỉ xứng ý toại lòng lúc còn trẻ tuổi, đến tuổi trung niên và hậu vận thì cũng cần phải được cung Thân tốt thì mới được trọn vẹn. Nếu được Hạn tốt nữa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Liên hệ giữa Mệnh-Thân và Hạn trong Tu Vi

Mệnh Thân và Hạn tốt – Người có cung Mệnh tốt thì chỉ xứng ý toại lòng lúc còn trẻ tuổi, đến tuổi trung niên và hậu vận thì cũng cần phải được cung Thân tốt thì mới được trọn vẹn. Nếu được Hạn tốt nữa thì ví như gấm thêm hoa.

Mệnh Thân tốt gặp Hạn xấu – Mệnh Thân tốt có thể giải trừ được một phần lớn ảnh hưởng xấu của Hạn.

Mệnh Thân xấu được Hạn tốt – Được phát ví như lúa non gặp mưa thuận gió hòa, cây khô gặp mùa Xuân, nhưng không bền.

Mệnh Thân và Hạn xấu – Rất xấu như sinh bất phùng thời.

tl-tu-vi-3

Ảnh hưởng của Chính tinh là Nam hay Bắc Đẩu Tinh nhập hạn trong Tu Vi

Nam Đẩu Tinh nhập hạn – Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian sau của Đại và Tiểu vận. Nếu bị Tuần Triệt thì đoán ngược lại.

Các Nam Đẩu Tinh là Thái Dương – Thiên Cơ – Thiên Đồng – Thiên Lương – Thiên Tướng và Thất Sát. Các chính tinh trên hợp với người dương nam và âm nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.

Riêng hai chính tinh Tử Vi và Thiên Phuû là Nam Bắc Tinh

Bắc Đẩu Tinh nhập hạn – Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian đầu của Đại và Tiểu vận.

Các Bắc Đẩu Tinh là Thái Âm – Vũ Khúc – Tham Lang – Liêm Trinh – Phá Quân và Cự Môn. Các chính tinh trên hợp với người âm nam và dương nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.

Ảnh hưởng của Sao nhập hạn

Ảnh hưởng các Sao lưu động mỗi năm

Đại Tiểu Hạn trùng phùng

Cung gốc đại vận 10 năm với lưu niên tiểu vận đồng cung, sự việc tốt xấu hay dở của năm xem hạn tại cung trùng phùng này sẽ gia tăng.

Thí dụ: hạn năm Ngọ 32 tuổi lưu niên chữ Ngọ trùng với cung gốc của đại vận 23-32 tuổi

Yếu tố thiên thời của đại-vận (10 năm) trong Tu Vi

Mỗi đại-vận là một thiên-thời, đắc được thiên-thời gặp vận hội tốt đời sẽ lên hương, còn mất thiên-thời thì đời sẽ thấy khó-khăn để rồi đi xuống.

Lấy ngũ hành của tam hợp tuổi đem so-sánh với hành tam hợp của cung đại vận nhập hạn:

Tam hợp tuổi tương đồng hành tam hợp vận – đắc vận Thái-tuế (thiên-thời) là đại-vận tốt đẹp nhất trong đời; thêm sao tốt nhập hạn thì được như gấm thêu hoa, nếu gặp ách-nạn thì cũng sẽ được cứu-giải mà qua khỏi.

Trường-hợp bị Hung-sát-tinh phá cách như Không-Kiếp … thì vẫn được lên nhưng rồi dễ xuống, hay gặp khó-khăn và trở-ngại, vận hội tốt còn hưởng độ 50% mà thôi.

Đại-vận này cần phải được thêm tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ hổ trợ thì mới được hưởng vận Thiên-thời một cách chính-đáng, trọn-vẹn và bền-bỉ.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Dần-Ngọ-Tuất (đại vận hỏa đồng hành tam-hợp tuổi hỏa)

Tam-hợp-vận sinh-nhập hành tam-hợp-tuổi – được thuận-lợi và sức-khỏe tốt; tuy-nhiên vì nằm trong tam-hợp Thiên-không nên cũng hay dễ xảy ra những sự thất-bại và buồn lòng, nếu đắc Hóa-khoa có thể cứu-giải.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Hợi-Mão-Mùi (đại vận mộc sinh hành tam-hợp tuổi hỏa)

Tam-hợp-tuổi khắc-xuất hành tam-hợp-vận – bị sa-lầy, nhiều vất-vả (Thiếu-âm), phải gắng công tranh-đấu (Phá-Hư-Mã); có thể nhờ đến phần Nhân-hòa (sao) giúp-đỡ.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Tỵ-Dậu-Sữu (đại vận kim bị hành tam-hợp tuổi hỏa khắc)

Tam-hợp-vận khắc-nhập hành tam-hợp-tuổi – khắc ngược rất xấu, cần phải có được nhiều sao tốt để cứu giải.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Thân-Tý-Thìn (đại vận thủy khắc hành tam-hợp tuổi hỏa)

Yếu tố địa lợi của Đại-vận (10 năm) trong Tu Vi

Địa-lợi là nơi an thân của bản mệnh tại đại vận. Nếu cung hạn tương sinh tất bản mệnh sẽ được vững chắc an lành. Phần này phải lấy ngũ hành nạp âm của mệnh so-sánh với ngũ hành của cung nhập-hạn :

Tương-Sanh – sức-khỏe dồi-dào và thường gặp may-mắn.

Thí dụ người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Dần-Mão thuộc mộc được tương sinh.

Tương-Khắc – sức-khỏe kém, thường gặp nhiều khó-khăn và bất trắc xảy ra.

Thí duï người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Hợi-Tý thuộc thủy bị tương khắc.

Nếu hành bản mệnh bị hành của cung đại-vận khắc rất xấu, nhưng được Chính-tinh tại cung đại-vận sinh-nhập lại mệnh (tức cung sinh sao và sao sinh lại mệnh) là cách “tuyệt xứ phùng sinh” rất tốt (ví dụ người mệnh hỏa bị hành của cung đại vận tại Hợi hay Tý thuộc thủy khắc, nhưng lại được chính tinh Thiên Cơ hoặc Thiên Lương tại Hợi-Tý thuộc mộc sinh lại bản mệnh)

Yếu tố nhân hòa của đại-vận (10 năm) trong Tu Vi

Nhân-hòa là thứ cách quan trọng sau yếu-tố Thiên-thời, nếu được Thiên-thời và Địa-lợi nhưng không được phần “Nhân-hòa” thì dù bản-thân có may-mắn đến đâu thì cũng phải bị nhiều vất-vả mới được thành-công, vì ít được sự trợ-giúp của bên ngoài.

Phần này phải xem bộ Chính tinh Đại-vận có cùng hay khác thế lưỡng-nghi với bộ Chính tinh của tam hợp Mệnh:

Nếu Chính tinh đồng bộ cùng phe phái lưỡng-nghi (như Tử-Phủ-Vũ-Tướng gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì khi chuyển vận gặp nhau ít thay-đổi, thêm Trung-tinh đắc cách tam-hợp thì được hòa-thuận tốt đẹp.

Bằng như khác phe phái (như Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì hẳn là có sự đụng-độ và khó-khăn, phần thiệt-hại vẫn là phần của phe yếu thế là Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương; nếu gia thêm Sát-tinh nhập hạn thì sẽ gặp nhiều chuyện không may.

Tư-thế của bốn bộ Chính tinh (Tứ tượng) trên muốn được thêm hoàn-mỹ và thành-công thì cần phải có tối thiểu:

– Bộ T-P-V-T cần nhất là Tả-Hữu, Thai-Tọa

– Bộ S-P-L-T cần nhất là Thai-Cáo và Lục-sát-tinh

– Bộ C-N-Đ-L cần nhất là Xương-Khúc và Khôi-Việt

– Bộ C-N cần nhất là Hồng-Đào, Quang-Quý

* So-sánh hành Sao nhập hạn sinh hay khắc với hành Mệnh, bộ Sát-Phá-Liêm-Tham mỗi khi nhập hạn thường có những cuộc thăng-trầm khá quan-trọng xẩy ra.

Luận về Lưu niên đại hạn trong Tu Vi

Ngoài cách xem các đại vận 10 năm ra, nếu muốn xem đại vận một cách tường tận hơn thì phải xem cả lưu đại hạn của từng năm một.

Nếu muốn biết xem lưu đại vận từng năm một của mỗi 10 năm đại vận thì phải khởi năm thứ nhất từ con số đầu ghi ở cung gốc đại hạn muốn xem, tính tiếp sang cung xung chiếu của cung gốc hạn là năm thứ hai, sau đó:

Dương Nam – Âm Nữ : Từ năm thứ hai ở cung xung chiếu lùi lại một cung (theo chiều nghịch kim đồng hồ) là năm thứ ba, xong trở thuận lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều thuận ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.

Xem bảng thí dụ cách tính lưu đại vận của 10 năm đại vận từ 22 đến 31 tuổi của tuổi Dương Nam / Thủy Nhị Cục bên trái dưới đây.

Âm Nam – Dương Nữ : Từ số của năm thứ hai ở cung xung chiếu tiến lên một cung (theo chiều thuận kim đồng hồ) ghi số kế tiếp là năm thứ ba, xong trở lùi lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều nghịch ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.

Luận về Lưu niên tiểu vận (1 năm) trong Tu Vi

Trong lá số Tử Vi, chung quanh phần địa bàn (trung tâm của lá số) kế bên ô mỗi cung đều được ghi 1 địa chi (ví dụ Tý-Sửu-Dần-Mão …) theo chiều nam thuận nữ nghịch, đó chính là năm tiểu vận tại mỗi cung của đời người – ví dụ năm Kỷ Mão thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Mão, năm Canh Thìn thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Thìn …

Khi xem tiểu vận phải xem phối hợp với cung gốc của 10 năm đại vận của tiểu vận đó. Tiểu hạn (dầu tốt hay xấu) chỉ phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.

Mỗi tiểu hạn, chúng ta cần phải so sánh đến các tương quan giữa Can Chi của tuổi với Can Chi của năm nhập hạn vaø ngũ hành của các sao nhập hạn, sau đó phải so sánh hành bản mệnh với hành của cung tiểu vận nhập hạn theo bảng dưới đây để biết được tiểu vận đó tốt hay xấu.

So sánh hành Can của tuổi và Can năm nhập hạn (gốc, quan hệ)

So sánh hành Chi của tuổi và Chi năm nhập hạn (ngọn, thứ yếu)

So sánh hành bản mệnh và hành của năm hạn (tính theo nạp âm) để biết mức độ đắc thất.

So sánh Can của tuổi và Hành sao nhập hạn phụ thêm để quyết định.

Phụ luận :

Trong đời người từ nhỏ đến 60 tuổi có 5 lần gặp năm Thiên khắc Địa xung nhưng chỉ có 2 lần xung quan trọng là Năm 43 tuổi (hàng Can bị sinh xuất) và Năm 67 tuổi (hàng Can bị khắc nhập) vừa là giai đoạn gặp Thiên thương hay Thiên sứ.

Còn Năm 49 tuổi thường xấu vì tuy hàng Can của năm được sinh nhập (hưng vượng) nhưng hàng Chi lại nằm ở thế Phá Hư (không đắc ý) nên khiến cho từ chổ thành công mà lại đưa đến chỗ thất bại bất mãn; chẳng khác gì cây bị úng nước, rể phải hư và ngọn bị héo tàn.

Từ 49 đến 50 tuổi, 53 đến 60 tuổi và từ 67 đến 70 tuổi là ba đoạn đường đổ dốc để lượn lên các ngôi sơ thọ (50) – trung thọ (60) và thượng thọ (70) luôn luôn có Thương cung Nô và Sưù cung Ách là hai đồn canh đứng chặn giữa ba đoạn đường đại vận này để kiểm soát suôi ngược.

Người lái xe phải lành nghề (vòng Thái Tuế) vững tay lái, xe không ham chở nặng (Quyền Lộc) thì mới mong được an toàn.

Thương (thổ cung Nô) phụ tá của Thiên Sứ, gây ra tổn hại; có phần nào nhẹ tay hơn Sứ (cho người có đại vận đi xuôi gặêp Thương trước).

Sứ (thủy cung Ách) thi hành lệnh gieo tai ách

Mức độ nặng nhẹ của Thương-Sứ thi hành nhiệm vụ là tùy thuộc vào các Sát tinh nhập cuộc tại cung Nô và Ách như Văn Xương, Kình Dương (cung Tứ chính / các tuổi Giáp Mậu Canh Nhâm), Không Kiếp, Thiên Không, Tang Môn …

Ngoài ra trong 3 đại vận liên tiếp trên, ít nào cũng năm sáu lần tiểu hạn đụng đầu Đào Hồng gặp Thiên không, Lưu hà và Kiếp Sát rất dễ gây ra sức ép với tuổi già.

Trừ phi Mệnh hay Thân đắc Thọ tinh hợp hành làm nồng cốt và không bị nghiệp báo Hình Riêu, Không Kiếp lũng đoạn.

Trong đời người, cứ mỗi 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai, thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. Trong các năm nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro hoặc khó khăn trong công việc. Ngoài ra không nên tu tạo hay tậu mãi nhà đất trong những năm hạn này. Còn việc hôn nhân, cưới hỏi thì ít bị ảnh hưởng. Đây chỉ là những dự đoán về hạn xấu chung để mà phòng tránh thôi chứ không chắc hẳn sẽ xảy ra như vậy.

Nếu năm nhập hạn trong lá số Tử Vi tốt thì hạn xấu của năm tam tai sẽ được giảm bớt, ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm năm tam tai thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.

(còn tiếp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bước luận đoán lá số Tử vi (phần 2) –

Chùa Long Đọi Sơn - Hà Nam

Chùa Long Đọi Sơn Là ngôi chùa có lịch sử hàng nghìn năm tuổi còn lưu giữ được nhiều hiện vật có từ thời Lý mặc dù đã qua nhiều lần tu bổ
Chùa Long Đọi Sơn - Hà Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Long Đọi Sơn nằm tại xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, Hà Nam cách Hà Nội 50 km về phía nam; cách thành phố Phủ Lý 10 km về phía đông bắc. Là ngôi chùa có lịch sử hàng nghìn năm tuổi còn lưu giữ được nhiều hiện vật có từ thời Lý mặc dù đã qua nhiều lần tu bổ nhưng nơi đây vẫn giữ được nét kiến trúc cổ xưa, chùa Đọi là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Hà Nam, thu hút lượng lớn du khách đến tham quan.

Chùa Long Đọi Sơn được xây dựng trên đỉnh núi, trong khuôn viên 2 hec-ta vườn rừng. Chùa quay về hướng nam. Các công trình ở đây là chùa và tháp.

Chùa Long Đọi Sơn có tên là Diên Linh tự. Chùa do Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ năm 1054 (do tể tướng Dương Đại Gia và mời thiên sư Đàm Cứu Chỉ đến trụ trì và tham gia xây dựng). Đến đời Lý Nhân Tông, nhà vua này tiếp tục xây dựng phát triển và xây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm 1118 đến năm 1121.

Chùa Long Đọi Sơn đứng vững hơn ba trăm năm. Đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh xâm lược nước ta, chùa và tháp đã bị phá hủy hoàn toàn. Riêng bia vì không phá nổi, chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi.

Ngay cổng chính, trước tòa tam bảo là nhà bia để tấm bia Sùng Thiện Diên Linh nổi tiếng. Khi xây xong chùa và tháp, nhà vua sai Thượng thư bộ Hình Nguyễn Công Bật soạn văn bia. Văn bia nguyên có tên là Đại Việt quốc dương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi, được viết xong ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu (1121). Nội dung bài văn bia chủ yếu ca ngợi công lao tài trí của Lý Nhân Tông trong việc xây dựng, kiến thiết và đánh giặc giữ nước.

Đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh xâm lược nước ta, chùa và tháp đã bị phá hủy hoàn toàn. Riêng bia Sùng Thiện Diên Linh vì không phá nổi, chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi.

Mãi tới cuối thế kỷ XVI, vào năm 1591 đời Mạc Mậu Hợp, tức là gần 170 năm sau khi bị giặc Minh tàn phá, ngôi chùa bị bỏ phế hoàn toàn, nhân dân địa phương mới “dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và những chỗ tường hư hỏng, làm cửa xây tường khiến cho sau hơn 500 năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ”.

Vào năm Tự Đức thứ 13 (1860), chùa Đọi Sơn có sửa sang thượng điện, tiền đường, nhà tổ, siêu hương, gác chuông, nghi môn. Đến năm 1864, chùa lại tiếp tục sửa hành lang, đúc tượng Di Lặc, đúc khánh đồng và đúc khánh đá do sư tổ đời thứ 5 là Thích Chiếu Trường chủ trì xây dựng hoàn chỉnh 125 gian, từ đó trở thành trường Bắc Kỳ Phật giáo. Ngôi chùa lúc này được dựng theo kiểu nội công ngoại quốc.

chùa long đọi sơn
Cổng Tam Quan – Chùa Long Đọi Sơn

Các di vật của chùa Long Đọi còn giữ được như tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, 6 pho tượng Kim Cương trong 8 pho có từ ngày xưa là những hiện vật rất quý báu đối với việc nghiên cứu văn hóa nước ta cách đây gần một thiên niên kỷ.

Lễ hội chùa Long Đọi Sơn được tổ chức hàng năm vào ngày 21 tháng 3 âm lịch đã trở thành một nét văn hóa tín ngưỡng lâu đời của người dân xã Đọi Sơn nói riêng và huyện Duy Tiên nói chung. Với mục đích nhằm quảng bá các công trình kiến trúc tại di tích lịch sử chùa Long Đọi Sơn, đồng thời khơi dậy truyền thống văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân và du khách thập phương.

Chùa Long Đọi Sơn đã trải qua nhiều lần trùng tu, bên cạnh những kiến trúc pho tượng cũ, các kiến trúc pho tượng mới cũng được sắp đặt kỳ công và giữ được nét cổ kính lâu đời của ngôi chùa. Đã gần 1.000 năm qua chùa Long Đọi Sơn cùng với Đất nước, con người Việt Nam chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử và vẫn đứng sừng sững giữa đất trời làm rung động lòng người, thu hút khách tham quan du lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Long Đọi Sơn - Hà Nam

Phong thủy trong kinh doanh –

Dù nhà ở hay địa điểm kinh doanh, những nguyên tắc cơ bản của Phong Thủy đều được áp dụng. Chẳng hạn, một người có hướng Sinh Khí là hướng chính Nam, thì dù nhà ở hay địa điểm kinh doanh của người này cũng nên xây về hướng chính Nam. Hoặc nếu 8 cung

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát Quái phân định trên một căn nhà ở, thì cũng áp dụng đúng như vậy cho một địa điểm kinh doanh.

trung-tam-thuong-mai

 

Những ảnh hưởng gì của Phong Thủy mang đến kết quả tốt hay xấu cho một căn nhà thì cũng có cùng kết quả như vậy cho một địa điểm kinh doanh. Chỉ khác với nhà ở là những địa điểm kinh doanh còn bị chi phối thêm bởi 3 nguyên tắc căn bản sau đây:

1. Nguyên tắc thứ nhất

Mỗi một loại hình kinh doanh có một đặc tính riêng. Do đó, Phong Thủy dùng một hành của Ngũ Hành để tượng trưng cho đặc tính của loại hình kinh doanh đó.

