Mơ thấy vũ hội hóa trang: Dự báo dịp may bất ngờ –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chùa An Đà có tên chữ là Linh Quang tự, nhưng do trong địa phương có hai ngôi chùa tên chữ trùng nhau nên để không nhầm lẫn, người dân quen gọi chùa ở phố Cấm là Linh Quang Cấm và chùa ở phố An Đà là Linh Quang An Đà. Chùa nằm trong khu vực phường Đằng Giang, Q. Ngô Quyền, TP.Hải Phòng. Chùa An Đà được trụ trì bởi Sư thầy Thích Đàm Kiên.
Chùa An Đà tọa lạc trên khuôn viên đất 10.000m2. Năm 1974, Sư cụ trụ trì Thích Đàm Hằng khởi công đại trùng tu. Sư thầy Thích Đàm Kiên kế tiếp trụ trì, đến năm 2004 chùa mới khánh lạc. Chùa có lối kiến trúc chữ công, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian ống muống, 3 gian hậu liêu, mái chồng diêm đao tầu chéo góc phần trang trí hoa tiết long triều phượng mớm, đậm đà văn hóa dân tộc.
Đây là một quần thể các công trình gồm: Chánh điện với các bức tượng Phật uy nghiêm cùng với các bao lam và hoành phi rực rỡ; nhà Tổ và giảng đường với những cây cột gỗ gụ, gỗ lim đen nháy, kế đến là nhà khách, khi bước vào gặp câu đối:
Người phàm có chí tu được siêu phàm nhập Thánh, Phật nguyệt độ chúng sinh dụng tâm niệm Phật thành Phật
Trong Chùa An Đà tất cả vườn tháp, bảo tháp Đức Quan Thế Âm đều nằm trong khuôn viên mở rộng khang trang cùng với mặt tiền chùa có hồ An Biên thoáng mát, tạo nên cảnh quan hài hòa. Hiện nay chư Ni của chùa có 13 vị. Trong sinh hoạt, hàng tháng chùa An Đà tổ chức một lần thọ Bát quan trai với hơn 200 Phật tử tham dự. Hàng năm nơi đây là điểm mở trường hạ của TP.Hải Phòng.
Chùa An Đà được báo chí và du lịch đánh giá là ngôi chùa đẹp ở Hải Phòng và trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với chư Tăng Ni, Phật tử và du khách khi đến thành phố Cảng.
1. Tháp Văn Xương
Trong phong thủy, tháp Văn Xương có tác dụng hỗ trợ rất tốt về phương diện học hành, thi cử cũng như công việc, sự nghiệp.![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem phong thủy để tiến hành mọi việc đều thuận lợi |
Nghệ sỹ Xuân Hinh có nói: " Còn nhỏ thì sợ mẹ sợ cha, lớn lên sợ vợ, về già sợ con ". Nếu con cái bất hiếu, không được nhờ vả về già thì thật bất hạnh. Mức độ hòa hợp giữa tuổi cha mẹ và con cái có ảnh hưởng, liên quan tới nhau thật hay không? Trên cơ sở, nghiệm lý, quan sát tỉ mỷ trong thực tiễn Ngô Bạch đã thống kê mức độ hòa hợp và bất hòa hợp giữa tuổi cha mẹ và con cái. Trên cơ sở đó, có thể vận dụng linh hoạt để xây dựng một gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh...
Con cái tuổi Tý: Luôn xảy ra xung đột, tranh cãi
Con cái tuổi Sửu: Không hòa hợp, tuy con cái vẫn hiếu thuận
Con cái tuổi Dần: Cha mẹ nên để con cái tự chủ, tự do phát triển
Con cái tuổi Mão: Cha mẹ ít có thời gian chăm sóc con cái
Con cái tuổi Thìn: Gia đình hòa thuận, yên ấm
Con cái tuổi Tị: Con cái luôn có ý bất mãn
Con cái tuổi Ngọ: Đôi bên cùng hiểu thấu, tông cảm lẫn nhau
Con cái tuổi Mùi: Quan hệ đôi bên rất tốt
Con cái tuổi Thân: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Dậu: Con cái có ý bất mãn
Con cái tuổi Tuất: Con cái thường tự lo cho mình
Con cái tuổi Hợi: Quan hệ giữa hai thế hệ khá tốt đẹp
Con cái tuổi Tý: Luôn xung khắc, khó hòa hợp
Con cái tuổi Sửu: Có khoảng cách lớn giữa hai thế hệ
Con cái tuổi Dần: Con cái có ý bất mãn
Con cái tuổi Mão: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Thìn: Gia đình hạnh phúc
Con cái tuổi Tị: Cha mẹ có thể hy sinh tất cả vì con
Con cái tuổi Ngọ: Hai thế hệ gắn bó, quan hệ rất tốt
Con cái tuổi Mùi: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Thân: Quan hệ rất tốt, thường xuyên giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và cuộc sống
Con cái tuổi Dậu: Hai bên khó dung hòa bởi quan niệm sống rất khác nhau
Con cái tuổi Tuất: Con cái có xu hướng muốn sớm thoát ly khỏi gia đình
Con cái tuổi Hợi: Con cái hiếu thảo, luôn luôn gánh vác trọng trách trọng yếu trong gia đình.
Con cái tuổi Tý: Quan hệ hai thế hệ rất tốt đẹp
Con cái tuổi Sửu: Đôi bên có sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc, nên gia đạo rất hài hòa
Con cái tuổi Dần: Khó hòa thuận, luôn xung khắc và hay xảy ra cãi vã
Con cái tuổi Mão: Gia đình hạnh phúc yên vui
Con cái tuổi Thìn: Gia đình ấm êm, con cái hiển đạt
Con cái tuổi Tị: Con cái sớm trưởng thành và giúp đỡ nhiều cho cha mẹ
Con cái tuổi Ngọ: Rất khó hòa hợp
Con cái tuổi Mùi: Con cái luôn tin tưởng, và noi theo tấm gương của cha mẹ
Con cái tuổi Thân: Mọi người trong gia đình đều được quyết định chung
Con cái tuổi Dậu: Con cái luôn bất mãn
Con cái tuổi Tuất: Luôn xung khắc, rất khó hòa hợp
Con cái tuổi Hợi: Cha mẹ luôn cưng chiều, bảo vệ che chở cho con cái
Bói tên coi cái và tên vợ chồng xem ý nghĩa của tên những người trong gia đình bạn.
Con cái tuổi Tý: Khó hòa hợp, luôn bất đồng ý kiến
Con cái tuổi Sửu: Con cái có thể giúp đỡ hiệu quả đối với sự nghiệp của cha mẹ
Con cái tuổi Dần: Con cái luôn chống đối với cha mẹ, bất đồng quan điểm, ý kiến luôn
Con cái tuổi Mão: Con cái ngang bướng, không nghe lời cha mẹ
Con cái tuổi Thìn: Quan hệ rất tốt, trong ấm ngoài êm
Con cái tuổi Tị: Con cái luôn tranh cãi với cha mẹ
Con cái tuổi Ngọ: Thế hệ trẻ trong gia đình muốn sớm thoát ly khỏi gia đình
Con cái tuổi Mùi: Con cái bất hiếu, khiến cha mẹ thất vọng
Con cái tuổi Thân: Cha mẹ luôn tự hào về con cái
Con cái tuổi Dậu: Gia đình bất ổn, lúc nào cũng có việc để tranh cãi
Con cái tuổi Tuất: Cha mẹ không hiểu được con cái mình
Con cái tuổi Hợi: Con cái chỉ biết làm theo ý mình
Con cái tuổi Tý: Cha mẹ không có nhiều thời gian chăm sóc con cái
Con cái tuổi Sửu: Khó hòa thuận với nhau
Con cái tuổi Dần: Rất tốt, cha mẹ hy sinh tất cả cho con
Con cái tuổi Mão: Gia đình hòa thuận, êm ấm
Con cái tuổi Thìn: Con cãi bất mãn vì cha mẹ quá nghiêm khắc trong việc dạy dỗ
Con cái tuổi mùi: Khó hòa hợp với nhau
Con cái tuổi Thân: Gia đình thiếu bầu không khí thuận hòa, yên vui
Con cái tuổi Dậu: Con cái ngang bướng, không nghe lời cha mẹ
Con cái tuổi Tuất: Con cái hiếu thảo
Con cái tuổi Hợi: Gia đình yên ấm, an bình
Con cái tuổi Tý: Quan hệ rất tốt
Con cái tuổi Sửu: Cha mẹ rất cưng chiều và kỳ vọng ở thế hệ sau
Con cái tuổi Dần: Gia đình thuận hòa
Con cái tuổi Mão: Quan hệ tốt, nhưng con cái có chí hướng riêng, không hướng về gia đình
Con cái tuổi Thìn: Cha mẹ cưng chiều con cái, con cái cũng giỏi giang làm cha mẹ vẻ vang, rạng rỡ
Con cái tuổi Tị: Con cái hay làm phiền lòng, trái ý bề trên
Con cái tuổi Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình, khiến cha mẹ buồn phiền, thất vọng
Con cái tuổi Mùi: Đôi bên cùng thấu hiểu, quan tâm, chăm sóc vun đắp gia đình hạnh phúc
Con cái tuổi Thân: Con cái thông minh, tài giỏi
Con cái tuổi Dậu: Con cái được chăm sóc tốt, và được cưng chiều
Con cái tuổi Tuất: Cha mẹ vì con mà làm tất cả
Con cái tuổi Hợi: Hai thế hệ rất gắn bó, chia sẻ, quan tâm đối với nhau hài hòa, chứa chan tình cảm
Xem thêm Xem tuổi con và xem tuổi cha mẹ có hợp nhau hay không?
Ngô Bạch
Nốt ruồi là những dấu chấm có màu sắc đen, nâu, xanh hay đỏ hồng (nốt ruồi son), nổi trên toàn thân người, còn không nổi mà bằng phẳng có những màu đen xám, xanh vàng, to gấp nhiều lần nốt ruồi gọi là bớt.
Theo khoa học phân tích:
– Nốt ruồi màu nâu, đen là do những tế bào có sắc tố tập trung lớp ngoài da tạo nên.
– Nốt ruồi xanh do những tế bào sắc tố dưới lớp chân lông tạo thành.
