Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Người ăn mày và chú chó nhỏ

Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm dựa vào thành cầu, co ro rúc mặt vào trong đầu gối, bên cạnh đôi chân gày gò để một cái bát mẻ cũ kỹ.
Người ăn mày và chú chó nhỏ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện kể rằng trên cây cầu trong ngôi thành nọ có một người hành khất. Ông ta không biết kéo đàn, cũng không biết hát, thậm chí còn chẳng biết viết ra cảnh ngộ bi thảm của mình lên giấy, rải xuống đất để mong nhận sự thương xót của khách qua lại.

Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm dựa vào thành cầu, co ro rúc mặt vào trong đầu gối, bên cạnh đôi chân gày gò để một cái bát mẻ cũ kỹ. May mà người qua lại chiếc cầu rất đông, thi thoảng cũng có người đem vài đồng bạc lẻ vứt vào trong bát.
Khi đêm đến, người hành khất sẽ trở về chỗ trú ngụ của ông – một cái vườn rau ở ngoại ô, bị bỏ hoang đã lâu. Một hàng rào xiêu vẹo bao lấy vườn rau bỏ hoang, bên trong có một túp lều nát, người hành khất già đã lánh rét ở đó được mấy mùa đông lạnh giá.
Trong vườn rau còn có một miệng giếng khô, bên giếng có một gốc cây già. Gió mùa đông bắc ùa về, thành phố đón trận tuyết đầu tiên của mùa đông. Người trên cầu thưa thớt hẳn đi, lão hành khất đang định sẽ về nghỉ, bỗng từ đâu chạy tới một con chó nhỏ.
Con chó bị lạnh tới nỗi run lên từng chập, trõ mõm hít hít cái bát sứt của người ăn mày, thì ra là vì đêm hôm trước ông đã dùng cái bát này để thức ăn. Lão hành khất trong lòng thương xót, liền lấy trong người ra một chiếc bánh bao, khẽ khàng bỏ vào trong bát.
Con chó nhỏ ngước lên nhìn ông hồi lâu, như thể cảm động lắm, rồi gục mặt vào bát ăn lấy ăn để. Người ăn mày mang con chó về “nhà” của mình, từ đó người chó quấn quít không rời. Con chó rất thông minh, hễ đói là biết ngoạm cái bát chạy nhắng quanh chủ đòi ăn. Những người đi qua nhìn thấy thế rất ngạc nhiên thích thú, liền thi nhau ném tiền vào trong bát.

Người ăn mày phát hiện ra đây là cơ hội lớn, liền huấn luyện cho con chó. Qua một thời gian, nó đã biết đứng bằng hai chân sau, ngoạm bát xin ăn nhảy tới nhảy lui trước mặt những người qua đường. Vậy là người ăn mày lại càng thu được nhiều tiền thêm.
Người ăn mày bỗng dưng ” phát tài”, liền lấy tiền đi đánh xổ số. Thật là nằm mơ cũng không tưởng được vận số ông lại tốt đến vậy, không lâu sau ông trúng giải độc đắc. Cứ như là số mệnh vậy. Người ăn mày mua lại vườn rau bỏ hoang, rồi từ mảnh đất đó xây lên một ngôi nhà lộng lẫy, nhưng ông vẫn giữ lại túp lều nát, miệng giếng khô cùng gốc cây già và nếp hàng rào lưa thưa ngày nào ở vườn sau khu nhà mình.
Trong phòng của người ăn mày bày biện đầy những đồ xa xỉ, ông bỗng chốc mê mẩn việc sưu tầm đồ cổ, thích cung phụng những mỹ nhân chân dài, lại càng thích ánh mắt kinh ngạc, ngưỡng mộ của mọi người khi ông rút trong túi ra cả xập tiền lớn.
“Quý ngài ăn mày” bắt đầu đi gặp gỡ giới thượng lưu, dĩ nhiên lúc nào ông cũng mang theo con chó nhỏ của mình. Các bà mệnh phụ ra sức ủng hộ nhiệt liệt quí ông ăn chơi mạnh tay này, và dĩ nhiên chẳng ai biết xuất thân ông ra sao. Điều duy nhất làm cho “quý ngài ăn mày” cảm thấy khó xử chính là chú chó nhỏ, bởi những người thượng lưu khác đều nuôi những con chó giống quý, thuần chủng kia!

Cho tới một hôm, con chó con bướng bỉnh của ông cắn rách tai một con chó cái giống quí, ngay giữa bữa tiệc. Chủ nhân con chó nổi trận lôi đình, làm cho ngài ăn mày cảm thấy lòng tự tôn của mình bị tổn thương nghiêm trọng.
Về tới nhà, ông lạnh lùng mang con chó ra vườn sau, cạnh cái giếng cũ. Sau đó cho nó vào một chiếc thùng gỗ, buộc vào một sợi dây thừng dài và thả xuống cái giếng khô. Người ăn mày quyết tâm giết chết con chó, giống như tiêu diệt hoàn toàn cái quá khứ khốn khổ vẫn ám ảnh ông ta.


Từ đó, bên cạnh người hành khất thiếu đi con chó nhỏ trung thành, ông ta có thể thoải mái một mình đi gặp các cô em phục vụ dễ thương ở quán rượu, hoặc đi dự những bữa tiệc thượng lưu xa hoa.May mà dù thế nào ông cũng không quên mỗi ngày thả xuống giếng vài miếng thịt, vì tiếng sủa của con chó cho ông biết rằng người bạn ngày khốn khó xưa kia vẫn còn sống.

Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, người hành khất ngược lại cảm thấy không hề vui vẻ, chó nhỏ đi rồi, bạn bè quý tộc của ông ta cũng không hề nhiều hơn, vả lại có một hôm, nhằm lúc ông uống rượu say lướt khướt, đã buột miệng để lộ ra cái thân phận thấp hèn ngày xưa. Lũ người kia bỗng chốc chế nhạo và quay mặt lạnh nhạt với ông ta.


Người ăn mày cuối cùng hiểu ra rằng, trên đời này chỉ có chú chó nhỏ đã từng trải qua hoạn nạn với mình mới là người bạn chân chính nhất. Thế mà ông nỡ vứt nó xuống dưới giếng khô.Người ăn mày chạy thật mau đến bên giếng, thả cái cũi gỗ xuống. Nhưng chó con chỉ đi quanh cái thùng gỗ mà không dám nhảy vào trong.Người ăn mày chạy đi tìm một cái dây to, một đầu cột vào gốc cây, tự mình trèo xuống đáy giếng cứu chó con. Giếng rất sâu, nhưng ông không sợ hãi chút nào. Đáy giếng tối om om, lại bốc lên mùi thum thủm, ông vội cắp con chó rồi trèo lên.Chó con chẳng hề oán trách chủ mình, vui mừng liếm mặt người chủ lâu ngày mới gặp lại. Bác sỹ giỏi nhất trong thành cũng không thể trị nổi bệnh của chó nhỏ. Người hành khất vì muốn bù đắp lỗi lầm của mình, mỗi ngày đều cho nó đồ ăn ngon nhất, đi đâu cũng dắt theo. Con chó nhỏ vui lắm, lúc lắc cái đuôi nhỏ, nhưng đầu nó chỉ có thể quay nhìn đằng sau, đôi mắt lúc nào cũng ngước nhìn trời cao.

Người ăn mày mang chó nhỏ đi khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, ông cầm tiền bỏ vào tân tay những người hành khất khác. Thấy những người ấy cảm kích cầm tiền của mình, ông cảm thấy thật là mãn nguyện. Rồi ông bắt đầu có dự định mới, ông báo cho những người ăn mày trong cả thành tới nhà ông lĩnh tiền.


Tin tức truyền đi rất nhanh, đội ngũ ăn mày tới lĩnh tiền càng lúc càng đông. Những người được tiền rồi dùng mọi lời lẽ hoa mỹ nhất trên đời để tán tụng ông, khiến ông hưng phấn khôn tả. Đài truyền hình tới, bản tin buổi tối cũng có phóng sự nói về ông.
Ngày thứ hai, mọi người như nước thủy triều xông tới nhà ông, có những người chẳng phải ăn mày cũng gia nhập vào đội quân lĩnh tiền. Người hành khất cứ chìm đắm trong cảm giác vinh dự vui sướng, ngày nào cũng bận rộn chạy qua chạy lại giữa ngân hàng và nhà mình.
Cho đến một hôm, ngân hàng báo cho ông biết tiền trong tài khoản đã hết, ông đành phải nói với hàng dài những người xếp hàng rằng : Hết tiền để phát mất rồi!
Đám người xếp hàng lập tức biến thành một đoàn hỗn loạn.
Chúng bắt đầu mắng chửi : ” Đồ ti tiện!” “Sao đến lượt tao lại không phát nữa!” ” Dạy cho nó một bài học!”.
Bọn chúng xông vào nhà ông, ném gạch tới tấp làm vỡ hết cửa sổ. Ông chốt cửa nhà lại, nhưng cũng sắp bị đám người xô đổ đến nơi rồi.
Sợ quá, ông chạy ra vườn sau. Trông thấy sợi dây thừng còn buộc bên miệng giếng, ông vội vã leo xuống. Lúc sắp xuống tới đáy giếng, bất ngờ đầu dây thừng buộc ở miệng giếng bị rơi ra, người hành khất cùng sợi dây vẫn nắm chắc trong tay rơi xuống đáy giếng tối om.
Cảnh sát mất rất nhiều công sức mới giải tán được đám người hung hãn, nhưng ngôi nhà gần như đã biến thành một bãi hoang tàn, những thứ có thể lấy được, người ta đều cướp đi hết.
Thời gian mỗi ngày một qua đi, người ăn mày chỉ đành trú lại ở đáy giếng vừa tối vừa lạnh, ông ta ngóc mặt lên gào với trời, với trăng, chẳng ai nghe thấy. Chó con mỗi ngày chạy đi khắp nơi kiếm thức ăn ném xuống giếng, lúc thì là chiếc bánh bao đã mốc meo, khi thì miếng xương đã biến mùi. Chó con kiếm thức ăn rất khó khăn, vì đầu nó chỉ có thể nhìn ngược đằng sau.
Không làm thế nào được, nó chỉ biết nằm dài ra mà hít hà dưới đất, vớ được miếng thịt hỏng hay gì đó là ngóc dậy chạy về miệng giếng khô ngay. Có một lần, chó con còn vứt xuống cả xác một con mèo chết.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, chó con thậm chí còn không để dành thức ăn cho bản thân, người nó gầy chỉ còn da bọc xương, thế rồi nó yếu đến mức sức lực để đi cũng không còn. Người ăn mày ngày nào cũng gào thét khản cả cổ, chẳng có ai tới cứu ông ta.
Vài ngày liên tiếp chó con không thả đồ ăn xuống nữa, người ăn mày không biết con chó đã xảy chuyện gì. Ông đau đáu nhìn lên mảnh trời hình tròn nhỏ bé trên miệng giếng, biết rằng mình sắp chết.
Một buổi sớm, những tiếng người nói chuyện rầm rì trên miệng giếng đánh thức người hành khất khỏi cơn mê sảng, ông thu hết chút sức tàn hô lên một tiếng.
Ông được mọi người dùng dây thừng đưa lên, ánh sáng mặt trời chói lọi làm ông không mở nổi mắt. Mọi người săm soi người đàn ông lem luốc hôi thối trước mặt:“Nếu không phải thấy có xác con chó con chết ở miệng giếng này, thì chẳng có ai nghe được tiếng kêu của ông.”

Người ăn mày nhìn cái xác gầy guộc của chó nhỏ, nước mắt rơi ướt cả bộ lông dính đầy đất bẩn của nó.

Theo Bài Học Cuộc Sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người ăn mày và chú chó nhỏ

Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)

Xem tử vi theo Lục Thập Hoa Giáp sẽ biết được cụ thể mệnh số, vận cách của từng tuổi theo cả Thiên can và Địa chi.
Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi theo Lục Thập Hoa Giáp sẽ biết được cụ thể mệnh số, vận cách của từng tuổi theo cả Thiên can và Địa chi.


So menh dac trung cua Luc Thap Hoa Giap trong tu vi dau so phan 4 hinh anh
 
Lục Thập Hoa Giáp là khái niệm quen thuộc trong tử vi đẩu số, kết hợp giữa cả hai yếu tố can và chi, tạo nên 60 tổ hợp vận mệnh riêng biệt. Vì thế, mà cùng một tuổi địa chi nhưng số mệnh sẽ có điểm khác nhau do ảnh hưởng của thiên can.   31. Sinh năm Giáp Ngọ (Ngựa đường xa), năm Giáp Thổ, ngũ hành Hỏa, nạp âm Sa Trung Kim: thái độ làm người ôn hòa, yêu thích náo nhiệt, ưa kết giao bạn bè, có đường quan lộc, gặp hung nhưng lại không hung, gặp dữ hóa lành, ít dựa vào người thân, người nữ mồm miệng nhanh nhẹn.   32. Sinh năm Ất Mùi (Dê đáng kính), năm Ất Mộc, ngũ hành Thổ, nạp âm Sa Trung Kim: dung mạo đoan chính, tuổi trẻ cần kiệm, những năm đầu thuận lợi, ít dựa vào anh em, không cso con nối dõi, gia đình thịnh vượng, tuổi già tụ tài, người nữ biết quán xuyến gia đình, vượng phu ích tử.   4 yếu tố tử vi nên xem trước khi quyết định kết hôn
33. Sinh năm Bính Thân (Khỉ trên núi), năm Bính Hỏa, ngũ hành Kim, nạp âm Sơn Hạ Hỏa: cơm áo đủ dùng, giao dịch mua bán hanh thông, có phần điền sản, tuổi trẻ vất vả, về già thịnh vượng, người nữ biết quản lý công việc, có số phát đạt.
  34. Sinh năm Đinh Dậu (Gà độc lập), năm Đinh Hỏa, ngũ hành Kim, nạp âm Sơn Hạ Hỏa: nhiệt tình, vui vẻ, trọng tình trọng nghĩa, có số quan lộc, tuổi trẻ lao lực, trong lòng muộn phiền nhưng về già thịnh vượng, nữ nhân có mệnh thanh tú, gia đình và sự nghiệp cân bằng, lão niên cát tường.
 
35. Sinh năm Mậu Tuất (Chó vào núi), năm Mậu thổ, ngũ hành Thổ, nạp âm Bình Địa Mộc: người ôn hòa, tự lập, tuổi trẻ bôn ba, tài sản tiêu tán nhưng càng già càng có lộc, nên học lấy một nghề thì lập nghiệp có thể thành công, tài nguyên dồi dào, tài lộc hanh thông, nữ nhân có số mệnh bằng phẳng.  
So menh dac trung cua Luc Thap Hoa Giap trong tu vi dau so phan 4 hinh anh
 
36. Sinh năm Kỷ Hợi (Lợn tu hành), năm Kỷ Thổ, ngũ hành Thủy, nạp âm Bình Địa Mộc: người lanh lợi, có nhiều ý tưởng, cơm áo an ổn, người thân không giúp đỡ nhiều, người nữ sớm gặp hình khắc, vợ chồng hòa thuận, người nữ thanh nhàn, tuổi già phát đạt.
  37. Sinh năm Canh Tý (Chuột trên xà), năm Canh Kim, ngũ hành Thủy, nạp âm Bích Thượng Thổ: cả đời an ổn, không lo cơm áo, người vợ tài đức sáng suốt, nắm quyền quản lý gia đình, hiểu rõ mọi chuyện, gặp hung hóa cát, được quý nhân nâng đỡ, người nữ thịnh vượng, hưng gia.   Phẫu thuật thẩm mĩ theo tử vi để vừa đẹp vừa tốt số
38. Sinh năm Tân Sửu (Trâu đi đường), năm tân Kim, ngũ hành Thổ, nạp âm Bích Thượng Thổ: tính tình hòa nhã, hay bị hoảng sợ, tuy có tiền tài nhưng tình thân ít ỏi, tuổi già phúc thọ kéo dài, nữ mệnh có tài vượng.
  39. Sinh năm Nhâm Dần (Hổ qua rừng), năm Nhâm Thủy, ngũ hành Mộc, nạp âm Kim Bạc Kim: người thẳng thắn, ăn ngay nói thật, có việc không giấu, không nên kết hôn sớm vì vợ chồng sẽ khắc nhau, người nữ chậm rãi, tuổi trẻ khó khăn, trung niên và về già tiền tài đủ dùng.   40. Sinh năm Quý Mão (Mèo từ rừng), năm Quý Thủy, ngũ hành Mộc, nạp âm Kim Bạc Kim: người sống phóng túng, phúc lộc không thiếu, trong hung có cát, tuổi trẻ tiền tài không tụ, thu ít chi nhiều, tuổi già thịnh vượng, phụ nữ trung niên và về già phải hi sinh nhiều, sống chậm rãi.   Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)

Những vấn đề nhà ở trong phong thủy ảnh hưởng tới tài lộc

Vấn đề thiết bố trí đồ vật trong nhà không phải là dễ dàng, bởi trong trường hợp đồ vật trong nhà bị đặt sai vị trí hoặc không thích hợp sẽ ảnh hưởng đến vấn đề tài lộc của bạn. Để tránh gặp phải vấn đề này các bạn phải tìm hiểu những vấn đề kiêng kỵ trong phong thủy để tránh hao tài tốn của, dưới đây là một số kiêng kỵ cần biết trong phong thủy nhà ở để các bạn tham khảo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trong nhà có quá nhiều gương


Khong nen treo qua nhieu guong trong nha  

Trong phong thủy, gương kính được xem là vật dễ bị chiếu tà. Nhưng nếu trong nhà có quá nhiều gương sẽ làm gia chủ hao tốn tài. Nếu để lâu, kinh tế trong nhà ngày càng bị sa sút.

Chú ý: Có hai đại kỵ khi treo gương trong nhà đó là treo gương đối diện ngay với cửa chính của căn nhà và đối diện với giường ngủ. Cửa chính là nơi tiếp nhận nguồn năng lượng từ ngoài vào nên nếu bạn treo gương ngay đối diện cửa thì toàn bộ năng lượng tốt sẽ bị đẩy ngược ra ngoài. Thông thường chúng ta thích treo gương trong phòng ngủ cho thuận tiện, tuy nhiên nếu để gương chiếu ngay vào giường ngủ. Gương phản chiếu vào giường ngủ sẽ sản sinh ra nguồn năng lượng âm và gương được xem như người thứ ba xen vào làm đổ vỡ hoặc xáo trộn cuộc sống hôn nhân cũng như các mối quan hệ tốt trong gia đình. Nếu nhất thiết phải đặt gương trong phòng ngủ thì tốt nhất nên đóng hoặc lấy vải che phủ gương lại trước khi đi ngủ.