Ví dụ:

• Quán cà phê hay tiệm bán nước thuộc hành Thủy.
• Công ty Địa Ốc mua bán nhà đất, thuộc hành Thổ.
• Cây xăng hay những cơ sở kỷ nghệ thuộc hành Hỏa.
• Tiệm vàng và nữ trang thuộc hành Kim.
• Tiệm bán bàn ghế, tủ giường thuộc hành Mộc.

2. Nguyên tắc thứ hai

Mỗi khu thương mại (shopping center), được xây cất theo những hình dạng riêng, và mỗi hình dạng của khu thương mại được tượng trưng bởi một hành trong Ngũ Hành.

Ví dụ:

• Khu thương mãi xây có dạng hình khối vuông, thì thuộc hành Thổ.
• Khu thương mãi có dạng hình khối chữ nhật nằm ngang hay dựng đứng như những tòa nhà chọc trời, thì thuộc hành Mộc.
• Có dạng hình khối bán nguyệt, hay như nhà vòm hoặc hình tròn, thì thuộc hành Kim.
• Nếu xây theo khối hình tháp thì thuộc hành Hỏa.
• Có hình dạng như lượn sóng thì thuộc hành Thủy.

Và như vậy, khi chúng ta mướn một căn phố trong một khu thương mãi, thì cơ sở làm ăn của chúng ta phải chịu chi phối bởi hành của khu thương mãi này.

3. Nguyên tắc thứ ba

Như chúng ta đã nói trên, mỗi loại hình kinh doanh mang một hành riêng, tượng trưng cho đặc tính của loại hình kinh doanh đó. Như vậy, trong một khu thương mại, hành của một loại hình kinh doanh sẽ chịu sự tác động tương hỗ với hành của các loại hình kinh doanh chung quanh nó.

Để rõ ràng hơn nguyên tắc sinh khắc của Ngũ Hành ứng dụng trong cơ sở kinh doanh thương mại, chúng ta lấy một vài thí dụ sau đây làm điển hình:

Ví dụ:

• Một khu thương mại xây theo hình chữ nhật, là mang hành Mộc. Khu phố này tọa lạc trên một lô đất hình chữ nhật, cũng là hành Mộc. Như vậy, khu phố này đã đắc cách “Lưỡng Mộc thành lâm”.

• Một khu phố khác xây theo hình vuông, nằm trên một miếng đất hình vuông, tức là đắc cách: “Lưỡng Thổ thành sơn”, đều là những cách tốt.

• Một trường hợp khác như một khu phố xây theo hình vuông, tọa lạc trên một khu đất hình tam giác. Trong trường hợp này, hành Hỏa của khu đất sẽ sinh cho hành Thổ của khu phố. Như vậy, khu phố này sẽ có triển vọng phồn thịnh.

• Nếu trong khu phố này, có một tiệm bán vàng bạc, nữ trang, thì tiệm này sẽ được hưởng sự thuận lợi hơn các dịch vụ thương mãi khác chung quanh. Lý do là hành Hỏa của khu đất sinh cho hành Thổ của khu phố. Và hành Thổ của khu phố sẽ phù trợ cho hành Kim của tiệm vàng này.

Nếu cứ theo nguyên tắc tương sinh của Ngũ Hành mà suy luận, thì nếu bên cạnh tiệm vàng, có một văn phòng Địa Ốc, thì hành Thổ càng được tăng lên mạnh hơn, khiến cho hành Kim càng dồi dào.

• Và nếu bên cạnh kia của tiệm vàng, là một quán cà phê hay một văn phòng về dịch vụ du lịch, thì hành Kim của tiệm vàng lại sinh cho hành Thủy của quán cà phê hay văn phòng du lịch. Và nếu một người am tường về Phong Thủy, mở ngay bên cạnh quán cà phê này một tiệm bán bàn ghế, tủ giường thì thật là đúng cách.

Cứ như vậy, chúng ta sẽ thấy dễ dàng sự hổ tương của các dịch vụ thương mãi trong một khu phố dựa trên nguyên tắc sinh khắc của Ngũ Hành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy trong kinh doanh –

Top 3 con giáp sẵn sàng xả thân vì bạn bè

Họ không mưu cầu lợi ích cá nhân mà nghĩ tới mối quan hệ bền chặt nhiều hơn. Đó là người tuổi Thìn, Dần và Hợi.
Top 3 con giáp sẵn sàng xả thân vì bạn bè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1 - Tuổi Dần

Tính nóng như Trương Phi, nhưng người cầm tinh con hổ lại sống rất tình cảm. Con giáp này thẳng thắn, bộc trực và coi trọng tình nghĩa. Dù họ ít bạn bè, nhưng đều là tri kỉ, những người sẵn sàng xả thân vì họ và ngược lại. Hơn nữa, người tuổi Dần rất sợ phản bội, thậm chí trong cả tình bạn, nên họ cực kỳ cẩn trọng trong việc “chọn bạn mà chơi”.

Cuộc sống của người tuổi Dần sẽ trải qua nhiều sóng gió. Càng khó khăn, họ mới càng hiểu ai thật lòng với mình. Sau khi vượt qua mọi trở ngại, con giáp này xác định rõ mình có thể xả thân, hy sinh lợi ích cá nhân vì ai. Họ sẽ trả ân tình đúng như những gì mình nhận được.

Dan-7591-1444091793.jpg

No.2 - Tuổi Thìn

Người tuổi Thìn lại nổi bật với đặc trưng hào phóng, trượng nghĩa. Bạn bè của con giáp này có thể nói là vô tận. Sở dĩ họ thích giao lưu học hỏi nên tích cực tạo dựng những mối quan hệ mới một cách hồn nhiên, không toan tính. Chính điều đó sẽ là ưu thế giúp con giáp này được nhiều người hậu thuẫn khi khó khăn.

Bù lại, người tuổi Thìn cũng tỏ ra ga lăng và hết lòng trợ giúp bạn bè. Nếu là tri kỉ của họ, bạn sẽ nhận được nhiều đặc ân. Đặc biệt hơn, người cầm tinh con rồng vô cùng chiều chuộng “gấu”. Cùng bản tính phóng khoáng, họ càng không tiếc tiền bạc khi rút ví vì bạn bè.

Thin-6666-1444091793.jpg

No.3 - Tuổi Hợi

Con giáp này khôn khéo theo đúng nghĩa đen. Họ không làm việc gì mà không có mục đích. Họ có thể xác định tương lai khá xa, suy nghĩ sâu rộng nên hành động rất chắc chắn và cẩn trọng. Trong việc kết giao bạn bè cũng vậy, người tuổi Hợi luôn tươi vui, hòa đồng, nhưng khó nắm bắt đâu là tình cảm thật.

Trong mắt mọi người, con giáp này hoàn hảo không tì vết. Trên thực tế, với những ai được coi là tri kỉ, họ sống đúng với bản chất của mình hơn, sẵn sàng vì bạn mà chịu thiệt hại về kinh tế, làm đồng minh để bạn vượt qua nỗi khổ tinh thần...

Hoi-2844-1444091793.jpg


Mr.Bull (theo DZYX)

20131230909786efd046556c464ev6-7353-7158 12 con giáp có tin vui gì trong tháng 10

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp sẵn sàng xả thân vì bạn bè

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?, tu vi Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu? Chọn 1 trong 3 lá bài bên dưới và bạn sẽ biết bạn có kiên trì theo đuổi người mình yêu? Lật một lá bài để tự thú lòng mình nhé!

Quy tắc bói bài:

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân “Nếu gặp tình yêu đích thực, mình có kiên trì theo đuổi?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và click vào hình xem đáp án.

Lựa chọn 1:

lua-chon-1-ten-of-swords

Lựa chọn 2:

lua-chon-2-the-fool

Lựa chọn 3:

lua-chon-3-the-lovers

Xem kết quả

Lựa chọn 1: Ten of Swords – Bạn kiên trì như… đỉa đói

Bốc được lá bài này cho thấy bạn thuộc nhóm những người “lụy tình”. Nghĩa là bạn yêu say đắm tới mức bỏ quên tất cả, thậm chí cả phẩm giá của mình để có được trái tim người ấy. Thời gian thử thách với bạn chỉ là vấn đề nhỏ, nên dù có mất vài năm để kiên trì theo đuổi cũng không khiến bạn nản lòng. Thậm chí, bạn còn “tung chiêu” lãng mạn để cưa cẩm. Nếu gặp người thích chủ nghĩa tự do, thì kế sách dai dẳng của bạn sẽ phản tác dụng.

 

Lựa chọn 2: The Fool – Bạn kiên trì nửa vời

Nếu gặp phải đối tượng “khó tán”, bạn càng có động lực để chinh phục. Trong thời gian đầu, bạn mang nhiều cảm hứng dành cho việc cưa cẩm, miệt mài xuất hiện bên nửa kia không quản ngại nắng, mưa. Cho tới khi chưa nhận được phản hồi từ đối phương, bạn sẽ tiếp tục duy trì kế sách của mình. Tuy nhiên, nếu bị từ chối thẳng thắn, bạn sẽ nguội lạnh tình cảm rất nhanh. Kết quả là mọi sự kiên trì với tình yêu chấm dứt. Thói quen này dễ bị hiểu lầm tình cảm của bạn thiếu chân thành.

Lựa chọn 3: The Lovers – Bạn kiên trì với chiến lược hiệu quả

Bạn sống theo kế hoạch và tuân thủ nghiêm túc những gì mình đặt ra. Ngay cả chuyện tình cảm, bạn đều có lộ trình khi nào để phát triển tự nhiên, thời điểm nào cần tấn công mạnh mẽ và bằng cách nào để dứt điểm hiệu quả. Bạn sẽ kiên trì đến khi nào chinh phục được trái tim nửa kia mới thôi. Dự kiến thời gian thử thách của bạn sẽ không dài, vì bạn yêu chân thành và nghĩ đến chuyện lâu dài ngay từ ban đầu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Đặt bình hoa vị trí nào nào tốt cho gia chủ?

Việc đặt bình hoa trong nhà theo hướng hợp phong thủy không chỉ giúp cho không gian sống nhà bạn thêm đẹp, có sức sống mà còn mang lại sự giàu có, thịnh vượng và tốt cho đường tình duyên của gia chủ.
Đặt bình hoa vị trí nào nào tốt cho gia chủ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, đào hoa vị là huyệt đạo nếu được tác động sẽ có tác dụng làm tăng vận khí đào hoa của người sống trong ngôi nhà đó. Đặt bình hoa ở đúng vị trí đào hoa của mỗi người sẽ rất tốt cho chuyện tình duyên của gia chủ:

Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo tuổi, vị trí này phân bố như sau:

- Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa ở hướng chính Đông, do đó nên bài trí bình hoa ở hướng chính Đông.

- Tuổi Thân, Tí, Thìn: nên bài trí bình hoa ở hướng chính Tây.

- Tuổi Tị, Dậu, Sửu: nên bài trí bình hoa nằm ở hướng chính Nam.

- Tuổi Hợi, Mão, Mùi: nên bài trí bình hoa ở hướng chính Bắc.

Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo màu sắc thì cần tìm những màu chủ đạo của bình hoa, cụ thể như sau:

- Đào hoa ở hướng chính Đông: Đặt bình hoa màu xanh lục.

- Đào hoa ở hướng Tây: Đặt bình hoa màu vàng kim (vàng óng), màu trắng.

- Đào hoa ở hướng Nam: Đặt bình hoa màu đỏ, tím, cam.

- Đào hoa ở hướng Bắc: Đặt bình hoa màu đen, xám.

Đặt bình hoa theo chất liệu và hình dáng bình.

Trong phong thủy học, bình cắm hoa tốt nhất là bằng chất liệu gốm hoặc sứ. Bình hoa bằng sứ nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, còn bình hoa thuỷ tinh nên đặt ở phía Bắc trong phòng hay ngôi nhà. Hình dạng bình hoa cũng rất quan trọng, bình hoa có hình dạng khác nhau nên đặt ở các hướng khác nhau. Các loại bình hoa hình cầu nên đặt ở hướng bắc hoặc tây bắc, hình nón nên đặt ở phía Nam.

Đặt bình hoa trong phòng ngủ là tốt nhất

Phòng ngủ là nơi tốt nhất để đặt bình hoa. Trong nhà bạn có thể đặt nhiều bình ở những hướng tốt. Nếu bình bằng thủy tinh, gốm sứ đựng nhiều đá quý, thuộc hành Thổ, bạn nên đặt bình ở trong tủ thuộc góc Thổ của phòng ngủ, tức là hướng Tây Nam. Song nếu không có điều kiện, bạn đặt ở góc Đông Bắc cũng có thể chấp nhận được. Còn bình bằng kim loại thì đặt ở góc Tây hoặc Tây Bắc. Bạn nên đặt bình vào nơi kín đáo, ví dụ trong tủ của phòng ngủ.

Ngoài ra, đối với phái mạnh, dù đã cao tuổi hay còn thanh niên, nếu muốn thu hút sự chú ý của phái nữ có thể đặt một bình hoa với vài cành hoa tươi ở vị trí bên phải cửa ra vào.

5 lưu ý quan trọng khi đặt bình hoa trong nhà

- Không để bình hoa rỗng trong nhà, nếu không sẽ khiến vợ hoặc chồng ngoại tình

- Thường xuyên thay nước hoặc bổ sung nước cho bình hoa, để nước bị hao hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như tài sản trong gia đình

- Hạn chế cắm hoa khô/hoa giả, sẽ làm căn nhà không có sức sống, gây nên một số trở ngại. Nếu đặt bình hoa khô/hoa giả thì phải để một lọ nước hoa bên cạnh.

- Hoa úa phải bỏ/thay ngay, để lâu ngày sẽ phá hỏng bầu không khí trong gia đình.

- Không gian xung quanh nơi đặt bình hoa phải sạch sẽ, gọn gàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt bình hoa vị trí nào nào tốt cho gia chủ?

Những yếu tố bố cục phong thủy mới mẻ là gì? –

Trường khí của văn phòng làm việc thường sẽ ‘cứng” hơn một chút so với trường khí trong nhà mình, cho nên có thể đặt những bức tranh mềm mại. khi lượng công việc lớn, cũng có thể ung dung mà thực hiện, khi nói đến lương thường tất nhiên sẽ dễ bể dự l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

iệu.

bo-tri-ban-lam-viec-theo-phong-thuy

Bạn có thể không biết, hướng tay phải có thể theo long vị của mỗi người, nếu đặt những đồ đạc linh tinh đều chọn bên phải, đương nhiên không dễ tìm thấy tiền đâu.

Khí thông nhân tâm thoải mái, trên bàn làm việc đặt một chiếc quạt nhỏ, có thể tăng cường trường khí của chỗ ngồi gần đó được thông suốt, lâu dần, nhân khí tăng lên, sẽ rất nhanh chóng đạt được hồi ứng thiện ý của chủ quân.

Cũng có thể mua một chiếc đèn bàn bạn thích đặt bên trên chỗ ngồi, khi đi làm thì bật, năng lượng lưu động tốc độ cao ấm áp bên trên, khiến cho vị trí của bạn có thể vì nhân tụ nhi tiền tụ.

Bên cạnh chỗ ngồi, có thể đặt trên đó một bồn cây nhỏ, nhưng nhớ rằng phải lựa chọn những loại cây lá to, giúp bạn nâng cao được tài vận.

Có người thích đặt một số hòn đá mình yêu thích lên trên bàn, cũng không biết rõ hòn đá đó những ám khí rất nặng, đặt ở bàn sinh tài thì đó không phải là biện pháp thông minh.

Điểm này là điểm mà người ta dễ bỏ qua và xem nhẹ, chính là phải tránh tầm mắt đúng vào chỗ góc nhọn của cắc đồ dùng và bức tường, bởi vì góc nhọn nhìn lâu thần tài sè đi xuống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những yếu tố bố cục phong thủy mới mẻ là gì? –

Nghĩ về tướng số

Bài viết của tác giả Đông Nam Á về vấn đề tướng số. Một quan điểm rất hay!
Nghĩ về tướng số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả ĐÔNG NAM Á

Ý nghĩa 12 cung trong số Tử vi quả là tinh tế, huyền nhiệm nhưng cũng rất đơn giản, dễ hiểu vì 12 cung chỉ là 1 vòng tròn mà trên đó, số mệnh con người được ấn định. Nếu hiểu được Đạo mà vòng tròn là biểu tượng thì cái ý nghĩa 12 cung nó hiển lộ ngay trên cuộc sống của mỗi người. Vậy thì 12 cung, theo thứ tự, đã lần lượt chỉ cho ta thấy cuộc đời mỗi người. Hiểu ý nghĩa sự sống, hiểu ý nghĩa nhân sinh, đạt được cái mục đích của đời người, đắc được cái Đạo Dịch Lý hoặc Đạo Thánh Hiền và riêng trong Tử Vi, 12 cung đã được Trần Đoàn sắp xếp có tôn ti trật tự, thiết tưởng ý nghĩa đó không có gì là khó khăn, rắc rối, không có chi mà tăm tối, mông lung…

Dù sao, cũng kinh nghiệm, cũng đã từng 1 sống 2 chết, thiết tha với Tử Vi lắm lắm mới có thể cả gan dám phát biểu như trên. Nhưng nói thì dễ, thực ra, qua mấy chục năm mà tôi vẫn chưa thấy Chân lý Tử Vi – đôi khi lại còn hoang mang, bực tức hoặc buồn phiền vì thấy những sự trái tai gai mắt trong làng tướng số. hoang mang cũng phải, vì khi thì thấy ông thầy này “bịa” ra ngôi sao Bắc Đẩu; ông thầy kia “phịa” ra ngôi sao Nam Tào và cho là khám phá mới; hoặc có thầy thì lại tuyên xưng cho mình những danh hiệu hết sức li kỳ. Cái long hoang mang của tôi không phải là thiếu lòng tin vào chính mình, mà thật ra là để nghi ngờ đúng theo tinh thần Tử Vi vậy. Nếu người ta có cuốn Tự điển về tinh tú Tử Vi thì có lẽ ngày nay phải in thêm vào đó những ngôi sao mới cho kịp đà tiến hóa của khoa Thiên Văn Học

NẾU LÀ NHÀ TƯỚNG SỐ ĐẮC TRUYỀN

Nói cho vui vậy thôi, chứ chính lý ra mỗi lá số chỉ có khoảng 108 vị sao và vài trăm cách tốt xấu. Cho nên, khi là nhà Tướng Số đắc truyền, chỉ cần xét cá nhân ấy được tốt về những sao nào hay xấu về mấy sao. Và nguyên tắc để minh chứng cho những điều khen hay chê, tốt hay dở về các sao đó đều phải băng vào quá khứ mấy ông thầy đoán đó.

Ví dụ như thầy bói khen là:

“Phúc đức của ngài lớn lắm! Nhờ vào cung này nên ngài….thế này….lại được thế kia….”
Hoặc lại biết than chủ học cao, chức vụ lớn, tiền tài to tát, tuổi lớn thì ông thấy càng nói được những điều tốt lành, hoặc khuyên nhủ, hoặc chê bai….
Còn trường hợp ông thầy cứ khen nức nở, đoán rồi sẽ giàu sang phú quý…tòa những chuyện tương lai …thì ai đoán chả được. hoặc những chuyện thường (??) lý thì ai nói cũng đặng

NÓI BỪA TƯƠNG LAI

Có 1 điểm tệ hại là, thầy bói nào cứ căn cứ vào chuyện thị phi, lòng tham sân si của người cầu biết việc mai sau mà cứ dựa vào điểm đó để tha hồ nói nhăng nói cuội thì quả là 1 cái tội đáng bị…cụt lưỡi!

Nếu có người khách hỏi về con cái họ, tương lai của những trẻ mươi tuổi, thì phải căn cứ vào đâu mà đoán và phải dựa vào đâu để tối thiểu những lời đoán có minh chứng, có mạch lạc sáng sủa để người khách tin tưởng?

Xin trả lời là, trên căn bản của phép đoán, trước nhất phải xét đoán bậc cha mẹ, gia thế của người đó thuộc loại nào, như về công danh hoặc tiền bạc. Thứ đến là xét đoán về anh chị em đứa trẻ đó, nếu đứa trẻ đã mươi tuổi thì xét sức học của nó, tính tình và sức khỏe nó. Sau cùng mới dung đến phép luận đoán của tướng số mà nói về tương lai của đứa trẻ. Cứ nói theo khả năng của mình và đừng sợ sai. 10 câu đoán thì cũng phải 5 câu đúng. Vả lại, mục đích khi luận giải về tương lai trẻ là có ý để bố mẹ nó để ý đến việc giáo dục và đời sống nó, tức là chú tâm đến tương lai nó, dù tương lai đó sẽ tốt đẹp hoặc kém cỏi.

VÀI PHÉP ĐOÁN

Tôi chỉ xin bàn sơ về phép đoán, về nguyên tắc căn bản của Tử Vi. Mỗi lá số, dù chỉ được 1 hoặc 2 cách cũng đủ “cuộc đời lên hương”. Chỉ đắc 1 hay 2 cách thôi cũng ví như “1 viên kim cương nằm trong 1 nắm cát”, đủ làm cho cả lá số trở nên tốt đẹp. Trái lại, nếu xé vào cách xấu thì cả lá số đó cũng hư tuốt, cũng ví như 1 viên kim cương nằm trong nắm cát, viên kim cương đó bị nứt, bị sứt mẻ hoặc màu sắc loạn thì cũng vô giá trị.

Tuy nhiên, số mạng còn cần có 1 yếu tố khác nữa là: gặp vận tốt hoặc hạn xấu hay không. Sự may rủi có đến đúng lúc, hợp thời thì mới ích lợi, chẳng hạn như giữa mùa hạn hán gặp 1 trận mưa rào đổ xuống còn quý hơn gấp vạn lần là mưa vàng, mưa bạc hơn nữa, 1 bát nước đôi khi còn quý hơn 1 lạng vàng. Bởi vậy, 1 nhà Tướng số phải thấu triệt nhựng điểm căn bản đó, phải vượt qua những thành kiến của chính nghề mình và những thành kiến của khách thì những lời giải đoán của mình mới có thể tiến gần tới chân lý được.

12 CUNG SỐ

Bây giờ xin trở lại 12 cung số

Theo ngu ý của tôi, có lẽ Trần Đoàn đã ngầm gởi lại cái ý nghĩa của sự “tiếp nối” của con người, như ta có thể thấy trong 1 lá số Tử Vi:

Cung Phụ Mẫu ở ngay sau cung Mệnh, tức hàm 1 ý nghĩa là con người phải chịu 1 nguyên tắc cố định là do cha mẹ sinh ra. Nếu tính thuận thì cung Phụ Mẫu là vòng chính (thuận). Tại sao từ cung Mệnh trở đi lại theo vòng nghịch, cha mẹ sinh ra mình.

Rồi sau cung Mệnh, chúng ta thấy cung Huynh đệ. Điều này cho ta nhận rõ là khi con người còn thơ ấu đã có lien hệ mật thiết với an hem ruột thịt cho tới lúc thành nhân và cho cả tới chết.

Kế đến, khoảng thời gian từ 20-30 tuổi gặp ảnh hưởng cảu cung Phu/Thê, tức là thời kỳ hôn nhân. Đã thành vợ chồng rồi ắt là phải có con, và chúng ta thấy cung Tử tức nằm kề bên.

Đã đeo mang vợ con gia đình thì phải tìm cách sống, phải thỏa mãn mọi nhu cầu. Cho nên khoảng 30-40 tuổi ta thấy cung Tài, tức cung tiền bạc. Cung này thật quan trọng, nó cho thấy người ta phải bon chen 1 cách lẹ làng, khôn ngoan…để có tiền.

Thời gian ở cung Tài là thời hoạt động xông xáo, nắng mưa, cực nhọc và phiền não cho nên rất dễ đưa tới bệnh tật, đau ốm, bởi vậy ta thấy cung ách nó đi theo sát ngay sau.

Và cũng bởi cần thỏa mãn như cầu của gia đình về tiền bạc và sức khỏe….để bảo toàn hạnh phúc, không phải chỉ ngồi 1 xó trong nhà mà có tiền, trái lại phải đi nơi này, chạy nơi khác, hết phố này đến đường kia, cho nên đã có ngay cung Di cho ta thấy đi đây đi đó như thế nào.

Kế tiếp cung Thiên Di là cung Nô, cung bạn bè. Vì khi ra đời, đi đây đi đó, va chạm với mọi người thì phải lựa người mà chơi, kén bạn chọn bè. Có câu:”Giàu về bạn” thật chí lý.

Nếu Thân ta giàu, công danh lớn, làm quan tướng hoặc nói theo ngày nay là làm tổng này tổng nọ thì bạn bè ta ắt cũng thuộc ngang như ta. Cho nên kế cung nô là cung Quan vậy.

Khi đã công danh, quan tước là lúc có tiền bạc, sẽ tới việc mua nhà, tậu ruộng, lập vườn mở đất đai cho phì nhiêu phong phú. Vậy kế cung Quan là cung Điền.

Nhà cửa, tiền tài, danh vọng đã có, tức là nền tảng đã chắc thì trong giai đoạn cuối này mới nói đến phúc đức. Lúc này đây mới biết rõ ai là người ngay chính, ai là kẻ gian tà, vì nếu trong giai đoạn này, nếu ai bị tán gia bại sản, con cháu lao đao lận đận thì có lẽ đó là cái quả phải chịu….Còn nếu an cư tuổi già 1 cách thanh tịnh, điềm đạm, con cháu hòa thuận, học hành tiến triển thì đó là cái quả được hưởng của cả 1 đời xây dựng, hoặc được con cháu tận tụy, dưỡng nuôi hiếu thuận.

Dù sao cũng nên hiểu tất cả các cung điều chỉ là tương đối và đều ảnh hưởng vào nhau. Không có lá số nào là hoàn hảo, vô phúc hoặc đại phúc. Có thì chỉ là họa hoãn và đại phúc thì khó giữ được bền lâu.

Có trời đất thì cũng có ta. Con người tuy nhỏ bé nhưng định mệnh dù đã được an bày, con người vẫn mãi mãi tồn tại trên Trái Đất trong sự tiếp nối vô tận. Định mệnh không hủy diệt được con người, chỉ con người mới tiêu diệt được đồng loại thôi.

Và nên nhớ, 1 lá số đã được viết cho 1 người, mệnh kẻ đó đã được định thì đó là 1 đại phúc chứ không phải 1 tai họa. Nhất là giữa thời buổi tăm tối hiện nay, người ta không còn tin vào chính mình nữa nên mới tìm đến lý số thì cũng nên chờ đợi 1 hài nhi sang láng nào đó xuất hiện trên đời, thắp sang cây đuốc dẫn mọi người thoát khỏi si mê…

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghĩ về tướng số

Xem tướng qua cử chỉ –

1. Người mắt xếch và tròng mắt luôn đảo đi đảo lại. Tính cách: Giảo hoạt, xoay xở trong cuộc sống. 2. Người đi đứng đàng hoàng, lúc nào cũng trầm mặc, đoan trang. Tính cách: Tính tình kiên trì, nhẫn nại. 3. Cử chỉ luôn dè dặt, giữ ý tứ khi giao tiếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

953670169601aa.img

1. Người mắt xếch và tròng mắt luôn đảo đi đảo lại.
Tính cách: Giảo hoạt, xoay xở trong cuộc sống.

2. Người đi đứng đàng hoàng, lúc nào cũng trầm mặc, đoan trang.
Tính cách: Tính tình kiên trì, nhẫn nại.

3. Cử chỉ luôn dè dặt, giữ ý tứ khi giao tiếp.
Tính cách: ích kỷ và cơ hội. Người hay đa nghi không thích người ta nhận xét về mình.

4. Cử chỉ tự nhiên rết bình thường mọi lúc.
Tính cách: Tính người ngay thẳng, khoan dung.

5. Cử chỉ có vẻ nhút nhát, rụt rè hay cúi đầu dáng sợ sệt, tự tin.
Tính cách: Bản chất không chính trực, mưu mô ngầm.

6. Người ngồi co rúm vai, đầu cúi, vểnh tai nghe ngóng.
Tính cách: Tính khiêm nhường và tận tụy trong công việc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua cử chỉ –

Cách hóa giải gương vỡ –

Điềm gương bể, rất có nhiều khả năng trong gia đình gặp chuyện chẳng lành. Trong trường hợp này: Lấy một tấm vải đen, nhặt tất cả mãnh vỡ của gương gói trong mãnh vải đen ấy chôn sâu ở sân sau hoặc góc vườn, sẽ hóa giải được điềm xấu.  

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cách hóa giải gương vỡ

Điềm gương bể, rất có nhiều khả năng trong gia đình gặp chuyện chẳng lành. Trong trường hợp này: Lấy một tấm vải đen, nhặt tất cả mãnh vỡ của gương gói trong mãnh vải đen ấy chôn sâu ở sân sau hoặc góc vườn, sẽ hóa giải được điềm xấu.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải gương vỡ –

Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời

Không khó để các quý cô có thể quan sát được dấu hiệu bàn tay đàn ông phú quý, đối tượng mà bạn có thể trao thân gửi phận suốt cuộc đời.
Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không khó để các quý cô có thể quan sát được dấu hiệu phú quý trên bàn tay đàn ông, đối tượng mà bạn có thể trao thân gửi phận suốt cuộc đời.



1. Ngón tay giữa dài

Đàn ông sở hữu tướng tay mà ngón tay giữa khá dài (so với các ngón tay còn lại), chứng tỏ có khát khao lớn về quyền lực cũng như cuộc sống giàu sang, phú quý. Mục tiêu lý tưởng trong cuộc đời họ chính là có được cuộc sống đại phú đại quý, vang danh thiên hạ.

Ước muốn đó hoàn toàn có thể trở thành sự thật khi trong người họ sẵn có chí tiến thủ, lòng quyết tâm cao độ và sức kiên trì dẻo dai. Phong cách làm việc của họ phóng khoáng, không câu lệ tiểu tiết, lại quyết đoán và tự tin, không vì cái lợi nhỏ nhặt trước mắt mà mù quáng, bỏ lỡ cơ hội lâu phát triển lâu dài.

Quyết định trao gửi cuộc đời cho người đàn ông này là hoàn toàn đúng đắn. Cuộc sống sau hôn nhân khá hài hòa, hạnh phúc. Bạn chỉ cần lo tốt chuyện con cái, cách đối nhân xử thế trong gia đình, còn những việc khác là do chàng gánh vác hết.

Nhin ban tay dan ong phu quy de trao gui cuoc doi hinh anh
 
2. Các ngón tay khít nhau


Khi để xòe bàn tay một cách tự nhiên, quan sát thấy các ngón tay khít nhau, dường như không có khe hở là những dấu hiệu cho thấy chủ nhân có khả năng kiếm tiền và giữ tiền rất tốt.

Nói như vậy không có nghĩa là người này ki bo, ích kỷ. Họ chi tiêu có kế hoạch rõ ràng, chỉ xuất tiền cho việc đáng dùng tới, chứ không tiêu xài hoang phí, bừa bãi.

Nhìn chung tài vận của người này khá tốt. Cuộc sống không phú thì quý, không phải chịu gánh nặng hay áp lực về kinh tế. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận biết của bàn tay đàn ông phú quý, các nàng có thể yên tâm trao thân gửi phận.

3. Bàn tay nhiều vân Tiền tài

Vị trí vân Tiền tài nằm ở phần giữa gốc ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn. Tại đó, số lượng đường vân này càng nhiều, vân đậm, rõ nét thì tài lộc càng vượng, tiêu tiền cả đời không hết, cuộc sống đại phú đại quý. Họ sẽ là chỗ dựa tinh thần và vật chất vững vàng cho nửa kia.

Nhin ban tay dan ong phu quy de trao gui cuoc doi hinh anh 2
 
4. Lòng bàn tay nhiều đường vân Tài khố


Khi những đường vân trong lòng bàn tay giao nhau, tạo thành hình vuông hay hình tam giác, người ta gọi đó là vân Tài khố (những hình khép kín như kho tiền của). Dù là nam hay nữ giới, sở hữu nhiều đường vân này trong tay thì tiền tài dồi dào, gặp nhiều may mắn về phương diện tiền bạc, vật chất, khả năng phát tài cao.

5. Lòng bàn tay dày dặn


Lòng bàn tay dày mang ý tài vận và sự nghiệp có nền tảng vững bền. Dù là trong cuộc sống hay công việc, người này đều quyết tâm cao độ, lúc nào cũng tràn đầy nhiệt huyết, muốn cống hiến năng lực thực thụ để khẳng định bản thân trước mọi người xung quanh.

Ngoài ra, người này sở hữu trí tuệ minh mẫn, tư duy linh hoạt, cộng thêm sức kiên trì bền bỉ, nên làm đâu thành đó, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý khi về trung vận.

Nam con giáp dễ sinh hư khi có nhiều tiền
Ông cha ta thường nói: đàn ông lắm tiền sinh hư, đàn bà hư thì có tiền.Liệu bạn có phải là con giáp nam dễ sinh hư khi có tiền?
6. Gò Thái Dương nhô lên


Vị trí gò Thái Dương chính là ở gốc ngón tay đeo nhẫn. Nếu gò này nhô lên cao, chứng tỏ khả năng kiếm tiền của bạn rất giỏi. Công việc thuận lợi, thường xuyên được nhận tiền thưởng. Tài vận tốt, không ít lần nhặt được tiền rơi.

Nhưng trên hết, ý thức tích lũy tiền bạc của bạn là quan trọng hơn cả. Thay vì làm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, bạn biết cách chi tiêu có kế hoạch, lại biết lo xa nên hiếm khi rơi vào tình trạng trắng tay hay phải vay mượn bạn bè.

Ngọc Điệp

Xem thêm video: Muốn được tất cả, hãy học cách buông bỏ


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời

Thờ Ông Địa, Thần Tài, Ông Táo

Bàn thờ Ông địa – Thần tài và Ông Táo thuộc bản chất Trường Khí phòng thờ (hay bàn thờ) mang tính Âm, không nên phô trương vì mang tính đối nội nhiều hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Về Ngũ Hành thì các loại bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc, là 2 hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày. Trừ bàn thờ Ông Địa Thần Tài mang tính chất tín ngưỡng dân gian vì thế mọi nhà đặt gần giống nhau, như đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, còn lại bàn thờ gia tiên và tôn giáo riêng của mỗi gia đình mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách, mà phải ở trên cao để không ai bước qua lại trên bàn thờ.

Ngoài bàn thờ Ông Địa Thần Tài, người ta còn có trang thờ, bàn thờ ông Táo. Bàn thờ ông Táo được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định họa phước, trừ ma diệt quỷ.

Riêng các vị Thần Tài, Ông Địa chỉ thờ dưới đất, được lý giải bởi một truyền thuyết sau :

- Ngày xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt. Âu Minh đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to. Về sau, đúng vào một hôm ngày tết, Âu Minh giận, bèn đánh Như Nguyệt. Sợ hãi, Như Nguyệt chui vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết.

Người ta bảo Như Nguyệt là Thần Tài và người ta lập bàn thờ Như Nguyệt. Từ đó, ngày tết ta có tục kiêng hốt rác ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt, tiến tới được.

Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một phiên bản của Thần Đất (Thổ Địa) – vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời, đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng, mùa màng bội thu. Khi những cư dân từ miền Trung vào khai khẩn vùng đất Nam bộ, họ gặp phải rất nhiều khó khăn (thiên nhiên khắc nghiệt, thời tiết thất thường, thú dữ hoành hành…) và ý niệm trông mong vào các vị thần bắt đầu hình thành để giúp họ trấn an trên con đường mưu sinh.

Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.

Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng.

Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lộc tấn. Vì vậy, người dân hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa – vị thần cai quản đất đai, nhà cửa.

Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.

Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.

Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.

Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng.

Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lộc tấn. Vì vậy, người dân hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa – vị thần cai quản đất đai, nhà cửa.

Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.

Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.

Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà về sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiền bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.

Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng Thần Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên gối, mặc áo thụng, chân đi hài đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc tượng Thần Tài ngồi với tư thế chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. Sau này có loại tượng Thần Tài cầm xâu tiền hoặc cầm một thoi vàng xuồng.

Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lộc tấn. Vì vậy, người dân hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với Thổ Địa – vị thần cai quản đất đai, nhà cửa.

Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.

Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.

SẮP ĐẶT BÀN THỜ THẦN TÀI – ÔNG ĐỊA

Trong cùng bàn thờ, hai bên, bên trái (từ ngoài nhìn vào) là ông Thần tài, bên phải là Ông Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định. Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ, quý bạn nên dùng keo dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang, mọi chuyện trở nên trục trặc liền. Theo nguyên lý “Đông Bình – Tây Quả”, quý bạn đặt lọ hoa bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái (nhìn từ ngoài vào). Thường nên cắm hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Trái cây nên xắp ngũ quả (5 loại trái cây). Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng, người ta có một cái khay xếp 5 chén nước hình chữ Nhất – , các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập, tượng trưng cho ngũ phương, và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển. Ông Cóc để bên trái (từ ngoài nhìn vào), sáng quay Cóc ra  tối quay Cóc vào. Ngoài cùng trên mặt đất, các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp, nông lòng, đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước (cái này làm Minh Đường Tụ Thủy – Một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi).

Một số người trong khi cúng Thần Tài – Ông Địa, thường cúng kèm theo một đĩa tỏi có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi. Họ cho rằng: ông Địa thích tỏi lắm, nên ta đặt trước mặt ổng là đúng cách, cho ổng có phương tiện để bài trừ “các đạo chích vong binh” ám muội. Người âm chớ cũng có người tốt kẻ xấu như thường, giống y người dương mình vậy. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho rằng, dùng bó tỏi để phòng chống các Tà sư làm ác, phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa, Ngải. Tỏi có tác dụng tránh được điều đó (các người luyện Bùa, Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân: Hành, Hẹ, Tỏi, Nén, Kiệu).

CÁCH ĐẶT BÀN THỜ:

Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài – Ông Địa là có thể đặt theo hướng tốt của chủ nhà, có thể đặt theo cách hứng lấy dòng Khí bên ngoài khi vào nhà. Có thể dùng phương pháp Điểm Thần Sát để tính, chọn lấy các cung THIÊN LỘC, QUÝ NHÂN để đặt vị trí bàn thờ. HƯỚNG BÀN THỜ THEO CUNG TỐT CỦA GIA CHỦ. Nhưng nhất quán một điều bàn thờ phải nhìn ra cửa.