– Nốt ruồi đỏ hồng do những vi huyết quản phình lên mà có, là những chấm nhỏ màu đỏ, thường xuất hiện nhiều ở vùng ngực, trên da mặt.
Chúng ta có thể tẩy dễ dàng những nốt ruồi màu nâu, đen vì ở ngoài da. Còn màu xanh hay đỏ, nếu tẩy sẽ gây ra những vết thẹo nhỏ.
Nhiều người vì mê tín mà đem tẩy những nốt ruồi to xuất hiện trên khuôn mặt, nhưng không hiểu tính chất của từng loại nốt ruồi đâm làm tổn thương đến chính bản thân. Trong tướng pháp nói rằng:
– Con người sinh ra những nốt ruồi như núi sinh ra cây cỏ, đất nổi đồi gò. Núi đẹp thì cây đẹp, đất xấu thì gò đồi xaasu xí. Nên người có tốt chất đẹp thì sẽ sinh ra những nốt ruồi đẹp đẽ, duyên dáng, còn có tố chất xấu thì nốt ruồi biểu hiện tính chất xấu của nó.
Cho nên những cái xấu phải ẩn nơi kín đáo, không để lộ và đôi khi trở thành nốt ruồi ẩn tướng, mọi người khó có thể suy đoán ra tính tình, cốt cách. Còn những nốt ruồi son mà ẩn thuộc quý tướng. Nốt ruồi đen mà lộ quá nhiều là điềm hung, ẩn nơi kín đáo là kiết. Mọc trên mặt nhiều là hại bất cập lợi; nốt ruồi đen thì phải thật đen tránh màu nâu hay xám tro, còn nốt ruồi son phải đỏ như chu sa mới tốt.
Đen pha đỏ là nâu, chủ về người thích tranh cãi, biện luận; pha trắng thành màu xám tro, chủ về tai nạn, bệnh tật; pha màu vàng ra xanh đục, chủ về đãng trí.
Sách “Thần tướng toàn biên” khi nói về nốt ruồi:
– Mọc ở đầu và mắt: mọc ngay giữa trán là chủ phú quý, gần thiên đình là cực quý. Trên trán có 7 nốt ruồi đen là chủ đại phú, đại quý. Mọc ngay Thiên trung thì hại cha, ngay Aasns đường là hại mẹ, ở Tư không thì hại cả cha lẫn mẹ.
– Mọc hai bên vành tai là chủ về trí tuệ, thông minh, trong tai là chủ sống thọ, nếu bên tai trái chủ về tiền của.
– Mọc ở khóe mắt làm tướng lục lâm thảo khấu, trên con mắt mọc nhiều là khốn khổ, dưới con mắt là có lộc bất ngờ, trong lông mày chủ về công danh, phú quý.
– Mọc ở Sơn căn chủ về nghiệp binh đao “sinh nghề tử nghiệp”; mọc bên mũi đau khổ đẫm lê, trên sóng mũi suốt đời truân chuyên, trì trệ; ở chuẩn đầu mũi đề phòng chết vì súng đạn, gươm đao.
– Mọc ở Nhơn trung dễ cưới vợ lấy chồng giàu sang, bên mép miệng khó giữ được của cải, mất địa vị, Trên môi chủ về lộc ăn, dưới môi là phá của. Trên lưỡi là hay loạn ngôn…
Trong tướng pháp cho rằng, nốt ruồi mọc trên thân thể con người được chia làm ba phần:
Một ở đầu và mặt, hai ở chân tay và ba ở hai phần trên dưới hạ bộ.
Về phần đầu và mặt lại chia ra những vùng nhỏ phức tạp, như cùng với tóc, nốt ruồi mọc trong tóc là ẩn, chủ về giàu sang phú quý, trường thọ, càng lên đỉnh đầu càng quý tướng. Trên trán có “thất tinh” chủ về đại phú, đại quý…
Đây là phần quan trọng, chủ yếu trong cách xem nốt ruồi, còn tay chân không quan trọng, chỉ nên thêm phần trên dưới hạ bộ, tức từ rún (rốn) trở xuống bẹn là cần xem.
Những nốt ruồi mọc trên thân thể (hình 1):
– Toàn thân mỗi người thường hiện ra những nốt ruồi nhỏ, trong đó biểu hiện nốt ruồi son là tốt, còn đen tùy theo điểm mọc mới biết cát hung. Nốt ruồi ẩn là tốt, lộ ra là bình thường. Nốt ruồi càng to thì càng thể hiện tính cách trong cuộc sống; nốt ruồi càng rõ ràng là sự khẳng định, còn mờ nhạt là không chắc chắn trong dự đoán. Thông thường nốt ruồi chỉ mọc thêm chứ ít khi lặn, nếu phá đi chưa phải đã giải được hạn.
37 loại nốt ruồi được giải thích sau đây chỉ đại diện cho hàng trăm nốt ruồi mọc trên thân thể:
Hình 1 bao gồm những nốt ruồi chủ yếu, nếu nằm lệch hay sai vị trí chừng 5 ly, hoặc đối nhau mà không có số chú giải được xem như có cùng một tên:
– Số 1: Nốt ruồi có tên Trung tinh đình (trán bên phải), có quyền thế, tài lộc trên đường cong danh sự nghiệp, sống lâu, gặp tai ương cũng vượt qua.
– Số 2: Tả trung đình (trán bên trái), sống không sung sướng, thường dang dở về tình yêu và trong hạnh phúc gia đình gặp bế tắt.
– Số 3: Hoạt sào (trên mí mắt bên trái), là nốt ruồi báo cho biết tâm lý thường hay đa cảm, đa sầu. Nhưng đường tình cảm thường bộc lộ ra mặt.
– Số 4: Trung Thiên (ngay giữa trán), người chịu sửa chữa, phục thiện sau khi gây ra lỗi lầm.
– Số 5: Dõng La (trên mí mắt bên phải), thường bi lụy trước hoàn cảnh bi ai của người khác, và cũng thường tự tủi thân một mình.
– Số 6: Tâm Hảo (dưới mắt bên trái), chịu đau khổ một mình, không muốn tâm sự cho ai biết.
– Số 7: La Thiên (dưới mép miệng trái), người có duyên ăn nói, nhưng lại kín đáo trong bộc lộ tình cảm.
– Số 8: Nguyệt Lão (trên vai trái), rất long đong lận đận về tình duyên, gia đạo. Nhưng sợi dây tơ hồng đã buột đành chấp nhận khổ đau.
– Số 9: Hoa Sơn (gò má trái), có số chết bất đắc kỳ tử, tính tình bí hiểm không bộc lộ cho người khác biết.
– Số 10: Tuyệt Luân (bên mép trái), có đường sát phu thê, tâm tính lại nhẹ dạ tin người.
– Số 11: Tả Phân (tay trái cận nách), thường trở thành “Trai cô gái quá” sớm, nên đường tình duyên gặp trắc trở cho đến chết.
– Số 12: Trung Phận (gần cổ tay trái), có nhiều tham vọng, thường “đứng núi này trông núi nọ”, tính tình thích đua đòi, và thích hưởng thụ.
– Số 13: Hạ Phận (trên mu bàn tay trái), có tính bạc tình bạc nghĩa, sống lãng mạn, nhưng làm ra của cải vật chất cũng nhiều.
– Số 14: Trung Sơn (bên ngực sát vú trái), đẻ con nhiều nhưng vẫn sầu đau về đường gia đạo.
– Số 15: Đỉnh Sơn (trên ngực trái), thay chồng đổi vợ dễ như thay áo.
– Số 16: Hoa Tý (bên hông trái), con người chịu luồn cúi nịnh hót để đạt mục đích (theo dạng Hàn Tín), nhưng trong tình cảm lại ít bộc lộ cho đối tượng biết.
– Số 17: Hiền Mẫu (nằm ở vòng eo trái), tính tình hiền lành, chung thủy trong đời sống vợ chồng.
– Số 18: Trung Vĩ (ngay rún) có tính bảo thủ, hay đố kỵ người hơn mình, cuộc sống gian nan cực khổ.
– Số 19: Hạ Hôn (trên bẹn trái), hay ghen tuông, lãng mạn, có đời sống tình dục mạnh mẽ.
– Số 20: Hoan Du (dưới bẹn trái), người can đảm, thích khẩu chiến, hay nói lý lẽ.
– Số 21: Đãng Dục (ngay bộ phận sinh dục), người này thường vui say hưởng thụ thú xác thịt. Nốt ruồi son nằm trong da quy đầu lại sinh con quý tử.
– Số 22: Thiều Manh (nơi đầu gối trái), hay gặp tai nạn, có người bị thành tật.
– Số 23 và 25: Hạ Giới (trên cổ chân trái và chân phải), thích đi xa, phiêu lưu mạo hiểm.
– Số 24: Lầu Xanh (trên mu bàn tay trái), tâm hồn trác táng, buông thả, cuối đời thân thể bệ rạc.
– Số 26: Hoàn Dục (nơi đầu gối phải), thường không may mắn trên đường công danh, sự nghiệp.
– Số 27: Vĩ Trung (dưới bẹn bên phải), thường hay đau ốm, tình cảm trở nên khô khan.
– Số 28: Hoại phu thê (ngay ức), có số đưa vợ hay chồng vào đường lẫm lỗi.
– Số 29: Ngữu Vĩ (bên hông phải), phụ nữ sinh đẻ gặp khó khăn, đàn ông gặp hiếm muộn.
– Số 30: Trung Hòa (bên ngực gần vú phải), người có nốt ruồi này chật vật mới đủ sống, bôn ba không qua thời nốt ruồi này.
– Số 31: Xuất Thể (trên mu bàn tay phải), thường lo sợ viễn vông, nên có lúc như người mất định hướng.
– Số 32: Hạ Phận (dưới khủy tay phải), hay gắt gỏng, tính tình bất nhất.
– Số 33: Trung Phận (trên khủy tay phải), tình cảm vợ chồng như tạm bợ sống nhờ vào nhau, cho nên gia đình không có hạnh phúc.
– Số 34: Hữu Phận (trên vai bên phải), người đa tình, tính tình lã lơi cợt nhã với người khác phái.
– Số 35: Bạc Hào (bên mép miệng phải), luôn nghĩ đến tiền và danh phận hơn tình cảm.
– Số 36: Thiên Căn (gò má phải), người hiền hậu nhưng không may mắn trong cuộc sống.
– Số 37: Hậu Vĩ (dưới mắt bên phải), tâm sự đa đoan, thường phải khóc thầm.
Như đã nói 37 nốt ruồi trên đây chưa đại diện đủ tính chất của mọi dự báo, về các điềm bí ẩn trên thân thể, như chỉ trên khuôn mặt đã có ít nhất trên 40 nốt ruồi khác nhau xuất hiện.
Nốt ruồi trên mặt ĐÀN ÔNG:
Hình 2 cho thấy trên khuôn mặt một người đàn ông thường hiện ra khoảng 41 nốt ruồi tại những nơi sau:
1- Hại cha mẹ, 2. Thích làm quan, 3- Làm quan to, 4- Chết vì tai nạn, 5- Không hợp nghề võ, 6- Số mất của, 7- Cuộc sống đầy phiền não, 8- Đi sông biển hãy coi chừng, 9- Mọi sự hanh thông, 10- Chuyện làm ăn hay gặp thất bại.
11- Quý tướng, 12- Giàu có, 13- Có địa vị, 14- Không nên đi sông biển, 15- Không tốt, 16- Tán tài, 17- Sát thê, 18- Ít con, 19- Hay tủi thân, 20 Mất cha.
21- Khổ vì vợ, 22- Mê cờ bạc nên tự hại mình, 23- Điềm con cái mất trước cha, 24- Tuyệt tự, 25- Ít con cái, 26- Xảo quyệt, 27- Thường gặp tai nạn, 28- Khi chết xa quê hương, 29- Không nên nuôi thú vật, 30- Ách giữa đàng mang vào cổ.
31- Gặp tai nạn từ sông nước, 32- Có của hoạnh tài, 33- Thông minh, lanh lẹ, 34- Thường rượu chè say sưa, 35- Gặp chuyện tốt đẹp, 36- Người hiền lành, 37- Số làm quan to (nếu ẩn dưới cằm), 38 – 39 – 40 và 41 đều tốt mọi sự (nếu nốt ruồi son, hay ẩn được hưởng phúc đức ba đời).
Nốt ruồi trên mặt PHỤ NỮ:
Hình 3 là một khuôn mặt một phụ nữ, có 43 nốt ruồi được diễn giải như sau:
1- Số làm mệnh phu, 2- thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ, 3- Hại cha mẹ, 4- Không người phục dịch, 5- Có từ hai đời chồng, sanh con ít, 6- Hại người thân, 7, 15, 19, 27, 37- Hại chồng, 8- Chết xa nhà, 9- Bị chồng phụ tình bỏ rơi, 10- Sanh khó.
11- Có tài lộc, 12- Chồng thường xa nhà, 13, 17- Vượng phu ích tử, 14- Số có “thiên la địa võng” giăng coi chừng tù tội, 16- Tay làm hàm nhai, 18- Được nhờ con, 20- Sống thọ.
21- Bị cướp giật nhiều lần, 22- Gặp nhiều việc tốt, 23- Tính lăn loàn, 24- Sanh ít con, 25- Mới sinh ra thường hay bệnh, 26- Mọi việc thất bại, 28- Số sát phu, tình duyên lận đận, 29- Hiếu thảo với cha mẹ, hay giúp đỡ anh chị em, 30- Biết nhường nhịn chồng con.
31- Có tư tửng tự tử, 32- Hay ganh tỵ với kẻ khác, 33, 41- Đề phòng tai nạn đường sông nước, 34- Có số sinh đôi, sinh ba, 35- Có hư thai, 36- Tai tiếng thị phi, 38- Đày đọa đầy tớ vì ghen tuông, 39- Gặp tai nạn tại nhà, 40- Hay bệnh hoạn, 42- Sát phu và 43- Khôn vặt.
Địa điểm các nốt ruồi mọc còn rất nhiều nơi trên thân thể, các sách cổ tướng học có ghi:
– Lưu Bang (nhà tiền Hán) có đến 72 nốt ruồi đen mọc nơi đùi trái, nên từ kẻ thất học trở thành Hoàng đế nước Trung Hoa sau thời kỳ Tần Thủy Hoàng.
– Tướng An Lộc Sơn thời nhà Đường, dưới lòng bàn chân đều có nốt ruồi đen. Trở thành tướng tài nhưng cũng lụy vì tình mà chết dưới chân Dương Quý Phi.
– Võ Tắc Thien hậu Chu, người phụ nữ đầu tiên của nước Trung Hoa, nắm giang sơn xã tắc trong nhiều năm dài là nhờ có 7 nốt ruồi son mọc bên sườn trái (có sách nói bên vú trái).
Có một số nốt ruồi mọc nhưng trong sách tướng pháp ít không nói đến, tuy vậy các nhà tướng số vẫn đưa ra những lời giải thích:
Nốt ruồi mọc ở Cao Quảng số hại cha mẹ; ở Phụ giác, Kiếp môn, Hồ giác chủ về chết trận, chết vì gươm đao, tên bay đạn lạc; ở Biên địa, Xích dương, Ngư vĩ chủ về chết đường chết chợ; ở Sơn lâm, Thanh lộ đi đường bị súc vật làm tổn hại thân thể; ở Thái dương chủ về số có chồng hay vợ chung thủy, giàu sang; ở Phu tòa, Thuê tòa chồng hay vợ chết sớm; ở trưởng nam, trunng nam và thứ nam cha mẹ khắc con trưởng, con thứ; ở Kim quỹ gặp tán gia bại sản; ở Thượng mộ mất chức quyền; ở Học đường là người thất học; ở Mạng môn chủ về hỏa tai đề phòng cháy nổ v.v…
1.Hội Làng Trung Kính
Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: thôn Trung Kính, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh quốc vương Đại Thần - Hùng Công, tên thật là Hùng Nộn (thời vua Hùng).
Nội dung: Hội làng Trung Kính có cả phần lễ và phần hội. Phần lễ cúng lợn giống đen tuyền; phần hội có các hoạt động như: hát ca trù, vật, bắt vịt trong ao, đi cầu treo, tổ tôm điếm, thi thổi cơm.
2.Hội Làng Bát Tràng
Thời gian: tổ chức từ ngày 14 tới ngày 16 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: Đình làng Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Hán Cao Tổ và Lữ Hậu, Cai O Minh Chính tự Đại Vương, phan đại tướng, Hồ Quốc Thần, Bạch Mã thần.
Nội dung: Hội làng Bát Tràng gồm có lễ rước nước, tắm bài vị, rước bài vị ra đình tế. Lễ dâng thành hoàng là một con trâu tơ béo, thui vàng, đặt cả con lên một chiếc bàn lớn, kèm theo sáu mâm cỗ và 4 mâm xôi. Sau khi lễ xong, phẩm vật được hạ xuống cho cả họ hưởng lộc. Ngoài ra hội còn có cuộc thi sáng tác ca trù để dùng làm hát thờ.
3. Hội Đình Bảng
Thời gian: tổ chức từ ngày 14 tới ngày 15 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: Đình làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thần Núi, Thần Nước, Thần Trồng Trọt và sáu nhân thần có công dựng lại làng sau cuộc tàn phá quân Minh.
Nội dung: Lễ hội Đình Bảng có các hoạt đồng nhằm tế thần; các trò chơi dân gian gồm có: đấu vật, chọi gà.
4. Hội Đền Quan Lớn Thần Tranh
Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm:Thị Trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương.
Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh thần sông.
Nội dung: Hội đền quan lớn Thần Tranh thường diễn ra trên đồng, lễ hầu bóng, hát chầu văn.
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự |
![]() |
Ảnh minh họa |
Màu hồng là màu phái sinh khác của màu đỏ, cũng rất tốt cho phòng ngủ của người mệnh Thổ vì màu hồng là màu của tình yêu, đam mê, lãng mạn.
Nó kích thích tình yêu, hôn nhân của gia chủ luôn nồng nàn, dồi dào năng lượng. Màu hồng đem lại nguồn năng lượng yêu thương rất dồi dào. Không gian hành Thổ là không gian của các gam màu trầm tối gần với màu của đất, mang ý nghĩa trường tồn, màu của thời gian. Người mệnh thổ nên chọn giấy dán tường tông trầm ấm nếu muốn có cảm giác được che chở.
Tuy nhiên, quá nhiều màu tối sẽ khiến không gian trở nên nặng nề, đặc biệt không thích hợp với người năng động, tính cách hướng ngoại. Bởi vì, không phải tất cả người mệnh thổ đều trầm ngâm, hoài cổ. Ở trong không gian màu sắc của hành thổ tăng cường sự tập trung tư tưởng, ý chí, sự bền bỉ..
Chất liệu tạo nên phòng ngủ tốt cho người mệnh Thổ nên bắt nguồn từ đất như gạch, gốm, sứ, đất nung… Người mệnh Thổ nên chọn giường làm bằng kim loại, kim loại bắt nguồn từ đất, lại rất thời thượng. Người mệnh Thổ không nên nằm ngủ giường gỗ do gỗ thuộc Mộc, dễ gây tổn hại về sức khỏe.
Theo quan niệm phong thủy dựa trên ngũ hành và màu sắc, hành Thổ có màu vàng. Vì thế, những người mệnh Thổ nên lựa chọn màu vàng. Một số nền văn hóa cổ xưa tôn sùng màu vàng. Màu vàng là màu của sức mạnh, quyền năng, duy trì sự sống, trường thọ và huyền bí, tỏa ra niềm vui nên khi trang trí phòng màu vàng sẽ toát ra niềm lạc quan, yêu đời.
Cả màu vàng và màu đỏ đều là màu kích thích sự thành tựu. Màu vàng góp phần tích cực vào trạng thái tinh thần giúp người mệnh Thổ dễ dàng tạo ra thành công, những điều tốt lành trong cuộc sống. Màu cam là sự phối hợp giữa màu đỏ và màu vàng mang lại điềm lành, hưởng cuộc sống yên vui, nhiều quyền hành cho người mệnh Thổ. Trong phòng ngủ sử dụng những màu hợp với hành Thổ, cuộc sống và sự nghiệp của người mệnh Thổ sẽ thuận lợi và phát triển về lâu dài.
Màu cam còn được gọi là ‘màu xã hội’ bởi nó tạo năng lượng thúc đẩy các mối quan hệ xã hội. Màu cam nên sử dụng cho nhà hoặc căn phòng hướng Nam để đem lại sự nổi tiếng và danh vọng, còn đối với hướng Đông Nam sẽ có tác dụng tương trợ về tình yêu và hôn nhân. Tuy nhiên, màu đỏ và màu cam chỉ nên dùng ở mức vừa phải trong phòng ngủ bởi tông màu này mang nhiều tính âm.
Màu nâu tượng trưng cho rừng thẳm tạo cảm giác có phần nặng nề, phù hợp với người mệnh Thổ muốn tăng cường sự kiên định, không dễ thay đổi. Màu nâu thường dành cho người cao tuổi, toát nên vẻ thanh nhã, lịch sự.
Màu xám đối với người mệnh Thổ là biểu hiện của sự khởi đầu, nhiều niềm tin, hy vọng vào cuộc sống tốt đẹp.
Sự kết hợp của màu vàng và nâu đem lại cảm giác an toàn, được bao bọc, che chở. Hai màu này kết hợp với nhau thúc đẩy những mối quan hệ phát triển lành mạnh.
ợng yêu thương rất dồi dào. Không gian hành Thổ là không gian của các gam màu trầm tối gần với màu của đất, mang ý nghĩa trường tồn, màu của thời gian. Người mệnh thổ nên chọn giấy dán tường tông trầm ấm nếu muốn có cảm giác được che chở.
Tuy nhiên, quá nhiều màu tối sẽ khiến không gian trở nên nặng nề, đặc biệt không thích hợp với người năng động, tính cách hướng ngoại. Bởi vì, không phải tất cả người mệnh thổ đều trầm ngâm, hoài cổ. Ở trong không gian màu sắc của hành thổ tăng cường sự tập trung tư tưởng, ý chí, sự bền bỉ..
Chất liệu tạo nên phòng ngủ tốt cho người mệnh Thổ nên bắt nguồn từ đất như gạch, gốm, sứ, đất nung… Người mệnh Thổ nên chọn giường làm bằng kim loại, kim loại bắt nguồn từ đất, lại rất thời thượng. Người mệnh Thổ không nên nằm ngủ giường gỗ do gỗ thuộc Mộc, dễ gây tổn hại về sức khỏe.
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Hóa Khoa là dương thủy, hóa khí là tiếng tăm, chưởng quản văn chương, chủ về thanh danh. Sao Hóa Khoa có hàm ý mở rộng là tâm tính vui vẻ, hiển lộ là mức độ nổi tiếng, có thể cụ thể hóa thanh danh, thành tích học tập và thi cử.
Sao Hóa Khoa thủ cung thân, cung mệnh, chủ về thông minh mẫn tiệp, tài năng hơn người, tính tình hòa nhã dễ gần gũi, có thanh danh. Nếu gặp sao Hóa Lộc, Hóa Quyền, sẽ là người hiển quý và địa vị cao. Nếu gặp hung tinh, tuy không được hiển quý nhưng cũng có tài văn chương. Nếu sao Văn Xương, Hóa Khoa ắt trở thành bậc thầy mẫu mực.
Tương tự như sao Hóa lộc, sao Hóa Khoa không có khả năng đề kháng sao Hóa Kị, nếu không được cát tinh trợ giúp, thì vất vả gian lao mà không thành tựu. Nếu được cát tinh phù trợ thì có thành tựu cũng khó tránh khỏi gian nan và trắc trở. Sao Hóa Khoa cũng không sợ gặp phải các sao không vong như Triệt Không, Tuần Không, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về phù phiếm không thực, có tài mà không gặp thời, cô đơn khổ cực không nơi nương tựa.
Hai sao Văn Xương, Văn Khúc nếu Hóa Khoa gặp thêm Thiên khôi, Thiên Việt, thì lợi về đường thi cử, thăng quan tiến chức, hiển quý.
Sao Hóa Khoa tốt nhất nên đồng cung với các sao, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Tử Vi, Thiên Cơ, Cự Môn, Thiên Đồng, Thái Âm, Vũ Khúc, chủ về khai sáng sự nghiệp, nhưng nữ mệnh cần đề phòng ảnh hưởng tới chuyện hôn nhân.
Sao Hóa Khoa nhập miếu tại cung Sửu (không sợ sát tinh); vượng tại cung Ngọ, Thân (không sợ sát tinh); vượng tại hai cung Ngọ, Thân (không sợ sát tinh); đắc địa tại ba cung Thìn, Tuất, Mão (là phúc sợ sát tinh); lợi ba cung Dần, Tỵ, Mùi (phúc đến chậm, sợ sát tinh); bình hòa tại hai cung Hợi và Tý; không đắc địa tại cung dậu. Khi đồng cung với Triệt Không, Tuần Không, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Thái Dương, Thái Âm, là lạc hãm.
-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.
-Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.
Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng
Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.
Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.
Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.
Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.
VDTT phỏng dịch và chú thích
Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.
Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.
Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.
Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.
Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.
Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.
Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?
1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.
2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.
Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?
“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.
Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.
Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.
Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.
Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.
Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.
Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.
Giải thích các đại vận
Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.
Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).
Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?
Định nghĩa vài thuật ngữ:
Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…
Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.
Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.
Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.
Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!
Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.
Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.
Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.
Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.
Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.
Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.
Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.
Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.
Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.
Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.
Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!
Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.
Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.
Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.
Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).
Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?
Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.
Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.
Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)
Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).
Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.
Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.
Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.
Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.
Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.
Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.
Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.
Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.
Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.
Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.
Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?
Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?
Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.
Các hạn về sau:
Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.
Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).
Lời kết:
Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:
Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.
Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.
Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.
Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.
Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.
Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.
Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.
Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.
Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.
Thông thường, công việc làm ăn của nhà hàng, quán bar được phản ánh ban đầu qua việc quan sát quầy thu ngân. Vì thế, quầy phải được đặt tại vị trí tụ tài, nơi tĩnh, không động, không bị xung.
Quầy thu ngân là nơi thu tiền về cho nhà hàng nên theo phong thủy, cần đặt ở bên cửa Bạch Hổ, là bên tĩnh.
Bên Bạch Hổ là bên phải khi theo hướng từ trong nhà hàng đi ra. Quầy ở bên tay phải thì sẽ nắm giữ được tiền. Không nên thiết kế quầy bên cửa Thanh Long, tức bên trái vì mang tính lưu động.
Thực ra, thiết kế như vậy cũng là dựa trên sự phù hợp với thói quen đi lại. Bởi, khi bước vào nhà hàng, khách thường có thói quen đi bên phải. Vì vậy, cửa Thanh Long phù hợp với lối đi vào của hầu hết mọi người. Tương tự, khi từ trong nhà hàng ra, theo thói quen, khách sẽ đi bên cửa Bạch Hổ.
Để đảm bảo các yếu tố về mặt phong thủy, khi thiết kế quầy thu ngân bạn cần chú ý:
– Phía sau quầy thu ngân phải có tường ngăn, không để có lối đi lại.
– Nếu nhà hàng, quán bar thiết kế tường bằng kính thì nên dùng rèm cửa hoặc tấm trang trí che khuất mặt kính.
– Độ cao của quầy nên ở tầm trung bình; nếu cao quá sẽ làm cho nhân viên thu ngân có cảm giác quá tầm với; nếu thấp quá sẽ tạo cảm giác không an toàn. Độ cao phù hợp từ 110 – 120cm hoặc 107cm, 108cm hoặc chọn độ cao 126cm.
– Bên trong quầy thu ngân không được để các thiết bị điện như: lò điện, bình đun cà phê…
– Két để tiền và vật có giá trị phải đặt nơi kín đáo để tránh bị lộ tài.
Từ xưa, việc hai nhà có cửa đối diện nhau được coi là không tốt về phong thủy
Dân gian quan niệm rằng: “Trong một ngôi nhà, cửa sổ đại diện cho con mắt còn cửa chính đại diện cho cái miệng của con người”.
Có 2 trường hợp cửa đối cửa
Thứ nhất là cửa đối cửa trong nội thất nhà
Thứ hai là cửa nhà mình đối diện với cửa nhà người ta
Trường hợp 1: Cửa đối cửa trong chính ngôi nhà của mình
Ảnh hưởng : Hai vợ chồng chủ nhà khó tránh khỏi tình trạng thường xuyên bất hòa, tranh cãi với nhau.
Phong thủy học gọi đây là tình trạng “đấu khẩu sát”, tức là do loại khí trường xấu (còn gọi là sát khí) gây ra. Sát khí gây nên cảnh bất hòa, tranh chấp, đôi co, mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là giữa hai vợ chồng chủ nhà.
Sát khí lớn nhất mà cấu trúc “cửa đối cửa” gây nên là làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ tình cảm giữa chủ nhân của hai gian phòng ấy.
Nếu như đối diện với phòng ngủ là phòng kho, phòng thay đồ… tức là những không gian không thường xuyên có người sống trong đó thì sát khí sẽ ảnh hưởng đến chủ nhân của phòng ngủ ấy.
Còn nếu như đối diện với phòng ngủ là phòng vệ sinh, phòng bếp hoặc thậm chí là cửa chính của ngôi nhà thì ngoài việc xảy ra những ảnh hưởng thường gặp do “sát khí cửa đối cửa” gây nên như nêu trên thì nó còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sức khỏe của chủ nhân ngôi nhà ấy.
– Đối diện cửa phòng ngủ của cha mẹ hoặc thư phòng: Ảnh hưởng dến mối quan hệ giữa hai vợ chồng hoặc với cha mẹ phía vợ hoặc có những bất hòa về mặt tình cảm với cha mẹ ruột của mình.
Cửa phòng ngủ và cửa chính cũng không nên đối diện nhau.
– Đối diện cửa phòng ngủ của con cái hoặc thư phòng: Có những bất hòa trong quan hệ tình cảm với con cái. Con cái hay cãi lại, không chịu nghe lời, khó dạy bảo, quản lý.
– Đối diện cửa phòng kho hoặc phòng thay quần áo: Xích mích xảy ra trong quan hệ tình cảm vợ chồng, hay cãi vã, đôi co không ai nhường ai, chiến tranh lạnh.
– Đối diện cửa phòng bếp: Bất hòa, xích mích xảy giữa hai vợ chồng, tình cảm sứt mẻ, sức khỏe bị ảnh hưởng..
Đa số mọi người gọi tình huống này là phạm vào môn xung sát. Phạm vào “môn xung sát” chịu ảnh hưởng trực tiếp sẽ là người trong gia đình, gặp nhiều chuyện thị phi, mọi người rất dễ vì những chuyện nhỏ như “cây kim trong cọng chỉ” mà phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn. Nghiêm trọng hơn là nảy sinh những mối bất hòa với những người khác trong công việc, mâu thuẫn với đồng nghiệp, với cấp trên…
Nhưng, môn đối môn sẽ không gây ra vấn đề quá nghiêm trọng, trừ khi cửa chính vốn đã bị xung với một hành lang thẳng và dài, cộng thêm cửa đối diện cửa, khi đó mới thật là vấn đề đáng nói.
Cách hóa giải khi cửa đối diện cửa trong một ngôi nhà
Cách hóa giải trường hợp này Để hóa giải sát khí do cấu trúc “cửa đối cửa” gây nên thì biện pháp cơ bản nhất là chỉnh sửa vị trí của một trong hai cánh cửa ấy để chúng không còn đối diện với nhau nữa. Chú ý là cánh cửa mở ở vị trí mới cần có kích thước đúng tiêu chuẩn và không trùng với kích thước của cánh cửa kia.
Nếu vì một lý do nào đó mà biện pháp hóa giải căn bản ấy chưa thể thực hiện được thì có thể dùng biện pháp hóa giải tạm thời bằng cách treo ở hai cánh cửa đối diện nhau ấy những bức rèm vải hoặc những bức mành sáo bằng các vật liệu nhẹ, trang nhã và không gây tiếng động ồn ào.
2 .Cách hóa giải khi cửa đối diện cửa nhà hàng xóm
“Kinh Lỗ Ban” ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ”. Nhưng ngày nay, thành phố chật hẹp, người đông, nhiều nhà cao tầng chuyện đối cửa khó tránh khỏi, nếu phạm vào điều kiêng kỵ này thì sẽ hóa giải bằng cách nào?
Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi.
Tuy nhiên, việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
Ngoài ra, nếu không thể đảo cửa thì nên lấy bình phong (bằng gỗ, tủ kệ hay thậm chí là chậu cây) làm giải pháp che chắn hữu hiệu. Nên xem xét lại việc gắn mảng lớn kính thuỷ lên đầu cửa, lên tường ngoài nhà như một số người vẫn làm để “phản khí”, vì gương có thể gây chói mắt và mang nhiều tính đối chọi.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
![]() |
Độ dài các đốt của ngón cái
Yếu tố đầu tiên cần quan sát là ngón cái. Cụ thể hơn là quan sát đốt trên và dưới của ngón cái. Đốt trên tượng trưng cho “ham muốn” và đốt dưới tượng trưng cho “lý trí”.
Nếu đốt trên dài hơn đốt dưới, đây là kiểu phụ nữ có ham muốn rất mạnh mẽ. Cô nàng này thích kiểm soát và quyết định mọi chuyện.
Tính cách này thoạt đầu có thể khiến “chuyện ấy” hấp dẫn hơn, tuy nhiên, về lâu dài sẽ khiến bạn cảm thấy khó chịu. Suy cho cùng, bạn phải ép bản thân mình chiều lòng nàng dù không muốn.
Trong khi đó, nếu đốt dưới dài hơn, trước mặt bạn là một người phụ nữ luôn hành động theo lý trí. Nhược điểm của cô nàng này là thiếu sự liều lĩnh. Điều mà bạn thấy hài hước và thú vị có thể sẽ bị nàng cho là phi lý hoặc ngớ ngẩn.
Đầu ngón tay
Sau khi đã khám phá “ham muốn” và “lý trí” của nàng, mục tiêu tiếp theo chính là hình dạng của đầu ngón tay. Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung, cách phân loại đơn giản nhất là đầu ngón tay nhọn và vuông.
Đầu ngón tay nhọn cho biết bạn đang gặp gỡ một cô nàng mơ mộng, luôn nhìn thế giới bằng màu hồng. Nàng biết thưởng thức cái đẹp và luôn giữ thái độ lạc quan với mọi chuyện. Kiểu phụ nữ này thường không có dự tính lâu dài cho tương lai và muốn tìm kiếm một người đàn ông có cùng tư tưởng sống với mình.
Ngược lại, đầu ngón tay vuông là một dấu hiệu rõ nét cho thấy nàng thuộc mẫu phụ nữ thực tế. Đừng cố chơi trò “mèo vờn chuột” với họ. Ngoài ra, những chiêu trò lãng mạn với nàng cũng chỉ là một sự nhạt nhẽo và lố bịch.
Đường chỉ tay
Đường trái tim (đường nằm ngang cao nhất) tiết lộ chiều sâu cảm xúc và ham muốn tình dục của một người. Phụ nữ với đường trái tim dài và đậm có xu hướng trải nghiệm những cung bậc cảm xúc cao nhất của “yêu” và “hận”, trong khi người có đường trái tim ngắn hoặc gãy lại biết cách kiểm soát cảm xúc của mình và kiềm chế tình cảm rất tốt.
Người với đường trái tim ngắn và thẳng có ham muốn tình dục cao và đặc biệt hứng thú với “tình một đêm”, thay vì gắn bó với một mối quan hệ lâu dài.
Cảm giác khi chạm vào bàn tay
Yếu tố cuối cùng cần để tâm chính là cảm giác khi chạm vào bàn tay của nàng. Có hai loại cảm giác chính là mềm mại và thô ráp.
Bàn tay mềm mại cho biết trước mặt bạn là một tín đồ của nghệ thuật. Nói đến đây chắc hẳn trong đầu bạn đang nghĩ có thể lấy lòng nàng bằng một bữa tối lãng mạn và một bộ phim tình cảm đằm thắm. Tuy nhiên, sự thật là cô nàng sẽ ấn tượng hơn với một chuyến đi tham quan quanh viện bảo tàng, nhất là những viện bảo tàng đẹp. Để chiều lòng mẫu phụ nữ này, đàn ông phải có tính sáng tạo cao.
Nếu bàn tay bạn đang chạm vào cho cảm giác thô ráp, bạn cần phải tiếp cận nàng một cách thận trọng. Đây là kiểu phụ nữ có cá tính hết sức mạnh mẽ. Khi yêu, họ sẽ yêu hết mình, yêu điên cuồng nhưng đến lúc tức giận cũng sẽ hết sức khủng khiếp.
Ngoài ra, bạn sẽ thấy cô nàng thiếu sự khéo léo, tinh tế trong cách cư xử, thậm chí khiến bạn suốt ngày phải lạy trời mong cô ấy đừng thẳng tính quá như vậy. Nhìn chung, sự thẳng thắn, trung thực của cô nàng sẽ khiến bạn choáng ngợp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Theo Phật giáo, nghiệp là những việc con người đã làm trong quá khứ và hiện tại, sẽ ảnh hưởng tới tương lai. Gieo nghiệp nào thì gặt “quả báo” ấy.
Chúng ta thường quan niệm rằng gieo nghiệp nào sẽ gặt quả ấy. Những việc tốt của con người trong quá khứ và hiện tại sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến tương lai. Vì vậy, bạn nên tránh 7 điều sau để không bị quả báo.
1. Bất hiếu với cha mẹ
Với Phật giáo, bất hiếu với cha mẹ mà tội lỗi lớn nhất. Cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục, công ơn như trời biển. Nếu ngay cả cha mẹ còn không hiếu lễ, kính trọng, đền đáp thì không thể đối tốt với bất cứ ai. Có lễ mà không trả, có tình mà không báo là nghiệp ác nặng.
2. Tham dâm háo sắc
Nghiệp ác tham dâm háo sắc xuất phát từ nhục dục của con người. Con người hơn con vật ở chỗ điều khiển, chế ngự được bản năng. Vì nhu cầu bản thân mà tổn hại sức khỏe, vi phạm đạo đức, gây hại cho người khác và xã hội là không đúng.
3. Nói láo hại người
Lời nói như dao hai lưỡi, nói điều hay lẽ phải là tốt cho mình, cho người, nói điều bậy bạ, dối trá là hại mình, hại người, gây xung đột. Thường xuyên bịa đặt để hại người khác là ác nghiệp. Thậm chí nói dối, nói sai sự thật tuy không gây hậu họa nghiêm trọng nhưng cũng vẫn sẽ gặp quả báo.
4. Thường xuyên sát sinh
Phật dạy rằng, mỗi loài trên đời đều có sinh mệnh. Sinh mệnh loài nào cũng đáng quý, đáng trân trọng. Tước đoạt sinh mệnh của loài khác là gieo nghiệp ác, đi ngược lại sự sinh sôi của tự nhiên và lòng không có thiện niệm.
5. Keo kiệt, ít từ thiện
Người sống không có lòng từ bi, chia sẻ, chỉ bo bo cho mình cũng là tạo nghiệp ác. Người này nhất định không thể tạo được nhân duyên tốt đẹp, không gặp niềm vui, không biết đến tình thương và tình đồng loại.
6. Kiêu căng, tự mãn
Người không khiêm tốn thì không rộng lượng, không biết nhìn nhận cái hay cái dở, cái được cái mất trên đời. Người kiêu căng dễ sinh lòng đố kị, khinh bạc, thậm chí thù ghét người khác, là nghiệp ác nên tránh.
7. Trộm cắp
Nghiệp ác này làm tiêu hao nhiều phúc đức của bản thân, lấy của người thì người lại lấy của mình. Chiếm đoạt của người khác là gieo nghiệp ác, gây tranh chấp, thù hằn, vi phạm đạo đức và pháp luật.
Linh tính của các vĩ nhân
Nhà thơ Nga Lermontov (1814-1841) đã kể lại câu chuyện khi ông còn là sỹ quan biên phòng ở Kabkaz. Một hôm, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình và nhìn thấy một người lính có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: “Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về”. Người lính ấy không nghe ông, ra về và dọc đường đã bị một kẻ say rượu đâm chết.
Nhà bác học người Nga Mendeleev (1834-1907) - người phát minh ra Định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã nằm mơ thấy toàn bộ bảng hệ thống tuần hoàn hiện ra trước mắt. Điều này có thể lý giải được vì có lẽ ông đã nghiên cứu hàng chục năm về hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học, khi chín mùi thì kết quả đã hiện ra trong giấc mơ, ông chỉ việc ngồi dậy và chép lại.
Viện sỹ Xobolev của Nga tìm ra kim cương ở vùng Iakutsk, Viện sỹ Muratov (1908-1983) tìm ra dầu mỏ ở vùng Tây Xibêri đều do linh tính mách bảo.
Đi tìm lời giải cho sự kỳ diệu của linh tính
Từ lâu, nhiều học giả đã phải đau đầu vì linh cảm lúc nào cũng lẩn quất quanh ta, ngay trong ý nghĩ của ta nhưng lại cực kỳ bí ẩn. Có giả thuyết cho rằng, linh cảm bắt nguồn từ một trạng thái tâm lý đặc biệt và thường nằm trong ước muốn sắp xếp sự việc của con người. Đối với người có thể linh cảm trước cái chết, các bác sỹ cho rằng, đó là do những thay đổi hormone trong cơ thể gây ra. Các nhà khoa học đã phát hiện ra, trước khi chết, các tế bào sống của cơ thể sẽ phát ra những sóng điện não bất ngờ, những tia này người thường không thể nhận biết được, nhưng nhà ngoại cảm hoặc những người có giác quan thứ 6 có thể nhận thấy. Vì rõ ràng, linh tính không phải là kết quả của quá trình tư duy, nó nằm ngoài phạm trù logic và biện chứng. Nhưng thật kỳ lạ, sự logic mà linh tính mách bảo, trong nhiều trường hợp dường như lại hợp lý và lại là điều cần phải làm. Bởi thế, Napoleon (1769-1821) khi đánh vào nước Nga năm 1812 đã linh cảm là sẽ thất bại, nhưng ông vẫn cứ tiến hành, vì theo ông, cái vĩ đại chỉ cách cái lố bịch có một bước.
Từ trước đến nay, người ta cho rằng phụ nữ có linh cảm tốt hơn nam giới. Phụ nữ giải quyết nhiều vấn đề xuất phát từ cảm tính, trong khi nam giới bao giờ cũng đi từ logic của vấn đề. Thế nhưng cũng có nhiều phát minh nổi tiếng của các nhà bác học nam giới lại bắt đầu từ cảm tính, như trường hợp của nhạc sỹ Mozart (1756-1791), ông khẳng định rằng, mỗi tác phẩm âm nhạc của ông là sự kết tinh của nguồn cảm hứng, tư duy sáng tạo và do linh tính mách bảo. Còn nhà bác học Newton (1642-1727) đã phải công nhận linh tính đã đưa ông đến những phát minh vĩ đại.
Trong lịch sử, không những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng có khả năng linh cảm trước sự may rủi. Một số người nổi tiếng cũng nhờ giác quan thứ 6 mà thoát chết.
Churchchill (1874-1965) được giải thưởng Nobel văn học năm 1953, làm Thủ tướng nước Anh 2 nhiệm kỳ: 1940-1945 và 1951-1955, một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát xít Đức là do linh tính mách bảo. Ông kể: Năm 1944, khi Churchchill vừa chuẩn bị rời trận địa tên lửa thì máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Churchchill không chịu vào xe mà chạy vòng ra phía sau. Đúng lúc ấy, một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, chỗ Churchchill vừa đứng. Trong tập hồi ký của ông, Churchchill viết: “Dường như có một sức mạnh nội tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng”.
Người bình thường có linh tính không?
Một câu hỏi đặt ra là: Những người bình thường có khả năng linh cảm không? Tất nhiên là có, ai cũng có ít nhiều khả năng này. Khả năng linh cảm hay linh tính là một hiện tượng đã xảy ra khá nhiều trong cuộc sống. Người dân thường cho rằng đây là do “người âm về báo mộng”, hay là nhờ giác quan thứ 6... Khoa học từng chú ý đến hiện tượng linh cảm giữa những người thân trong gia đình. Người ta cho rằng, có thể “người truyền” đã truyền đi một thông điệp dạng luồng điện sinh học và “người nhận” là những người ruột thịt mới nhận được luồng điện sinh học này, nhờ có cùng tần số sóng. Bởi thế, ở đâu đó trong mỗi bản làng, góc phố, bạn đều có thể nghe thấy vô số những câu chuyện về linh cảm của con người.
Nói đến đây chắc các bạn cũng đã nhớ lại bao nhiêu chuyện linh tính, linh cảm của chính bạn và những người bạn biết, đã giúp mọi người gặp điều lành, tránh điều dữ.
Theo BS Hồng Ninh (Sức khỏe & Đời sống)
Giờ đây thậm chí những khoa học gia đa nghi nhất cũng cảm thấy vô lý, nếu bác bỏ một sự thật: ngoài 5 giác quan không ít người còn có biệt tài cảm nhận được ngoại giới bằng nhiều cách khác, chưa thể lý giải theo các hiểu biết mà khoa học hiện đại đã vươn tới được dù nhân lại đã tiến những bước thần kỳ.
Vì vậy phải có một bộ môn khoa học mới để tìm hiểu các hiện tượng dị thường kia, Cận tậm lý học. Chính tất cả những sự kiện đó cho thấy uy tín của Nostradamus vẫn bất di bất dịch qua suốt gần năm thế kỷ! Và hiện thời, trước tác của Nostradamus cùng sách vở viết về ông ở phương Tây chẳng những không giảm mà còn tăng.
Lý giải nguyên do chẳng có gì là khó. Lịch sự nhân loại kể từ đó tới giờ rất ít khi có những năm tháng thanh bình. Con người ta dù sống ở thời nào cũng luôn canh cánh bên lòng mối lo: Những gì đang chờ mình ở tương lai ? Nhất là vào thời buổi này, khi chỉ một “cú bấm nút vô lý” cũng đủ sức hủy diệt toàn nhân loại.
Nhưng tương lai toàn hành tinh chúng ta phải chăng đều đã được Nostradamus tiên đoán đầy đủ và chính xác cách nay hơn 4 thế kỷ. Ngay cả những người sủng mộ ông nhất cũng sẵn lòng hạ một câu trả lời dứt khoát không !
Sẽ rất nông nổi nếu phủ nhận tài tiên đoán dự báo của Nostradamus nhưng ta không thể tin tưởng mù quáng các sấm ngôn của ông. Có lẽ Nostradamus cần được gọi là người đi tiên phong trong ngành tương lại học đầy hứa hẹn hiện là ngành ra đời để đáp ứng nhu cầu đó.
Những thành tựu gặt hái được trong mấy chục năm gần đây cho thấy: các hiện tượng cận tâm lý dù muôn hình muôn vẻ nhưng dầu sao vẫn có thể gộp vào 3 nhóm chính nếu xét từ góc độ trao đổi thông tin và năng lượng.
1- Tương tác từ xa giữa người này và người kia.
2- Tương tác giữa con người với giới vô sinh.
3- Tương tác từ xa giữa con người với các nguồn thông tin của thế giới bên ngoài giới vũ trụ.
Cách phân loại đó của nhà khảo cứu người Mỹ gốc Tiệp ông Zreidack hiện được đông đảo khoa học gia chấp nhận. Dựa vào khung phân loại này, ta có thể tìm hiểu rõ hơn từng nhóm vấn đề cận tâm lý học.
Với các nước phương Tây, mọi người nô nức vui chơi ở nơi công cộng trong đêm giao thừa để chờ đón giây phút chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Những quả bóng được thả rơi trong giây đầu tiên của năm mới, pháo hoa bắn sáng rực đất trời, mọi người cùng nâng ly chúc tụng nhau trong niềm vui mới.
Tết Dương lịch đã có từ lâu đời, biến đổi qua nhiều thiên kỷ trong lịch sử tiến hóa, mang dấu ấn lịch sử văn minh của con người và tồn tại đến ngày nay.
Hiện nay thế giới đón Tết Dương lịch vào ngày 1 tháng Giêng. Trong 400 năm qua, rất nhiều quốc gia đã chấp nhận ngày này là ngày New Year.
Tết Dương lịch là thời điểm đánh dấu một năm mới bắt đầu
La Mã là quốc gia đầu tiên chọn ngày 1 tháng Giêng làm ngày New Year trong năm đầu tiên 153 trước Công nguyên. Trước đó, 25/3 là ngày xuân phân (vernal equinox) được chọn là ngày đầu năm. Ngày năm mới này đã được đa số những quốc gia Cơ đốc giáo ở châu Âu chấp nhận (khoảng thời Trung cổ 1.100-1.400 trước Công nguyên).
Trải qua một thời gian khá lâu những quốc gia này mới chấp nhận sự thay đổi ngày tháng cho New Year bởi vì đầu óc cố hữu của họ. Với ngày tháng tính toán cho New Year không được phổ thông như những phong tục đang được bảo giữ, nó cũng không phải là thời điểm hoa màu hay những vụ mùa đặc biệt gắn liền với ngày tháng đó.
Cho nên người ta nghĩ đây chỉ là một ngày bình thường sau mùa bầu cử, sau thời gian các đại biểu trúng cử bắt đầu nhận nhiệm vụ mới trong chính quyền Đế quốc La Mã.
Muốn thay đổi ngày tháng New Year đã có từ trước là một việc làm to lớn đầy khó khăn cho việc tính toán làm Lịch.
Thời Đế quốc La Mã, sự thay đổi ngày tháng cho năm mới của họ đã tính ngược lại ba tháng tới tháng Giêng (tức là tháng Ba trở thành tháng Giêng). Do không có qui tắc nào của Lịch, trước đây nguyên gốc tháng 9, 10, 11, 12 đã đổi thành 7, 8, 9, 10 rồi xếp theo tuần tự.
Thời gian sau này các vị Hoàng đế La Mã của mỗi chính thể đã đặt tên mới cho các tháng, ví dụ như tháng Chín gọi là “Germanucus”, “Antonius” và “Tacitus”, tháng 11 có tên khác là “Domitianus”, “Faustinus” và “Romanus”.
Những sự bất tiện đó đã thúc đẩy vua Julius Caesar thiết lập nên bộ Lịch mới. Lịch này được phát minh bởi nhà Thiên văn học người Hy Lạp Alexandria (tính hệ thống thời gian cho Lịch theo mặt trời). Caesar muốn thay đổi ngày đầu năm từ ngày 1 tháng Giêng mà ông cho là hợp lý nhất, sẽ phù hợp với một trong những điểm chí (Solstices) hay điểm phân (Equinoxes) và tiết khí.
Để tưởng nhớ tới ông, Thượng nghị viện đã dùng tháng sinh nhật của ông (Quintilis) đổi tên thành tháng Bảy (July). Đến đời cháu của vua Caesar là Hoàng đế Augustus cũng có một tưởng thưởng danh dự tương tự để trao tặng cho ông được đổi tên Sextilis thành tháng 8 “August” , vì ông có công sửa sai trong sự tính toán của năm nhuận.
Lịch này không có những sửa đổi quan trọng nào cho đến năm 1582 khi Giáo hoàng Gregory XII nhậm chức, ông đã hợp nhất phương pháp tính Lịch hiện đại để phân chia tháng năm. Giáo hoàng sửa đổi và xác nhận ngày của năm mới là ngày 1 tháng Giêng bất chấp mọi chống đối của các hiệp hội tín đồ Cơ đốc giáo.
Những quốc gia Công giáo tiếp nhận ngày “New Year” sớm nhất, sau đó đến các nước theo đạo Tin lành, Đức chấp nhận ngày “New Year” năm 1700, Anh (1752) và Thụy Điển (1753).
Những nước phương Đông ảnh hưởng của nhiều tôn giáo như Hindus, đạo Lão, Phật giáo, Hồi giáo nhưng họ cũng dùng lịch giống Cơ đốc giáo. Nhật Bản chấp nhận ngày “New Year” Dương lịch vào năm 1873 và Trung Quốc (1912).
Những tôn giáo dòng chính thống của phương Đông cũng nhận ngày Tết Dương lịch muộn hơn vào năm 1924 và 1927. Nước Nga chấp nhận nó trong hai lần, lần đầu tiên năm 1918 và lần thứ hai 1924.
Các quốc gia như: Bulgaria, Cyprus, Egypt, Greece, Poland, Romania, Syria và Turkey đều ăn Tết vào ngày 01 tháng Giêng.
Người Trung Hoa tính theo hệ thống quay của mặt trăng cho nên ngày New Year đều rơi vào tháng bắt đầu có trăng khoảng trước bốn hay tám tuần khi mùa xuân đến. Ngày chính xác có thể vào khoảng giữa ngày 21 tháng Giêng hay ngày 21 tháng Hai của lịch “Gregorian Calendar”. Lịch Trung Hoa thiết lập không giống như lịch “Gregorian Calendar”, bởi vì phạm vi của mùa thay đổi. Và mỗi năm có một ký hiệu tượng trưng với 12 con Giáp theo qui tắc Ngũ hành với chu kỳ 60 năm.
Đối với Việt Nam, trước khi dùng Dương lịch, người Việt dùng Âm lịch. Lịch do triều đình soạn và ban hành, dĩ nhiên có chịu ảnh hưởng của khoa thiên văn và phép làm lịch của Trung Quốc. Tết Nguyên đán ở Việt Nam từ xưa cũng theo Lịch Trung Hoa.
Đời vua Lê và chúa Trịnh (thế kỷ 16-18) tên gọi cơ quan làm lịch của triều đình là Tư Thiên Giám. Hàng năm, Tư Thiên Giám soạn sẵn lịch cho năm sau, đến tháng 6 Âm lịch thì viết hai bản thảo, rồi dâng lên vua Lê và chúa Trịnh xin tiền in. Vua xem bản thảo xong, giao cho Trung Thư Giám viết lại, có Tri Giám trông coi việc khắc bản in. Tư Thiên Giám kiểm tra lại các bản khắc rồi mới cho đem in. Trong tháng Chạp, Tư Thiên Giám dâng vua Lê bản lịch mới in xong. Sáng ngày 24 tháng Chạp các quan vào triều làm lễ tiến lịch theo nghi thức do Bộ Lễ quy định rất tỉ mỉ. (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Hà Nội: NXB KHXH, 1992, tr. 69.)
Thời nhà Nguyễn, năm Minh Mạng vừa lên ngôi (1820), Bộ Lễ tâu vua xin chọn ngày mồng 1 tháng Chạp thiết đại triều ở điện Thái Hòa để làm lễ ban lịch. Lịch do Khâm Thiên Giám (trực thuộc Bộ Lễ) soạn ra. Năm 1833 triều đình quy định vào tháng 5 Âm lịch, Khâm Thiên Giám ở Huế gửi lịch mẫu ra Hà Nội in để cấp phát cho địa bàn từ tỉnh Ninh Bình trở ra Bắc. Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh do Huế cấp phát. Năm 1940, vua Minh Mạng thay đổi địa điểm ban lịch: thay vì trong điện Thái Hòa thì tổ chức trước Ngọ Môn. Lịch giao về tới làng xã sẽ do các lý trưởng gìn giữ để dân chúng xem chung. (Theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh, tại http:/vietsciences.free.fr).
Lễ ban lịch đời Nguyễn còn được gọi là lễ ban sóc hay chính sóc. Ngày rằm tức 15 Âm lịch gọi là vọng; ngày mùng 1 Âm lịch gọi là sóc; chính sóc là mùng 1 tháng Giêng.
1. Dáng người cao nhưng không thẳng
Trong nhân tướng học, dáng người cao mà thắng mới là tướng phú quý. Còn người nào dáng cao nhưng lại cong vẹo, không thẳng, hay đến trung vận đã bị còng lưng lại là tướng phá tài, cuộc sống vất vả trăm bề, đặc biệt là nam giới.
2. Người gầy và ánh mắt vô thần
Có câu: “Người béo tốt 10 phần thì 9 phần phúc. Người gầy còm 10 phần thì 9 phần nghèo”, để so sánh về tướng người đầy đặn với người gày. Phúc phận của người mang thân hình gày guộc cũng mỏng hơn.
Nếu cộng thêm đặc điểm đôi mắt vô thần, nhìn như không nhìn, không thể hiện cảm xúc gì thì đích thị là tướng người phá tài. Tài lộc của người này kém sắc, dù được kế thừa di sản tổ tiên để lại đi chăng nữa cũng khó duy trì, phát huy được.
3. Râu quá cứng
Bất kể là nam hay nữ, nếu có râu và râu quá cứng đều không phải là dấu hiệu cát tường. Đa phần là đàn ông mới có nét tướng mạo này.
Người này tính tình khô cứng, thô bạo, tính cách cực đoan, hay gây sự, khắc vợ và khắc cả tài. Tiền vào túi rồi lại ra nhanh như chớp mắt. Cuộc sống hôn nhân cũng khó mà hòa hợp, hạnh phúc.
![]() |
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất |
![]() |
![]() |
Tháng 7 âm lịch thường được nhiều người gắn cho là tháng cô hồn, tháng quỷ lễ, tháng tâm linh và đặt ra muôn điều cấm kị. Nhưng nếu tinh ý một chút sẽ nhận ra, đối với người phương Đông, tháng 7 là tháng của ân tình.
![]() |
![]() |
1. Không có hoa tay nào cả
Bạn là một người khá ít nói, trầm tính nhưng đấy là chỉ trong giao tiếp đời thường thôi. Mỗi khi online, bạn nói khá nhiều, nhiều đến nỗi chẳng ai ngờ đó là bạn. Ngoại hình khá ổn, có vài tài lẻ, cộng thêm sự lạnh lùng vốn có khiến bạn luôn trở thành “tâm điểm” của khá nhiều người. Bạn được khá nhiều người khác giới theo đuổi, nhưng lại thường không chủ động trong tình yêu cho lắm nên phần lớn là người ấy chủ động thôi.
2. Một hoa tay
Thực tế bạn không phải là người viết đẹp hay vẽ đẹp, nhưng bù lại bạn nấu ăn cực ổn. Bất cứ món ăn nào mới, bạn chỉ cần học một lúc là có thể làm ngon như đã biết làm từ lâu rồi. Thêm vào đó bạn là một người khá ân cần chu đáo. Phần lớn những người quen bạn đều nhận thấy ở bạn một sự tốt bụng đến chân thành, chính bởi thế mà bạn luôn được mọi người tin tưởng để chia sẻ mọi điều. Tuy nhiên, bạn lại là người hơi cả tin, nên đôi khi bị “lừa” mà không biết. Bạn là một khuôn mẫu hoàn hảo cho con người của gia đình.
3. Hai hoa tay
Bạn vẽ cũng tàm tạm, tóm lại là nếu nhìn một hình để vẽ lại thì chính xác khoảng 70%. Trên thực tế bạn là một người khá cầu toàn trong mọi chuyện. Bất cứ thứ gì hay bất cứ điều gì nếu không làm thì thôi nhưng một khi đã đụng tay vào thì bạn muốn hoàn thành thật xuất sắc. Bạn là người khá vui tính bởi thế luôn là tâm điểm của những cuộc vui. Tuy nhiên, bạn không phải là người kiên định mà buồn vui thất thường. Và thực tế cho thấy mỗi khi buồn thì bạn thường có khuynh hướng suy nghĩ hơi tiêu cực. Bạn khá được lòng người khác giới.
4. Ba hoa tay
Có vẻ bạn là một người luôn được thầy cô chú ý về khoản chữ viết vì thực tế là khá khó đọc. Bạn là một người khá năng động, nhiệt tình hoạt bát nhưng đôi khi cũng hơi lanh chanh. Bạn được khá nhiều người yêu quý đặc biệt là những người lớn tuổi bởi cách cư xử thông minh và đúng mực của mình. Tuy nhiên, điểm yếu là nói năng không suy nghĩ, bởi thế bạn thường đưa ra những nhận xét hay lời nói làm mất lòng bạn bè. Tất nhiên là cũng có người không để bụng vì biết tính bạn nhưng cũng có nhiều người không thích chút nào.
5. Bốn hoa tay
Bạn là một người vẽ không có đẹp gì cả. Trong mắt mọi người bạn là một người sống độc lập và suy nghĩ khá ổn. Bạn có vẻ là chỗ dựa vững chắc cho khá nhiều người. Bạn cũng là người sống hòa đồng và hết mình vì người khác, một ưu điểm khá hoàn hảo. Tuy nhiên, bạn lại là người không biết cách kiềm chế cảm xúc, bạn dễ nổi giận và đôi khi vô cớ “giận cá chém thớt”. Chính bạn đôi khi cũng không hiểu tại sao mình lại như thế. Điều này làm bạn mất điểm kha khá trong mắt người khác đấy.
6. Năm hoa tay
Bạn là một người có thể nói là khá thẳng thắn và có chính kiến. Bạn luôn quan tâm tới bạn bè và người thân và có thể nói bạn là chỗ dựa tinh thần cho khá nhiều người. Tuy nhiên, điểm yếu là bạn chưa biết cách cư xử thực sự đúng mực, đôi khi hơi thái quá trong công việc và điều này khiến nhiều người không thích bạn.
6. Sáu hoa tay
Bạn là một người có khả năng vẽ. Trong cuộc sống của mình bạn là một người cực kỳ thân thiện, bạn cũng là một người khá lạc quan trong cuộc sống. Nếu như những người khác chỉ biết ngồi than thở thì bạn thực hiện bằng hành động. Đơn giản vì theo bạn, hành động thực tế sẽ chứng minh cho khả năng của bạn. Bạn nói chuyện khá có duyên vì thế có thể vẻ ngoài của bạn không nổi bật nhưng lại được khá nhiều người theo đuổi. Bạn có ước mơ nhưng bạn chưa thực sự tin vào khả năng của mình.
7. Bảy hoa tay
Trong những bức tranh của mình bạn thể hiện sự thông minh và khéo léo trong cách vẽ. Bạn là người khá thông minh và am hiểu nhiều vấn đề, nhưng lại dễ bị “lôi kéo” nên bạn thường chơi nhiều hơn là học. Bạn cũng hay nói nhiều và điều này mang lại thành công nhất định nhưng đôi khi nó cũng mang đến những vấn đề dở khóc dở cười.
8. Tám hoa tay
Trong mắt mọi người bạn là một người khá hoàn hảo, từ vẻ ngoài cho đến con người bên trong. Bạn luôn tỏ ra là một người am hiểu và cực kì cứng rắn. Tuy nhiên con người bên trong bạn lại không được như thế, bạn am hiểu nhưng tâm lí không vững vàng nên dễ bị dao động. Bạn cũng là người sống khá tình cảm và ngọt ngào. Tuy nhiên cũng vì quá am hiểu nên chỉ có người thực sự hiểu bạn mới có thể đi cùng bạn suốt đời được.
9. Chín hoa tay
Một con người sáng tạo mang đầy những phong cách mới lạ chính là bạn. Trong bất cứ điều gì bạn đều tìm ra được sự thú vị và mới mẻ. Dù việc đó có nhàm chán đến đâu, chỉ cần bạn thổi bùng ngọn lửa khí thế là ai cũng muốn làm. Bạn khá mạnh mẽ và đứng đắn. Bạn có tố chất của một người lãnh đạo và chỉ huy người khác. Tuy nhiên đôi khi bạn hơi lạm dụng quyền hành và tự cao vì thế gây không ít hiểu nhầm cho bạn bè và người thân.
10. Mười hoa tay
Chữ bạn không đẹp nhưng khá rõ ràng và dễ nhìn. Vì sở hữu 10 hoa tay nên có thể nói vẽ chính là năng khiếu thiên bẩm của bạn. Bề ngoài trông bạn có vẻ hơi bất cần đời, nghịch ngợm nhưng bên trong bạn lại cực kỳ sâu sắc. Bạn biết khi nào nên vui hết mình nhưng cũng biết đâu là điểm dừng đúng lúc. Có những lúc bạn cười thoải mái, trêu bạn bè nhưng cũng có lúc bạn đưa ra những lời khuyên đúng đắn và chân thành. Bạn học hành khá ổn và thêm một điều nữa là bạn rất thích cây cối.
Hoài thai chín tháng mười ngày là quá trình vừa hạnh phúc vừa dài dằng dặc, ngoài chú ý chế độ dinh dưỡng và tập luyện, còn cần lưu tâm tới phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu để mẹ khỏe con ngoan. Hoàn cảnh sống, bố cục trong nhà sẽ có tác động rất lớn tới phụ nữ mang thai nên không thể chủ quan được.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem phong thủy nhà ở cầu tài lộc, tránh tai ương |
Chẳng biết từ bao giờ, ngày Tam Nương lại trở thành ngày khiến mọi người tránh xa bởi họ quan niệm rằng, vào ngày này, dù là làm bất cứ việc gì cũng sẽ dễ dàng thất bại. Để hiểu rõ hơn về ngày Tam Nương, chúng ta sẽ cùng Phong thủy số tìm hiểu xem nguồn gốc cũng như nắm rõ hơn xem ngày Tam Nương không nên làm gì để từ đó có thể tránh phạm phải nhé.
Theo tương truyền lại rằng, ngày Tam Nương là ngày đại diện cho ngày sinh thần và ngày ra đi của 3 người đàn bà có thể nói là tuyệt sắc giai nhân, 3 người này đã làm sụp đổ 3 triều đại của Trung Quốc đó là Muội Hỉ, Bao Tự và Đát Kỷ.
Vì ngày này gắn với 3 người phụ nữ đã mang đến những điều xui xẻo và tồi tệ cho cả một triều đại, vì thế, ngày Tam Nương từ xưa đến nay được quan niệm rằng là ngày cực kỳ xấu.
Ngày Tam Nương được coi là ngày xấu, hay như trong lịch vạn niên có ngày hoàng đạo và ngày hắc đạo, thì ngày Tam Nương chính là hắc đạo, thậm chí còn xấu hơn thế nữa. Do đó, mọi người quan niệm rằng trong ngày Tam Nương tuyệt đối không nên làm các việc quan trọng. Ngày Tam Nương không nên làm gì? Chúng ta hãy cùng xem sau đây:
Để trả lời câu hỏi, ngày Tam Nương không nên làm gì thì việc đầu tiên cần tránh là không được đi giữa đường dù là đường vắng không có ai qua lại. Theo dân gian, nếu ngày này ra đường mọi người ắt sẽ gặp những tai bay vạ gió, những nguy hiểm không lường trước được. Vì vậy cần tránh.
Ngày Tam Nương không nên cãi nhau, hãy cố gắng kiềm chế bản thân dù đó là chuyện đáng giận đi chăng nữa. Vào ngày Tam Nương, mọi người dễ bị rơi vào tình trạng như bị “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” do đó bạn nóng giận có thể dẫn tới những hành động dại dột, làm nguy hại đến bản thân.
Nhiều người cho rằng ngày rằm và mùng 1 hàng tháng mới phải kiêng kỵ về chuyện ấy. Tuy nhiên vào ngày Tam Nương chúng ta cũng nên tránh bởi theo quan niệm khi quan hệ vào ngày này, bạn dễ rơi vào tội dâm ô.
Các công việc quan trọng như khai trương, động thổ làm nhà, ký kết hợp đồng, cưới hỏi...đều cần tránh cái ngày xấu này ra. Nếu phạm phải sẽ rơi vào tình trạng kết hôn thì chia ly, xây nhà thì gia đình ly tán mà ký kết làm ăn thì dễ bị thất bại.
Một tháng có đến 6 ngày Tam Nương, vì vậy mọi người cần chú ý trong 6 ngày này. Những ngày Tam Nương thường rơi vào ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22 và 27 âm lịch.
Để biết ngày hôm nay là tốt hay xấu, là hung hay cát bạn nên tham khảo tại đây: Xem ngày tốt xấu
Có rất nhiều Phật tử để dành ra một vị trí đặc biệt trong ngôi nhà hay khu vườn để lập bàn thờ cầu nguyện và trong đó đương nhiên không thể thiếu những bức tượng Phật. Ngoài ra, nhiều người cũng kết hợp tượng Phật vào trang trí nội hoặc ngoại thất.
Tuy nhiên, trước khi bạn đi mua sắm, bạn cần hiểu được ý nghĩa và biểu tượng của mỗi bức tượng trong mối quan hệ với khu vực bạn muốn đặt nó. Đặc biệt hãy làm theo những hướng dẫn dưới đây để cả gia đình luôn bình an.
- Tuyệt đối không được đặt tượng Phật trực tiếp trên mặt đất hoặc trong phòng tắm. Vì cả hai vị trí này đều được coi là thiếu tôn trọng.
- Phật không nên đặt trong phòng ngủ của bạn, ngoại trừ tượng được giữ trong tủ có cửa đóng kín.
- Hãy nhớ, luôn đặt tượng quay mặt vào trong phòng. Tuy nhiên, nếu tượng Phật đặt ở lối vào của ngôi nhà thì có thể ngoại lệ, đối mặt với những người bước vào trong nhà.
- Khi đặt tượng Phật ở trong vườn cần quay mặt vào nhà để mang lại bình an cho gia đình.
Với những bức tượng Đức Phật trong tư thế ngồi với cả 2 tay trong vị trí thiền thường được đặt ở bàn thờ Phật trong nhà. Chú ý, tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ.
Tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật
ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ
Tượng Phật Di Lặc thường được sử dụng rộng rãi trong nhà và dễ nhận biết nhất. Đức Phật cười mang lại thịnh vượng, may mắn. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy tài lộc, của cải. Mọi người nếu muốn được ban tặng nhiều may mắn thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc. Tượng ông Phật cười có thể bày trên tủ đựng tiền, két sắt hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà.
Tượng ông Phật cười có thể bày trên tủ đựng tiền, két sắt hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà
Theo quan niệm, tượng Phúc Lộc Thọ đem lại cuộc sống trường thọ và tài vận cho gia chủ. Tượng Phúc Lộc Thọ được làm từ rất nhiều chất liệu như gốm sứ, ngọc thạch, mạ vàng,... tuy nhiên tượng làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất. Khi bày nên bày heo thứ tự tượng ông Phúc đặt ở giữa, ông Thọ nằm ở bên phải và ông Lộc đặt bên trái.
Tượng 3 ông Phúc Lộc Thọ nên bày ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính để mang Tam Tinh vào nhà. Lưu ý, mặt tượng không được hướng ra ngoài mà chỉ có thể hướng vào trong phòng. Bởi, khi mặt hướng vào trong tức là đem tiền tài đến cho người trong nhà, còn nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều gia chủ lựa chọn vì Phật bà khiến cho gia đạo được bình yên, mang điều may mắn và cứu rỗi khi gặp khó khăn. Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm và tốt nhất nên ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách.
Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm