Viêm tai với mơ –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Theo Phong thủy học thì nét khởi đầu và nét kết thúc theo hướng đi lên là chữ ký đẹp và thành đạt nhất. Điều này tượng trưng cho sự khởi đầu và kết thúc tốt đẹp đối với mọi dự án, công việc đảm nhiệm. Cũng là mẫu chữ ký sự thịnh vượng đảm bảo cho vận may luôn có xu hướng đi lên.
Trên thực tế chữ ký có thể biểu hiện vận trình một con người tốt hay xấu, cũng như nói lên vận thế đang mạnh hay yếu. Mỗi một người có lộ trình Vận Mệnh của mình, thuộc vào một ngũ hành cụ thể, hành vận vì thế cũng khác nhau, bởi vậy muốn ứng dụng thay đổi chữ ký cũng có những điểm khác nhau. Như nên tròn, nên nghiêng, nên cao, nên ngắn, nên ngang, nên hẹp mọi cái đều theo Ngũ Hành Hỷ Dụng Thần mà lựa chọn.
Nội dung
Chữ ký được cho là có khả năng thu hút sự thịnh vượng và thành công của con người nếu nó bắt đầu bằng nét vững chắc hướng lên, kết thúc bằng nét đi lên mạnh mẽ, đó được gọi chung là phong thủy chữ ký. Bạn có thể tham khảo những nét chữ ký sau đây để mang lại thành công cho mình.
Theo phong thủy, đây là kiểu chữ ký thành đạt nhất. Nét khởi đầu và nét kết thúc theo hướng đi lên. Điều này tượng trưng cho sự khởi đầu và kết thúc tốt đẹp đối với mọi dự án, công việc mà bạn đảm nhiệm.
Chữ ký kiểu này cũng rất tốt. Bạn hãy chú ý, nét khởi đầu và nét kết thúc đều hướng lên. Đường gạch dưới chữ ký cũng được xem là 1 bộ phận của chữ ký cũng phải có hướng đi lên.
Nếu chữ ký của bạn không kết thúc bằng nét hướng lên thì có thể thêm nét gạch dưới vững chắc theo chiều tiến lên để may mắn, tài lộc.
Chữ ký này có nét kết thúc theo hướng xuống dần. Điều này cũng không mang lại tốt đẹp.
Nếu chữ ký của bạn có nét giống như thế này thì nên thay đổi sao cho nét chữ có hướng đi lên. Bởi có thêm đường gạch dưới chữ ký theo hướng đi lên cũng rất tốt. Bạn hãy chú ý, nét khởi đầu và nét kết thúc đều hướng lên. Đường gạch dưới chữ ký cũng được xem là 1 bộ phận của chữ ký cũng phải có hướng đi lên.
Chữ ký này chỉ mang lại cho bạn một nửa tốt đẹp. Vì nét chữ bắt đầu khá vững chắc và hướng lên.
Chữ ký này có nét kết thúc theo hướng xuống dần. Điều này cũng không mang lại tốt đẹp. Nếu chữ ký của bạn có nét giống như thế này thì nên thay đổi sao cho nét chữ có hướng đi lên.
Chữ ký này chỉ mang lại cho bạn một nửa tốt đẹp. Vì nét chữ bắt đầu khá vững chắc và hướng lên. Tuy nhiên, nó lại kết thúc bằng nét đi xuống. Điều này sẽ không mang lại tốt đẹp và thường có chuyện buồn
Chữ ký đơn giản, khá tròn trịa của Bill Gates – nhà sáng lập tập đoàn công nghệ Microsoft. Ông sinh năm 1955, mệnh Kim, khá đúng với nguyên tắc nêu trên khi chữ ký có ký tự gần như những hình tròn.
Người mệnh Kim chữ ký nên có hình tròn làm chủ đạo (có hình tương tự hình tròn và các nét nên uốn lượn tròn); kỵ nhất với các đường gấp khúc, sắc nhọn.
Theo phong thủy, người mệnh Mộc kỵ với hình tròn và sắc nhọn. Vì thế, các nét nên cao, rộng, chữ ký dài thoáng.
Người mệnh Thủy chữ ký cần có hình lượn sóng, hình tròn, hoặc hình bán nguyệt; kỵ với các loại hình vuông góc.
Chủ tịch Tập đoàn FPT – ông Trương Gia Bình sinh năm 1956, thuộc mệnh Hỏa. Chữ ký của vị Chủ tịch FPT được đánh giá là hợp phong thủy khi cũng có nhiều nét nhọn và không theo quy tắc.
Người mệnh Hỏa cần sử dụng nhiều nét nhọn, sắc, không theo quy tắc cụ thể; kỵ với hình bán nguyệt và lượn sóng.
Người có mệnh Thổ chữ ký hợp nhất là có hình chữ nhật nằm dài hoặc hình vuông, chữ cần có tư thế ổn định, chắc chắn; kỵ với hình chữ nhật đứng cao.
Việc bạn thay đổi chữ ký không ảnh hưởng gì đến các giấy tờ tùy thân và bằng cấp cả. Tuy nhiên, nếu bạn làm việc trong một số lĩnh vực nhất định như Giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ hoặc các chức danh nhất định… thì bạn phải đăng ký mẫu chữ ký theo đúng quy định của pháp luật có liên quan điều chỉnh. Số lần đăng ký thay đổi không giới hạn
Trần Đoàn lão tổ là người kiến văn rất quảng bác, hiệu là Phù dao tử, thích tư tưởng của Đạo gia, ngài từng tổng kết Nội đan Đạo pháp, là Tác giả của ”Dịch kinh đồ, Tiên thiên đồ, Vô cực đồ”, là một trong vài khuôn mặt chủ lưu của lãnh tụ Đạo gia hậu Tống, có ảnh hưởng lớn lao đến người đương thời và mãi đến hiện nay Đường minh tông từng tứ hiệu cho ngài là ”Thanh hư ngoại sĩ”, cũng như Đường thế tông tứ hiệu ”Bạch vân tiên sinh”, Tống thái tông Triệu quang Nghĩa tặng hiệu ”Hi Di tiên sinh”, sau này Đạo sĩ và Hoa sơn đạo giáo tôn xưng ngài là Tổ sư, Hoa sơn Ngọc tuyền viện tôn xưng ngài là Giáo chủ.
Hoa sơn tại tỉnh Thiểm Tây, vị trí tại phía Nam Huyện Hoa Âm, là Tây nhạc trong hệ thống Ngũ Nhạc, là Động thiên đứng hàng thứ 4 trong 36 động thiên của Đạo giáo, Hoa sơn có Chủ phong (núi cao nhất) có Hải bạc là 1997 mét, trong Ngũ nhạc chỉ thua có Bắc nhạc Hằng sơn, nhưng Hoa sơn có sơn thế hùng vĩ hiểm ác không đâu sánh bằng, nên được gọi là ” Kỳ hiểm thiên hạ đệ nhất sơn”, từ xa xưa, Hoa sơn đã là nơi linh địa của Đạo giáo, hiện còn một số tự viện liên quan như Tây nhạc miếu và Ngọc tuyền viện ở dưới chân núi, trên núi thì có Đông đạo viện, Trấn nhạc cung, Ngọc nữ từ, Túy vân cung, trong đó Ngọc tuyền viện, Đông đạo viện và Trấn nhạc cung được xem là 3 trọng điểm của các Cung Quan Trung quốc.
Cứ theo truyền thuyết thì Lão tử cũng từng lưu chân tại Hoa sơn, tại núi Nam phong của Hoa sơn nay vẫn còn lưu giữ một lò luyện đan của Lão tử. Tại sơn môn của Ngọc tuyền viện, bước lên thạch cấp đi xuyên qua Chính môn và tiếp tục duyên theo thạch lộ mà đi thì sẽ gặp Hi Di động.
Động này được phân làm Tiền và Hậu điện, phía tả tiền điện có tấm bia Hoa sơn thạch đồ, mé trái có một thạch bia do một thư pháp danh gia thời Tống tạc mấy chữ Đệ nhất sơn, hậu điện là tượng ngồi của Lão tổ, ngoài ra còn một số di tích khác liên quan đến lão tổ như Hi Di Trũng, Hi Di Động, Son Tôn Đình, Nạp Kinh Đình, Vô Ưu Đình, Quần Tiên Điện Và Tam Cung Điện, Sơn Tôn Đình được xây trên một tảng đá khổng lồ, kiến trúc kỳ dị, tương truyền đây là nơi Tổ sư thường đúng ngắm cảnh. Cạnh đình có một cây cổ thụ tuy quá cổ lão nhưng vẫn xanh um gọi là Vô ưu thụ, đồn rằng cây này do đích thân Trần Đoàn trông nên, Hi Di động thì nằm ở gần cạnh đình, là nơi để Tổ sư tĩnh dưỡng (ngài ngủ rất lâu), bên trong có một bức tượng ngài đang ngủ! Toàn cảnh Ngọc tuyền viện đình miếu ngổn ngang, suối reo róc rách, cây cối thâm u, tạo cho du khách cái cảm giác thoát trần, tại đây còn lưu một bài của Khang hữu Vi:
Cốc Khẩu Tuyền Thanh Dẫn Khúc Lưu
Trường Lan Hồi Hợp Thụ Vô Ưu
Tuyền Thanh Sơn Sắc Khả Vong Thế
Nhượng Dữ Hi Di Thùy Vạn Thu…
Giới Tử Vi Đẩu Số xưa kia có thể được chia làm 3:
Tử Vân trước kia làm việc cho một nhà xuất bản, theo như chuyện kể trong quyển ”Đẩu số luận nhân sinh”, trước kia Tử Vân không tin vào Mệnh lý, về sau nhân có lần đi với Vu thái thái gặp Hà lão sư, Hà lão sư căn cứ trên Mệnh bàn nói ra những tình huống gì sắp xảy ra trong năm sau cho Vu thái thái, chẳng hạn sau khi sinh thì bị viêm gan và phải tiếp huyết.v.v
Một năm sau, tất cả xảy ra như đã kể, Tử Vân bèn bái Hà lão sư làm sư phụ và khai thủy học Tử Vi Đẩu Số cùng với hai vị sư đệ. Về sau, Tử vân chu du khắp Đài loan nam bắc, tứ xứ tìm cao thủ Tử Vi Đẩu Số để nghiên cứu thêm, trong thời gian này còn học thêm Tâm lý học và Trung y.Danh tiếng của Tử vân ngày càng vang dội, nhưng nhiều khi người được coi bói không biết rằng Him là Tử Vân tiên sinh. Khoảng 70, 80 niên đại Tử vân bắt đầu ra sách Tử Vi Đẩu Số, trong đó đã tiết lộ rất nhiều ” Khẩu quyết ” mà ông đã khai ngộ được những sáng kiến quan trọng của ông ta gồm:Tam đại luận, Thái tuế Bát quái, Thái tuế Cung vị
Tử Vân tiên sinh là lão sư của Liễu vô cư sĩ. Tử vân vừa viết sách vừa khai quán (xem bói) vừa dạy Tử Vi Đẩu Số không lấy tiền, ông có những đầu sách như:
”Tử Vi trí thức Đài Loan ” không phải là một phái Tử Vi ở Đài Loan, chỉ là một cách phân loại chủ quan của người viết những dòng này thôi. Nhóm này ở rải rác Đài Loan từ bắc xuống nam, đa số đều có bằng đại học trở lên, và đều cho rằng Tử Vi có tính khoa học cao đáng cho họ nghiên cứu. Điểm đáng nói là họ đại diện mấy chủ trương khác nhau, có khi đối nghịch nhau, nhưng tôn trọng nhau và đối xử với nhau rất lịch sự.
Vài nhân vật quan trọng theo thứ tự tuổi tác:
Hãy nói một chút về ông Tuệ Canh. Theo lời nhà xuất bản Hòa Mã văn hóa thì ông Tuệ Canh tốt nghiệp luật sư, nhưng sau khi hành nghề luật sự mấy năm thấy nghề này không hợp bản tính bèn bỏ luôn, ” bế quan luyện công ” (theo đúng nghĩa đen) mấy năm nữa rồi mới tái xuất giang hồ, lần này làm thầy bói. Thời khóa biểu làm việc là sáng nghiên cứu, chiều đoán mệnh cho khách.
Theo lời nhà xuất bản Thời Báo của Đài Loan thì Tuệ Canh là một trong hai đệ tử cao cấp của ông Tử Vân (đệ tử kia là Liễu Vô cư sĩ). Nhưng theo sự truy cứu, khi học Tử Vi với Tử Vân hai ông Liễu Vô cư sĩ và Huệ Canh đã đạt trình độ Tử Vi cao cấp rồi, học đây là vì thấy ông Tử Vân có chỗ độc đáo vô tiền khoáng hậu nên họ vì tinh thần cầu tiến mà học lại theo kiểu ” master class ” (lớp bổ túc cho bậc thầy) mà thôi.
Tác phẩm quan trọng nhất của ông Tuệ Canh có lẽ là bộ ” Đẩu Số khai vận toàn tập ”, đến giữa thập niên 90′s đã được 6 quyển không rõ sau này viết thêm bao nhiêu quyển. Bộ này phân tích các vấn đề cơ sở của Tử Vi, đầu tiên do Nhà xuất bản Thiên Tướng ấn hành, sau Nhà xuất bản Hòa Mã tái bản.
Tuệ Canh thỉnh thoảng cũng viết bài đặc biệt cho tập trường thiên ” Hiện đại Tử Vi ” của ông Liễu Vô cư sĩ. Chính trong Hiện đại Tử Vi ông đã có bài luận văn gây sôi động là ” mệnh cung bất khả vô đại hạn ”.
Bài “mệnh cung bất khả vô đại hạn” có tiếng vang, nhưng theo chính lời kể của ông Tuệ Canh lại bị một người thân trong giới Tử Vi chê là chỉ có đả phá, thiếu tính xây dựng (đả phá chủ trương khởi mệnh ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai, nhưng lại chẳng trình bày là phải khởi đại hạn thế nào mới hợp lý). Bởi thế ông Tuệ Canh quyết định đăng lại bài này với một bài khác có tựa “Mệnh cung đương nhiên khởi đại hạn” để biện hộ chủ trương khởi đại hạn ở mệnh (sách “Đẩu số biện chứng” nhà xuất bản Long Ngâm, Đài Loan, 1993).
Phái này chưa có chức Chưởng môn, mà cũng không biết đã thành Môn phái hay chưa, người đại diện là LIỄU VÔ CƯ SĨ, người đã từng phản đối việc tử/bình hợp tham (Dùng Tử bình để tham ngộ thêm Tử vi, thời gian này phong trào Tử, Bình hợp tham đang phát triển tại Đài.)
Ông chủ xướng ” Tử bình quy Tử bình, Đẩu số quy đẩu số, và cự tuyệt việc sử dụng các Thần sát, hay Quan Sát, dị hình dị loại xâm nhập vào lãnh vực Tử vi mà không có…giấy phép! Liễu vô cư sĩ sáng tác rất hăng, thường dùng thực chứng để lý giải, có bộ Hiện đại Tử vi (khoảng 11, 12 tập), Tử vi chi lộ, uyên ương truyền kỳ. Tử vi chi lộ, yên hoa truyền kỳ.v.v.v Phạm vi đề cập của ông rất rộng rãi, được Ngô hoài Vân tán xưng là Vệ sĩ của Mệnh học giới, hay là Tư mã Nam của Mệnh lý học. Sách của ông ta đọc được và có tính Hiện thực, nhưng lại không có ý nghĩa thực tế (có nghĩa là những lời bàn Mao tôn Cương của ông về các lá số chẳng áp dụng được, chẳng giúp ích gì cả, điều này thì ai cũng thấy ra, nhưng ông được cái khá thành thực, chỗ nào không biết thì nói là không biết hoặc chờ hỏi Thầy.