1/ THIÊN LỘC: Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can, tính của Ngũ hành, Lâm quan tới cát. Lâm quan là thời đương thịnh đang lên phơi phới, là đúng Đạo sinh thành, gần tới Vượng mà là Lộc bởi đã Vượng thì Thái quá. Lộc là cách có Lộc ra chính môn. Nhà có cách này là cát khánh rất tốt.

Lộc ra chính Môn (cửa chính) sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc, gia sản thăng tiến, điền trang vượng. Thường sinh người béo tốt, thông minh, tuấn tú lại khéo léo tài năng, kinh doanh giỏi, làm ăn tiến phát.

Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh – Vượng Lộc, tránh không vong tử, tuyệt. Nếu Mộ, Không vong, Tử, Tuyệt thì Khí tán không tụ tức vô dụng. Có Lộc cũng như không. Tài sản dù có như nước rồi cũng tiêu tan hết. Đó gọi là Tuyệt Lộc. Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo, con gái nhỏ thì khả ái lớn thành ngỗ nghịch. Trong gia đình hay sinh nội loạn, cãi vã cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên. Lộc cung là Cát cung, vì vậy ngoài cách đặt ở cửa chính còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giường ngủ. Tất cả được Lộc đều tốt. Tuy nhiên. Lộc phải nằm đúng cung tài là cư Lộc mới đắc cách tốt đẹp.

2/ QUÝ NHÂN: Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù.
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh, Gia đạo bình an, hòa thuận, hỉ Khí đầy nhà luôn gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trợ là Thần giải tai ách, nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ, gặp ách có người giải cứu, gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh, công danh thành đạt, dễ thăng quan tiến chức, học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp. Quý nhân gặp sinh, Vượng, thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, thẳng thắn mà ôn hòa, khôi ngô tuấn tú. Nếu ngộ Không vong, Tử, Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh, bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn thất, kiện cáo, thị phi. Lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà suốt đời vất vả, không nên người. Quý nhân ra Thai Khí, nếu lại ngộ Đào hoa thì nam nữ tuy thông minh tuấn tú, nhưng nam thì hiếu sắc nữ thì dâm đãng, làm bại hoại Gia phong, lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải, tự vẫn vì tình.

Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý, nên gia vào cung nào cũng rất tốt, ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giường ngủ đều tốt. Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh, như vậy sẽ được âm Linh phù trợ. Không được để phòng tắm, nhà vệ sinh vào cung Quý nhân, vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên, nữ nhân thiếu máu động thai, sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục, làm điếm, cuối cùng phải tự vẫn. Tài sản tiêu tan, yêu ma hoành hành, gia đình có người bị cướp bóc, chém giết máu me thảm khốc, bệnh tật đau khổ triền miên. Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường.

Nhưng muốn đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ phải quang đãng, sạch sẽ (không như nhiều người nghĩ và đặt bàn thờ vào gầm, vào chỗ tối tăm). Ông Địa và Thần tài tuy thờ dưới đất nhưng tính rất thích thơm tho, sạch sẽ. Thường nên để sẵn một lọ nước hoa, lâu lâu lại xịt vào bàn thờ cho thơm.

PHƯƠNG VỊ SINH TÀI 

Một việc từ nhà thường cho đến cơ sở kinh doanh mua bán đều quan tâm là phương Sinh Vượng và cách đặt Tài Thần.

Phương vị này còn được gọi là “TÀI VỊ”, nó khác với phương Chính Thần trong Huyền Không học. Có 3 thuyết nói về phương vị này khác nhau :

- Thuyết thứ nhất là theo trường phái Huyền Không, chọn phương Chính Thần làm phương của TÀI VỊ.

- Thuyết thứ hai là theo Phi Tinh của Huyền Không, cho rằng phương của Tam Bạch phi đến mới là phương của TÀI VỊ. Tam Bạch chính là: Nhất Bạch, Lục Bạch và Bát Bạch.

- Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm phương TÀI VỊ.
Đa số người chọn theo thuyết thứ 3. Hai thuyết trên nói cũng có lý nhưng không thích hợp lắm. Nếu 1 lúc nào đó Vương Khí Chính Thần hay Tam Bạch Tinh phi đến phương vị Cửa, chẳng lẽ đem Tài Thần ra đặt ở đấy ? Huyền Không Phi Tinh có nhiều điểm rất hay, nó có thể giải thích các hiện tượng động đất, sụp lỡ, hỏa hoạn, trộm cướp, chết người, đau bệnh, làm ăn thua lỗ v.v… mà các trường phái Bát Trạch Minh Cảnh và Dương Trạch Tam Yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì các trường phái kia thuộc TĨNH, các phương vị an sao đều cố định nên gặp nạn tai thì không thể nói được khi nhà và Sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như lúc đầu. Còn trường phái Huyền Không thì các Phi Tinh luân chuyển, khó có được năm tháng ngày giờ trùng Sao lại như nhau (năm và tháng còn có thể nhưng thêm ngày và giờ thì rất hiếm hoi). Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác, đi kèm với Sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi, hoặc còn ảnh hưởng với Sao của Trạch Vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau.

Sự huyền diệu của Phi Tinh là vậy, nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các Vượng Khí, Phi Tinh vào Dương Trạch, phải biết lúc nào áp dụng cho thích hợp. Không phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào bởi nó là nơi tập trung Quyền lực trong căn phòng.

Theo thuật phong thủy thì tại phương TÀI VỊ này, người ta thường đặt các cây xanh lá to hay các tượng Tài Thần. Phương TÀI VỊ này có 1 số điều nên và không nên như sau :

1/. Các điều NÊN ở TÀI VỊ :

- Nơi phương TÀI VỊ nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng Dương, thích Hợp với Dương Khí. Sinh Khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này tuyệt đối không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn.

- Nơi phương TÀI VỊ nên có Sinh Cơ, tức là chỉ nơi đây thiết bày cây xanh là tốt, phải nhớ là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn (nê thổ), không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên kiếm các loại cây lá to, dầy, lá xanh mãi như cây Vạn Niên Thanh chẳng hạn.

- Nơi phương TÀI VỊ tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy, để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó, hít thở không khí của TÀI VỊ hay nói cách khác là được thấm nhuần nguồn TÀI KHÍ nơi đó, sẽ giúp ích cho Tài Vận người trong nhà.

- Nơi phương TÀI VỊ nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán luôn khuyên “đặt giường chéo góc với cửa phòng”, có điều họ không nói rõ thôi. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghĩ nơi đó, thường xuyên hít thở nguồn TÀI KHÍ nơi đó cũng rất tốt cho Tài Vận vậy.

- Nơi phương TÀI VỊ nên đặt vật hay biểu tượng Cát lành. Bởi phương này là nơi Vượng Khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm 1 biểu tượng Cát Lành thì tốt càng thêm tốt, như gấm thêu thêm hoa vậy.

2/. Các điều KỴ của TÀI VỊ :

- Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm tổn hại đến Tài Vận của phòng đó

- Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ THỦY. Đấy cũng là lý do vì sao ở trên kia lại bảo nơi đây không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là Cát Thần tọa vị, nay ta đem nước đến là Cát Thần lạc Thủy khéo hóa ra vụng!

- Nơi phương TÀI VỊ phía sau nên có tường che chắn, không thể trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục “Tàng phong Tụ khí” trong phong thủy, Tài Vận mới tụ được.

- Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ v.v.. sẽ làm tổn hại Tài Khí nơi đó.

- Nơi phương TÀI VỊ là nơi Cát Thần tọa vị nên ĐẠI KỴ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế, bụi bậm nơi đây.

- Nơi phương TÀI VỊ không nên để tối tăm, vì u tối thì Sinh Khí không sinh sôi được, sẽ ảnh hưởng đến Tài Vận, sinh kế.

TÀI THẦN

Nói đến Tài Thần thì có lẽ không ai không biết đấy là vị Thần ban phước lộc, tiền tài, của cải cho mọi người. Thần Tài được đề cập đến trong bài không phải là Địa Chủ Tài Thần mà mọi người hay thờ. Địa Chủ Tài Thần là 1 khuôn bài vị với 2 dòng chữ ở giửa là: NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN mà mọi người hay thờ, 2 bên có 2 câu đối (“Kim chi sơ phát diệp – Ngân thụ chánh hoa khai”, hay là “Thổ vượng nhân tòng vượng – Thần an trạch tự an”, hay là “Thổ năng sinh Bạch ngọc – Địa khả xuất Hoàng kim”).

Ngày xưa người ta thường thờ Địa Chủ Tài Thần bên trong, bên ngoài thờ Môn Thần; ngày nay do nhiều nơi không thờ cúng bên ngoài nên chỉ còn thờ mỗi Địa Chủ Tài Thần bên trong, coi như vị Thần này kiêm luôn việc bảo hộ cho Trạch Chủ, không cho tà ma xâm nhập.

Tài Thần đề cập ở đây là tượng Văn-Võ Tài Thần theo quan niệm người Hoa (vì vốn dĩ thuật phong thủy truyền từ Trung Hoa sang đây nên soạn theo tư liệu của người Hoa).

A/ Văn Tài Thần :

Chia làm 2 là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa Tinh:

- Tài Bạch Tinh Quân: Ngoại hình như 1 vị trưởng giả giàu có, mắt trắng râu dài, người mặc áo gấm thắt đai ngọc, tay trái ôm 1 thỏi Kim Nguyên Bảo (thỏi vàng mả người ta hay để chưng nơi Thần Tài, nó cũng là 1 dụng cụ hóa sát trong phong thủy), tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ “Chiêu Tài Tiến Bảo”.

Theo truyền thuyết ông vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới, chức tước là “Đô Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân”, chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ. Nên người ta hay đặt tượng ông nơi TÀI VỊ, có người còn thờ ông nữa (TƯỢNG DI LẶC PHẬT VƯƠNG)

- Tam Đa Tinh: Nghe tên thì thấy lạ, nhưng thật ra đó là Phước Lộc Thọ Tam Tinh đấy thôi.

Phúc Tinh tay ôm đứa bé tượng trưng có con thì vạn sự đủ phúc khí. Lộc Tinh mặc triều phục sặc sỡ, tay ôm Ngọc Như ý, tượng trưng thăng quan tiến chức, thêm tài tăng lộc. Thọ Tinh tay ôm quả đào thọ, mặt lộ vẻ hiền hòa, hạnh phúc tượng trưng cho an khang trường thọ.

Trong 3 vị chỉ có Lộc Tinh mới là Tài Thần nhưng do xưa nay Tam vị nhất thể đi chung không rời nên người ta luôn làm chung tượng của 3 vị. Nếu đặt cả Tam Tinh vào TÀi VỊ thì cả nhà an vui, hạnh phúc, phúc lộc song thu. Những người giữ chức văn, những người làm công nên đặt tượng Văn Tài Thần nơi TÀI VỊ, hay thờ Văn Tài Thần. Các tượng Văn Tài Thần nên đặt quay mặt vào.

B/ Vũ Tài Thần: 

Cũng chia làm 2 là: Triệu Công Minh miệng đen mặt đen, và Quan Thánh Đế (còn gọi là Quan Công) mặt đỏ râu dài.

- Triệu Công Minh: Vị thần này nếu quý vị nào có xem qua truyện Phong Thần ắt biết tiểu sử ông. Sau khi tử trận lên bảng Phong Thần, ông được Khương Tử Nha sắc phong làm “Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân” thống lĩnh 4 vị Thần: Chiêu Bảo, Nạp Trân, Chiêu Tài, Lợi Thị.

Ông vừa giúp tăng tài, tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu, nên một số người Hoa thích thờ ông, hay đặt tượng ông nơi TÀi VỊ, vừa giúp vượng tài, vừa giúp bình an.

- Quan Thánh Đế: Nói đến Ngài có lẽ không cần xem truyện Tam Quốc thì ai cũng từng nghe và biết. Gần như 99% người Hoa đều có thờ Quan Thánh Đế trong nhà cả! Ông không chỉ tượng trưng cho Chính Khí sáng lòa mà còn có thể giúp cho người chiêu tài, tiến bảo, làm ăn thuận lợi, tai qua nạn khỏi, trừ tà hộ thân.

Những người làm quan võ theo nghiệp lính, những ông chủ kinh doanh nên thờ Vũ Tài Thần hoặc đặt tượng Vũ Tài Thần nơi phương TÀI VỊ.
Các tượng VŨ Tài Thần nên đặt hướng ra cửa.

Trên nóc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa , người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự (tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần). Mục đích là để có sự quản lý, không cho các vị Thần làm điều sai trái.

ÔNG TÁO

Chúng ta quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế (hay ông Trời), nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công.

Vị Táo Quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể.

Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy.

Những đồ “vàng mã” này (mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Công.

Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo Quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy!

Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý “cá hóa long” nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông sau khi cúng). Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ.

Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng…) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc…) để tiễn Táo Quân.

Một mâm cỗ mặn cúng ông Táo thường thấy nhất là: 1 đĩa gạo, 1 đĩa muối, 5 lạng thịt vai luộc, 1 bát canh mọc, 1 đĩa xào thập cẩm, 1 đĩa giò, 1 con cá chép rán (hoặc cá chép sống), 1 đĩa xôi gấc, 1 đĩa chè kho, 1 đĩa hoa quả, 1 ấm trà sen, 3 chén rượu, 1 quả bưởi, 1 quả cau, lá trầu, 1 lọ hoa đào nhỏ, 1 lọ hoa cúc, 1 tập giấy tiền, vàng mã.

Có nơi thay thịt vai luộc bằng một con gà luộc ngậm hoa hồng hoặc chủ động thay đổi các món canh như canh măng, canh mọc, canh bóng… gà luộc ngậm hoa hồng hay ớt đỏ tỉa hoa và chuẩn bị những món hơi khác nhưng cũng vẫn giữ được tính truyền thống và bản sắc như: bánh chưng gấc, xôi vò, xôi chè, thịt đông, nem rán, cá kho riềng, trám hoặc thịt kho tàu, giò xào, giò nạc, món xào, canh măng, hành muối, gia vị mắm muối, trà, rượu, hoa , trầu cau..

Thời nay bận rộn cũng không phải lo nghĩ nhiều và mất công làm tất cả các món trên, đa số các món trong mâm cúng như : bánh chưng, giò, nem thì đã có bán sẵn, còn thịt đông, cá kho, hành muối làm từ trước hoặc thậm chí cũng có thể mua sẵn, đến đúng hôm đó thì chỉ cần luộc gà, nấu canh, làm món xào nóng là xong.

Cúng ông Táo phải đặt trong bếp, khi cúng phải bật bếp lên cho cháy rực, mâm cỗ đề huề, cả nhà quanh năm no ấm. Có người thì vừa đặt một mâm cúng trong bếp và thêm một mâm khác cúng trên bàn thờ.

Hạnh Nhân

- VĂN KHẤN ÔNG ĐỊA – THẦN TÀI – ÔNG TÁO

(Dùng cho lời khấn hàng ngày)

A/- KHẤN ÔNG ĐỊA – THẦN TÀI

- Lạy Thành Hoàng bản cảnh, Ông Địa – Thần Tài, ông chủ gia bà chủ đất, các phần hương linh khuất mặt khuất mày, các vị Tiền chủ Hậu chủ.

- Con tên là……….. niên canh……….., ……….tuổi.

- Ở tại ngôi gia, số…….. đường……… quận……… tỉnh (thành)………… Việt Nam quốc.

Khấu xin Thành Hoàng bản địa, Ông Địa – Thần Tài chứng minh cho lòng thành tâm khấn vái, xin chư vị cho con được ………………….. (lời khấn để xin điều gì đó).

Mọi việc vuông tròn, con xin được hậu tạ………… (hứa hẹn tạ lễ).

Con xin Thành Hoàng bản địa, Ông Địa – Thần Tài, ông chủ gia bà chủ đất, các phần hương linh, chư vị Tiền chủ Hậu chủ chứng giám cho lòng thành khấn vái. Kính bái.

Khấn xong, vái hay lạy ba cái.

B/- KHẤN ÔNG TÁO

Ngoài việc thờ Thiên, Địa, trong nhà nếu có bàn thờ riêng cho gia đình Táo Quân nơi góc bếp. Hoặc nếu không thờ riêng, khi muốn cầu xin Táo Quân thì khấn luôn tại bàn thờ Ông Địa – Thần Tài cũng được.

Theo cách thêm câu dưới đây :

- THÊM LỜI KHẤN ÔNG TÁO

Khi khấn chung thêm câu:

“Lạy Thành Hoàng bản địa, Ông Địa – Thần Tài, kính lạy Đông trù Tư Mệnh Táo phủ Thần Quân.

“Lạy ông chủ gia bà chủ đất, các phần hương linh, Tiền chủ và Hậu chủ….”….

Ngày 23 tháng Chạp cúng như đã kể, còn hàng ngày chỉ thắp nhang khấn vái là đủ (mùng 1 ngày rằm nên có hoa quả). Cúng đưa ông táo có đốt vàng mã và “chim bay cò bay” làm phương tiện cho Ông Táo bay về thiên đình báo lại sự tình gia chủ trong năm (theo lời khấn), nếu thêm mua con cá chép phóng sinh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thờ Ông Địa, Thần Tài, Ông Táo

Tránh xa 3 nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ

Nhân duyên viên mãn là điều ai cũng mong mỏi và hướng đến. Vậy, hãy tránh xa 4 nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ dưới đây nhé!
Tránh xa 3 nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân duyên viên mãn là điều ai cũng mong mỏi và hướng đến. Vậy, hãy tránh xa 3 nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ dưới đây nhé!


=> Đọc thêm: Thế giới tâm linh huyền bí bốn phương

Tranh xa 3 nghiep bao khien hon nhan tan vo hinh anh
 
Tình yêu và hạnh phúc là những điều không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Ai cũng muốn mình sẽ tìm được người yêu thương hết mực, nắm tay nhau đi tới trọn đời. Mà Phật giáo tin vào nhân quả, gieo nhân nào gặt quả ấy, nên muốn nhân duyên tốt, hôn nhân như ý thì trước khi kết hôn và cho đến suốt cuộc đời hãy nhớ kĩ, đừng bao giờ phạm phải 3 nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ.   1. Tà dâm   Phật giáo dạy rằng “vạn ác dâm cầm đầu”, trong những tội ác thì tội tà dâm là nặng nhất, là nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ lớn nhất. Đừng nghĩ rằng trước khi kết hôn thì sao cũng được, kết hôn rồi mới chỉn chu, tất cả đều có nhân quả phải gánh. Cũng đừng nghĩ rằng, kết hôn rồi vẫn qua lại với người khác mà đối phương không hay thì không sao, có trời biết đấy. Càng không nên nghĩ, lừa gạt tình cảm của người khác rồi có thể hạnh phúc đến trọn đời.   Phật giáo đề xướng, không tà dâm, không quan hệ bất chính, không lươn lẹo dối trá trong chuyện tình cảm, giữ gìn tinh thần trong sáng, thanh sạch và tác phong đàng hoàng. Đó không chỉ đúng với thuần phong mĩ tục, pháp luật, đạo đức mà còn mang ý nghĩa tâm linh.   3 điểm vàng Phật chỉ để hàn gắn hôn nhân
Không phải oan gia không gặp nhau, hôn nhân không phải khi nào cũng êm đẹp. Để nắm tay nhau đi tới cuối đời, hãy nghe lời Phật dạy cách hàn gắn hôn nhân.

2. Bất hiếu
  Phật dạy rằng “trăm thiện hiếu vi trước”, trong muôn vàn điều thiện, lấy chứ hiếu làm đầu, và trong muôn vàn điều ác, ác nhất chính là bất hiếu. Ngay cả cha mẹ - đáng sinh thành dưỡng dục còn không đối xử tốt thì không thể tốt với ai khác, không thể hòa hợp mà chung sống cùng ai.    Nhân duyên chính là một loại phúc báo, nhân duyên tốt là do phúc báo lành, nhân duyên xấu là vì gieo nghiệp ác. Nên hiếu thuận cha mẹ thì tâm ắt rộng rãi, nhân duyên tốt tự dưng sẽ đến.   
Tranh xa 3 nghiep bao khien hon nhan tan vo hinh anh
 
3. Sát sinh
  Sát sinh là ác duyên, kết ác duyên thì sao có thể gặp được nhân duyên tốt đẹp. Kết ác duyên chỉ có thể gặp oan gia hoặc kẻ thù. Hơn nữa, sát nghiệp rất nặng, đối với các phương diện nhân sinh đều bị ảnh hưởng. Bởi vậy, muốn cầu duyên thì hãy giới sát, bản thân mình không sát sinh và khuyên nhủ người khác không nên sát sinh.   Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh xa 3 nghiệp báo khiến hôn nhân tan vỡ

Những cấm kị trong phong thủy nhà ở một tầng - Phong thủy - Xem Tử Vi

Những cấm kị trong phong thủy nhà ở một tầng, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Những cấm kị trong phong thủy nhà ở một tầng, tu vi Những cấm kị trong phong thủy nhà ở một tầng, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những cấm kị trong phong thủy nhà ở một tầng

Nhà cấp 4 hiện nay không còn được xây dựng nhiều, chủ yếu chỉ còn tồn tại ở một số vùng quê hoặc đồi núi để thuận theo địa hình hoặc dễ trồng trọt, chăn nuôi. Xây nhà cấp 4 tưởng chừng khá đơn giản và không yêu cầu nhiều về kĩ thuật hiện đại, nhưng lại khá khắt khe về phong thủy.

Sau đây là 18 cấm kỵ phong thủy khi xây dựng nhà cấp 4 không được phạm phải.

1. Nhà ở cấp 4 không được xây dựng trên lưng núi hay cửa ra vào của khe núi. Nếu không không những không thể có được điều kiện thuận lợi về mặt địa lí mà gia chủ còn dễ bị mắc bệnh tật và không tốt cho người trong nhà.

2. Nhà ở cấp 4 không được xây ở tận cùng ngõ cụt vì xây dựng ở những nơi như vậy sẽ dễ mang đến thiên tai và các hiểm họa tổn tài hay tàn tật cho gia chủ.

3. Không được trồng cây đại thụ đối diện với cửa chính của căn nhà, bởi vì trồng cây to lớn trước cửa nhà không những cản trở dương khí vào trong mà còn rước thêm âm khí vào nhà. Nói thực tế một chút thì trồng cây như thế cũng khiến cho mọi người ra vào bất tiện hơn, rồi những lúc mưa to gió lớn cũng sẽ dễ hút sấm sét mang lại nguy hiểm cho mọi người hơn. Hay mùa thu lá rụng dễ bay vào các phòng khiến cho căn phòng không còn được sạch sẽ nữa.

4. Trước cửa tuyệt đối không được trồng cây khô. Cho dù không phải là cây đại thụ và cũng không cần biết là đứng thẳng hay bị đổ xuống đất thì trong phong thủy cũng sẽ dễ ảnh hưởng đến người già phong thuy và dẫn dụ sự nghèo khó đến cho gia đình. Vì vậy tốt nhất nên chặt bỏ hết những cây như thế.

5. Hướng tây bắc của nhà ở có cây cổ thụ to lớn là điều rất may mắn. Có cây lớn ở hướng này sẽ giúp bảo vệ và mang lại hạnh phúc cho những người trong nhà. Nếu gia chủ không biết điều này và chặt cây đi thì có thể sẽ bị họa tuyệt tự tuyệt tôn. Vậy nên mong rằng các bạn sẽ chú ý hơn đến điều này.

6. Tốt nhất nhà cấp 4 không nên thiết kế quá cao so với những nhà xung quanh, nếu không sẽ bị hao tài tốn của. Nói thực tế thì nhà ở như thế này cũng sẽ gặp nhiều nguy hiểm, ví dụ như sẽ là thành phần đứng mũi chịu sào, dễ gặp phải hỏa hoạn, tai nạn bão gió hay bị không kích và cũng không thể che được ánh nắng mặt trời. Dương thịnh âm suy, âm dương không hòa hợp cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người trong gia đình.

7. Trừ con trưởng ra thì nhà ở của con cái không được xây dựng ở sân trong nhà ở của bố mẹ. Nếu như con cái xây dựng nhà ở trong sân nhà bố mẹ thì cả hai nhà sẽ cùng bị suy yếu.

8. Khi trong nhà có người mang bầu thì tuyệt đối không được xây dựng hay sửa sang nhà cửa, cho dù là chỉ sửa sang một tí chút cũng không nên, cho dù thay gạch men cũng không được, đây là điều đại kị vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sinh non của phụ nữ mang thai.

9. Nền móng của ngôi nhà thấp đằng trước, cao hơn ở phía sau sẽ mang lại may mắn cho gia đình, ngược lại đằng trước cao, phía sau thấp là điều không tốt lành.

10. Móng nhà hướng Tây Bắc bị thiếu hụt, tuy rằng không làm tổn hại đến vận khí của gia đình nhưng sẽ có khả năng thiếu thốn về đường con cái, và ảnh hưởng đến sức khỏa của bố mẹ, dễ mắc bệnh về đường hô hấp.

11. Móng nhà hướng Tây Nam bị sứt mẻ hay thiếu hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa của bố mẹ, nhưng ngược lại sẽ có lợi cho quan chức, lương bổng, địa vị của người nhà trong xã hội.

12. Móng nhà hướng Đông Nam bị sứt mẻ sẽ không có lợi cho việc sinh con đẻ cái, nhưng không ảnh hưởng đến vận khí của gia đình.

13. Móng nhà hướng Đông bắc bị thiếu hụt tuy rằng không gây hại lớn cho gia đình nhưng cũng có thể sẽ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa của mọi người. Vị trí này không nên xây cửa lớn, nếu như có ý định xây thì cũng nên mời thầy phong thủy đến để xem xét giúp đỡ.

14. Nhà hoặc căn nhà hẹp bên trái, rộng bên phải hay hẹp phải rộng trái đều không tốt lành, con trai sinh ra nếu không bị đơn độc thì cũng sẽ nghèo hèn.

15. Móng nhà hoặc căn nhà có hình dạng rộng trước, hẹp sau hình cái thang ngược thì gia chủ sinh sống ở đây sẽ khó giữ được của cải, nhân khẩu khan hiếm.

16. Móng nhà hoặc căn nhà có hình dạng hẹp trước rộng sau hình cái thang thì gia chủ sinh sống ở đây không chỉ có phúc mà còn cao sang và còn được thanh thế lẫy lừng trong xã hội.

17. Móng nhà hoặc căn nhà có hình tam giác, nếu nhọn trước rộng sau thì được gọi là Điền Bút, người nhà sẽ hao tài tốn của, đặc biệt là có thể dễ dẫn đến việc đàn bà mang đến tai họa cho gia đình hoặc bản thân người phụ nữ không được may mắn. Còn nhọn sau rộng trước gọi là sao hỏa vẫy đuôi. Nhà ở như vậy rất không tốt, khi ở người nhà sẽ có người tự sát hoặc bị bệnh nan y hay chết do tai nạn.

18. Móng nhà hoặc căn nhà có hình dạng bên trái dài, bên phải ngắn thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến vợ và các con của gia chủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cấm kị trong phong thủy nhà ở một tầng - Phong thủy - Xem Tử Vi

Chùa Bồng Lai - Phú Thọ

Chùa Bồng Lai tọa lạc tại thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bồng Lai còn có tên gọi khác là Chùa Hà Thạch
Chùa Bồng Lai - Phú Thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bồng Lai tọa lạc tại thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bồng Lai còn có tên gọi khác là Chùa Hà Thạch. Chùa được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía.

Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc.

Lịch Sử: Tương truyền, chùa Bồng Lai được làm vào đời Trần, do ông Đỗ Nguyên Cảnh tổ chức nhân dân xây dựng. Ông Đỗ Nguyên Cảnh, một vị tướng của Trịnh Doanh, là người Hà Thạch, thấy dân làng không hoà thuận lắm bèn đem quân về đóng ở Xuân Lũng, ông cho gọi các thợ cả đến bàn bạc rồi đêm đến mới điều quân về làng tựu xà xếp cột dựng chùa, chọn hướng Thao Giang để tránh việc làng tranh cãi. Ông ra lệnh mỗi đầu xà, đầu cột đều phải đệm vải tấm để việc dựng được nhanh chóng và bí mật. Vì vậy chỉ qua một đêm. Sáng ra dân làng bỗng thấy một ngôi chùa đồ sộ như có phép thần thông biến hóa. Từ đó chùa rất được sự ái mộ của tăng ni phật tử và dân trong vùng, họ đều cho rằng chùa do trời dựng.

Kiến Trúc Chùa Bồng Lai

Chùa Bồng Lai gồm 2 toà kiến trúc hình chữ Đinh 丁. Chùa có cổng tam quan, sân chùa lát bằng gạch đỏ, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Tiền đường gồm 5 gian, kết cấu kiến trúc theo kiểu quá giang gối tường bố trụ. Toà thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian có kết cấu vì kèo câu đầu và trụ báng chống nóc.

Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m, cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m, thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa.

Trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt trạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17.

Chiếc bệ được làm bằng đất nung duy nhất còn lại trên đất Phú Thọ được coi là nghệ thuật trang trí Phật giáo thời đại Lý Trần. Bệ được thiết kế giật cấp 3 tầng. Kết cấu bệ gồm các viên đất nung có kích cỡ khác nhau được lắp vào nhau, mỗi mặt là một khối hình trang trí nổi, tạo thành một tác phẩm nghệ thuật bệ đất nung hoàn chỉnh. Các họa tiết trang trí gồm: Hoa cúc, hoa văn cánh sen, hoa hải đường và trang trí hình con ly đang trong tư thế vờn mây. Nhìn chung đây là chiếc bệ đất nung quí hiếm còn sót lại của chùa Bồng Lai.

Chùa bồng lai
Chùa Bồng Lai được công nhận là di tích lịch sử văn hóa

Chùa Bồng Lai có hơn 200 pho tượng tròn làm bằng chất liệu gỗ và đất, kỹ thuật tạo dáng đẹp, sơn thếp hài hòa, được bài trí ở 2 tòa trên các bệ xây giật cấp cao dần về phía trong.

Các pho tượng chùa Bồng Lai đều được các nghệ nhân tạc với kỹ thuật cao, tràn đầy tâm hồn dù chất lượng bằng gỗ hay đất cũng được phủ sơn nhiều lớp, bên ngoài thếp vàng, thếp bạc cẩn thận, xứng đáng là những pho tượng có tiếng là đẹp xưa nay.

Tượng được bài trí cân đối hài hòa từ tòa tiền đường vào thượng điện. Dáng tượng đẹp, đạt tới trình độ Phật tính cao bởi nghệ thuật tạo tượng còn khá nguyên vẹn của thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18.

Chùa Bồng Lai để lại một dấu tích khang trang với quy mô bề thế bên bờ sông Hồng, phong cảnh hữu tình, đã một thời là trung tâm sinh hoạt của cư dân trong vùng. Chùa Bồng Lai đã được Bộ văn hóa thông tin cấp “Bằng công nhận di tích lịch sử – văn hóa” cấp quốc gia.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bồng Lai - Phú Thọ

Nhớ kĩ nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao

Nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao, dù vật đổi sao dời, thăng trầm sóng gió thế nào cũng bất di bất dịch.
Nhớ kĩ nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống với những biến cố không ngừng, con người cần linh hoạt thay đổi để ứng biến, thích nghi với hoàn cảnh song có những điều thuộc về quan điểm, trong hoàn cảnh nào cũng không thể cải biến. Ví dụ như nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao, dù vật đổi sao dời, thăng trầm sóng gió thế nào cũng bất di bất dịch.

Nho ki nguyen tac tinh yeu cua 12 chom sao
 

Bạch Dương: không thích bị quản chế

  Cung Bạch Dương là người theo đuổi tự do tuyệt đối, thích nhất là cách sống tự chủ, không có giới hạn. Ưa mạo hiểm, thích chuyện có tính khiêu khích, muốn là làm, ghét nhất là bị hạn chế, quản giáo và lên lớp. Dương Dương hiểu rất rõ bản thân theo đuổi cái gì, thích cái gì nên không ngần ngại dấn thân.   Nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao, với cừu trắng chỉ có một: không quản chế. Chỉ cần đối phương tôn trọng nguyên tắc này thì bất cứ điều gì khác họ đều có thể thương lượng thỏa hiệp. Muốn trói buộc chòm sao này thì e rằng hai người sẽ không thể tồn tại tình yêu được.  

Kim Ngưu: sử dụng tiền hợp lý

 

Thực sự thì Kim Ngưu là người ưa thích sung túc và rất có năng lực trong việc kiếm tiền cũng như hoạch định tài chính. Đảm bảo kinh tế là một trong những yêu cầu tiên quyết giúp họ cảm thấy an toàn, cùng là nguồn cảm hứng cho cuộc sống của chòm sao này.   Khi yêu, Ngưu chan đối xử với người yêu tốt, chăm lo và quan tâm, tính cách cũng hài hòa, duy chỉ có một điểm họ yêu cầu rất nghiêm khắc là không tiêu xài hoang phí. Vật tốt, việc cần chi tiền không tiếc nhưng nếu không quá cần mà vung tay chắc chắn sẽ bị chòm sao này phê bình, thậm chí nếu lặp lại nhiều lần có thể hai bạn sẽ đường ai nấy đi. 
Xem thêm bài viết Chỉ số sợ hãi của 12 chòm sao khi yêu xa
 

Song Tử: cuộc sống thú vị

  Muốn nói tới chòm sao có cuộc sống dồi dào năng lượng, biết tìm cách làm vui chính mình và những người xung quanh thì Song Tử đứng hàng đầu. Họ thích nhất là thay đổi, khát vọng trải qua những thường ngày ngập tràn kích thích, sôi nổi đầy hứng khởi. Ngày nào mà không có chuyện vui thì ngày đó chính là tận thế với Tử nhi.   Khi yêu đương, chòm sao vui tính này thích nhất là trò chuyện, nói đùa cùng nhau, đưa ra những ý tưởng sáng tạo và thực hiện những chuyện điên rồ. Nếu nửa kia không hứng thú, thậm chí là từ chối tiếp nhận thì Song Tử sẽ cảm thấy rất buồn, nhàm chán và cuối cùng là đi tìm nguồn vui ở người khác.  

Cự Giải: không tổn thương người nhà 


Nguyen tac tinh yeu cua 12 chom sao
 
Trong vòng tròn hoàng đạo, Cự Giải là người có tính cách ôn hòa, ít khi nổi nóng, nội tâm bao dung, người yêu thích gì chiều nấy, hầu như không lúc nào làm trái ý. Nhưng việc này không có nghĩa là họ không có nguyên tắc, tuy nhút nhát và hòa nhã song nguyên tắc vẫn rất kiên định.   Cự Giải chú trọng gia đình, yêu mến người thân, không cho phép người thân của mình chịu bất kì sự thương tổn nào, chỉ một câu nói khó nghe cũng không được. Vì thế khi hai người yêu nhau, nhất định cần có sự tôn trọng gia đình, nếu phạm phải thì yêu nhau tới mấy cũng không thể tiếp tục.  

Sư Tử: coi trọng sĩ diện

  Chuyện muôn thưở nói mãi nhưng vẫn phải nhắc nhở rằng cấm kị khi yêu của chòm sao Sư Tử chính là làm họ mất thể diện. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở trước đám đông họ phải là người nổi bật nhất, xuất sắc nhất, không có ngoại lệ. Hai người cãi nhau tới long trời lở đất nhưng ra ngoài nhất định phải là cặp đôi đẹp nhất.   Sư Tử khá chiều chuộng người mình yêu nhưng không thể chấp nhận được người đó làm xấu mặt mình. Nếu nắm vững được nguyên tắc này thì tức là bạn đã thành công trong việc nắm giữ chòm sao cao ngạo này rồi đấy, khéo léo một chút có chuyện gì họ cũng bằng lòng nghe theo.
Xem thêm bài viết 12 chòm sao quay về với người yêu cũ như thế nào?
 

Xử Nữ: chuyện gì cũng phải nghe theo

  Chòm sao này tính cách soi mói và kĩ càng, làm chuyện gì cũng đòi thập toàn thập mĩ. Khi yêu đương, việc Xử Nữ thích nhất là uốn nắn, bổ sung những điểm sai sót của đối phương đồng thời muốn đối phương nhất nhất nghe lời mình. Yêu cầu cao, tính khí khắt khe, không thích bị trái lời là đặc điểm nổi bật nhất.   Xuất phát từ mong muốn nửa kia hoàn thiện hơn đồng thời khẳng định năng lực của bản thân, Xử Nữ có nguyên tắc: nghe và hành động, áp dụng triệt để. Chính vì vậy mà khi ghép đôi với những chòm sao có tính cách mạnh như Nhân Mã, Sư Tử, Bạch Dương, Ma Kết sẽ tạo ra chiến tranh không chừng.  

Thiên Bình: nói ngon nói ngọt

  Chòm sao tao nhã nhất định khi yêu cũng uyển chuyển hài hòa, Thiên Bình có khuynh hướng lịch sự, thích được ca ngợi, ưa mềm không ưa cứng. Bản thân họ cũng là người thích cái đẹp, sự nhẹ nhàng nên đương nhiên cho rằng chính mình xứng đáng nhận được đãi ngộ tốt từ người yêu.   Cho dù Thiên Bình làm sai, gặp chuyện xấu, ở vào hoàn cảnh bế tắc cũng không thể dành cho họ những lời lẽ nặng nề. Kể cả Bình nhi tự mình chế giễu thì người yêu cũng không thể nói hùa vào phụ họa. Nếu muốn yêu nhau lâu dài, chinh phục được một Thiên Bình hoàn mỹ thì nhớ kĩ lấy điểm này.  