2. Bản lề và cánh cửa bị cong, hoặc bị nứt, vỡ 


Nhung van de nha o trong phong thuy anh huong toi tien tai


Nếu bản lề, cánh cửa bị cong, nứt vỡ, điều này phong thủy cho rằng sẽ khiến thần Tài khó có thể bước vào nhà. Do vậy, tài lộc khó đến với gia chủ.

3. Bếp đun hoặc nồi cơm bị nứt, vỡ

Theo truyền thuyết, thần bếp " Táo quân" trước đêm giao thừa sẽ lên trời báo cáo tình hình của gia đình trong cả năm cho Ngọc hoàng, vì vậy có vị trí Táo quân có vị trí rất quan trọng. Có một số gia đình, khi bếp đun hoặc nồi cơm bị nứt vỡ mà ngại đi mua đồ mới thay thế, điều này rất tối kỵ trong phong thủy, làm cho Táo quân "không hài lòng", thần tài cũng không tìm đến gia đình đó. Vì vậy, khi bếp đun hoặc nồi cơm điện bị nứt, vỡ thì tốt nhất bạn nên đi mua đồ mới thay thế ngay.

4. Tường trong phòng ngủ ốp gạch men

Thông thường, gạch men chỉ ốp trong phòng tắm và nhà bếp, nhưng cũng có một số gia đình dùng gạch men để ốp cho tường phòng ngủ, điều này rất cấm kỵ trong phong thủy. Theo quan niệm phong thủy, nó sẽ làm tài vận của gia đình không được tốt.

5. Giường ngủ có 3 mặt giáp tường

 

nhung van de nha o trong phong thuy anh huong toi tien tai 1

 

Một số gia đình vì để tiết kiệm không gian, nên đặt giường ngủ có 3 mặt đều giáp tường. Bài trí như vậy sẽ làm cho người ngủ có cảm giác bị giam cầm. Hơn nữa, phòng ngủ đại diện cho tài vị. Nếu tài vị bị giam tất gia chủ không được lộc.

6. Nhà có sông ngòi chảy qua

Có nhiều người lắm tiền của khi xây nhà thích xây ở vị trí có sông ngòi chảy qua, bởi vị họ cho rằng phong cảnh như vậy rất nên thơ lãng mạn, nhưng kỳ thực, trong phong thủy học, nhà cửa không nên xây ở chỗ sông ngòi chảy qua, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đến tài vận của gia chủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vấn đề nhà ở trong phong thủy ảnh hưởng tới tài lộc

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Hành: Hỏa

Loại: Bại Tinh

Đặc Tính: Phá hoại tài sản, bệnh tật, tang tóc (nhỏ), thích chơi bời, cờ bạc, hay nói, khoe khoang, khoác lác, khinh người

Tên gọi tắt thường gặp: Khách

Là một phụ tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Thuộc bộ hay cách Mã Khốc Khách (Thiên Mã, Thiên Khốc, Điếu Khách).

Ý Nghĩa Của Sao Điếu Khách trong lá số tử vi:

Hay nói, nói năng không giữ lời - hay khoe, khoác lác (như Lâm Quan) - khinh người - liến thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc - chủ bệnh tật, đau yếu, tai nạn, hao tài, tang khó

Liếng thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc.

Ý nghĩa sao Điếu Khách  ở các cung:

Ở Mệnh, Quan: Khách, Phá Toái, Tuế Phá: du đãng, cờ bạc, phóng đãng - Khách, Quan Phù : cờ bạc - Khách, Khốc, Mã: gặp thời vận tốt

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Quan Lộc:

Công danh hay gặp trắc trở, nay đây mai đó.

Gặp các sao Thiên Mã, Thiên Khốc thì làm nên.

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tật Ách:

Hay gặp tai nạn té ngã, chuyện phiền lòng.

Gặp các sao Tang Môn, Hóa Kỵ, tự sát.

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tài Bạch:

Tài lộc ra vào thất thường, không ổn định.

Điếu Khách Khi Vào Các Hạn:

Điếu Khách gặp Tang: Thường có tang.

Điếu Khách gặp Hỏa: Tang nhỏ, tang xa.

Sao Điếu Khách có tác dụng chế hóa Hỷ Thần, làm cho Hỷ Thần mất giá trị.

Các bộ sao khi đi cùng sao Điếu Khách:

Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.

Liêm Trinh - Điếu khách: Thiên về nữ khách. Khách dò xét, theo dõi. Còn chủ khách thâm giao, khách lâu dài. Còn chủ số làm viễn khách dài lâu.

Vũ Khúc - Điếu Khách:  Khách qua đường, khách không thâm giao. Kỵ gặp thêm KÌNH CÔ QUẢ khách chủ dễ xung đột mâu thuẩn vì tài sản. Khách tham nhũng, khách hỏi thăm tài sản

THAM VŨ đóng đất Võng La. Gặp loài TANG ĐIẾU một nhà càng hung

Thiên Phủ - Điếu Khách: Khách già, còn chủ nhiều khách, đông khách. Lợi cho những người làm các công việc liên quan đến người già như lão khoa.

Thiên Tướng - Điếu Khách: Khách chủ tương trợ lẫn nhau,  Khách đi xem, khách xem xét. Khách nhờ cậy tương trợ.

Phá Quân - Điếu Khách:  Khách bỏ đi hoặc bỏ khách. Khách quậy phá. Cá biệt là gắn bó, khách gắn bó… Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… Bỏ, thôi không còn thăm viếng nửa. Nhưng trước đó thường hay thăm viếng.

Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Thất Sát - Điếu Khách: Mất khách. Hoặc đoạt khách giành khách. Còn chủ khách chiếm đoạt. Khách chạy làng đưa đến mất khách. … Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… vì công việc của họ là khám phá. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Tham Lang - Điếu Khách: Trung niên khách, thiên về nam khách. Khách thăm dò tìm hiểu, khách do thám. Khách tham nhũng, khách bày tỏ lòng ham muốn. Thiên Cơ - ĐiếU Khách:  Khách hiền. Khách cật vấn. Khách đi một mình. Lợi cho công việc tư vấn. Thiên Đồng - Điếu Khách:  Khách trẻ con . Khách đi đôi, đi cặp. Kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến trẻ con cần gặp khách này. Cùng với khách… như cùng đi, cùng vui chơi với khách… như trong các dịch vụ hướng dẫn du lịch. Thiên Lương - Điếu Khách: Khách hiền. Khách lương thực. Mua bán lương thực thực phẩm cần gặp khách nầy. Thái Dương - Điếu Khách:  Nam khách. Khách công khai. Khách ban ngày, Khách công khai là gì? Đó là những người tự nhiên mà đến để mua bán, coi, xem, được mời để tham gia, tham sự việc gì đó. Thái Âm - Điếu Khách: Nữ khách. Khách âm thầm. Khách ban đêm. Khách âm thầm là gì? Cũng đến để mua bán...nhưng âm thầm lặng lẽ. Mua bán cái gì  không ai biết. Cự Môn - Điếu Khách: Khách có đệ tử đồng môn bè bạn đi theo. Khách phản đối hay cãi. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Sao Tuần Gặp Sao Khách: Khách đến, còn chủ tôn trọng khách. Khách quan trọng. Khách trung thành. Triệt gặp Khách:  Khách ra về, còn chủ xem thường khách. Tốt là Khách quý được miễn trừ, khách ngoại lệ. Thiên khôi gặp sao Khách: Khách quí, Khách cũ. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Thiên Việt gặp Khách: Khách mới. Khách quí. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Kình Dương gặp Khách: Đi với Hỉ tinh khách khen ngợi. Đi với Kị tinh, HÌNH tinh, Thị phi tinh, CỰ, PHÁ xung đột với khách. Khách nầy hợp với chiến binh. Còn chủ nghênh đón khách. Thượng khách. Khách ngồi trên. Đà La gặp Khách:  Chủ lôi kéo khách. Hướng dẫn khách. Xấu là Cản trở khách. Nghênh đón khách. Xấu ta không nên đi làm khách. Khách hạng hai. Kỵ gặp  Kị tinh, Hình tinh, Thị phi tinh, Cự, Phá xung đột với khách. Hợp với chiến binh. Lộc Tồn gặp Khách: Một sao hỏi thăm, một sao thăm viếng. Tính chất thăm hỏi cực mạnh. Lộc tồn thiên về hỏi thăm có còn đó không? Có mạnh khỏe không, vì trong lòng LỘC TỒN tồn tại nỗi nhớ nhung nên vấn an. Sao Điếu Khách thiên về chia xẻ nỗi buồn khi có sự cố. Khách tồn tại, khách lâu dài. Lực Sỹ gặp Khách: Khách đợi chờ. Đợi chờ khách. Kẻ đợi chờ. Đường Phù gặp Khách: Khách công đường. Kỵ gặp nhiều sao quan sự lại thêm xung đột dễ làm khách của ông quan tòa. Khách dụ dỗ, thổi phồng. Sao Lưu ĐIẾU KHÁCH chú ý các trường hợp lưu sao Khách nhập tại Điền, Tài nếu tại đó có sẵn Sát tinh dễ gặp khách không mời mà đến là đạo chích. Để tiện cho bạn nghiên cứu, hôm nay treo tấm hình các sao lưu động năm Kỷ Sửu. Đại Hao gặp Khách:  Chủ nhiều khách, khách lớn, khách quan trọng. Trao đổi với khách. Đây là cách mua bán quan trọng. Mua bán vật quan trọng có KHÔI (tùy theo tâm trạng vật đó là báu vật, đất đai, nhà cửa. Có giá trị khi có VŨ KHÚC.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Đặc điểm không tốt cho chuyện tình yêu của con gái

Lông mày rậm, mũi hếch, răng mọc không đều... là một trong những điểm khiến bạn hay xui trong chuyện tình duyên.
Đặc điểm không tốt cho chuyện tình yêu của con gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đuôi mày lớn thưa

Lông mày của con gái cũng chính là cung tình duyên, đuôi mày chỉ ra sự thất bại hay thành công của con gái trong tình cảm. Nếu đuôi mày lớn, lông mày thưa, mọc tán loạn thì đường tình duyên cũng nhấp nhô, khó thành.

2. Ấn đường trũng

Nếu ấn đường sâu, trũng gần ngang bằng mắt thì khó lấy chồng, lấy rồi cũng dễ ly hôn, nếu ấn đường có đường vạch ngang thì chuyện tình duyên nhấp nhô.

3. Lông mày rậm

Có nhiều cô gái lông mày rậm và thường tính cách của họ cũng khá nam tính, thiếu dịu dàng, thiếu tỉ mỉ chu đáo. Khi yêu sẽ dễ vì những tranh chấp nhỏ mà nảy sinh bất hòa, dễ rời xa nhau.

1-5979-1426478398.jpg

Ảnh minh hoạ.

4. Khu vực gần lông mày, lông mày mọc hỗn loạn, khác chiều

Người sở hữu lông mày không mọc theo một hướng mà hỗn loạn đa chiều, phần cuối lại gấp khúc thường có tâm lý phản kháng, khi yêu, họ không vì đối phương mà suy nghĩ. Người như vậy tính cách cũng khá hiếu thắng, vì vậy dễ thất bại trong tình yêu.

5. Mũi hếch

Cô gái có mũi hếch thường ích kỷ, đến đi tùy ý, cái tôi quá lớn, rất khó ở chung cùng nửa kia. Họ không đặt mình vào vị trí của đối phương mà suy nghĩ, dễ nảy sinh bất đồng, tính cách to gan lớn mật, không thích bị quản thúc bởi vậy dễ tranh chấp với người yêu dẫn đến chia tay.

6. Cung phu thê có nốt ruồi đen 

Phía đuôi mắt gần mép tóc là Phu thê cung, nếu có nốt ruồi đen ở chỗ này thì con đường tình yêu của họ định sẵn không thuận.

Xem tiếp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm không tốt cho chuyện tình yêu của con gái

Tướng mũi và những dự báo

Xem tướng mũi và đoán chỉ là một phần theo quan niệm của người xưa, tuy nhiên tướng mũi cũng thể hiện khá đúng về tính cách và số phận con người. Chưa tính tới việc mũi có ảnh hưởng tướng số, mũi đẹp cũng là một trong những yếu tố giúp bạn có khuôn mặt hài hòa, ưa nhìn hơn.
Tướng mũi và những dự báo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Xem tướng mũi và đoán chỉ là một phần theo quan niệm của người xưa, tuy nhiên tướng mũi cũng thể hiện khá đúng về tính cách và số phận con người. Chưa tính tới việc mũi có ảnh hưởng tướng số, mũi đẹp cũng là một trong những yếu tố giúp bạn có khuôn mặt hài hòa, ưa nhìn hơn. Hãy cùng lịch vạn niên 365 xem bạn có tướng mũi phú quý, giàu sang không nhé.

1./ Mũi là cơ quan thẩm định

Mũi phải đầy đặn, không méo lệch, không ngắn quá, không quá to, quá nhỏ, mũi cao và có thịt, sắc hồng hào. Đó là tướng quý của mũi vì nó thể hiện thông minh, giàu sang.

Mũi mà không đủ đầy như trên, thiếu mặt này mặt kia thì hoặc kém cỏi hoặc nghèo hèn. Các tướng thuật cho rằng mũi còn là trung nhạc (gò trung) sao Thể (thổ tinh) hay Thể súc (thổ giác) và rằng tướng mũi thể hiện khí chất, tính tình và tài lộc.

Song dù sao thì mũi, cụ thể là tướng mũi cũng chỉ thêm phần tham khảo để khẳng định tính chính xác của thông tin dự báo. Nó không phải là yếu tố hoàn toàn quyết định về giàu, sang hay tuệ, ngu. Ví như để khẳng định người giàu có còn liên quan đến tướng tai, cằm, mày, trán v.v… Mũi chỉ để góp thêm như “áo gấm thêu hoa”. Ta không thể thấy mũi có dáng “mật treo” đầu mũi mà bảo ngay “bạn sẽ giàu có” hoặc “ông là người giầu có”. Như vậy quả hồ đồ, mà nên xem thêm các bộ phận khác ở mặt và hình thể nữa. Bởi lẽ bộ phận này phá bộ phận kia. Bộ phận chính đạo sẽ lấn áp bộ phận phụ đạo. Ví như mũi thì đẹp đấy nhưng ấn đường có rộng thẳng, ngay ngắn, sắc tươi hồng, nhuận nhị không và tại tai có “giữ của” được không v.v… rồi hãy kết luận số giàu có.

2./ Tướng mũi cần phải cần quan tâm đến các phần

Kiểu mũi (dáng hình mũi)
Sắc khí (màu da mũi)
Biệt tướng mũi (mũi đặc biệt khác thường).
- Kiểu mũi.
+ Mũi dọc dừa (sống mũi khum, cao thẳng, dáng đẹp): Tướng thông minh, tính khoáng đại, đàng hoàng.
+ Mũi cao nhỏ phần sát ấn đường bé nhỏ, tối: Tướng hãm tài khó thành đạt, tính ích kỷ, nhỏ nhen, tán tài sản.
+ Mũi cao thường, khum đều đầu tròn cánh mũi dầy vừa: Tướng giàu có, tính nhân hậu, người hiền lương.
+ Mũi nhọn (cao đầu nhọn bé): Tướng nghèo, tính kiêu ngạo, hách trạc, hăng hái.
+ Mũi nhòm mồm (đầu mũi cong xuống nhìn nhân trung): Tướng kiêu kỳ, tự cao, tự đại, bản tính háu ăn, nghèo.
+ Mũi diều hâu (sông mũi cao cong gồ đầu mũi nhọn): Tướng nhỏ nhen, sâu mưu, quỷ quyệt, nhẫn nhục, nhưng tính bạo tàn, bất nghĩa (khi khổ cùng nhau, lúc sướng bạc tình phũ phàng).
+ Mũi tẹt (sông mũi thấp, đầu mũi bé): Tướng nghèo, trí tuệ kém.

3./ Biệt tướng mũi.

Mũi có hình dạng khá đặc biệt như:
+ Mũi như một cái ống tròn, 2 cánh mũi không nổi rõ ràng. Tướng: Trí tuệ khá, nhưng không giàu có.
+ Mũi hếch (như mũi khỉ) trông thấy lỗ mũi thì yểu tướng và cơ hàn (nghèo khổ).
+ Mũi có ba ngấn thì cô độc và phá sản.
+ Mũi có ba chỗ lõm xuống ở sống mũi thì anh em bô” mẹ ly tán, mỗi kẻ một phương.
+ Mũi mà đầu mũi (chuẩn mũi) nổi hẳn cao sáng tươi thì giàu có, vinh hiển.
+ Mũi như củ tỏi để lên mặt (cuông mũi bé thấp tẹt). Nếu hai gò má thấp tức Gò Đông (Đông Nhạc) và Gò Tây (Tây Nhạc) mà cao đầy thì giàu có lắm. Đó gọi là tướng “hai lính gác canh kho của”. Nếu hai gò Đông, Tây thấp thì xấu.
+ Mũi to đùng, đầu mũi to dày quá khổ, quá đáng thì “tiền phú, hậu bần”. Trước có trung niên trở đi nghèo.
+ Đầu mũi mỏng nhỏ, hai cánh khép lại thì không may, khốn đốn; có phen cơ hàn; có lúc mất chức.
+ Mũi mà xương lộ ra hết (mũi xương sẩu) thì là kẻ nhát gan, hèn yếu.
+ Đầu mũi xa xuống thì hoang dâm vô độ (kẻ tham dâm dục).
+ Mũi cao thẳng ngang thiên đình (trán trên) thì oai vang dội khắp nơi, danh nổi như đình (người nổi danh thiên hạ).
+ Mũi trcíng lộ cao quá (lỗ mũi lộ to) hếch lên tướng chết đường, chết chợ.
+ Mũi đầu mũi (chuẩn) thấp tẹt thì tâm tư thường rốì loạn, vất vả, nghèo.
Tóm lại, về hình thể mũi đương nhiên quy nạp lại chỉ hai dạng:
+ Đẹp: Không quá cao mà cao bằng ấn đường, đầu mũi tròn đầy, cánh mũi không dầy quá, sắc tươi sáng thì “phú quý khả cầu” giàu, sang, quan, lộc được dễ dàng, sống thọ.
+ Xấu: Thì thiếu, khuyết, vênh, vẹo, không bình thường thì không nghèo cũng khổ cực; không lao tâm, hung bạo, quỷ quyệt, cũng bất nhân, bất nghĩa; không ngu hèn cũng chết yểu, bỏ xác ở đường chợ. Vì vậy khi xem qua nên xác định ngay mũi đẹp, xấu.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

4./ Sắc khí của mũi.

Sắc khí cũng quan trọng, sắc khí mũi thuộc “duy biến” và “thường biến”.
Duy biến theo vận.
+ Sắc khí mũi hồng tươi là quý đang quan quyền.
+ Sắc khí sạm nhạt khô là tồi đang vận xấu.
Đầu mũi đỏ tía điềm tiến phát đến nơi.
- Ngoài ra tướng mũi còn được Đông y xem xét tham khảo về mặt bệnh tật của một người như:
+ Mũi có màu vàng thì ngực (phổi) nhiều hàn (lạnh).
+ Mũi có màu trắng nhạt là người bị mất máu nhiều.
+ Mũi có màu xanh thì đau ở vùng bụng, chết vì lạnh (hàn).
+ Mũi có màu đen người đọng nước (như phù thũng; hơi thở nhiều nước).
+ Mũi sưng bị phổi hư.
+ Mũi khô là chứng hàn nhiệt.
+ Mũi có màu trắng bệch nghĩa cơ thể có chỗ bị chấn thương nặng.
+ Mũi đỏ trong bụng nhiều giun sán.
Hay như tướng mũi cho nhận định thể trạng. Ví dụ: Mũi to thì khí thừa. Mũi tròn thì lợi phổi. Mũi nhỏ thì thiếu khí, phổi kém, người yếu.

5./ Các nhà tướng thuật xưa còn đem mũi của các loài thú và súc vật để đặt tên cho mũi của con người

+ To như mũi trâu thì giầu.
+ Hếch như mũi tinh tinh thì nghèo, chết yểu.
+ Thẳng như mũi chó thì thính, tính nhạy cảm.
+ Hai cánh mũi cá ngao: Hèn kém, nghèo.
+ Mũi sư tử thì hách trạc, giàu.
+ Mũi tê giác thì thọ.
+ Mũi vượn thì kém cỏi, tự ti.
+ Mũi hươu nai sang, thông minh.
+ Mũi lợn: Thì nghèo, yểu tướng, trí tuệ kém cỏi, tính bảo thủ.
Người Hoa còn lấy kiểu chữ (tượng hình) để đặt như: Mũi chữ “xuyên” cuộc sông luôn bình yên v.v…

6./ Một số tướng mũi phú quý

Mũi lân

Sống mũi không cao không thấp, đầu mũi dày, nở to nhưng không nhìn thấy lỗ mũi, da đầu mũi mịn và hồng hào. Người mũi lân có kiến thức rộng, sức khỏe tốt, về sau sống thanh thản.

Mũi rồng

Là chiếc mũi của tham vọng chính trị, quyền lực và đa nghi. Sống mũi rồng cao, dáng thẳng, khoảng cách giữa hai chân cánh mũi rộng, đầy đặn. Chóp mũi hơi phẳng, đầu hơi khoằm nhẹ nhưng không phải mũi két.

Mũi mật

Là chiếc mũi đầy, tròn đỏ ửng, thể hiện sự giàu sang quyền quý của phái nữ, sóng mũi cao, cong nhẹ ở gốc mũi trán. Đầu mũi kín và tròn (nhưng không to) ôm trọn từ đầu mũi đến hai chân cánh mũi.

Mũi củ tỏi

Chóp mũi đầy và căng phồng, có ngấn ngăn cách nhẹ với hai cánh mũi như hình củ tỏi bổ dọc. Mũi này tuy không đẹp nhưng tốt tướng, là chiếc mũi của giàu có, thành công, thể hiện cho những người thích danh vọng.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mũi và những dự báo

Dơi đỏ phong thủy biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ –

Từ lâu dơi đỏ đã trở thành biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ. Củ thể như thế nào chúng ta đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về dơi đỏ phong thủy nhé! Ý nghĩa của dơi đỏ phong thủy Nguồn gốc của dơi đỏ phong thủy Ý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ lâu dơi đỏ đã trở thành biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ. Củ thể như thế nào chúng ta đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về dơi đỏ phong thủy nhé!

tien-phuc-tinh-cc2003-01

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của dơi đỏ phong thủy
    • 1.1 Nguồn gốc của dơi đỏ phong thủy
    • 1.2 Dơi đỏ mang lại sự may mắn và sự bảo vệ
    • 1.3 Năm con dơi đỏ mang lại 5 điều phước lành

Ý nghĩa của dơi đỏ phong thủy

Nguồn gốc của dơi đỏ phong thủy

Ý nghĩa tích cực của loài dơi này xuất phát từ cách phát âm của chúng. Dơi tiếng Hán đọc là “pian fu”, và “fu” có âm giống chữ “phúc”.

Vì thế dơi là biểu tượng thường được sử dụng trong trang trí. Khi sử dụng trong phong thủy, dơi thường được sơn màu đỏ son – bởi màu đỏ là màu của niềm vui.

Người phương Đông cho rằng bất cứ điều gì đi kèm với hình ảnh con dơi đỏ cũng cực kì may mắn vì từ con dơi đỏ phát âm giống từ “đại tài lộc”.

Dơi đỏ mang lại sự may mắn và sự bảo vệ

Người ta cũng cho rằng khi dơi bay vào nhà làm tổ, chúng sẽ mang đến may mắn và sự bảo vệ.

Năm con dơi đỏ mang lại 5 điều phước lành

Thường thì dơi màu đỏ được vẽ thành một chùm năm con với ý nghĩa chỉ năm điều phước lành: trường thọ, tài lộc, sức khỏe, hạnh phúc và một cái chết bình an.

Năm con dơi đỏ cũng là biểu tượng của sự thịnh vượng, thường được vẽ trên tranh và đồ gốm sứ.

Một thể hiện may mắn hơn là năm con dơi nổi lên từ một chiếc bình, tượng trưng cho cuộc sống sung túc, may mắn, bình an và ít rủi ro.

Người ta tin rằng một họ nhà dơi an trú trong nhà bạn là một điềm rất tốt. Nó tượng trưng cho một thời gian trường thịnh và thành công đang đến cho cả nhà. Vì vậy không nên xua đuổi.

Dơi đặc biệt may mắn khi trưng bày cùng những biểu tượng khác

Dưới triều các hoàng đế Mãn Châu, dơi chỉ đứng hàng thứ hai sau rồng. Trong số những biểu tượng may mắn thêu trên long bào, dơi đỏ được thêu nhiều nhất, nó thường xuất hiện cùng với hình ảnh mây và nước trên long bào.

Biểu tượng 5 con dơi với chữ Vạn và chữ Thọ là sự kết hợp của ba biểu tượng tượng trưng cho cuộc sống trường thọ, tràn đầy tài lộc và niềm vui lớn. Dơi được sơn bằng màu đỏ là tốt nhất.

Biểu tượng này có thể thêu trên quần áo, vẽ trên bình gốm sứ hoặc phối hợp trong thiết kế logo và tranh. Đặt chúng trong phòng khách hoặc phòng ăn để tận hưởng may mắn liên tục.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dơi đỏ phong thủy biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ –

Ngủ mơ thấy móng tay có nghĩa là gì?

Mơ thấy cánh tay là giấc mơ cát mộng, nhưng những ngón tay xuất hiện trong giấc mơ lại có thể khiến bạn lo lắng một chút. Tuy nhiên, nó vẫn là giấc mơ đẹp.
Ngủ mơ thấy móng tay có nghĩa là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Mong tay trong giac mo am chi dieu gi hinh anh
Ảnh minh họa

Chiêm bao thấy bạn bị gãy móng tay ám chỉ rằng bạn đang phải đảm đương một công việc nào đó nhưng vì một lý do nào đó bạn không thích công việc ấy và đang cố tình trốn tránh trách nhiệm.

 

Phụ nữ mơ thấy mình sơn móng tay, điều này có ý nghĩa rằng bạn đang ngày càng đẹp hơn, quyến rũ hơn trong mắt mọi người đấy.

 

Bạn đang phải đối mặt với một vấn đề khó khăn hoặc vướng mắc nào đó mà lại mơ thấy mình đang gặm móng tay là điềm báo bạn đang thực sự lúng túng trong việc tìm ra hướng đi đúng để giải quyết khó khăn ấy.

 

Chiêm bao thấy móng tay của mình mọc nhanh, ngụ ý rằng bạn đang muốn bày tỏ lòng tốt của mình tới một ai đó, bạn mong muốn thể hiện sự nhiệt tình của mình cũng như sẵn lòng giúp đỡ người ấy.

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngủ mơ thấy móng tay có nghĩa là gì?

Con gái tuổi nào nhiều người yêu nhất năm 2015

Hàng loạt vệ tinh sẽ cùng lúc tỏ tình với những cô nàng tuổi Dần, Tý, Hợi... trong năm 2015. Hãy chờ đón tình yêu của mình nhé!
Con gái tuổi nào nhiều người yêu nhất năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Con gái tuổi Dần

Dan-5136-1419375335.jpg

Năm Mùi hứa hẹn sẽ mang lại nhiều may mắn về chuyện tình duyên cho các cô nàng tuổi Dần. Nếu còn FA, hàng loạt “vệ tinh” vây quanh bạn trước kia sẽ bất ngờ tỏ tình, khiến bạn không kịp phản ứng. Trong số những chàng trai ấy, chắc chắn sẽ có người là ý chung nhân của bạn. Nếu đã có “gấu”, tình yêu của bạn sẽ thăng hoa và có thể “kết trái” khoảng giữa năm 2015.

2. Con gái tuổi Tý

Ty-8089-1419375336.jpg

Ngôi sao may mắn về tình duyên sẽ dẫn đường cho các cô nàng tuổi Tý tìm được chàng bạch mã hoàng tử cho mình. Tuy nhiên, bạn đừng vội mừng quá sớm nhé, sự đào hoa ấy dễ đến và cũng dễ đi. Do đó, những cô gái tuổi Tý còn FA, nên thận trọng trong việc lựa chọn nửa kia. Đừng vội vàng hay vì áp lực từ phía gia đình mà gượng ép tình cảm của bản thân. Bạn cần bình tĩnh, sáng suốt để đưa ra sự lựa chọn phù hợp nhất.

3. Con gái tuổi Hợi

Đối với những cô nàng tuổi Hợi còn độc thân, năm 2015 sẽ là cơ hội thoát khỏi kiếp FA một cách dễ dàng, bởi đó là năm vận đào hoa của bạn đạt mức đỉnh điểm. Nhiều “cây si” sẽ mạnh dạn bày tỏ tình cảm đã giấu kín bấy lâu. Bạn cần nắm bắt cơ hội này và chủ động thổ lộ tình cảm của mình. 

Hoi-2-1740-1419375336.jpg

Đối với những “bông hoa đã có chủ”, các bạn nên cẩn thận hơn trong các mối quan hệ với bạn bè khác giới. Đồng thời, bạn cũng nên dành nhiều thời gian để quan tâm hơn đến gấu của mình. Bởi vận đào hoa sẽ mang đến người thứ ba "phá đám" tình duyên của hai bạn.

4. Con gái tuổi Thân

Than-5887-1419375336.jpg

Vận đào hoa sẽ giúp những cô nàng tuổi Thân thoát kiếp FA trong năm 2015. Hơn thế, đối với những nàng đã “có nơi có chốn”, đó là cơ hội để hai bạn tiến thêm bước quan trọng. Một đám cưới ngập tràn trong yêu thương và hạnh phúc sẽ diễn ra vào nửa cuối năm 2015 chẳng hạn. Bạn hãy chuẩn bị tâm lý, sẵn sàng đón nhận những bất ngờ sắp tới nhé.

Mr.Bull (theo XW)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con gái tuổi nào nhiều người yêu nhất năm 2015

Giải hạn tam tai năm Bính Thân 2016

Để giải hạn tam tai năm Bính Thân như thế nào cho đúng, không phải ai cũng biết. Xem cách giải hạn Tam Tai năm 2016
Giải hạn tam tai năm Bính Thân 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Cúng tam tai giải hạn quan trọng không kém việc dâng sao giải hạn hàng năm, nhưng vẫn có không ít người chưa hiểu được nghi lễ này.


1. Thế nào là hạn tam tai?


Tam tai là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi. Trong một đời người, cứ 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai. Thông thường, hạn năm giữa là nặng nhất.
 
Tam: Ba, số 3, thứ ba.
Tai: Tai họa, họa hại.
Tam tai là ba tai họa gồm: Hỏa tai, Thủy tai, Phong tai.

Hỏa tai là tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng.
Thủy tai là tai họa do nước gây ra, như lũ lụt, sóng thần.
Phong tai là tai họa do gió gây ra, như bão, lốc.

Khi vào vận Tam Tai thì hay khốn đốn, trắc trở, vất vả. Đặc biệt là khi cả vợ chồng cùng nằm trong tam hợp tuổi nói trên vì đôi bên đều phải mệt mỏi cùng lúc.

Mức độ cộng hưởng sẽ làm ảnh hưởng nặng đến gia đình. Đó cũng là thiệt thòi của các tuổi hợp. Nếu vợ chồng không cùng tam hợp thì hạn rải rác sẽ đỡ áp lực hơn.

Giai han tam tai nam Binh Than 2016 hinh anh
 
Ngoài ra còn có Tiểu Tam tai gồm 3 tai họa nhỏ: Cơ cẩn chi tai (đói khát), Tật dịch tai, Đao binh tai.

- Cơ cẩn chi tai là tai họa do mất mùa lúa và rau.
- Tật dịch tai là tai họa do bịnh dịch truyền nhiễm.
- Đao binh tai là tai họa do chiến tranh.


Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Tam tai là gì? Vì sao Tam hợp hóa tam tai?

2. Cách tính hạn tam tai như nào?


a. Tuổi Thân, Tý, Thìn gặp tam tai tại các năm Dần, Mão, Thìn


- Năm Dần: gặp Thiên Cổ Tinh Quân tắc vật hại nhân hoặc vi trùng vi hại hoặc bị mê hoặc chi bệnh.
- Năm Mão: phùng Thiên Hình Tinh Quân tắc bị pháp luật hình phạt hoặc cập đao thiết nhi xuất hành dã, bị giải phẫu.
- Năm Thìn: ngộ Thiên Kiếp Tinh Quân tắc cướp đạo nhi thất tài vật hoặc bị uy quyền bức bách, cướp bóc tổn thất tài vật.

b. Tuổi Dần, Ngọ, Tuất gặp tam tai tại các năm Thân, Dậu, Tuất

- Năm Thân: gặp Thiên Hoàng Tinh Quân tắc bị thiên hành chi hữu, khủng cụ chi họa.
- Năm Dậu: gặp Thiên Đối Tinh Quân tắc hữu đối thủ hoặc đối thủ dĩ hoàng thiên.
- Năm Tuất: gặp Địa Tai Tinh Quân tắc hữu tai hại vi thổ địa.

c. Tuổi Hợi, Mão, Mùi: Tam tai tại các năm : Tỵ, Ngọ, Mùi

- Năm Tỵ: ngộ Âm Mưu Tinh Quân tắc hữu thù địch chi nhân mưu vi hại (bị người mưu hại).
- Năm Ngọ: phùng Hắc Sát Tinh Quân tắc hữu hắc ám sự (việc mờ ám có hại).
- Năm Mùi: ngộ Bạch Sát Tinh Quân tắc tổn thất tài vật hoặc hữu tang sự bạch y bạch cẩn (cử mặc đồ trắng).

d. Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Tam tai tại các năm: Hợi, Tý, Sửu

- Năm Hợi: ngộ Thiên Bại Tinh Quân tắc bị bại hoại sự nghiệp hoặc bại hoại tài sản hoặc bại hoại gia phong.
- Năm Tý: ngộ Địa Vong Tinh Quân tắc bị tai hại vi thổ địa nhi tổn thất hoặc thổ động nhi bệnh tật.
- Năm Sửu: ngộ Thổ Hình Tinh Quân tắc vi thổ địa nhi cập hình phạt hoặc tổn thất điền địa hoặc vị thổ địa đông nhi hữu tai.

Như vậy, có 4 tuổi sẽ gặp hạn tam tai năm thứ 3 năm tuổi của mình, gồm: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Vào năm này, những ai gặp hạn sao La Hầu (nam) và Kế đô (nữ) sẽ có cùng lúc 3 hạn: Tam tai, năm tuổi, sao hạn.

Giai han tam tai nam Binh Than 2016 hinh anh 2
 

3. Tam tai gây ra họa gì?


Mọi người có quan điểm chung rằng, không phải lúc nào gặp tam tai cũng là tai họa, nhưng thường đến năm tam tai gặp nhiều vất vả, khó khăn hơn trong công việc, mua bán, làm nhà, tu sửa, kết hôn...

 Một số việc xấu thường xảy đến với người bị hạn tam tai:

+ Tính tình nóng nảy bất thường.
+ Có tang trong thân tộc.
+ Dễ bị tai nạn xe cộ.
+ Bị thương tích.
+ Bị kiện thưa hay dính đến pháp luật.
+ Thất thoát tiền bạc.
+ Mang tiếng thị phi.

Lưu ý: Tránh cưới gả, hùn vốn, mua nhà và kỵ đi sông đi biển. Tiếp tục làm những việc còn dang dở trước đó thì thường không bị ảnh hưởng nặng. Không nên khởi sự trong những năm bị tam tai.

Năm đầu tam tai, không nên bắt đầu làm việc trọng đại; năm giữa tam tai, không nên dừng việc đang tiến hành (vì thường sau đó tiếp tục dễ gặp trở ngại); năm cuối tam tai, không nên kết thúc việc quan trọng vào đúng năm này.


4. Những ai trong năm Bính Thân gặp tam tai, cách cúng giải hạn?


Theo cách tính hạn tam tai ở trên, năm Bính Thân 2016, các tuổi Dần, Ngọ, Tuất đã phạm hạn tam tai. (Ba năm tam tai là Thân – đầu tam tai; Dậu – giữa tam tai; Tuất – cuối tam tai).

Giai han tam tai nam Binh Than 2016 hinh anh 3
 

Cách cúng giải hạn tam tai năm Bính Thân


Người xưa có quan niệm về các vị thần giáng hạ cho từng năm (năm, thần, ngày cúng, hướng). Căn cứ vào đó để hành lễ dâng hương để giải trừ tam tai, cụ thể như sau:

+ Năm Tý, ông thần Địa Vong, cúng ngày 22, lạy về hướng Bắc.
+ Năm Sửu, ông Địa Hình, cúng ngày 14, lạy về hướng Đông Bắc.
+ Năm Dần, ông Thiên Linh, cúng ngày rằm, lạy về hướng Đông Bắc.
+ Năm Mão, ông Thiên Hình, cúng ngày 14, lạy về hướng Đông.
+ Năm Thìn, ông Thiên Kiếp, cúng ngày 13, lạy về hướng Đông Nam.
+ Năm Tỵ, ông Hắc Sát, cúng ngày 11, lạy về hướng Đông Nam.
+ Năm Ngọ, ông Âm Mưu, cúng ngày 20, lạy về hướng Nam.
+ Năm Mùi, ông Bạch Sát, cúng ngày mồng 8, lạy về hướng Tây Nam.
+ Năm Thân, ông Nhân Hoàng, cúng ngày mồng 8, lạy về hướng Tây Nam.
+ Năm Dậu, ông Thiên Hoạ, cúng ngày mồng 7, lạy về hướng Tây.
+ Năm Tuất, ông Địa Tai, cúng ngày mồng 6, lạy về hướng Tây Bắc.
+ Năm Hợi, ông Địa Bại, cúng ngày 21, lạy về hướng Tây Bắc.

Như vậy, năm Bính Thân, cần tiến hành nghi lễ cúng giải trừ tam tai vào ngày mùng 8 âm lịch hàng tháng, khi cúng lạy về hướng Tây Nam. Người xưa thường lễ cúng ở ngã ba, ngã tư đường nhưng thời nay mọi người có thể cúng tại sân, chủ yếu là do tâm thành.

Chuẩn bị bàn cúng:


- Sử dụng bài vị theo mẫu của năm Bính Thân (In trên bìa giấy đỏ, chữ màu đen, hoặc có thể nhờ thầy viết). Bài vị này dán trên một chiếc que, cắm vào ly gạo, mặt có chữ để đối diện với người đứng cúng, đặt ở giữa hay phía trong cùng bàn lễ.

Giai han tam tai nam Binh Than 2016 hinh anh 4
Bài vị cúng giải hạn tam tai năm Bính Thân
Phiên âm bài vị: (Đọc từ phải sang trái, từ trên trên xuống dưới)
Bốn góc: Cung – Thỉnh – Hạ giáng – Chứng Minh
Ở giữa: Mông Long Đại Tướng Nhân Hoàng Tam Tai Kim Ách Thần Quan.
- Gỡ ít tóc rối hoặc cắt chút tóc, cắt chút móng tay, móng chân của người mắc hạn tam tai, gói lại với ít bạc lẻ, để trên 1 đĩa riêng trên bàn lễ.

- 1 bộ tam sanh (tam sênh) gồm có: miếng thịt luộc, con tôm luộc (hoặc tôm khô), trứng vịt luộc. Cúng lúc chiều tối (18—19 giờ), cúng tại trước sân (hay ngã ba đường thì tốt hơn).

- 3 cây nhang, 3 ly rượu nhỏ, 3 đèn cầy nhỏ, 3 điếu thuốc, 3 miếng trầu cau, 3 xấp giấy tiền vàng bạc, 1 đĩa quả tươi, 1 bình hoa, 1 đĩa gạo muối, 2 bộ đồ thế (nam hoặc nữ).

Sắp xếp bàn cúng:


– Bình hoa để bên phải, đĩa quả tươi bên trái, phía trước là lư hương, kế tiếp là 3 cây đèn, rồi đến 3 ly rượu (ly trà), trong nữa là bài vị (cắm vào ly gạo, bề mặt có chữ quay về phía người cúng).
– Người cúng sắp đặt bàn sao cho mặt mình nhìn về hướng Tây Nam, tức bài vị ở phía Tây Nam, người cúng ở phía Đông Bắc. Kế tiếp là một mâm sắp bộ tam sênh ở giữa, trầu cau, gạo muối, thuốc hút, giấy tiền vàng bạc để xung quanh.

Bài khấn giải hạn tam tai:


Hôm nay là ngày mồng 8 tháng …. , năm Bính Thân.
Con tên là …………………………. tuổi: ……………..
Hiện cư ngụ tại……………………………………………
Nay con thành tâm thiết bày phẩm vật, cầu xin “MÔNG LONG ĐẠI TƯỚNG NHÂN HOÀNG TAM TAI KIM ÁCH THẦN QUAN” phù hộ độ trì cho con và toàn thể gia đình được bình an mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách.
Thứ nguyện: – Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật Đạo.
Phục duy cẩn cáo!”

Sau đó vái 3 lần, lạy 12 lạy (cầu cho 12 tháng bình yên). Rồi chờ đến tàn hết nhang đèn, âm thầm lặng thinh, không nói chuyện với bất cứ ai. Tiếp đó đem gói nhỏ (tóc, móng tay, móng chân, tiền lẻ) ra ngã ba đường mà bỏ, nhớ đừng ngoái lại xem. Hoặc có thể đốt chung gói nhỏ đó với 3 xấp giấy tiền, vừa đốt vừa van vái cho tiêu trừ hết tai nạn. Gạo muối vãi ra đường, chỉ mang bàn và đồ dùng (mâm, ly, tách...) về nhà.

Cách cúng giải hạn tam tai không có trong giáo lý nhà Phật mà là tín ngưỡng lưu truyền trong dân gian từ xa xưa. Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam thì cũng tùy thuận theo cái tập tục có sẵn ở từng địa phương và theo từng hoàn cảnh có thể có những cách cúng hạn tam tai khác nhau. Người dân không nên quá tốn kém và quan trọng hóa việc làm những lễ này.

Hoàng Lam
 
► Cùng xem sao giải hạn năm 2016

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải hạn tam tai năm Bính Thân 2016

Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Chùa Tiêu là một trong những nơi hiếm hoi ở Việt Nam còn để lại dấu tích của các bậc thiền sư nổi danh trong lịch sử như thiền sư Vạn Hạnh, Như Trí...
Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tiêu là một trong những nơi hiếm hoi ở Việt Nam còn để lại dấu tích của các bậc thiền sư nổi danh trong lịch sử như thiền sư Vạn Hạnh, Như Trí… Chùa Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh được trụ trì bởi Ni trưởng Thích Đàm Chính. 

Chùa Tiêu Sơn thường gọi là Chùa Tiêu tên chữ là Thiên Tâm Tự, xưa còn có tên là chùa Lục Tổ, nằm ở sườn núi Tiêu, dưới chân núi là dấu tích dòng sông Tiêu Tương cổ. Từ lâu chùa đã nổi tiếng là danh lam cổ tự. Chùa Tiêu là chốn tu thiền huyền bí của người xưa và là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

Lịch sử: Chùa Tiêu Sơn gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc. Linh khí đất Tiêu Sơn đã sản sinh cho dân tộc một người con ưu tú đó là vua Lý. Đây là một trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì của Quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tại ngôi chùa này, Thiền sư Lý Vạn Hạnh có công nuôi dạy Lý Công Uẩn, sau này khai lập vương triều nhà Lý và nền văn minh Đại Việt.

Kiến trúc: Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Ở giữa nhà bia đặt một tấm bia bằng đá nhám kích thước 60 x 40 x 25cm, mặt chính khắc bốn chữ “Lý gia linh thạch”. Bia trước ở vách núi, ba mặt bị đất cỏ che lấp, khi chuyển vào nhà bia, người ta mới biết mặt sau có khắc chữ Hán.

Chùa Tiêu Sơn có quy mô to lớn. Trong nhiều thế kỷ, chùa là nơi khắc ván in các bộ kinh lớn của nhà Phật. Vào năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi cổ tự bỗng chốc đã biến thành đống tro tàn. May thay ở sườn núi còn khá nguyên vẹn 14 ngọn tháp, là nơi yên nghỉ của các vị sư tổ.

Năm 1992, nhân dân địa phương công đức tiền của dựng ngôi bảo tháp thờ vọng Lý Vạn Hạnh ở trước tòa tam bảo; lại dựng tượng vị thiền sư trên đỉnh núi Tiêu. Tượng Lý Vạn Hạnh tạo ở thế tọa thiền cao 8m, mặt hướng về phía kinh thành Thăng Long. Năm 2001 dựng lầu Bồ Tát giữa hồ nước lớn trước chùa. Năm 2002 dựng nhà Tổ. Năm 2003 dựng tam bảo theo kiến trúc xưa. Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí, viên tịch năm Quý Mão (1723), là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Pho tượng táng tại tháp cổ chùa Tiêu đã gần 300 năm. Các nghiên cứu khoa học về văn bản chữ viết đã xác định thiền sư Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học có giá trị về Phật giáo, văn học, triết học và văn hóa dân gian…

Nhà tổ trên Chùa Tiêu - Bắc Ninh
Nhà tổ trên Chùa Tiêu – Bắc Ninh

Với những giá trị như vậy, ngày 25.1.1991 chùa Tiêu đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật của Bộ VHTT-TT. Tới chùa Tiêu, khách thập phương không chỉ chiêm bái pho tượng thiền sư Như Trí đầy bí ẩn và cực kỳ quý giá ở Việt Nam mà còn không khỏi “ngỡ ngàng” trước ngôi chùa chưa bao giờ có hòm công đức, không đốt vàng mã, không tiếp nhận khách về chiêm bái đội quả với “mâm cao, cỗ đầy”…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Khi người đàn bà tái giá cần có những thủ tục gì ?

Đàn ông lấy vợ gọi là thú, đàn bà lấy chồng gọi là giá. Có nhiều trường hợp đàn bà phái tái giá: Một là duyên không ưa, phận không đẹp phái ly hôn; hai là nửa đường đứt gánh, goá bụa khi tuổi còn xoan...
Khi người đàn bà tái giá cần có những thủ tục gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở đây chúng tôi không nói đến sự khác biệt giữa luật hôn nhân thời xưa và thời nay, và những quy định bất công về phụ nữ thời phong kiến mà chỉ nói về phong tục, trong đó một số phong tục còn duy trì tới nay:

-Cha mẹ chỉ gả bán một lần, lần sau không tham gia cưới hỏi.

-Đàn bà goá, tục gọi là "Nạ dòng" ít có trường hợp lấy được trai tân, phần lớn làm vợ kế hay vợ lẽ, nói chung là chắp nối tơ duyên, "Rổ rá cạp lại", nên lễ cưới hỏi chỉ bó hẹp trong phạm vi thân nhân gia đình và vài bà con xóm giềng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi người đàn bà tái giá cần có những thủ tục gì ?

BÀI TRÍ CÁC VẬT DỤNG ĐỒ ĐẠC TRONG PHÒNG KHÁCH CẦN LƯU TÂM ĐIỀU GÌ?

Bài trí đồ đạc trong phòng khách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thảm trải giúp tăng cường vượng khí

Thảm trải là một vật dụng được sử dụng thường xuyên trong trang trí nhà ở. Trên thực tế, việc lựa chọn thảm trài trong phong thủy cũng có nhiều điểm đáng lưu ý.

Nhìn chung, mọi người chỉ nên coi tấm thảm nhà cũng như những vật trang trí thông thường khác. Bởi vậy, thảm trải tốt nhất không nên có diện tích quá lớn, nhằm tránh xảy ra hiện tượng “khách đoạt chủ”. Khi chọn hoa văn trang trí cho thảm trải nhà, tốt nhất nên chọn những loại hoa văn mang ý nghĩa cát tường, vui vẻ.

Ngoài những điểm lưu ý trên, màu sắc của thảm cũng có quan hệ với phương vị của phòng khách trong ngôi nhà.

Nếu phòng khách nằm ở hướng Nam ngôi nhà, vì hướng Nam ngũ hành thuộc Hỏa, sẽ thích ứng với thảm trải màu đỏ, có hoa văn là những đường thẳng hoặc hình ngôi sao, sẽ đem lại hiệu quả phong thủy danh lợi song toàn.

Nếu phòng khách nằm ở hướng Đông hoặc Đông Nam ngôi nhà, vì hai phương vị này đều có ngũ hành thuộc Mộc, thích hợp với thảm trải màu xanh lục có hoa văn hình gợn sóng hoặc đường thẳng, có tác dụng tăng cường vượng khí cho vận thế.

Phòng khách nằm ở phương vị Tây hoặc Tây Nam trong ngôi nhà nên dùng thảm có màu trắng, màu bạc hoặc màu vàng kim, có hoa văn trang trí hình ô vuông hoặc hình chữ nhật, sẽ tăng cường sự trợ lực của quý nhân cho gia chủ.

Phòng khách nằm ở phương vị Tây Nam, hoặc Đông Bắc, phương vị này đều thuộc Thổ, thích hợp với thảm trải màu văn có hoa văn hình ngôi sao, sẽ giúp cho tình cảm vợ chồng trong gia đình thêm gắn bó, sự nghiệp hanh thông.

Phòng khách nằm ở hướng Bắc ngôi nhà thích hợp với thảm trài có hoa văn hình gợn sóng, sẽ thúc đẩy sự nghiệp của gia chủ ngày càng hưng vượng.

Treo tranh mang ý nghĩa cát tường

Tranh ảnh là một vật trang trí không thể thiếu trong phòng khách. Nhiều người treo những bức tranh mình yêu thích lên tường nhà tại phòng khách. Tuy nhiên, việc treo tranh không thể thực hiện một cách tùy tiện. Tranh treo tường tại phòng khách phải vừa bảo đảm về mặt thẩm mỹ, nghệ thuật lại vừa đạt những quy chuẩn về phong thủy.

Những bức tranh treo trong phòng khách đều phải mang ngụ ý cát tường, tốt đẹp và may mắn. Những bức tranh cát tường thường gặp nhất là tranh cá chép, tranh ba con de, tranh tuấn mã, … Ngoài ra, những bức tranh vẽ cảnh núi non, cảnh thiên nhiên, bình minh, hoa mẫu đơn… cũng là những lựa chọn được nhiều người ưa thích. Những bức tranh thư pháp, với giá trị đề cao đạo lý, được nhiều người sử dụng.

Những bức tranh được trang trí trong phòng khách nên phù hợp với địa vị, nghề nghiệp của chủ nhân, mang lại tính chất tương ứng, tương thích, phù hợp.

     Bài trí đồ đạc trong nhà hợp phong thủy

  Tranh cá chép, thường được treo trong phòng khách

Kê bàn ghế để tăng cường vận thế

Bàn ghế là một món đồ dùng không thể thiếu trong phòng khách của mỗi gia đình. Vì vậy, cần bài trí như thế nào trong căn phòng để đạt được một trường khí có tác dụng tăng cường vượng khí.

Điều đầu tiên, việc lựa chọn số lượng bàn ghế cũng rất được quan tâm. Các bộ ghế sô pha hiện nay có rất nhiều hình dạng khác nhau như loại ghế dành cho một người ngồi, loại ghế hai chỗ, ba chỗ, ghế dạng dài, ghế dạng tròn… Nhìn chung, ghế sô pha trong phòng khách thường đi liền thành bộ. Tối kỵ chỉ kê nửa bộ bàn ghế. Việc sử dụng kết hợp giữa hai nhóm ghế sô pha dạng tròn và dạng dài chính là sự kết hợp mang lại hiệu quả tốt nhất.

Thứ hai, bộ ghế sô pha nên được kê ở phương vị cát lợi trong phòng khách. Bộ ghế sô pha là món đồ gia dụng giúp mọi thành viên trong gia đình cùng ngồi quây quần bên nhau hàng ngày. Thế nên, nếu kê bộ ghế này ở phương vị cát lợi, mọi người sẽ được hưởng vượng khí do phương vị này mang lại. Ngược lại, nếu bộ ghế sô pha được kê vào đúng phương vị không phù hợp, sẽ khiến cho mọi thành viên trong gia đình gặp tai ương.

   Bài trí đồ đạc trong nhà hợp phong thủy

Bàn ghế được kê ở phương vị cát lợi trong phòng khách

Nhìn chung, nếu ngôi nhà của bạn thuộc Đông tứ trạch, bộ ghế sô pha nên kê ở bốn phương vị cát lợi trong phòng khách đó là hướng chính Đông, Đông Nam, Nam, Bắc. Nếu căn nhà của bạn thuộc Tây tứ trạch thì bộ bàn ghế nên kê ở các phương vị Tây tứ như Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam.

Treo đồng hồ ở phương vị cát lợi trong phòng khách

Đồng hồ là một vật dụng đơn giản nhưng khi treo đồng hồ cũng cần lưu ý đặc điểm như sau: Nên treo hoặc đặt ở những phương vị tạo nên mối quan hệ tương hợp với con giáp của chủ nhà.

  Bài trí đồ đạc trong nhà hợp phong thủy

Treo đồng hồ ở phương vị có con giáp tương hợp với con giáp năm sinh chủ nhân

Nếu chủ nhà tuổi Tý: Nên treo đồng hồ tại phương vị Đông Bắc hoặc Tây Nam, Đông Nam vì phương vị Đông Bắc có chi Sửu nhị hợp với chi Tý, phương vị Tây Nam, Đông Nam có các chi Thân và Thìn, tạo nên thế tam hợp Thân – Tý – Thìn.

Chủ nhà tuổi Sửu nên treo đồng hồ tại phương vị chính Bắc vì Tý và Sửu nhị hợp, hoặc có thể treo ở phương vị chính Tây, hoặc Đông Nam vì đó là vị trí của chi Dậu và chi Tị.

Chủ nhà Dần, nên để đồng hồ tại các phương vị Tây Bắc, Chính Nam.

Chủ nhà tuổi Mão nên treo ở các phương vị Tây Bắc, Tây Nam.

Nếu chủ nhà tuổi Thìn, nên treo đồng hồ tại trung tâm bức chính Tây, Chính Bắc hoặc Tây Nam.

Chủ nhà tuổi Tị nên treo đồng hồ tại các phương Tây Nam, Tây, và Đông Bắc.

Chủ nhà tuổi Ngọ nên treo ở các phương vị Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nam.

Chủ nhà tuổi Mùi nên treo tại Chính Nam, Tây Bắc và Đông.

Chủ nhà tuổi Thân nên treo tại chính Bắc, Đông Nam.

Chủ nhà tuổi Dậu nên treo tại các phương Đông Nam, Đông Bắc.

Chủ nhà tuổi Tuất, nên treo đồng hồ tại hướng Đông, chính Nam, Đông Bắc.

Chủ nhà tuổi Hợi, nên treo đồng hồ tại các hướng Đông, Đông Bắc, Tây Nam.

Nên treo gương ở đâu trong phòng khách

Gương là một vật phẩm phong thủy vô cùng quan trọng. Vì gương có khả năng phản xạ nếu được treo ở phương vị phù hợp sẽ tạo nên hiệu ứng phong thủy to lớn, ngược lại, nếu treo ở phương vị không phù hợp sẽ mang tới những ảnh hưởng bất lợi đối với vận thế của gia đình.

Nhìn chung, khi treo gương trong phòng khách, bạn nên lựa chọn những vị trí có cảnh tượng vui vẻ và dễ chịu. Nhu vậy sẽ khiến không gian phòng khách có vẻ sáng sủa, rộng rãi hơn, mà còn rất hiệu quả trong việc phóng đại nguồn năng lượng của phòng khách lên rất nhiều lần. Điều này rất phù hợp với nguyên tắc trong phong thủy học.

Phía sau bộ ghế sô pha là vị trí không nên soi gương. Một người ngồi trên bộ ghế này, người bên kia có thể nhìn thấy rõ ràng phía sau của người đó qua tấm gương vì vậy khiến chủ nhân của ngôi nhà mất tinh thần, bất an. Nếu treo gương ở bên cạnh chứ không phải ở đằng sau ghế sô pha, phần đầu của người đó không bị phản chiếu qua gương, nên sẽ không gây ảnh hưởng gì đáng ngại.

Tài vị trong phòng khách, tuyệt đối không được treo gương. Nếu treo gương tại vị trí này, tài thần sẽ bay đi mất. Nhìn chung, tài vị trong phòng khách chính là vị trí đối diện chéo góc với cửa chính. Ngoài ra, cũng không nên gắn gương lên trần nhà phòng khách vì như vậy sẽ khiến tinh, thần, khí của những người ngồi trong căn phòng này bị tiêu hao.

Phần tường treo ti vi trong phòng khác nên trang trí thế nào

Bức tường treo ti vi chính là một trong những vị trí cần phải trang trí trong phòng khách. Đương nhiên bức tường này cũng là một nhân tố quan trọng đối với quy hoạch phong thủy của phòng khách. Sở dĩ có thể nói vậy vì nó liên quan mật thiết đến vận sự nghiện và tài sản của chủ nhân ngôi nhà. Vậy nên khi thiết kế chỗ đặt ti vi cũng nên chú ý tới góc độ phong thủy.

Trước tiên, bức tường treo ti vi tuyệt đối không được đặt ở phương vị tài vị của phòng khách. Tài vị cần được bảo đảm sự yên tĩnh và sạch sẽ tuyệt đối, mà ti vi thì ồn ào, huyên náo và biến động luôn luôn. Vì vậy nếu đặt hoặc treo ti vi ở phương vị tài vị sẽ ảnh hưởng xấu tới tài vận.

Thứ hai, màu sắc của bức tường treo ti vi nên hài hòa với màu sắc tổng thể của cả phòng khách. Nếu màu sắc của hai yếu tố này không có sự hài hòa, không những gây ảnh hưởng sẽ gây ảnh hưởng đến thị giác, mà tâm trạng con người cũng trở nên bấn loạn, không tốt đẹp. Ngoài ra, màu sắc của ti vi cũng có quan hệ mật thiết với thời điểm sinh của chủ nhân ngôi nhà. Nhìn chung, người sinh vào mùa xuân và mùa hạ nên lựa chọn màu trắng hoặc màu xanh nhạt. Những người sinh vào mùa thi hoặc mùa đông, nên chọn những màu vàng, đỏ hoặc tươi sáng.

Bài trí cho tám phương vị trong phòng khách

Tám phương vị của phòng khách lần lượt là các hướng  Đông, Nam, Bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam. Trong đó mỗi phương vị đều đại diện cho một vận thế khác nhau của người trong gia đình. Vì vậy, nếu có thể bố trí hợp lý cho cả tám hướng của gian phòng này sẽ thúc đẩy vận thế tương ứng của phương vị đó.

Hướng Đông trong phòng khách đại diện cho sức khỏe, thuộc tính ngũ hành là Mộc. Vì vậy, nên đặt nhiều cây cảnh xanh tốt ở khi vực này, sẽ rất có lợi cho sức khỏe của những người trong gia đình.

Hướng Tây đại diện cho vận con cháu, thuộc tính ngũ hành là Kim, vì vậy nên đặt một dàn âm thanh, ti vi, những đồ vật thuộc kim loại ở phương vị này, vận con cháu sẽ rất hưng vượng.

Hướng Nam trong phòng khách đại diện cho danh tiếng, ngũ hành thuộc Hỏa. Vì vậy nếu đặt một số món đồ trang trí có màu đỏ tại phương vị này, sẽ giúp mọi người trong gia đình có danh tiếng tốt. Ngoài ra phương vị này cũng rất thích hợp để treo tranh vẽ phượng hoàng, chim hồng hạc hoặc tranh vẽ cảnh bình minh lên.

Hướng Bắc phòng khách đại diện cho vận sự nghiệp, thuộc tính ngũ hành là Thủy. Vì vậy, nếu đặt tại phương vị này những đồ trang trí thuộc hành Thủy, có màu xanh lam hoặc màu đen, sẽ giúp cho vận sự nghiệp của chủ nhân có những bước phát triển vượt bậc. Những món đồ này có thể bày tại đây hoặc đăt một bể cá ở phwuowng vị này, treo tranh về sơn thủy cũng sẽ tốt.

Hướng Tây Bắc đại diện cho vận quý nhân, thuộc tinh là Kim, phương vị này rất phù hợp để bày những món đồ trang trí có thuộc tính ngũ hành là Kim và có màu trắng hoặc màu bạc, cũng có thể đặt tại đây những đồ vật bằng kim loại, hoặc chiếc đèn có đế làm bằng kim loại.

Hướng Đông Bắc đại diện cho vận văn xương, thuộc tính ngũ hành là Thổ. Vì vậy, nên đặt ở phương vị này những món đồ trang trí có màu đất nung hoặc bình gốm sứ sẽ có lợi cho sự tiến bộ trong học tập.

Hương Tây Nam đại diện cho vận đào hoa, thuộc tính là Thổ vì thế có thể đặt ở phương vị này một chiếc đèn hoặc pha lê, thạch anh thiên nhiên sẽ tăng cường vận đào hoa, và khiến quan hệ vợ chồng thêm nồng thắm.

Hướng Đông Nam đại diện cho tài vận, ngũ hành thuộc Mộc.Vì vậy có thể đặt những vật trang trí có ngũ hành thuộc Mộc, có màu xanh lục hoặc đặt những chậu cảnh, có phiến lá rộng để tăng cường tài vận.

Vật trang trí có hình tròn là tốt đẹp nhất.

Phòng khách là nơi tất cả mọi người trong gia đình, sum vầy, quây quần. Đây cũng là nơi tiếp đón khách khứa. Vì vậy nếu chủ nhân ngôi nhà biết lợi dung những món đồ trang trí để tạo nên bầu không khí ấm cúng và hài hòa cho không gian này, chắc chắn sẽ là một phương pháp tuyệt diệu trong phong thủy.

Hình tròn là một dạng hình lý tưởng cho đồ vật trong phòng khách, vì dưới góc độ âm dương hình tròn thuộc tính động, phù hợp với nơi sinh hoạt, quây quần, sum vầy, náo nhiệt của cả gia đình và khách khứa. Thứ nữa dưới góc độ ngũ hành hình tròn thuộc Kim chỉ tài phú, tiền bạc. Việc sử dụng những đồ vật như đèn hình tròn, trần có dạng tròn sẽ tăng thêm phần cát lợi.

Trang trí trong phòng cách không nên phức tạp và lộn xộn

Rất nhiều người vì muốn thể hiện địa vị và sự giàu có của mình nên đã bày trong phòng khách quá nhiều đồ đạc trang trí rực rỡ, bắt mắt, và rất tự hào với cách trang trí ấy. Tuy nhiên, bày quá nhiều đồ đạc trong phòng khách cơ bản của phong thủy.

Phong thủy cho rằng phòng khách được bài trí ngăn nắp, gọn gàng mới có thể tăng cường vượng khí. Nếu bày quá nhiều đồ đạc trong phong khách, sẽ khiến nó trở nên phức tạp và lộn xộn. Trong phong thủy, mỗi món đồ đều có thuộc tính và từ trường riêng. Nếu đặc quá nhiều đồ dùng khác nhau trong cùng một không gian, sẽ gây cản trở sự lưu thông khí. Sự hỗn loạn của các đường lực từ cũng không lợi cho việc hình thành một trường khí tốt đẹp cho phòng khách.

Từ đó có thể suy luận rằng không nên bày biện nhiều đồ đạc lộn xộn, hỗn tạp trong phòng khách, tốt nhất hãy bỏ bớt những thứ đồ không quan trọng để tránh phá hỏng trường khí phong thủy tốt đẹp trong phòng khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: BÀI TRÍ CÁC VẬT DỤNG ĐỒ ĐẠC TRONG PHÒNG KHÁCH CẦN LƯU TÂM ĐIỀU GÌ?

10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Thuật phong thủy chủ yếu nghiên cứu đến vị trí của ngôi nhà và các mối liên hệ đến các yếu tố xung quanh, mối liên hệ giữa các phòng trong nhà, cửa đi, cửa sổ, đồ đạc và các đồ phụ kiện. Bài viết này xin đưa ra một số mẹo đơn giản để bạn có thể loại bỏ những điềm xấu và mang lại những điều tốt lành cho căn nhà của mình.
10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Thuật phong thủy chủ yếu nghiên cứu đến vị trí của ngôi nhà và các mối liên hệ đến các yếu tố xung quanh, mối liên hệ giữa các phòng trong nhà, cửa đi, cửa sổ, đồ đạc và các đồ phụ kiện. Lịch vạn niên 365 xin đưa ra một số mẹo đơn giản để bạn có thể loại bỏ những điềm xấu và mang lại những điều tốt lành cho căn nhà của mình.

Mục đích chính của thuật Phong Thủy là kiểm soát được tốt nhất các luồng khí lưu thông trong nhà. Hai nguồn năng lương Âm- Dương luôn tồn tại song song, việc cân bằng hai yếu tố này là thực sự cần thiết để mang lại cho gia chủ một cuộc sống thịnh vượng.

Có 5 yếu tố cơ bản theo Phong Thủy đó là: Kim (các đồ trang trí bằng kim loại như đế đèn, giá treo quần áo…), Mộc (nội thất chất liệu gỗ như bàn, ghế, sàn nhà…), Thủy (thác nước để bàn, bể cá cảnh…), Hỏa (nến, lò sưởi, bếp…), Thổ (các chậu cây cảnh, chậu hoa trong nhà…) – cũng cần phải được cân bằng.

Theo xem tử vi, diện tích một ngôi nhà hoặc một căn phòng được chia thành chín phần trong một hình bát giác hoặc hình vuông – tám vị trí bên ngòai và một vị trí trung tâm.

Vị trí trung tâm là cho sức khỏe trong khi tám vị trí kia tương ứng với quan hệ hôn nhân, con cái, mối quan hệ xã hội, sự nghiệp, học thức, tình yêu, tiền bạc, và danh vọng. Như vậy, như vậy bạn hoàn tòan có thể biết được mình cần phải thay đổi cái gì cho những vấn đề cụ thể mà mình đang gặp phải.

Những giải pháp của thuật Phong Thủy có thể khá phức tạp như phải làm mới, kê dọn lại vị trí của tòan bộ đồ đạc trong phòng nhưng cũng có thể chỉ là những biện pháp rất đơn giản như treo một tấm gương hay sắp xếp lại bàn góc…

Những tấm gương hay những đồ đạc có bề mặt nhẵn bóng có thể dễ dàng làm tăng vượng khí nhưng bạn nên nhớ đừng để chúng ở trước cửa bởi như thế khí sẽ bị phản xạ lại và không đi vào nhà.

Xem bói thấy rằng chuông gió không chỉ tạo ra những âm thanh êm ái, dễ chịu mà treo chuông gió trước cửa sẽ giúp bạn điều hòa được các luồng khí trong nhà rất tốt.

Cây xanh chính là biểu tượng của cuộc sống và nó góp phần mang lại năng lượng “tươi” cho căn phòng. Vì vậy, để hút vượng khí nên trồng cây xanh trong nhà. Hiện nay, nhiều người thường chọn những loại cây có tên gọi mang ý nghĩa may mắn, hướng đến nhiều mong ước để trồng trong nhà đẹp. Các loại cây thể hiện tài lộc được ưa chuộng nhất là cây kim ngân, kim quýt, kim phát tài, lộc vừng, phát lộc... Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, sử dụng cây cảnh trong môi trường sống là một giải pháp hay, nhưng hãy cố gắng chăm sóc (bón phân, tưới tắm) chúng cẩn thận để luôn khỏe mạnh. Các loại cây có lá dạng hình tròn sẽ tốt hơn những loại cây khác. Ở nhà bạn nên đặt một chậu hoa có mùi hương nhẹ và bạn và gia đình bạn không bị dị ứng, nó sẽ giúp tinh thần bạn sản khoái hơn vào mỗi buổi sáng thức giấc. 

Hãy để tài lộc vào nhà bạn bằng cách trang trí ngôi nhà với những thác nước nhân tạo, bể cả cảnh hay thậm chí chỉ là những bức ảnh có liên quan đến nước. Nhìn chung thì những đồ đạc mô phỏng sự giàu sang phú quý cũng đều có tác dụng nhất định.

10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc bạn nên có:

Chuông gió mang đến sự may mắn

Chuông gió là một trong những biểu tượng phong thủy hàng đầu. Vai trò của chúng mang đến sự hỗ trợ dưới nhiều hình thức: nâng chi của một khu vực xấu, đàn áp năng lượng ở những góc bị phi tinh xấu chiếu xuống, mang đến cho bạn những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nếu được sử dụng đúng cách, chuông gió sẽ đem đến may mắn, sức khỏe, tài lộc và sự hòa hợp giữa vợ chồng, các thành viên trong gia đình. Chuông gió được sử dụng để hút dòng chảy tiền bạc vào trong nhà. Cách sử dụng hiệu quả nhất với chuông gió là số 9, có thể là 9cm, hoặc 9 sợi dây ruy băng đỏ. Chiếc chuông gió có sức mạnh nhất là những chiếc có 6 thanh và làm bằng kim loại. Chuông gió được treo ở vị trí tài lộc của ngôi nhà hoặc văn phòng, khi đó, chuông gió sẽ được vang lên thường xuyên, có nhiều năng lượng để hút tiền tài cho gia đình bạn.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Ông thần tài

Quan niệm dân gian của người xưa cho rằng, Thần Tài là vị thần chuyên quản tài phúc của thiên hạ. Khi nhận được sự giúp đỡ của ông nhất định sẽ thăng tiến quan chức, tiền bạc. Cho nên rất nhiều gia đình đặt ông Thần Tài trong nhà để hy vọng sự giàu sang, phú quý. Ông thần tài được sử dụng nhằm mục đích cầu phước lành cho gia chủ. Vị trí thích hợp nhất cho tượng Thần tài đó là đối diện với cửa trước. Dù bức tượng lớn hay nhỏ, nó đều có sức mạnh đáng kể đối với tiền tài của gia đình bạn.

Nước tượng trưng cho tiền bạc

Theo mô hình không gian Ngũ hành, hành Thủy được quy định về phương Bắc, màu chủ đạo là đen và xanh dương, thời tiết thuộc về mùa đông. Hình dáng đặc trưng hành Thủy là những đường uốn khúc, lượn sóng và đa diện cong. Theo đó, sự di chuyển của nước trong phong thủy nghĩa là sự di chuyển của tiền về phía bạn. Do vậy, hãy đặt một đài phun nước hoặc thác nước trong nhà ở góc tài lộc hoặc đài phun nước ngoài trời ở vị trí gần cửa chính. Tùy theo diện tích, bạn có thể chọn một chiếc đài phun nước nhỏ hay lớn. Nếu bạn muốn tăng năng lượng tích cực trong nhà, bạn có thể thêm vào công trình trang trí bằng nước vài viên đá phong thủy. Ngoài ra, nếu bạn mua loại đài phun nước có khả năng lưu thông các loại tinh dầu nhất định vào trong không khí, nó cũng sẽ tăng gấp đôi năng lượng có lợi trong nhà.

Đồng tiền xu cổ

Theo phong thủy, tiền xu là một trong những vật phẩm phong thủy quan trọng. Ngày xưa, người ta dùng tiền xu đục lỗ hình tròn tượng trưng cho trời, giữa là lỗ hình vuông tượng trưng cho đất. Trời ngoài, đất trong tượng trưng cho sự thịnh vượng. Vì vậy, treo những đồng tiền chéo nhau và kết nối chúng bằng một sợi dây màu đỏ, sau đó treo lên các cửa ra vào sẽ giúp giữ được năng lượng tiền bạc trong nhà. Dùng 9 hoặc 6 đồng tiền xu cho cửa chính và những cửa còn lại thì treo số lượng ít hơn. Tiền xu mang lại nhiều may mắn về tiền bạc cho gia đình. Phong thủy cũng cho rằng việc giữ lại tiền dưới mọi hình thức như sổ séc, sổ tiết kiệm, thẻ ngân hàng; hoặc thậm chí là những đồng tiền lẻ trong một chiếc hộp phong thủy có màu tím hoặc màu vàng thật đẹp sẽ giúp bạn giữ được tiền. Ngoài ra, bạn hãy đặt 9 đồng xu thật sáng bóng tại góc tài lộc, và hãy tưởng tượng rằng “những hạt giống” này đang sinh sôi và phát triển. Khi nhận tiền lương, trước khi đưa vào sử dụng, bạn nên giữ một lúc ở góc tài lộc. Nó không chỉ là một ý nghĩa về phong thủy, mà còn là vật trang trí cho góc nhà của bạn nữa.

Trái cây, ngũ cốc

Trái cây và ngũ cốc có ý nghĩa mang lại sự no đủ trong phong thủy. Những bát hoa quả tràn trề, hay cây sai trĩu quả là những vật phẩm phong thủy thường được sử dụng trong nhà để giúp gia đình có nhiều tiền tài. Người ta thường xếp 9 quả cam hay mận, được đặt trong một chiếc bát màu vàng, hay những chùm nho đỏ, dứa tươi và chuối được xếp đầy trong khay, hoặc cũng có thể treo tranh vụ mùa bội thu, vv… Đây là những biểu tượng phong thủy mang lại sự no đủ về vật chất, bạn nên đặt vào góc tài lộc.

Tre may mắn hay tháp tài lộc

Để tăng sự may mắn, thành công về tiền bạc, hãy đặt 9 thân tre trong chiếc bình màu tím. Chiếc bình này phải có thân to hơn miệng, với ý nghĩa là giữ của. Hiện nay, người ta sử dụng tre hoặc cây phát lộc để làm biểu tượng phong thủy. Cây phát lộc thuộc loài cây họ vạn niên thanh, thân thảo, đốt rỗng, to bằng ngón tay trỏ người lớn, lá màu xanh thẫm. Khi cây trưởng thành, có thể dài gần một mét. Nếu ngắt cành trưởng thành cắm vào nước hoặc trên đất, cây vẫn sống rất khoẻ, và đâm chồi nảy lộc. Nhiều người quan niệm, trưng cây phát lộc trong nhà mang lại may mắn và tài lộc. Trên bàn thờ của nhiều gia đình cũng có một lọ nhỏ với cây phát lộc với mong ý cầu tài lộc cho gia đình của mình. Cây phát lộc có thể làm được rất nhiều sản phẩm đẹp với mẫu mã khác nhau như tháp cây phát tài, chậu phát tài hình chim công hay lộc bình... Với sự tỉ mỉ và kiên nhẫn, bạn cũng có thể làm được các sản phẩm này tại nhà đấy.

Đá quý và đá phong thủy

Đá quý và đá phong thủy là biểu tượng của giàu sang, phú quý. Bạn nên giữ kim cương hay đồ trang sức bằng đá quý vào một chiếc hộp có màu tím hoặc màu vàng trong góc tài lộc của phòng ngủ. Phía trên chiếc hộp nên đặt chuông gió. Trong phong thủy, điều này có nghĩa là sự sang trọng, giàu có sẽ bị hút vào cuộc sống của bạn. Trong các loại đá quý thì đá thạch anh tím có màu sắc rất đẹp, vừa dùng trang trí, vừa là biểu tượng của phú quý. Nếu tình hình tài chính gia đình bạn không mấy ổn định, hay bạn thường xuyên phải suy nghĩ về nó, hãy đặt những vật nặng như đá tròn hay tượng ở góc tài lộc sẽ giúp bạn cải thiện tài chính của gia đình.

Ếch may mắn

Trong phong thủy, cóc ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một biểu tượng phong thủy được sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy, Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó. Ếch ngậm tiền tốt nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, và nghiêng một góc 45 độ để thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.

Những loại cây lá tròn

Cây mang đến vượng tài là cây có lá tròn, to hoặc mọc hướng lên... phù hợp theo đặc tính dương trong Kinh dịch (dương, hướng lên, động), chẳng hạn trúc phú quý, lan... Cây lá tròn giúp tái tạo dòng năng lượng và kích thích phát triển dòng chảy của tiền. Bạn hãy nhớ là luôn giữ cho cây được khỏe mạnh và không được ngập quá nhiều nước. Những cây lá tròn này sẽ được đặt trong chậu màu tím là tốt nhất, và nó còn giúp làm đẹp cho góc tài lộc của nhà bạn đấy. Một số cây lá tròn được nhiều gia chủ chọn bày trong nhà như cây ngọc bích, cây kim tiền..

Bể cá cảnh

Cá là biểu tượng sức mạnh của tiền bạc và sự thịnh vượng. Bể cá cảnh đặt ở phía Đông Nam, gần cửa chính, hoặc lối vào khu vực kinh doanh rất tốt lành, bởi nó không chỉ là một biểu tượng phong thủy thu hút tiền bạc mà còn là sự cân bằng của 5 yếu tố cơ bản trong phong thủy: Mộc (cây trong bể cá), Kim (cấu trúc bể cá), Thủy (nước), Hỏa (màu sắc của cá như vàng, đỏ, hoặc chiếu sáng của bể). Nước trong bể cá thể hiện cho dòng chảy của sự sống, sự sinh sôi nảy nở. Những chuyển động kiếm mồi, bơi lượn cùng bọt khí của cá làm tăng nguồn năng lượng tích cực của sự may mắn, giàu có cho gia đình bạn.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Các ông thầy tướng thấy đôi mắt phụ nữ có đuôi là thở dài: đàn bà đa tình là họa.
Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mẹ chồng xem mắt con dâu, thấy long lanh ướt, lúc nào cũng miệng cười mắt cười cũng thầm lo: nó đa tình thế kia chỉ khổ con mình. Chả biết ai khổ hơn ai, đàn bà đa tình và những người xung quanh họ.

Mình biết một chị đã qua tuổi 50, mắt lá răm đuôi dài quét hết dũng khí của đàn ông đối diện, 4 lần đò, giờ vẫn lênh đênh vì tội đa tình.
Một chị nữa cười nhiều mà mắt như loáng nước, đen ánh lên với vòng chân mày mượt gọn, sắc sảo thế nên có cháu ngoại rồi vẫn cô đơn.
Mình cũng biết một em xinh như mơ, chân đủ dài, mắt phượng không cần trang điểm vẫn cứ lên hình ngọt ngào “thưa quý vị và các bạn” mở đầu một ngày mới. Đàn ông liêu xiêu vì em không tính hàng đơn vị.. qua tuổi 35 vẫn tự lái xe, tự mua thuốc uống khi ốm, vì tự biết mình đa tình, dính vào ai cũng khổ mình khổ người..

Nhiều người bảo đàn bà đa tình như lũ trẻ háu ăn đi tiệc buffet, lấy đầy đĩa đủ mọi món nhưng vẫn không thấy đủ. Mình thấy so thế chẳng đúng tẹo nào. Bọn trẻ con háu ăn lấy về nhưng không ăn hết, đàn bà đa tình không phải ai cũng muốn sưu tập các vệ tinh để tạo club. Đa tình thì dễ xao xuyến, dễ yêu và dễ bị cuốn đi…và khi cuốn đi rồi, khó biết dừng lại. Chỉ vậy thôi.

Đàn ông thích đàn bà đa tình hay không chẳng biết, chỉ biết rằng giai nào dám chọn đàn bà đa tình làm vợ chắc chắn phải đầy bản lĩnh, tự tin (những kẻ bạc nhược, tặc lưỡi….hên xui, biết nàng đa tình, sợ mà vẫn lấy rồi lấy về để dằn vặt thì không tính là đàn ông)! Đàn ông giỏi giang kiểu này mình rất nể, có một thằng bạn mình cũng dám chọn một em đa tình, nó bảo: Nàng đa tình nhưng nàng yêu mình là đủ. Khi nào nàng nhảy sang yêu thằng khác thì .. tính tiếp!

Nói đàn bà đa tình như than hồng không thể bọc năm bảy lần giấy, thả vào nước là nguội tanh cũng sai. Đàn bà đa tình giống một thanh kim loại tích điện, có thể làm sôi mọi loại chất lỏng từ đắng đến cay, từ ngọt đến mặn, và dĩ nhiên là làm tan chảy và bay hơi cả nước đá lẫn nước lọc..Năng lượng ấy mà dồn cho những đam mê nghề nghiệp mang thiên hướng văn học, nghệ thuật thì .. quá ổn.

Cá nhân mình chỉ thấy đàn bà đa tình khổ, không phải vì chịu đựng ánh mắt nghi ngờ của người đàn ông bên cạnh hay đàm tiếu của những người xung quanh, mà khổ vì những nồng nàn đôi khi không được thổi bùng lên thành lửa. Vì những nồng nàn của đàn bà đa tình nhiều khi không phải …yêu đương mà chỉ là những đam mê .. phi vật thể! Không biết giải thích vụ này thế nào….

Không chỉ ngoài đường, trong nhà, đàn bà đa tình mới bị “kỳ thị”. Công sở có lẽ là nơi khó khăn nhất cho họ. Đàn bà đa tình làm sếp thì..cũng căng người chịu thị phi. Giỏi cỡ nào, thông minh nhạy bén cỡ nào cũng chỉ được nhìn nhận là nhờ đa tình mà thành hay bại! Còn nữ nhân viên đa tình có chăng chỉ được lòng sếp nam trăng hoa trong ngắn hạn, đa phần phải tự bảo vệ mình trước đồng nghiệp và sếp nữ đoan trang chỉnh chu không bao giờ cười hở răng. Với nhóm các phụ nữ đặc biệt đi đúng lề này thì đa tình hay lẳng lơ cũng là một, đều là dạng tiềm ẩn nguy hiểm phá tan hạnh phúc gia đình của người khác. Kiểu cướp trên giàn mướp mà mắt vẫn đẫm lệ đầy xót xa…và nhóm cực đoan này thường quy kết: “đa tình rồi cũng bạc tình”, một cái kết hết sức phi lý mà vẫn được tán đồng, nhất là sau các ví dụ thảm thương như đại gia đi Lexus hay anh Hoàng Hùng báo NLĐ.

Trong khi logic mà nói, đa tình, giàu tình cảm, là thái cực đối lập với bạc tình.

Và có lẽ để tự bảo vệ mình mà đàn bà đa tình dường như ngày càng ít đi..Những ướt át xao xuyến liêng biêng dễ dàng say đắm nhường chỗ cho chừng mực và tỉnh táo. Phải biết dừng ở đâu chứ!

Đàn bà than thở: đa tình chỉ chuốc khổ tự thân….Nắng chang chang, mình lại vừa thấy một em đa tình từ chối lời hẹn gặp giai thú vị, để phi ra nắng gặp khách hàng tiềm năng là một chị rất ghét thói đa tình…

Sao đời không bao dung để thấy đàn bà đa tình là phúc chứ đâu phải họa nhỉ. Hồn nhiên đa tình để yêu ghét tự tâm, chân thành và nồng cháy thì có gì mà sai??

Nhiều anh đàn ông bảo "đàn bà đa tình" cũng tốt thôi, nhưng phải nói rõ là đa tình nhưng chỉ yêu chồng và con mình thôi, không yêu chồng người khác…. làm khó nhau quá…Các anh ấy bảo đa tình, rồi sẽ đa nhân tình thôi!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Thủy pháp - cách thức phong thủy dễ làm, lợi lớn

Thủy pháp trong phong thủy là một trong những yếu tố Loan đầu đặc biệt quan trọng. Nhìn Thủy đoán cát hung được coi là phương pháp cổ truyền, từ ngàn xưa để lại
Thủy pháp - cách thức phong thủy dễ làm, lợi lớn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

.  


► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ: Xem phong thủy theo ngũ hành chuẩn xác để đón lành tránh dữ

Thuy phap - cach thuc phong thuy de lam, loi lon hinh anh
 
Thủy pháp trong phong thủy chia làm hai dạng thuận Thủy và nghịch Thủy. Hai loại này đối ngược nhau về dòng chảy.
 
Nếu trước cửa nhà đường bên trái dài bên phải ngắn, chiều xe lưu thông từ trái qua phải, nhưng cửa lại mở ở bên trái (phương vị Thanh Long) thì đó là cuộc thuận Thủy (Tống Thuỷ). 
 
Ngược lại, nếu trước cửa nhà đường phía bên phải dài bên trái ngắn, chiều xe lưu thông từ phải qua trái, nhưng lại mở cửa ở bên phải (phương vị Bạch Hổ) thì cũng gọi là cuộc Tống Thuỷ. Đều chủ về việc tiền tài đến rồi đi, khó tích luỹ được.
 
Cuộc nghịch Thuỷ (tức là Nghinh Thuỷ), theo lý luận Loan đầu là cuộc vượng tài vì nó tụ được Thuỷ khí, do Thuỷ trong phong thủy chủ về tiền tài. 
 
Nếu trước cửa nhà đường bên trái dài bên phải ngắn, chiều xe lưu thông từ trái qua phải, nhưng cửa lại mở ở bên phải (phương vị Bạch Hổ) thì đó là cuộc Nghinh Thuỷ.
 
Nếu trước cửa nhà đường bên phải dài bên trái ngắn, chiều xe lưu thông từ phải qua trái, nhưng cửa lại mở ở bên trái (phương vị Thanh Long) thì đó cũng là cuộc Nghinh Thuỷ.
 
Thủy pháp trong phong thủy tốt hay xấu cần xác định xem nó tụ hay tán. Hướng Thuỷ khí đến là tụ, hướng Thuỷ khí đi là tán. Đường sá, hành lang, lối đi trước cửa nhà là hư Thuỷ, nhưng đối với cửa hàng sát cạnh đường sá thì không thể chỉ dùng phương pháp trên mà còn cần phải phối hợp với chiều xe lưu thông.
 
Ngoài ra, còn một số trường hợp chúng ta phải căn cứ vào địa hình, độ cao thấp để đoán định hướng thuỷ tới. Ví dụ: với các cửa hiệu trong các khu thương nghiệp lớn, việc đoán định hướng Thuỷ tới và hướng Thuỷ đi sẽ khó khăn hơn. 
 
Thông thường, người ta sẽ dùng vị trí đặt các cầu thang lên xuống hoặc cầu thang máy tự chuyển động để định hướng Thuỷ tới. Ảnh hưởng tốt xấu do Thuỷ tụ và Thuỷ tán còn cần dựa vào các tiêu chuẩn như: hình dạng ôm lại (hữu tình) hay phản cung (vô tình), đường đi bên nào dài hay ngắn hơn.
 
Khi làm nhà nên xoay hướng cửa đúng chiều đón khí tới, theo cuộc Nghinh Thủy tụ khí là tốt nhất.    ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thủy pháp - cách thức phong thủy dễ làm, lợi lớn

Mơ thấy má phệ: Đương đầu với sự hiếp đáp của đồng nghiệp –

Má nằm ở hai bên khuôn mặt. Mơ thấy hai má nặng nề chảy xệ, bạn sẽ phải đương đầu với đồng nghiệp hay người thân nào đấy vì bị họ ức hiếp, nhưng bạn quyết không nhượng bước để bảo vệ quyền lợi của mình. Mơ thấy hai má không cân xứng, đó là biểu hiện
Mơ thấy má phệ: Đương đầu với sự hiếp đáp của đồng nghiệp –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy má phệ: Đương đầu với sự hiếp đáp của đồng nghiệp –

Những con giáp bỏ lỡ hạnh phúc của chính mình

Không ai lạ gì người tuổi Sửu thuộc tuýp cuồng công việc, làm việc hăng say, phấn đấu không biết mệt mỏi, đây chính là con giáp bỏ lỡ hạnh phúc của mình.
Những con giáp bỏ lỡ hạnh phúc của chính mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không ai lạ gì người tuổi Sửu thuộc tuýp cuồng công việc, làm việc hăng say, phấn đấu không biết mệt mỏi để chinh phục mọi mục tiêu đã đề ra. Thời “trẻ trâu”, choáng ngợp toàn bộ tâm trí và cả tình cảm của con giáp này chính là công việc, ngoài ra chẳng còn điều gì khác. Đó là lý do tại sao mà họ dễ bỏ lỡ hạnh phúc của đời mình.

  12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Thân 3 con giáp giấu nhẹm chuyện thất tình, cấm ai đả động Chọn tháng sinh vượng tài vận cho 12 con giáp
1. Tuổi Sửu
  Không ai lạ gì người tuổi Sửu thuộc tuýp cuồng công việc, làm việc hăng say, phấn đấu không biết mệt mỏi để chinh phục mọi mục tiêu đã đề ra. Thời “trẻ trâu”, choáng ngợp toàn bộ tâm trí và cả tình cảm của con giáp này chính là công việc, ngoài ra chẳng còn điều gì khác.   Thêm nữa, đôi khi những người cầm tinh con Trâu lại cố chấp, bướng bỉnh, không thích nghe theo lời khuyên của người khác.    Tất cả những điều đó khiến người tuổi Sửu dễ dàng bỏ lỡ hạnh phúc của cả đời. Họ cặm cụi làm việc, bảo thủ ý kiến của riêng mình, để rồi khi nhìn ra ngoài, ai cũng có đôi có cặp, còn bản thân họ vẫn cô đơn, lẻ bóng.   Thử hỏi vất vả làm lụng cả đời nhưng khi về căn nhà chỉ có một mình đối diện với chính mình, liệu người tuổi Sửu có thực sự cảm thấy hạnh phúc? Nên nhớ, tình yêu không đợi chúng ta, nó đến rồi đi chẳng thể níu giữ, bạn chỉ có thể cảm thấy tiếc nuối mà thôi.  
Nhung con giap bo lo hanh phuc cua chinh minh hinh anh
 
2. Tuổi Dậu   Có lối sống hiện thực, thậm chí thực dụng, người tuổi Dậu luôn lấy tiền bạc, vật chất làm mục đích phấn đấu trong công việc. Bản thân họ toan tính nhiều tham vọng, nhưng quyết không dở chiêu trò, thủ đoạn để làm hại người khác. Ngược lại, họ con giáp này dựa vào sức lực bản thân để chinh phục mục tiêu.   Cuồng công việc, ham mê kiếm tiền làm giàu để cải thiện chất lượng cuộc sống bản thân cũng như có thể trợ giúp gia đình, đôi khi người cầm tinh con Gà cảm thấy áp lực, muốn sẻ chia với ai đó thực sự yêu và hiểu mình. Nhưng trớ trêu thay, lúc cần thì chẳng thấy bóng dáng ai xuất hiện.   Vì sao ư, vì đây chính là con giáp bỏ lỡ hạnh phúc của chính mình. Lúc có nhiều người để ý, họ lại làm ngơ, tập trung tinh lực phấn đấu cho sự nghiệp làm giàu. Tới lúc chẳng còn ai, họ thấy bơ vơ, cuộc sống càng thêm tẻ nhạt.

12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Tý Top 4 con giáp khiêm nhường từ tốn, ai cũng yêu mến Họa từ miệng mà ra, 3 con giáp rất dễ vướng thị phi 
Nhung con giap bo lo hanh phuc cua chinh minh hinh anh
 
3. Tuổi Hợi   Không thuộc tuýp cuồng công việc, mải mê kiếm tiền như hai con giáp trên. Người tuổi Hợi chân thành, đôn hậu, là mẫu người điển hình của gia đình. Phần lớn thời gian của họ là để dành cho người thân trong nhà hay phấn đấu để nâng cao chất lượng cuộc sống của cả gia đình chứ không phải của riêng họ.   Vì thiếu chủ kiến nên tình cảm của người tuổi Hợi dễ bị chi phối. Gia đình chính là niềm tự hào nhưng đồng thời cũng là điểm yếu của họ. Việc chọn đối tượng yêu đương, kết hôn của con giáp này đều được thông qua sự lựa chọn của gia đình.    Hy sinh cho gia đình quá nhiều, tuy bản thân tuổi Hợi không thấy mệt mỏi hay phiền não, nhưng chính điều đó khiến họ không ít lần lỡ dở hạnh phúc.   
Xem bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết đường tình duyên, hôn nhân của bản thân

Ngân Hà Những cặp đôi con giáp dễ ngán nhau theo thời gian
– Cặp đôi con giáp Dậu và Dần có cùng lý tưởng chung là mong muốn cuộc sống bình yên. Vô hình chung, điều đó khiến cuộc sống của họ ngày càng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp bỏ lỡ hạnh phúc của chính mình

Các lễ hội ngày 11 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Tạ Xá

Trong ngày 11 tháng 3 âm lịch có diễn ra các lễ hội sau: Hội Làng Tạ Xá tổ chức tại hà nội và Hội Làng La Xuyên tổ chức tại Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 11 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Tạ Xá

Các lễ hội ngày 11 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Tạ Xá

Các lễ hội diễn ra trong ngày 11 tháng 3 âm lịch:

1. Hội Làng Tạ Xá

Thời gian: tổ chức từ ngày 11 tháng 3 tới ngày 12 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: làng Tạ Xá, xã Đại Thắng, huyện Phú Xuyên (tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội).

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Trung Thành Đại vương Thượng Đẳng Phúc thần (là vị thành hoàng của làng), là người có công giúp vua Hùng Duệ Vương dẹp giặc cứu nước, lập ra Lương Xá trang (nay là xã Đại Thắng) và giúp dân làm lúa nước.

Nội dung: trong phần lễ, toàn dân rước kiêu lên miếu rước Thánh về đình vào sáng 11, sau đó tổ chức các hội thi, các trò chơi dân gian cổ truyền và hiện đại. Sáng ngày 12 tiếp tục lễ Thánh, sau đó rước Thánh về miếu.

Trong phần hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian xen lẫn hiện đại. Trầm ngâm và lặng lẽ là bộ môn đấu cờ tướng, sôi nổi và hào hứng là các trò chơi kéo co, bắn vịt dưới nước, bơi thuyền, đi cầu phao và một số năm gần đây còn có thêm trò chọi gà và thi nhảy bao để múc nước.

2. Hội Làng La Xuyên

Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tháng 3 âm lịch (ba năm lại tổ chức hội một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu).

Địa điểm: làng La Xuyên, xã Yên Ninh, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Đối tượng suy tôn: Lão La - ông tổ nghề mộc thời Tiền Lê, bà chúa Liễu Hạnh.

Nội dung: Mở đầu hội là phần tế lễ Tổ nghề mộc và Bà chúc Liễu Hạnh, tiếp đó là lễ tước nước, rước thần Thổ Địa, trò đánh đu, thi cỗ các họ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 11 tháng 3 Âm Lịch - Hội Làng Tạ Xá

Bật mí thú vị ít biết về nốt ruồi ở cằm nam giới

Cùng ## tìm hiểu những thú vị bất ngờ về nốt ruồi ở cằm nam giới để hiểu thêm về họ.
Bật mí thú vị ít biết về nốt ruồi ở cằm nam giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nếu phía cằm phải bất ngờ xuất hiện nốt ruồi, nhiều khả năng người thân trong nhà mắc trọng bệnh, sức khỏe giảm sút.



=> Xem thêm: Nốt ruồi trên mặt có ý nghĩa gì?

1. Nốt ruồi ở chính giữa cằm

Trong nhân tướng học, nốt ruồi ở chính giữa cằm không được coi là cát tướng. Nếu vị trí nốt ruồi gần ờ phía môi dưới hơn, chứng tỏ chủ nhân sắp gặp phải vấn đề nào đó liên quan đến tiền bạc.

Nếu nốt ruồi ở phía gần đáy cằm hơn, chứng tỏ người đàn ông này khá háo sắc, kinh nghiệm tình trường vô cùng phong phú.
 
Bat mi thu vi it biet ve not ruoi o cam nam gioi hinh anh
 
2. Phía cằm phải có nốt ruồi

Nếu phía cằm phải bất ngờ xuất hiện nốt ruồi, nhiều khả năng người thân trong nhà mắc trọng bệnh, sức khỏe giảm sút.

Ngoài ra, đây cũng là dấu hiệu cho thấy về sự tranh chấp, mâu thuẫn liên quan tới tiền bạc. Chủ nhân cũng dễ rơi vào tình trạng phá tài nếu không suy xét tỉ mỉ mọi việc trước khi tiến hành.

3. Phía cằm trái có nốt ruồi

Tướng nốt ruồi này cho thấy có khả năng người thân trong gia đình bạn mắc bệnh, tình hình sức khỏe đi xuống nghiêm trọng.

Ngoài ra, điều này cũng cho biết sự trở ngại, khó khăn trên con đường làm giàu, lĩnh vực tài chính của bạn. Khả năng phá tài (chính tài) rất lớn, cần phải đề phòng.
Bat mi thu vi it biet ve not ruoi o cam nam gioi hinh anh 2
 
4. Phía dưới cằm có nốt ruồi

Khi xem tướng nốt ruồi ở cằm nam giới, thấy có nốt ruồi ở phía dưới cằm hay nằm ở rìa ngoài xương cằm đều là một. Nếu thấy nốt ruồi này xuất hiện có nghĩa là tâm trạng của bạn đang lo lắng, bất an, thận hư, sức khỏe đang có dấu hiệu xuống dốc, khả năng phục hồi sức khỏe chậm và yếu.

5. Nốt ruồi ở các vị trí khác trên cằm

Với những nốt ruồi xuất hiện ở các vị trí khác trên cằm, có khả năng tài phúc của bạn dần bị hao hụt. Duy chỉ có đất đai, tài sản về bất động sản là dễ bảo lưu được.

Khi có tướng nốt ruồi này, bạn có thể mạnh dạn đầu tư, vừa bảo toàn được sản nghiệp tổ tiên lại có thể gia tăng nguồn vốn, thúc đẩy tình hình kinh doanh, buôn bán thuận lợi.

Lưu ý: Ở cằm, xuất hiện nốt ruồi đen được cho là tốt hơn so với nốt ruồi son.

=> Nốt ruồi trên mặt có ý nghĩa gì?

Ngân Hà
Giải mã vận trình qua nốt ruồi ở bàn chân
Ai cũng có nốt ruồi, và cũng không ít người có nốt ruồi ở bàn chân. Có thể là do sắc tố da ảnh hưởng tới sự xuất hiện của nốt ruồi nhưng cũng có thể là dấu
Bật mí thú vị về những nốt ruồi trên tai
Đa phần những người sở hữu nốt ruồi ở vành tai đều có tài ăn nói, giao tiếp khéo léo, cư xử hài hòa với mọi người nên dễ được yêu mến.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí thú vị ít biết về nốt ruồi ở cằm nam giới

Lưu ý trồng cây cảnh sân vườn hợp phong thủy

Việc trồng cây xanh sẽ giúp sân nhà bạn luôn xanh mát và tràn ngập sức sống. Thêm một vài lưu ý trồng cây theo khoa học phong thủy sẽ giúp bạn tìm được những
Lưu ý trồng cây cảnh sân vườn hợp  phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

loại cây phù hợp cho gia đình.

Nếu sân sân nhà có kích thước nhỏ và trung bình, việc trồng cây lớn để lấy bóng râm thì trong nhà sẽ dễ gặp vận suy.

Cây trong sân nhà quá lớn đến mức che hết căn nhà thì nên hạ đi, bởi việc che lấp sẽ khiến nhà không hấp thụ đủ năng lượng, và làm gia vận cũng dần suy yếu. Có người thích trồng cây lớn ở hai mặt của cổng sân, gọi nó là cây bảo hộ, trong khoa học phong thủy học gọi là “hàng cây đứng chầu”.
 Trong trường hợp này cũng không tốt, nó sẽ khiến cho những người sống trong nhà khó phát triển toàn diện…

Mot vai luu y trong cay canh san vuon hop  phong thuy  hinh anh
Không nên trồng cây lớn nếu sân vườn nhỏ

Gia đình bình thường không nên trồng liễu trong sân hoặc trước cổng. Theo khoa học phong thủy, trồng liễu dễ gây ra vấn đề phức tạp trong tình cảm, nên gia đình không nên trồng cây này.

Trồng trúc sẽ mang đến may mắn cho bạn, nhưng phải chú ý nếu rễ cây mọc ăn dưới ngôi nhà thì cát thành hung, vì sức đất bị phá hoại. Tốt nhất khi trồng trúc nên bao phần rễ trong chiếc hộp lớn để nó mọc tập trung bên trong.

Có thể trồng một vài cây tùng ở hướng Nam, vì đây cũng là hướng tốt. Tuy nhiên, ở hướng Nam không nên trồng cây quá lớn nếu không sẽ che lấp ánh sáng mặt trời ở hướng này. Nếu cây tùng cao hơn nóc nhà sẽ làm cho ánh sáng mặt trời không chiếu được vào nhà, tướng cát thành hung.

Ở phần giữa sân có thể trồng một vài loại hoa nhỏ nhiều màu, như vậy sẽ giúp người sống trong nhà luôn có cảm giác mát mẻ và thoải mái.

Ngoài ra phải chú ý sân nhà của người bình thường không được trồng các loại cây leo, những cây quá thấp và có hình dạng kỳ quái, vì như vậy với gia đình bình thường là tướng hung.

Theo Archi  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý trồng cây cảnh sân vườn hợp phong thủy

Chọn hướng nhà đại cát cho 12 con giáp

Hướng nhà do cổng cửa chính quyết định, từ đó tạo ra sự hung cát của ngôi nhà. Nếu hướng nhà đặt ở phương tốt sẽ thu nạp được sinh khí, giúp gia đình hưng
Chọn hướng nhà đại cát cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vượng; ngược lại nếu phạm phải hướng xấu sẽ thu nạp hung khí gây tổn hại cho sự thành công của gia chủ. Theo quan niệm phương Đông, mỗi người cầm tinh một con vật, dựa vào đó mà kị hướng nhà khác nhau.

Chon huong nha dai cat cho 12 con giap hinh anh
Hướng nhà quyết định hung cát

Người tuổi Tý (chuột) kiêng xây nhà lưng hướng Nam, mặt hướng Bắc. Hướng nên chọn là lưng nhà phía Đông, mặt nhà nhìn ra hướng Tây; lưng nhà hướng Bắc, mặt nhà nhìn ra hướng Nam hoặc lưng nhà hướng Tây, mặt nhà nhìn ra hướng Đông. 
 
Người tuổi Sửu (trâu) kiêng lưng nhà hướng Đông, mặt nhà nhìn ra hướng Tây và lưng nhà hướng Nam, mặt nhà hướng Bắc. Người tuổi này xây nhà nên đặt lưng hướng Bắc, mặt hướng Nam; lưng hướng Tây, quay về hướng Đông hoặc  lưng nhà hướng Nạm, mặt hướng Bắc.
 
Người tuổi Dần (hổ) không nên đặt nhà lưng hướng Bắc, nhìn về hướng Nam hoặc lưng nhà hướng Tây, mặt nhà hướng Đông. Để đón cát khí cần xây nhà lưng hướng Đông mặt quay về hướng Tây; lưng hướng Nam, mặt hướng Bắc hoặc dựa Tây nhìn Đông.
 
Người tuổi Mão (mèo) kiêng đặt hướng nhà dựa Tây nhìn Đông. Hướng nên chọn là lưng nhà hướng Bắc, mặt nhà quay về hướng Nam; lưng nhà hướng Tây, mặt nhà hướng Đông hoặc lưng nhà hướng Đông, mặt nhà hướng Tây.
 
Người tuổi Thìn (rồng) có thể lựa chọn hướng dựa Tây nhìn Đông; dựa Bắc nhìn Nam hoặc dựa Đông nhìn Tây để xây nhà. Tránh đặt nhà lưng hướng Nam, mặt nhìn hướng Bắc.
 
Người tuổi Tỵ (rắn) kị nhà lưng hướng Đông, mặt hướng Tây. Các hướng dựa Nam nhìn Bắc hoặc ngược lại là lựa chọn tốt cho người tuổi này khi làm nhà.
 
Người tuổi Ngọ (ngựa) nếu lưng nhà hướng Bắc, mặt nhà nhìn hướng Nam thì rất xấu. Hướng tốt nên chọn là lưng nhà hướng Đông, mặt nhà hướng Tây; lưng nhà hướng Tây, mặt nhà hướng Đông hoặc dựa Nam nhìn Bắc.
 
Người tuổi Mùi (dê) tránh ở nhà có lưng hướng Tây, nhìn ra hướng Đông. Những ngôi nhà lưng hướng Đông, mặt hướng Tây; lưng hướng Nam, mặt hướng Bắc hoặc ngược lại rất hợp với tuổi họ.
 
Người tuổi Thân (khỉ) không nên chọn nhà có hướng dựa Nam nhìn Bắc. Nếu xây hoặc mua nhà, nên chọn hướng dựa Bắc nhìn Nam; dựa Tây nhìn Đông hoặc ngược lại thì thích hợp.
 
Người tuổi Dậu (gà) kiêng ở nhà lưng hướng Đông, mặt nhìn ra hướng Tây nhưng các hướng nhà lưng dựa phía Đông khác lại rất tốt.
 
Người tuổi Tuất (chó) ở nhà lưng Nam mặt Bắc; lưng Đông mặt Tây hoặc lưng Tây mặt Đông sẽ đại cát. Kiêng nhà có hướng dựa Bắc nhìn Nam.
 
Người tuổi Hợi (lợn) kị ở nhà lưng hướng Tây, mặt hướng Đông. Nhà chọn hướng dựa Đông nhìn Tây; dựa Bắc nhìn Nam hoặc ngược lại thì tốt.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng nhà đại cát cho 12 con giáp

Quan niệm Kim Lâu và cách hóa giải vận hạn

Từ xa xưa, mỗi khi làm bất cứ một việc lớn nào, hầu hết người dân Việt Nam đều xem ngày tốt xấu , chọn tuổi với ý nghĩa để công việc được thuận buồm xuôi gió. Chuyện dựng vợ gả chồng vốn là chuyện quan trọng của cả đời người nên cũng được cất nhắc rất kĩ lưỡng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhưng thực chất Kim Lâu là gì ? cách tính Kim Lâu ra sao thì không phải ai cũng biết.

Theo các cụ, "Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông” và "1, 3, 6, 8 Kim lâu, dựng nhà, lấy vợ, tậu trâu thì đừng!". Điều này cũng đã trở thành lệ, ăn sâu vào đời sống tinh thần của mỗi người. Bởi vậy, hễ tính chuyện trăm năm, để tình yêu được bền vững, người ta lấy tuổi của người con gái để chọn năm cưới. Tuổi đẹp có thể cưới được là những tuổi không chạm tới tuổi Kim lâu. Cũng theo các cụ truyền lại, tính tuổi cưới phải tính tuổi mụ và tuổi Kim lâu là 1, 3, 6, 8. Cách tính Kim Lâu bấm ngày được truyền miệng từ đời này sang đời khác.

1. Nguyên thuỷ cách tính tuổi Kim lâu được viết trong cuốn sách "Thông thư” của Trung Hoa cổ. Theo như sách viết, khi dựng vợ, gả chồng, cần tránh 3 tuổi Kim Lâu, Hoàng Ốc, và Tam tai.

Cách tính tuổi Kim Lâu như sau: lấy tuổi mụ của người trụ cột trong gia đình chia hết cho 9:

+ Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (Gây tai hoạ cho bản thân người chủ);

+ Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (Gây tai hoạ cho vợ của người chủ);

+ Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (Gây tai hoạ cho con của người chủ);

+ Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (Gây tai hoạ cho con vật nuôi trong nhà); Riêng cái này có phạm cũng không sao nếu bạn không phải người kinh doanh chăn nuôi hoặc quá yêu quý động vật .

+ Nếu chia hết hoặc có số dư khác các số nêu trên là chọn được tuổi làm nhà không phạm Kim lâu.

Tóm lại, Các tuổi Kim Lâu cần tránh: 12, 15, 17, 19, 21, 24, 26, 28, 30, 33, 35, 37, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 71, 73, 75.

Các tuổi Hoàng Ốc cần tránh: 12, 14, 15, 18, 21, 23, 24, 27, 29, 30, 32, 33, 36, 38, 39, 41, 42 , 45, 47, 48, 50, 51, 54, 56, 57, 60, 63, 65, 66, 69, 72, 74, 75.

Các tuổi gặp hạn Tam tai cần tránh:

+ Người chủ tuổi Thân-Tí-Thìn gặp hạn Tam tai vào năm Dần-Mão-Thìn

+ Người chủ tuổi Dần-Ngọ-Tuất gặp hạn Tam tai vào năm Thân-Dậu-Tuất

+ Người chủ tuổi Tỵ-Dậu-Sửu gặp hạn Tam tai vào năm Hợi-Tí-Sửu

+ Người chủ tuổi Hợi-Mão-Mùi gặp hạn Tam tai vào năm Tỵ-Ngọ-Mùi

2. Theo cổ học phương Đông, 24 phương vị gồm 8 thiên can, 12 địa chi và 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn được mô tả theo hình vẽ dưới (ảnh tròn).

Phương vị 

Các số dư 1, 3, 6, 8 đều thuộc Tứ Mộ (tức 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và Tứ Sinh (tức 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi). Mùi và Thân thuộc Tây Nam. Tuất và Hợi thuộc Tây Bắc. Dần và Sửu thuộc Đông Bắc. Thìn và Tỵ thuộc Đông Nam. Đây cũng chính là phương vị của 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn. Từng quẻ nằm giữa hai ngôi Tứ Sinh và Tứ Mộ. Phong thủy quy định Nam ở phía trên, Bắc ở phía dưới (khác với cách nhìn ở bản đồ), Đông bên tay trái hình vẽ, Tây bên tay phải hình vẽ. Như vậy: Kim Lâu Thân là số 1 ở cung Khôn góc Tây Nam. Kim Lâu Thê là số 3 ở cung Càn góc Tây Bắc. Kim Lâu Tử là số 6 ở cung Cấn góc Đông Bắc. Kim Lâu Súc là số 8 ở cung Tốn góc Đông Nam.

Theo đó, có 8 tuổi không kỵ Kim Lâu là: Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Nhâm Dần, Canh Thân và Nhâm Thân. Với 8 tuổi này, nếu Hoàng ốc cũng tốt thì có thể xây nhà. 52 tuổi còn lại trong hoa giáp, nếu phạm Kim lâu, phải kiêng kỵ. Cách tính Hoàng ốc: Dùng 6 đốt của 2 ngón tay theo hình dưới để tính Hoàng ốc. Mỗi đốt ngón tay có tên tượng trưng như sau:

3 cung tốt là: Nhất Kiết, Nhì Nghi và Tứ Tấn Tài. 3 cung xấu là: Tam Địa Sát, Ngũ Thọ Tử và Lục Hoàng Ốc. Cách tính: Khởi 10 tuổi tại Nhất Kiết, 20 tuổi tại Nhì Nghi, 30 tuổi tại Tam Địa Sát, 40 tuổi tại Tứ Tấn Tài, 50 tuổi tại Ngũ Thọ Tử, 60 tuổi tại Lục Hoàng Ốc.

Việc xét theo bàn tay Kim lâu được tính như sau:


Dùng 9 đốt của 3 ngón tay theo hình dưới để tính:


5 cung Khảm, Ly, Chấn, Đoài và Trung cung được xây nhà. 4 cung Khôn, Càn, Cấn, Tốn kiêng kỵ không xây nhà.

Cách tính: Khởi 10 tuổi tại cung Khôn. 20 tuổi tại cung Đoài. 30 tuổi tại cung Càn. 40 tuổi tại cung Khảm. 50 tuổi tại Trung cung. 60 tuổi tại cung Cấn. 70 tuổi tại cung Chấn. 80 tuổi tại cung Tốn. 90 tuổi tại cung Ly. Ví dụ, người 28 tuổi âm lịch làm nhà. 20 tuổi bắt đầu từ cung Đoài, 21 tuổi tại cung Càn, 22 tuổi tại cung Khảm, 23 tuổi tại cung Cấn, 24 tuổi tại cung Chấn, 25 tuổi tại cung Tốn, 26 tuổi tại cung Ly, 27 tuổi tại cung Khôn, 28 tuổi tại cung Đoài. Như vậy, người này làm nhà vào năm 28 tuổi âm, thì được.

Trường hợp đặc biệt, nếu người chồng của gia đình đó đã mất thì lấy tuổi của con trai để tính việc xây nhà. Nếu gia đình đó không có con trai thì lấy tuổi của người đàn bà tính Hoàng ốc và Kim lâu cũng như trên để xây nhà.

3. Cách hóa giải vận hạn

Các chuyên gia cho biết, theo tài liệu cổ và kinh nghiệm dân gian nếu gặp những năm "tứ kim lâu", "lục hoàng ốc" hoặc "tam tai" thì không nhất thiết không xây dựng hoặc cưới gả. Theo cách "có đóng, có mở" rất linh hoạt và giải toả tâm lý cho gia chủ có thể hoá giải như sau:

Nếu gặp năm Tứ kim lâu hoặc Tam tai thì gia chủ có thể "mượn tuổi" nghĩa là nhờ một người khác (thường là người thân) có tuổi không phạm phải Tứ kim lâu và Tam tai đứng ra thay để thực hiện công việc (cúng bái, động thổ, trông coi việc xây cất...). Nếu gặp năm Hoàng ốc thì sau khi xây cất xong, gia chủ trước khi đến ở (nhập) cho người khác (thường là người thân, không chạm Hoàng ốc) đến ở một thời gian, sau đó mới dọn đến ở chính thức. Việc cưới xin nếu gặp Kim lâu thì "xin dâu hai lần" để hoá giải việc "đứt gánh giữa đường".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan niệm Kim Lâu và cách hóa giải vận hạn

Toát mồ hôi khi chinh phục 3 chòm sao nữ cao thủ

Với 3 chòm sao nữ cao thủ dưới đây, nếu không biết cách thì chẳng những không khiến người đẹp vừa lòng mà còn bị bẽ mặt nữa đấy.
Toát mồ hôi khi chinh phục 3 chòm sao nữ cao thủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con gái ai mà chẳng thích được tán tỉnh, săn đón, nhưng các chàng đừng tưởng giở vài chiêu vặt vãnh ra là nàng nào cũng xiêu nhé. Với 3 chòm sao nữ cao thủ dưới đây, nếu không biết cách thì chẳng những không khiến người đẹp vừa lòng mà còn bị bẽ mặt nữa đấy.


Toat mo hoi khi chinh phuc 3 chom sao nu cao thu hinh anh 2
 

Hạng 3: Thiên Bình

  Chòm sao nữ cao thủ này trời sinh đã là siêu sao về tình trường, mấy trò theo đuổi con gái bình thường trong mắt Thiên Bình chỉ là trò ấu trĩ mà thôi. Rất có khả năng đối phương nhọc nhằn khổ sở chuẩn bị để mong nàng ấy cảm động thì kết quả nhận được chỉ là nụ cười đầy bí hiểm, cao cao tại thượng.   Muốn chiếm được cảm tình của Thiên Bình, cần thay đổi chiến thuật, đừng dùng chứng mẹo tán tỉnh này nọ. Bạn cần thể hiện được sự lãng mạn, chân thành và tạo chút bất ngờ nữa. nên để Thiên Bình biết rằng bạn đang thật lòng theo đuổi cô ấy chứ không chỉ là chơi bời.   

Hạng 2: Xử Nữ

  Bản tính của cô gái Xử Nữ là xoi mói, dù là chuyện nhỏ nàng ấy cũng không bỏ qua đâu, huống chi là chuyện trọng đại như lựa chọn người yêu. Trong mắt không muốn vương dù chỉ một hạt bụi nên bất kì phương diện nào mà bạn có khuyết điểm thì đều coi là chưa hợp lệ.    Vì thế, theo đuổi chòm sao nữ cao thủ này phải tìm hiểu xem cô ấy thích gì, căn cứ vào đó mà sửa mình theo sở thích của nàng ấy, bày ra tối đa ưu điểm, thận trọng từng bước mới thành công công được. Cố gắng chiều Xử Nữ một chút, việc nào không quá đáng thì nhường nhịn, dĩ hòa vi quý. 
Toat mo hoi khi chinh phuc 3 chom sao nu cao thu hinh anh 2
 

Hạng 1: Hổ Cáp

  Sinh ra đã mang cảm giác thần bí, không ai có thể hiểu rõ cô nàng Hổ Cáp đang nghĩ gì nên đại đa số đều mù quáng, không biết nàng ấy thích gì, ghét gì. Rồi vô tình làm sai thì mọi sự coi như đi tong rồi, chẳng những không theo đuổi được còn làm Hổ Cáp ghét.   Người ta nói biết người biết ta trăm trận trăm thắng nên đối với người mà cái gì cũng không biết thì không thể chinh phục Hổ Cáp được đâu. Nhất định phải làm quen, tiếp xúc, tìm hiểu rõ về cô nàng và có sự chuẩn bị chu đáo, toàn diện. Đúng là chòm sao nữ cao thủ, muốn với tới cũng gian nan.  
4 cô nàng hoàng đạo không biết làm nũng người yêu Những sao nữ mang danh “Sở Khanh” 5 chòm sao nữ khiến các chàng trai si mê vọng tưởng

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Toát mồ hôi khi chinh phục 3 chòm sao nữ cao thủ

Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc

Sử dụng kinh nghiệm của Nhân tướng học, xem tướng đàn ông có thể biết được họ thành đạt trong sự nghiệp hay có hạnh phúc trong tình yêu & hôn nhân không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bằng cách sử dụng các kinh nghiệm của Nhân tướng học, xem tướng đàn ông có thể biết được họ thành đạt trong sự nghiệp hay không, có hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân hay không. Có những người đàn ông thành công trên cả sự nghiệp lẫn tình cảm. Vậy đâu là mấu chốt để nhận biết?

Rất nhiều người đều mong muốn có được sự thành công trọn vẹn trong cả sự nghiệp và tình yêu, nhưng kết quả thường không như mong đợi, nếu như không phải là sự nghiệp không thăng tiến thì là tình yêu không được như ý, hai phương diện này không thể được song toàn. Trong thực tế cuộc sống, rất nhiều người lao tâm khổ tứ vì vấn đề này, thậm chí không được người thân và bạn bè thấu hiểu.

xem tướng đàn ông thành công và hành phúc

Nhưng cũng có một số người vẫn có thể bình tĩnh để đối mặt, kết quả là không chỉ sự nghiệp lên như điều gặp gió mà đường tình duyên cũng rất thuận lợi. Đến đây có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao vẫn có những người luôn lạc quan ngay cả lúc khó khăn? Thực ra rất đơn giản, chúng ta có thể tìm thấy lời giải đáp trong bộ môn Nhân tướng học.

1. Tướng đàn ông có mắt nhỏ và một mí: suy nghĩ kỹ và thấu đáo trước khi làm

Người có mắt một mí là người bình tính đối mặt với mọi chuyện, tình cảm ít dao động, thường suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi làm. Do đó, họ không bao giờ hành động một cách mù quáng mà phải nghĩ ra kế sách vẹn toàn mới hành động. Chính những người này tránh được rất nhiều chuyện phiền toái trong cuộc sống.

Xem tướng người có mắt nhỏ thường bảo thủ nhưng có con mắt rất tinh tường, luôn mong sự việc có kết cục hoàn hảo. Do vậy, trong sự nghiệp cũng như tình yêu, họ thường có thể suy nghĩ và cân nhắc chín chắn, suy xét đến nhiều khía cạnh nên ít phải trắc trở, khó khăn.

2. Mắt hai mí và to là tướng người đàn ông nhiệt tình trong công việc lẫn tình yêu

Với người có mắt hai mí và mắt to là người nhiệt tình trong cả sự nghiệp và tình cảm, nhưng dễ bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài, thường trọng tình cảm nên dễ được mọi người yêu mến, kính trọng, nhiều khi thương nhớ.

Con mắt đã đủ để nhận biết hết chưa? Còn một vị trí nữa cũng cần phải xem qua. Đó là vị trí Thừa tương, kết hợp vị trí này có thể xem tướng đàn ông vừa giàu có, vừa hạnh phúc mới được chuẩn xác.

Thừa tương là vị trí lõm xuống ở bên dưới môi. Ở phần giữa của môi dưới và cằm. Phần lõm ngay dưới môi dưới.

3. Thừa tương lõm là tướng đàn ông biết cách cân bằng giữa gia đình và sự nghiệp.

Thông thường, người có thừa tương rõ nét là người rất chuyên tâm cho sự nghiệp, giỏi giao tiếp nên quan hệ xã hội tương đối tốt. Ngoài ra, những người này biết cách hưởng thụ cuộc sống, coi trọng phẩm chất của cuộc sống. Họ biết cách cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình, vừa chuyên tâm lo toan sự nghiệp, vừa chăm sóc gia đình, nên sự nghiệp và gia đình của họ đều song toàn.

Ngược lại, người có Thừa tương không rõ nét là người không giỏi giao tiếp nên quan hệ xã hội tương đối căng thẳng. Ngoài ra, những người này thường chỉ có thể chuyên chú vào một việc chứ không có khả năng xử lý đồng thời nhiều vấn đề một lúc.

Giữ chữ tín là một điều kiện quan trọng không thể thiếu được trong quan hệ xã giao trong xã hội hiện đại ngày nay. Không đưa ra lời hứa thì không được, nhưng hứa rồi lại không thực hiện lại càng không thể chấp nhận được. Một người không giữ chữ tín thì rất nhiều sự việc trong cuộc sống và sự nghiệp sẽ không thể được thực hiện và tiến triển thuận lợi được. Trong thực tế cuộc sống, rất nhiều người chỉ biết nói mà không biết làm, gọi là "nói thì hay, làm thì dở". Ngày nay luôn cần những người không những biết nói hay mà còn phải làm giỏi.

Một người giữ chữ tín, có thể gánh vác trách nhiệm một cách nghiêm túc thì trước khi hứa điều gì cũng đều có sự suy nghĩ kỹ càng. Ví dụ như phải đánh giá kỹ năng lực của bản thân rồi mà lượng sức mà làm. Từ đó có thể thấy được rằng không dễ dàng đưa ra lời hứa chính là biểu hiện của việc giữ lời hứa. Các nhà Nhân tướng học cho rằng, thông qua tướng mặt có thể nhận biết được một người có phải là người biết giữ lời hứa hay không.

tướng đàn ông biết giữ chữ tín

Phần này áp dụng cho cả tướng đàn ông và tướng phụ nữ

4. Mắt nhỏ, mũi thẳng, miệng rộng là tướng người biết giữ chữ tín

Người có mắt nhỏ là người bảo thủ nhưng lại thông minh, có năng lực, và khả năng phán đoán sự việc, nhận định vấn đề rất chính xác nên không xảy ra những sự việc ngoài tầm kiểm soát. Những người này rất giữ chữ tín, những việc đã nhận lời vì người khác đều cố gắng hết sức hoàn thành.

Người có mũi cao là người có lòng tự trọng cao. Để người khác không coi thường mình, họ luôn cố gắng hoàn thành những việc đã hứa.

Người có tướng miệng rộng là người rất tự tín, giỏi giao tiếp. Do vậy, họ được mọi người xung quanh quý mến. Những người này cũng rất giữ chữ tín, không tùy tiện hứa điều gì, nhưng một khi đã hứa thì luôn giữ lời.

Mũi tượng trưng cho lòng tự trọng. Mũi cao thể hiện người này rất có lòng tự trọng, luôn hoàn thành mọi việc người khác uỷ thác, không muốn người khác coi thường mình, là người rất đáng tin cậy.

5. Trán rộng, tai cao tướng người theo chủ nghĩa hoàn hảo

Trán và tai cũng là bộ phận quan trọng quyết định xem một người có chữ tín hay không.

Thông thường, người có trán cao, rộng là người luôn suy nghĩ chín chắn kỹ càng, làm việc tuân theo quy tắc, làm việc có trật tự, và rất có lòng tự trọng. Khi làm bất kỳ việc gì, họ cũng đều muốn thực hiện một cách tốt nhất. thậm chí có khuynh hướng theo chủ nghĩa hoàn hảo.

Xem tướng mặt mà tai cao là người được giáo dục tốt, giỏi giang toàn diện có khả năng tổng hợp tương đối cao. Đồng thời, những người này cùng có hoàn cảnh gia đình tốt. Do vậy, họ thường được người thân giúp đỡ và ủng hộ, làm việc gì cũng toàn tâm, toàn ý, làm hết khả năng của mình. Cho nên họ là những người rất giữ chữ tín. Họ đã hứa với người khác việc gì thì dù khó khăn thế nào cũng vẫn hoàn thành.

Ngược lại, người có trán hẹp, tai thấp là người không có khả năng phân tích sự việc, làm việc nóng vội, lỗ mang, thường thường không thực hiện được những việc đã hứa. Nên những người này phần lớn không biết giữ chữ tín.

Xem tướng biết người. Ông chủ nào cũng muốn có được những nhân viên biết làm việc chắc chắn, chăm chỉ và luôn một lòng làm tốt chức trách của mình. Tương tự như vậy, ai trong chúng ta cũng muốn có người bạn thẳng thắn, chân thành, chịu khó, thực thà. Trong xã hội hiện đại, chỉ có những người nhu vậy mới có thể thành công trong thương trường cạnh tranh khốc liệt. Còn những người lười nhác, không chịu lao động, nằm chờ sung rụng, luôn mơ hão rằng không làm vấn có ăn là những kẻ chỉ biết nằm mơ giữa ban ngày, giấc mộng đẹp rồi sẽ đến lúc bị phá vỡ bởi hiện thực tàn khốc.

Dưới đây, là những căn cứ của Nhân tướng học để chỉ ra những tính cách và phẩm hạnh của con ngưòi ẩn dưới những đặc trưng của tướng mặt.

6. Tai, mũi, trán thấp là tướng người tôn trọng kỷ luật

Ở phần trên, chứng ta đã bàn về những nội dung có liên quan đến các bộ phận như tai, sống mũi, trán. Dưới đây sẽ tiếp tục bàn các bộ phận này từ một góc độ khác.

Thông thường, người có tai, sống mũi, trán thấp là người làm việc theo nguyên tắc, không có chủ trương riêng. Những người này có ý thức kỷ luật và tinh thần tập thể rất cao, luôn coi trọng tập thể và đại cục, luôn chăm chỉ làm tốt nhiệm vụ được giao.

7. Xem tướng lông mày thô và ngắn là người đáng tin cậy

Người có lông mày thô, ngắn đôi khi làm việc lỗ mãng nhưng rất giữ chữ tín, những việc đã hứa với người khác thì sẽ cố gắng hoàn thành, dù có vất vả, khó khăn nào cũng không than thở. Ngoài ra, những người này rất thực thà, chân thành, toàn tâm toàn ý với công việc, không bao giờ có âm mưu ám hại người khác, là người đáng tin cậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc

Những con giáp có tình yêu dễ bị ‘đứt gánh’ –

Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần. Quán quân: Tuổi Thìn Nguyên nhân “đứt gánh giữa đường” trong tình yêu: Quá chú trọng đến bản thân mà không quan tâm đến cảm giác của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần.

Quán quân: Tuổi Thìn

Nguyên nhân “đứt gánh giữa đường” trong tình yêu: Quá chú trọng đến bản thân mà không quan tâm đến cảm giác của đối phương.

Bản tính trời sinh của người tuổi Thìn là tự tin, thậm chí có đôi chút tự cao tự đại, dễ gây bất hòa với mọi người. Hơn thế họ còn khá nóng tính, không kiên trì và nhưng lại thích nắm quyền lực trong tay.

thin-6602-1399355378

Trong tình yêu, những tính cách này của người tuổi Thìn sẽ gây ra không ít phiền toái chẳng hạn như tranh cãi, gây mâu thuẫn hoặc gò ép đối phương phải nghe theo ý kiến của mình. Nếu không sửa đổi bản tính, tuổi Thìn chỉ có thể yêu nửa vời hoặc bị “đứt gánh giữa đường”.

Á quân: Tuổi Tuất

Nguyên nhân chủ yếu: Quá coi trọng sự nghiệp mà dành ít thời gian quan tâm tới nửa kia.

Tính cách kiên trì của người tuổi này sẽ khiến họ thực hiện tốt công việc được giao mà không có chuyện bỏ dở giữa chừng. Với họ, công việc là tất cả những gì tốt đẹp nhất trên cuộc đời này, nếu không làm việc, họ sẽ không thấy mình được sống.

tuat-1462-1399355379

Vì quá coi trọng sự nghiệp nên người tuổi Tuất có thể hy sinh cả tình yêu của mình nếu như phải chọn một trong hai điều này. Điều này khiến đối phương cảm thấy buồn tủi vì không dành được sự quan tâm nhiệt tình từ người yêu của mình.

No3: Tuổi Sửu

Nguyên nhân chủ yếu: Tính cách bảo thủ, không biết cách tạo sự lãng mạn.

Tính cách cố chấp và có phần bảo thủ, không linh hoạt của người tuổi Sửu chính là rào cản khiến họ khó có được một tình yêu lãng mạn, tuyệt vời.

suu-5054-1399355379

Hơn thế, lòng tự trọng của người tuổi Sửu quá cao nên sẽ không có chuyện họ chủ động tỏ tình hay thổ lộ nỗi lòng, sự quan tâm của mình cho đối phương biết. Họ cứ âm thầm đợi chờ, không chủ động tạo sự lãng mạn nào cả, chờ cho đến khi đối phương tự gật đầu đồng ý là coi như xong. Thái độ nửa vời này của người tuổi Sửu sẽ khiến đối phương cảm thấy khó chịu và ức chế.

No4: Tuổi Ngọ

Nguyên nhân chủ yếu: Không quan tâm tới vẻ ngoài nên không biết cách làm đẹp.

Người tuổi này thường mong muốn có được cuộc sống bình yên và thoải mái. Tính tình thì cố chấp và không dễ thay đổi bản tính của tuổi Ngọ khiến họ khó tiếp thu những điều mới lạ mà cứ bảo thủ những gì mà mình cho là đúng.

ngo-1831-1399355379

Ngay trong chuyện ăn mặc cũng vậy. Họ cho rằng mặc sao cho thoải mái là được chứ không cần phải câu lệ chuyện xinh đẹp hay phô trương trước mặt người khác. Điều đó khiến họ “mất điểm” trong mắt đối phương. Đó cũng là một trong những lý do chủ yếu khiến mối tình của họ không đi đến tận đích cuối cùng.

No5: Tuổi Dần

Nguyên nhân chủ yếu: Tham vọng và tính chiếm hữu quá cao, khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt và khó nhẫn nhịn được.

Vốn ghen tuông vô đối, người tuổi Dần khó mà tin tưởng tuyệt đối vào người khác. Ngoài ra, vì quá yêu và yêu một cách chân thành, cuồng nhiệt đối phương nên tuổi Dần luôn muốn người ấy phải kè kè bên mình hoặc phải biết đích xác “tung tích” của nửa kia đang làm gì và ở đâu.

dan-4359-1399355379

Điều đó khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì bị gò ép và không tin tưởng. Đôi lúc nửa kia sẽ cảm giác như không thể nhẫn nhịn được nữa mà nghĩ tới chuyện chia tay. Tình duyên của tuổi Dần theo đó mà sẽ bị đặt dấu chấm hết vô cùng bi thương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp có tình yêu dễ bị ‘đứt gánh’ –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd