Truy tìm khắc tinh của 12 con giáp

![]() |
Tuổi Tý và tuổi Ngọ
Tuổi Sửu và tuổi Mùi
Tuổi Dần và tuổi Thân
Tuổi Mão và tuổi Dậu
Tuổi Thìn và tuổi Hợi
Tuổi Tuất và tuổi Tỵ
Mr.Bull (theo DYXZ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
Tuổi Tý và tuổi Ngọ
Tuổi Sửu và tuổi Mùi
Tuổi Dần và tuổi Thân
Tuổi Mão và tuổi Dậu
Tuổi Thìn và tuổi Hợi
Tuổi Tuất và tuổi Tỵ
Mr.Bull (theo DYXZ)
a chúng.
Đối với người Việt chúng ta thì ốc không xa lạ gì, chúng là một món ăn dân gian quen thuộc, thậm chí với sự phát triển của công nghệ thực phẩm, người ta càng có thể chế biến phong phú hơn những món ăn về ốc. Vậy giấc mơ thấy ốc có ý nghĩa gì?
Nội dung
Con người ai ai cũng mơ và phải mơ, có điều là họ có nhớ những mình đã nằm mơ hay không mà thôi. Mơ là hiện tượng tâm lý bình thường của loài người kể cả động vật. Mơ là những gì đầu óc tưởng tưởng và trải nghiệm những thứ mới mẻ mà có thể ở cuộc sống hiện tại họ không đạt được. Giấc mơ rất đa dạng, phong phú tùy thuộc vào bộ não của mỗi người mà hoàn cảnh trong mơ sẽ khác nhau hoàn toàn.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã tìm tòi và thử nghiệm giấc mơ của rất nhiều người và họ đã đạt nhiều thành công vang dội từ giấc mơ mang lại. Hiện tượng quên và nhớ giấc mơ sau khi tỉnh giấc là chuyện bình thường ai cũng gặp phải. Quên là những điều vô vị, xấu xa, những điều không liên quan đến cuộc sống của mình là sẽ làm cho bộ não xóa ký ức trong vài phút sau tỉnh giấc. Còn nhớ là ghi nhớ rõ từng chi tiết có liên quan, những cảm xúc, những điều có ích.
Trong thế giới tâm linh, mơ là hiện hữu của những điều vô thức, trong tâm thức của mỗi người mà ra. Mỗi giấc mơ mang đến 1 điều gì đó huyền bí, thiên liêng, ẩn chứa đằng sau những ý nghĩa sâu xa nhiều bí ẩn. Giấc mơ báo mộng cho biết trước được tương lai sẽ ra sao, đón nhận những điều tốt đẹp và tránh xa những thứ xấu, không may mắn có thể ập đến.
Theo giải mã giấc mơ thấy con ốc, nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy một con ốc, giấc mơ này cho thấy rằng bạn đang quá nhạy cảm và cảm thấy ức chế, bạn mong muốn được đi nhiều hơn ra thế giới bên ngoài. Ngoài ra, nằm mơ thấy một ốc cũng bảo hiệu rằng bạn đang tiến bộ và vững chắc trong việc thực hiện mục tiêu của mình, tuy nhiên bạn cần phải đi theo tốc độ của riêng bạn, không nên quá cưỡng ép bản thân hay chạy theo người khác nhé.
Nằm mơ thấy con ốc đang bò là điềm báo có điều gì đó đang cản trở công việc của bạn. Có thể bạn chưa nhận được trở ngại gì làm cho công việc không phát triển. Đến khi quá mức dậm chân tại chỗ bạn sẽ nhận ra được vấn đề làm chậm tiến độ công việc của mình. Giấc mơ thấy con ốc bò nói lên tất cả điều này. Nếu mơ thấy con ốc bò lên chân mình là điềm có người đang lợi dụng mình làm chuyện xấu, bạn hãy thận trọng nhé.
Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy một con ốc biển, giấc mơ này cho thấy rằng bạn đang quá nhạy cảm và cảm thấy ức chế, bạn mong muốn được đi nhiều hơn ra thế giới bên ngoài.
Nằm mơ thấy con ốc biển đang bò là điềm báo có điều gì đó đang cản trở công việc của bạn. Có thể bạn chưa nhận được trở ngại gì làm cho công việc không phát triển. Đến khi quá mức dậm chân tại chỗ bạn sẽ nhận ra được vấn đề làm chậm tiến độ công việc của mình.
– Ngủ mơ thấy con ốc nhồi là điềm báo bạn đang gặp trở ngại trong vấn đề nào đó trong cuộc sống.
– Chiêm bao thấy con ốc nhồi cuộn vào trong vỏ là bạn đang trốn tránh một vấn đề nào đó, tuy nhiên chỉ có đối mặt mới giúp bạn giải quyết được vấn đề.
– Nằm mơ thấy ốc nhồi bò lổm nhổm là cảnh báo có sự mờ ám trong mối quan hệ với người khác trong gia đình.
– Chiêm bao thấy con ốc nhồi bò lên người là cảnh báo rằng bạn đang bị ai đó lừa gạt, lợi dụng.
– Nằm mơ thấy đập vỡ vỏ ốc nhồi là bạn sẽ khám phá ra một bí mật không muốn người khác biết của ai đó.
– Ngủ mơ thấy ăn ốc nhồi là cảnh báo rằng bạn nên đi khám bệnh, có thể bạn đang mắc chứng bệnh nào đó.
– Nằm mơ thấy ốc nhồi không còn vỏ là bạn cảm thấy những gì mà mình phấn đấu không được người khác đánh giá đúng.
Nằm mơ thấy một con ốc sên trong giấc mơ của bạn cho thấy bạn đang sống một cuộc sống chậm chạp, ổn định và nhàm chán. Mơ thấy mình ăn ốc là điềm may mắn sẽ mỉm cười với bạn.
Giấc mơ thấy con ốc biển là : 16-61
Giấc mơ thấy con ốc bươu là: 18-75
Giấc mơ thấy con ốc nhồi là: 26-73
Giấc mơ thấy bắt ốc là: 70-80
Giấc mơ nhặt được ốc: 44-49
Giấc mơ thấy ốc sên là: 05-59
Giấc mơ thấy ốc mình ăn: 38-43
Giấc mơ thấy ốc chết: 63-74
![]() |
Màu sắc phòng ảnh hưởng đến chất lượng công việc |
Căn cứ vào tính chất công việc
Nếu nhân viên làm việc thiên về lĩnh vực nghiên cứu khoa học hoặc các công việc đòi hỏi sự cẩn thận, tỉ mỉ thì nên dùng màu xanh nhạt.
Nếu nhân viên hoạt động ở các lĩnh vực sáng tạo, thiết kế thì nên trang trí phòng bằng gam màu sáng, sinh động.
Căn cứ vào diện tích văn phòng
Những văn phòng làm việc kiểu cũ có diện tích không lớn nhưng phòng thường rất cao nên dễ nảy sinh cảm giác trống trải. Trong khi đó, phòng làm việc kiểu mới thì diện tích lớn nhưng lại thấp và có nhiều người. Do vậy, không gian chật hẹp gây cảm giác ức chế. Để điều tiết cảm giác khó chịu đó, việc lựa chọn màu sắc là 1 giải pháp thông minh.
Đối với văn phòng kiểu cũ đều sử dụng những bức tường gỗ với tông màu đậm. Đây là màu sắc chấn áp tinh thần. Vì vậy, tường nhà nên dùng gam màu sáng kết hợp màu đậm cho nền nhà. Như vậy tránh được tình trạng “đầu nặng chân nhẹ” và mang lại không gian làm việc thoải mái cho nhân viên.
Đối với văn phòng làm việc hiện đại, màu xám giữ vai trò chủ đạo, tạo cảm giác rộng rãi, thoáng mát. Những bức tường màu xanh lá cây hay xanh da trời nhạt đều rất thích hợp.
Lưu ý, tránh sử dụng màu vàng nơi làm việc vì dễ gây cảm giác buồn ngủ. Mặt khác, khi có bụi bẩn thì càng lộ rõ.
Căn cứ vào mức độ ánh sáng
Văn phòng có đầy đủ ánh sáng tự nhiên là điều kiện lý tưởng. Nguồn ánh sáng này luôn mang lại cho người làm việc sự vui vẻ, sảng khoái. Với những nơi không có đủ ánh sáng tự nhiên, phòng luôn ẩm thấp, lạnh lẽo.
Để không gian phòng ấm hơn nên sơn tường bằng màu hồng. Ngoài ra, có thể sử dụng màu sắc có chức năng phản quang để không gây ảnh hưởng đến thị lực của nhân viên. Như thế sẽ đảm bảo hiệu quả công việc.
Căn cứ vào môi trường làm việc
Ở nhiều công ty, phòng họp và phòng làm việc có mô hình khá giống nhau. Một số phòng họp được thiết kế giống như phòng lãnh đạo. Điều này tạo cho nhân viên và cấp lãnh đạo cảm giác thân thiện, gần gũi. Từ đó, mọi người tham gia cuộc họp đều cảm thấy bình đẳng, đóng góp ý kiến nhiệt tình.
(Theo Phong thủy văn phòng làm việc nơi công sở)
![]() |
Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành hay bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào do những trợ lực khác như được người nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn nào đó. Điều này dễ nhìn thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những may mắn kỳ lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được.
Ngược lại, chúng ta cũng thấy có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ ám, cho dù các cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan…đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của họ vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm.
Như vậy, phải chăng đối với người Á Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong cuộc sống của một đời người?
Một quan niệm khác của khoa Tử Vi đối với cung Phúc Đức là cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về giòng họ của đương sự. Như vậy, những người có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên hệ chặc chẽ của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt hay xấu và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không có gì đáng nói cả nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà con.
Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu sang phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: “Một người làm quan, cả họ được nhờ.”
Và một điểm đặc biệt sau cùng của mẫu người này là những gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời. Cung đối diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề những sự tốt, xấu của cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống của họ có thể sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu, nhất là trên vấn đề tiền bạc.
Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức là những người có tinh thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại gia đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con trong giòng họ dù gần hay xa. Đây là mẫu người rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương hay sống rời xa giòng họ của mình.
Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá số cũng tương tự như lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng thể về mộ phần của một giòng họ, như mộ phần của một người nào phát, mộ phần của ngườ nào hư, hoặc có thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết phát và đang đặc biệt phò trợ cho đương số.
Xem boi tình yêu theo tên của 2 người
Đầu tiên bạn hãy đối chiếu các chữ cái(tên người ấy) vào bảng điểm sau:
1 2 3 4 5 6 7 8 9
A B C D E G U H I
Đ K L M N O P Q R
V Â T Ă S Y X Ê Ô
* Lưu ý :
U = Ư = 7 , Ô = Ơ = 9
** Sau đó bạn hãy cộng lại các tên như sau:
Ví dụ: “Hắn” tên là Nguyễn Mạnh Hoàng, thì sẽ là : 567685 + 4158 +86156 =657999 => 6 + 5+ 7 +9 +9 +9= 45 => 4 +5= 9
Vậy quẻ của “hắn” là 9, jờ bạn xem kết quả nhé!
Và kem kết quả tình yêu của 2 bạn:
♥ Kết quả số 1 : vui tính, học hành sáng dạ, có khả năng hùng biện…. Hay đấy! nhưng nhoc cần “hạ nhiệt” bạn ngay: hắn có 1 nhược điểm to đùng:”cực kì hay sai hẹn”! Bạn cố mà quen và chịu đựng nhé!
♥ Kết quả số 2: Thông minh, trầm tính, bí hiểm…. Tất cả những j bạn…. phỏng đoán về chàng, vì chàng kín như mít. Tốt nhất là nên tìm hiểu kĩ trước rùi mới nên quyết định.
♥Kết quả số 3: Các cô gái sẽ phát nghen với bạn vì vẽ lãng tử, cá tính mạnh mẽ của người ta. Thì đó cũng là ưu điểm khiến bạn xao xuyến còn j. Nhưng người ta rất mãi chơi và vô tâm. Nhìu lúc cũng bực bội và tủi thân lắm đấy!
♥Kết quả số 4: Hình thức thì miễn chê, nội dung thì không đến mức quá tệ.Nhưng bạn phải để hắn ko những “ngã ngựa” vì trái tim mà bằng cả khối óc nữa. Nếu không câu chuyện của bạn có thể sẽ ko có hậu. Hix hix…….
♥Kết quả số5: 1 cậu con ngoan, 1 thằng bạn chơi được, 1 học sinh ko hề nổi bật …. Đối zới mọi người hắn là thế đó. ko tồi đâu nếu bạn hỏi ý kiến nh0c. Nếu có tham vọng trở thành nửa kia của bạn fải “rạng danh thiên hạ” thì bạn nên suy nghĩ lại, trước khi quyết định. Hắn là người của gia đình và đám đông.
♥Kết quả số 6: đaam mê lớn nhất của chàng này là” học, học nữa, học mãi”. Cũng tốt thui nếu hắn ko hát ” anh kòn pé lắm em ơi” với bạn. Thôi thì đợi hắn lớn đã nhé!
♥Kết quả số 7: Hắn thix độc lập, tự chủ nhưng hơi nóng nảy. hắn khoái 1 tình iu bắt đầu từ tình bạn. Với hắn, như zậy sẽ ” bền vững ” hơn.
♥Kết quả số 8: một ứng cử viên ko tồi: thông minh, năng động và tình cảm( tiu hơi vụng về tí xíu). Phải mỗi tội là ko chú ý đến hình thức, nh0c nói trắng ra là anh chàng ít chịu tắm gội.
-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.
-Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.
Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng
Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.
Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.
Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.
Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.
VDTT phỏng dịch và chú thích
Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.
Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.
Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.
Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.
Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.
Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.
Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?
1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.
2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.
Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?
“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.
Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.
Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.
Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.
Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.
Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.
Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.
Giải thích các đại vận
Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.
Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).
Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?
Định nghĩa vài thuật ngữ:
Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…
Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.
Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.
Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.
Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!
Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.
Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.
Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.
Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.
Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.
Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.
Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.
Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.
Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.
Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.
Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!
Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.
Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.
Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.
Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).
Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?
Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.
Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.
Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)
Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).
Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.
Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.
Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.
Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.
Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.
Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.
Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.
Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.
Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.
Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.
Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?
Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?
Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.
Các hạn về sau:
Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.
Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).
Lời kết:
Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:
Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.
Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.
Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.
Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.
Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.
Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.
Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.
Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.
Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.
![]() |
![]() |
![]() |
Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Tài và sao Thiên Thọ
Sao Thiên Tài thuộc âm mộc, chủ về tài năng, nếu đóng tại cung thân, mệnh, tài, quan, phúc thì đều có lực, có thể phát huy tài năng sở trường. Sao Thiên Tài đóng tại cung thân, mệnh thì thông minh, cơ trí, đa tài đa nghệ, có tinh thần chính nghĩa, đa tình, có lòng nhiệt tình với công ích. Sao Thiên Tài ưa gặp cung mệnh, thân, quan lộc hợp với những công việc mang tính khởi đầu, phân giải và phải dự trù hoạch định. Nếu như có lục cát tinh Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt hội chiếu thì có cả tài lẫn danh. Nếu gặp sao Thiên Cơ miếu vượng thì càng thông minh cơ trí, phản ứng nhanh nhạy, có tài nghệ, nếu gặp sao Thiên Cơ, Thiên Lương, chủ về trường thọ, rất có trí tuệ, nếu gặp thêm sao Thiên Thọ thì càng linh nghiệm, gặp hung tinh xung phá, dễ rơi vào tình trạng có tài nhưng không có đất dụng võ.
Sao Thiên Thọ thuộc dương thổ, là thọ tinh, chủ về trường thọ, ưa nhập cung mệnh, thân, phúc đức hoặc đồng cung với thọ tinh Thiên Lương, càng chủ về trường thọ. Sao Thiên Thọ nhập miếu tại hai cung Dậu, Tuất thì lại càng cát tường. Sao Thiên Thọ nhập cung thân, mệnh tính cách thật thà đôn hậu, chăm chỉ chín chắn, khiêm tốn và lịch sự, chịu khó chịu khổ làm việc cẩn thận. Đại hạn hoặc lưu niên gặp nó thì mọi việc đều cát lợi.
Sao Thiên Tài chủ về trí tuệ hơn người, có sở trường phân tích, suy luận có thể đoán trước thời cơ, có bản năng và trực giác linh động. Sao Thiên Thọ không thích tranh đua, không thích xen vào việc của người khác, tính cách bền bỉ và kiên trì, chín chắn vững vàng, có thể giảm bớt khó khăn, trắc trở của đời người.
Trong “Phong Thần Diễn Nghĩa”, một bài hát của Khương Tử Nha có một câu “Tẩy nhĩ bất văn vong quốc âm”, tức rửa tai không nghe điều khiến mất nước. Thời bấy giờ, khi Cơ Xương đang tìm người tài, nghe được có người hát câu này thấy vô cùng cảm khái, ông bèn kể cho những đại thần câu chuyện sau đây.
Trước đây, vua Nghiêu là người đức hạnh, nhưng hiềm nỗi lại không sinh được người con hiền đức, tài năng; về sau vua Nghiêu sợ rằng nếu để con nối ngôi sẽ khiến cho dân chúng bách tính thất vọng, ông bèn thân chinh đi tìm kiếm người tài đức để thoái vị nhường ngôi. Một ngày, ông đến một vùng quê thôn dã tĩnh mịch, ông nhìn thấy một người đứng bên dòng suối, dùng có mỗi cái hồ lô nhỏ mà đảo qua đảo lại dòng nước suối.
Vua Nghiêu hỏi người đó: “Vì sao tiên sinh cứ dùng cái hồ lô đó đảo qua đảo lại dòng nước suối đó vậy?”
Người kia cười nói: “Ta thấu rõ nhân tình thế thái, dứt bỏ danh lợi, loại trừ được tư tâm về gia đình, rời bỏ thê tử, xa lìa cánh cửa thị phi luyến ái, tránh được con đường hồng trần, ẩn cư tại núi sâu rừng thẳm, ăn cơm dưa muối, còn có thức ăn hoang dã, tự do tự tại chốn lâm tuyền, có thể an hưởng tuổi trời, bình sinh cũng đã thỏa mãn tâm nguyện của mình”.
Vua Nghiêu nghe xong rất đỗi vui mừng, nghĩ rằng: “Người này cả đời cái gì cũng xem nhẹ, quên hết vinh hoa phú quý, rời xa thế thái thị phi, thật sự có thể nói là nhân kiệt; có thể trao cho cho ông ta ngôi vị của ta rồi”.
Nghĩ vậy vua Nghiêu bèn nói: “Hỡi người hiền đức kia, ta không ai khác chính là vua Nghiêu; hôm nay gặp được người đức hạnh như ngươi, ta thật sự muốn tặng ngôi vị của mình lại cho ngươi, ngươi có đồng ý không?”
Người kia nghe xong, lập tức cầm hồ lô lên, đạp một cước nát bấy, hai tay che lỗ tai lại, vội vàng chạy đến dòng suối rửa tai.
Đang rửa tai, ông thấy một người dắt trâu đến bên suối uống nước, người này cất tiếng: “Quân tử, trâu đến uống nước đây rồi”.
Thấy người kia chỉ lo rửa tai của mình, người này lại nói: “Rốt cục tai của ông bẩn thế nào vậy? Sao ông chỉ lo rửa tai của mình vậy?”
Người kia sau khi rửa xong, mở miệng trả lời: “Vừa rồi vua Nghiêu nói muốn thoái vị cho ta, làm cho hai lỗ tai của ta ô nhiễm cả rồi, thế nên ta mới rửa tai cho sạch một lúc, làm trễ nải trâu của ngươi uống nước”.
Người này nghe xong, liền dắt trâu lên đầu nguồn uống nước. Người kia nói: “Sao vậy? Sao lại đi vậy?”
Người này nói: “Nước ở đây đã bị ông rửa tai làm ô nhiễm, vậy ta cớ gì lại để trâu của ta uống thứ nước ô nhiễm này chứ?”
Những thánh nhân ngày xưa, kể cả nghe đến việc vua Nghiêu nói đến chuyện thoái vị nhường ngôi cũng không muốn nghe, vì họ sợ những thứ đó quá rồi, sợ rằng sẽ làm bẩn lỗ tai của mình.
Thế mà, xã hội chúng ta ngày nay ngập tràn những tin tức thiếu đạo đức đủ loại, chúng ta lại chấp thuận lắng nghe, ganh đua, đầy ái ố hỉ nộ thị phi.
Bồi dưỡng năng lực phân biệt tin tức tốt xấu, dùng trí tuệ chọn lọc những gì là sạch sẽ, thanh khiết cho chính mình, đó mới là làm được câu “Rửa tai không nghe điều thất đức”.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Alexandra V (theo VV)
(Trần Việt Sơn trình bày)
“Diệc sinh đồng niên, đồng nguyệt, đồng nhật, đồng thì, nhi phú quý thọ yểu bất đồng, khán trường chân, trường giã, nhiên hậu suy tinh đẩu xung chiếu Mệnh cung” (Trần Đoàn)
Nếu sinh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ, mà phú quý thọ yểu khác nhau, thì hãy xem nét tướng rồi hãy suy ra tinh đẩu xung chiếu cung Mệnh.
Đây cũng là một lối giải thích đặc biệt để giải thích vì sao sanh cùng ngày, giờ mà số khác nhau.
Một bất ngờ
Tôi được biết cụ Giang Hồ Bốc Phệ từ lâu. Viết trên Giai phẩm Khoa Học Huyền Bí, cụ đã sử dụng một biệt hiệu ít người biết đến là vì một lý do riêng nào đó mà chúng tôi không biết, dĩ nhiên chúng tôi tôn trọng lý do đó.
Cụ coi bói, coi tướng và coi Tử Vi. Nhiều lúc, ngồi chơi với Cụ, chúng tôi thấy Cụ coi Tử Vi cho khách hàng mà đồng thời cũng coi tướng. Điều này không có chi lạ vì nhiều ông thầy khác nhau cũng làm như vậy. Chúng tôi chỉ nghĩ rằng cụ Giang Hồ Bốc Phệ xem nét tướng để lấy đó mà phù hợp với các nét trên lá số Tử Vi có giống nhau không (nếu có giống nhau thì mới là đúng số), hoặc để xét coi giờ trên lá số có đúng không?
Trong mục tiêu đi cầu kinh nghiệm của các cụ tướng số, một bữa chúng tôi hỏi:
- Cụ coi Tử Vi là Tử Vi, mà Tướng là Tướng, sao lại coi cả Tử Vi và cả Tướng? Nếu cụ có kinh nghiệm gì về Tử Vi, trong khi coi Tướng để làm phù hợp với Tử Vi, xin cụ cho các bạn đọc của Giai phẩm KHHB được biết.
Cụ trả lời:
Đâu có phải coi tướng để tìm sự phù hợp giữa hai khoa coi số mạng? Đây là coi tướng để đoán Tử Vi cho đúng.
Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe lời đó (xin lỗi quý cụ khác cũng có đồng kinh nghiệm, nhưng tại vì chúng tôi chưa thỉnh ý quý cụ nên chưa được biết).
Xem Tử Vi, phải xem nét tướng, mới đúng
Cụ Giang Hồ Bốc Phệ nói:
- Lời nói đó nghĩa là thế này: khi tôi coi lá số, tôi biết những nét chính, nhưng có thể là nét chính không đúng. Thí dụ cung Mệnh của một người có sao Phá Quân, nhưng đã chắc gì sao Phá Quân là của người đó? Phải kiểm tra lại bằng nét tướng, xem Phá Quân có phải là của người đó không?
- Lạ quá, thưa cụ. Phá Quân thủ Mệnh, mà lại không phải là của mình? Hay là tại chính tinh đó hãm? Hay là hành Mệnh của mình khắc chính tinh đó?
- Không phải vậy. Chính tinh có hãm, mình vẫn chịu ảnh hưởng của cái hãm đó. Nhưng Phá Quân lại có thể không phải là của mình. Đây, tôi xin đưa thí dụ.
Một thí dụ đặc biệt
Và cụ Giang Hồ Bốc Phệ đã đưa ra thí dụ đặc biệt: một lá số từng được đăng trên giai phẩm Khoa Học Huyền Bí (như thế, quý vị có thể kiểm tra lại lá số này dễ dàng. Giai phẩm G-1 (KHHB số 42), có hình bìa có Phương Ánh, trang 61, chúng tôi đã ghi về lá số của cụ Kỷ Mùi, ngày 27, tháng 7, giờ Thìn như sau:
“Phá Quân Thìn Tuất không phải bất nhân theo cái nghĩa người ta thường tưởng, nghĩa là xấu xa, gian xảo mà có thể là “khi làm lớn không cần đến người cũ, trèo lên người cũ mà tiến”. Nhưng đúng như cụ Ba La nói, chính tinh mà khắc Mạng, thì không còn chủ về Mạng nữa (cụ Ba La coi như vô chính diệu). Vả lại, cũng còn cần xét hình tướng xem Phá Quân đó có ăn vào Mạng không? Nếu hình tướng đó không đúng với Phá Quân, không kể là Phá Quân thủ Mạng”. Chúng rôi chỉ ghi sơ sài như vậy, nhưng cụ Giang Hồ Bốc Phệ nói thêm rằng:
“Cụ Kỷ Mùi đó có Phá Quân thủ Mạng ở Thìn Tuất, theo phú đoán thì cụ là người bất nhân, nhưng cụ lại là người rất tốt. Như thế, tức là Phá Quân không phải là sao của cụ, mặc dù sao đó thủ Mạng. Tôi xin khẳng định như vậy” và nói thêm rằng: có khi Phá Quân đó là sao thủ Mạng của đương số (nhưng cũng có khi không phải là sao thủ Mạng của đương số). Muốn biết Phá Quân có phải là sao thủ Mạng của đương số, phải xét tướng đương số, xem có đúng cách Phá Quân không. Và cụ Kỷ Mùi là người lành tốt, cho nên tôi chắc rằng tướng của cụ không phải là tướng Phá Quân thủ Mạng”.
Và cụ Giang Hồ Bốc Phệ bật mí:
- Chính tôi có Phá Quân thủ Mạng, tại Thìn Tuất. Nhưng ông coi, tôi lành hiền sống lương thiện. Ông lại coi hình tướng của tôi: gầy ốm, yếu đuối, không phải gương mặt người có uy, thì đâu phải Phá Quân thủ Mạng của tôi?
- Nhưng thưa cụ, như thế có nghĩa là gì?
- Phá Quân ở Thìn Tuất là bám lấy cái lý là sao Thủy ở cung Thổ, và bị cung Thổ khắc. Nhưng tuy Phá Quân hãm, mà vẫn có ảnh hưởng. Bây giờ, ta lại xem sách cổ của Trần Đoàn, thấy có ghi rõ rang “Duy Phá Quân Thìn Tuất mà người “to lớn”, mắt tròn, tánh thô bạo, tiếng dữ, thì thành đạt mà là đại bất nhân”.
- Như vậy, tôi đã hiểu ý cụ nói. Nghĩa là Trần Đoàn không có bảo rằng người có Phá Quân Thìn Tuất thì to lớn, mắt tròn, thô bạo, v.v… Trần Đoàn bảo rằng các người có Phá Quân Thìn Tuất thì hoặc là to lớn thô bạo, hoặc là không thế. Mà chỉ ai to lớn, thô bạo, mới là bất nhân.
- Đúng như vậy đó. Một chánh tinh thủ Mạng không bắt buộc đem lại cho ta một nét tướng nhất định: nhưng nếu ta có nét tướng ấy, thì ta chịu ảnh hưởng của sao đó. Như tôi người nhỏ, gầy ốm, tánh hiền, thì mặc dù có Phá Quân thủ Mạng, tôi không ăn về Phá Quân, không bất nhân, và cũng không được hiển hách.
Những sao khác
Tôi mới hỏi thêm:
- Như thế, đối với các chính tinh khác cũng vậy?
- Cũng thế.
- Xin thưa với cụ một cách:
Cự Cơ Mão Dậu thâm môi,
Sát Tham Vũ Phá là người có uy.
Nếu theo kinh nghiệm của cụ, thì phải hiểu câu trên như thế nào?
- Trước hết tôi xin nói rằng đây không phải là kinh nghiệm của tôi, mà là điều tôi học được, của sách Trần Đoàn.
“Cự Cơ Mão Dậu thâm môi, là cách của những người nói giỏi” thì phải hiểu rằng những người có Cự, Cơ thủ Mạng ở Mão, Dậu, nếu là thâm môi, thì ăn về bộ chính tinh đó, và cũng là người nói giỏi; còn nếu không phải thâm môi, thì không ăn về hai chính tinh đó, và không phải nói giỏi.
Còn “Sát Tham Vũ Phá là người có uy” thì phải hiểu thế này: Người nào có Sát, Tham, Vũ, Phá, mà người có uy, tức là tướng uy nghi khiến cho người khác phải dễ sợ, thì đó là người hiển đạt về võ cách. Nếu người đó không uy nghi, mà lại có vẻ lành hiền, thì không hiển đạt về võ cách. Tức là có uy nghi mới có hiển.
Cụ Giang Hồ Bốc Phệ lại nói thêm:
- Như thế là xem nét tướng để đoán đúng Tử Vi, chứ không phải là xem tướng để kiểm điểm hay là để tìm xem điều mình đoán có đúng không? Thí dụ như lá số Kỷ Mùi mà các ông nêu ra trong số giai phẩm trước, tức là số Kỷ Mùi, mồng 8 tháng Tư, giờ Thìn, Mệnh có Tham Vũ, chiếu về có Liêm, Phá, Thất Sát, Tử Vi, bình thường thì người ta đoán là phát võ. Nhưng chúng tôi không đương nhiên đoán như thế. Chúng tôi phải xem người trước, nếu thấy là người có uy võ, vẻ mặt sát phạt, mới đoán là phát võ. Nếu không thế, thì phát văn, hoặc là không ăn về bộ Sát, Phá, Liêm, Tham.
Chính Trần Đoàn đã dạy
Chúng tôi còn thắc mắc quan trọng:
- Thưa Cụ, Cụ có nói rằng đó không phải là kinh nghiệm của cụ, mà là lời dạy của Trần Đoàn, ông tổ Tử Vi. Vậy chắc cụ có thể cho độc giả của giai phẩm chúng tôi được biết.
- Có một thí dụ như chúng tôi đã kể về sao Phá Quân. Sách cổ Trần Đoàn có ghi rằng “Phá Quân miếu, vượng thủ Mạng thì đắc cách, đương số hiển đạt, Phá Quân Thìn Tuất là hãm thì không tốt, nhưng người nào mà to lớn, mắt tròn, tánh thô bạo, tiếng nói dữ, thì đó là người đại bất nhân mà hiển đạt”.
- Cụ Trần Đoàn có cho những câu nào đặc biệt để chỉ vẽ trong toàn bộ điều cụ nêu lên?
- Có, đó là câu “Diệc sinh đồng niên, đồng nguyệt, đồng nhật, đồng thì, nhi phú quý thọ yểu bất đồng, khán trường chân, trường giã, nhiên hậu suy tinh đẩu xung chiếu Mệnh cung”. Câu đó nghĩa là: “Nếu sinh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ, mà phú quý thọ yểu không giống nhau, thì phải xem nét tướng, rồi sau mới suy ra tinh đẩu xung chiếu mệnh cung”.
- Lạ thật chứ. Như vậy thì hai người sanh cùng ngày giờ không đương nhiên có vận mạng giống nhau.
- Đúng vậy, Trần Đoàn có nói vậy.
Sanh cùng ngày giờ, chưa chắc đã cùng số mạng
Và cụ Giang Hồ Bốc Phệ giải thích:
- Sinh cùng ngày giờ, số mạng có thể khác nhau, như người ta thường biết. Nhiều người giải thích rằng đó là vì con người còn có hoàn cảnh, có phúc phận cha mẹ để lại, có hiệp với số người hôn phối, và có sự cố gắng của chính mình nữa, như làm việc phúc đức để hoán cải số mạng, v.v… Đó là những kinh nghiệm đặc biệt của nhiều vị lão thành, chúng tôi không dám nói đến. Về phần chúng tôi thường dựa vào câu nói trên của Trần Đoàn tiên sinh, để luôn luôn xem coi nét tướng là thế nào đã, rồi mới xét xem sao nào thủ Mệnh. Nếu đương số ngay cung Mệnh có cả Tử Vi, và Đà La, thì phải xem tướng xem người trọng hậu thì ăn về Tử Vi, mà mặt thô, da xám, long tóc rậm rạp, răng hô, thì ăn về Đà La. Như thế, hai người tuy cùng sanh một lúc, nhưng một người ăn về Tử Vi, một người ăn về Đà La, thì số mạng hai người phải khác nhau.
Một bằng chứng
- Cụ có thể cho chúng tôi bằng chứng về lời của Trần Đoàn?
- Sách cổ Trần Đoàn, chúng tôi có được đọc tại nhà cụ Đặng Hữu Dự, nguyên là giáo sư và giám thị tại Trung học Chu Văn An. Chúng tôi sẽ xin phép cụ Dự được chụp trang sách của bộ sách cổ đó, để quý vị nhàn lãm.
Chúng tôi xin cáo từ, và hẹn một lần khác lại đến thỉnh thêm ý kiến cụ Giang Hồ Bốc Phệ về kinh nghiệm của cụ, lấy nét tướng để kiểm điểm chính tinh, chứ không phải đọc thấy chính tinh là đoán ngay nét tướng.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
– Sự tương phối giữa bản mệnh nam nữ với 5 yếu tố ngũ hành, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sẽ tạo ra mối nhân duyên hữu hảo, vợ chồng đại cát đại lợi, hôn nhân gắn kết bền lâu.
![]() |
![]() |
![]() |
Dưới đây là một vài hướng dẫn giúp bạn lựa chọn được chiếc chuông gió phù hợp với căn nhà của mình:
1. Chất liệu:
Luôn nhớ rằng chất liệu của chuông gió nên phù hợp với các yếu tố phong thuỷ tại vị trí đặt nó. Lấy ví dụ, bạn có thể đặt chuông gió làm bằng kim loại ở hướng Tây, Tây Bắc và hướng Bắc, trong khi chuông gió làm từ tre/gỗ có thể đặt ở hướng Đông, Đông Nam và Hướng Nam (Theo bát quái).
Thỉnh thoảng bạn vẫn bắt gặp những loại chuông gió được làm từ sứ, đất sét nung…khi ấy, chất liệu tạo nên chuông gió sẽ đại diện cho yếu tố thổ, do đó, nên được đặt ở vị trí trung tâm, Tây Nam, Đông Bắc, Đông và Đông Nam của ngôi nhà.
2. Biểu tượng:
Có rất nhiều loại chuông gió mang trên mình những biểu tượng truyền thống. Một chiếc chuông gió làm bằng đất sét với hai trái tim rõ ràng là lựa chọn tuyệt vời cho hướng Tây Nam, Cung Tình Duyên, nên được đặt trong phòng nhà hoặc sân vườn. Trong khi đó, chiếc chuông gió với hình ảnh đức Phật sẽ phát huy tác dụng với những nguồn năng lượng phong thuỷ ở hướng Đông Bắc/ Cung học thức.
3. Số lượng:
Khi sử dụng chuông gió như một pháp khí trong nhà, cần chú ý tới số lượng của mỗi thanh chuông trên chuông gió. 6 và 8 là hai con số phổ biến nhất trong số lượng thanh chuông, khiến chuông gió có khả năng tăng cường năng lượng cho ngôi nhà. Ngoài ra, số 5 được coi là lý tưởng nhất cho việc đẩy lùi những khí xấu, đối với những loại sao chiếu mạng hàng năm.
Nguồn: ST.
Từ ngàn xưa đến nay, việc dựng vợ gả chồng luôn được coi là một trong những việc quan trọng nhất của đời người. Cổ nhân quan niệm rằng vợ chồng có hạnh phúc với nhau đến “đầu bạc răng long” hay không, có sinh sôi “con đàn cháu đống” hay không, một phần chính là nhờ vào phong tục cưới hỏi được thực hiện đúng cách.
Tuy nhiên, theo quan niệm hiện đại, nếu việc dựng vợ gả chồng quá nhiều lễ lạt, tiệc mừng thì hai bên gia đình nhà trai – nhà gái cũng sẽ phải chi một khoản tiền không nhỏ, tốn không ít thời gian và không ít cặp vợ chồng lâm vào cảnh “kéo cày trả nợ” sau khi kết hôn.
Dưới dây, xin điểm lại một số tục lệ cưới hỏi của người xưa để so sánh với ngày nay, qua đó tìm hiểu những điều thú vị trong phong tục cưới hỏi.
Ngày xưa việc dựng vợ gả chồng cho con cái là việc của ông bà, cha mẹ. Có câu rằng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, phận làm con bắt buộc phải vâng lời. Những đám cưới diễn ra thường ít có sự tự nguyện của đôi trai gái, thậm chí họ còn chưa hề gặp gỡ, không hề biết mặt mũi cũng như tính cách của nhau.
Đa phần sự định đoạt duyên phận của đôi trẻ phụ thuộc vào mối quan hệ thân tình của hai bên ông bà, cha mẹ, và thường được tiến hành từ rất sớm. Dân gian có câu “nữ thập tam, nam thập lục” nghĩa là gái mười ba tuổi, trai mười sáu tuổi, là đã có thể dựng vợ gả chồng.
Theo quan niệm người xưa, việc cưới hỏi phải tuân theo 6 trình tự gọi là “Lục lễ”:
Thực hiện đủ “lục lễ” này, từ khi “nạp thái” cho đến “thân nghinh” có khi phải kéo dài vài ba tháng trời. Mà cổ nhân vẫn có câu “Cưới vợ phải cưới liền tay”, vì thế trên thực tế người Việt thường thu gọn vào làm 3 lễ: Lễ nạp thái, lễ vấn danh và lễ thân nghinh.
Theo những ghi chép của cổ nhân, quy trình được thực hiện như sau:
Sau khi đôi bên nhà trai nhà gái đã thỏa thuận việc cưới gả, bà mối sẽ hẹn ngày với bên nhà gái để đưa người chủ hôn (cha mẹ) bên nhà trai và chú rể, đem lễ vật trầu cau đến nhà gái xin đính ước. Lễ này gọi là lễ chạm ngõ (có nhiều nơi còn gọi là dạm ngõ).
Theo lệ xưa, lễ chạm ngõ có đưa một tờ hoa tiên, ghi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con trai để nhà gái xem xét và chấp nhận cho việc đính hôn ấy. Theo phong tục cổ nhân, sau lễ chạm ngõ cả hai bên trai gái đều phải làm lễ trước từ đường để trình với tổ tiên về việc tạm đính ước này.
Lễ chạm ngõ thực chất mới chỉ là một chuyện đính ước lúc ban đầu, để nhà trai có cớ thường xuyên đi lại với bên nhà gái, tỏ tình thân mật cho sự thông gia và bàn tính đến lễ ăn hỏi sau này. Nếu vì một lý do nào đó khiến đôi bên không muốn cưới gả nữa, cũng không có vấn đề trách nhiệm nếu chưa chính thức làm lễ ăn hỏi.
Lễ này là một lễ rất quan trọng, được tổ chức trọng thể bởi có tính chất là việc hợp thức hóa chuyện nhân duyên của đôi trai gái trước khi làm lễ cưới. Người mối mai đưa những người quan trọng của nhà trai, chú rể và một số họ hàng thân thuộc đem lễ vật như: Cau, trầu, chè mứt hay bánh đến nhà gái để nhà gái làm lễ bẩm báo với gia tiên. Sau đó, nhà gái đem các phẩm vật này ra chia phần cho các bạn hữu và họ hàng thân thuộc để rõ là mình đã quyết định gả con gái rồi, không thay đổi gì nữa.
Theo phong tục của cổ nhân, ngày rước dâu về nhà chồng, nhà trai thường hay đi đón dâu vào ban đêm và bắt buộc phải chọn được giờ Hoàng đạo (giờ tốt). Vào ngày đó, nhà trai nhờ một cụ già khỏe mạnh, tráng kiện, điều kiện là phải còn đủ vợ chồng song toàn, nhiều con cháu, thay mặt nhà trai đi đón dâu.
Cụ già tay cầm nhang, theo sau là người dẫn lễ với đầy đủ lễ vật và kế đến là chú rể cùng với số người tùy tùng khác. Vào nhà cô dâu, chú rể phải làm lễ gia tiên rồi mới được rước vợ về. Theo phong tục, khi ra khỏi nhà, cô dâu phải bước qua một bếp lò đang cháy, mục đích là để bỏ lại những vận đen đủi, đem may mắn đến gia đình nhà chồng.
Thường lễ cưới đến đây là kết thúc nhưng theo phong tục một số nơi, cô dâu chú rể còn làm lễ tơ hồng. Đây là lễ tạ ơn ông tơ, bà nguyệt đã se duyên phận họ lại với nhau, khiến cho họ nên vợ nên chồng và ăn đời ở kiếp bên nhau.
Sau tiệc cưới là hợp cẩn. Lễ này dành riêng cho đôi tân hôn. Họ sẽ uống chung một ly rượu, sau đó người vợ đi trải chiếu rồi lạy chồng ba lạy, người chồng cũng xá lại vợ mình ba xá.
Thời phong kiến, tục này để khẳng định rằng người chồng luôn là người có quyền quyết định cuộc sống sau này, người vợ hiền thảo sẽ luôn tuân theo sự sắp đặt của chồng. Tuy thế, người chồng cũng phải tôn trọng vợ, hai người luôn kính nhau như khách. Sau hôn lễ hai hoặc bốn ngày vợ chồng dắt nhau về gia đình nhà vợ để làm lễ lại mặt, còn gọi là nhị hỷ hay tứ hỷ.
Cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống, ngày nay việc tổ chức hôn lễ đã khác thời xưa rất nhiều. Có nhiều quan điểm cho rằng ngày nay “con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy” mới là chính xác. Thanh niên nam nữ tự do tìm hiểu, yêu đương, khi đã cảm thấy thực sự gắn kết, sẽ dẫn nhau về trình diện với cha mẹ hai bên, xin được tổ chức lễ cưới.
Nhưng cho dù cuộc sống có hiện đại đến đâu, việc cưới hỏi có giản tiện đến đâu, thì vẫn phải giữ được 3 lễ cơ bản trong phong tục của người xưa. Đó là sự tiếp nối một truyền thống tốt đẹp của cha ông, trở thành một nét văn hóa rất riêng biệt của người Việt.
Đám cưới ngày nay vẫn phải có lễ chạm ngõ. Việc giản tiện so với phong tục ngày xưa là không nhất thiết phải làm lễ này trước nhiều ngày so với lễ cưới, có thể chỉ trước lễ hỏi vài ngày là được.
Điều đặc biệt cần ghi nhớ trong lễ dạm ngõ là các lễ vật đều phải là số chẵn. Với thực tế là đa số nam thanh nữ tú ngày nay đều đã quen biết và yêu thương nhau trước khi diễn ra lễ dạm ngõ nên lễ này chỉ mang yếu tố tinh thần là chủ yếu. Trong lễ dạm ngõ, gia đình nhà trai cũng như nhà gái sẽ trực tiếp, thẳng thắn bàn bạc về những dự định trong lễ ăn hỏi và lễ cưới sẽ diễn ra sau đó.
Sau khi đã hoàn thành việc lễ chạm ngõ, hai nhà sẽ tiếp tục tiến đến nghi lễ quan trọng thứ hai, đó là lễ ăn hỏi. Nghi lễ này được coi như lễ đính hôn trong phong tục truyền thống của người Việt. Đây là sự thông báo chính thức về việc hứa gả con cái giữa hai họ.
Đối với miền Bắc, lễ vật nhà trai cần chuẩn bị số lễ là lẻ, bao gồm 5, 7, 9 hay 11 lễ. Còn ở miền Namthì ngược lại, nhà trai phải chuẩn bị số lễ chẵn. Ở cả hai miền, nhà gái đều là người quyết định số lượng lễ cũng như các vật phẩm trong lễ vật. Thông thường, lễ ăn hỏi sẽ gồm trầu cau, rượu, thuốc lá, chè, mứt sen, bánh cốm, bánh susê, hoa quả, xôi, lợn.
Sau khi sắm sửa các đồ lễ theo yêu cầu của nhà gái, nhiều gia đình nhà trai sẽ tự tay đóng gói lễ vật ăn hỏi. Việc tự tay chuẩn bị đồ lễ tuy mất công nhưng nhà trai có thể yên tâm về số lượng cũng như chất lượng của từng vật phẩm. Điều đặc biệt cần lưu ý trong lễ ăn hỏi là nhà trai phải chuẩn bị 3 phong bì đựng tiền (gọi là lễ lót tay), một phong bì dành cho nhà nội cô dâu, một phong bì dành cho nhà ngoại cô dâu và phong bì còn lại để thắp hương trên bàn thờ nhà cô dâu.
Số tiền trong phong bì nhiều hay ít là tùy thuộc vào nhà gái. Tất nhiên, ở thời hiện đại, số tiền này thường cũng được nhà gái yêu cầu với tính chất tượng trưng mà thôi.
Vào ngày đẹp đã được chọn sẵn, nhà trai gồm các người lớn tuổi trong dòng họ, bố mẹ chú rể và chú rể sẽ mang các tráp lễ vật đến nhà gái, các tráp này sẽ được bưng bê bởi những thanh niên chưa vợ, đồng thời nhà gái cũng phải có một số lượng tương đương các thiếu nữ chưa chồng để đỡ tráp. Khi trao tráp xong, nhà trai sẽ lì xì cho đội đỡ tráp nữ và ngược lại, nhà gái sẽ lì xì cho đội bưng tráp nam, số tiền lì xì tùy thuộc vào hai nhà và thường là được thống nhất từ trước.
Thủ tục ăn hỏi thường tiến hành khi các vị quan khách hai bên đã an tọa, đại diện nhà trai sẽ phát biểu trước, giới thiệu các thành phần tham gia đám hỏi và lý do ăn hỏi để làm thủ tục kết đôi cho cặp uyên ương. Để đáp lễ, đại diện nhà gái sẽ phát biểu tương tự, đồng thời thay mặt gia đình chấp thuận đề nghị của nhà trai và nhận lễ vật. Sau đó, hai bố mẹ của hai nhà sẽ thắp hương báo cáo gia tiên nhà gái. Thủ tục cuối cùng là cô dâu và chú rể ra mắt hai họ, rót nước, mời trầu, mời bánh kẹo đến các vị quan khách.
Và để đưa một chuyện tình yêu đến giai đoạn thăng hoa nhất, những cặp đôi yêu nhau sẽ tổ chức lễ cưới, đón cô dâu mới về nhà chồng theo phong tục truyền thống. Vào một ngày giờ đẹp đã được thống nhất với cả hai nhà trai gái, chú rể sẽ cùng bố mẹ và đoàn nhà trai tới nhà gái trong trang phục nghiêm chỉnh, mang theo xe hoa, hoa cưới để đón cô dâu về nhà chồng. Cô dâu sẽ diện váy cưới và chú rể diện vest lịch lãm.
Đại diện nhà trai sẽ xin phép gia đình cô dâu được thắp hương trên bàn thờ nhà gái để báo cáo và làm thủ tục đón dâu. Khi đó, bố cô dâu sẽ đưa con gái về nhà chồng, mẹ cô dâu phải ở lại nhà gái theo phong tục cổ truyền. Khi về tới nhà chú rể, đôi uyên ương sẽ thắp hương tại nhà trai, sau đó nghi lễ thành hôn được diễn ra, tùy theo gia đình hai nhà mà tổ chức tiệc ngọt hay tiệc mặn ở khách sạn.
Đặc biệt ở một số vùng miền, bố mẹ chồng không đi đón dâu mà để các bậc cha chú trong họ làm người đại diện. Một số vùng khác còn có phong tục cưới hai lần, tùy theo tuổi cô dâu mà xin dâu luôn trong đám ăn hỏi rồi đón cô dâu về nhà ngay trong hôm ăn hỏi. Sáng sớm ngày hôm sau, cô dâu sẽ tự mở cửa để về lại nhà mình, như thế được coi là đã một lần xuất giá lấy chồng. Tiếp đến, lễ cưới và đón dâu lần hai sẽ diễn ra như bình thường.
Trong xã hội phong kiến, Nho học quan niệm “Nam nữ thụ thụ bất thân”, nghĩa là người nam và người nữ cho dù cho hay nhận vật gì cũng không được đụng chạm vào nhau. Cộng với phong tục “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nên việc hôn nhân đều phải cần tới người mối lái. Đó là những người biết ăn nói, quen việc làng nước để có thể trình bày rõ ràng những quan điểm của họ nhà trai đối với nhà gái.
Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề “mối lái hôn nhân “, nếu cặp vợ chồng do mối lái xứng đôi vừa lứa, hạnh phúc tròn đầy thì bà mối sẽ trở thành ân nhân suốt đời. Sau khi làm lễ tơ hồng, hai họ sẽ tạ bà mối một nửa mâm xôi, nửa con gà kèm theo một chiếc áo lụa. Khi đứa con đầu lòng của cặp vợ chồng mới cưới được đầy tháng, thế nào cũng phải có mặt bà mối đến dự, như là cách để tỏ lòng tri ân.
Thời hiện đại, vẫn không hiếm những “bà mối”, tất nhiên là vai trò không rõ ràng như ngày xưa. Trong cuộc sống bận bịu, chạy đua với thời gian, nhiều bạn trẻ quá ham công tiếc việc, đến nỗi không kịp có phút riêng tư cho mình. Đến khi lớn tuổi, mới giật mình nhận ra vẫn “phòng không chiếc bóng”. Lúc này “bà mối” có thể bạn bè xung quanh, thậm chí cả những người thân lớn tuổi, họ sẽ làm cầu nối để những người cô đơn gặp nhau, tìm hiểu nhau để nếu có thể thì tiến tới hôn nhân.
Còn có một “bà mối” khác nằm ở các phương tiện thông tin đại chúng. Những trang báo, những địa chỉ mạng làm nhiệm vụ liên lạc giữa những người thực sự muốn xây dựng gia đình, là bước đệm ban đầu để họ gặp nhau. Không ít các cặp vợ chồng thời hiện đại đã nên duyên từ những “bà mối” như thế.
Hiện nay, có nhiều người chán Tết và luôn có tư tưởng đi du lịch nước ngoài. Họ cho rằng, Tết truyền thống đã nhàm chán, đón Tết ở nhà cũng rất mệt mỏi nên muốn thay đổi không khí bằng việc, đi ăn Tết ở nước khác.
Không biết quan điểm của nhiều người thế nào nhưng với tôi, việc Tết đi du lịch ở nước ngoài là trái với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.
Nghe nhiều người nói chán Tết, muốn bỏ Tết truyền thống vì Tết thật sự quá vất vả, mệt mỏi, không cần thiết, tôi thấy có chút buồn. Vì căn bản, Tết là dịp nghỉ dài duy nhất trong năm, là dịp để con cháu, ông bà, bố mẹ sum họp với gia đình. Với những người ở gần thì điều đó không có gì đáng bàn, vì họ thường xuyên được về ăn Tết cùng bố mẹ. Nhưng với những người ở xa, một năm được về một lần, thậm chí vài năm mới về một lần thì Tết là một dịp đặc biệt, là một dịp nghỉ dài người ta trân trọng. Đó là những ngày thiêng liêng nhất họ được ở bên bố mẹ, gia đình, người thân yêu. Có khi họ phải chờ cả năm, cả vài năm mới được đón một cái Tết bên gia đình.
Khi bạn ở gần, những dịp sum họp như thế không khó, thích thì có thể về với bố mẹ vài ngày. Nhưng với những người con xa nhà, dịp ấy thật sự quá khó khăn, quá là mong mỏi.
Mỗi dịp Tết về, trong lòng mỗi người con Việt Nam lại thổn thức, lại bổi hổi bồi hồi nhớ về quê hương, nhớ về gia đình nhất là những người nơi xa. (ảnh minh họa)
Nhiều người chọn cách ra nước ngoài du lịch để ‘trốn Tết’, đứng ở cương vị cá nhân, tôi cho rằng, đó là một tư tưởng đi ngược lại truyền thống.
Bạn có thể nghĩ đơn giản rằng, Tết nhiều rồi, một năm đổi không khí không sao? Tết nhiều rồi, đi ra ngoài chút cũng không vấn đề gì. Năm nào chả có Tết, lại chỉ cỗ bàn, lại chỉ cơm nước, lại chỉ bận rộn với những việc rửa bát, nấu nướng, mệt mỏi vô cùng. Nhưng, trong thâm tâm bạn có thể không nghĩ sâu xa rằng, bố mẹ sẽ rất buồn khi một cái Tết không có con cái sum vầy.
Những quảng cáo trên truyền hình, trên mạng xã hội chẳng phải luôn nhắc nhở những bậc làm con rằng, Tết dù bận thế nào, dù ở đâu thì cũng đừng quên về bên ba mẹ. Vì chẳng phải ba mẹ có thể sẽ nói không buồn nhưng trong lòng thì luôn mong ngóng con cái hay sao?
Mỗi dịp Tết về, trong lòng mỗi người con Việt Nam lại thổn thức, lại bổi hổi bồi hồi nhớ về quê hương, nhớ về gia đình nhất là những người nơi xa. Mùi hương ngày Tết sẽ nhắc nhở người ta nhớ tới tình cảm ấm áp thiêng liêng, nhắc đến giây phút sum vầy. Đó mới là điều quan trọng, chứ không phải là chuyện chúng ta được ở bên bố mẹ rất nhiều lần trong năm không phải chỉ là ngày Tết.
Du lịch, ngày này không đi, ngày sau có thể đi, bất cứ lúc nào chúng ta muốn chúng ta đều đến được. Nhưng với ba mẹ và những người thân yêu, một dịp để vui vẻ, sum vầy bên nhau không phải dễ. Nên với tôi, Tết đi du lịch nước ngoài là trái với thuần phong mỹ tục, là việc không nên chút nào. Nên các bạn, hãy nhớ, ngày Tết cùng với gia đình, ở nơi mình sinh ra và lớn lên, đó mới là điều khiến ta cảm thấy thổn thức trong lòng nhất, khiến ta cảm thấy được trở về nguồn cội, quê hương hơn bao giờ hết…
Những cửa hàng như thế tuy hướng tới được khách hàng nhưng không có lợi cho sự ra vào của khách hàng. Những cửa hàng như vậy, trước cửa nên làm một tấm lầu che nắng mưa, có được tấm lán đó, mùa nắng có thể tránh được ánh nắng chiếu của những ngày nắng nóng, cùng khiến cho khách hàng đến cửa hàng có một nơi để nghỉ chân; vào mùa mưa, có thể tránh bị mưa làm ướt cửa hàng và khiến cho khách hàng đến đó chuẩn bị được một chỗ trú mưa. Nếu không, cửa hàng không có gì che chắn, trong những ngày nóng bức, khi nóng làm khách hàng không chịu được nên sẽ ít đến hơn; những hôm trời mưa, không khí ẩm ướt xung quanh, khách hàng không có chỗ đứng thì đương nhiên cùng sẽ không ai đến.
Vật cát tường:
Ỷ nghĩa tượng trưng: Trí tuệ, sức khỏe, khai vận cát tường.
Giải thích: Trong các vật khai vận cát tường của truyền thông Trung Quốc, “hồ lô” có hiệu quả thần kỳ trong việc trừ tà, nạp phúc, tăng tiến tài vận, do vậy, miệng bình hồ lô nhỏ, thân bình to, dễ vào mà khó ra.
Có thế dùng để hoá giải bệnh tật, trừ bò sát khí.
7. Bên cạnh vị trí ngồi không nen gắn những chỗ rửa tay hoặc vòi nước
Nơi có nước chảy ra sẽ ảnh hưởng đến trường khí, bởi lẽ thủy vốn là tụ khí, cũng có thể làm nhiễu loạn từ trường. Nếu ngồi lâu ở bên cạnh đầu rồng (vòi nước), sẽ lâm cho hệ thầng thần kinh của bạn mất đi sự điều chỉnh hoặc có hiện tượng vận khí thay đổi, tốt nhất là tránh xa.
8. Bên cạnh vị trí ngồi không thể có những thùng rác to hoặc tạp chất
Cũng giống như nhà vệ sinh, thùng rác hoặc những đống phế liệu cũng là nguồn gốc của hung khí, tránh nó đi là tốt nhất.
9. Vị trí ngồi không thể thiếu ánh sáng hoặc không có cửa sổ
Nếu ánh sáng ở vị trí ngồi của bạn quá yếu, sẽ tạo thành hiện tượng thái dương không đủ, “âm khí nặng’’ của địa trường, để lâu sẽ khiến cho con người trở nên tiêu cực, sẽ rất dễ dẫn đến bi quan.
10. Vị trí ngồi không được đổi thẳng với nhà bếp hoặc lò vi sóng hoặc tủ lạnh
Nhà bếp là nguồn gốc của hoả khí, nếu dựa vào hoả khí càng gắn, sẽ ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh của cơ thể con người và trường sinh lý, nếu thời gian dài, sẽ gây trở ngại đến khả năng tư duy, tốt nhất là nên tránh xa.
11. Vị trí ngồi không thể đối thẳng với nơi uống nước
Cũng giống như vòi nước, máy uống nước cũng là nơi đi ra của thủy khí, đặc biệt là ảnh hưởng đến sự ổn định của trường khí gần đó; có thể giữ một khoảng cách xa là tốt nhất.
12. Vị trí ngồi không nên đối diện thẳng với cửa phòng cửa chủ quản hoặc cửa phòng ông chủ
Chủ quản và ông chủ thường là những người làm công tác quản chế làm việc, theo cách nói của người xưa là “khắc” đối với những người ăn lương làm công; trừ phi trong mắt bạn không có chủ quản và ông chủ, không thì tốt nhất là không nên đối điện với căn phòng của họ, bởi vì bạn sẽ chịu những ảnh hưởng nhất cử nhất động của họ mà chẳng có cách nào tập trung tinh thần, lâu dần để có những xung đột với họ. Chính vì vậy thường các ông chủ muốn người kia thôi việc thì đạt vị trí làm việc của họ đến gần cửa, lâu dần họ sẽ tự động ra đi.
13. Vị trí ngồi phía trên không có xà ngang hay đèn treo
Đầu người tuy không có mắt, nhưng những vật trên đỉnh đầu cũng đặc biệt nhạy cảm, luôn có cảm giác sợ có cái gì đó rơi xuống đầu: chính vì vậy mà nếu bạn biết trên bạn là xà ngang hoặc đèn treo, tiềm ý thức của bạn vô hình chung sẽ vũ trang lại, lúc nào cùng chuẩn bị để bảo vệ bản thân, lâu dần bạn sẽ hao tổn năng lượng rất nhiều, chẳng làm được việc gì đã cảm thấy mệt phờ. Nếu có thể, nên chuyển vị trí ngồi.
14. Vị trí ngồi không được để cho những đồ điện hoặc điện máy cỡ lớn vây quanh (máy tính, máy in, máy fax hoác máy lạnh)
15.Vị trí ngồi phía chính diện không nên làm thành tuyến động chính (con đường di lại của mọi người trong công ty)
Phía trước mặt vị trí ngồi nếu có con đường ra vào chính, như vậy sẽ làm lượng người có của cải đi vào đi ra trước mặt bạn, loại trường khí lưu động này sẽ làm nhiễu loạn từ trường của bạn, khiến cho tinh thần của bạn không tập trung, lâu dần tính tình trở nên nóng nảy, làm việc sơ xuất, nếu có thể bạn nên đổi vị trí khác, trừ phi đó là vị trí tiếp tân.
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.
Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.
Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…
Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.
Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.
Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).
Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!
Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.
Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.
Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.
Từ xưa, việc hai nhà có cửa đối diện nhau được coi là không tốt về phong thủy. Nếu không thể đảo cửa thì có thể dùng bình phong, tủ kệ hoặc chậu cây để che chắn.
“Môn đối môn” – thế cửa rất xấu
Đa số mọi người gọi tình huống này là phạm vào môn xung sát. Phạm vào “môn xung sát” chịu ảnh hưởng trực tiếp sẽ là người trong gia đình, gặp nhiều chuyện thị phi, mọi người rất dễ vì những chuyện nhỏ như “cây kim trong cọng chỉ” mà phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn. Nghiêm trọng hơn là nảy sinh những mối bất hòa với những người khác trong công việc, mâu thuẫn với đồng nghiệp, với cấp trên…
Nhưng, môn đối môn sẽ không gây ra vấn đề quá nghiêm trọng, trừ khi cửa chính vốn đã bị xung với một hành lang thẳng và dài, cộng thêm cửa đối diện cửa, khi đó mới thật là vấn đề đáng nói.
Phạm vào môn xung sát đồng thời cửa mở theo các hướng Đông, Đông Bắc, Tây Bắc và hướng Bắc thì người đàn ông trong gia đình sẽ gặp chuyện thị phi.
Nếu phạm vào môn xung sát đồng thời cửa mở theo các hướng Đông Nam, Tây Nam và hướng Tây thì những người trong gia đình dễ gặp chuyện thị phi.
Nếu phương vị của quẻ bát quái thuộc nam giới, phạm môn xung sát thì người đàn ông sẽ gặp bất lợi, nếu phương vị quẻ bát quái thuộc nữa giới phạm vào môn xung sát thì người nữ sẽ gặp bất lợi.
Quẻ bát quái của nam giới là Càn, Chấn, Khảm, Cấn.
Quẻ bát quái của nữ giới là Khôn, Tốn, Ly, Đoài.
Cách hóa giải:
“Kinh Lỗ Ban” ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ”. Nhưng ngày nay, thành phố chật hẹp, người đông, nhiều nhà cao tầng chuyện đối cửa khó tránh khỏi, nếu phạm vào điều kiêng kỵ này thì sẽ hóa giải bằng cách nào?
Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú… vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi.
Tuy nhiên, việc hai cửa đối nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
Ngoài ra, nếu không thể đảo cửa thì nên lấy bình phong (bằng gỗ, tủ kệ hay thậm chí là chậu cây) làm giải pháp che chắn hữu hiệu. Nên xem xét lại việc gắn mảng lớn kính thuỷ lên đầu cửa, lên tường ngoài nhà như một số người vẫn làm để “phản khí”, vì gương có thể gây chói mắt và mang nhiều tính đối chọi.
Các nhà tử vi thường cho rằng giải đoán tướng - dạng qua tử vi chỉ đạt được một tỷ lệ chính xác rất thấp vì phải phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố địa phương, sắc tộc, vv…nhưng về phương diện nếu dùng tử vi để tìm hiểu, tôi cho rằng ít khi bị sai trật, trước hết là nhờ khía cạnh lý thuyết trên lá số, sau nữa là vì các yếu tố sắc tộc hoặc địa phương không ảnh hưởn trực tiếp mạnh mẽ đến tình tình. Do đó quý bạn muốn tìm người cộng tác hay muốn kết thân với ai không gì bằng tìm hiểu họ qua tử vi, để đỡ phần nào phiền toái cho mình về sau. Và bài này có thể coi là bài bổ túc cho bài “ Tìm hiểu phụ nữ qua tử vi” đã đăng trên tạp chí KHHB. Sau đây tôi thử đưa ra những nguyên tắc căn bản để tìm hiểu tính tình qua tử vi theo thứ tự:
- Tương quan giữa ngũ hành của mạng với chính tinh toạ thủ tại mạng, thân ( hoặc xung chiếu nếu mạng thân Vô chính diệu).
- Các chính tinh toạ thủ tại Mạng, Thân.
- Các trung tinh và bàng tinh nổi bật.
- Cung Giải ách và các cung có ảnh hưởng rõ rệt và trực tiếp.
- Đại tiểu hạn.
1. Tương quan giữa ngũ hành của mạng với chính tinh toạ thủ tại mạng, thân ( hoặc xung chiếu nếu mạng thân Vô chính diệu)
Trước khi xét đến các chính tinh, ta cần phải xem mạng của mình có chịu ảnh hưởng của các chính tinh này hay ko hoặc chịu ảnh hưởng của chính tình nào. Như vậy, phải xét đến ngũ hành mà tôi đơn giản hoá như sau:
- Nếu mạng của mình khắc chính tinh thủ mạng hoặc thân phải coi như không ảnh hưởng gì của chính tinh nữa ( đối với chính tinh xung chiếu cũng vậy).
- Nếu chính tinh thủ mạng, thân khắc với bản mạng thì trái lại vẫn ảnh hưởng, nhưng không thuận lợi. Tỷ dụ như mạng hoặc thân có Phá quân là Thuỷ, nếu gặp mạng hoả thì vẫn là người thủ đoạn, phản phúc…nhưng hế hành động đúng theo ý nghĩa đó thì hay gặp hoạ, hoặc chỉ người tuy muốn ăn ở ngay thẳng nhưng ưa gặp môi trường thúc đẩy làm bậy để trở thành bất lương ngoài ý muốn, dù sao cũng phải kết luận người này không tốt.
- Nếu chính tinh và mạng cùng một hành hoặc chính tinh sinh mạng thì ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, xấu hoặc tốt tuỳ theo ý nghĩa của của chính tinh.
- Nếu chính tinh được bản mạng sinh thì ảnh hưởng cũng mạnh mẽ như trường hợp trên, nhưng có điểm hơi khác là người đó không có lập trường vững, cứ thay đổi tâm hồn theo hoàn cảnh môi trường. Riêng về điều này cần phải phối hợp với các cung khác (Thiên Di, Nô Bộc, hoặc Quan lộc … tuỳ theo ảnh hưởng nổi bật nhất mà tôi sẽ bàn trong mục 4 dưới đây)
Nói tóm lại quý bạn chỉ cần xét sơ lược như trên là đủ khỏi cần lý luận quá mức về ngũ hành (ví dụ như mạng Mộc lại còn phải xét thêm Mộc gì, rồi lại còn thắc mắc mạng Âm Mộc hay Dương Mộc…) dễ bị phiêu lưu vố ích.
2. Các chính tinh toạ thủ tại Mạng, Thân
Sau khi đã nhận định tương quan giữa bản mạng và chính tinh toạ thủ tại Mệnh, Thân hoặc xung chiếu nếu Mệnh, Thân vô chính diệu. ( Tôi khỏi cần phân tích vấn đề Mệnh và Thân vì quý bạn đương nhiên đều biết thời gian ảnh hưởng rồi)
- Thiên Phủ: Tính tình nổi bật của sao này là ít nói, kín đáo hay suy tư sâu xa, nhưng rất trung hậu, xử thế ra người quân tử, ăn nói lúc nào cũng chững chạc, đúng mức, không bao giờ hứa hẹn bừa bãi hoặc làm việc gì liều lĩnh, do đó dễ cho là lạnh lùng, lãnh đạm, không sốt sắng mặc dù trong thâm tâm rất vị tha. Chính vì vậy sao Phá quân không bao giờ “hân hạnh” đứng chúng với Thiên Phủ theo cách bố cục nhất định của các chính tinh? Theo tôi Thiên Phủ còn hơn Tử Vi ở chỗ là không có cung nào làm cho Thiên Phủ trở nên bất lương, trong khi Tử Vi đi với Tham Lang, hoặc Tử Vi cư Thìn Tuất lại trở thành thủ đoạn. Do đó quý bạn có thể kết thân với người có Thiên Phủ thủ mạng (bất luận nam hay nữ) mà khỏi sợ phản phúc, nhưng quý bạn nếu cần người cộng tác dám mạo hiểm thì họ hoàn toàn bất lực.
- Thiên Tướng: Cũng như Thiên Phủ, Thiên Tướng ở bất cứ vị trí nào cũng không thể mất được đặc tính quân tử, trượng phu, cao thượng, ngay cả khi đồng cung với Tử Vi ở La Võng ( Thìn Tuất) cũng mặc cho Tử vi hội cùng Phá Quân trở thành bất nhân chứ Thiên Tướng không hùa theo, vẫn giữ được lòng thanh cao. Bởi thế các sao Không - Kiếp gặp Thiên Tướng phải chịu thúc thủ, sợ hãi chứ đâu có giám qua mặt Thiên Tướng. Tuy nhiên trong giao thiệp người Thiên Tướng bao giờ cũng nên chịu “ lép” một chút thì mới thuận hào vì sao này thường chỉ thích chỉ huy, kiêu căng, nhiều tự ái.
- Thiên Cơ: Có lẽ trong các chính tinh, không có sao nào khôn ngoan hơn sao này. Thực tế tôi biết khá nhiều người Thiên Cơ (với điều kiện mạng Mộc hay Hoả ) xoay xở hoặc kinh doanh rất giỏi vì họ biết tính toán có lợi cho họ một cách công khai, do đó ta không thể cho họ là lưu manh, tàn nhẫn mặc dù chơi với học ta bị thiệt thòi chứ ít khi có lợi, kể cả trường hợp kinh doanh. Tuy nhiên, Thiên cơ nếu đồng cung với Thái Âm ( là sao thiếu thực tế, mơ mộng ) sẽ bớt tính toán, khôn ngoan mặc dầu Thái Dương hội Thái Âm vẫn là cách kinh doanh lớn nhưng với Thiên Cơ lại khác. Nếu Thiên Cơ đồng cung với Thiên Lương ( Thìn Tuất ) thì như diều gặp gió, lại càng linh động, mưu trí hơn, lúc đó ít ai qua mặt được mặc dù bề ngoài người có Cơ Lương lại tỏ ra hiền lành khờ khạo, nhưng trong thâm tâm họ có cả một kế hoạch tinh vi khéo léo để trục lợi một cách đàng hoàng và công khai.
- Tham Lang: Sao này bị nhiều nhà Tử vi chê ( trong số có cả cụ Hoàng Hạc) vì đó là biểu tượng lòng dục vô bờ bến, tính vị kỷ…Tôi cũng đã bài bác sao này trong bài “Tìm hiểu phụ nữ qua Tử vi” rồi. Nhưng riêng đối với phái nam, sao này bớt xấu đi vì sao này có quyền ăn chơi, hưởng thụ công khai nên đã có môi trường sử dụng khá nhiều khía cạnh “ bê bối” của sao Tham Lang chứ không tiềm tàng như đối với phái nữ. Ngoài ra phái nam còn trực tiếp tham gia vào cuộc sống cộng đồng, chính trị để thực hiện ý đồ, tham vọng của mình nên Tham Lang càng được hoạt động dễ dàng khiến cho tâm hồn cởi mở, đàng hoàng hơn nhất là khi có thêm các trung tinh bàng tình ( như Quan – Phúc, Khôi - Việt…). Tuy nhiên người nào hợp Tham Lang ( như người mạng Thuỷ, Mộc ) mà ăn ở trong sạch, liêm khiết thì cuộc sống sẽ thiếu thốn và phức tạp vì như thế là trái với Tham Lang ( làm chủ tại Mệnh và Thân) bởi vậy tục ngữ ta mới có câu: “ Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy” ý là nói về Tham Lang độc thủ. Còn như trường hợp Tham Lang đồng cung với Vũ Khúc hoặc Liêm Trinh thì ý nghĩa không còn như trên nữa, và trong sách tử vi cũng có nói tới tình tình của Tham – Vũ đồng hành và Liêm – Tham Tị Hợi.
Về chính tinh tôi chỉ đưa ra 3 sao điển hình vì mục đích này chỉ đưa ra một vài nguyên tắc tổng quát để tìm hiểu chứ không thể đi sâu vào chi tiết quá sẽ dài dòng, vậy mong quý bạn thông cảm. Nếu quý bạn có hỏi thêm một vài chi tiết cho cá nhân mình xin cứ viết thư lại toà soạn tôi sẽ tuỳ nghi trả lời.
3. Các trung tinh và bàng tinh nổi bật
Sau khi biết chính tinh nào ảnh hượng mạnh, chúng ta cần xét đến các trung tinh và bàng tinh để xem cho chính xác hơn nhất là trường hợp mạng lại khắc với chính tinh thì trung tinh và bàng tinh sẽ đóng vai trò quan trọng hơn nữa.
Tôi xin nêu ra một vài thí dụ:
- Nếu mạng có Vũ Sát ( Mão - Dậu ) thường thường tính tình khô khan, ít nói ít cười, nhưng lại có Song hỉ, Thanh Long hoặc Long Phượng, Quang Quý thì vẫn không thể quyết đoán đương số lạnh lùng được, trái lại vẫn bặt thiệp vui tính như thường, đó là khi mạng “ăn” được nhiều trung tinh và bàng tinh nêu trên.
- Nếu mạng có Thiên Phủ thì biết được là người đôn hậu từ tốn, khiêm nhường, mà có thêm Quan – Phúc nữa thì phải đoán người hiền đâm ra nhu nhược hoặc là quá ít ăn ít nói đâm ra lạnh lùng, khô khan. Trường hợp có thêm Lộc tồn nữa thì tính từ tốn trở nên quá dè dặt, đa nghi dó đó tâm hồn vị tha giảm đi nhiều.
- Nếu mạng có Tham lang tuy chỉ nghĩ đến mình và vụ lợi nhưng nếu có Tả, hữu, Đại tiểu hao, Thai toạ thì vẫn có thể vị tha được mặc dầu tính ích kỷ chưa thể dứt bỏ hẳn. Chỉ ngại nhất người Tham Lang gặp Cô Quả, Hoá kỵ thì không khác gì “ xi măng, cốt sắt ” nếu người đó giúp mình được một thì cũng gián tiếp hay trực tiếp lấy lại được hai, ba.
- Nếu mạng Thiên Lương (ở Ngọ) có thêm Quan – Phúc Đại tiểu hao thì đúng là người có lòng bồ tát, coi của riêng như của thiên hạ, rất vị tha, rộng rãi, từ bi, tuy không phải là bậc tu hành.
4. Cung Giải ách và các cung có ảnh hưởng rõ rệt và trực tiếp
Có nhiêu nhà tử vi khẳng định cung Giải ách chỉ xem về bệnh tật, tai nạn, chứ không thể áp dụng cho tính tình nhưng lại có một số vị cao thâm tử vi chủ trương phải xét đến cung Giải ách để đoán thên một cách chính xác tính tình. Tôi cũng đã chiêm nghiệm nhiều về khía cạnh này và nhận thấy cung Giải ách cho ta thêm nhiều yếu tố để tìm hiểu tính tình, nhưng có điểm cần là cung Giải ách tiêu biểu cho tính tình tiềm tàng, sâu kín mà chỉ có đương số nhận thức được chứ ta không thể thấy được xử kỷ tiếp vật của đương số.
Sau đây là một số thí dụ:
- Nếu Mạng có các sao dữ dằn, phách lối (Hoả, Linh, Kình, Đà, Hình, Quyền, Thất sát…) nhưng nếu cung Giải ách có Quan Phúc, Khôi Việt, tứ Đức, Đào Hồng chẳng hạn ta cũng đừng quá ngại, chẳng qua bề ngoài người đó lỗ mãng, nông nổi nhưng trong thâm tâm vẫn trung hậu, tử tế, nhận đạo. Nếu ngược lại (Mạng có sao hiền mà Giải Ách toàn sao dữ) thì đúng là người miệng nam mô Phật bụng bồ giao găm.
- Nếu Mạng có Đại tiểu hao, hội Thiên Lương mà cung Giải ách có Lộc tồn, Cô quả, Kỵ, Tham Lang thì coi chừng người đó cho tay này rồi lấy tay khác, hoặc có cho thật thì lòng cũng xót xa cay đắng lắm.
- Trường hợp mạng có Đào Hồng, song Hỉ, hội Tham Lang hoặc Thiên Đồng thì ai chẳng bảo là tâm hồn, tính tình vui vẻ, yêu đời nhưng nếu cung Giải ách có Tang Hổ, Khốc Hư, Cô Quả, Hoá kỵ thì đúng là: “ bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”.
Ngoài cung Giải ách ra, đôi khi ta phải xét đến các cung khác, nếu có những yếu tốt nổi bật để phối hợp tỷ dụ như:
- Mạng có Thiên Lương (cu Tị, Hợi) có Phục Binh đồng cung (tức là có Tướng quân xung chiếu là cách nội Binh ngoại tướng) nếu cung Thiên di có Đào Hồng, Không Kiếp, hội chiếu các sao xấu khác thì mình có thể quyết đoán là đương số thích ăn chơi, đàng điếm vì bạn bè xúi giục (Thiên Di) đồng thời đương số sẵn có tính đó (Thiên Lương cư Tị Hợi) gặp người mạng Thuỷ (tức mạng sinh sao) lại càng đúng nữa vì không có lập trường vững.
- Nếu mạng có tính thích bay nhảy di chuyển (như có Thiên mã hội Thiên Đồng…) lại được cung Phụ mẫu có Tuần Triệt và cung Thiên Di có Thân đóng ở đó thêm Phi Liêm, Thiên Giải, Thiên Không thì nhất định tính đó biểu lộ càng rõ rệt hơn.
- Nếu mạng có Đại tiểu hao, cung Tài có Không Kiếp xung phá, nhưng cung Điền rất tốt (như có Đào Hồng, Khôi Việt, Nhật Nguyệt đắc địa…) thì ta có thế đoán đương số có tính hoang phí nhưng không mù quáng mà chi hết tiền mua tậu nhà cửa. Ngoài ra ta còn biết thêm (bằng cách suy luận) là đương số thích mỹ thuật nữa vì cung Điền có Long Phượng, Đào Hồng là nhà cửa phải trang hoàng đẹp đẽ…
Qua các thí dụ trên, quý bạn có thể suy ra các cung khác ( Tử tức, Thê Thiếp, Nô Bộc vv…) tuỳ theo trường hợp nhưng điều kiện phải có vài yếu tố nổi bật mới phối hợp được.
5. Đại tiểu hạn
Vì diễn biến sự nghiệp của một cá nhân ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến tình tính cá nhân đó cho nên ta không thể bỏ qua đại tiểu hạn khi tìm hiểu tính tình một người. Thực tế có người đang từ cau có, bẳn gắt khó tính khi nghèo hèn đã trở thành người hiền hoà, dễ dãi, vị tha khi giàu sang, hoặc có những người đang hiền hoà trở thành thủ đoạn, lưu manh chỉ vì hoàn cảnh (tức là đại tiểu han) lôi cuốn đến nỗi phải nằm tù. Lại có người đang từ một “ hạm” loại bự lại có tâm hồn thanh khiết, tìm chốn tu hành, chùa chiền để quy y sau khi một hoàn cảnh đau đớn nào đó làm cho chán nản, sáng suốt, biết chân lý của cuộc sống. Phần này khá dễ dàng nên tôi không nêu khía cạnh tử vi ra.
Trên đây là là những nguyên tắc có tính cách bao quát, rộng rãi uyển chuyển, để giúp quý bạn tìm hiểu tính tình qua tử vi. Lẽ dĩ nhiên, nếu quý bạn “làm biếng” quý bạn có thể nhìn đơn thuần các sao tại Mệnh hoặc Thân mà vẫn tìm hiểu tính tình được, nhưng nếu muốn cho chính xác hơn quý bạn cần phối hợp các yếu tố tôi đã nêu ra.
KHHB B1 – (20/2/1974)
Đối với hôn nhân, việc lựa chọn chiếc nhẫn đính hôn là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, ngoài tính thẩm mỹ, bạn nên cân nhắc về mặt phong thủy.
Hỏi: Có quan niệm cho rằng nhẫn đính hôn kim cương có ba viên là không tốt về mặt phong thủy, có người gọi nó là nhẫn kỷ niệm. Trong khi đó, nhẫn đính hôn truyền thống có một viên kim cương chính, có thể có thêm các viên kim cương nhỏ hơn bên cạnh lại rất hợp phong thủy. Ngoài ra, việc chọn mua nhẫn đính hôn có thiết kế lồng vào nhau được khuyên là không nên. Xin hỏi những quan niệm này có đúng hay không?
Trả lời:
Phong thủy đồ trang sức là một chủ đề phổ biến bởi vì khi được lựa chọn một cách chính xác, nó sẽ là trở thành người bảo vệ mạnh vẽ và tiếp thêm sinh lực cho năng lượng cá nhân của bạn.
Về cơ bản, các tiêu chuẩn phong thủy trang sức tốt hay xấu đều dựa trên năng lượng được tạo ra bởi những viên kim cương và các tinh thể, đá quý khác nhau trong từng bối cảnh cụ thể. Vì vậy, câu hỏi về thiết kế chiếc nhẫn đính hôn có ba viên kim cương là rất thú vị!
Nếu bạn nhìn vào lịch sử của chiếc nhẫn đính hôn sẽ thấy rằng đã có rất nhiều loại đá quý và thiết kế khác nhau được sử dụng, không chỉ riêng mình kim cương. Hầu hết đều chứa đựng ý nghĩa sâu xa và ngôn ngữ phức tạp riêng. Đá Saphia (còn gọi là Ngọc bích) được sử dụng vì hàm nghĩa lòng trung thành và sự tận tâm; đá Hồng Ngọc tượng trưng cho năng lượng của sự đam mê và đá Ngọc lục bảo có ý nghĩa là sức sống và sự may mắn.
Thực tế, kim cương được coi là “ông hoàng đá quý” vì nó là loài đá quý tự nhiên cứng và sáng nhất. Kim cương có đặc tính bảo vệ và tác dụng chữa bệnh mạnh mẽ. Do đó, nó là biểu tượng hoàn hảo để thể hiện tình yêu vĩnh cửu. Năng lượng của nó được đánh giá là kết tinh của sự thủy chung và lòng tin vào một mối quan hệ trọn vẹn.
Chiếc nhẫn truyền thống có một viên kim cương được xem là lý tưởng nhất theo phong thủy vì nó hàm nghĩa “một” và “duy nhất”. Bên cạnh đó, năng lượng chứa đựng trong một viên kim cương lớn sẽ dồi dào hơn ba viên nhỏ.
Nhẫn đính hôn gồm một viên kim cương lớn, có thể có thêm những viên nhỏ bên cạnh cũng rất tốt về mặt phong thủy. Nó biểu tượng cho cặp đôi luôn bên nhau gắn bó hạnh phúc. Trong khi đó, số 3 mang hàm nghĩa bất lợi cho tình yêu và hôn nhân.
Lưu ý khi chọn mua nhẫn đính hôn
Chọn mua nhẫn đính hôn là việc rất quan trọng. Nếu bạn chưa có kinh nghiệm và băn khoăn không biết làm thế nào để tìm thấy chiếc nhẫn hoàn hảo thì hãy tham khảo một số lời khuyên tuyệt vời sau đây:
– Xác định mức ngân sách tối đa bạn có thể chi trả cho chiếc nhẫn. Các nhân viên bán hàng thường làm cho bạn nghĩ rằng tình yêu của bạn quan trọng và phải đặt nó trên tất cả, bao gồm cả chiếc nhẫn. Vì thế, tốt hơn hết, bạn cần tự đặt ra cho mình một mục tiêu rõ ràng trước khi bước chân vào tiệm trang sức. Đẹp, phù hợp thôi chưa đủ, chiếc nhẫn còn phải vừa với túi tiền của bạn.
– Chọn nhẫn bạch kim hay vàng? Hiện đại hay truyền thống? Cầu kỳ hay đơn giản?… sẽ là những băn khoăn khiến bạn mệt mỏi. Việc chọn mua chiếc nhẫn sẽ dễ dàng hơn nếu bạn biết trước mình, có thể cả “người ấy” thích gì. Và nếu nó đơn giản thì bạn hãy tìm một chiếc nhẫn đơn giản miễn sao hợp túi tiền và làm cho người yêu bạn vui là được.
– Chọn một loại đá trang sức trong cửa hàng đã được thợ kim hoàn thiết kế sẳn theo kiểu mà bạn thích, nếu điều kiện tốt hơn bạn có thể chọn kim cương.
– Bạn có thể đặt cửa hàng thiết kế theo ý bạn. Thêm hay bớt vài viên đá chẳng hạn, chạm lộng lẫy hoặc thêm các chi tiết khác. Bạn có thể chọn màu vàng, trắng hoặc vàng, bạch kim, hoặc thậm chí titan .
– Tối đa hóa ngân sách của bạn nếu dự định của bạn là muốn mua nhẫn kim cương lớn, bạn sẽ phải cân đối lại ngân sách. Yêu cầu một viên với diện tích bề mặt lớn hơn nó sẽ không lấp lánh nhiều nhưng nó sẽ trông lớn hơn và sẽ tốn số tiền lớn. Thay vì mua một chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương, hãy tìm hiểu thêm một loại đá quý khác ít tốn kém (như thạch anh, topaz xanh, saphia) hai bên là hai viên kim cương nhỏ. Chọn bạc thay vì bạch kim cũng tốt.
– Nếu bạn muốn đi mua nhẫn thì đừng đi một mình vào cửa hàng trang sức. Vì đi một mình bạn sẽ không biết lựa chọn thế nào vì có quá nhiều sự lựa chọn. Nếu có thể, bạn nên rủ người yêu, bạn thân hoặc mẹ của bạn đi cùng để giúp bạn lựa chọn. Như vậy bạn sẽ nhận được sự góp ý để chọn cho mình chiếc nhẫn ưng ý hơn.
– Nếu bạn suy nghĩ việc đưa người yêu đi mua sẽ mất đi yếu tố bất ngờ, thì bạn phải chắc chắn rằng cô ấy thích chiếc nhẫn đính hôn của mình tự mua. Ngày càng có nhiều cặp vợ chồng đang làm theo cách này.
– Hãy tìm hiểu thương hiệu có uy tín thông qua bạn bè và gia đình. Trước khi bạn mua, tìm hiểu những chính sách hoàn trả hoặc trao đổi dễ dàng với nhiều lý do khác.
– Và cuối cùng bạn không quên lấy giấy chứng nhận về viên kim cương hay giấy bảo hành về chiếc nhẫn đính hôn. Như giấy kiểm định GIA, màu sắc, cắt rõ ràng và carat cũng như hình dạng kích cỡ.
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
Phụ nữ mắt xếch là tướng đa dâm |
![]() |
Mắt lệch là người có tâm địa bất chính |
Thánh.
Mục Lục
![]() |
Văn Thù Bồ Tát là tên gọi phiên âm từ tiếng Phạn, gọi đầy đủ là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát dịch âm là Văn Thù Thi Lợi, Mạn Thù Thất Lợi, dịch ý là Diệu Cát Tường, Diệu Đức. Trong đó, ý tứ của Diệu Âm, Diệu Đức là âm thanh êm ái nhẹ nhàng, đức độ ôn nhu thanh thuần.
Ngài đại diện cho trí huệ về mặt đạo đức, chân lý về mặt tinh thần. Đây là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ và ánh sáng của học vấn, đạt được thành quả tu hành bằng phương tiện tri thức. Danh xưng của Ngài chính là xuất phát từ ý nghĩa Phật giáo mà Ngài mang, soi tỏ chúng sinh bằng tiếng nói dịu dàng và ánh sáng của đức độ.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thấu triệt chân lý của thế gian, có khả năng soi rọi và chuyển hóa mọi khổ sở, phiền não, u minh, dục ái, ô nhiễm thành thanh tịnh, đưa chúng sinh vượt qua cảnh giới trần tục, tiến tới thân tâm an lạc, đạt tới sự giải thoát toàn diện cả về thân lẫn về tâm.
Văn Thù Bồ Tát vốn là con thứ 3 của vua Vô Tránh Niệm, là Vương Chúng Thái Tử. Sau quá trình tu tập, giác ngộ và phát 23 lời nguyện Ngài tiến tu thành Phật, xưng danh Bồ Tát với trách nhiệm khai mở trí huệ, đưa chúng sinh tiến tới tri thức để gạt bỏ phiền muộn.
Văn Thù Bồ Tát cùng với Phổ Hiền Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được xưng Hoa Nghiêm Tam Thánh. Ngài là vị có trí tuệ bậc nhất, theo hầu cận ở vị trí bên trái của Phật tổ để duy trì, ủng hộ Phật pháp, đưa ánh sáng Phật pháp soi tỏa khắp phương khắp cõi. Xem thêm bài viết Cung dưỡng tam thánh, học đạo tu đời theo Phật, Bồ Tát để hưởng phúc
Bên cạnh đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cũng là một trong tứ đại Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát. Với pháp lực, sức mạnh và trí huệ vô biên, Ngài là vị Bồ Tát chỉ đứng sau Đức Phật, tôn làm “biện tài đệ nhất”. Ngài ngồi trên con sư tử đang há miệng lớn, ngụ ý là “sư tử hống”, là sự ví von với thuyết pháp của Phật Đà.
Ngài là vị Bồ Tát đại diện cho trí tuệ, tường tận chân lý, thấu hiểu rõ ràng mọi việc trên đời để chuyển hóa vô minh, dục vọng và những điều u ám của chúng sinh trở nên sáng suốt, thanh nạn, được giải thoát khỏi bể khổ, nhận thức vượt lên trên những lề lối xấu xa thông thường.
Trải hằng hà sa kiếp, tu đạo Bồ Tát, gieo nhân lành, trồng thiện căn, tâm trí thanh tinh và cảm hóa chúng sinh. Giáo hóa tất cả các loài dẹp trừ những suy nghĩ mầm mống xấu xa, tâm bệnh, chỉ xướng những điều tốt đẹp hoan ca. Văn Thù Sư Lợi được ví như một người thầy thuốc của tâm hồn, phương thuốc là trí tuệ, chữa khỏi mọi loại bệnh căn phiền não trên đời.
Chính vì mang trên mình trọng trách như vậy nên vị Bồ Tát này được kính ngưỡng với ý nghĩa là khai thị và thức tỉnh chúng sinh. Ngài xưng Đại Trí – trí tuệ lớn, trí tuệ thấu cõi, biện tài vô ngại, dùng trí tuệ của mình dẹp tan mọi chướng ngại, không lùi bước trước bất cứ khó khăn, khổ não nào, đứng ra lý giải những phạm trù tinh yếu cốt lõi của triết lý đạo Phật
Theo phong thủy và tâm linh, Bồ Tát Văn Thù là Phật bản mệnh của người tuổi Mão, có địa vị hiển hách, uy danh lẫy lừng.
![]() |
Hình tượng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thường được miêu tả là vị Bồ Tát tay cầm kiếm sắc, tay cầm kinh Bát Nhã, trên đầu có 5 xoáy, cưỡi trên lưng một con sư tử màu xanh. Ngoài ra còn rất nhiều hình tượng khác nhưng đặc điểm nổi bật nhất là vẻ ngoài thanh tú trang nghiêm, dáng dấp trẻ trung, đầy sức sống ngồi kiết già trên đài hoa sen.
Dù được mô tả bằng hình tượng nào thì mọi chi tiết trong đó đều liên quan tới trí tuệ và làm sáng tỏ trí tuệ của Văn Thù Bồ Tát. Mũ Phật trên đầu tượng trưng cho ngũ trí Phật, năm xoáy là biểu tượng của nội chứng ngũ trí: nhất thiết chủng trí, đại viên kính trí, bình đẳng tính trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí.
Lưỡi kiếm là trí huệ sắc bén, biểu tượng đặc trưng của Văn Thù Sư Lợi hàm nghĩa chặt đứt mọi vô minh phiền não khổ ải, kiên quyết đoạn tuyệt với những tối ám xấu xa luôn trói buộc chúng sinh, đẩy chúng sinh vào bất hạnh bể khổ, vào luân hồi sinh tử và đưa con người đến với thánh đường trí tuệ đầy viên mãn.
Trên tay cầm kinh Bát Nhã, cành hoa sen và kết ấn chuyển pháp luân, tượng trưng cho sự thức tỉnh và giác ngộ cùng trí tuệ sâu rộng. Đến với Phật pháp, con người sẽ tiến tới cảnh giới của tâm từ bi, trí rộng mở, xa rời tất cả những tham sân si tầm thường của đời sống.
Sư tử xanh – chúa tể rừng xanh với sức mạnh và uy lực vượt trội, biểu tượng cho uy lực của trí tuệ. Trí tuệ không chỉ sáng mà còn mạnh, không chỉ đức độ mà còn can trường, năng lực vô song, có thể đánh đổ mọi khổ nạn, soi tỏ mọi con đường, những ý niệm chấp ngã đều dẹp tan để đưa con người về với vô ngã vô thường.
4/4 âm lịch hàng năm là ngày vía Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Trong ngày này, ngoài việc tổ chức lễ cúng để thể hiện sự kính ngưỡng, trân trọng với Ngài chúng Phật tử và tất thảy chúng sinh nên chăm chỉ làm việc thiện, tích phúc tích đức. Nhắc lại những truyền thuyết, hạnh nguyện cùng với hiểu biết về đức độ của Ngài để học tập và noi theo, sống đời trân quý.
Xem thêm bài viết Kính ngưỡng ngày vía Văn Thù Bồ Tát 4/4 âm lịch, vì sao ngài lại cầm kiếm trên tay?
Khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thành Phật đã phát tâm 23 lời nguyện, quyết dùng cuộc đời của mình để hoàn thành đại nguyện và hướng chúng sinh tới những đại nguyện như vậy.
Thứ nhất, công đức cúng dường Phật tăng, hồi hướng bồ đề, nguyện trải qua hằng hà sa kiếp Bồ Tát để hóa độ chứng sinh, không vì lợi ích của mình mà cầu chứng quả.
Thứ hai, nguyện độ hóa tất cả chúng sinh muôn loài ở mười phương tám hướng, phát tâm cầu đạo vô thượng chánh đăng giác, giữ gìn tâm bồ đề bền chắc và khuyến hóa lục độ.
Thứ ba, nguyện giáo hóa vô số chúng sinh ở các thế giới đều thành Phật thuyết pháp, trong khi thuyết pháp làm sao để mọi người đều thấu triệt.
Thứ tư, nguyện trong khi tu đạo Bồ Tát sẽ làm vô lượng việc Phật và sinh ra đời nào cũng quyết tu theo đạo.
Thứ năm, nguyện bao nhiêu chúng sinh mình dạy dỗ đều được thanh tịnh, có phép thiền định ở cõi phạm thiên, tâm ý không còn điên đảo, có như vậy mới đích thực là thành đạo.
Thứ sáu, nguyện mang mọi hạnh nguyện đến cõi Phật trang nghiêm và nguyên coi hết thảy cõi Phật hiệp chung lại thành một thế giới. Trong cõi ấy không có cát bụi, chông gai, dơ bẩn cũng không có những cảm xúc thô lậu, ác độc và xấu xa. Hết thảy chúng sinh đều hoá sinh và tụ tập pháp thiền định, vui vẻ tự nhiên, không cần vật chất ăn uống.
Thứ bảy, nguyện cho tất thảy đều là bậc Bồ Tát, căn tính cao thượng, tâm trí sáng suốt, xa rời sự tham lam, hờn giận, ngu si và tu được các môn phạm hạnh.
Thứ tám, chúng sinh về cõi Phật đều đủ tướng mạo Tỳ Khưu, cạo tóc, mặc y phục chỉnh đốn.
Thứ chín, nguyện đem bố thí, trước hết dâng cúng cho các Đức Phật, Bồ Tát, Thanh Văn và Duyên Giác, sau nữa là chúng sinh nghèo hèn và các loài ngạ quỷ đói khát để tất cả đều no đủ.
Thứ mười, có sức thần thông, tiêu dao tự tại, không gì ngăn cách, đi khắp thế giới để cúng dường Phật, bố thí và diễn thuyết các pháp cho chúng sinh nghe.
![]() |
Thứ mười một, nguyện trong thế giới không có chướng nạn và khổ não, không có người phá hư giới luật.
Thứ mười hai, nguyện trong thế giới ấy có hào quang sáng chói của các vị Bồ Tát chiếu soi khắp nơi, không có ngày đêm, khí hậu điều hoà, không quá nóng không quá lạnh.
Thứ mười ba, nếu có vị Bồ Tát nào bổ xứ làm Phật cõi khác thì trước hết hãy tới cõi tôi rồi mới giáng sinh tới cõi ấy.
Thứ mười bốn, nguyện hoá độ chúng sinh đều thành Phật để hiện lên hư không mà nhập diệt.
Thứ mười lăm, khi nhập diệt có âm nhạc tự nhiên kêu vang đủ phép mầu nhiệm, các vị Bồ Tát nghe thấy những lẽ huyền diệu.
Thứ mười sáu, nguyện khi làm Bồ Tát dạo trong cõi Phật thấy những thứ trang nghiêm, quý giá, những hình trạng, xứ sở và hạnh nguyện của chư Phật đều cầu cho tất cả đạt thành tựu.
Thứ mười bảy, nguyện cho các vị Bồ Tát ở trong cõi đến kì bổ xứ làm Phật chứ không thọ sinh cõi nào khác, tuỳ theo ý nguyện mà tới cõi khác thành Phật hoá độ chúng sinh.
Thứ mười tám, khi tu đạo Bồ Tát nguyện cho cõi Phật đẹp đẽ nhiệm mầu, các vị Bồ Tát phát tâm bồ đề, tu hạnh Bồ Tát và được bổ xứ thành Phật đều sinh về cõi mình.
Thứ mười chín, khi thành Phật, biến hoá Phật và các vị Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng để dạo các thế giới mà hoá độ chúng sinh, giảng dạy các phép nhiệm màu và khiến cho tất cả mọi người nghe pháp rồi phát tâm bồ đề, thành đạo cũng không thay đổi tâm trí.
Thứ hai mươi, khi thành Phật thì chúng sinh trong cõi nếu thấy tướng tốt hãy ghi nhớ trong tâm, đến khi thành đạo cũng không quên.
Thứ hai mốt, nguyện chúng sinh trong cõi ai cũng ven toàn căn thân, các vị Bồ Tát muốn xem tướng đều thấy, thấy rồi phát tâm bồ đề và hiểu hết những hoài nghi về đạo pháp, không cần phải giảng giải thêm nữa.
Thứ hai hai, nguyện khi thành Phật rồi thì thọ mạng vô cùng tận, các vị Bồ Tát trong cõi cũng sống lâu như vậy.
Thứ hai ba, khi thành Phật có vô số Bồ Tát đủ tướng mạo Tỳ Khưu, người nào cũng y phục chỉnh tề, cạo đầu đến khi nhập Niết Bàn, không để tóc mọc dài, không bận y phục như người thế tục.
Tham khảo thêm bài viết Khắc ghi 12 đại nguyện nhớ ngày Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia 19/9 âm lịch
Văn Thù Bồ Tát là vị Bồ Tát đại diện cho trí tuệ và ánh sáng của trí tuệ, dùng đại trí của mình rũ bỏ mọi điều xấu xa, tối tăm, ác nghiệp của cuộc đời, thấu hiểu tường tận Phật Pháp, rõ ràng về chân lý giác ngộ. Ngài dùng trí và tuệ của mình để cảm hoá chúng sinh, đưa chúng sinh tới con đường sáng.
Văn Thù không phải là vị Bồ Tát cứu độ, Ngài là vị Bồ Tát khai mở bởi chính bản thân mỗi con người đã có đủ trí, tuệ, chứng nhưng có thể chưa phát huy hết công dụng của chúng. Bởi con người không chịu tỉnh thức, không chịu đón nhận và sử dụng kho tàng trí tuệ của mình, không nhận ra chân tâm bản tính.
![]() |
Vì thế khi khổ nạn, khi sai hướng lạc đường hãy cầu khẩn, kính ngưỡng Văn Thù Bồ Tát để ngài khai thông trí tuệ tự tâm, nhận ra ánh sáng giác ngộ ngay từ nội tại con người. Chỉ khi thấu hiểu chính mình, nhìn nhận rõ ràng về bản chất thanh thuần nhất, thiện lương nhất, tự nhiên nhất của mình thì mới đích thực là thỉnh được Bồ Tát Văn Thù.
Không những kính ngưỡng, cúng dường và nguyện cầu, mỗi Phật tử và những người hướng Phật đều phải noi theo Bồ Tát để dẫn lối tình thương, gợi mở trí tuệ, không chỉ cho mình mà còn cho những người xung quanh. Có như vậy mới thoát u mê tối tăm, xây dựng cộng đồng thiện lương, xã hội thiện lương, sống đời an lạc hạnh phúc.
Trí phải đi liền với đức, trí tuệ gắn với từ bi, hiểu biết và tình thương, đầy đủ theo khuynh hướng của Văn Thù Bồ Tát, sẵn lòng phát tâm, mở rộng bồ đề, tu hạnh lành, gieo thiện căn và cảm hoá mọi người cùng tu tập với mình.
Người hay đi chùa chiền lễ lạt cúng bái nhưng tâm không thành, thân không an, cúng dường mà không hiểu lẽ nhà Phật, quỳ dưới chân đức Bồ Tát Văn Thù nhưng không thấu triệt được trí tuệ và từ bi của người, không học hỏi được thâm ý sâu xa thì coi như không có tác dụng gì, chính là kiểu dâng hương lễ Phật chỉ phí hương đèn.
Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng? Vì sao Đức Phật, Bồ Tát ngồi trên hoa sen mà không phải loài hoa khác?
Tâm Lan