Ở Đài Loan có nhiều người cho rằng có thể áp dụng một số nguyên tắc của Tử Bình vào Tử Vi để giúp khoa này chính xác hơn. Chẳng hạn ông Sở Hoàng (sách ” Tử Vi hỉ kị thần đại đột phá ”, Sitak publishing, 1985) chủ trương dùng tiết khí để định tháng Tử Vi. Lại nữa, ông Sở Hoàng (sách đã dẫn) và ông Phương Vô Kị (sách ” Tinh tình thám nguyên ”, 1987) chủ trương dùng phép Hỉ Kị của Tử Bình để luận sao Tử Vi (Như sinh tháng 3 có Thiên Đồng hành thủy thì Đồng này không phải chỉ là hành thủy mà là hành thủy của tháng 3, phải dúng phép Hỉ Kị của Tử Bình tính xem tốt xấu thế nào).
Ông Liễu Vô Cư Sĩ chống lại các quan điểm đại loại như vậy.
Nhưng tôi cho là ông Liễu Vô cư sĩ quá cực đoan vì ông và những người theo ông hiện chỉ an các sao:
Tổng cộng 28 sao. Tất cả mọi sao khác ông Liễu Vô cư sĩ đều lược bỏ (với lý do rằng chúng là ngũ hành thần sát thuần túy, không dính líu đến Tử Vi).
Phái này do Thiên Cơ Thượng nhân HOÀNG XUÂN LÂM truyền dương, vào năm 1992 bộ sách Tử Vi Thiên Cơ được phát hành, trong đó lần đầu tiên tiết lộ những ” Tuyệt kỷ ” của Thiên cơ phái (đã thất truyền từ lâu) như Mật tông Lạp số, Đẩu số hỉ, kỵ thần cùng lý luận về cung khí (tử bình cũng có dùng Lạp số trong cách tính về Tiết khí của 12 Tháng).
Lạp số trong Tử vi thấy cũng có xuất hiện vào thời nhà Trần, dùng để xét lực lượng giữa hai nhóm Tinh đẩu là Cát diệu và Ác diệu để xem lực lượng hai bên tương quan như thế nào, nói thẳng ra là bên nào sẽ thắng, hoặc có thể cứu giải được hay không khi thấy đa Hung tinh xuất hiện.Bên Tàu thì thấy Trác phái và một vài Môn phái nhỏ cũng có xài Lạp số, nhưng giấu kỹ không cho ai biết…)
Đồng thời, Thiên cơ phái cũng tiết lộ bí quyết về: Song tinh khán pháp bí cấp Tử Vi Đẩu Số Phong thủy Huyền không nhị thứ Tứ Hóa Tử Kiếp.
Đây là một Môn phái khá đặc biệt và có ảnh hưởng lớn nhất và bao trùm tại Đài loan, tên Chính danh của Môn phái này là: ” Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số Đẩu Số Phi tinh bí nghĩa ”, cận đại truyền nhân là TỐ TÂM LÃO NHÂN, sau này còn có Sài Minh Hoằng, Lý tử Dương…
Vào năm 1985, một môn sinh trong Phái đã công khai đăng báo phát mãi (auction) một Bản Bí cấp của Môn phái (dường như là bản viết tay), trị giá khởi đầu đã lên đến trên 30 vạn Đài tệ (10000$), vụ này đã làm chấn động cả giới Đẩu số đương thời… Nghe rằng phái Bí nghĩa đời đời chỉ đơn truyền (truyền lại cho một môn sinh độc nhất), bí cấp là một bản viết tay, nội dung gồm:
Phương pháp suy đoán thì chuyên dùng tứ hóa, lấy Tứ hóa làm trọng tâm liên hệ với các cung vị (rất phức tạp) để đoán sự việc, đối với Tinh diệu thì thường…đụng đến thì ngừng! (không chú trọng đến Tinh diệu cho mấy), nói chung thì Phái này có ảnh hưởng rất lớn tại Đài, các đại danh sư Phương ngoại nhân như Pháp Đường chủ nhân, Phương vô Kỵ đều bị ảnh hưởng của Phái này…
Tứ Phượng, Tam Kỳ, nhị Nghi, Phiêu Phiêu là chỗ độc đáo của Phái này, là cơ sở của Thập Can đạp thiên pháp.
Tứ Phượng:
Tứ Phượng nếu tại Cung vị thì đại biểu Tứ Chính Cung vị, như Mệnh Tử, Tử Thiên…loại mà nói thì Tứ Phượng tại Tinh Thìn đại biểu CƠ CỰ ĐỒNG LƯƠNG. Trong ứng dụng, Tứ Phượng đại biểu Cách tứ vị Lộc, Kỵ, là một trong vài diện điểm để căn cứ mà phán xét Tài, Quan và sự việc Cát, Hung ra sao..
Tam Kỳ:
Tam Kỳ tại Cung vị thì đại biểu Đồng Âm đồng Dương Cách Nhị Cung vị, chẳng hạn như Mệnh Phu, Phu Tài loại… Tam Kỳ Tại Tinh thìn đại biểu Sát – Tham – Phá. Tam Kỳ tại ứng dụng đại biểu Lộc, Kỵ của Lân Cung, Tam Kỳ là một trong các điểm dùng để định sự Cát Hung của Nội Lục Thân.
Nhị Nghi:
Nhị Nghi tại Cung vị đại biểu Âm Dương tương cách Cung vị của Lân vị, như Mệnh Huynh, Huynh Phu loại. Nhị Nghi tại Tinh thần đại biểu Thái Âm, Thái Dương, tại Ứng dụng đại biểu Lộc, Kỵ của Lân Cung, là một trong những Điểm để định sự Cát Hung của Nội Lục thân.
Phiêu Phiêu (Tứ Hóa):
Chẳng hạn như những nhân quả Cát Hung trong hình thức Kỵ truy Kỵ, Lộc truy Kỵ…
Tại Trung Quốc đã có đến hai phái Hà Lạc:
8.1.1 Hà Lạc Nam Phái
Sau khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra làm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà Lạc. Họ thêm vào một số sao mới mà trong Tử Vi Chính Nghĩa Kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với Hi Di tiên sinh.
Những sao họ thêm vào, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch như: Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Y, Thiên Trù, Quán Sách, Thiên Xá….Vòng thái tuế có 5 sao, họ thêm vào 7 sao mà thành 12 sao.
Đa số người của phái này dùng khoa tử vi làm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi mà cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. Vì vậy phái bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thì đâu còn giá trị gì nữa. Các thầy tử vi Tàu sang Việt Nam dạy lại cho người Việt Nam, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa, thì hỏi tại sao khoa tử vi không có chỗ bế tắc khó giải thích. Công trình của phái này còn chép trong bộ tử vi Âm Dương Chính Nghĩa Nam Tông.
8.1.2 Âm Dương Hà Lạc Phái
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương Bắc đã bị ảnh hưởng của Âm Dương sinh khắc ngũ hành. Phái này có khuyết điểm là quá chú ý vào Âm Dương sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa tử vi là Thiên văn. Đầu đời Minh, một nhân vật quan trọng của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ. Đó là Lưu Bá Ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái này rất được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này còn lưu truyền bộ tử vi Âm Dương Chính Nghĩa Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý Tự Thành đem quân đốt phá Bắc kinh thì bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô Tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô Tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các văn thần nhà Thanh.
8.1.3 Bộ Tử Vi Đại Toàn
Niên hiệu Càn long thứ 38 nhà Thanh, nhà vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vào bài bác mình, chê bai Thanh triều là dòng dõi mọi rợ phương Bắc… mới tập trung những nhà học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyền Kỷ Duân, làm việc trong viện Tứ khố toàn thơ. Công việc của viện là tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hành cho dân gian học. Bộ này được gọi là Tứ bộ bị yếu, gồm có 4 bộ môn: Kinh, Sử, Tử, Tập. Quả nhiên sau biện pháp này, dân chúng không còn lý do chông đối nhà vua nữa. Bộ này rất vĩ đại, phải chở mấy xe mới hết.
Hồi đệ nhất Cộng hòa, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc có tặng cho thư viện Đại học Văn Khoa một bộ, in bằng giấy Tàu bạch. Sau Kỷ Duân thấy rằng còn một lực lượng chống đối không kém quan trọng là mấy ông thầy tử vi, bói toán. Ông ta tâu lên vua Càn Long cho mời 75 nhà nghiên cứu tử vi danh tiếng về kinh phong tước rồi tập trung tất cả sách tử vi trong thiên hạ lại chú giải thành bộ Tử Vi Đại Toàn gồm 9 cuốn như sau:
Đặc biệt cuốn thứ nhì có nói đến khoa tử vi tại Việt Nam là công trình nghiên cứu của nhà Trần. Cuốn thứ tám chép lại nguyên văn của sách “Đông A Di Sự” đời Trần.
Phái mới xuất hiện ở Đài Loan là ” Tân Đài Hà Lạc Phái “
Phái này Tổ sư sáng lập môn phái là Tăng quốc Hùng địa bàn tại Đài loan. Phái này chuyên dùng Hà lạc số, Quái vị, Tứ Hóa (nhất là Hóa Kỵ)và Tính lý của Tinh đẩu để luận một lá số. Như Đoán pháp tổng luận của Phái này có sơ lược cho ta biết:
Phái này nghe đồn đoán rất linh nghiệm. Theo học phái này thì cũng chẳng khó, có điều là hơi…cô đơn, cũng như thời xưa khi tui học Tử bình xong rồi thì ông Thiệu vĩ Hoa cũng chưa viết sách, trên 10 năm trời chẳng biết bàn chuyện Tử bình với ai, riết rồi chán bỏ vào một xó,,,
Trung châu phái tái xuất giang hồ trên hai mươi năm là ít. Bằng cớ hiển nhiên là Trung Châu Phái Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa do ông Vương Đình Chi bổ chú đã được nhà xuất bản Thời Báo ở Đài Loan phát hành năm 1987, gồm hai tập, tập một đề tháng 3, 1987, tập 2 tháng 4, 1987.
Năm 2001 nhà xuất bản Vũ Lăng ra một bản bình chú khác của Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, lần này người bình chú là ông Lục Tại Điền, không rõ có cùng dòng với ông Lục Bân Triệu hay không.
Và cần thêm nữa, sự tái xuất hiện của Trung Châu phái chẳng rầm rộ gì, chỉ là một trong nhiều trường phái Tử Vi trong giai đoạn bùng vỡ trăm hoa đua nở của kéo dài hơn hai thập niên (chủ yếu là thập niên 80’s và 90’s).
Ở Đài Loan Trung Châu phái bị nhiều phái khác, chẳng hạn các phái của Tử Vân, của Liễu Vô Cư Sĩ, của Chính Huyền Sơn Nhân đè bẹp. Tóm lại Trung Châu phái không phải là mới xuất hiện, từ lâu chẳng thấy “nóng hổi” gì, và cũng chẳng có ai “xếp de” trước phái này.
Tháng 6 năm 2007, một vị mang bút danh là Tam Thai xuất hiện trên một mạng của Trung châu Phái có vẻ như tự nhận mình là Truyền nhân chính thức của môn phái này (Môn phái này mỗi đời chỉ có một Truyền nhân, nhưng đến đời của Tam Thai thì phá lệ, hiện nay có đến 40 môn đồ và khoảng 2000 người theo thụ giáo). Ông này cho rằng Lục bân Diêu không phải là đệ tử đích truyền mà chỉ là một dạng như Tục gia đệ tử và chỉ học về sơ cấp chứ chưa đi sâu vào học trình cao cấp của Trung Châu phái. Tam Thai cũng có nói quyển ” Tử Vi Lý Số Giảng Nghĩa ” có nguồn từ một tài liệu gọi là ” Thế truyền Khâm thiên giám bí cấp ”.
Tam Thai có kể: sư tổ phụ của ông ta nguyên họ Du, trước kia có làm một chức quan nhỏ trong cơ quan khâm thiên giám nhà thanh, sau khi nhà thanh bị lật đổ, sư phụ của ông nhất thời bị thất nghiệp, lại không thích treo bảng làm nghề thày bói, trong cơn bối rối (tam thai không nói rõ như vậy) thì được gia nhân nhà họ lục mời về dạy bói toán cho lục bân diêu, dạy được mấy năm thì thày trò chia tay, bởi lúc đó chiến tranh loạn lạc đã khởi sự, họ du chạy về lạc dương, hình như để tìm thêm tài liệu thất lạc của môn phái, tình cờ thì gặp và cơ duyên làm sao mà thu nhận sư phụ của tam thai làm đệ tử…
Cứ theo Tam thai nói, thì sư phụ của ông cho biết họ Lục chỉ mới học qua về Tính chất các Sao và những câu Phú liên hệ mà chưa học đến ” Tử vi Tinh quyết ”, tức những yếu quyết (đa số là dưới dạng công thức) để suy đoán một lá số,, Họ Lục cũng có truyền nhân riêng của họ, đến nay cũng được 4 đời, đệ tử của Lục bân Diêu hiện nay chỉ theo một ít kiến giải của Thầy (vì không biết các chiêu Tinh quyết), nên đa số chỉ làm việc Nghiệm lý, xét lại vấn đề sau khi nó đã xảy ra..) một lá số mà ít khi dám tiên đoán! Tam Thai cho rằng làm như vậy thì sao mà phát huy được tinh hoa của một môn phái.
Tam thai nói: chẳng hạn Vương đình Chi có viết trong Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa: ” Phu thê cung hội THAM -KỴ, có nghĩa là đoạt ái (đoạt vợ chồng người khác), nhưng ông Vương không đề là vợ/chồng bị kẻ khác đoạt hay là đi đoạt tình nhân/vợ chồng người khác, bởi lẽ là ông ta chưa học Tinh quyết nên không phân biệt được… Họ Tam nói: ngay như THAM LANG -HÓA LỘC, hay THAM -QUYỀN (mà gặp sao này sao kia) có khi vô nhà lao ngồi chơi mấy mùa, đó là do sự biến hóa của Tinh hệ mà hình thành, nếu không biết mà luận lung tung tùy hứng thì còn gì là tinh hoa của Trung châu phái.
Chẳng hạn như cái sao THIÊN TƯỚNG, có người thì nói Thiên tướng là sao chính nghĩa cảm, thích vì người mà phục vụ, ưa xen chuyện bất bình, tại Mệnh cung thủ tọa thì không sợ Ác sát xâm lấn!! thậm chí đi khắp 12 cung ở đâu cũng là cát tường (không có Hãm địa).v.v, nhưng thực tế khi tham đoán một lá số đâu có giản đơn như thể dạo phố như vậy. Theo Tam Thai, thì Thiên Tướng chỉ là một Anh Ba phải, khi hội với cát tinh thì có khuynh hương tốt, khi đi với Ác diệu thì biến thành kè Ác ngay liền tù tì… Cổ nhân có cho rằng ” Phùng Tướng khán Phủ và Phùng Phủ khán Tướng ” (Mệnh/Hạn có Thiên Tướng thì phải xét đến Thiên Phủ và nghịch lại), vì hai sao này là chủ chốt của cách cục và lúc nào cũng ở thế Tam hợp..
Chẳng hạn Thiên Tướng tọa Mùi, Mão cung Tài có Thiên Phủ, đối cung là cặp Tử -Phá, tại Mão cung Thiên Phủ tọa thủ gặp phải vài tên Ác sát như nhóm Hỏa -Linh -Kình -Đà/hay Hình -Kỵ… như từ Dậu cung xạ chiếu chẳng hạn, những Ác tinh này tuy không chiếu xạ Thiên Tướng, chỉ chiếu tướng Thiên Phủ mà thôi, nhưng vì Phủ -Tướng là một cặp bất khả phân ly, nên chơi anh Thiên phủ cũng có nghĩa là ném chuột mà không nghía chủ nhà. Khi Thiên Phủ bị Hung đồ chiếu thì sẽ biến thành bại hại ngay, và lôi kéo theo anh chàng Thiên tướng (biến thành kẻ thiếu mất chủ kiến tham lận thô bỉ, không biết lẽ tấn thoái, hoặc giả chỉ biết tiến và tiến cho đến lúc hữu sự thì thoái thân vô lộ). Nếu không hiểu rõ cơ đồ, nhìn lá số Mệnh cung thấy Thiên tướng sáng láng, chẳng thấy Hung tinh chiếu xạ, vội cho rằng là người trung tín, chính nghĩa.v.v thì có phải là hại chết cái môn Tử Vi hay không…
Đây chỉ là một ví dụ cụ thể, một hạt đậu ” bí quyết ” nhỏ nhoi của Trung châu phái, xưa nay vẫn cất kỹ, đến như ” MÂN PHÁI Tử Vi ” tuy rằng có biết, nhưng lại dựa vào sự Đắc Hãm của Thiên tướng tại các Cung để phán đoán, e rằng vẫn chưa đúng với tinh thần của câu ” Phùng Tướng khán Phủ… ”, anh chàng Vương đình Chi trong Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng vậy…
Gần Tử Vi Việt nhất theo tôi thấy là phái Trung Châu kiểu ông Lục Bân Triệu (không phải chi phái ông Vương Đình Chi, vì ông này Tứ Hóa ra khác hẳn).
Còn muốn thấy thật gần Tử Vi Việt thì tìm quyển Đẩu Số Đàn Vi (trọn bộ hai tập in chung một quyển, không dày lắm). Quyển này xuất hiện 1928, 1935 ở hoa Lục, và là một trong vài sách gối đầu giường của làng Tử Vi Đài Loan giữa thập niên 70. Giờ coi như bị lãng quên vì phái tứ Hóa nổi lên mạnh quá. Nhà xuất bản Vũ Lăng (Woolin, Đài Bắc) đã in lại.
Nam phái Tử Vi Đẩu Số là 1 môn phái chuyên dùng Tính chất của chư Tinh để luận Mệnh, vì phương pháp dùng Tinh luận Mệnh là truyền thống nguyên thủy của Tử Vi, cho nên ai nghiên cứu Tử vi cũng phải học tập các Kinh điển loại này.
Cho đến hiện nay (không kể Việt Nam), phái này chỉ còn di lưu lại 2 Bản cổ tịch, đó là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư và Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập. Hai bản này được (giới Tử Vi Đẩu Số Trung/Đài/Cảng..) xem là Chính tông, tối nguyên thủy, là chứng cứ tối sơ có thể tìm thấy được về Tử vi Luận Mệnh Pháp.
Tại Việt Nam môn Tử vi tuy không có giai đoạn bột phát mạnh mẽ như tại Đài/Cảng nhưng vẫn tiềm tàng phát triển trong dân gian 1 thời gian khá lâu trước thập niên 70, còn Trung, Đài, Cảng thì lưu mạch của Tử Vi Đẩu Số dường như hoàn toàn bị đứt đoạn, mãi đến các năm 70 mới được phục hồi. Đây là nhánh tử vi chính của Việt Nam.
Sở dĩ những người thực sự thấu hiểu cơ cấu môn Tử Vi Đẩu Số thì không có là bao, để tiện cho các vị sơ học, xin đưa ra các trọng điểm của Môn phái này như sau:
NGƯỜI Sáng lập Tiên tông phái là CHÍNH HUYỀN SƠN NHÂN, pháp hiệu là HUYỀN CHÂN TỬ, là người Miêu lật, tự xưng là có Linh tu (linh Thần dựa vào mà dạy) mà học được Tử Vi Đẩu Số! Ông còn học với LƯ SƠN TIÊN TÔNG ĐẠO TRƯỞNG. Các sách của ông gồm có:
Trong đó quyển ” Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số Phi tinh Kỳ phổ bí truyền ” được coi là ” tinh hoa ” của môn phái, quyển này nói rằng đã đưa ra rất nhiều những kiến giải chưa từng được ai đề xuất!!! Cách hành văn trong những bộ sách này chứa đầy những thuật ngữ và luận điệu của Đạo giáo, Chính huyền sơn nhân còn có phương pháp Bài Bàn theo Nhuận nguyệt, dùng Thiên số của Tháng trước Tháng Nhuận và xuất sinh Nhật số cùng với Tử vi định vị Công thức mà tính ra được lá số chính xác, ông chủ trương Tinh – Bình hội tham, nói rằng như vậy mức dự đoán có thể chính xác đến 75%, ông tuyên bố mình thuộc giới Địa Tiên, và ở Đài loan thì chiếm địa vị Thứ Nhất trong giới Thuật số!!!
Về những Kiến giải trong bộ ” Tử Vi Đẩu Số Phi tinh Kỳ phổ bí truyền ” gồm có:
Tác phẩm
Nhân vật sáng lập ra môn phái này là THẨM BÌNH SƠN, phái này có 1 mô thức luận Mệnh khác lạ so với các Môn phái truyền thống, nên trong lãnh vực Tử vi cũng chiếm được 1 vị trí độc đặc riêng của mình. Phái này có vài quyển trứ tác như:
Ngoài ra ông Thẩm Bình Sơn có ra một quyển khổ to ” Tử Vi Đẩu Số đương đại Trung Quốc danh nhân phổ ”, gọi là ” Trung quốc danh nhân ” thực ra là ” Đài Loan danh nhân ”.
Về cách xem của ông Thẩm, tôi chỉ dám nói là ” lạ lùng ” vì có quá nhiều bí quyết không ăn nhậu gì đến các phép luận truyền thống của Tử Vi cũng như Tử Bình. ” Tử Vi mệnh phổ ” có mấy lá số rõ ràng sai, có số sai cả năm khiến ta phải hồ nghi độ khả tín của những lá số còn lại trong sách này.
” Tử Vi Đẩu Số lưu niên tại họa tổng luận ” thu thập nhiều lá số người thật việc thật và dùng các tổ hợp sao để nghiệm lý tại sao tai họa xảy ra và tại sao xảy ra như thế. Vấn đề là chẳng ai biết những lá số trong sách này có chính xác hay không. Cách đoán lại quá ” lạ lùng ”, chẳng phải là đại đồng tiểu dị mà phải nói là tiểu đồng đại dị so với kiến thức Tử Vi mà tôi đã biết.
Trong đó ông đã tiên đoán thời gian mất của Tưởng Thống Chế, Mao Xếnh Xáng, Tưởng Kinh Quốc, Đặng Lệ Quân, Tưởng Hiếu Vũ, chuẩn xác đến nỗi làm chấn kinh cả thế giới Mệnh lý và ngay cả những phần tử cao cấp trong Chính quyền cũng phải chú ý. Thẩm đại sư đồng thời phát kiến ra Tử Vi Đẩu Số Tinh hóa, Trung Hạn, nghịch cung, Phi tinh, Trực giác Chiêm pháp.v.v làm hoanh động nhất thời, tứ phương Hiền sĩ, Đạt nhân phân phân đăng môn cầu vấn, cao đồ mãn tọa, tạo thành 1 phong trào đưa Mệnh lý Trung quốc nâng cao lên 1 bước nhảy vọt!
Về sau, lại xuất bản ” Đương đại Danh nhân phổ ”, trong có có dự ngôn (tiên đoán) về Thị trường Cổ phiếu Đài loan, Đại gia Lạc phong hảng về việc Tinh vân pháp sư nghênh đón Phật nha, Tạ trường Đình phát sinh phong ba và việc Đặng tiểu Bình sẽ chết, Trần thủy Biển có thể đắc cử Tổng thống, nhưng trong Vận sẽ gặp Hung nguy… Những tiên đoán như trên thật là Thần bút linh kỳ, làm cho người ta phải tán thán.
Theo bài viết của Môn sinh của Thẩm bình Sơn, thì khoảng năm 1975, họ Thẩm đầu tiên xuất hiện giang hồ, trương bảng truyền thụ ” Phòng trung thuật ” (nghệ thuật tình dục), sau đấy vì nổi đình đám quá nên nhà nước nhảy vô can thiệp, dẹp bảng… Thế là Họ Thẩm thất nghiệp quay sang ” tiềm nghiên ” môn Kỳ môn độn Giáp và khám phá về thế giới kỳ ảo của Thiên văn.
Ban ngày thì ông chơi với Lục giáp thần tướng, họ chuyên hộ vệ ông cũng như rỉ tai báo cho biết trước những gì sắp xẩy ra, ban đêm thì ông chơi với.. Lục Đinh. Lục Đinh là 6 Cô Ngọc nữ chân dài và đẹp bá chấy, nhưng không nói ông học cái gì ở họ… thỉnh thoảng ông thấy như bản thân mình nhập vào..Thái hư, có vô số tia bức xạ chạy xuyên qua xương sống cũng như não môn, về sau hình như có 1 vị nhập vào người ông để..xem bói. Mỗi khi xem bói cho ai thì não bộ lại xuất hiện hình ảnh của người đấy.
Thẩm bình Sơn tướng Sư xem bói có khi không cần lá số, có khả năng vạn lý tri nhân Mệnh, lại có thể đoán được ngày giờ năm sinh của 1 người lạ hoắc, từng đưa ra ngày giờ sinh chân chính của Trần thủy Biển, Vương Kim Bình, Lý Đăng Huy, thậm chí thọ kỳ (năm chết) của Hoàng tín Giới, Lư tu Nhất, Chương hiếu Từ,,, cũng không thoát khỏi Diêm vương khẩu lệnh của Tổ sư gia.
Tổ sư đã sáng biện ra rất nhiều Tử vi Huyền Cơ cũng như chú thích vô số những chỗ tinh vi áo nghĩa trong các môn Kham dư, Tính danh, Khí tượng, và Quốc gia đại sự, có khả năng dự trắc sự lên xuống của Cổ phiếu mỗi ngày, dự đoán chính xác thời gian và địa điểm phát xuất của Toàn phong bão lốc cũng như những cơn địa chấn, ngoài ra còn biết nhập Thần, chữa Bệnh nhờ dị năng, Phòng trung thuật, Ảo giác vũ thuật.v.v
Thẩm Tôn sư đã khai sáng ra lãnh vực Thần học làm người người phải khâm phục, thật là 1 Dị sĩ Kỳ nhân nghìn năm có một tại Trung quốc vậy…
Các Kỹ Thuật Chính
Thẩm bình Sơn thường che giấu cách thức luận Mệnh ” đặc biệt ” của mình. Phương thức luận của ông gồm 2 phần:
Họ Thẩm không dùng Tứ Hóa Phi tinh mà dùng TINH HÓA gia thêm TAM HẠN PHÁP hoặc PHI TINH PHÁP làm chính.
PHI TINH PHÁP
Cách phi tinh của thẩm thức khác với tứ hóa pháp, phương pháp này tương tự như cách thức ” tinh tinh hổ đạp ” của Vương Đình Chi, chẳng hạn mệnh cung có vũ khúc, hành hạn nhập thê cung thất sát, thì dùng vũ – sát phối hợp mà luận, 12 cung đều ” hổ đạp ” như vậy.
TINH HÓA PHÁP
Tức lấy các tinh chính và phụ hóa làm chứng tượng trong phép đoán, chẳng hạn đang luận tật bệnh thì lấy thất sát hóa thành ngón tay, mật. đang luận về hung nạn thì thất sát sẽ hóa thành khai đao (giải phẩu),
TAM HẠN PHÁP:
Người Nhật cũng đang nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số như chúng ta, sau đây là một đề số sách:
Phong trào Tử Vi của Nhật tương đối mới, trước chỉ có bát tự. Họ còn coi trọng phép coi nhóm máu (huyết hình). Đài Loan bị Nhật chiếm đóng 50 năm (1895-1945) nên cũng chịu ảnh hưởng cách xem huyết hình.
Về Tử Vi thì Đài Loan có ảnh hưởng ngược lại Nhật Bản. Ngay Phan Tử Ngư viết rất lộn xộn mà đã có sách được dịch sang tiếng Nhật.
Vương đình Chi nói về một trong những Tiền thân của Tử Vi Đẩu Số, đó là thập bát phi tinh.
Thập bát phi tinh tuyệt đối không phải là Tử Vi Đẩu Số, và trên mặt lịch sử mà nói thì không hề có môn thuật số nào gọi là ” Thập bát phi tinh Tử Vi Đẩu Số ”, sở dĩ tại Minh Phúc kiến ấn bản còn truyền lại thấy đề là ” Hợp tính 18 phi tinh Tử Vi Đẩu Số ” hoặc ” HỢP TÍNH 18 PHI TINH SÁCH THIÊN Tử Vi Đẩu Số ”, có nghĩa là tập hợp 18 phi tinh cùng với Tử Vi Đẩu Số trong cùng một ấn bản.
Hiện tại, giới nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số tại Đài loan (dường như) thấy thích thú trong việc xảo lập danh mục, sở dĩ đã tự tiện bỏ đi hai chữ ” Hợp tính ” nên biến thành cái gọi là ” 18 phi tinh Tử Vi Đẩu Số ” Điều này làm cho lịch sử Tử vi bị hỗn loạn, ngay cả nguồn gốc của môn Đẩu số cũng bị đứt đoạn.
Môn 18 phi tinh hiển nhiên thoát thai từ ” NGŨ TINH ”, và được đơn giản hóa mà hình thành, chẳng hạn như tên các Tinh diệu: Thiên Quý, Thiên Ấn, Thiên Thọ, Thiên Lộc.. là những danh từ chuyên dùng của giới Ngũ tinh, nhưng 18 phi tinh lại có thêm vào một số Tạp tinh như Mao đầu, Thiên Nhận..
Theo suy tưởng của Vương Đính Chi (thích xưng tên như vậy), thì vào khoảng thời kỳ nhà Tống, sự suy đoán dựa trên Ngũ tinh đã không còn chuẩn xác, giới tôn sùng Bắc đẩu là các Đạo sĩ bèn nghĩ đến việc giản hóa môn Ngũ tinh thành ra một môn giản lậu thuật toán là 18 phi tinh, chỗ tuơng đồng duy nhất giữa hai môn đó là Mệnh bàn được phân làm 12 cung.
Tại sao gọi là 18 Phi tinh?
18 Phi tinh lấy Tử vi làm chủ tinh, sau đó đến Thiên Hư, Thiên Quý, Thiên Ấn, Thiên Thọ, Thiên Không, Hồng loan, Thiên Khố, Văn Xương, Thiên Phúc, Thiên Lộc tất cả gồm 11 Chính diệu, theo Tử vi mà phân bố khắp 12 Cung, mỗi cung một Chính diệu, không như Tử Vi Đẩu Số là có Cung có hai Chính diệu và có Cung vô Chính diệu, và để tránh né sự phân phối ngây ngô này, họ lại gia thêm Thiên Trượng, Thiên Dị, Mao Đầu, Thiên Nhận, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc tổng cộng 7 Phúc tinh, cứ theo khởi lệ mà phân phối một Chính một Phó dùng làm tiền đề cho việc suy đoán nhân sinh mạng vận.
Ngoại trừ Tử vi ra, bỡi có 11 Chính diệu và 7 Phó diệu, do đó hợp xưng là ” 18 Phi tinh ”, về sau lại thêm vào Tam Thai, Bát Tọa, Long Trì, Phượng Các tứ diệu, đại khái là dùng để bổ khuyết chỗ bất túc của 18 Phi tinh!
Phương thức suy luận đoán Mệnh kiểu này có vẻ cứng ngắt, nhân bởi chỉ suy toán từng cung một, không có sự liên kết giữa các cung và giữa các Tinh hệ như Tử Vi Đẩu Số, thực tế mà dùng thì cũng như các loại tạp nhạp ” Tam thế thư ”, hay ” Lưỡng đầu kiếm ” mà thôi, vì chẳng có căn cứ lý luận và kinh qua việc thống kê hay tu đính mà phát triển, chung quy chỉ làmột loại toán thuật thô thiển trên giang hồ, không thể đâng đại nhã chi đường, cũng chẳng thể cùng sánh vai với môn Tử bình.. “
Vương Đình Chi cho rằng: Tử Vi Đẩu Số là do Thập bát Phi tinh phát triển mà hình thành, do đó từ tính chất của Tinh diệu hai Môn, chúng ta có thể tìm thấy mạch lộ của sự phát triển.
Sao TỬ VI (của 18 Phi Tinh): còn gọi là Cận thị quý nhân. Tinh này cư bên trong Đế viên, chí tôn chí quý, tại Hợi Thiên môn gọi là củng Bắc thần, độc lâm bộ vị gọi là Xuất thần, cách chủ đại quý, nếu Mệnh/Thân chiếu lại hội cát tinh, gọi là Thanh quang cách. Tỵ Dậu nhập miếu, Thân Hợi Lạc, Tý vượng gọi là Giao cung cách, Thân Mệnh có sao này chủ về đa tài chức, y tử yêu kim (phú quý), người người tôn trọng, tiểu nhân khó bề thân cận, tính từ thiện, thích học đạo thuật lại có duyên tu theo giới Thần tiên. Nếu không nhập Miếu vượng gọi là Cô thần, thích tăng đạo, thủ trai giới, nếu hội Ám diệu thì tính hiếu sắc, cương quả vô thân, nếu là phụ nhân thì phòng Phu tổn tử. Nếu Thất địa thì Suy, nếu lâm nguy thì được cứu!, là cửu lưu chi nhân (giới Thuật sỉ), đến Vận hạn thì được diện kiến Nhân quân (vua).
Theo kiểu thuyết pháp bên trên thì thấy tương đồng với (tính chất)của Sao Tử vi trong môn Tử Vi Đẩu Số…
Ngoài ra, Thiên Ấn phát triển thành sao Thiên Tướng.
Thiên Thọ = Thiên Lương
Thiên Khố = Thiên Phủ
Thiên Quý = Vũ Khúc
Thiên Lộc = Lộc tồn
Thiên Dỉ = Hỏa Linh
Mao Đầu = Phá Quân
Thiên Nhận = Thất Sát
PHAN TỬ NGƯ nhận là truyền nhân của Môn này, sinh năm 1930 tại Phúc châu, lúc nhỏ nhận NHẤT TRẦN HÒA THƯỢNG tại Cổ sơn Dõng tuyền làm sư phụ và học môn Nhất diệp tri thu, loại Tử Vi Đẩu Số này có chỗ bất tương quan với tông phái của Trần Đoàn lão tổ vì thừa nhận vị Tôn sư của họ là Tôn tư Mạo (chứ không là Trần Đoàn). Phan tử Ngư viết rất nhiều, gồm:
Sáng lập Tạp chí Tử vi Thiên địa, Phan tử Ngư có cách thức luận Mệnh đa tạp và phiền phức, ý mới không có nhiều, thường chú tâm hạ thủ ở những chỗ nhỏ nhặt, đối với những kẻ sơ học thì có ích, còn đối với những kẻ đã có căn bản thì vô dụng, bỡi vì tính ứng nghiệm suất không cao…
Trong hai người bị ông Tam Thai đả kích thì một người đã chết một người còn sống. Người còn sống là ông Vương Đình Chi, được coi là một cột trụ của làng mệnh lý Hồng Kông. Thiết tưởng ta cũng nên biết một chút về nhân vật khá quan trọng này. Sau đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản Bác Ích Hồng Kông, dịch nghĩa từ một quyển sách phát hành năm 1995: “Vương Đình Chi húy là Đàm Tích Vĩnh, quê Nam Hải, Quảng Đông. Tuy học hóa học, nhưng xuất thân nho học, từ nhỏ luyện cầm thi thư họa và các khoa y bốc tinh tướng; (ngoài ra) tử bình, dịch học đều có nghiên cứu. Tuy làm việc tài chính nhưng thích văn sử triết học, tín ngưỡng phật giáo. Sau theo ông Lưu Huệ Thương của phái trung châu học Tử Vi, được chân truyền và rồi phát huy phái này quang đại ở Hồng Kông, thâu 40 môn đồ, thành lập hội Tử Vi tùng sự nghiên cứu. ” (Nhưng) cái sở học bình sinh của ông là phật học. Từ thời đại học đã bỏ nhiều công nghiên cứu (phật học), năm 28 tuổi nhờ một cơ duyên theo mật tông Tây Tạng, ẩn cư Di đảo (?) 6 năm, phối hợp kinh luận tu tập. Những năm gần đây biên soạn “Phật giáo kinh luận đạo luận tùng thư”, được đánh giá cao.
Đăng Hạ Thuật đề cập đến những đề mục tạp nhạp mà các môn khác không thấy nói đến, như:
Theo chính ông Phan viết trong sách thì một phần của Đăng Hạ Thuật có cái tên là “Nhất diệp tri thu”! “Nhất diệp tri thu” nghĩa đại khái là chỉ thấy một chiếc lá từ cây rơi xuống mà biết là mùa thu đã đến! Từ tên đã có thể mài mại đoán được, với phép này từ một dữ kiện nhỏ ta có thể đoán được rất nhiều chuyện.
Có thể thấy rằng phép “nhất diệp tri thu” (NDTT) toàn là bí quyết. Nên nếu phân biệt khí tông kiếm tông thì NDTT đúng là chiêu số của kiếm tông. Và vì phép xem Tử Vi của ông Phan Tử Ngư hoàn toàn dựa trên bí quyết, ông là một nhân vật thuộc phe kiếm tông. Rõ ràng hơn và ngắn gọn hơn, ông Phan Tử Ngư là một trưởng lão kiếm tông cao cấp của Đài Loan đảo.
Nguồn: WhiteBear
1. Một vùng đất, một khu đất, một thửa đất bao giờ cũng có nơi đất tốt và nơi đất xấu, theo lý thuyết phong thuỷ cổ điển và hiện đại.
Nghĩa là trong một vùng đất thuộc cùng một Hành đặc trưng nhất, theo cách nhận định của thuật phong thủy Ngũ hành, vẫn còn những khu đất có Hành đặc trưng riêng khác với Hành của vùng.
Khu đất cùng phân ra các điểm đất tốt và điểm đất xấu. Và cũng có điểm đất cùng Hành và điểm đất khác với Hành của khu đất.
2. Trong một thửa đất có nơi tốt và nơi xấu, nơi đất bình thường.
Căn cứ vào lý thuvết phong thủy để xác định trong thửa đất, nơi nào là nơi đất tốt, nơi nào là nơi đất xấu.
3. Nơi đất tốt là nơi có bóng của “trường khí tuế vận” đang hiện hữu.
Là nơi kết cấu địa chất, thuần chất nhất, ổn định nhất theo lý thuyết của Khoa địa lý phong thuỷ.
4. Nơi đất xấu là nơi có kết cấu địa chất không đồng nhất.
Là nơi có đất bẩn (nơi lấp vũng, ao, giếng, nơi có nhiều tạp chất hữu cơ).
5. Nơi đất bình thường là nơi đất pha tạp gồm cát, đất, đá đã ổn định.
Những chòm sao nào thu hút bạn khác giới nhất? Thiên Bình thu hút những người bạn khác giới bởi vẻ ngoài xinh đẹp, lịch sự, tính cách ôn hòa và khả năng nói chuyện thu hút. Còn những chòm sao khác thì sao? củ thể như thế nào hãy cùng khám phá trong bài viết sau nhé!
Nội dung
Nghệ sỹ Xuân Hinh có nói: " Còn nhỏ thì sợ mẹ sợ cha, lớn lên sợ vợ, về già sợ con ". Nếu con cái bất hiếu, không được nhờ vả về già thì thật bất hạnh. Mức độ hòa hợp giữa tuổi cha mẹ và con cái có ảnh hưởng, liên quan tới nhau thật hay không? Trên cơ sở, nghiệm lý, quan sát tỉ mỷ trong thực tiễn Ngô Bạch đã thống kê mức độ hòa hợp và bất hòa hợp giữa tuổi cha mẹ và con cái. Trên cơ sở đó, có thể vận dụng linh hoạt để xây dựng một gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh...
Con cái tuổi Tý: Luôn xảy ra xung đột, tranh cãi
Con cái tuổi Sửu: Không hòa hợp, tuy con cái vẫn hiếu thuận
Con cái tuổi Dần: Cha mẹ nên để con cái tự chủ, tự do phát triển
Con cái tuổi Mão: Cha mẹ ít có thời gian chăm sóc con cái
Con cái tuổi Thìn: Gia đình hòa thuận, yên ấm
Con cái tuổi Tị: Con cái luôn có ý bất mãn
Con cái tuổi Ngọ: Đôi bên cùng hiểu thấu, tông cảm lẫn nhau
Con cái tuổi Mùi: Quan hệ đôi bên rất tốt
Con cái tuổi Thân: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Dậu: Con cái có ý bất mãn
Con cái tuổi Tuất: Con cái thường tự lo cho mình
Con cái tuổi Hợi: Quan hệ giữa hai thế hệ khá tốt đẹp
Con cái tuổi Tý: Luôn xung khắc, khó hòa hợp
Con cái tuổi Sửu: Có khoảng cách lớn giữa hai thế hệ
Con cái tuổi Dần: Con cái có ý bất mãn
Con cái tuổi Mão: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Thìn: Gia đình hạnh phúc
Con cái tuổi Tị: Cha mẹ có thể hy sinh tất cả vì con
Con cái tuổi Ngọ: Hai thế hệ gắn bó, quan hệ rất tốt
Con cái tuổi Mùi: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Thân: Quan hệ rất tốt, thường xuyên giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và cuộc sống
Con cái tuổi Dậu: Hai bên khó dung hòa bởi quan niệm sống rất khác nhau
Con cái tuổi Tuất: Con cái có xu hướng muốn sớm thoát ly khỏi gia đình
Con cái tuổi Hợi: Con cái hiếu thảo, luôn luôn gánh vác trọng trách trọng yếu trong gia đình.
Con cái tuổi Tý: Quan hệ hai thế hệ rất tốt đẹp
Con cái tuổi Sửu: Đôi bên có sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc, nên gia đạo rất hài hòa
Con cái tuổi Dần: Khó hòa thuận, luôn xung khắc và hay xảy ra cãi vã
Con cái tuổi Mão: Gia đình hạnh phúc yên vui
Con cái tuổi Thìn: Gia đình ấm êm, con cái hiển đạt
Con cái tuổi Tị: Con cái sớm trưởng thành và giúp đỡ nhiều cho cha mẹ
Con cái tuổi Ngọ: Rất khó hòa hợp
Con cái tuổi Mùi: Con cái luôn tin tưởng, và noi theo tấm gương của cha mẹ
Con cái tuổi Thân: Mọi người trong gia đình đều được quyết định chung
Con cái tuổi Dậu: Con cái luôn bất mãn
Con cái tuổi Tuất: Luôn xung khắc, rất khó hòa hợp
Con cái tuổi Hợi: Cha mẹ luôn cưng chiều, bảo vệ che chở cho con cái
Bói tên coi cái và tên vợ chồng xem ý nghĩa của tên những người trong gia đình bạn.
Con cái tuổi Tý: Khó hòa hợp, luôn bất đồng ý kiến
Con cái tuổi Sửu: Con cái có thể giúp đỡ hiệu quả đối với sự nghiệp của cha mẹ
Con cái tuổi Dần: Con cái luôn chống đối với cha mẹ, bất đồng quan điểm, ý kiến luôn
Con cái tuổi Mão: Con cái ngang bướng, không nghe lời cha mẹ
Con cái tuổi Thìn: Quan hệ rất tốt, trong ấm ngoài êm
Con cái tuổi Tị: Con cái luôn tranh cãi với cha mẹ
Con cái tuổi Ngọ: Thế hệ trẻ trong gia đình muốn sớm thoát ly khỏi gia đình
Con cái tuổi Mùi: Con cái bất hiếu, khiến cha mẹ thất vọng
Con cái tuổi Thân: Cha mẹ luôn tự hào về con cái
Con cái tuổi Dậu: Gia đình bất ổn, lúc nào cũng có việc để tranh cãi
Con cái tuổi Tuất: Cha mẹ không hiểu được con cái mình
Con cái tuổi Hợi: Con cái chỉ biết làm theo ý mình
Con cái tuổi Tý: Cha mẹ không có nhiều thời gian chăm sóc con cái
Con cái tuổi Sửu: Khó hòa thuận với nhau
Con cái tuổi Dần: Rất tốt, cha mẹ hy sinh tất cả cho con
Con cái tuổi Mão: Gia đình hòa thuận, êm ấm
Con cái tuổi Thìn: Con cãi bất mãn vì cha mẹ quá nghiêm khắc trong việc dạy dỗ
Con cái tuổi mùi: Khó hòa hợp với nhau
Con cái tuổi Thân: Gia đình thiếu bầu không khí thuận hòa, yên vui
Con cái tuổi Dậu: Con cái ngang bướng, không nghe lời cha mẹ
Con cái tuổi Tuất: Con cái hiếu thảo
Con cái tuổi Hợi: Gia đình yên ấm, an bình
Con cái tuổi Tý: Quan hệ rất tốt
Con cái tuổi Sửu: Cha mẹ rất cưng chiều và kỳ vọng ở thế hệ sau
Con cái tuổi Dần: Gia đình thuận hòa
Con cái tuổi Mão: Quan hệ tốt, nhưng con cái có chí hướng riêng, không hướng về gia đình
Con cái tuổi Thìn: Cha mẹ cưng chiều con cái, con cái cũng giỏi giang làm cha mẹ vẻ vang, rạng rỡ
Con cái tuổi Tị: Con cái hay làm phiền lòng, trái ý bề trên
Con cái tuổi Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình, khiến cha mẹ buồn phiền, thất vọng
Con cái tuổi Mùi: Đôi bên cùng thấu hiểu, quan tâm, chăm sóc vun đắp gia đình hạnh phúc
Con cái tuổi Thân: Con cái thông minh, tài giỏi
Con cái tuổi Dậu: Con cái được chăm sóc tốt, và được cưng chiều
Con cái tuổi Tuất: Cha mẹ vì con mà làm tất cả
Con cái tuổi Hợi: Hai thế hệ rất gắn bó, chia sẻ, quan tâm đối với nhau hài hòa, chứa chan tình cảm
Xem thêm Xem tuổi con và xem tuổi cha mẹ có hợp nhau hay không?
Ngô Bạch
a. Những dâm tinh nặng ý nghĩa nhục dục:
Tham Lang: Chỉ sự tham dục lớn lao, nhất là khi hãm địa thì tính nết càng sa đọa, hư đốn, lăng loàn. Thông thương, Tham Lang chỉ hạng người dễ động tình, xấu máu về sắc dục, bị thu hút bởi nhu cầu sinh lý và chạy theo nhu cầu này một cách mù quáng, bất chấp đạo đức, gia đình, dư luận. Nết dục của Tham Lang (võ tinh) có ít nhiều bạo tính, dục động, khó kìm chế. Ngoài ra, Tham Lang thụ hưởng sinh lý một cách ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn đến bạn đồng tình, thiếu tế nhị, cao thượng, vị tha. Tham Lang đặc biệt bất lợi cho phái nữ. Nữ có sao này có ít nhiều đĩ tính, nếu Phúc - Mệnh - Thân xấu và có thêm sao tình dục khác: đây là hạng gái giang hồ. Còn Nam số có Tham Lang là kẻ ăn chơi, đàng điếm, hoang dâm, nếu không có đủ sao mạnh chế khắc.
Thiên Riêu hãm địa (trừ ở Mão và Dậu): có ý nghĩa sinh lý rất mạnh, chỉ sự chơi bời, sắc dục, trụy lạc, sa đọa, xu hướng tình dục và tính nết dâm đãng. Như Tham Lang, ái tình của Thiên Riêu bừa bãi, mạnh mẽ, đồng thời có khuynh hướng xác thịt. Đối với sao này, không có vấn đề tình yêu lý tưởng hay tinh thần, chỉ có sự thỏa mãn vật chất. Nếu Thiên Riêu đắc địa ở Mão và Dậu, nết tình vẫn mạnh, chỉ được lợi là không bị tai tiếng xấu xa mà thôi.
Thai: có ý nghĩa tình dục mạnh, thiên về sự thay cũ đổi mới và có đặc tính tái phạm, dù có cố gắng chừa.
Đào hoa: chỉ sự ham thích ái tình, tính nết trăng hoa, đa tình, ham chinh phục để yêu và được yêu, lấy tình yêu làm lẽ sống của tâm hồn, để thỏa mãn một tình cảm chứa chan hoặc một nhu cầu sinh lý nồng nhiệt. Đối với Đào Hoa, hình thái của ái tình không quan trọng bằng cường độ của ái tình nên bao giờ cũng tha thiết, đam mê, si lụy, rung động mạnh trước ái tình và tham lam trong tình trường. Đào Hoa không những phong phú, nhằm nhiều đối tượng cùng một lúc mà còn lẳng lơ, sa đọa, bất chính, phi đạo đức. Sao này đại kỵ cho Nữ Mệnh.
Mộc Dục: phóng đãng, ham muốn vật dục, khao khát yêu đương và quyến rũ yêu đương. Tính nết sinh lý của sao này ít nhiều hỗn loạn, không mấy chọn lọc đối tượng, bao hàm nhiều hình thái, từ sự tự thỏa mãn đến vấn đề đồng tính luyến ái. Tình yêu của Mộc Dục hơi quái dị, bất thường.
Mộ: sao này chỉ sự dâm đãng thông thường.
Liêm Trinh hãm địa: chỉ khi hãm địa (ở Tỵ, Hợi, Mão và Dậu), Liêm Trinh mới có ý nghĩa dâm đãng. Đắc địa (ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ, Dần, Thân, Sửu và Mùi), Liêm Trinh chỉ tính nết hào hoa thông thường.
b. Những sao tình dục nặng ý nghĩa tinh thần:
Hoa Cái: chỉ sự khao khát tình ái, sự thích thú được người khác phái chú ý và yêu đương, sự trêu cợt để cho bên kia phải chết mê, chết mệt vì yêu đương. Hoa Cái chỉ sự chưng diện, tính thích xa hoa, lộng lẫy để có một bề ngoài đài các, sang trọng, quyến rũ. Hoa cái chỉ sự kiểu cách trong bộ điệu, trong ngôn ngữ cho đến giọng nói uốn lưỡi, sửa giọng, lắm khi không tự nhiên, đôi khi lố bịch; sự ham chuộng các loại thời trang.
Hồng Loan: so với Đào Hoa, Hồng Loan chỉ ái tình tương đối có nết hạnh hơn. Hồng Loan thu hút bằng sự quyến rũ do đức tính bên trong. Hồng Loan chỉ sự khéo léo chân tay, khéo léo ngôn ngữ, khéo léo về dáng điệu tức là những nét duyên về công, dung và ngôn.
Văn Xương, Văn Khúc: không có ý nghĩa dâm đãng trực tiếp. Người có Xương Khúc có tâm hồn văn chương mỹ thuật, bắt nguồn từ những năng khiếu bẩm sinh về âm nhạc, nghệ thuật, thi ca nhưng rất đa tình, giàu tình cảm, dễ cảm xúc, tiếp nhận và tiếp phát tình cảm rất mạnh. Người có Xương Khúc có sự nhạy cảm, sự mơ mộng, sự kể lể văn chương, thiên hướng về cái tôi rất mạnh.
Thái Âm: chỉ sự hữu duyên, hữu tình và đa tình. Người có Thái Âm rất lãng mạn, có khuynh hướng bộc lộ tình cảm, hay mơ mộng viển vông, có thể dâm đãng (nếu hãm địa, ý nghĩa này rất rõ rệt).
2. Những sao tình dục riêng cho nữ phái:
a. Sao đơn thủ
Cự Môn hãm địa (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và Tỵ): nếu đóng ở Mệnh, Thân của nữ số. Chỉ tâm trạng bất mãn chung chứ không nhất thiết bất mãn về sinh lý, gặp nhiều ngang trái.
Hỏa Tinh, Linh tinh hãm địa (Tý, Thân, Dậu và Hợi): nằm mơ thấy yêu đương.
Thiên Không ở Mệnh của Nữ số: người dâm tiện, suốt đời bị ách gió trăng, là hàng ca kỹ, tì thiếp lăng loàn.
b. Sao hội họp:
Liêm Trinh, Tham Lang ở Tỵ, Hợi của Nữ số: vừa đắc kép, vừa tham dâm. Sự hội tụ ở 2 cung Tỵ và Hợi, nơi cả hai đều hãm địa, càng bất lợi cho phụ nữ: đó là những gái lầu xanh khả hữu.
Thiên Lương, Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: phóng túng, ham chơi.
Thiên Lương, Thiên Mã ở Tỵ, Hợi: phóng túng, ham chơi, thay đổi bạn liên tục.
Thái Âm hãm, Đà La: đam mê sắc dục. Đà La chỉ sự bất hạnh trong tình trường.
Thiên Đồng, Thiên Riêu: người không chung tình, thường thay đổi tình nhân và nếu có chồng thì ngoại tình.
Tham Lang, Đại, Tiểu Hao: giống như Đồng Riêu, chỉ trường hợp ngoại tình hay song tình, có mối tình thầm kín, được giấu diếm kỹ, không bộc lộ. Đây có thể là người bề ngoài đoan chính nhưng bên trong rất nồng nhiệt, chỉ phạm dâm khi có cơ hội hoặc là người đeo đuổi một lần hai mối tình trong đó phải bảo mật một mối.
Tham Lang, Phá Quân: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê, đổ vỡ về gia đạo. Đi với Tham Lang, người phụ nữ này vì tham dục nên bị liên lụy với gia đình.
Tham Lang, Thất Sát hãm địa (Mão, Dậu, Thìn và Tuất): nghiệp chướng về ái tình khó tránh khỏi. Nữ số có Tham, Sát ở Dần hay Thân là người bạc tình, mới chuộng cũ vong.
Thiên Cơ, Xương, Khúc: Nếu Phúc - Mệnh - Thân xấu gặp bộ sao này rất tham dâm. Nếu đi với Thiên Riêu hay Thai thì rất cuồng nhiệt và lăng loàn, đôi khi bộc lộ qua dâm thư kiểu như Hồ Xuân Hương.
Tham Lang, Đào Hoa: đồng nghĩa với Liêm Tham ở Tỵ, Hợi: người hồng nhan đa truân, gái giang hồ, phụ nữ chủ động cưới chồng.
Mộc Dục, Hoa Cái, Bạch Hổ: phụ nữ cuồng dâm, tính dâm ăn sâu vào máu huyết, thay đổi nhân tình như thay đổi xiêm y.
3. Vị trí các sao tình dục:
a. Sao tình dục ở cung Nô: ý nghĩa dâm đãng của đương số rất rõ ràng, có những mối tình ngoại hôn lang chạ, bừa bãi, không phân biệt giai cấp, đối tượng, kiểu như chủ lấy tớ ... Nết sa đọa của đương số còn tệ hại hơn. Chỉ có ngoại lệ khi có sao khắc chế ở Mệnh mà thôi.
b. Sao tình dục ở cung Phu Thê: hoặc vợ/chồng là người nhiều dục tính, tham dâm, có cuộc sống sinh lý dồi dào; hoặc vợ/chồng có ngoại tình; hoặc vợ/chồng có 2, 3 đời liên tiếp; hoặc vợ/chồng có thể đẹp hoặc duyên dáng, hữu tình.
c. Sao tình dục ở cung Tật: đương số có những bệnh họa liên quan đến sinh lý, tình dục, bộ phận sinh dục.
d. Sao tình dục ở cung Phúc: có thể biểu thị sự dâm đãng di truyền trong dòng họ (nếu cung Phụ hay cung Bào cũng có những sao này).
4. Những sao khắc chế tình dục:
Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương sáng sủa: tượng trưng cho sự ngay thẳng, đoan chính, trung hậu, tiết tháo. Ba sao này quân bình được các sao tình dục, kiềm chế được sự sa ngã đến mức độ đáng kể.
Ân Quang, Thiên Quý: chỉ phẩm hạnh, đức tính chung thủy, sắt son, tín nghĩa, trung thành. Hai sao này tiết giảm rất nhiều ý nghĩa trăng hoa của các sao tình dục.
Thiên Hình: chỉ sự chính trực, ngay thẳng, chính chuyên, mực thước, có ý chí đề kháng các loại cám dỗ của ái tình.
Long Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Thiên Đức (Tứ Đức): tượng trưng cho sự trong sạch, ý thức đạo đức trong vấn đề tình ái. Phải hội đủ Tứ Đức thì hiệu lực mới đủ mạnh vì Tứ Đức chỉ đủ để chế giảm các sao tình dục tầm thường.
Hóa Kỵ: Đồng cung với Liêm, Tham, Hóa Kỵ có thể chế được cái xấu của Liêm, Tham nói chung và từ đó chế cả tình dục mạnh mẽ của Liêm Tham nói riêng.
Lộc Tồn: chỉ sự chậm phát tình yêu, sự phát huy có chừng mực của sinh lý, đồng thời cũng có nghĩa cô độc trước tình yêu. Lộc Tồn là người kén yêu, khó khăn trong ái tình, chỉ yêu những đối tượng chọn lọc và có nhiều tính toán trong tình ái.
Triệt, Tuần: chế khắc tính nết dâm đãng khá mạnh. Triệt mạnh hơn Tuần mặc dù chỉ ảnh hưởng mạnh một thời gian mà thôi. Đi với Triệt, các dâm tinh hầu như mất hết ý nghĩa, không thể chi phối hay ảnh hưởng. Đi với Tuần, các dâm tinh vẫn còn chi phối con người một cách tương đối vừa phải suốt đời. Tình dục gặp Tuần, Triệt sẽ thiếu cơ hội bộc phát tự do, bị kìm tỏa trong tiềm thức, trong tư tưởng, không biểu lộ bằng hành động. Đây là trường hợp tình dục thiếu môi trường thuận lợi, bị ngăn trở, gặp ngang trái, bị cạnh tranh, gặp thất bại. Mặt khác, gặp Tuần Triệt, các sao tình dục sẽ có nghĩa là vô duyên, lỡ thì, cái duyên không có ai biết đến, không có điều kiện để trở thành ái tình (trường hợp gái già, trai muộn).
Nguồn: Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Đối mặt với tình yêu rất nhiều người đều mong muốn sức cuốn hút của bản thân được lan tỏa ra gây sự chú ý đến người mình yêu. Xem bói Tướng tay sẽ chỉ cho bạn thấy sức cuốn hút của bạn ra sao.
Ngón út dài hoặc ngắn
Đa số những người có ngón út dài, thiên về thể hiện cái tôi, có thể tự nhiên thể hiện sức cuốn hút của mình, vì vậy mà họ được nhiều người khác giới đón nhận. Ngược lại, người có ngón út ngắn thì ở đâu cũng không gây được nhiều sự chú ý, nhưng ngược lại họ có thể tạo cho người yêu mình ấn tượng độc đáo.
Ngón vô danh dài
Đây là những người có sức cuốn hút, rất lãng mạn, cho dù là người có tính hướng nội hay tính hướng ngoại cũng đều rất cuốn hút người khác giới.
Đường Tinh cảm có nhiều đường phân nhánh và mảnh nhỏ
Đều là những người có Tình cảm phức tạp, thể hiện tình cảm phong phú, đồng thời cũng chính là điểm cuốn hút người khác giới.
Có gò Kim tinh xấu
Những người này có khả năng cảm nhận mạnh, có tính chất thần kinh, có khả năng cuốn hút mạnh, vì vậy có thể thu hút được người khác giới.
Đoạn đấu của đường Trí tuệ vào đường Sinh mệnh tách rời nhau
Là người có tính độc lập, không ỷ lại vào người khác, là người thích tự mình lập nên sự nghiệp. Họ thể hiện cái tôi mạnh mẽ, không chịu thua kém, phụ nữ sẽ không phù hợp làm công việc nội trợ trong gia đình mà luôn có mong muốn được hoạt động xã hội. Cũng có người mặc dù đã kết hôn nhưng cuộc sống hôn nhân lại khác xa so với tưởng tượng, cuối cùng đã quyết định ly hôn và sống cuộc sống độc thân.
Nhiều đường Trở ngại
Họ là những người có sức hấp dẫn giới tính, được người khác giới quý mến, đồng thời cũng dễ bị ảnh hưởng của ngươi khác giới. Thích tiếp cận người khác giới, hơn nữa giới tính khác nhau đều có thể trở thành đối tượng hình thành tình yêu.
Theo thống kê của các nhà khảo cổ học, cho đến nay trên địa bàn của 15 tỉnh và thành phố ở nước ta đã có gần 60 mộ có xác ướp được khai quật. trong số gần 60 người mà các nhà khảo cổ "tìm gặp" đó có mặt hầu hết những nhân vật có vị trí cao quý nhất của xã hội đương thời: Từ vua cho đến các quan thượng thư, đại tư đồ, hoạn quan, bà chúa, cung tần mỹ nữ... ngôi mộ có niên đại sớm nhất được phát hiện ở Cẩm Bình- Hải Hưng vào thế kỷ thứ 15. Ngôi mộ có niên đại muộn nhất được chôn vào đầu thế kỷ này. nhưng nhiều nhất và được xử lý kỹ thuật tốt nhất chỉ có các mộ chôn trong 3 thế kỷ 16, 17,và 18. Đó cũng là thời kỳ bùng nổ của loại hình thức táng này.
Cấu trúc của mộ xác ướp rất thống nhất về các nguyên tắc cơ bản: Ngoài cùng là gò mộ đắp đất, trong cùng gò có một quách hợp chất màu xám rắn chắc làm bằng vôi, cát mật, giấy gió, dầu thông. Để cho quách thêm vững chắc người ta thường đổ nắp có hình vòm cung trùm ra ngoài thành quách. Bên trong quách hợp chất, thường có thêm lớp quách gôc. Quách gốc có thể cách quách hợp chất 5 cm. khoảng trống ấy có thể dùng làm vật liệu hút ẩm hoặc giữa hai lớp không có khoảng cách do khi đổ hợp chất, quách gỗ được coi như một mặt của cốp pha.
Bên trong quách gỗ là quan tài được đóng liền thành một khối ngoài có sơn phủ kín. Quách trong đều được làm bằng gỗ thơm (Ngọc am).
Trên mặt quách thường có một tấm minh tinh bằng dụ đỏ thêu tên họ của người quá cố bằng kim tuyến.
Cách sắp xếp trong lòng quàn tài cũng tuân theo một quy tắc chặt chẽ. Đóng quan thường có một lớp chè dày khoảng 4,5cm. Trên lớp chè có một tấm ván mỏng có khoét rỉ ra chẩy xuống lớp chè dưới đáy quan. ở loại hình táng thức này, người quá cố thường mặc rất nhiều quân áo. Bà Phạm Thị Nguyên Chân mặc tới 35 áo, 18 váy. Thi thể còn được bọc lại bằng hai lớp vải liệm: tiểu liệm và đại liệm. Ngoài mỗi lớp vải liệm còn có dây lụa buộc chặt chẽ.
Để tăng độ hút ẩm và cho thi thể khỏi bị xô dịch, người ta còn dùng rất nhiều gối bong chèn dưới lòng quan. Có mộ đã dùng tới 49 chiếc gối bông.
Đồ tùng táng trong loại hình táng thức này rất nghèo nàn, thường trong mộ chỉ thấy các trái gốm nhỏ đựng móng chân, móng tay, răng rụng, trầu không, thuốc lá, hộp phấn, quạt giấy, đôi khi còn có thêm cuốn sách Kinh.
Tuyệt đại bộ phận các mộ xác ướp thơi Lê -Trịnh đã được khai quật, không tìm thấy bất kỳ một đồ tùng táng nào quý giá như vàng, bạc, ngọc, ngà.
Ở những mộ chưa bị phá hoại, kỹ thuật chôn cất rất cẩn thận thì xác và đồ tùng táng vẫn còn được bảo quản nguyên vẹn. Thi thể tuy có bị mất nước teo đét lại, nhưng màu da không bị đen, các khớp chân tay còn mềm mại, phần lông không bị rụng hỏng. Điều đáng chú ý là, khi khám nghiệm tử thi, các nhà nhân chủng học và y học không tìm thấy bất kỳ một dấu vết mổ xẻ nào trên thân thể. Như vậy là, ruột và óc người chết đã không bị mổ lấy ra như kỹ thuật ướp xác của người Ai Cập thời cổ.
Nguyên nhân nào đã làm cho xác và đồ tùng táng không bị tiêu huỷ? Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ, nhân chủng học và y học hiện đại đã đi đến kết luận là, có hai nguyên nhân cơ bản:
Một là, mộ được chôn cất trong môi trường kín tuyệt đối. Không có hiên tượng trao đổi bên trong và bên ngoài. Quan, quách (hai lớp) đã đóng vai trò chủ đạo trong yêu cầu kỹ thuật này. Ngoài ra, còn cần phải hạn chế tới mức tối đa không gian trống trong lòng mộ.
Hai là, dầu thơm cũng là một yếu tố quyết định. Dầu thơm đã làm sạch vi khuẩn, dầu trộn với hợp chất, đổ vào lòng quan, quan tài thơm... đã ngăn không cho vi khuẩn, kể cả các vi khuẩn yếm khí tiếp tục hoạt động huỷ hoại xác.
Ngoài ra các phương pháp chống ẩm bằng chè, quần áo, tẩm liệm, gối bông cũng đã góp thêm mặt yếu tố gìn giữ xác.
Những kết quả khoa học đào tìm được và các giám định khoa học vừa được trình bày cho thấy: Mộ xác ướp Việt Nam không có gì là bí ẩn cả. mộ xác ướp, một di sản văn hoá cần được bảo vệ
(Hoàng Linh- Trích "Du lịch Việt Nam" số 43)
Tháng 8 năm 1984, một ngôi mộ xác ướp được phát hiện trên cánh đồng Mả Vôi thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát, tỉnh Nghĩa Bình.
Ngôi mộ được táng theo lối trong quan ngoài quách. Quách được xây dựng bằng một hợp chất gồm vôi sống, cát và một số chất kết dính như nhiều ngôi mộ đã phát hiện thời Lê Trịnh và thời Nguyễn. Quan tài bằng gỗ, mặt ngoài trát một lớp ngăn thấm rất kín. Quan tài có chân và nắp là một nửa thân gỗ còn nguyên lớp vỏ bào không nhẵn.
Thi hài chôn trong mộ là một phụ nữ khoảng 60 tuổi, cao 154,5 cm, chân trái bị gãy và liền lại khi còn sống nên ngắn hơn chân phải 3,1cm. Thi thể hầu như còn nguyên vẹn và các khớp xương, nhất là xương sống và các khớp vai còn có thể cử động rất mềm dẻo.
Y trang phục của người chết gồm ba lớp áo mặc, khăn nhiễu đội đầu, đội hài da, một chiếc áo dài mầu đen kê dưới tay phải. Vải liệm gồm 7 súc đặt theo chiều dài và súc đặt theo chiều ngang.
Đáy quan tài có một lớp trấu và lúa không sấy, chất gạo còn khá tốt. Giữa nắp quan tài và xác là một lớp là chuối khô. Giấy bản chèn cũng buộc bằng dây chuối khô. Đặc biệt, quan tài chứa một dung dịch ngâm giữ xác có màu nâu trong. Thành phần hoá học của dung dịch chưa xác định được, nhưng không có thuỷ ngân (Hg) arsenic (as) và tinh dầu thông.
Căn cứ vào gia phả của dòng họ và sự ghi nhận của thân nhân thì chủ ngôi mộ là bà Nguyễn Thị Trọng, vợ thứ ba của ông Lê Văn Thể.
Ngôi mộ ướp xác này là một tư liệu khoa học có giá trị về nhiều phương diện:
- Đây là ngôi mộ ướp xác đầu tiên tìm thấy từ một tỉnh xa nhất về phía nam.
- So với những ngôi mộ ướp các được phát hiện ở các tỉnh phía Bắc, ngôi mộ này có những đặc điểm riêng cần nghiên cứu như: Nắp quan tài là một nửa thân cây để nguyên vỏ, thi hài ngâm trong dung dịch giữ xác...
- Những di vật trong ngôi mộ phản ánh nghi thức mai táng y trang phục các nghề thủ công, phong tục tập quán và lối sống xã hội đương thời.
- Chủ nhân của ngôi mộ thuộc gia đình Tây Sơn và có quan hệ mật thiết với Tây Sơn nên những do vật đó cúng là những chứng tích về đời sống văn hoá xã hội, kinh tế thời bấy giờ.
(Trích "Quang Trung Nguyễn Huệ- con người và sự nghiệp"- Phan Huy Lê.)
Người tuổi Mùi là người sinh vào các năm: 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003, 2015...
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Mùi vốn kín đáo nhưng sẵn sàng cởi mở tâm hồn với Mão bởi sự tinh khôn và giỏi giao thiệp của Mão. Bằng tình yêu chân thật và sự khéo léo của mình, Mão có thể khai thác hết khả năng tiềm tàng của Mùi. Sự quan tâm, chăm sóc cùng những lời động viên, khuyến khích của Mão là động lực khiến Mùi phát huy hết phẩm chất và khả năng của mình.
Khi kết hợp với nhau, cả 2 sẽ làm việc thật hiệu quả và đạt được nhiều thành công, xây dựng được gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Mão có khả năng xoa dịu và an ủi sự buồn chán của Mùi bằng cách tiếp thêm nhiệt tình và lòng tự tin cho Mùi. Đây quả là sự phối hợp tuyệt vời.
Mùi thuộc hành Thổ, Mão thuộc hành Mộc. Mộc kiểm soát Thổ. Vì vậy, ở đây Mão chiếm ưu thế. Điều này tốt cho mối quan hệ, bởi vì Mão sẽ phát huy hết những phẩm chất và khả năng tốt nhất của Mùi. Mặc dù bị kiểm soát, nhưng nó thật sự nhẹ nhàng, thể hiện dưới sự khôn ngoan, khéo léo điều khiển từ phía sau của Mão.(Theo Phong thủy trong tình yêu)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Chúng ta luôn tò mò trong 12 con giáp con giáp nào có vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết? Không ai khác, đó chính là những cô nàng tuổi Dậu, Sửu, Tý và Ngọ. Những con giáp khác thì như thế nào? để hiểu rõ hơn chúng ta cùng khám phá trong bài viết về các con giáp có vẻ đẹp tâm hồn hay nói cách khác là những cô nàng có vẻ đẹp tâm hồn ngay dưới đây nhé!
Nội dung
Những cô nàng tuổi Dậu không quá nổi bật về vẻ bên ngoài, nhưng họ lại có sức hút nhờ vẻ đẹp tâm hồn bên trong: hiền thục, nữ tính và thuần khiết. Đó cũng chính là ấn tượng đầu tiên để lại trong mắt người khác giới khi tiếp xúc với người tuổi Dậu. Thậm chí, boy nào cũng muốn bảo vệ và che chở cho các cô nàng dịu dàng tuổi Dậu.
Khi mặt đối mặt với cô nàng tuổi này, bạn sẽ phát hiện thấy ánh mắt dịu dàng, long lanh, ngây thơ và có chút gì đó yếu ớt và cần được bảo vệ.
Con gái tuổi Sửu có tính cách dịu dàng, hòa đồng và tâm hồn trong sáng. Bất luận làm việc gì họ đều mang lại cảm giác thoải mái cho mọi người xung quanh.
Những cô nàng khôn ngoan tuổi Sửu luôn biết cách cư xử đúng chừng mực, nói năng khiêm tốn và hài hước. Do vậy, họ dễ chiếm được cảm tình của người khác, đặc biệt là hội đầu keo.
Tính cách nổi bật của cô nàng tuổi Tý là sự điềm tĩnh, bí ẩn và duyên dáng. Thường họ không nói quá to, luôn mỉm cười và ân cần với tất cả mọi người.
Trước mặt mọi người, họ đều tỏ vẻ xấu hổ, nói năng nhẹ nhàng, trong sáng. Điều đó tạo nên sức hút cực mạnh đối với người khác giới.
Vốn tính lạc quan, vui vẻ, nhiệt tình và thích cười nên những nàng tuổi Ngọ rất dễ thu hút sự chú ý của mọi người. Khi tiếp xúc với họ, bạn sẽ thấy niềm vui nhanh chóng được lan tỏa. Bởi chỉ cần họ mỉm cười là có thể khuấy động bầu không khí tẻ nhạt và xua tan mọi muộn phiền lo âu.
Bạn bận rộn mãi nhưng vẫn không có tiền thì hãy thử lưu ý những mẹo phong thủy để thoát khỏi tình cảnh này để duy trì sự cân bằng, đặc biệt là khi bạn đang chìm trong cả “núi việc”.
Đừng hỏi vì sao bạn mãi bận rộn mà vẫn nghèo vì thực sự bạn đang vùi đầu vào công việc một cách thiếu khoa học. Những gợi ý sau đây có thể hỗ trợ bạn phần nào trong việc thực hiện lối sống mới khoa học hơn.
Bất kể bạn đang độc thân hay nuôi tới ba đứa con bạn đều có thể áp dụng những mẹo phong thủy sau để cuộc sống bớt bận rộn và có thể cân bằng giữa cuộc sống gia đình lẫn công việc.
![]() |
![]() |
![]() |
Quán quân: Cô nàng tuổi Mão
![]() |
Người tuổi Mão có địa chi là cây liễu vừa thanh thoát, xinh xắn lại dịu dàng, khéo léo. Phần lớn các cô gái cầm tinh con mèo đều sở hữu những tài lẻ xuất chúng, cộng thêm tính hài hước thiên bẩm, đi tới đâu nàng tuổi Mão cũng hút sự chú ý .
Á quân: Cô nàng tuổi Dậu
![]() |
Địa chi gắn với những cô nàng tuổi Dậu là ngọc ngà châu báu, do đó, hầu hết các nàng ấy đều sở hữu khuôn mặt rạng rỡ, làn da trắng hồng tinh khiết. Họ còn sở hữu tâm hồn lãng mạn vô đối và không ngừng nỗ lực để hoàn thiện bản thân về mọi mặt. Nhan sắc của cô gái tuổi Dậu cũng thuộc hàng “nghiêng nước nghiêng thành” đó nha!.
No3: Cô nàng tuổi Ngọ
![]() |
Những cô nàng tuổi Ngọ nhiệt tình, hào phóng và tràn đầy năng lượng vốn thuộc địa chi Đinh Hỏa (ngọn lửa sáng rực rỡ) và nhan sắc có phần “nhỉnh” hơn người khác. Với nhiệt huyết tuổi trẻ lúc nào cũng như ngọn lửa đang bùng cháy, dù tới bất cứ nơi đâu, các nàng tuổi Dậu sẽ nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý.
No4: Cô nàng tuổi Tý
![]() |
Các nàng tuổi Tý có địa chi là những giọt sương long lanh, tinh khiết. Phần lớn dung nhan của họ đều nổi trội và là niềm mơ ước của bao người. Vốn là cô nàng thích theo đuổi hình tượng hoàn mỹ, họ biết cách ăn vận hợp lý làm tôn lên vẻ đẹp thiên phú của mình khiến ai nấy đều không ngớt lời khen ngợi.
No5: Cô nàng tuổi Tỵ
![]() |
Hầu hết con gái tuổi Tỵ đều sở hữu gương mặt nhỏ nhắn và ánh lên sắc hồng hào thu hút mọi ánh nhìn của người đối diện. Họ có địa chi là ánh rực rỡ của phượng hoàng lửa, nên dung mạo khá nổi trội. Hơn thế, cá tính mạnh mẽ, sôi nổi và nhiệt tình giúp đỡ người khác mang lại cho cô nàng này không ít may mắn và thuận lợi trong cuộc sống.
Mr.Bull (theo TX)
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Khả năng | Tứ hóa |
Thiên đồng | Nam đẩu (thứ 4) | Dương thủy | Phúc | Phúc đức | Giải ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa | Bính: Lộc, Đinh: Quyền, Canh: Kị |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên đồng là dương thủy. Là chòm sao thứ tư trong chòm sao Nam Đẩu. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc thọ. (Tuổi trẻ chủ về Phúc, tuổi già chủ về Thọ, phúc nhiều thì Thọ ít, phúc ít thì Thọ nhiều.)
Sao Thiên Đồng có phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác "có phúc không biết hưởng" hay "số vất vả".
Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.
Thiên đồng hóa Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có "khẩu phúc" (được ăn ngon), nhưng tính cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.
Sao Thiên Đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương, chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân. Gặp bốn sát tinh Kình Đà, Hỏa Tinh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật cô độc.
Sao Thiên đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp trở ngại.
Sao Thái âm và Thiên Đồng nếu trấn tại cung mệnh, hoặc cung Điền Trạch tại Tý, là cách cục "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh - Tài - Quan là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên Đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.
![]() |
![]() |
Con người sống trên đời cứ mải miết đắm mê nhặt nhạnh thật nhiều của cải mà không để ý rằng một khi nhắm mắt xuôi tay chẳng thể nào mang theo được. Mà cái đi theo người ta đó là chữ Nghiệp báo ứng cho đời sau. Biết được vậy khi còn sống nên xả bỏ dục vọng, tìm giải thoát mọi muộn phiền thế tục.
Thuở xưa có hai anh em cha mẹ mất sớm, để lại một gia sản to lớn. Không hiếu dưỡng được song thân, họ rất buồn tiếc…
Thời gian vùn vụt trôi, hai anh em từ chí hướng đến ý thích khác biệt nhau rất xa. Người anh thì mến đạo nghĩa, thường làm việc thiện như bố thí của cải, do đó gia sản càng ngày càng tổn giảm; còn người em thì mê tài sản, trổ tài mánh lới làm các thứ kinh doanh, nên gia sản càng ngày càng tăng thêm. Vì thế, người em rất bất mãn đời sống của anh mình. Một hôm, không chịu đựng được nữa, người em gọi anh ra lên mặt dạy dỗ:
“Anh em chúng ta bất hạnh nên cha mẹ mất sớm. Cha mẹ để lại gia tài cho chúng ta, chúng ta làm con, thì phải nhớ nghĩ đến từ tâm của cha mẹ, mau mau nỗ lực làm ăn buôn bán để giữ gìn và phát triển cái vốn gia sản sẵn có ấy khiến hương hồn của cha mẹ ở cõi trời được an ủi, thế mới đúng đạo làm con.
Đằng này, anh từ sáng tới tối cứ lo chạy theo mấy ông sa môn xuất gia để nghe kinh Phật, không lẽ mấy ông ấy có thể cho anh áo quần tiền tài hay sao? Gia đình anh càng ngày càng nghèo khó, tài sản càng ngày càng hao hụt, không những có lỗi với hương hồn cha mẹ mà còn làm cho làng xóm chê cười”.
Người anh ôn tồn trả lời: “Những gì chú nói, anh đã biết rõ hết, nhưng đó chỉ là những ý nghĩ thiển cận của thế tục. Chú nghĩ rằng mình phải bảo trì và khuếch trương sản nghiệp của cha mẹ mới là tận hiếu. Nhưng anh thì hoàn toàn không nghĩ như chú. Làm như thế chẳng qua chỉ cho chú có thêm điều kiện hưởng thụ, chứ vong hồn cha mẹ được lợi ích gì trong đó?
Còn anh thì lại lo giữ ngũ giới một cách nghiêm chỉnh, chuyên cần thực hành mười điều thiện, cúng dường Tam Bảo, lấy đạo cả mà cứu cha mẹ, khiến hương hồn cha mẹ được xa lìa nẻo khổ mà sinh về đường thiện, dần dần tiến đến chỗ giải thoát vĩnh hằng, đây mới là con đường báo hiếu chân chính.
Đạo và đời vốn tương phản nhau, cái mà đạo cho là sung sướng và quý giá thì đời lại chê là thấp hèn. Những gì chú cho là khoái lạc hôm nay, chính là gốc rễ của phiền não về sau. Anh không muốn đuổi theo những khoái lạc huyễn ảo như thế, cái khoái lạc mà người có trí huệ mong cầu là cái khoái lạc vĩnh hằng kìa!”
Người em nghe anh nói, cảm thấy mình không có lý lẽ để tranh cãi nhưng trong tâm thì không phục, bèn nén giận cúi đầu.
Người anh biết em mình không thể nói một lần mà hiểu, bèn phát biểu tâm chí muốn cầu học đạo của mình. Người em biết anh mình tâm đã cương quyết hướng về đạo nên im lặng, nén hận mà bỏ đi. Không lâu sau, người anh muốn cho việc học đạo của mình được chuyên tâm nên lìa bỏ gia đình, khoác y ôm bình bát làm sa môn, ngày đêm tinh tiến tu thiền, cẩn thận từng lời nói từng ý nghĩ, về sau chứng được quả A La Hán.
Người em nghe tin này, không những không vui mừng mà lòng phiền não giận hờn anh càng gia tăng thêm. Người này từ sáng đến tối lo làm ăn để tăng trưởng sự nghiệp cho đến mức đầu óc choáng váng, còn việc nhân sinh giải thoát thì không mảy may chú ý.
Cuối cùng, gia tài ức triệu nọ cũng không kéo dài được, đời sống vốn có giới hạn. Quả thật là chết đi không đem theo được bất cứ vật gì, chỉ có cái nghiệp là theo sát bên thân.
Trong lúc sống người em quá ư tham dục nên bị đọa xuống kiếp súc sinh, đầu thai làm trâu. Con trâu sinh ra mạnh khoẻ mập mạp, liền bị một người nhà buôn mua về kéo xe muối.
Kéo xe trèo dốc đường dài, lao khổ không phút nào ngừng nghỉ, con trâu mất sức, gầy mòn, mỗi lần lên dốc thở phì phò mà vẫn bị roi vọt, trông thật là thê thảm, thương tâm. Vừa đúng lúc ấy, người anh đi ngang dùng đạo nhãn quán sát con trâu, biết đây là em mình nên nói để khai mở trí huệ cho em:
“Chú một đời khổ cực, gia tài sản nghiệp chú gom góp được tính ra không biết bao nhiêu mà kể, bây giờ gia tài ấy đâu rồi? Trước kia, chú nói đạo cả là vô dụng vì không đem lại quần áo ăn uống, tiền tài mới đáng quý vì nó giúp chú thỏa mãn được mọi dục lạc. Bây giờ đạo cả lại làm cho anh giải thoát được luân hồi, chứng được quả thánh, còn tiền tài mà chú quý trọng tại sao lại không cứu chú thoát kiếp trâu mà sinh về nẻo thiện?”
Nói xong, người anh vận dụng thần thông khiến con trâu kiếp trước của mình. Con trâu tuy không nói được nhưng đau khổ rơi nước mắt, biết mình kiếp trước thấy đượcc có được thân người nhưng lại làm nhiều điều bất thiện, tham lam, ganh ghét, không tin Phật pháp, khinh chê thánh chúng, không nghe lời khuyên bảo thiện lành của anh, cho đến nỗi bây giờ đọa làm thân trâu, hối tiếc thì đã quá muộn.
Người anh biết em mình đã có tâm niệm hối hận và tự trách liền xin người chủ mua lại con trâu này, và đem mối quan hệ giữa mình và con trâu kể cho người chủ nghe. Người chủ trâu nghe xong tóc gáy dựng đứng rùng mình ghê sợ, không đòi tiền mà đem trâu dâng tặng cho người anh. Người anh dắt trâu về chùa phóng sinh, và dạy nó niệm Phật. Không lâu sau, con trâu chết đi, sinh lên cõi trời Đao Lợi.
Về sau, người chủ con trâu nghĩ đến vấn đề sinh tử luân hồi, cũng xả bỏ tất cả chuyên tâm tìm học đạo, cuối cùng được mãn nguyện, chứng được thánh quả, giải thoát phiền não.
Theo Phật giáo, nghiệp là những việc con người đã làm trong quá khứ và hiện tại, sẽ ảnh hưởng tới tương lai. Gieo nghiệp nào thì gặt “quả báo” ấy.
Chúng ta thường quan niệm rằng gieo nghiệp nào sẽ gặt quả ấy. Những việc tốt của con người trong quá khứ và hiện tại sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến tương lai. Vì vậy, bạn nên tránh 7 điều sau để không bị quả báo.
1. Bất hiếu với cha mẹ
Với Phật giáo, bất hiếu với cha mẹ mà tội lỗi lớn nhất. Cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục, công ơn như trời biển. Nếu ngay cả cha mẹ còn không hiếu lễ, kính trọng, đền đáp thì không thể đối tốt với bất cứ ai. Có lễ mà không trả, có tình mà không báo là nghiệp ác nặng.
2. Tham dâm háo sắc
Nghiệp ác tham dâm háo sắc xuất phát từ nhục dục của con người. Con người hơn con vật ở chỗ điều khiển, chế ngự được bản năng. Vì nhu cầu bản thân mà tổn hại sức khỏe, vi phạm đạo đức, gây hại cho người khác và xã hội là không đúng.
3. Nói láo hại người
Lời nói như dao hai lưỡi, nói điều hay lẽ phải là tốt cho mình, cho người, nói điều bậy bạ, dối trá là hại mình, hại người, gây xung đột. Thường xuyên bịa đặt để hại người khác là ác nghiệp. Thậm chí nói dối, nói sai sự thật tuy không gây hậu họa nghiêm trọng nhưng cũng vẫn sẽ gặp quả báo.
4. Thường xuyên sát sinh
Phật dạy rằng, mỗi loài trên đời đều có sinh mệnh. Sinh mệnh loài nào cũng đáng quý, đáng trân trọng. Tước đoạt sinh mệnh của loài khác là gieo nghiệp ác, đi ngược lại sự sinh sôi của tự nhiên và lòng không có thiện niệm.
5. Keo kiệt, ít từ thiện
Người sống không có lòng từ bi, chia sẻ, chỉ bo bo cho mình cũng là tạo nghiệp ác. Người này nhất định không thể tạo được nhân duyên tốt đẹp, không gặp niềm vui, không biết đến tình thương và tình đồng loại.
6. Kiêu căng, tự mãn
Người không khiêm tốn thì không rộng lượng, không biết nhìn nhận cái hay cái dở, cái được cái mất trên đời. Người kiêu căng dễ sinh lòng đố kị, khinh bạc, thậm chí thù ghét người khác, là nghiệp ác nên tránh.
7. Trộm cắp
Nghiệp ác này làm tiêu hao nhiều phúc đức của bản thân, lấy của người thì người lại lấy của mình. Chiếm đoạt của người khác là gieo nghiệp ác, gây tranh chấp, thù hằn, vi phạm đạo đức và pháp luật.
Trước đây, bếp thường bị xếp vào một góc khuất trong nhà, thậm chí bị tách riêng ra khỏi gian nhà chính, bị phân biệt đối xử rất rõ rệt. Nghĩ lại cũng thấy tội nghiệp cho không gian này, cũng chỉ vì thiết bị và cách thức nấu nướng thời xa xưa còn quá lạc hậu với nhiều củi khói và muội than.
Vì thế, những gì liên quan đến bếp đều không đáng để khoe ra. Nồi niêu đen kịt, xấu xí. Bếp lò đầy muội than và không kiểu cọ gì. Một không gian chỉ có tông màu xám đen là chủ đạo.
Khi đô thị Việt Nam tiến thêm một bước nữa, không gian bếp được xích lại gần không gian chính yếu khác. Tuy nhiên, bếp vẫn còn "lẻ loi" nơi sau cùng của ngôi nhà ống dài.
Không gian bếp lúc bấy giờ đôi khi bị cách ly bởi một khoảng sân. Và nó vẫn là "xó bếp", mặc dù cách thức nấu nướng có phần tiến bộ. Vì bị cách ly như thế, cho nên không gian bếp thời ấy chẳng được thiết kế và trang trí đúng cách.
Ánh sáng leo lét, không khí cùng với khói quanh quẩn không thoát hết ra ngoài. Và cũng chính vì thế nên việc nấu nướng không phải là công việc thú vị.
Từ khi kinh tế mở cửa, những quan niệm xưa cũ về không gian bếp dần phai bớt, bếp không còn là không gian "cô độc" bị cách ly khỏi những thành tố không gian khác của ngôi nhà, mà ngược lại, nó dần trở thành một nơi được quan tâm nhiều nhất, từ bố cục mặt bằng, thiết kế, thiết bị cho đến những điều tâm linh.
Bố cục mặt bằng
Ngày nay, gia chủ luôn quan tâm đến thiết kế bếp, từ vị trí đến trang thiết bị sao cho hợp lý trong việc sử dụng và mối tương tác giữa bếp và các không gian khác như không gian ăn và không gian tiếp khách (hay giải trí). Bếp giờ đây là một không gian để "khoe ra" với rất nhiều thiết bị hấp dẫn.
Tùy theo sở thích, gia chủ có thể thiết kế bếp "kín" hay bếp "mở". Cho dù được gọi là bếp kín, nhằm mục đích cách ly mùi lúc nấu nướng, nhưng nó vẫn có mối tương tác gần gũi với các không gian liền kề. Với bếp kín, không gian ăn có thể là một thành phần ngay trong đó hoặc liền kề.
Với loại bếp mở, không gian nhà ở trở nên thoáng đãng và thú vị hơn. Với bếp mở, kiến trúc sư có điều kiện để kiến tạo nên những nét riêng biệt của không gian bếp + ăn + giải trí.
Dù bếp kín hay mở, mặt bằng bếp có nguyên tắc ba điểm, là tủ lạnh, chậu rửa và khu vực nấu, trong đó chậu rửa luôn phải gần tủ lạnh nhất. Ba điểm này có thể thẳng hàng hoặc theo hình tam giác, tùy theo không gian cho phép của ngôi nhà.
Nếu là ba điểm thẳng hàng, thì thứ tự cần phải là tủ lạnh, chậu rửa và bếp nấu. Cũng cần lưu ý, phải chừa ít nhất 30cm hai bên chậu rửa để thuận tiện khi rửa chén.
Có các kiểu bố trí mặt bằng theo nguyên tắc ba điểm trên: chữ I (dọc theo tường), kiểu song song, kiểu L hoặc L với một đảo bếp, kiểu chữ G. Và tùy theo thực tế không gian, bố cục bếp sẽ có những sự pha trộn nhất định. Thiết bị
Thời nay, thiết bị bếp rất phong phú. Nhưng khi thiết kế, cần lưu ý các điểm chính yếu cần phải đạt được.
Kích thước khu để tủ lạnh: Cần phải xác định nhu cầu tủ lạnh của gia đình là bao nhiêu lít, có sử dụng loại side-by-side không, từ đó sẽ có được kích thước khu vực để tủ lạnh.
Khu vực chậu rửa: Cần lưu ý có không gian để thao tác khi rửa và không gian để làm ráo nước cho chén bát sau khi rửa xong.
Khu vực nấu nướng: Cần xác định nhu cầu nấu nướng, từ đó sẽ có được các thiết bị và không gian dành cho nó như loại bếp gas hay điện, nơi để bình gas, bếp nướng, nơi để lò viba, nồi cơm điện.
Phải lưu ý đến vị trí lắp đặt máy hút khói, khử mùi. Thiết bị này luôn phải được nối ống dẫn hơi khói ra bên ngoài nhà vì bản thân nó không thể làm triệt tiêu khói được.
Thiết kế
Khi thiết kế bếp, cần lưu ý các điểm chính yếu sau:
Kích thước thiết bị: Phải xác định đúng kích thước thiết bị theo catalogue sản phẩm.
Kích thước phần kệ bếp bên dưới: Chiều sâu bề mặt trung bình là 600mm và chiều cao mặt bếp trung bình là 820mm.
Phần tủ bếp treo bên trên: Xác định chiều cao có cao đến trần hay không. Điều này tùy thuộc vào sở thích của gia chủ. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, tủ treo bếp nên cao đến sát trần, để đồ đạc linh tinh có thể được cất giữ gọn gàng và kín đáo.
Ánh sáng: Lưu ý ánh sáng chung cho khu vực bếp và ánh sáng tập trung bên phần nấu nướng. Ánh sáng chung cho khu vực bếp cũng có thể được bố trí khéo léo bên dưới phần tủ bếp.
Vật liệu bề mặt: Nên sử dụng gỗ tổng hợp chịu được nước. Bề mặt bếp ngày nay có nhiều vật liệu nhân tạo có bán thể thay thế tốt hơn và thẩm mỹ hơn đá granite. Nên sử dụng các phụ kiện tốt bên trong ngăn kéo...
Các dụng cụ linh tinh: Lưu ý đến các điều nhỏ nhặt hơn, ví dụ như nơi treo dao kéo (ngày nay ngoài thị trường có những thanh kim loại tổng hợp có từ tính để hít dao), nơi để muỗng đũa, nơi để thùng rác.
Tâm linh
Liên quan đến tâm linh là liên quan đến niềm tin. Nếu tin thì nên lưu ý đến những yếu tố gần như đã thành "tục" mà các kiến trúc sư thường hay nhận được yêu cầu từ các gia chủ: Bếp nấu không nên nằm ngay dưới tầng của đầu giường ngủ; không nên nằm ngay bên dưới toilet của tầng trên; vị trí có thể theo hướng, tùy theo tuổi của gia chủ.
Tuy nhiên, những điều trên chỉ mang tính tương đối và kiến trúc sư vẫn phải có được tiếng nói nhất định trong việc quyết định các thiết kế liên quan đến không gian bếp.
(Theo DNSG)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
No1. Người tuổi Dê – Biến nguy thành an Trong những con giáp ăn chay, trước tiên phải kể tới người tuổi Mùi. Nếu có cảm giác công việc, chuyện tình cảm dạo gần đây đi xuống, gặp nhiều trở ngại, người tuổi Dê nên áp dụng cho mình chế độ ăn chay hợp lý. Có thể là ăn chay trường hoặc tuần chay, vừa thay đổi khẩu vị, lại giúp sức khỏe thêm dồi dào, đặc biệt tăng vận khí bản mệnh, giúp mọi sự hanh thông thoáng đạt, biến nguy thành an, cuộc sống nhẹ tựa lông hồng, thổi bay mọi áp lực.
![]() |
![]() |
i.
Bát quái được ví như trái tim của phong thủy. Đó là dạng bát giác được chia ra làm 8 phần, lần lượt tượng trưng cho Phú quý, Danh vọng, Hôn nhân, Con cái, Quý nhân, Sự nghiệp, Học vấn và Gia đình.
Thực tế, mỗi nhà phong thủy sử dụng Bát quái theo cách khác nhau. Tuy nhiên, vẫn có điểm cơ bản nhất định. Trong đó, vị trí của cửa chính là quan trọng nhất. Hãy hình dung bạn đang nhìn vào phòng khách và lưng bạn hướng về phía cửa. Tùy thuộc vào vị trí của cửa chính mà bạn sẽ định ra vị trí tương ứng với phần nào trên Bát quái.
Bạn có thể dễ dàng vẽ 1 hình Bát quái cho bất kỳ hình dạng nào của mặt bằng ngôi nhà. Căn cứ vào đó, chủ nhà sẽ xác định vị trí của phòng khách tương ứng với cung nào thì năng lượng của cung đó sẽ ảnh hưởng đến nó.
– Phòng khách nằm ờ cung Hôn nhân, Gia đình hoặc Quý nhân sẽ dự báo trước không khí ấm áp và thân thiện.
– Phòng khách nằm ở cung Học vấn sẽ là nơi học tập lý tưởng, con cái làm rạng danh tiên tổ, vinh hiển phụ mẫu.
– Ở cung Con cái, phòng khách sẽ luôn đầy ắp tiếng cười trẻ thơ.
– Ở cung Sự nghiệp, nhiều khả năng, gia chủ sẽ phải thưởng xuyên mang công việc về nhà.
– Ở cung Danh vọng, phòng khách sẽ trở thành nơi trưng bày vật quý. Tuy nhiên, chủ nhân nên cân nhắc từng món đồ trước khi bài trí để tránh rắc rối không đáng có.
– Phòng khách nằm ở cung Phú quý là tốt nhất. Nhưng gia chủ phải luôn giữ phòng sạch sẽ, ngăn nắp.
Tiếp đến, bạn sẽ sử dụng Bát quái vào chính phòng khách của mình. Một lần nữa, lưng bạn lại hướng về phía cửa và lại đặt Bát quái như vị trí ban đầu. Có nghĩa là cung Phú quý ở góc trái trên, Hôn nhân ờ góc phải trên và tương tự cho những cung khác. Hãy sử dụng Bát quái để quyết định cách sắp xếp đồ đạc trong phòng.
– Nếu thường xuyên làm việc tại phòng khách thì nên đặt bàn làm việc ở vị trí ứng với cung Sự nghiệp để tạo thuận lợi cho công việc và thăng tiến sự nghiệp.
– Điện thoại có thể đặt ở cung Quý nhân. Bằng cách này, gia chủ sẽ bớt đi những phiền phức, mệt mỏi.
– Cung Học vấn rất thích hợp đặt kệ sách hoặc bàn học cho trẻ.
– Bộ ghế đôi đặt ở cung Hôn nhân sẽ giúp tình cảm vợ chồng thêm mặn nồng, sâu sắc.
– Bộ bàn ghế sofa đặt ở cung Gia đình sẽ tạo nên không khí ấm cúng cho những buổi sinh hoạt chung.
Phải nhớ rằng, ở bất kỳ vị trí nào trong phòng cũng cần ngăn nắp, sạch sẽ. Nếu có chút bề bộn sẽ phản tác dụng.
Muốn tăng hiệu quả cho cung nào đó thì nên đặt vật mang tính biểu tưọng vào vị trí đó. Chẳng hạn như ngọn đèn hoặc chậu cá cảnh. Đặc biệt nước và cá là những biểu tượng mang lại sự thịnh vượng trong phong thủy.
Sự kết hợp tốt nhất là 2 chú cá vàng (tượng trưng cho sự may mắn và giàu năng lượng) và 1 chú cá đen (tượng trưng cho sự an lành).
Nếu bạn không thích nuôi cá, có thể dùng thác nước nhân tạo hoặc chậu nước với hoa hoặc sỏi.
Đá thạch anh là loại đá quý được con người rất tin dụng. Đá thạch anh là một trong những loại đá được sử dụng để làm các món đồ trang sức không chỉ bởi vẻ đẹp lấp lánh mà nó còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và có ý nghĩa phong thủy rất quan trọng trong cuộc sống. Thạch anh có rất nhiều loại màu sắc khác nhau như: tím, vàng , lục, hồng , sữa, pha lê …. Trong đó, có lẽ thạch anh tím là loại được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Vậy tại sao thạch anh tím lại được dùng phổ biến hơn so với các loại đá khác. Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống là gì? Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây để hiểu thêm nhé!
Nội dung
Thạch anh (silic điôxít, SiO2) hay còn gọi là thủy ngọc là một trong số những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ diện silic – oxy (SiO4), trong đó mỗi oxy chia sẻ giữa hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2.
Thạch anh được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: điện tử, quang học,… và trong ngọc học. Các tinh thể thạch anh trong suốt có màu sắc đa dạng: tím, hồng, đen, vàng,… và được sử dụng làm đồ trang sức từ rất xa xưa.
Ametit loại biến thể màu tím của thạch anh được coi là đá quý của tháng hai và là loại được ưa chuộng nhất của họ thạch anh.
Đá thạch anh tím là loại đá từ thiên nhiên rất quý hiếm tỏa ra năng lượng có công dụng rất tốt đối với sức khỏe con người và đặc biệt, trang sức từ đá thạch anh tím còn mang ý nghĩa mang lại nhiều điều may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống của chúng ta.
Thạch anh tím là một tinh thể tỏa ra năng lượng. Vì vậy, khi đeo trang sức từ thạch anh tím sẽ có tác dụng cực kì tốt khi được dùng để giảm đau và giảm stress, giận dữ và khó chịu, làm dịu tâm tính, xoá bỏ các nỗi sợ và cảm giác tiêu cực. Thêm nữa, thạch anh tím còn có thể được đeo để bảo vệ ta khỏi những đòn tấn công tinh thần cũng như những tổn hại khác.
Ngoài ra, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đá thạch anh tím tỏa ra năng lượng kỳ diệu, giúp chúng ta tỉnh táo, nó rất tốt cho những người muốn cai nghiện thuốc lá, rượu bia hoặc những chất gây nghiện khác. Nó còn có thể được dùng cho các vấn đề về xương khớp, như giảm sưng tấy, thâm tím và giúp cho hô hấp, tiêu hoá cũng như da dẻ, đồng thời chữa các các rối loạn trong tim và tuần hoàn, thính giác và thị giác. Nó thường xuyên được dùng để chữa chứng đau đầu và cũng có thể được đặt dưới gối làm giảm chứng mất ngủ.
Theo các nhà sư Phật giáo tin rằng thạch anh tím giúp đem lại sự thanh thản và được dùng làm các chuỗi hạt cầu nguyện ở Tây Tạng.
Thạch anh tím có tác dụng chống lại những ma thuật được sử dụng trong thời gian lâu dài cho việc khai hóa tâm linh và sự linh thiêng. Mỗi chuỗi hạt thạch anh tím giúp cho sự trầm tư mặc tưởng. Thạch anh tím còn được biết như thể là loại đá của Giám mục và vẫn còn được sử dụng bởi những Giám mục Công giáo, tượng trưng cho lòng thành kính, sự khiêm tốn, tính không ngôn, thành thật và thiêng liêng.
Ngày nay, thạch anh tím được sử dụng hàng ngày với ý nghĩa vận hành phong thủy. Đặt quả cầu thạch anh tím ở góc Đông-bắc của phòng học sẽ tăng cường vận may về đường học vấn. Đặt ở góc Tây-nam của phòng ngủ sẽ kích hoạt vận may về quan hệ tình cảm hoặc đời sống hôn nhân hạch phúc. Không nên đặt quá cao, tốt hơn nên đặt trên mặt bàn, nhất là bàn làm việc.
Sử dụng chùm thạch anh tím, hoặc quả cầu thạch anh tím đặt nới cửa sổ để đón nhận tia nắng thì rất có lợi cho việc duy trì năng lượng dương trong nhà. Chùm thạch anh tím đặt dưới ánh trăng để thu hút năng lượng sẽ mang lại sự điềm tĩnh hơn cho mọi người trong nhà.
Có thể thấy, đá phong thủy thạch anh tím vừa có tác dụng chữa bệnh rất tốt đối với sức khỏe vừa là lá bùa hộ mệnh mang lại nhiều may mắn và hạnh phúc . Như vậy, thạch anh tím có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Alexandra V (theo vonvon)
Cũng giống như rồng, hổ, voi trong phong thủy là loài vật mang nhiều ý nghĩa tốt lành.
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
![]() |
Ảnh minh họa |
CÁC LOẠI TINH THỂ (THẠCH ANH)
Tinh thể Thạch anh (trong suốt)
Thạch anh trắng (trắng)
Thạch anh hồng (hồng)
Thạch anh chanh (vàng)
Thạch anh lam (lam)
Ametit (tím)
Aventurin (lam)
Thạch anh hun khói (nâu)
Thạch anh đen (đen)
Mắt hỗ (vàng-hạt dẻ)
Mắt chim ưng (lam – đen)
Mắt mèo (lục – xám)
Thạch anh sắt (rỉ sét)
Calcedoin (vi khối kết tinh)
Calcedoin (xám – lam hay xám – lục)
Mã não (tất cả màu vân dài)
Mã não bọt, rêu (thể vùi xanh đậm)
Mã não dạng dãi (đen vân dài trắng)
Mã não hồng (Cam)
Sardoin (cam -nâu)
Ngọc thạch anh (gạch – vàng – lục)
Heliotrop (xanh đạm với đốm đỏ)
Chrysoprase (xanhtỏi)
1. TINH THỂ THẠCH ANH TRONG SUỐT
Màu trong suốt, tương hợp trong pegmatites, trong các vân loại alpin hay trong một số đá biến chất. Ta tìm thấy trong tất cả các vùng núi miền Trung nước ta, có nơi
mà các tinh thể có thể lên đến nhiều tấn… (tuy nhiên trước khi khai thác chúng ta cần phải tìm hiểu chỉ số Bovis của các loại đá thạch anh trên 17.000 đơn vị.)
Chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết các đặc tính và khả năng trị liệu của tinh thể đá trong tài liệu này. Nó liên quan đến trung khu thần kinh cũng như tất cả các trung khu khác vì ánh sáng trắng chứa tất cả các màu sắc. Tác dụng của nó là giảm đau nhức trên và điều hòa năng lượng trên cơ thể (thể chất)
Giúp tập trung tư tưởng
Giúp sự cảm nhận (rung động) tăng lên
Phuc hồi trí nhớ
Thạch anh trắng :
¬Tình yêu cao thượng
¬Sắc đẹp
¬Làm tăng năng lượng cao thượng – cao nhã.
¬Nhún nhường – khiêm tốn
¬Trong trắng – ngây thơ
¬Sáng kiến mới
¬Sự thanh cao
¬Đoàn kết
Thạch anh trắng giúp :
¬Chữa bệnh đãng trí
¬Trợ giúp tìm người mất tích
¬Kiềm hãm và chặn đứng những tính xấu – tâm ma trỗi dậy.
2. THẠCH ANH TRẮNG
Màu trắng, mờ đục, thoát thai từ một cấu trúc ít hoàn hảo hơn lưới tinh thể, do bị lạnh quá nhanh làm cho tinh thể bị mờ đục. Đó là loại thạch anh thông dụng nhất được thấy với một tỷ lệ lớn trong tất cả các mỏ tinh thể đá. Thạch anh trắng này có một phẩm chất rất ÂM TÍNH so với tinh thể đá là DƯƠNG. Loại thạch anh TRẮNG này có thể được sử dụng để làm dịu hay tan biến các căng thẳng và sử dụng trên mối giao tiếp giữa người con với người mẹ và ngược lại. Các chứng bệnh có tính chất Dương.
3. THẠCH ANH HỒNG
Màu hồng do sự có mặt của titanium hay manganèse, trong mờ, tổng quát chắc và ít kết tinh.
Là loại thạch anh rất đặc sắc được dùng trong tình yêu. Có khả năng trấn an các cá nhân thường bị xúc động, giảm stress và các cảm xúc bất lợi. Làm thông thoáng các tắc nghẻn do sợ hãi và các cơn ghen tạo ra. Đó là loại thạch anh thúc đẩy tính đam mê và tình thương nhân loại. Đây là loại thạch anh của các tình nhân.
Có tác dụng trên thể tinh thần nên giúp cho ngũ ngon, không mơ hoảng, giúp phục hồi trí nhớ.
Giúp dễ dàng nhập định, làm thanh khiết các luân xa trong sự luân chuyển vòng quanh cơ thể khoảng 10cm. Làm tăng khả năng nhạy cảm của cơ thể.
Thạch anh hồng :
¬Tăng trưởng tình yêu thương
¬Giúp người trở nên chân thành – dễ thương
¬Giúp kích thích sự hy vọng và triển vọng của thành công
¬Tính độc lập
¬Trở nên dịu dàng – dễ mến
¬Tâm hồn trong trắng – thành thật.
¬Khỏi bệnh
¬Hài hòa
¬Trẻ mãi
¬Cởi mở tấm lòng
¬Luôn rộng lượng – tha thứ
¬Luôn giúp đở mọi người
¬Phục hồi những tổn thương về mặt tinh thần.
¬Thay đổi mới luôn luôn trong cuộc sống
thạch anh hồng có sao.
Giúp chữa các chứng sau :
¬Dễ đạt trạng thái vô thức
-Ổn định tinh thần
4. THẠCH ANH VÀNG
Thạch anh vàng trong suốt và màu vàng. Người ta tạo được thạch anh vàngnhân tạo bằng việc đốt nóng amétit lên khoảng 450o. Thạch anh vàng tự nhiên rất hiếm. Thạch anh vàng đun nóng được gọi là hoàng ngọc hay madère được tìm thấy ở Batây, Mỹ, Tây Ban Nha, Liên Sô, Madagascar, Pháp và Ecoce. Và Việt Nam chúng ta cũng có nhưng rất hiếm.
Thạch anh vàng giải tỏa sự bế tắc ở đám rối dương và cuống dạ dày vàlàm cho tâm hồn sảng khoái, lọc máu, thúc đẩy vùng thận và rất cần cho người bệnh tiểu đường.
5. THẠCH ANH LAM
Được gọi là ngọc lam có màu lam. Trong suốt và được tìm thấy ở Áo, Mỹ, Thụy Điển, Nam Phi và Ba Tây. Loại thạch anh được dùng để làm dịu các buồn phiền và tác động ở tuyến giáp trạng.
6. THẠCH ANH TÍM
Tím dợt hay sậm vì sự có mặt của sắt. Tìm thấy ở Âu Châu, Liên Sô, Uraguay và Ba Tây và ở Việt Nam nhưng rất hiếm. Bọt hơi trong các dung nham rắn lại tạo nên cái mà ta gọi là hốc tinh, một loại vỏ mã não rỗng tapiss phủ amétit, loại lớn nhất được thấy ở Ba Tây nặng hơn 100kg.
Amétit củng cố sức mạnh cho tuyến nội tiết. Trên địa hạt vật lý, đây là loại đá bảo vệ chống lại nhiều chứng bệnh. Nó tác động vùng đầu và làm dịu các cơn đau, giúp dễ nhập định và tinh thần trong sáng. Theo truyền thuyết và từ nguyên loại đá này dùng để phòng chứng say rượu
Thạch anh tím :
¬Tình yêu cao thượng
¬Tự chủ về mặt tinh thần
¬Có ý thức về mọi vấn đề
¬Niềm tin về tâm linh
¬Sự tự chủ – kiềm chế
¬Khả năng dự đoán – tiên tri
¬Sức sống mạnh mẽ
¬Tính chặt chẻ – chính xác
¬Đúng mực – thận trọng
¬Điều độ – tiết độ
Thạch anh tím giúp :
¬Hỗ trợ về mặt tâm linh
¬Can đãm
¬Xóa bỏ sự hẹp hòi ích kỷ
¬Xóa bỏ sự kiêu ngạo
Bạn tuyệt đối không nên bày cây xương rồng ngay trong nhà hay phòng làm việc vì sẽ dẫn tới gia chủ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, làm ăn thất bát.
Xương rồng là một loài thực vật mọng nước, có nhiều dạng phát triển: thành cây lớn, thành bụi hoặc phủ sát mặt đất. Đa số các loài xương rồng đều mọc và phát triển từ đất, nhưng cũng có rất nhiều loài kí sinh trên các loài cây khác để phát triển.
Thông thường, người ta trồng xương rồng thành hàng rào, ở những vùng sâu vùng xa thiếu điều kiện kinh tế hoặc thiếu thốn nguồn nguyên liệu tự nhiên. Chúng ta có thể thấy rất nhiều các loại xương rồng trồng trong chậu cảnh hay làm hòn non bộ.
Trong phong thủy, hình dáng của cây xương rồng thuộc vào loại đặc biệt, thân phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài. Vì thế nó là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà. Bạn chỉ nên đặt xương rồng ở ngoài cửa, như vai trò của người canh gác, bảo vệ bạn khỏi những năng lượng xấu, ngăn không cho chúng xâm nhập vào nhà.
Nguyên nhân của điều này được ## lý giải theo phong thủy như sau:
Xương rồng là cây nhiều gai nhọn, những mũi nhọn của nó chĩa vào người thì sẽ tạo ra khí xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe của gia chủ. Chưa kể việc tập trung quá nhiều gai nhọn trên thân cây khiến nó luôn bị bao bọc bởi sát khí. Đôi khi, xương rồng nở hoa (nếu trồng xương rồng mà nở hoa, được coi là điềm lành vì hoa của nó mang năng lượng tốt) nhưng không đủ sức để át đi năng lượng xấu của những chiếc gai nhọn.
Bày xương rồng trong nhà gia chủ dễ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, cô đơn.
Nếu bày trong văn phòng công ty, công ty sẽ khó phát triển, người đứng đầu cũng không sáng suốt, thường bệnh tật và tài sản công ty dễ mất mát.