Hổ Cáp: duy trì chung thủy


cam ki khi yeu cua chom sao
 
Tuy bề ngoài lạnh lùng thâm trầm nhưng bên trong con người Hổ Cáp khá nhạy cảm và thiếu an toàn. Họ đa nghi, thâm trầm, có nhiều tính toán khiến người khác lo lắng. Yêu chòm sao này nhiều khi rất khấp khởi, nửa mừng nửa lo, được đối xử tốt song lúc nào cũng ngần ngại có đắc tội với họ hay không.   Thực ra, chỉ cần tuần thu một nguyên tắc duy nhất và cao nhất là chung thủy mà thôi. 12 chòm sao khi yêu, Cáp Cáp có lạnh tới đâu thì khi đứng trước người yêu vẫn hết sức ấm áp, chu đáo, miễn sao bạn một lòng một dạ với chòm sao này, mọi chuyện khác cứ để họ lo.
Xem thêm bài viết "Điểm chết" không được đụng tới khi yêu 12 chòm sao
 

Nhân Mã: không bị kiểm soát

 

Tôn trọng tự do, căm ghét cảm giác tù túng ràng buộc, dù là ai cũng không thể xâm phạm vào quyền được bay nhảy của Nhân Mã. Họ hi vọng bản thân là chim ưng sải cánh tung bay trên bầu trời rộng lớn, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm, lý tưởng cao nhất chính là kết bạn bốn phương sống đời du mục.   Yêu ư? Đương nhiên là quá tốt, Mã Mã còn nổi danh là chòm sao đào hoa cơ mà. Nhưng yêu thì yêu, không thể trói buộc chòm sao này được. Nếu để lựa chọn giữa tình yêu và tự do, đảm bảo Nhân Mã sẽ không hề do dự mà cho người yêu leo cây, tìm về chân trời rộng mở.  

Ma Kết: sống chân thật

  Dẫu là chòm sao không biết cách thể hiện tình cảm nhưng trong lòng Ma Kết vừa có trách nhiệm lại vừa ấm áp bao dung, yêu đương với họ tuyệt đối không tồi. Hành động cụ thể, biểu đạt chân thực rõ ràng, quyết đoán mạnh mẽ, người yêu lúc nào cũng có cảm giác yên tâm và an toàn.   Nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao có thế nào thì với Ma Kết cũng chỉ có một: chân thật. Không màu mè giả tạo, không hoa lá cành gì hết, thứ họ yêu cầu là sự thật đơn giản nhất, nếu nói dối mà bị Kết Kết phát hiện thì quả là đen đủi, họ sẽ rất khó lòng tha thứ đấy.  

Bảo Bình: tôn trọng đối phương 

  Là nam hay nữ, Bảo Bình đều theo đuổi tinh thần bình đẳng, tôn trọng và tự tôn. Nguyên tắc thần thánh của chòm sao này là không can thiệp vào đời sống cá nhân, không bài xích thói quen của nửa kia. Họ cần người kia làm vậy và chính mình cũng sẽ làm vậy với nửa kia.   Bảo Bình không cho phép ai xâm phạm thế giới riêng của mình, ví dụ như lý tưởng, ví dụ như thói quen, ví dụ như nhân sinh quan. Nếu không hiểu được, hãy im lặng; nếu không thể ủng hộ, hãy đừng phản đối. Tư duy rõ ràng, đơn giản và rất thẳng thắn, sẵn sàng để yêu một Bảo Bảo chưa.
Xem thêm bài viết Mách 12 chòm sao bí quyết yêu là cưới, cưới là viên mãn
 

Song Ngư: không ép buộc


12 chom sao khi yeu
 
Ép uổng không thành chuyện tốt, nhất là trong chuyện tình yêu mà người này phải sống theo ý người kia thì thực sự là khổ không để đâu cho hết. Song Ngư không muốn đắm chìm trong một mối quan hệ ngột ngạt như vậy, họ thích được tôn trọng và có thể tự do làm những việc mình muốn.    Mặc dù đa số thời điểm Ngư nhi không thích đưa ra quyết định, giao cho người yêu sắp xếp nhưng nếu họ đưa ra kiến nghị thì đối phương cần lắng nghe, trao đổi và tiếp thu, không nên bỏ lơ, càng không được buộc Song Ngư làm việc mà mình không thích. 
Bật mí lý do mối tình đầu của 12 chòm sao tan vỡ Hé lộ lý do khiến 12 chòm sao cương quyết trở về đời độc thân 12 chòm sao ghét nhất bị nói gì?
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhớ kĩ nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao

Tìm hiểu về 12 con giáp

Nước ta hiện nay đang tồn tại hai loại lịch : trong khi du lịch đang có xu hướng lan rộng thì âm lịch vẫn tiếp tục khẳng định vị trí và sức mạnh của nó trong đời sống tâm linh của dân tộc. Âm lịch gắn liền với tế tự, lễ hội, với sinh hoạt ma chay, cưới gả, dựng nhà, dựng cửa ... Và cứ mỗi lần tết Nguyên Ðán về, người ta lại nghênh đón một con vật mới và lưu luyến tiễn đưa con vật biểu trưng của năm củ đã đi về quá khứ với lời hẹn gặp lại sau 12 năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc chọn các con vật làm biểu tượng đứng đầu mỗi năm - tức là 12 con giáp - phải chăng là một sự ngẫu hứng, tuỳ tiện hay là nó tuân theo một quy luật nhất định nào đó ?

Trước hết, ta phải thừa nhận dân tộc nào cũng có quan niệm, cũng có cảm thức về thời gian, nhưng không phải nước nào cũng làm được lịch, cũng có chuẩn mực về lịch. Lịch Pháp gắn liền với thiên văn, với chiêm tinh học, là sản phẩm quan trọng mà các nền văn minh tối cổ như Trung Hoa, Ai Cập, Babilon, Hy Lạp đạt được. Có thể nói rằng chính vẻ đẹp hùng vĩ của bầu trời ban đêm góp phần quan trọng cho tư thế của con người mãi mãi đứng thẳng, giúp con người hoàn thiện dần để trở thành Con Người viết hoa. Ngưỡng mộ vẻ đẹp của bầu trời sao còn thúc đẩy con người vươn tới khát vọng chinh phục vũ trụ, một khát vọng mang tính chất định mệnh của nhân loại. Về điều này, các huyền thoại xưa về Ica, về chiếc thảm bay, về Hậu Nghệ xạ nhật, Nữ Oa vá trời, Phù đổng thiên vương về trời sau khi dẹp xong giặc ngoại xâm, Chử Ðồng Tử và Tiên Dung trở về thượng giới. Thật vô cùng đẹp đẽ và mang tinh thần nhân văn. Mười hai con giáp, về nhiều mặt cũng mang vẻ đẹp đó.

Thứ hai, nước ta không có lịch (Sau này các triều đại ta có làm lịch khác với lịch Trung Quốc, nhưng vẫn từ cách nhìn chung. Tuy nhiên, vấn đề này còn để ngỏ để chờ nghiên cứu thêm các tài liệu thời cổ sử). Âm lịch mà chúng ta sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc và được hoàn thiện, bổ sung bởi thực tiễn kinh nghiệm sản xuất,kinh nghiệm thiên văn của dân tộc ta. Nói chung việc giao thoa văn hoá giữa các nền văn minh bao giờ cũng xảy ra với những thành tựu về nhiều lãnh vực. Dân tộc này vay mượn của dân tộc khác những sản phẩm hoàn thiện hơn, mang tính thực tiễn cao hơn. Nhấn mạnh điều này để thấy rằng muốn hiểu được mười hai con giáp thì phải trở về với cội nguồn Trung Hoa của nó, trở về với triết học Trung Hoa cổ xưa, đặc biệt là thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

Thứ ba, các cách gọi, cách định danh ngoài ý nghĩa biểu tượng cụ thể, chúng còn mang sức mạnh khái quát rất lớn. Chúng trở thành các "ký hiệu thông tinh" để chứa các nội dung thông tin theo một cách mã hoá thông tin nào đó, vì thế, giải thích việc mười hai con giáp không tách rời việc giải mã này.

o0o

Âm Dương Ngũ Hành gắn liền với tư duy Dịch lý là nền tảng để xây dựng các quan điểm trong đó có thiên văn. Người xưa xuất phát từ quan sát thực tiễn để định dạng sự vật :

Âm là thái âm tức là Mặt trăng

Dương là Thái dương tức là Mặt trời

Ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ

Là năm hành tinh mà người cổ đại sớm nhận biết được cuả hệ mặt trời. Bên cạnh đó, quan niệm Trời = cha, Ðất= mẹ và quan niệm về một vũ trụ hài hoà cũng đóng vai trò quan trọng đối với người xưa. Và như vậy Trời = thiên là dương, Ðất = địa là âm, thượng giới và hạ giới được phân định, trật tự của vũ trụ được xác lập và trật tự xã hội cũng theo đó được hình thành. Trong xã hội có quan hệ vua - tôi, quân tử - tiện dân, có nội trị - ngoại giao, trong - ngoài, trên - dưới, trước - sau, phải - trái, đúng - sai, thật- giả. Tất cả đều được quy tụ vào phạm trù âm dương, được quy vào các phẩm chất ngũ hành. Tuy nhiên, sự phân chia âm - dương không phải thùân tuý máy móc mà nó xuất phát từ nguyên lý của dịch học: "Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ lượng, tứ lượng sinh bát quái". Nghĩa là trong sự xếp đặt đó đã bao hàm một sự vận động biện chứng, đặc biệt là quan niệm trong "âm có dương, trong dương có âm " trở thành nguyên tắc cấu trúc sự vật. Do đó, khát vọng về một cuộc sống hiền hòa, một xã hội ổn định, một trạng thái cân bằng là giấc mộng đẹp và là đích hướng tới, của người xưa. Vậy thì quan niệm âm dương ngũ hành có liên quan gì đến mười hai con giáp.

Theo sự phân tích của người xưa, mưòi hai con vật được tuyển chọn, bao gồm cả vật nuôi lẫn thú vật hoang dã, vừa có thật vừa tưởng tượng, đều đáp ứng nguyên tắc âm dương, chẵn lẽ. Ở đây cũng cần nói thêm về dương cơ, âm ngẫu, cơ là số lẽ, ngẫu là số chẵn. Các con vật được chọn đều có phẩm chất chẵn lẽ mang đặc trưng loài của chúng, thể hịên qua số ngón chân của chúng. Cụ thể là :

= con chuột = 5 ngón = lẻ = dương.
Sửu = con trâu (trong thiên văn Trung Quốc nghĩa là ngưu = con bò ) = 2 ngón = chẵn = âm
Ngọ = con ngựa = một ngón = lẻ = dương
Mùi = con dê = hai ngón = chẵn = âm
Thân = con khỉ = năm ngón = lẻ = dương
Dậu = con gà = bốn ngón = chẵn = âm
Tuất = con chó = năm ngón = lẻ = dương
Hợi = con lợn = bốn ngón = chẵn = âm

Như vậy, số ngón tối đa là 5, tối thiểu là 1, còn lại là 2 và 4. Tuyệt nhiên không có số 3.

Số 3 được đưa vào hệ tam tài : Thiên - Ðịa - Nhân, hệ tọa độ quan trọng mà người xưa xác nhập được nhằm khẳng định vai trò của nó trong vũ trụ. Con người luôn có ý thức dùng kích thước vũ trụ để đo bản thân. Vì thế, người Hy Lạp cổ mới mãn nguyện về việc "con người sánh tựa thần linh", và họ sáng tạo ra thế giới điêu khắc có một không hai để ca ngợi vẻ đẹp này. Con người không hề ích kỷ khi cố gắng hoàn thiện bức tranh vũ trụ. Họ đưa các con vật thực vừa huyền thoại tạo ra sự đúng lúc cho thế giới nhân quần, nhưng đồng thời đó cũng là những con vật mà họ thuần hoá hoặc những con vật họ thường gặp và thường gây những nguy hiểm cho họ.

Như vậy, tiêu chuẩn số chẵn lẻ của ngón chân đã gíup các loài vật được chọn làm 12 con giáp. Nhưng số ngón chẵn lẻ cũng như cái tên chuột, mèo, rồng, rắn của chúng chưa đủ để đưa chúng vào vũ trụ. Con người lại phải gán cho chúng các phương vị :

Tý = Bắc Ngọ = Nam

Mão = Ðông Dậu = Tây

Và hàng đêm khi quan sát sao Bắc Ðẩu, người ta thấy cái đuôi của nó cứ quay đều đặn trên tinh cầu theo một vòng tròn, duy có điều nó giống kim đồng hồ quay ngược. Vòng tròn đó được chia theo phương vị 12 cung và 12 con giáp được trấn giữ 12 phương vị này.

Chuyện vẫn chưa hết. Trong những phát hiện quan trọng của thời tối cổ có việc phát hiện ra đường hoàng đạo -đường dịch chuyển của mặt trời. Vòng Hoàng đạo được chia làm phù hợp với mười hai tháng của năm. Và 12 con giáp lại được trấn giữ 12 cung Hoàng đạo này. Tuy nhiên con số 12 được người xưa chọn không phải là một con số tuỳ tiện mà là một con số hoàn toàn khoa học, và để hiểu được diều đó thì không đơn giản chút nào.

Có liên quan 12 cung Hoàng đạo cần phải kể đến Ngũ Hành: năm hành tinh Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ, trong chu kỳ vận hành của sao Mộc mà người phương Tây đặt tên là Juypiter được người xưa ghi nhận bởi tính đặc hiệt của nó. Sao Mộc vận hành xung quanh Mặt Trời trọn 12 năm. Mỗi năm nó xuất hiện một phương vị nhất định. Nơi do trong12 con giáp đang trấn giữ. Tên gọi của nó cũng từ đó mà ra vì thế sao Mộc được gọi là ssao Tuế (sao năm) và vì nó là hành tinh lớn nhất trong hệ Mặt Trời và của các hành tinh mà người xưa quan sát được nên nó còn gọi là sao Thái Tuế. Vùng sao Thái Tuế là một mã thông tin quan trọng của phép tính tính tử vi.

Liên quan đến việc chọn mười hai con giáp là những quan sát, những nhận xét về cuộc sống của những loài vật này.Vào những khoảng giờ nhất định, các loài vật -ta chỉ giới hạn trong mười hai con giáp -chịu sự tác động qua lại của các lực vũ trụ đã có các biểu hiện trạng thái sống khác nhau. Cái trạng thái xấu nhất cho sự sống còn của chúng được biểu hiện bằng các khoảng thời gian (giờ, ngày, tháng, năm ) và được gọi theo tên của chúng. Cụ thể :

Tên giờ: Ảnh hưởng xấu tới:
Chuột
Sửu Trâu
Dần Hổ
Mão Thỏ
Thìn Rồng
Tỵ Rắn
Ngọ Ngựa
Mùi
Thân Khỉ
Dậu
Tuất Chó
Hợi Lợn

Chúng ta thử kiểm nghiệm điều này vì các con vật này không xa lạ với chúng ta. Tất nhiên trừ con rồng huyền thoại.

Cũng có thể do quan sát đời sống của các loài vật mà người đi đến chỗ thống kê đặc điểm sinh học của chúng, từ đó khái quát thành mười hai con giáp. Ðặc biệt người xưa chú ý tới các thời điểm có vấn đề của con vật :

Tháng Tý = tháng mười một : loài chuột hay bị bệnh và chết. Thực tế còn cho thấy đây là tháng bắt đầu lạnh nhiều, đồng ruộng vào vụ cày bừa, chuột không có ăn và không chống nổi rét nên dễ chết.

Tháng Sửu = tháng mười hai, tháng chạp : tháng rét đậm với đại hàn, tiểu hàn cây cỏ tàn lụi. Ăn không đủ mà còn phải kéo cày nữa nên loài trâu sinh bệnh mà chết.

Tháng Dần = tháng giêng : thức ăn của hổ là các loài thú khác. Tháng này các loài ăn cỏ như hươu nai đi kiếm ăn vì cỏ tranh đã nhú mầm. Hổ cũng đi tìm mồi, dẩm phải các mầm cỏ tranh nhọn cứng mà bị thương và kéo theo cái đói nên dễ bệnh.

Tháng Mão = tháng hai : Mão là con mèo, nhưng trong thiên văn cổ Trung Quốc thì biểu tượng của tháng này là con thỏ. Tiết này là tiết kinh trập (sâu nở) và cùng với sâu là chất độc do sâu thải ra, thỏ ăn vào tất phải chết.

Tháng Thìn =tháng ba : Rồng là một con vật của huyền thoại, nhưng khi được xác định (cho dù chỉ là tưởng tượng ) thì tất yếu nó cũng có đời sống riêng, kể cả ốm đâu, bệnh tật và cái chết nhưng tháng này Rồng có bị bệnh không thì không ai biết. Nhưng nếu trở lại cội nguồn huyền thoại thì có thể hiểu được phần này. Rồng là một con vật được giao phó làm mưa, đi liền với sấm sét. Cha ông ta có câu tục ngữ : tháng ba sấm chạy, phải chăng vì trách nhiệm nặng nề này mà con rồng dễ bị gặp những điều không may ?

Tháng Tỵ =tháng tư : Sau thời kỳ ngủ tránh rét và liền sau đó là mưa xuân ấm áp, thức ăn dồi dào, rắn phải lớn lên bằng cách lột xác. Trong thời kỳ lột xác, rắn yếu nhất và là miếng mồi ngon cho các con vật khác.

Tháng Ngọ = tháng năm : Mùa hè nóng nực, lại là thời kỳ thu hoạch mùa màng nên ngựa phải làm việc nhiều, dễ mắc bệnh mà chết.

Tháng Mùi=tháng sáu: Loài sơn dương dễ mắc bệnh vì thức ăn không còn ngon lành nữa : lá cây già cứng, mưa nhiều và thất thường nên khả năng mắc bệnh.

Tháng dậu=tháng tám: đầu tháng lụt lội, cúi tháng gió heo may, gà vừa đói vừa rét, ôn dịch phát sinh và gà chết.

Tháng tuất=tháng chín : tháng này chó hay bị mắc bệnh. Kinh nghiệm dân gian Nghệ Tĩnh cho thấy tháng này trùng hợp với mùa mưa, chó rất hay chết. Ðặc biệt nếu chó đẻ vào tháng này thì chó nuôi rất khôn.

Tháng hợi=tháng mười : gió đông bắc về mang theo các mầm bệnh. Lễ hội mở ra, trâu, bò,lợn,khỉ bị giết nhưng điều kiện vệ sinh không tốt nên lợn được các khoảng thức ăn thừa thì tất nhiên rất dễ nhiễm bệnh và chết.

Tất cả nhận xét trên đây đều cho thấy sự quan sát tỉ mỉ của người xưa cũng như sự quan tâm tới môi trường, tới thiên nhiên của họ. Quan sát và tưởng tượng là hai phẩm chất quí giá của con người. Quan sát để rút ra các bài học kinh nghiệm bổ ích. Tưởng tượng để cuộc đời cao đẹp hơn. Bạn hãy tự kiểm nghiệm về bản thân mình, biết đâu những ghi nhận hàng ngày của bạn liên quan đến tuổi tác của bạn, phối hợp với nhịp sinh học của bản thân lại trở nên hữu ích và vô cùng cho chính bạn.

Câu chuyện mười hai con giáp sẽ thiếu sót nếu không đề cập đến can chi. Can chi là hệ đếm số 60,nó phối hợp các hệ đếm cơ số 2, 10, 12 và một hệ đếm liên quan tới nhiều nền văn minh cổ. Người Babilon cách đây 3000 năm với hệ đếm 60 đã chính xác một năm có 360 ngày. Với hệ đếm 60 hệ can chi dẫn đến các tiện lợi cho phép tính thời gian vì 60 là bộ số của nhiều số như :

Số 3 =số tháng trong một quí

Số 6=số tháng trong nửa năm

Số 10=số ngày trong một tuần trăng (âm lịch)

Số 12=số tháng của một năm - số năm của một con giáp- số giờ trong một ngày (giờ âm lịch)

Số 15=số ngày trong một tiết

Số 30=số ngày của một tháng.

Hệ đếm này xuất hiện từ lâu, được ghi lại trong giáp cốt văn.

Can có nghĩa là thân cây có gốc ở Trời (nên gọi là Thiên can). Người ta dùng ngũ vận để tính Thiên can : tức là 2 x 5=10 Thiên can. Bản thân Thiên can cũng có âm dương :

Dương can : Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.

Âm can : Ất, Ðinh, Kỷ, Tân, Quí.

Chi có nghĩa là cành trúc bị lìa khỏi thân, là cành nơi mặt đất (nên gọi là Ðịa chi). Ðịa chi được tính theo lục khí là 2 x 6=12. Ðịa chi cũng có âm dương.

Dương chi : Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.

Âm chi : Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.

Ngyên tắc phối hợp can chi là dương hợp dương, âm hợp âm, thiên can là cha (cũng có nghĩa là dương ), đứng trước địa chi (có nghĩa là âm) đứng sau.

Ta có:

Giáp Tý......................

.....................Ất Sửu

Bính Dần...............

....................Ðinh Mão.

Cứ thế tiếp tục mãi. Song thiên vì can thiên có 10, Ðịa chi có 12, nên một vòng can chi là 60. Số 60 được gọi là lục thập hoa giáp, Nguyên tắc dương kết hợp với dương,âm kết hợp với âm là bất di bất dịch, vì vậy không bao giờ có Giáp sửu, Mậu dần cả, nguyên tắc kết hợp này cho phép từ dương tạo ra dương, từ âm tạo ra âm, trong 60 ngày thì có 30 ngày âm, 30 ngày dương tạo ra nhịp vận động của thời gian, tạo ra sự thăng giáng.

Cách gọi can chi trước tiên là để chỉ ngày, sau đó vì tính tiện ích tổng hợp của nó, nó được dùng gọi giờ, tháng và năm. Như vậy can chi trở thành đơn vị thời gian âm lịch. Nếu có điều kiện để kiệm thì các nhận xét về bệnh tật của các con giáp đã nêu ở trên, cho phép thừa nhận sự chặt chẽ và khoa học hệ đếm can chi này.

Ðể hiểu rõ hơn trước hết ta tìm hiểu ý nghĩa của can chi. Nguồn gốc của can chi đều từ cây :

Thiên can:

1. Giáp=cây cỏ đội đất nẩy mầm,dương cốt âm bì.

2. Ất =cây cỏ mới mọc yếu ớt, cong gập.

3. Bính=là cán, như mặt trời sáng chói, mọi vật đều sáng rõ.

4. Ðinh=cây cỏ trưởng thành mạnh mẽ, như người lớn đã trưởng thành "tráng đinh".

5. Mậu=rậm rạp,nghĩa là cây cỏ phát triển rậm rạp

6. Ky=là ghi chép. Các con vật từ cong (Ất) nay đã thẳng dậy, nên ghi chép lại.

7. Canh=thay đổi, lúc này là mùa thu, mùa hái lượm, thu cất,tất cả hẹn mùa sau.

8.  Tân=là mới muôn vật thay đổi, hoa quả mới thành. Tân cũng có thể là hợp chất của kim loại, là vị cay, quả chuyển vị, vật thành có vị.

9.  Nhâm=là thai nghén, dương khí tiềm ẩn trong đất, mọi vật đang kỳ thụ thai.

10. Quí=là đỏ, mọi vật mang mầm thai đang ẩn tàng, bản thân thai mầm đang từng bước chuyển hoá.

Ðịa chi :

1.=là mầm cây, là hạt giống cây cỏ đang hút nước trong đất để nẩy mầm, là hiện tương hạt trương nước để khởi đầu một mầm dương.

2.Sửu=mầm nảy trong đất, trạng thái cong queo, đang chờ đội đất để mọc lên.

3.Dần=phát triển,từ chỗ uốn gấp, mầm đón ánh sáng để đội đất vươn lên.

4.Mão= rậm tốt, mặt trời từ phương đông toả sáng rực rỡ giúp muôn loài sinh trưởng tươi tốt

5.Thìn =chấn động,dương khí tràn về, muôn vật thoả sức phát triển.

6.Tỵ=vươn dậy và phát triển sung mãn, âm khí đã hết, thuần dương.

7.Ngọ=muôn vật đã trưởng thành đầy đủ, dương khí đầy đặn, mùa gặt hái đã về.Âm khí đã bắt đầu hình thành.

8.Mùi = là vị, quả đã chín và có vị ngọt.

9.Thân = thân thể, vật đã trưởng thành

10.Dậu = co lại phát triển bên ngoài ngừng.

11.Tuất = diệt cành khô lá úa héo cây cỏ úa tàn sinh khí không còn.

12.  Hợi = bóp chết, âm khí tràn ngập, mọi vật chìm trong chết chóc.

Dùng can chi để đặt tên các năm thì gọi là "can chi ký niên" và cứ 60 lại quay lại quay lại vòng tròn. Vòng này là vòng Giáp Tý. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì đến năm 1983, đã diễn ra 77 vòng Giáp Tý. Năm 1984 năm Giáp Tý là vòng xoay thứ 78. Dùng can chi để ghi tháng gọi là "can chi ký nguyệt" can chi để ghi ngày thì gọi là "can chi ký nhật". Tên can chi của tháng gọi là nguyệt kiến, tên can chi của ngày gọi là nguyệt sóc.

Ngoài việc phân chia can chi thành âm dương, người ta còn chia can chi theo ngũ hành, cụ thể :


Từ đó cũng có can chi xung hợp. Cụ thể:

1.Những thiên can hợp nhau:

Giáp hợp Kỷ,  Ất hợp Canh

Bính hợp Tân, Ðinh hợp Nhâm

Mậu hợp Quý

2.Những thiên can xung nhau :

Giáp xung Mậu, Ất xung Kỷ

Bính xung Canh, Ðinh xuân Tân

Mậu xung Nhâm, Kỷ xung Quý

Canh xung Giáp, Tân xung Ất

Nhâm xung Bính, Quý xung Ðinh

3. Ðịa chi:


Thiên can Ðịa chi còn được đặt trong quan hệ với cấu trúc cơ thể, là cách mã hoá các vùng, các bệnh tật, được xem xét trong tương quan với màu sắt, phương vị. Từ đó, chức năng mà mười hai con giáp đảm nhiệm không phải nhẹ nhàng. Và cũng do đó hiểu được mười hai con giáp giúp cho sự nhận diện cuộc sống đơn giản hơn, tức là tìm ra cốt lõi của nó, tìm cách cân bằng và đảm bảo sự hài hoà trong cuộc sống. 

  1. 1) Mười hai con giáp
  2. 2) Việc chọn mười hai con giáp ở các nước
  3. 3) Quan niệm về tính cách con người theo các tuổi:
    Bên Nhật
    Phương Tây
  4. 4) Tại sao có chuyện "Cầm tinh" 12 con vật ?
  5. 5) Vì sao người xưa đều cầm tinh các con vật ?
  6. 6) Chuyện lấy tên các con vật đặt tên cho năm

Lược trích từ sách "12 con giáp"


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về 12 con giáp

12 con giáp chia tay như thế nào? –

12 con giáp khi chia tay như thế nào? Khi chia tay, người tuổi Sửu sẽ dùng cách đền bù vật chất, trong khi đó tuổi Dần lại dùng những giọt nước mắt thuần khiết. Tuổi Ngọ thì chọn cách quay lưng vào đối phương để bước đi dễ dàng hơn. Củ thể như thế nà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

12 con giáp khi chia tay như thế nào? Khi chia tay, người tuổi Sửu sẽ dùng cách đền bù vật chất, trong khi đó tuổi Dần lại dùng những giọt nước mắt thuần khiết. Tuổi Ngọ thì chọn cách quay lưng vào đối phương để bước đi dễ dàng hơn. Củ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu 12 con giáp khi chia tay trong bài viết dưới đây nhé!

12-con-giap-viet-nam-hoa-hinh-4

Nội dung

  • 1 12 con giáp khi chia tay
    • 1.1 Tuổi Tý
    • 1.2 Tuổi Sửu
    • 1.3 Tuổi Dần
    • 1.4 Tuổi Mão
    • 1.5 Tuổi Thìn
    • 1.6 Tuổi Tỵ
    • 1.7 Tuổi Ngọ
    • 1.8 Tuổi Mùi
    • 1.9 Tuổi Thân
    • 1.10 Tuổi Dậu
    • 1.11 Tuổi Tuất
    • 1.12 Tuổi Hợi

12 con giáp khi chia tay

Tuổi Tý

Thẳng thắn một cách chân thành

Bất luận bạn cảm giác sau khi chia tay tồi tệ đến thế nào, có hàng trăm lý do để phải đắn đo chăng nữa, với bạn, chia tay là chia tay, rất thẳng thắn và dứt khoát.

Do đó, không cần phải vịn cớ này nọ hoặc mất công tìm ra lý do phù hợp, bạn sẽ thẳng thắn nói lời chia tay với đối phương một cách chân thành. Chính điều đó khiến cả hai nhanh chóng kết thúc tình trạng mâu thuẫn kéo dài và không cảm thấy do dự hay phải nói lời hối tiếc.

Tuổi Sửu

Đền bù về vật chất

Bản tính trăng hoa cố hữu ở người tuổi Sửu đã gây ra không ít đau khổ và tổn thương cho đối phương. Sự đền bù về vật chất cũng không thể bù đắp được cho nỗi đau đó.

Tuy nhiên, nó lại là cách bày tỏ thành ý cuối cùng của người tuổi Sửu. Tất nhiên, họ sẽ dùng phương pháp đền bù khéo léo nhất sao cho đối phương phải miễn cưỡng chấp nhận.

Tuổi Dần

Những giọt nước mắt thuần khiết

Một khi đã tính tới chuyện chia tay thì dù cho có trăm nghìn lý do hay viện cớ này nọ cũng không thể cứu vãn nổi một mối tình.

Vậy nên, thay vì buông lời trách móc, van nài, thậm chí là phỉ báng đối phương, người tuổi Dần chọn “vũ khí tối mật” – nước mắt. Nhìn thấy những giọt lệ tuôn rơi, đối phương sẽ phải mềm lòng mà chấp nhận lời chia tay trong im lặng.

Tuổi Mão

Chia tay tại nơi bắt đầu mối tình

Nơi bắt đầu cũng chính là điểm kết thúc mọi chuyện, đó là suy nghĩ cố hữu ở người lãng mạn như tuổi Mão. Một mối tình đẹp nên có khởi đầu và kết thúc trong êm đềm và vui vẻ.

Đến nơi bắt đầu một cuộc tình để chấm dứt nó, điều đó khiến cả hai có thời gian để nhìn lại cả chặng đường dài cùng nhau trải qua. Đồng thời, cả hai sẽ không phải nói lời hối tiếc vì quyết định của mình. Kết thúc đẹp sẽ giữ lại dư vị ngọt ngào, làm vơi đi nỗi đau về sự đổ vỡ cho cả hai.

Tuổi Thìn

Dịu dàng hiếm thấy

Để xoa dịu nỗi đau chia tay, thay vì nổi cơn thịnh nộ, người tuổi Thìn chọn cách cư xử dịu dàng hiếm thấy với đối phương và với chính bản thân mình. Chia tay không có nghĩa mọi thứ đều phải tanh bành, đổ vỡ đến mức phải rùng mình mỗi khi nghĩ về nhau sau này.

Thái độ lịch thiệp, dịu dàng sẽ làm vơi đi nỗi đau, đồng thời là cách từ biệt nhẹ nhàng, không làm tổn thương tới bất cứ người trong cuộc nào được người người tuổi Thìn sử dụng hiệu quả.

Tuổi Tỵ

Ánh mắt chân tình

Đã rất lâu kể từ khi mâu thuẫn xảy ra giữa hai người, bạn không còn nhìn thấy ánh mắt chân tình của đối phương dành cho mình. Ngược lại, bạn cũng quên dùng nó để nhìn đối phương. Chính điều đó khiến cả hai ngày càng xa cách và không tránh khỏi đổ vỡ.

Vậy nên, trước khi hai người trở nên xa lạ và không còn có bất cứ mối liên quan ràng buộc nào, người tuổi Tỵ sẽ dùng ánh mắt chân tình của mình để nhìn đối phương lần cuối. Họ mong muốn kết thúc mối tình một cách êm dịu và thoải mái nhất.

Tuổi Ngọ

Quay lưng vào đối phương để có thể bước đi một cách dễ dàng

Không nhìn thẳng hoặc quay đầu tỏ ý tiếc nuối về một mối tình đã đứng trên bờ vực thẳm. Người tuổi Ngọ chọn cách đứng quay lưng vào đối phương để sau khi nói những lời cuối cùng và trở thành hai kẻ xa lạ, họ có để bước đi nhẹ nhàng, không nuối tiếc.

Tuổi Mùi

Cắt đứt mọi thứ liên quan đến người cũ

Vốn dĩ người tuổi Mùi không quyết đoán nên dễ bị ngoại cảnh tác động. Trường hợp khi đã chia tay khá lâu, nhưng chỉ cần nhìn thấy những món đồ liên quan đến người cũ, mọi nỗi niềm cảm xúc, vui có, buồn có, giận hờn trong người tuổi Mùi lại trỗi dậy.

Do đó, để có thể quên được quá khứ đau buồn, người tuổi Mùi phải cắt đứt mọi thứ liên quan đến người cũ như đồ vật, số điện thoại, email, facebook… Có như vậy, nỗi đau chia tay mới không giày vò giằng xé và kéo dài ở người tuổi Mùi.

Tuổi Thân

Khởi đầu mới

Với người tuổi Thân, cánh cửa này khép lại cũng chính là lúc cánh cửa khác mở ra. Chia tay không dễ dàng nhưng một khi đã vượt qua nó thì mọi thứ trở nên đơn giản hơn.

Thay vì ngồi gặm nhấm quá khứ đau buồn và bị nó chi phối, người tuổi Thân sẽ chủ động kết thân thêm bạn bè để khởi đầu những ngày tháng mới đầy thú vị và ngập tràn niềm vui, hy vọng.

Tuổi Dậu

Biến nỗi đau thành sức mạnh

Không giống những con giáp khác, phải vật vã với nỗi đau chia tay, người tuổi Dậu biết cách biến nỗi đau thành sức mạnh để có thể vượt qua nó một cách đơn giản nhất.

Nói vậy thôi, trên thực tế người tuổi Dậu cũng phải đấu tranh và bị giằng xé rất nhiều vì sự đổ vỡ tình cảm. Tuy nhiên, họ biết cách kiểm soát cảm xúc của mình và tập trung nhiều hơn vào công việc để có thể quên đi mọi khổ đau tinh thần.

Tuổi Tuất

Trong cương ngoài nhu

Chia tay thì ai cũng đau khổ, biểu hiện ra bên ngoài là rõ nhất. Nhưng ít người biết được thế giới nội tâm mạnh mẽ của người tuổi Tuất.

Dù bên ngoài họ tỏ vẻ yếu đuối và đau khổ, nhưng bên trong lúc nào cũng gồng mình lên một cách mạnh mẽ để chống lại nỗi đau chia ly đang giằng xé. Đó chính là cách hữu hiệu để người tuổi Tuất vượt qua vết thương lòng.

Tuổi Hợi

Thái độ rõ ràng, dứt khoát

Khi chia tay không nên để đối phương hay bản thân một tia hy vọng, dù nhỏ bé nhất. Điều đó sẽ gây ảo tưởng cho một trong hai và càng thậm tệ hơn nếu cứ cố níu giữ những gì không còn thuộc về mình.

Nhận thức được điều này, người tuổi Hợi đã dùng thái độ rõ ràng và dứt khoát để đưa ra quyết định quan trọng của cuộc đời mình. Nhìn họ có vẻ lạnh lùng và cương quyết vậy thôi, bên trong cũng xót xa, đau khổ nhiều lắ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp chia tay như thế nào? –

4 vật đừng đốt để tránh rước xui vào mình

Theo tâm linh, có những vật không nên đốt dù ghét đến mấy nếu không muốn rước xui vào người.
4 vật đừng đốt để tránh rước xui vào mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo thế giới tâm linh, có những vật không nên đốt dù ghét đến mấy nếu không muốn rước xui vào người.

4 vat dung dot de tranh ruoc xui vao minh hinh anh
 
1. Ảnh
Ảnh chụp không chỉ là vật lưu giữ kỉ niệm mà còn lưu giữ một phần tinh thần của chủ nhân. Đốt ảnh thì phần tinh thần đó sẽ bị hỏa thiêu khiến nảy sinh bất hòa, những điều không may mắn cho người trong ảnh và cả người đốt ảnh. Vì vậy ảnh chụp là vật không nên đốt.
 
2. Quần áo  Theo kinh nghiệm dân gian, quần áo nếu quá cũ thì có thể mang cho hoặc bỏ đi chứ đừng đốt. Vận rủi của việc đốt quần áo có thể gây đại nạn bất ngờ. Hãy lưu ý!
 
3. Sách  Sách lưu giữ trí tuệ, tinh thần của nhân loại, đốt sách là bất kính, sẽ phải chịu hậu quả. Không thích thì nên đem tặng hoặc cất đi chứ đốt thì trí tuệ thui chột, ảnh hưởng tới cả đường học hành của con cái.
 
4. Tóc  Tóc là phần dư của máu, vì rất quan trọng trong tâm linh. Vận rủi của việc đốt tóc thường là hay bị đau đầu, bị lừa gạt, nghiêm trọng hơn có thể ảnh hưởng đến vận mạng về tình cảm.
 
Đặc biệt, vào tháng Giêng âm lịch thì những thứ kiêng đốt này càng không nên đụng tới. Vào thời điểm đất trời giao hòa, chuyển đổi có nhiều chân linh, ma quỷ, âm thịnh dương suy, những vận hạn lại càng mạnh.
 
Những lưu ý tâm linh được truyền miệng trong dân gian từ xưa đến nay, chưa có khoa học nào kiểm chứng về tính xác thực của nó, chỉ dùng để tham khảo.
► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Theo tinhhoanet

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 vật đừng đốt để tránh rước xui vào mình

Đổi màu cửa sổ, vận khí tăng tiến

Phong thủy nhà ở là sự phối hợp của tất cả các yếu tố hiện hữu trong căn nhà. Màu sắc cửa sổ hợp phong thủy cũng góp phần làm tăng vận khí và tạo bố cục phong
Đổi màu cửa sổ, vận khí tăng tiến

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thủy tốt toàn diện.

Doi mau cua so, van khi tang tien hinh anh
Màu sắc cửa sổ không chỉ có giá trị thẩm mĩ mà còn có ý nghĩa phong thủy

Màu sắc cửa sổ hài hòa
với màu tường của căn nhà là tiêu chí đầu tiên cần quan tâm khi chọn màu sơn. Không chọn các màu quá tương khắc hoặc phản cảm với nhau sẽ tạo ra khung cảnh không thuận mắt, thiếu thẩm mỹ.
 
Khi chọn màu sơn cửa sổ nên chú ý kết hợp với phương hướng để thúc đẩy may mắn cho gia chủ.
 
Cửa sổ hướng chính Đông, Đông Nam hợp màu vàng và màu nâu.
 
Ở hướng chính Nam sơn màu trắng, màu bạc là màu cửa sổ hợp phong thủy.
 
Cửa sổ đặt ở hướng Tây Nam phối hợp với màu xanh lam và màu đen tạo ra phong thủy tốt.
 
Màu xanh lục và xanh da trời thích hợp để sơn cửa sổ ở hướng chính Tây, Tây Bắc.  
 
Cửa sổ hướng chính Bắc nên dùng màu đỏ và màu hồng.
 
Cửa sổ hướng Đông Bắc sơn màu xanh lam và màu đen là những màu sắc tốt lành.   Theo Phong thủy biệt thự, nhà vườn và khu vui chơi giải trí
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đổi màu cửa sổ, vận khí tăng tiến

Hình xăm ngôi sao cho các bạn nữ 2014 –

Hình xăm ngôi sao đơn giản thường rất thu hút các bạn nữ . 1 hình xăm ngôi sao nhỏ trên vai , trên tay sẽ khiến các bạn gái trở nên quyến rũ , gợi cảm hơn Hình xăm ngôi sao khiến cho các bạn gái trở nên quyến rũ sexy Hình xăm ngôi sao trên tay Một dả
Hình xăm ngôi sao cho các bạn nữ 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hình xăm ngôi sao đơn giản thường rất thu hút các bạn nữ . 1 hình xăm ngôi sao nhỏ trên vai , trên tay sẽ khiến các bạn gái trở nên quyến rũ , gợi cảm hơn

hinh-xam-ngoi-sao-11

Hình xăm ngôi sao khiến cho các bạn gái trở nên quyến rũ sexy

hinh-xam-ngoi-sao-1

Hình xăm ngôi sao trên tay

hinh-xam-ngoi-sao-2

Một dải hình xăm ngôi sao trên bờ vai gợi cảm

hinh-xam-ngoi-sao-3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình xăm ngôi sao cho các bạn nữ 2014 –

Cải thiện số mệnh nhờ sử dụng màu sắc chuẩn phong thủy

Mọi người đều tin rằng tính cách ảnh hưởng đến vận mệnh, tuy nhiên một điều mà không phải ai cũng biết, màu sắc quyết định vận mệnh.
Cải thiện số mệnh nhờ sử dụng màu sắc chuẩn phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Màu sắc tương ứng của ngũ hành   - Kim: hệ thống màu trắng   - Mộc: hệ thống màu lục   - Thủy: hệ thống màu đen   - Hỏa: hệ thống màu đỏ   - Thổ: hệ thống màu vàng
2. Cách để chọn màu phù hợp với bản thân   Con người ngay từ khi sinh ra đã được quyết định bởi trạng thái ngũ hành giống như con giáp, điều này không thể thay đổi được. Và màu sắc quyết định vận mệnh cũng giống như tuổi cầm tinh cho biết cuộc sống một đời người. Trạng thái ngũ hành có mối liên hệ mật thiết đối với màu sắc, có thể sử dụng màu sắc cải thiện vận mệnh, bổ sung hoặc tiết chế ngũ hành, .   Ví dụ trong Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, bạn thiếu nguyên tố Kim có nghĩa là màu trắng tốt cho bạn; nếu bạn thừa nhiều yếu tố Thổ thì nên tránh màu vàng. Vậy nên, muốn biết bản thân hợp màu nào, kỵ màu nào thì cần phải biết mệnh lý ngũ hành.   Màu sắc là một trong những yếu tố ảnh hưởng thị giác và cảm giác lớn. Trang trí nhà cửa sao cho màu sắc hài hòa và hợp phong thủy là điều mà bất cứ gia chủ nào
4. Ý nghĩa của màu sắc
  - Màu trắng: ngay thẳng, thuần khiết, đoan trang, chính trực, trẻ trung.   - Màu đen: thanh liêm, nghiêm trọng, nghiêm túc, hào sảng, cô đơn.   - Màu đỏ: vĩ đại, nhiệt tình, cương trực, vui mừng, đáng sợ, nguy hiểm.   - Màu lục: lỗ mãng, cố chấp, quái đản, giả dối, đố kỵ, thanh xuân.   - Màu hồng: thông minh, hoạt bát, đáng yêu, thiếu nữ, phong lưu, lãng mạn, hoang đường, diêm dúa, dâm đãng, ngả ngớn.   - Màu lam: thanh xuân, nhanh nhạy, phấn chấn, đứng đắn, nghĩa khí, nhẹ nhàng, cô đơn, yên tĩnh, khoan dung, thuỳ mị.   - Màu tím: nghiêm nghị, cẩn trọng, nhẫn nại, quyết đoán, thanh cao, thần bí.   - Màu xám: bất định, ba phải, lạnh nhạt, bình tĩnh.   - Màu tím nhạt: tốt đẹp, thanh tú, dịu dàng, dễ chịu.   - Màu xanh lá: trí tuệ, yên tĩnh, trầm mặc, điềm tĩnh.   Mỗi màu sắc trong phong thủy đều có ưu điểm và khuyết điểm, nên dù có tốt, có hợp ngũ hành, vượng phong thủy thì cũng không nên sử dụng quá mức, bởi quá vượng tất suy. Cũng như, không phải vì ngũ hành khắc chế mà tuyệt đối không bao giờ dùng tới màu sắc đó nữa. Quan trọng là tiết chế, hợp lý và hài hòa.
 
Chi Nguyễn (Theo 14944)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải thiện số mệnh nhờ sử dụng màu sắc chuẩn phong thủy

Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Một bài viết trình bày bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi rất hay! Vương Đình Chi là một bậc thầy tử vi!
Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.

Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".

"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.

Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.

Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.

Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?

Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:

Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.

Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN

1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng

Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.

Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.

Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.

Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.

Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.

Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".

Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.

Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.

Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.

Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.

2- Quan sát toàn diện 12 cung

Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.

Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.

Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.

3- Các bước luận đoán mệnh bàn

Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:

3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.

Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.

3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch

Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.

Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.

3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức

Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.

Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.

3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý

Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.

Xin đưa ra một ví dụ thực tế:

- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.

3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn

Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.

Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.

Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).

Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.

Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".

Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.

Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.

3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung

Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.

Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo

- Mượn sao an cung

Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.

Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.

Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.

Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.

Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.

Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.

Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.

Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.

Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau

Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".

Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:

Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.

Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.

Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.

Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).

Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.

Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.

Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".

"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm

Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.

Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.

Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.

Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:

+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang

+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt

+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã

+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.

Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.

- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.

- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.

- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".

- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.

Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:

Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).

Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.

"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )

Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".

Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.

Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)

Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.

Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:

1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.

Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.

Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.

Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.

Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.

Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.

Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.

Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.

Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.

Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.

Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.

Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.

Mệnh bàn nguyên cục:

- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.

Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.

Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.

Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.

Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.

Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.

Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.

Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.

Ghi chú về phép định Tiểu hạn

Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt

Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.

Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.

Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.

Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.

Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.

Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.

- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát

- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.

- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.

- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.

- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.

- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.

- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban

Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con

Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.

Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:

- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)

Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.

4)- Cách luận đoán lưu nhật

Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.

Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.

Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...

Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.

Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.

Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.

Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:

- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.

Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.

Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.

Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.

Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.

Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.

Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.

Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.

Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.

Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.

Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.

Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.

5)- Cách luận đoán lưu thời

Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.

Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:

- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý

Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Sở thích nude của 12 sao nữ đầy nóng bỏng

Có một sự thật về 12 sao nữ mà không phải ai cũng biết, đó chính là trong 12 cung hoàng đạo thì có 8 sao nữ có sở thích nude.
Sở thích nude của 12 sao nữ đầy nóng bỏng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có một sự thật về 12 sao nữ mà không phải ai cũng biết, đó chính là trong 12 cung hoàng đạo thì có 8 cung thích gợi cảm, 4 cung còn lại thì... không dám nói ra.
 

Điều này có thể dẫn tới một thực trạng khá dễ hiểu khi lệnh cấm chụp ảnh "nude" vừa được gỡ xuống, hàng loạt sao Việt đã không ngừng tung những bức hình nóng bỏng của mình lên mạng. Việc tìm ra được top cung hoàng đạo của các sao Việt thích chụp ảnh "nude" vì thế cũng trở nên khá khó khăn vì dường như xác suất này trải dài trên vòng tròn hoàng đạo.
 
Cùng điểm danh các gương mặt đại diện của sao nữ 12 cung sở hữu những tấm hình khỏa thân nghệ thuật nhất và hãy đoán xem tại sao họ lại có sở thích nude.
 
Lan Khuê (01/04/1992) – Bạch Dương

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Thuộc nhóm Lửa – Tiên Phong (Fire – Cardinal), các quyết định của Bạch Dương thường được đưa ra chớp nhoáng, bất chấp hậu quả, giống hệt khi một tia sét rạch trời đánh xuống. Các "shot" hình của Bạch Dương Lan Khuê phải chăng cũng ra đời trong hoàn cảnh đó?   Ngọc Quyên (24/04/1988) – Kim Ngưu

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Ưa chiều chuộng, ưa vuốt ve là những từ thích đáng để nói về sở thích của Kim Ngưu trong chuyện tình cảm. Việc sở hữu những bức hình gợi cảm của Kim Ngưu Ngọc Quyên trong bộ sưu tập ảnh của mình ngoài các mục đích bên lề, có lẽ cũng nhằm thỏa mãn sở thích này.   Trúc Diễm (24/05/1987) – Song Tử

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Song Tử luôn hiếu kỳ trước mọi điều mới lạ, không ngại thử những thú vui mới xuất hiện theo trào lưu. Điều này có thể cũng là động lực mạnh nhất dẫn cô nàng Song Tử Trúc Diễm thử nghiệm với dòng ảnh "nude" này.   Minh Hằng (22/06/1987) – Cự Giải

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Mọi hành động của Cự Giải đa phần đều xuất phát từ cảm xúc. Liệu có chăng một phút xúc động nào đó, dù vui – buồn – hào hứng hay phấn khích thái quá, Cự Giải Minh Hằng mới quyết định chụp những "shot" hình đầy nóng bỏng như thế này?   Thanh Hằng (22/07/1983) – Sư Tử

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Là một Sư Tử đồng nghĩa với việc mang trong mình một cái tôi đầy kiêu hãnh. Trong khi các mỹ nhân trong "showbiz" thi nhau chụp ảnh "nude" khoe thân hình gợi cảm, không có lý gì Sư Tử Thanh Hằng lại ngồi yên mà không chứng tỏ vẻ đẹp của bản thân mình.   Phạm Hương (04/091991) – Xử Nữ

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Đối với Xử Nữ, mọi việc đều luôn có sắp xếp từ trước và có mục đích rõ ràng. Xu hướng chụp ảnh "nude" trong làng giải trí vốn chẳng thể tác động nhiều tới Xử Nữ Phạm Hương. Đơn giản, có thể trên con đường đi tìm sự toàn mỹ cho hình ảnh cá nhân, ảnh 'nude' cũng là một phần để hoàn tất miếng ghép hoàn hảo đó với cô gái đa tài này.   Đinh Ngọc Diệp (11/10/1984) – Thiên Bình

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Cuộc sống với Thiên Bình luôn cần một sự cân bằng tuyệt đối. Vậy nên, có lẽ việc tìm về với tự nhiên, với những gì trần trụi nhất sẽ là việc đem tới cho Thiên Bình sự cân bằng đến hoàn hảo. Phải chẳng Thiên Bình Đinh Ngọc Diệp cũng là vì lẽ này mà tìm đến với chụp ảnh nude?   Tăng Thanh Hà (24/10/1986) – Bọ Cạp

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Bản thân của Bọ Cạp đã sở hữu sự quyến rũ chết người, họ cũng biết cách phô bày ưu điểm đó của bản thân. Điều đó dĩ nhiên không ngoại lệ với Bọ Cạp Tăng Thanh Hà. Cô không ngại diện những bộ bikini nóng bỏng trong Đẹp từng centimet, hay chụp những tấm ảnh nude đầy lôi cuốn. Nhưng điều đó không phải là tất cả, vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của ngọc nữ này mới là điều khiến cô được lòng người hâm mộ.   Hồ Ngọc Hà (25/11/1984) – Nhân Mã

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Tham vọng bứt phá ra khỏi các khuôn thước đời thường và đạt tới cảnh giới của sự tự do có lẽ là thứ thôi thúc nhất bên trong mỗi Nhân Mã. Điều này có thể đã khiến cho Nhân Mã Hà Hồ không ngần ngại, bạo dạn cho ra bộ ảnh "nude" của mình.   Lê Kiều Như (24/12/1983) - Ma Kết

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Ma Kết luôn mang trong mình những ẩn ức không tên. Tình dục, xác thịt là những thứ mãnh liệt mọi Ma Kết luôn hướng đến nhưng lại chẳng bao giờ dám thể hiện. Có chăng, những bức bối đó chỉ có thể gửi vào những bức hình khỏa thân của Ma Kết Kiều Như?   Thúy Hạnh (04/02/1978) – Bảo Bình

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Vốn sở hữu con mắt nhìn nhận, đánh giá các trào lưu trong xã hội vô cùng độc đáo, khác người, Bảo Bình Thúy Hạnh bước vào trào lưu chụp ảnh "nude" với cách thể hiện rất lạ và sáng tạo với con gái của mình.   Ngô Thanh Vân (26/02/1979) – Song Ngư

So thich nude cua 12 sao nu day nong bong hinh anh goc
 
Song Ngư là cung hoàng đạo mang trong mình nhiều mối tình day dứt nhất. Nhu cầu được sống và trải nghiệm với cảm xúc luôn trào dâng mãnh liệt trong mọi Song Ngư. Có lẽ cũng chính vì vậy, Song Ngư Ngô Thanh Vân không nằm ngoài trào lưu chụp ảnh "nude" của "showbiz" Việt.
ST.

Tình duyên mở cửa với 3 chòm sao đào hoa trong Giáng Sinh 2016 Doctor: Liệu Bọ Cạp có hợp cạ với Thiên Bình? Cảnh báo 4 chòm sao xui xẻo trong tháng 12, đi đâu cũng gặp tiểu nhân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sở thích nude của 12 sao nữ đầy nóng bỏng

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương. Tình yêu không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ hai phía. Hãy tham khảo bài viết sau bạn nhé
Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương. Tình yêu không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ hai phía. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp tình yêu chỉ xuất phát từ một người. Mối tình ấy vẫn thường được gọi là tình đơn phương.

Có nhiều người chọn cách yêu đơn phương khác nhau. Có người chọn cách âm thầm, lặng lẽ quan tâm tới người kia, theo dõi từng bước đi của người ấy và không bao giờ tiết lộ tình cảm của mình. Tuy nhiên, cũng có người dù biết đối phương không yêu mình nhưng vẫn thể hiện tình cảm của mình. Nhưng dù chọn cách thể hiện như thế nào, tình yêu đơn phương cũng khiến cho người ta có những cảm giác cô đơn. Nếu bạn cũng đang có một mối tình đơn phương, bạn cho mình thuộc vào trường hợp nào?

Hãy cùng đọc những câu nói hay về yêu đơn phương dưới đây để xem có ai đang cùng tâm trạng với bạn nhé.

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

1. Đơn phương là thế, dù rất thích, rất muốn bày tỏ nhưng bản thân không cho phép. Vì em sợ rằng một mai sẽ không còn là bạn mà là người dưng.

——–

2. Có bao giờ, bạn nhấc máy chờ nghe giọng nói ấm áp của một người để rồi… lặng lẽ mỉm cười sau những tiếng tút dài trong vô vọng và tự dối lòng rằng, chắc người ta đang bận đó thôi.

3. Người không biết quý trọng mình không đáng để mình tiếp tục cho đi tình yêu vì cuối cùng người bị tổn thương nhiều nhất sẽ là mình mà thôi.

4. Vì hãy yêu thương nhau khi còn có thể nên anh đâu thể bỏ hình ảnh em ra khỏi trái tim anh.

5. Có những nỗi nhớ không được đặt tên, có những yêu thương không được gửi trao nhưng vẫn lâng lâng một niềm hạnh phúc vì được yêu đúng cảm xúc trái tim.

6. Sợ nhất là khi ta lấy hết dũng cảm để nhắn tin cho một người, Để rồi trả lại là sự im lặng lạnh người hay câu nói vô tình: ” Đừng làm phiền tôi nữa”.

7. Em không muốn đón nhận anh, cũng không sao. Không được gặp em cũng chẳng sao cả… Nhưng hãy để cho anh được biết em vẫn ổn, nhé!.

8. Có phải em quá ngốc, vì em mà anh chẳng thèm đoái hoài tới tình cảm của em?.

9. Đôi khi việc lặng lẽ đi sau một người dõi theo từng bước chân của người ấy bằng cả trái tim đã có thể gọi là yêu.

10. Trời cho em đôi mắt là để nhìn những điều tốt đẹp. Vậy sao cứ nhìn anh hoài rồi lặng lẽ cụp mi khi người ra đi lạnh nhạt.

11. Có một người, dạy bạn thế nào là yêu nhưng không yêu bạn. Có một người, trao cho bạn hàng ngàn nỗi nhớ nhưng chẳng bao giờ nhớ về bạn.

12. Anh hiểu rằng, khi em chẳng nhìn thấy tim anh thì tình yêu của anh có lớn đến bao nhiêu vẫn chỉ là một số 0 tròn trĩnh.

13. Vì em yêu anh thật lòng, trước hàng trăm lí do từ bỏ. Vậy nên đừng hỏi vì sao em luôn cố tìm ra một lí do để tiếp tục yêu.

14. Đã có lúc em nhớ lắm nhưng vẫn giả vờ không có gì, muốn gặp lắm nhưng vẫn cố gắng kiềm chế. Em thích lắm nhưng vẫn nói chỉ là bạn bè thôi. Muốn bày tỏ tình cảm lắm nhưng lại sợ không được đáp trả.

15. Dù anh cứ hững hỡ với tình cảm của em nhưng xin đừng lạnh lùng quá như thế, đừng cắt đứt mọi liên lạc, để cho em cảm giác rằng mình đáng ghét đến thế này.

16. Em sợ tất cả chỉ là nhất thời, chỉ là cảm xúc bộc phát, chỉ là cái gì đó không rõ ràng. Sợ khi yêu rồi sẽ lại phải chấp nhận bị bỏ quên.

17. Anh và em như hai đường thẳng song song không một tia hy vọng.

18. Có một người, với bạn là tất cả nhưng với người ta bạn chẳng là gì. Có một người, lúc ở bên cạnh có thể bạn sẽ nở nụ cười nhưng khi quay đầu đi bạn đã bật khóc.

19. Vì yêu thương vẫn ở đây và em sẽ là nhà chờ anh về với tình yêu ấy.

20. Tớ muốn được ôm chặt cậu, dù biết trái tim cậu đang gọi tên một người khác. Bởi tớ thật yếu đuối nên tớ muốn dựa vào vai cậu mãi, dù biết cậu chỉ xem tớ là một người bạn thân.

Ai cũng muốn có cho mình một tình yêu trọn vẹn, tuy nhiên, tình cảm của con người là thứ mà chúng ta không thể nào điều khiển được. Lỡ yêu một người, cho dù không nhận được tình cảm đáp lại, cho dù biết càng yêu đậm sâu càng làm cho bạn thân đau khổ thì người ta vẫn cứ muốn yêu. Với những ai đang yêu đơn phương, sau khi đọc những câu nói hay về yêu đơn phương, chúng tôi hy vọng đã an ủi bạn được phần nào cho những lúc cô đơn. Đây cũng là một lời động viên đến bạn rằng biết đâu một ngày nào đó người ấy sẽ thấu hiểu tình cảm của bạn và đáp lại tình cảm ấy. Hoặc biết đâu một ngày nào đó, bạn sẽ nhận ra một nửa đích thực của riêng mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về tình yêu đơn phương
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd