Mơ thấy đi du lịch: Mưu cầu tự do và độc lập –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Tết có nghĩa là Tui Ế Tiếp |
![]() |
Tết Bính Thân là Tết của tình "Thân" |
![]() |
Chẳng phải dạng vừa đâu ạ! |
![]() |
Chế "Thân" độc quyền Tết này nha |
![]() |
Tết Tết cái con khỉ ấy! |
![]() |
Bình tĩnh, tự tin, tận hưởng Tết |
![]() |
Lì xì có cần phải xinh thế này không? |
![]() |
Hẳn là của chế nhoa! |
![]() |
Tết Chuẩn Cơm Mẹ Nấu rồi! |
![]() |
Tết này thoát kiếp FA rồi! |
► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Tiểu Mãn là tiết khí thứ 8 trong 24 tiết khí, là thời điểm Mặt trời tạo với đường xích đạo góc 60 độ. Theo dân gian tiết Tiểu Mãn kéo dài từ ngày 20,21 tháng 5 đến mùng 5 tháng 6. Vào năm 2016, tiết Tiểu Mãn bắt đầu vào ngày 20 tháng 5 (tức 14 âm lịch). Tiểu mãn có nghĩa là các loại lương thực vào đòng, nhưng chưa thể thu hoạch.
Tiết Tiểu Mãn có thể chia thành 3 khoảng thời gian rõ rệt dựa trên các hiện tượng thiên nhiên. Thời gian đầu, các cây diếp đắng xanh tươi sum suê, sau đó cây tề thái (cây mã thầy) lần lượt lụi tàn, đó chính là khoảng thời gian thứ hai. Cuối cùng, tại những ngày cuối của tiết Tiểu Mãn các loài cây tiếp tục quá trình phát triển của bản thân. Vào thời kỳ trước và sau tiết Tiểu Mãn, lượng mưa thường rất lớn, nhiều năm mưa to đã gây ra những trận lũ nhỏ và vừa. Lũ Tiểu Mãn thường không lớn nhưng là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, bổ sung cho nước cho hồ chứa trước khi đến mùa khô hạn thiếu nước.
![]() |
Xem tướng của một người tốt hay xấu theo trình tự
1. Coi vẻ uy nghi
Uy nghi ở đây toát lên từ đôi mắt, lưỡng quyền và thần sắc. Bề ngoài oai vệ, nghiêm trang, chỉnh tề, không có vẻ dữ tợn là tướng tốt.
2. Coi dáng đi, dáng đứng, dáng ngồi và cả dáng nằm ngủ
Xem tử vi 2015 thấy, dáng đi phải thẳng, linh hoạt, khi đi thân hình không lay động. Ngồi lâu không mê muội, càng ngồi lâu tinh thần càng sảng khoái. Ánh mắt trong sáng, có hồn, nhìn lâu không mờ.
3. Xem tướng đầu và tướng trán vì đầu là chủ toàn thân, nguồn gốc của tứ chi
Đầu vuông, đỉnh đầu nhô cao là người có địa vị cao trong xã hội. Đầu tròn là tướng giàu có và trường thọ. Trán rộng thì vừa sang vừa quý. Đầu lệch từ nhỏ thì cuộc đời vất vả, nhiều sóng gió. Trán thấp là người khá bướng bỉnh.
4. Coi ngũ nhạc, tam đình
Ngũ nhạc: Lưỡng quyền (hai gò má hay còn gọi là Đông nhạc và Tây nhạc) cần ngay ngắn, đầy đặn, không nhọn, không lệch, lẹm. Trán (Nam nhạc) cần ngay ngắn, không vát, không lõm, không thấp. Mũi (Trung nhạc) cũng cần ngay ngắn, sống mũi thẳng, không được vẹo, nhọn, gẫy khúc. Cằm (Bắc nhạc) cần cân đối, hài hòa với khuôn mặt.
Tam đình: Trán, đầu và cằm cần dài ngắn cân xứng, hài hòa.
5. Coi ngũ quan, lục phủ
Ngũ quan: Lông mày (bảo thọ quan) nên cong, dài, cách mắt hai phân là tốt. Đuôi mày nên chếch lên phía thái dương. Người nào có bộ lông mày thô đậm, áp xuống mắt thì thuộc tướng xấu.
Mắt (giám sát quan) phải sáng, tròng đen, tròng trắng rõ ràng.
Tai (thám thính quan) không căn cứ to nhỏ, chỉ cần luân quách (vành tai ngoài và vành tai trong) rõ ràng, phân minh. Tai trắng hơn da mặt thì cực tốt. Tai cao hơn lông mày, màu sắc tai hồng nhuận, lỗ tai nhỏ là loại tai tướng tốt.
Mũi (thẩm biện quan) nên đầy đặn, cao, sống mũi thẳng, không vẹo, không thô, không nhỏ quá.
Miệng (xuất nạp quan) có đôi môi hồng, răng trắng, nhân trung sâu dài là tướng tốt.
Lục phủ: Ngoài việc là khái niệm dùng để chỉ 6 bộ phận trong cơ thể người, lục phủ còn được dùng để chỉ ba cặp xương ở hai bên mặt. Trong phép quan sát lục phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu, xương thịt phải chắc, cân xứng, hài hòa với nhau, thịt không lấn át xương, xương không quá nhiều so với thịt, thần sắc tươi tỉnh là tướng tốt.
6. Coi lưng, bụng
Ngực bằng, đầy, eo tròn, lưng đầy và bụng dưới to hơn bụng trên, da dẻ mịn màng là tốt. Kỵ lưng thành hố sâu, lưng mỏng, vai lệch. Mông cần nở nang, đầy đặn, không nên lớn thô.
7. Coi chân, tay
Tay phải dài, bàn chân phải có bụng chân, chớ có nổi gân chằng chịt; màu sắc hồng nhuận, da thịt mềm mại.
8. Coi tiếng nói và tâm trạng
Muốn nhìn sự việc trong tâm thì coi đôi mắt. Mắt hiền, mắt ác cho biết tâm hiền hay ác. Vui buồn hay sướng khổ cũng đều biểu hiện qua đôi mắt.
Giọng nói nghe tròn, ấm, vang, rõ ràng, dứt khoát, nhanh chậm có trật tự, to thì vang như chuông mà nhẹ thì nghe thì nghe như tiếng ngọc va vào nhau.
Xem bói: Đoán biết bạn tốt xấu qua nhân tướng
1. Loại bạn hiệp nghĩa
Loại tướng bạn bè có tính hiệp nghĩa biểu lộ ra ngoài bằng các đặc điểm sau đây:
Cặp lông mày trông có vẻ thô nhưng nhìn kỹ thấy thanh tú và oai vệ ánh mắt sáng nhưng không lộ, nhìn người hay vật đều nhìn thẳng mục tiêu, mũi và lưỡng quyền cao thấp tương xứng với nhau, tiếng nói rõ ràng mạnh mẽ. Thấy việc phải dám làm dám nói, không sợ quyền uy, không ham tiền bạc.
2. Loại bạn khẳng khái
Ðặc điểm của loại bạn bè có tính chất khảng khái bao gồm:
Mày đẹp trán rộng, ánh mắt có vẻ cương cường nhưng không lạnh lẻo, mũi ngay thẳng và cao, phối hợp đúng cách với lưỡng quyền, tính tình độ lượng thấy việc đạo nghĩa dám bất chấp mọi nguy hiểm, về tiền bạc dám dốc hết túi giúp đỡ một cách tự nhiên mà không hối tiếc.
3. Loại bạn trung hậu
Về mặt hình thức, loại bạn bè trung hậu thường có các đặt điểm:
Lông mày dài và thanh tú phối hợp với cặp mắt không bị khuyết hãm về hình thể, mục quang ôn hòa nhưng không kinh khiếp. về mặt nội hàm, kẻ đó biết rõ bạn bè có lòng tham hay biển lận mà không tổn hại trực tiếp đến mình thì sẽ làm thinh, không vạch trần thói xấu của bạn bè cho người khác biết, không cưỡng cầu không hại người để lợi cho bản thàn, xem tuong thấy đối với bạn bè gặp lỗi nhỏ thì bỏ qua, gặp lỗi lớn thì thẳng tay phản kháng.
4. Loại bạn gian xảo, âm hiểm
Ngoại biểu của hạng bạn bè kể trên là cặp lông máy thô và đậm quá mức bình thường, lòng trắng có nhiều tia màu hồng hoặc đỏ, mũi gẫy lệch chuẩn, đầu méo mó. ánh mắt thường liếc xéo không nhìn trực diện kẻ đối thoại, thích trói buộc người khác, thich nói xấu sau lưng người hoặc tọc mạch những chuyện kín của người không có liên quan tới mình.
5. Loại bạn an phận thủ thường
Loại này có vẻ bề ngoài dễ nhận thấy là mũi nhỏ nhưng ngay thẵng. lưỡng quyền hẹp và thấp, nhãn cầu nhỏ không sáng, ánh mất không dao động và ít biến thông. Miệng nhỏ, môi mỏng. Về cá tính kẻ đó không dám mạo hiểm bất kể việc gì dù lớn nhỏ.
6. Loại bạn vô tình hoặc bạc tình
Loại này gần như toàn thể khuôn mặt đều mỏng manh. Mày thưa thớt và nhỏ; da mặt mỏng; mũi gầy, dài và gần như không có thịt; mang tai bạnh ra rất rõ(nhìn từ sau vẫn còn thấy). Về mặt tâm tướng, kẻ đó làm bất cứ điều gì chỉ biết có mình mà không biết tới người khác. Hơn người chút đỉnh thì hớn hở còn thua sút thì bực dọc thịnh nộ.
7. Loại bạn tính nết hồ đồ
Loại bằng hữu có tính hồ đồ là kẻ không am tường việc đời, không có chủ kiến, dể bị người thuyết phục. Bề ngoài của tướng người như trên là lông mày mịn nhỏ, mọc lan xuống bờ mắt; xương lưỡng quyền nhỏ. thấp, lòng đen, lòng trắng không rõ ràng. ánh mắt không có thần quang; giọng nói thiếu âm lượng. bước chân thiếu ổn định. Ðó là loại người không biết phân biệt xấu tốt rõ ràng.
Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
![]() |
Giấc mơ về âm nhạc thường dự báo điềm lành |
![]() |
Người kinh doanh mơ thấy mình hát cho thấy gần đây kinh doanh ảm đạm |
Hành: Thổ
Loại: Bại Tinh
Đặc Tính: Bệnh tật, đau yếu, buồn rầu
Là một phụ tinh. Sao thứ 9 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Sao Bệnh Phù là sao chỉ sự đau yếu, bệnh tật, buồn rầu vì bệnh tật. Đây là bệnh của người suy nhược toàn diện, kém ăn, kém ngủ, kém nghỉ ngơi, thiếu bồi dưỡng, thông thường thể hiện bằng sự dễ nhiễm lạnh, sổ mũi, nhức đầu,"nắng không ưa, mưa không chịu".
Mặt khác, vì là sao nhỏ, cho nên có thể bệnh hoạn không nặng lắm, tuy có thể kéo dài. Vì vậy, về mặt tướng mạo, sắc diện, da dẻ không hồng hào, xanh xao, vàng vọt. Về mặt tâm lý, tinh thần người có sao Bệnh Phù không phấn chấn, tráng kiện, không thích hoạt động.
Bệnh = bất tín dụng ; nếu không có anh tinh thì thêm bất tài.
Bệnh, Đào, Riêu: bệnh phong tình.
Bệnh, Hao, Sát, Hình, Kỵ : ác bệnh, khó chữa.
Ý nghĩa sao Bệnh Phù ở cung Tử Tức:
Bệnh, Phá = sát con
Ý nghĩa sao Bệnh Phù ở cung Tật Ách:
Bệnh, Không, Kiếp = bệnh hỏa hư, huyết sấu.
Bệnh phù, Hao sát ngộ Hình, Kỵ bị ác bệnh.
Ý nghĩa sao Bệnh Phù ở cung Phúc Đức:
Bệnh phù, Hóa kỵ, Thiên hình: nhà có người điên, hay mắc bệnh phù thũng.
HẠN
có sao Bệnh phù: hay ốm đau.
Sao Bệnh phù, Thái tuế : có sự đau khổ, ốm đau ; nếu có Thiên Lương thì giải được.
– 2 sao này gặp Sát, Phá, Tham, Vũ thì lại ít bệnh.
Hiện nay người dân có mức sống ngày càng ca0, có xu hướng hưởng thụ vật chất phong phú, trong nhà có nhiều vô tuyến không còn là chuyện lạ. Để một chiếc trong phòng ngủ, nằm trên giường có thể thoải mái thưởng thức là chuyện rất phổ lến.
Ở rất nhiều thành phố tấc đất tấc vàng, phòng ngủ kiểu mới đều rất nhỏ, nhìn một vật phát ra chùm tia điện ở khoảng cách gần như vậy thực sự là không an toàn. Khoa học đã chứng minh, đầu giường để vô tuyến thì tỉ lệ mắc một sô bệnh hiểm nghèo là tương đối cao. Trong khi đó bức xạ điện lại ánh hưởng đến địa khí.
Nếu phải đặt vô tuyến trong phòng ngủ thì phải chú ý gì về phong thủy?
Phải chú ý đầu giường và đuôi giường đều không nên đặt vô tuyến. Thầy phong thủy cho rằng đặt vô tuyến ở đầu giường hay cuối giường giống như mình đang ngủ trong một ngôi mộ, vô tuyến giống như bia mộ, rất không có lợi. Như vậy đầu giường và cuối giường đều không được đặt vô tuyến thì vị trí còn lại chỉ có hai bên giường hay mặt bên của đầu giường và cuối giường, đương nhiên khoảng cách càng xa càng tốt.
Nếu để vô tuyến ở cát vị (vị trí may mắn) thì càng tốt, điều này được suy đoán từ trị khí.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |
Bạn có thể treo các loại tranh, bày đặt đồ vật, cây hoa trang trí, đeo đồ trang sức... phù hợp với tuổi của mình để thúc đẩy vận đào hoa và hướng đến cuộc hôn nhân tốt đẹp.
![]() |
Tranh chữ Phúc |
![]() |
Tranh mục đồng cưỡi trâu |
![]() |
Tranh hoa và chim |
![]() |
Tranh mèo |
![]() |
Tranh rồng |
![]() |
Tranh rắn |
![]() |
Tường song mã |
![]() |
Tranh dê |
![]() |
Tượng con khỉ |
![]() |
Trang sức kim loại |
|
Tượng chó sứ chơi đàn |
![]() |
Lợn bông |
(Theo Bí ẩn thời vận)
Kiến thức phong thủy. Vật phẩm phong thủy không phải chỉ để bày biện cho đẹp, mỗi biểu tượng đều có ý nghĩa riêng mang lại may mắn trong cuộc sống
Vật phẩm phong thủy không phải chỉ để bày biện cho đẹp, mỗi biểu tượng đều có ý nghĩa riêng mang lại may mắn trong cuộc sống của chủ nhân. Vì vậy, trước khi tặng quà phong thủy cho người khác, bạn phải nắm rõ ý nghĩa của chúng.
Kiến thức phong thủy
1. Hoa mẫu đơn – Biểu tượng cho sự sang trọng, quý phái và hấp dẫn
Người không những mong muốn thêm người, thêm của mà còn một điều mong ước nữa thường được thể hiện trong các câu chúc tụng nhau – đó là phú quý. Vì vậy, nhiều người thích trồng hoa cảnh hoặc cắm hoa trong nhà, một số loài hoa không những được người đời ưa thích mà còn coi đó là biểu tượng của phú quý, giàu sang, ví dụ hoa mẫu đơn.
2. Vương trượng – Biểu trưng cho uy quyền
Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc – Lộc – Thọ, thì ông Lộc trong tay cũng cầm vương trượng. Đa phần, vương trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc đồng, sứ…
3. Tháp Văn Xương – Đem lại may mắn trong học tập và công việc
Tháp Văn Xương hiện là một ngôi bảo tháp hàng đầu ở phía nam Quảng Tây, Trung Quốc. Tháp thường được xây dựng theo hình bát giác, cao tầm 36 – 45m, gồm 7 tầng với mái hiên bằng gạch trồng lên nhau và nhỏ dần từ tầng dưới lên tầng trên, đỉnh tháp là một khối hình hồ lô màu đỏ. Người Trung Quốc thường đến đây để cầu đỗ đạt, thăng tiến trong học tập và công danh sự nghiệp.
Ngoài ra, họ còn có thói quen bày mô hình tháp ở vị trí Văn Xương trong nhà. Bởi theo quan niệm từ xa xưa, chùa tháp tượng trưng cho trí tuệ và pháp lực vô biên của nhà Phật nên tháp bày trong nhà sẽ có tác dụng bảo vệ và đem lại may mắn, thuận lợi trong học hành, thi cử.
4. Quả cầu Phong thủy – Giúp trí tuệ minh mẫn, cải thiện trì trệ
Quả cầu thủy tinh là biểu tượng của trí tuệ và sự may mắn. Người ta cho rằng quả cầu giúp tăng trí thông minh, công danh và tài lộc, đỗ đạt khoa bảng, cải thiện sự trì trệ và bế tắc trong công việc.
Trong vận 8, cát khí của sao Bát Bạch Thổ tinh phát ra mạnh nhất chi phối toàn bộ Tinh Bàn. Quả cầu thuỷ tinh mang cát khí của Thổ. Vì thế quả cầu thuỷ tinh là vật khí có năng lượng vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành.
5. Cá chép – Mở rộng đường khoa bảng, công danh
Truyền thuyết kể rằng, vào một năm nọ, nạn hạn hán hoành hành vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hòa cho cả nhân gian, Ngọc Hoàng thượng đế liền tổ chức một cuộc thi Rồng nhằm tuyển chọn các con vật đủ khả năng, phẩm chất làm Rồng cứu nhân độ thế. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thủy Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi.
Cuộc thi có ba kỳ, mỗi kỳ các “thí sinh” phải vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng. Và cá chép sau rất nhiều thử thách ấy đã đạt được ước vọng: hóa Rồng cứu độ nhân gian.
6. Ngựa – Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt
Ngựa là con vật rất trung thành, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, bền bỉ, may mắn và thuận lợi. Người xưa cũng thường dùng ngựa để chúc tụng nhau trong hành sự hay làm ăn, ví dụ như: “Mã đáo thành công”.
Một trong những biểu tượng ngựa phong thủy thường thấy là hình ảnh ngựa phi nước đại (hay “Lộc Mã”). Biểu tượng này tượng trưng cho sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến trong tiền tài.
Ngựa phi nước đại còn hàm ý về sự đi xa nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác lâu ngày hoặc bôn ba đây đó. Đây là một vật khí không thể thiếu cho những doanh nhân thường xuyên công tác xa nhà. Trong trường hợp này, nên đặt ngựa ở hướng Tây, Tây Bắc hoặc Đông Bắc để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này.
7. Thuyền buồm – Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió
Theo phong thủy, thuyền buồm được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Nó tượng trưng cho gió (một trong hai yếu tố quan trọng nhất của Phong Thủy – gió, nước), mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh tốt đẹp và thu được nhiều lợi nhuận. Sau biểu tượng rồng, hình ảnh thuyền buồm là biểu tượng được giới doanh nhân Trung Quốc ưa chuộng nhất.
8. Voi – Linh vật hút tài lộc số một
Voi là con vật hay giúp đỡ con người. Ngay cả trong Phật giới cũng có thờ Thần Đầu Voi. Truyền thuyết cho rằng voi được sinh ra từ các mảnh vụng tan ra của sao Dao Quang, vì thế voi được coi là loài vật vô cùng linh thiêng. Mặt khác, voi là loài vật to lớn mạnh mẽ nên nếu bày voi trong nhà, vận nhà được bình ổn, người trong nhà làm ăn thuận lợi.
Tượng voi thường được gặp ở các đền, chùa… vì voi trong phong thủy là loài vật trấn trạch rất linh thiêng
9. Ve sầu – Biểu tượng của sự bất tử và lá bùa chống lại những âm mưu
Thời xa xưa, những gia đình giàu có thường táng theo người chết một viên ngọc bích chạm khắc hình con ve sầu, đặt trên nắp áo quan mong cho người đã khuất có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới khác.
Đối với người đang sống, ve sầu được xem là một biểu tượng của cuộc sống lâu dài, hạnh phúc và tuổi trẻ bất diệt.
Căn nguyên của biểu tượng này được bắt nguồn từ truyền thuyết xưa kia. Tương truyền rằng có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè. Vì thế, loài ve sầu đã trở thành một biểu tượng cho sự trẻ trung của con người.
10. Rùa – Biểu tượng muôn đời của sự trường thọ
Rùa được các nhà khoa học chứng minh là một trong số những loài vật có tuổi thọ thuộc hàng cao nhất. Trong văn hóa Việt Nam, rùa là một linh vật được tôn trọng từ ngàn xưa. Còn riêng trong phong thủy, rùa là linh vật mang nhiều ý nghĩa nhất.
Rùa là tạo vật duy nhất trong tứ linh thật sự tồn tại và có thể dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, rùa không đơn thuần là biểu tượng của tuổi thọ mà còn của sự bảo vệ, che chở, hỗ trợ, sự sang trọng và triển vọng.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Hồ lô
Hồ lô là vật dụng chuyên dùng để đựng rượu, đựng nước, thường có hình quả bầu. Chúng ta thường thấy ông Thọ luôn đeo hồ lô trên người. Vì vậy hồ lô là biểu tượng của sự an lành và sức khỏe.
Hồ lô có tác dụng giải tỏa bệnh tật, người ta hay treo hồ lô (còn gọi là quả bầu nậm) ở đầu giường người ốm. Có thể dùng quả bầu nậm thật đã được phơi khô hoặc quả hồ lô bằng đồng.
Hồ lô được làm bằng thủy tinh, bằng đá, trong vận 8 là cát khí mang lại sức khỏe may mắn. Hồ lô treo có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ sức khỏe chống lại bệnh tật. Tốt nhất là treo ở phương vị Thiên Y.
Dùng hồ lô treo bên cạnh giường ngủ hoặc trong phòng ngủ, treo trên xe ô tô sẽ mang lại bình yên và sức khỏe cho gia chủ, tránh được rất nhiều bệnh tật. Nếu trong nhà có người mắc bệnh lâu ngày, ngoài thuốc thang chăm sóc, các nhà phong thủy khuyên nên treo 3 hồ lồ ở đầu giường người bệnh để chóng khỏe mạnh.
Hồ lô đặc biệt thích hợp dùng cho nhà có trẻ nhỏ hay quấy khóc, hay treo hồ lô bên cạnh chiếc nôi của trẻ, sẽ tránh được bệnh tật và khóc dạ đề cho trẻ. Hồ lô cũng là quà tặng đầy ý nghĩa cho những gia đình có người ốm đau hoặc có người già với hy vọng mang lại sức khỏe và trường thọ. Treo ở giường ngủ, phòng ngủ, xe ôtô…
Hồ lô đồng: Là công cụ giúp tình cảm vợ chồng thêm đằm thắm. Khi tình cảm vợ chồng nhạt nhẽo thì đặt hồ lô đồng ở đầu giường, tình cảm lại như xưa. Ngoài ra, nếu trong nhà có người hay bệnh, đặt vật này có thể hóa giải. Nhà có trẻ em và người già thì nên dùng.
Hồ lô gỗ: Nếu trong nhà có người mắc bệnh lâu ngày, treo 3 hồ lô sẽ có hiệu ứng kỳ lạ. Nếu bệnh nặng, cho 3 cái ở đầu giường người bệnh. Vật này nếu treo ở phương vị Thiên Y, giúp mọi người trong nhà khỏe mạnh, thoải mái.
Phật Di Lặc
Biểu tượng cho sự an lạc, vui vẻ, may mắn và hạnh phúc.
Quan Thế Âm Bồ Tát
Quan Thế Âm Bồ Tát dùng trong phong thủy để chế hòa hung khí. Tất cả các pháp thế gian cũng như xuất thế gian phải lấy Phật Pháp làm gốc bởi Phật Pháp chính là đạo giải thoát khỏi khổ đau.
Trong thế giới tâm linh thì đạo Phật chi phối phần lớn tư tưởng tôn giáo các quốc gia Á Đông như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam. Phật Pháp Vô Biên tức là đạo pháp của Phật có công năng mạnh mẽ trên tất thảy mọi thứ.
Trong Đạo Phật thì Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát là vị phật chuyên cứu hóa chúng sinh lầm than. Ngài có tâm nguyện từ bi lắng nghe mọi khổ đau của chứng sinh và cứu độ hết thảy, nên gọi là Quán Thế Âm – Tượng của ngài thường dùng trong phong thủy để chế hóa hung khí đem lại bình an, giải trừ tai ách cho gia chủ.
Tượng Phật Bà đứng bằng đồng thực sự là một tác phẩm điêu khắc hoàn mỹ, với tâm từ bi và pháp Phật vô biên, đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho gia chủ. Pháp khí này sau khi pháp sư khai quang chuyên dùng hóa giải sát khí của tất cả các hung tinh như sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, Ngũ Quỷ vốn đem lại tai họa và bệnh tật.
Nên dùng bày ở bàn thờ Phật, nơi trang trọng, chính giữa phòng khách. Nơi các hung tinh Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, Tam Bích, Thất Xích, Ngũ Quỷ. Tránh đặt trong bếp, trong nhà vệ sinh, nơi ẩm thấp, tối tăm đặt trong tủ, nơi ô uế sẽ phạm nghiệp bất kính sau này khó gặp được Phật pháp.
Chuông gió
Chuông gió là pháp khí vô cùng quan trọng, có tác dụng rất mạnh trong phong thủy dương trạch. Nó có tác dụng tiêu tán, hóa giải hung khí án ngữ hoặc chiếu đến vị trí nào đó trong không gian, biến hung khí thành cát khí. Đem lại sự an lành và may mắn khi căn nhà, văn phòng không may bị phạm những kiêng kị phong thủy.
Chuông gió được sử dụng rộng rãi để đánh tan khí xấu, làm tăng sinh khí nơi nó được treo. Ngoài ra, nó đem đến nhiều may mắn và xua tan những chướng ngại mà bạn gặp phải. Hãy nhớ treo chuông gió với dây vải đỏ để có được lực tác dụng mạnh nhất và nhanh nhất.
Chuông gió có thể treo ngoài nhà hay trong nhà tùy theo vị trí cần thiết. Tiếng chuông gió càng trong, càng thanh và vang xa thì càng có tác dụng tốt. Chuông gió thường làm bằng đồng hay kim loại, tuy nhiên đôỉ lúc cũng dùng những loại chuông gió làm bằng chất liệu khác cho một số trường hợp đặc biệt.
Chuông gió này thuộc hành Kim, thiết kế với 6 ống bằng đồng tượng trưng cho sao Lục Bạch thuộc Kim Khí, nên nó dùng để tiết bớt khí xấu của Thổ, nhất là sao Ngũ Hoàng chiếu đến vì Thổ sinh Kim. Ngoài ra nó cũng dùng để tiết bớt khí xấu của Hỏa vì Hỏa khắc Kim nên Hỏa bị tiết bớt khí. Trên nắp thiết kế hình hồ lô để chế lại tác hại của sao Nhị Hắc Bệnh Phù. Đồng tiền in hình Bát quái dùng để tăng cường năng lượng chống lại tà khí, đem lại nhiều may mắn và hóa giải bệnh tật.
Nên treo ở cửa bị hướng xấu hoặc cung phạm vào sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, Tam Bích, cửa phạm hướng xấu Ngũ Qủy, Họa Hại. Tránh treo ở nơi giường ngủ, nơi phòng ăn hoặc chỗ ngồi phòng khách, đặc biệt tránh dùng treo nơi có các cát tinh đóng sẽ giảm hết vượng khí, biến phúc thành họa.
Long Quy (Rùa đầu Rồng)
Đây là một loại thú lành, chuyên đem điều may mắn đến, nên thường được dùng để hóa giải tai ương. Trong phong thủy, Long Quy thường được dùng nơi có thủy khí nặng, hoặc nơi Tam sát chiếu đến. Nơi có thủy khí nặng thường phát sinh chuyện đôi co, đặt Long Quy nơi đó, ngoài việc hóa giải đôi co còn tăng thêm nhân duyên nữa.
Rùa đầu rồng có tác dụng trong việc giải trừ vận hạn trong các năm có vận 8, đặc biệt làm giảm thiểu đáng kể những điều không may mắn hoặc không thuận lợi về hướng nhà hoặc hướng công sở, bàn làm việc của bạn.
Bạn có thể đặt lên bàn làm việc hoặc vùng gần cửa chính để hóa giải hướng xấu. Bạn cũng có thể để phía sau lưng bạn tại noi làm việc, nó sẽ trợ giúp bạn trong việc nhận được sự giúp đỡ của sếp cũng như sự thăng tiến trong công việc.
Rùa bằng đồng mang hành Kim nên có tác dụng hóa giải rất mạnh tác hại của các sao Nhị Hắc, Ngũ Hoàng. Đặt trong phòng khách, trên bàn làm việc hoặc sau lưng nơi ngồi làm việc.
Nếu đặt một con rùa đầu rồng trong văn phòng, người ta tin rằng sẽ có người giúp đỡ mình trong công việc, sẽ được sếp tin dùng, công việc sẽ hết sức trôi chảy. Không những đặt ở văn phòng mà còn có thể đặt ở phòng khách, nếu đặt cả 2 nơi thì mọi việc lại càng suôn sẻ hơn.
Trúc báo bình an
Bình trong phong thủy là biểu tượng của bình an. Trúc vừa tượng trưng cho người quân tử, vừa là biểu tượng, bình an, thịnh vượng. Nên ngày xưa người ta hay trồng trúc quanh nhà là thế, vừa lấy bóng mát, giữ đất, vừa mong cầu bình an, sung túc.
Trúc báo bình an chính là dùng một cái bình đẹp cắm biểu tượng cây trúc vào đó. Đây là biểu tượng của bình an và thịnh vượng.
Hốt Như Ý
Nếu để ý trong bộ tượng Tam Đa (Phúc – Lộc – Thọ), ta sẽ thấy tượng ông Phúc trên tay có cầm một vật, vật này gọi là Hốt Như Ý. Ý nghĩa của nó cũng giống như tên gọi, thỏa mãn ước nguyện và việc gì cũng như ý. Hốt Như Ý có thể làm bằng nhiều hình tượng khác nhau, nhưng nếu làm rời một mình nó thì thường làm bằng chất liệu ngọc, đá Thạch Anh.
Khi đứng riêng một mình, Hốt Như Ý thường được trưng trên cái giá đỡ để nằm ngang, hoặc được bỏ vào trong một chiếc bình cổ quý giá, khi này nó sẽ là biểu tượng bình an như ý.
Thường thấy nhất là biểu tượng Hốt Như Ý đi kèm với các con thú lành hay Linh Thú. Như Rồng cầm Hốt Như Ý, Long Quy chở Hốt Như Ý, voi chở Hốt Như Ý. Khi đi kèm với Hốt Như Ý thì lực hóa giải hay chiêu tài, kích vượng của các linh thú cũng mạnh lên nhờ vào ý nghĩa của Hốt Như Ý.
Treo tranh hay chữ cát tường như ý
Người xưa hay treo bức tranh vẽ viên ngọc như ý và một chữ Cát, nghĩa là luôn gặp điều lành khi hành động một việc chính đáng nào đó. Có người muốn “tăng” sự cát tường lên gấp bội còn treo ngược như ý trong nhà.
Hành: ThủyLoại: Phúc TinhĐặc Tính: Khoa giáp, học hành, phú quý.Tên gọi tắt thường gặp: Khúc
Phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Văn Xương và Văn Khúc. Gọi tắt là bộ Xương Khúc.
Vị Trí Ở Các Cung
|
(Ảnh minh họa) |
Những tu sĩ phong thủy ở Singapore thường đặt 1 chiếc gương tròn bằng đồng trong căn phòng có năng lượng xấu. Gương đồng này được tăng cường bằng mật chú (mantra, những câu chú linh thiêng lặp đi lặp lại) trước khi đặt vào phòng có năng lượng xấu.
Tất cả rung động xấu sẽ bị hút vào gương và bị khử đi. Gương nên phản chiếu vùng sáng hơn là vùng tối; vùng không gian sạch hơn là vùng không gian bẩn; các bức tường hơn là ô cửa và hành lang dài.
Nếu bạn treo gương lên tường, hãy nhìn vào gương từ mọi góc cạnh để chắc chắn nó phản chiếu vùng không gian tốt.
Nếu thấy gương phản chiếu những điềm xấu như vùng không gian u tối, dơ bẩn, nhiều đồ lặt vặt thì hãy dọn dẹp vùng ngay; hoặc che phủ tấm gương để nó không phản chiếu những năng lượng xấu.
Gương nên phản chiếu những hình ảnh tươi đẹp như bãi cỏ, bông hoa, bồn nước trước cửa để mang lại năng lượng tươi mới của thiên nhiên.
(Theo Sắp xếp nhà cửa theo phong thủy)
Theo phong thủy thì cửa là miệng nạp khí nên nếu để các cửa đối diện nhau sẽ hình thành thế đôi xung, dòng khí đôi lưu lớn, mạnh, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của gia chủ bởi vậy khi thiết kế nhà ở cần tránh:
– Cửa trước đối diện với cửa sau vì như vậy sinh khí trong nhà sẽ bị tiêu tán hết, dễ gây phản gió làm người trong nhà bị ốm yếu, gây tổn hại tới sức khỏe. Khắc phục bằng cách trổ cửa sau so le với cửa trước, để khí lưu thông trong nhà từ trước ra sau dích dắc theo hình chữ S”, như vậy khí tụ trong nhà sẽ lâu hơn.
– Cửa ra vào đối diện với cửa buồng ngủ. Buồng ngủ là nơi nghỉ ngơi thư dãn, cần phải yên tĩnh, kín đáo, còn cửa chính là nơi ra vào của người trong nhà và khách tới chơi, nếu để hai cửa đối diện sẽ ảnh hưởng tới không gian yên tĩnh và người đang nghỉ ngơi. Nếu không thể bố trí lại hai cửa thì lấy vị trí giường nằm làm gốc, kê giường vào một góc khuất, sao cho từ cửa ra vào không thể nhìn ngay thấy giường. Ngoài ra, có thể thay đổi hướng mở cánh cửa, ví dụ bản lề cánh cửa ở bên trái thì đem chuyển sang bên phải hoặc cánh cửa mở vào thì đổi thành mở ra từ phía ngoài.
– Cửa ra vào đôi diện với cửa gian bếpể Nếu để hai cửa này đối diện với nhau thì tài khí lọt hết do cửa ra vào là miệng nạp khí, còn gian bếp thiên về âm khí vì lấy Hoả làm chủ. Khắc phục bằng cách kê lại vị trí lò bếp cho hướng sang phía khác.
– Cửa ra vào đối diện với cửa buồng vệ sinh vì như vậy sinh khí vào cửa chính sẽ xộc thẳng vào nơi uế khí, âm khí nặng nề, tạo nên sự đối xung giữa hai luồng khí. Để giảm bớt hoặc triệt tiêu thế đối xung này chỉ cần xê dịch hướng cửa buồng vệ sinh là được.
– Cửa buồng ngủ đối diện với cửa ra vào gian bếp. Buồng ngủ là nơi nghỉ ngơi, phải có không gian yên tĩnh, an toàn, không bị phiền nhiễu bởi nước và lửa. Do vậy, khi đun nấu, hơi nóng, khói bụi sẽ xộc thẳng vào buồng ngủ gây ô nhiễm không khí buồng ngủ, khiến chủ nhà khó chịu, đồng thời nước lửa trong gian bếp đều tiềm ẩn mối nguy hiểm. Đặc biệt là khả năng sự cố rò rỉ khí gas và cả khí than bếp, than tổ ong. Vì vậy, cần bố trí hai cửa này thật xa, để tăng độ an toàn.
– Cửa bếp đối diện với cửa buồng vệ sinh. Bếp là nơi đun nấu, chế biến đồ ăn thức uống, mà buồng vệ sinh là nơi nuôi dưỡng vi khuẩn và không khí bẩn, nếu để hai cửa này đối diện nhau sẽ ảnh hưởng tới vệ sinh, tổn hại tới sức khỏe.
![]() |
Ảnh minh họa |
Câu thành ngữ: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của hầu hết các dòng họ vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy?Khi tính từ khi nước Nam ta có Nhà nước đầu tiên cho đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn, thì điểm lại hầu hết các dòng họ vua, chúa đa phần đều phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra.
Đây được xem là vùng đất có nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà hình thành nên tính cách, phong tục của người dân nơi đây được An Nam chí lược của Lê Tắc trong phần Phong tục khen là: “Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu thì rộng rãi, có mưu trí”. Còn trong Đại Nam nhất thống chí thì bình rằng: “Sĩ tử thích văn học, giữ khí tiết, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người đẽo đá là sở trường hơn cả, ít người buôn bán”. Chính từ địa lợi, nhân hòa ấy, góp phần cho vùng đất Ái châu trở thành nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước.
Cũng vì là đất đế vương, cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt mạch đế vương. Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Núi Chiêu Bạc chính là núi Chiếu Sơn thuộc huyện Nga Sơn. Sông Bà thuộc địa giới huyện Đông Sơn, còn sông Lễ chính là sông Mã. Nhưng việc làm ấy cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi ngay sau nhà Trần thì nhà Hồ đã phát ra từ xứ Thanh rồi. Thế nên lời của sử thần Ngô Sĩ Liên quả chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu”.
Liên tiếp các triều đại vua, chúa phát tích từ đất Ái Châu mà ra, nên trong dân gian đời xưa có câu ngạn ngữ truyền đời: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh Hóa là nơi phát tích của các triều đại đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có các tôi thần giỏi giang giúp vua trị nước. Theo thống kê của tác giả, kể từ khi nước ta có vua thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn vào năm 1945 với vua Bảo Đại, thì Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, nhân kiệt từ ngàn xưa đến nay quả chẳng ngoa chút nào.
Đất của vua
Năm Mậu Thìn (248), Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó). Dù chưa lập triều nghi, nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của chiến tuyến bên kia làm vua rồi.
Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).
Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009).
520 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407).
Thời gian 1428 – 1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh (1416 - 1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533 - 1548), và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).
Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802 - 1945) do Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay), đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945).
“Nhà” của chúa
Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.
Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI - XVIII do Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy tiếng là phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Thế nên dân gian mới có câu: “Phi đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để chỉ thế lực của chúa Trịnh. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.
Chín đời chúa Nguyễn được lập nên sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau.
Không chỉ là nơi phát vua, phát chúa, Ái Châu – Thanh Hóa còn nhiều lần đóng vai trò trung tâm của đất nước khi từng giữ vị trí là đất Thần Kinh. Cụ thể là Tây Đô thời Hồ với thành An Tôn, hay Tây Giai (1400 - 1407).
Khi vua Lê Trang Tông phục quốc bên Ai Lao năm Quý Tỵ (1533), đến năm Quý Mão (1543) cũng chọn xứ Thanh để đóng làm nơi phát binh Bắc tiến đánh Thăng Long diệt Mạc. Năm Bính Ngọ (1546) thì lập điện để ở tại sách Vạn Lại, nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa tạo nên Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở Thăng Long.
Ngày nay, Thanh Hóa là một trong 63 tỉnh, thành phố của đất nước, được xếp theo vị trí địa lý là tỉnh mở đầu vùng Bắc Trung Bộ.
Nguồn: kienthuc.net.vn
thiên cơ Nam đẩu tinh . âm . mộc
1. Vị trí ở các cung:
2. Ý nghĩa tướng mạo:
3. Ý nghĩa bệnh lý:
Thiên Cơ đóng ở Tật thì hay có bệnh ngoài da hoặc tê thấp. Những bệnh điển hình gồm có:
- Cự Cơ đồng cung: bệnh tâm linh, khí huyết
4. Ý nghĩa tính tình:
a. Nếu Thiên Cơ đắc địa:
b. Nếu Thiên Cơ hãm địa:
5. Ý nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ:
a. Nếu Thiên Cơ đắc địa: thì được hưởng giàu sang và sống lâu, nhất là khi hội tụ với nhiều cát tinh.
b. Nếu Thiên Cơ hãm địa: thì lận đận, bôn ba, làm nghề thủ công độ nhật, hoặc bị tàn tật, hoặc gặp nhiều tai nạn, yểu.
6. Ý nghĩa của thiên cơ và một số sao khác:
a. Những bộ sao tốt:
- Cự Cơ ở Mão Dậu: ý nghĩa như trên nhưng nổi bật nhất ở chỗ rất giàu có, duy trì sự nghiệp bền vững
- Cơ Vũ Hồng (nữ mệnh): có tài năng về nữ công, gia chánh
- Cơ Nguyệt Đồng Lương: nếu đắc địa thì người đó có đủ đức tính của một bậc nho phong hiền triết. Nếu có sao hãm thì thường làm thư lại, công chức.
b. Những bộ sao xấu:
- Cơ Lương Thìn Tuất gặp Tuần Triệt hay sát tinh: gặp nhiều gian truân, trắc trở lớn trên đường đời, có chí và có số đi tu. Nếu gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hội họp, có Tướng xung chiếu thì là thầy tu hay võ sĩ giang hồ
- Cơ Nguyệt đồng cung ở Dần Thân gặp Xương Riêu: dâm đãng, đĩ điếm, có khiếu làm thi văn dâm tình, viết dâm thư.
7. Ý nghĩa của thiên cơ ở các cung:
a. ở Bào:
b. ở Thê:
c. ở Tử:
d. ở Tài:
e. ở Di:
f. ở Nô:
g. ở Quan:
i. ở Điền:
k. ở Phúc:
l. ở Phụ:
m. ở Hạn:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Thời gian: tổ chức vào ngày 3 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Đối tượng suy tôn: nhằm tưởng nhớ tới Lê Khôi (Chiêu Trưng Đại Vương) là một công thần thời Lê.
Nội dung: Hàng năm, cứ vào ngày mồng 1, 2, 3 tháng 5 âm lịch, tại đây có mở hội đền Chiêu Trưng. Theo người dân ở đây cho biết, trước ngày giỗ chính, thường có trận mưa rào vào buổi chiều hoặc buổi tối; có lẽ, đó là trận mưa “tắm tượng”, “ rửa đền” để nghênh đón du khách thập phương về tế lễ.
Trong phong thủy nếu trong phòng bếp nhà bạn có vòi nước máy và bếp gas đối diện hoặc nằm sát nhau (dưới 30cm), chắc chắn sẽ xuất hiện tình trạng Thủy Hỏa xung khắc. Điều này có thể dẫn đến việc gia chủ dễ gặp phải rắc rối, nguy hiểm.
Điều đặc biệt cần lưu ý là tình trạng Thủy Hỏa xung khắc không chỉ giới hạn ở vị trí đối diện hoặc kề sát nhau giữa vòi nước và bếp lò (bếp gas) hay trong phạm vi phòng bếp, nhà bếp… Tại bất cứ vị trí nào trong ngôi nhà, Thủy Hỏa xung khắc đều có thể ảnh hưởng đến tình cảm lứa đôi và hạnh phúc gia đình.
Trên quan điểm khoa học, khi xuất hiện tình trạng Thủy Hỏa xung khắc tức là những vật dụng đại diện cho Thủy và Hỏa được bố trí đối diện nhau hoặc quá gần kề nhau thì dễ xảy ra sự tiếp xúc. Chẳng hạn, nước từ vòi sẽ bắn thẳng vào bếp lò (bếp gas), gặp lửa hóa thành hơi nước. Vì bị hơi nước bao phủ nên gas không được đốt cháy hết, thậm chí làm tắt ngọn lửa, gây ra khí độc, hoặc gas sẽ thoát ra ngoài khu vực của bếp gas, dễ xảy ra cháy nổ, gây nguy hiểm cho cả không gian nhà bếp, gây ngộ độc khí gas.
Trường hợp khi lò nướng và tủ lạnh đối diện, kè sát nhau sẽ dễ xảy ra tình trạng hơi nước của tủ lạnh (Thủy) xâm nhập vào khí nóng (Hỏa) của lò nướng. Ngược lại, khí nóng của lò nướng sẽ xâm nhập vào tủ lạnh làm cho các loại thực phẩm trong tủ lạnh bị biến chất.
Khi ấy không chỉ mất an toàn, nguy hiểm cho việc sử dụng. Từ đó, sức khỏe bị ảnh hưởng, tính khí thay đổi, hay phóng đại, quan trọng hóa mọi vấn đề, dẫn đến bất đồng ý kiến, cãi cọ, tranh chấp lẫn nhau gia đình không hòa thuận. Điều đó gây nên ảnh hưởng xấu đến quan hệ tình cảm hôn nhân, gia đình.
Đồ vật có thuộc tính Thủy: vòi nước máy, tủ lạnh, máy pha cà phê.
Đồ vật có thuộc tính Hỏa: bếp lò, bếp gas, lò điện tử, lò vi sóng, lò nướng, máy nước nóng.
Các đồ vật không có thuộc tính Thủy hay Hỏa: máy sấy chén đĩa, máy rửa chén bát, máy hút khói.
Để hóa giải tình trạng Thủy Hỏa xung cũng có nhiều cách. Cách hiệu quả nhất là thay đổi tình trạng đối xứng, kề cận nhau của chúng bằng cách chuyển một trong hai cấu trúc đó sang vị trí khác, để cách xa lệch vị trí của nhau. Cũng có thể bố trí vật cố định nhằm che chắn, cách ly chúng vói nhau.
Văn Khấn Tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch) Theo phong tục dân gian Tết Hạ Nguyên được tiến hành vào ngày mồng Một hoặc mồng Mười, cũng có thể là ngày Rằm tháng 10 Âm lịch hàng năm.
Theo quan niệm của ông bà ta ngày xưa, những ngày này Thiên Đình cử thần Tam Thanh xuống trần gian để xem xét việc tốt xấu về tâu với Ngọc Hoàng. Do vậy, mọi nhà phải tiến hành làm lễ để thần Tam Thanh ban phúc lành, tránh tai họa và cũng là dịp “‘tiến tân” cơm gạo mới cúng tổ tiên.
Nhân Tết Hạ Nguyên mọi người đều mua quà và gạo nếp mới cùng những đặc sản lúc giao mùa Thu Đông biếu ông, bà, cha mẹ và những bậc được tôn kính để tỏ lòng hiếu thuận, biết ơn bề trên.
Theo phong tục từ cổ xưa, ngày tết Cơm Mới (tết Hạ Nguyên) nhà nhà đều nấu xôi gạo mới, sắm sửa hương hoa, đèn nến cùng mâm lễ mặn thơm ngon tinh khiết để cúng tổ tiên.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.
Tín chủ (chúng) con là:………………………Ngụ tại:………….
Hôm nay là ngày mồng Một (mồng Mười Rằm) tháng Mười là ngày Tết Cơm Mới, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, nấu cơm gạo mới, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.
Trộm nghĩ rằng:
Cây cao bóng mát
Quả tốt hương bay
Công tài bồi xưa những ai gây
Của quí hóa nay con cháu hưởng
Ơn Trời Đất Phật Tiên, Chư vị Tôn thần
Sau nhờ ơn Tổ tiên gây dựng, kể công tân khổ biết là bao
Đến nay con cháu dồi dào, hưởng miếng trân cam
Nay nhân mùa gặt hái
Gánh nếp tẻ đầu mùa
Nghĩ đến ơn xưa
Cày bừa vun xới,
Sửa nồi cơm mới
Kính cẩn dâng lên
Thường tiên nếm trước
Mong nhờ Tổ phước
Hòa cốc phong đăng
Thóc lúa thêm tăng
Hoa màu tươi mới
Làm ăn tiến tới
Con cháu được nhờ
Lễ tuy đơn sơ
Tỏ lòng thành kính
Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần. Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ……………, cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Theo ông Trần Ngọc Kiệm, chuyên gia phong thủy, sở dĩ có câu "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" là vì theo quan niệm dân gian, đó là ngày "Tam Nương sát". "Thượng tuần sơ Tam dữ sơ Thất (đầu tháng ngày 3, ngày 7), trung tuần Thập tam Thập bát dương (giữa tháng ngày 13, 18), hạ tuần Chấp nhị dữ Chấp thất (cuối tháng ngày 22, 27", đó là những ngày được cho là xuất hành hoặc khởi sự đều vất vả, không được việc.
Ngoài ra, người Việt Nam cũng có quan niệm cho rằng, vào những ngày đó, Ngọc Hoàng sai 3 cô gái xinh đẹp (Tam nương) xuống hạ giới để làm mê muội và thử lòng con người. Nếu ai gặp phải sẽ bị các cô làm cho bỏ bê công việc, đam mê tửu sắc, cờ bạc... Đồng thời, đó cũng là một lời nhắc nhở con cháu nên làm chủ trong mọi hoàn cảnh, chịu khó học tập, cần cù làm việc.
Còn các ngày 5, 14, 23 lại được cho là ngày Nguyệt kỵ. Các ngày này cộng lại đều bằng 5, dân gian thường gọi là ngày "nửa đời, nửa đoạn" nên làm gì cũng chỉ giữa chừng, khó đạt được mục tiêu.
Ông Kiệm cũng cho biết thêm, phi tinh trong cửu cung bát quái gồm có nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử. Trong số cửu tinh này thì sao ngũ hoàng (thuộc trung cung) được cho là xấu nhất, vận sao ngũ hoàng bay tới đâu mang họa tới đó. Cứ theo phi tinh 9 cung lại quay trở về ngũ hoàng.
Đặc biệt nhất là ngày 5 tháng 5 (trùng lặp Ngũ hoàng thổ), người ta thường nói "nen nét như rắn mùng 5". Vào ngày này rắn không ra khỏi mà bởi vì thời gian đó phương lực ly tâm từ Trái Đất kết hợp với lực hấp dẫn từ Mặt Trăng, hướng tâm từ Mặt Trời và vũ trụ không bình thường gây cho rắn run sợ, ù tai, hoa mắt không dám ra ngoài. Tương truyền ai chặt được đầu rắn mùng 5 ra đường sẽ gặp nhiều may mắn.
Còn ông Vũ Quốc Trung lại lý giải ở một góc độ khác. Ông Trung cho rằng, số 3, 7 trong câu "Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba" chỉ là một sự ước lệ, ám chỉ những ngày lẻ. Bởi quan niệm truyền thống cho rằng, con số lẻ là những con số đơn độc, còn số chẵn mới là số có đôi có cặp. Do đó, làm việc gì cũng nên tránh sự đơn độc thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Còn số 5, 14, 23 là số chỉ dành cho vua chúa. "Có thể xuất phát từ việc không muốn dân thường dùng chung ngày với mình nên các bậc vua chúa mới đặt ra câu nói ấy".
Quan niệm truyền thống cho rằng, con số lẻ là những con số đơn độc, còn số chẵn mới là số có đôi có cặp. Do đó, làm việc gì cũng nên tránh sự đơn độc thì khả năng thành công sẽ cao hơn.
Không nên quá câu nệ
Mặc dù lý giải những ngày Tam nương, Nguyệt kỵ là xấu song theo ông Trần Ngọc Kiệm, trong khoa Chiêm tinh học thì những ngày này không được cho là quan trọng so với các sao chính tinh và ngày kiêng kỵ khác gồm: Sát chủ, Thụ tử, Trùng tang, Trùng phục, Không sàng, Không phòng, Thiên tai địa họa, Trời nghiêng đất lở, Hoang ốc, Thiên hình hắc đạo... "Tuy nhiên, dân gian vẫn quan niệm "có thờ có thiêng", do đó nhiều người vẫn kiêng kỵ đi xa, làm việc lớn vào những ngày đó. Đó là đức tin của họ", ông nói.
Ông Vũ Quốc Trung cũng nhấn mạnh: "Cho đến nay vẫn chưa có ai kiểm chứng đây là những ngày xui xẻo, đó chỉ đơn thuần xuất phát từ quan niệm của dân gian, cứ người này truyền cho người khác mới tạo thành như thế. Việc kiêng kỵ này cũng là một liệu pháp để mọi người có động lực, niềm tin, yên tâm vào công việc đang làm, sẽ làm. Tuy nhiên, không nên lệ thuộc quá nhiều sẽ gây hỏng việc, đồng thời sa đà vào những trò mê tín dị đoan".
xem ngay, xem ngay tot xau
Thời trước có một thanh niên danh sĩ tên là Hứa Doãn, cưới người con gái họ Nguyễn về làm vợ . Nguyễn thị vốn giòng dõi thư hương, thuở nhỏ được ăn học nên rất giỏi văn học, nhưng thân hình thật là quê kệch, xấu xí chỉ được mỗi bộ phận tuyệt đẹp là Mũi. Mũi cô này vưà đẹp lại vừa phối hợp với lưỡng quyền. Trái lại, với nhan sắc thuộc loại Chung Vô Diệm của vợ, Hứa Doãn vừa học giỏi, vừa đẹp trai, chỉ có mỗi một khuyết điểm là cái Mũi không mấy thanh nhã, vì vừa thấp lại vừa nhỏ không tương xứng với các bộ vị khác của khuôn mặt.
Thời xưa người ta thường có lệ hứa hôn ngay từ thuở lọt lòng và việc ả chồng lấy vợ cho con cái tùy thuộc hoàn toàn vào cha mẹ đôi bên. Hai họ Nguyễn và Hứa quen nhau từ lâu lắm, nhưng bên đàn trai thấy gái họ Nguyễn qúa xấu xí đã hơi chán, nên trước khi quyết định chung cuộc có nên xem ngày tốt để làm lễ thành hôn hay không đã nhờ một nhà tướng thuật nổi tiếng đến quan sát kỹ càng diện mạo cô dâu tương lai. Thầy tướng quan sát xong nói cho cha mẹ Hứa Doãn biết rằng cô con gái đó có tướng giúp đỡ, phò tá chồng một cách đắc lực cả trong lẫn ngoài. Nghe lời qủa quyết của thầy tướng, họ Hứa yên tâm cử hành hôn lễ cho đôi trẻ.
Theo tập quán, nam nữ thọ thọ bất thân thời đó, Hứa Doãn và Nguyễn thị chỉ biết tiếng đồn về nhau chứ chưa từng được gặp mặt hay có dịp chuyện trò. Sau khi thành hôn, Hứa Doãn thấy vợ thật là xấu xí, còn mình thì đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu, bèn tự nghĩ là con gái họ Nguyễn lấy được mình là phúc lớn lắm rồi. Nhớ lại lời thầy tướng nói là phải nhờ có cô gái xấu xí kia chăn dắt, giúp đõ mình mới mong thành đạt được, Hứa Doãn rất lấy làm hoài nghi, không biết ông ta căn cứ vào đâu mà dám nói như vậy.
Do đó, một hôm trong chốn phòng the, Hứa Doãn mới hỏi vợ rằng : “Tôi nghe thầy tướng nói mình có tướng dạy được chồng, mình có tin như thế không ?”. (Nguyên là chữ “Tướng” phu chi tướng có nghĩa là dẫn dắt, điều khiển chồng hầu đạt đến thành công. Nói rộng ra là chồng phải nhờ có tay vợ mới nên người)
Ngày xưa, vợ rất trọng chồng nên nghe chồng hỏi như vậy, Nguyễn thị tủm tỉm cười đáp rằng:
--“Thiếp không tin rằng mình lại có tướng dạy chồng, nhưng thiếp tin chắc rằng mình là kẻ có phúc”. Hứa Doãn hỏi : “Mình có phúc gì ?” Nguyễn thị đáp: “Thiếp có cái phúc trời ban là khiến chồng”. Người chồng nghe thấy hai chữ “khiến chồng” lấy làm thắc mắc bèn hỏi : “Khiến chồng là gì ?” Vợ đáp : “Ðó là khiến cho chồng yêu mình, nể mình, khiến cho chồng phú quý vinh hoa. Một cô gái xấu xí như thiếp nếu trời không ban cho phúc đó thì làm sao sánh duyên với người tài mạo như chàng.”
Dẫu không biết tướng học, nhưng là kẻ lanh lợi, học thức nên nghe vợ đối đáp một cách thông minh như vậy, Hứa Doãn thấy quả nàng cũng có điểm khiến cho mình tâm phục. Tuy nhiên, vì vẫn chưa giải được nghi ngờ nên Hứa Doãn hỏi tiếp :
-- “Mình có nghe thấy ông thầy tướng nói quý tướng của mình ở chỗ nào không ? Cái quý tướng đó có phải là ở chỗ mắt đẹp, mũi tốt không ? Có phải trời sinh ra toàn thân xấu xí là qúy tướng khiến cho chồng phải yêu chiều mình không ? Hoặc giả quý tướng đó là cái gì khác nữa chăng ?”
Nguyễn thị thấy rằng qua những điều chồng thắc mắc rõ ràng là chàng ta không ưng ý về dung mạo của mình nhưng không dám tỏ vẻ bất bình chỉ nhỏ nhẹ đáp lại :
-- “Thiếp có nghe thầy tướng nói, thiếp cũng tự biết là mình không được xinh đẹp nhưng thiếp có một điểm tướng rất tốt đó là Phu tinh cực tốt.”
-- “Phu tinh ? Phu tinh của mình chính là tôi, giữa cái đó và diện mạo của mình có quan hệ gì ?”
-- “Thầy tướng nói rằng : Mũi là cung thê của đàn ông, là cung phu, chủ về người chồng của đàn bà. Ông ta nói trong Ngũ quan của thiếp hầu hết đều không tốt, nhưng Mũi lại cực tốt, ngay thẳng, cao, mập, lỗ Mũi không lộ cho nên mới gọi là phụ tình cực tốt. Bây giờ quả là đúng. Hiện giờ chàng chẳng phải là Phụ tình của thiếp hay sao ? Sách tướng có câu : “Coi tướng đàn bà không cần coi mệnh của họ, chỉ cần coi Phụ tình của họ” cho nên muốn biết số kiếp thiếp tốt hay xấu chỉ cần coi cách đối xử của chàng đối với thiếp tốt xấu ra sao là đủ.”
Nghe vợ nói đến Mũi, Hứa Doãn tiện tay lấy gương soi mặt để quan sát chính khuôn mặt của mình thấy Mũi tuy khá thẳng nhưng lỗ Mũi hơi lộ và sơn căn nhỏ, thấp so với vợ thì kém xa lắm, bèn quay sang nói với vợ :
-- “Nếu nói như mình, thì Mũi của mình mới được xem là tốt thì quả là Mũi tôi không tốt bằng Mũi của mình phải không? Như thế thì tôi cần phải nương dựa vào mình chứ gì ?”
Nói xong, Hứa Doãn tỏ vẻ bực dọc và không tin rằng mình tướng cách lại thua vợ vì thấy rõ là vợ xấu xí còn mình vừa đẹp trai vừa học giỏi.
Người vợ thấy chồng không hiểu rõ bèn tủm tỉm cười nói rằng:
--“Thiếp thấy chàng cái gì cũng sáng suốt thế mà đối với phép xem tướng chàng có một điểm hết sức tối tăm chẳng thông minh chút nào cả !”
Hứa Doãn nói :
-- “Tại sao lại tối tăm? Tôi dựa theo điều mình nói cả mà. Mình nói rằng mũi của mình tốt như thế này thế nọ, còn Mũi tôi so với Mũi mình không tốt bằng, như thế có gì gọi là không thông minh?”
Vợ đáp:
--“Chàng không thông minh chính là ở điểm đó. Thiếp đã chẳng từng nói rõ là thầy tướng nói rằng Mũi của vợ chính là ngôi sao chủ về chồng, còn Mũi của chồng chính là ngôi sao chủ về vợ. Mũi thiếp cực tốt nghĩa là chồng thiếp sẽ là một văn nhân tài mạo song toàn, được hưỡng vinh hoa phú quý, còn Mũi chàng không được hoàn toàn tốt đẹp có nghĩa là cung thê của chàng không được hoàn toàn. Nói khác đi là thiếp xấu xí, vô tài. Thực tế quả là đúng như vậy, cho nên chàng đừng thắc mắc bực mình vì cả chỉ thêm vô ích.”
Sau lời bàn luận với vợ về tướng học, Hứa Doãn cảm thấy vợ mình không còn là một cô gái đáng chê một cách ghê gớm như trước vì Doãn thấy vợ là người thông minh, hiền thục. Hơn nữa vợ xấu là bởi cái Mũi của mình không được đẹp, cái đó là số mạng tiền định, đâu phải vô lỗi của nàng. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nghĩ như vậy, nên trong lòng không còn ấm ức và đối với vợ, mối hảo cảm ngày càng một gia tăng. Càng chung sống với nhau lâu ngày, Hứa Doãn càng thấy vợ mình quả là có tướng làm xếp mình thật.
Một hôm, hai vợ chồng đàm luận về việc vợ chồng hổ tương phối hợp, Hứa Doãn hỏi vợ:
--“Ðàn bà có tứ đúc là công, dung, ngôn, hạnh. Mình tự xét xem có được mấy đức?”
Nguyễn thị nghe hỏi biết ngay là chồng nhạo báng mình xấu xí nên đáp lại:
--“Ðàn bà có bốn đức thì thiếp đây chỉ thiếu có một đức về dung mạo không được xinh đẹp mà thôi. Nhưng xấu đẹp là do trời xếp đặt chẳng phải cha mẹ hay bản thân muốn mà được, nên việc thiếu sót về dung mạo không phải tội lỗi của thiếp và cũng chẳng lấy thế làm nhục.”
Hứa Doãn nói:
--“Ðàn bà phải có đủ tứ đức thì mới gọi là hoàn toàn. Thế mà mình thiếu mất một đức tức là chỉ được ¾ , có phải vậy không?”
Vợ đáp:
--“Ðúng vậy, nhân vô thập toàn. Thiếp được tới ¾ đức tính của phụ nữ, cũng đã được kể là nhiều rồi chứ quả là không được hoàn toàn đầy đủ.”
Doãn nói:
--“Nhưng mà tôi lại thích người đàn bà đẹp vì vậy cần phải có người vợ đầy đủ tứ đức mới hoàn toàn thỏa nguyện. Mình nghĩ xem, nguyện vọng của tôi như vậy có đúng không? Có nên có tư tưởng đó không?”
Nghe chồng nói như vậy, Nguyễn thị nhịn hết nổi, nàng nhận thấy chồng kêu ngạo, vô lễ, không còn giữ được truyền thống “tương kính như tân” của kẻ sĩ. Nàng tự nhủ, cần phải cho anh chàng kêu ngạo, háo sắc này một bài học đạo lý để anh ta bớt lố lăng, bởi thế nàng bèn đáp:
--“Ðúng, chàng nói đúng, nghĩ đúng, nguyện vọng cũng chính đáng luôn nhưng chàng cũng nên tự xét xem mình có phải là người hoàn toàn hay, hoàn toàn tốt không đã ?”
Nghe vợ vặn lại, Hứa Doãn có vẻ không được vui, nhưng ý đã quyết răn chồng, Nguyễn thị giả bộ như không thấy, lại tiếp tục hỏi bồi thêm:
--“Ðàn bà có tứ đức, thiếp tự biết mình thiếu một đức. Vậy xin phép được hỏi chàng là kẻ sĩ có cả trăm nết tốt, chẳng hay chàng có được bao nhiêu nết?”
Hứa Doãn vênh váo đáp ngay tức khắc:
--“Ta đây có đủ trăm nết.”
Vợ hỏi thêm:
--“Chàng cho phép thiếp hỏi thêm một câu nữa được chăng?”
Hứa Doãn đáp:
--“Ðưọc lắm chứ! Mình có gì cứ việc nói ra ngay đi”
Lúc đó, Nguyễn thị mới thủng thỉnh nói:
--“Trong trăm nết tốt của kẻ sĩ thì đúc độ là nết tốt đứng đầu, trong muôn ngàn nết xấu thì dâm xếp vào số một. Vậy mà giờ đây chàng nói ra miệng là rất trọng đàn bà có sắc đẹp, chứng tỏ rằng chàng là kẻ rất háo sắc. Như thế rất là tai hại cho nết tốt số một trong 100 nết rồi thì làm sao có thể nói là mình có đủ cả trăm đức tính cần thiết của kẻ sĩ ? Thiếp chỉ khuyết có phần dung mạo là phần phụ thuộc nên chỉ dám nhận là mình chỉ có ¾ đức tính đàn bà, chứ không dám nói là mình có đủ nết na. Nay chàng thiếu mất ngay cái nết số một của kẻ sĩ thì chẳng hiểu trong số 100 nết hay đó chàng còn thiếu những gì nữa ?”
Nghe vợ nói đến đây thì Hứa Doãn chết điếng, đúng ngay như bị trời trồng, vô phưong chống chế. Từ đó hết sức nể nang vợ và gần như thần phục bà vợ vậy.
Theo truyền thuyết còn lưu lại thì trong lúc thầy tướng khuyên cha mẹ Hứa Doãn hãy cưới kỳ được con gái họ Nguyễn cho con trai mình, nếu muốn cho Hứa Doãn nên người, vì cô con gái đó có tướng “Tướng phu chi tướng”, nhiều bà con bên trai đều nghi hoặc cho là đứa con gái xấu xí như ma lem lấy được trai họ Hứa là có phúc rồi chứ làm gì lại mang phúc đến cho chồng. Bị gạn hỏi qúa gắt, thầy tướng buộc phải giải thích. : “Ngôi sao vợ của Hứa Doãn đã không đẹp mà cái tính Hứa Doãn lại là đứa thiếu niên háo sắc, nếu lấy một người con gái bình thường thì sau khi cưới vợ rồi sẽ không dứt được thói trăng hoa, khiến cho gia đình sinh tai tiếng hoặc mình bị mang vạ đào hoa. Nếu phối hợp với con gái họ Nguyễn là kẻ có bản lỉnh, đủ sức kềm hãm chồng, không cho sa đọa vào con đường hư hỏng thì hắn mới nên người và gia đình mới có hạnh phúc.”
Trích "Nhân Tướng Học" của Hy Trương
► Đoán vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc tự xem chỉ tay |
![]() |
Ảnh minh họa |
Không chỉ đóng góp vào ý nghĩa phong thủy mà việc nhận đúng loại và đủ ánh sáng rất quan trọng đối với sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc của mỗi người.
Trong nhà, ánh sáng trời rất quan trọng nhưng chất lượng của nó thay đổi trong ngày tùy theo hướng nhà.
Ánh sáng có thể phản chiếu trên các bề mặt nhãn bóng hoặc được lọc qua màn cửa, bức rèm bằng lưới hoặc vải mỏng, kính mờ hoặc kính màu.
Ngoài ánh sáng tự nhiên còn có ánh sáng nhân tạo được dùng chủ yếu trong đời sống hằng ngày.
Trong các phòng mà chúng ta sinh hoạt nhiều, ví dụ nhà bếp, văn phòng hay phòng xưởng, và những khu vực cần sự an toàn, như cầu thang, thì ánh sáng trực tiếp là cần thiết.
Ở những phòng dùng để nghỉ ngơi, như phòng khách và phòng ngủ, chúng ta có thể dùng ánh sáng dịu hơn – loại phản chiếu lại hoặc khuyếch tán.
Chất lượng của ánh sáng không thể bị xem nhẹ
Để nhấn mạnh ánh sáng cho những nơi đặc biệt như bức tranh, bàn giấy hoặc thớt, nên dùng các loại đèn thích hợp.
Vị trí đèn ảnh hưởng sâu sắc đến người sống trong nhà.
Nếu chỗ chúng ta đọc sách hoặc làm bếp mà bị bóng che, hoặc đèn lúc sáng lúc tắt, hoặc ánh sáng chói lóa trên màn hình tivi hay máy tính, chúng ta sẽ liên tục bị khó chịu.
Thứ ánh sáng chói mắt cũng ảnh hưởng không tốt lên tâm trạng chúng ta.
Chất lượng của ánh sáng không thể bị xem nhẹ.
Loại bóng đèn tròn thường thấy phát ra thứ ánh sáng nghiêng về dải đỏ quang phổ, thiếu sắc xanh. Ánh sáng đèn huỳnh quang thì nghiêng về hướng ngược lại; nó phóng ra trường điện từ cao hơn các nguồn sáng khác và hiện tượng nhấp nháy của nó có thể gây triệu chứng đau đầu.
Việc sản xuất năng lượng làm tiêu hao tài nguyên thiên nhiên của thế giới. Những ánh sáng chế nhằm giảm bớt tình trạng này gần đây có việc chế ra bóng đèn huỳnh quang, đây là loại đèn có tuổi thọ cao hơn.
Theo Việt Tuấn