Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Làm gì trong ngày lễ Vu Lan để cầu an, báo hiếu

Vu Lan báo hiếu, nhưng chính xác thì chúng ta nên làm gì trong ngày lễ Vu Lan để cầu an báo hiếu, hãy thử tham khảo những điều sau đây nhé.
Làm gì trong ngày lễ Vu Lan để cầu an, báo hiếu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vu Lan báo hiếu, đó có lẽ là điều mà không người con đất Việt nào còn xa lạ. Nhưng chính xác thì chúng ta nên làm gì trong ngày lễ Vu Lan để cầu an báo hiếu, hãy thử tham khảo những điều sau đây nhé.   Tháng 7 âm lịch không chỉ là tháng cô hồn mà còn là tháng báo hiếu với ngày lễ Vu Lan với truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Cứ mỗi đợt Thu về, trong lòng mỗi con đất Việt lại dào dạt tình cảm nhớ nhà, thương cha mẹ và biết ơn ông bà tổ tiên.


nen lam gi trong ngay le Vu Lan
 
  Lễ Vu Lan diễn ra vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, là dịp để báo hiếu với mẹ cha, tìm về với nguồn cội, tưởng nhớ về những người đã khuất. Vậy trong ngày Vu Lan, nên làm gì để báo hiếu cầu an? Lịch ngày tốt xin chia sẻ với các bạn độc giả những việc nên làm trong ngày này.  

1. Chuẩn bị lễ cúng cho ngày lễ Vu Lan

  Thông thường, lễ Vu Lan ở Việt Nam được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng 7 âm lịch, hay còn gọi là ngày rằm tháng 7. Theo tục lệ các cụ xưa truyền lại, vào ngày này, các gia đình nên chuẩn bị một mâm cỗ cúng tạ ơn các thần linh cũng như làm mâm cơm tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên, cầu cho người đã khuất được an yên nơi chín suối và phù hộ độ trì cho con cháu đời sau được an cư lạc nghiệp.


chuan bi mam com cung
 
  Lễ cúng rằm tháng 7, cúng ngày Vu Lan có thể thực hiện tại nhà hoặc nhờ thầy chùa làm giúp. Tổng cộng có 4 lễ cúng: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia tiên và cúng thí thực cô hồn. Bạn có thể tham khảo thêm Thứ tự chuẩn bị 4 lễ cúng ngày Rằm tháng 7 để hóa giải mọi tai ương cho tâm linh an ổn.  

2. Ăn chay hành thiện tích đức

  Nên làm gì trong ngày lễ Vu Lan? Ăn chay niệm Phật, không sát sinh mà hành thiện tích đức, đó là một hành động đẹp, cũng là cách để con người ta thanh tịnh từ tâm hồn, bản ngã của mình. Ăn chay thể hiện sự thành tâm hướng Phật, để yêu thương con người và loài vật, giảm bớt tội nghiệt sát sinh.


an chay
 
  Tùy theo điều kiện và khả năng, có người ăn chay trường, có người ăn chay vào ngày rằm và mùng 1 hàng tháng. Tới rằm tháng 7, nhiều người cũng có thói quen ăn chay. Nếu có thể, bạn hãy dành một ngày để ăn chay, cầu cho cha mẹ được an lành, cầu cho tổ tiên được mát mẻ nơi chín suối, bày tỏ lòng thành muốn tích đức hành thiện.  

3. Đi chùa cầu an cho cha mẹ và gia đình

  Trong ngày Vu Lan, các bạn nên dành thời gian đi chùa thắp hương, cầu Phật che chở cho cha mẹ và gia đình mình được an lành. Những ai không may mắn chẳng còn cha mẹ ở bên thì cũng hãy mang tấm lòng thành để cầu xin đức Phật chỉ đường dẫn lối cho cha mẹ hướng theo ánh sáng Phật pháp để được siêu thoát, an nghỉ nơi suối vàng.   Nếu không có điều kiện, bạn vẫn có thể thành tâm hướng Phật bất cứ lúc nào. Có câu “Phật tại tâm”, bạn thành tâm thành ý cầu chúc cho cha mẹ được khỏe mạnh bình an, chắc chắn đức Phật cũng sẽ nghe thấy lời kêu cầu của bạn. Còn khi có thời gian, hãy dành thời gian Tụng kinh Vu Lan để trọn phận làm con, trọn đạo làm người.


4. Bày tỏ tình cảm với cha mẹ

  Người Việt Nam vốn giữ đạo hiếu làm đầu, nhưng chúng ta ít có thói quen bày tỏ tình cảm với những người thân thiết nhất của mình. Lễ Vu Lan là dịp để mỗi người con hướng về với đấng sinh thành, bạn có thể nhân dịp này để thể hiện tình cảm yêu thương của mình với mẹ cha.   Nên làm gì trong ngày lễ Vu Lan? Những lời nói tình cảm, những cái ôm nhẹ nhàng hay những món quà nho nhỏ, những bữa cơm bạn chăm chút với cả trái tim mình… tất cả đều là những món quà vô cùng lớn lao đối với mẹ cha. Cha mẹ chẳng cần con cái phải báo hiếu gì nhiều, chỉ cần con khôn lớn, khỏe mạnh thành người, có lẽ đã là điều mà cha mẹ cảm thấy hạnh phúc nhất.   Nếu lỡ như cha mẹ không có phúc được ở bên cạnh bạn thì hãy cố gắng sống thật tốt, sống thật ý nghĩa và hạnh phúc mỗi ngày để cha mẹ không còn lo lắng mà an tâm vì con mình có thể tự lo cho bản thân, có thể sống vui vẻ. Biết bạn như vậy, dù cha mẹ ở xa vẫn thấy an tâm, người đã khuất cũng có thể ngậm cười nơi chín suối.   Thiên Thiên

Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo Chớ nhầm lẫn giữa lễ Vu Lan và lễ cúng Cô hồn Câu chuyện cảm động phía sau ngày lễ Vu Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm gì trong ngày lễ Vu Lan để cầu an, báo hiếu

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Sang năm 2016 là năm Bính Thân. Vậy những người tuổi Thân như thế nào? Lịch sử Việt Nam ghi nhận rất nhiều bậc vĩ nhân tuổi thân trong đó có cả Nguyễn Trãi (sinh năm Canh Thân – 1380). Nào chúng ta cùng tìm hiểu họ là những ai?
Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Canh Thân

1./ Nguyễn Trãi (1380-1442): hiệu là Ức Trai là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông là một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ mang tầm cỡ kiệt xuất, vĩ đại

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm năm sinh của ông.

Nguyễn Trãi gốc làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sinh ra ở Thăng Long, sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây.

Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và có công lớn trong việc phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc ngoại xâm và lập lên triều Hậu Lê.

Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án oan Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử.

Tháng 7 năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng NguyễnTrãi tước Tán Trù Bá

Hiện nay, ở Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) có khu lưu niệm Nguyễn Trãi và gia tộc của ông. Các thế hệ giàu lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, từ khắp mọi miền của đất nước, đã không ngớt kéo về Côn Sơn để tưởng nhớ Nguyễn Trãi - người con quang vinh của lịch sử nước nhà.

2./Lương Thế Vinh (1460–1497): Trạng nguyên, làm quan triều Lê Thánh Tông.

Danh sĩ Lương Thế Vinh tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, người quê xã Cao Hương, huyện Thiên Bản, tỉnh Nam Định nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Năm Quý Mùi 1463, ông đỗ trạng nguyên khi mới 23 tuổi.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Đền thờ Lương Thế Vinh xã Cao Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Ông làm quan đến Thừa chỉ ở Viện Hàn lâm, có chân trong Tao đàn Nhị thập bát tú thời ấy. Bình sinh hiếu học, đọc rộng các sách, ông có soạn nhiều sách về đạo Phật và quyển Toán pháp đại thành. Các sĩ phu và nhân dân cảm phục tài đức ông, tục gọi ông là Trạng Lường (biểu dương ông về khoa toán pháp).

Lương Thế Vinh là một ông quan tài giỏi, thông thạo văn chương, giỏi giang âm nhạc, tinh tường toán pháp. Ông còn nổi tiếng về lòng mến dân và đức tính thẳng thắn, trung thực. Ngay đối với vua, ông cũng hay châm biếm khôi hài, không chịu câu thúc. Ông thường mượn việc để răn dạy từ vua đến quan.

Khi ông mất, được phong làm Phúc thần, nơi đình Cao Hương còn có bức vẽ chân dung ông.

3./ Phạm Vĩ Khiêm (1740-1787): Tên là Phạm Nguyễn Du, danh sĩ thời Lê Mạt.

4./Nguyễn Tri Phương (1800-1873): một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn.

Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân 1800, quê làng Đường Long (Chí Long), xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên công nghiệp lớn.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm Quý Mùi (1823), ra làm quan cho triều Nguyễn. Ông từng giữ các vị trí quan trọng trong triều đình và được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế).

Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).

Trong trận chiến bảo vệ thành Hà Nội tháng 11 năm 1873, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa"Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.

5./Mai Xuân Thưởng (1860-1887): Lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Bình Định.

Mai Xuân Thưởng lúc nhỏ tên là Phạm Văn Siêu, là sĩ phu và là lãnh tụ phong trào kháng Pháp cuối thế kỷ 19 ở Bình Định (Việt Nam).

Mai Xuân Thưởng là người thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 1884, ông đỗ cử nhân ở trường thi Bình Định. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa quân phối hợp với nghĩa quân của Tổng đốc Đào Doãn Địch ốm chết, Mai Xuân Thưởng được tôn làm nguyên soái.

Tháng 9 năm Aát Dậu (1885), ông làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, rồi xuất quân diệt giặc, thanh thế của nghĩa quân lan rộng, lừng lẫy. Những trận đánh ở Cẩm Vân, Thủ Thiện đã gây cho địch nhiều tổn thất.

Không bắt được Mai Xuân Thưởng, thực dân Pháp đã bắt giam mẹ ông. Vì chữ hiếu theo quan niệm của người xưa, ông đã ra nộp mình tại đình Phú Phong. Khi được khuyên ra hàng, ông khẳng khái trả lời: "Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có hàng đầu tướng quân!"

Bọn giặc giải ông về thành Bình Định và xử chém vào ngày rằm tháng tư năm Đinh Hợi (1887). Năm đó, ông 27 tuổi.

>> Đã có TỬ VI 2016 mới nhất. Xem ngay!

>> Đã có LỊCH VẠN NIÊN 2016 mới nhất. Xem ngay!

Tuổi Giáp Thân

1./Đồng Kiên Cương (1284-1330): Vị tổ thứ hai trong Trúc Lâm tam tổ

Đồng Kiên Cương sinh ngày 7 tháng 5 niên hiệu Thiệu Bảo thứ 4, tức năm 1284, quê ở làng Cửu La, huyện Chí Linh, lộ Lạng Giang (nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). sau này đi tu mới đổi pháp hiệu là Pháp Loa.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Là một người lãnh đạo sáng suốt, dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng Pháp Loa đã đưa Thiền phái Trúc Lâm phát triển tới một đỉnh cao mới. Ông cũng là người tổ chức ấn hành Đại Tạng Kinh, một cuốn sách quan trọng của Phật giáo tại Việt Nam…

Ông mất ngày 3 tháng 3 năm 1330, thọ 42 tuổi. Sau khi được tin Pháp Loa viên tịch, Thượng hoàng Trần Minh Tông ngự bút truy tặng ngài là Tịnh Trí Đại Tôn Giả.

Mặc dù qua đời khá sớm nhưng trong suốt 24 năm ròng rã, Pháp Loa đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh mà thầy mình là Trần Nhân Tông giao phó, trở thành vị tổ nổi tiếng của dòng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

2./Nguyễn Đức Đạt (1824 -1887): Tức Thám Đạt, vị thầy học danh tiếng, quê Nghệ An.

Nguyễn Đức Đạt, tự Khoát Như, sinh năm 1824 tại làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, tổng Trung Cần, nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn. Ông sinh ra trong một gia đình khoa bảng: cha là Nguyễn Đức Diện đỗ cử nhân năm 1824, con là Nguyễn Đức Hiển đỗ cử nhân năm 1912 và cháu là Nguyễn Đức Vân đỗ phó bảng năm 1906.

Từ thuở nhỏ Nguyễn Đức Đạt nổi tiếng thông minh, học giỏi và uyên bác về nhiều mặt. Ông đỗ cử nhân khoa Đinh Mùi (1847) đến khoa thi Quý Mão đời Tự Đức (1853), ông cùng Nguyễn Văn Giao, người làng Trung Cần đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh tức Thám hoa.

Buổi đầu Nguyễn Đức Đạt được bổ làm quan ở Viện Tập Hiện làm thị giảng rồi bổ làm Cấp sự trung. Được một thời gian ông xin triều đình về quê mở trường dạy học và phụng dưỡng cha mẹ già. Nghe tiếng về trình độ học vấn và đức độ của ông, sĩ tử gần xa đến xin học rất đông. Trường học không đủ chỗ ngồi, những buổi bình văn, thầy Đạt phải chuyển trường lên núi Nam Sơn, cách nhà khoảng 500m.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Thám Đạt, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục, khoa cử triều Nguyễn

Nguyễn Đức Đạt đã có những phân tích, kiến giải khác thường, khá tích cực so với thời đại về Đạo Nho và có đóng gớp nhiều vào sự nghiệp giáo dục nước ta thời Nguyễn

3./Nguyễn Văn Tường (1824-1886): Phụ chính đại thần khi Tự Đức mất. Bị Pháp đày đi Tahiti.

Nguyễn Văn Tường là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 1850, ông đậu cử nhân, được nhận chức huấn đạo (phụ trách việc dạy và học) tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1853, huyện Thành Hóa, thuộc tỉnh Quảng Trị được thành lập. Ông được bổ làm tri huyện ở đó cho đến 9 năm sau. Tại đây, ông đã xây dựng được một căn cứ địa tốt cho Huế. Ông lại chứng tỏ là một người rất có tâm và tài trong việc đoàn kết người Thượng với người Kinh.

Ngày 23 tháng 5 âm lịch, Ất Dậu (ngày 4 tháng 7, bước sang ngày 5 tháng 7 năm 1885) ông cùng Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc tấn công một cách bất ngờ vào Sứ quán Pháp bên kia sông Hương và doanh trại Pháp tại Mang Cá (Huế), nhưng thất bại. Sau một thời gian ngắn ông bị Pháp bắt và đưa đi lưu đày. Ngày 30 tháng 7 năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất vì bệnh ung thư cổ họng.

4./Dương Bá Trạc (1884-1944): Tham gia phong trào Duy Tân, tác giả Nét mực tình.

Dương Bá Trạc, biệt hiệu Tuyết Huy, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1884, quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Ông là con Dương Trọng Phổ (1862-1927), một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ, là anh ruột Dương Quảng Hàm (1898-1946) và Dương Tụ Quán (1902 -1969), cả hai đều là nhà giáo tiến bộ thời cận đại.

Là người rất thông minh, mới 16 tuổi, Trạc đã thi đỗ cử nhân (khoa năm Canh Tý 1900)

Đỗ đạt rồi, Trạc không ra làm quan như thói thường. Ông ôm khát vọng thức tỉnh quốc dân khỏi cơn mê nô lệ, chống sự đô hộ của thực dân đế quốc. Ông từng cùng Phan Châu Trinh đi diễn thuyết nhiều nơi, cổ động chủ nghĩa duy tâm tự cường, cùng Tăng Bạt Hổ lên thăm Đề Thám ở Nhã Nam, đi suốt từ Bắc vào Nam để gặp gỡ bạn bè, chiêu mộ đồng chí.

Cả đời bôn ba, trong lòng ôm mối hận chưa thỏa được chí cứu nước, Dương Bá Trạc sinh bệnh và mất ngày 11 tháng 12 năm 1944 tại Singapore,

5./ Hồ Biểu Chánh (1884-1958): là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.

Hồ Biểu Chánh, tên thật là, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ. Ông là một công chức thanh liêm thời Pháp thuộc, làm Chủ quận (Quận trưởng) nhiều quận ở Nam Kỳ thuộc Pháp.

Với bút danh Hồ Biểu Chánh, ông viết nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, khảo luận, phê bình, kịch, và đã xuất bản hơn sáu mươi tiểu thuyết. Ông được xem là một trong những nhà văn góp phần khai phóng văn học miền Nam đầu thế kỷ 20.

Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi.

>> Xem VẬN HẠN 2016 mới nhất!

>> Xem TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhât!

Tuổi Bính Thân

1./Hứa Tam Tỉnh (1476-?): Tức Trạng Ngọt

Ông là văn thần đời vua Lê Uy Mục, quê làng Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Ông đẹp trai, nổi tiếng văn học, đi thi khoa Mậu thìn 1508, ông đỗ bảng nhãn, 32 tuổi. Bấy giờ, vị trạng nguyên khoa này là Nguyễn Giản Thanh, tướng mạo kém ông. Khi các vị tân khoa vào chầu, nhà vua khen tướng mạo ông và gọi đùa là "Mạo Trạng nguyên" (Trạng nguyên dáng đẹp).

Khi làm chức Thị thư, khoảng năm Quí dậu 1513, ông sung chức Phó sứ, sang nhà Minh. Về sau, ông lại làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, tước Đôn giáo Hầu. Rồi cùng Nguyễn Văn Thái đi sứ nhà Minh, cầu phong cho họ Mạc. Lúc về, được tặng Thiếu bảo, lãnh việc dạy con vua Mạc.

2./Nguyễn Đôn Tiết (1836-?): Phó bảng, tham gia phong trào Cần Vương đánh Pháp.

Nguyễn Đôn Tiết là người làng Thọ Vực, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa.

Năm Kỷ Mão (1879), ông đỗ Phó bảng, làm Tri phủ một thời gian. Sau tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần vương, ông về quê chiêu mộ quân rồi tham gia chiến đấu trong cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa).

Tháng 3 năm 1886, ông bị quân Pháp bắt được, đày đi Côn Đảo, rồi mất tại đấy (1887), hưởng dương 51 tuổi.

3./Hoàng Ngọc Phách (1896-1973): Nhà giáo, tác giả cuốn Tố Tâm.

Quê ở làng Đông Thái xã Yên Đường (nay là xã Tùng Ảnh) tổng Việt Yên, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh, hiệu là Song An.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Suốt 20 năm dạy học dưới chế độ thực dân do có liên quan xa gần đến phong trào yêu nước trong các trường đại học ông luôn bị chuyển đến hết nơi này đến nơi khác.

Năm 1935 về dạy học tại Bắc Ninh nhiều lần giữ chức Giám đốc học khu Bắc Ninh cho đến tận Tổng khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám thành công ông giữ những trọng trách trong ngành giáo dục, sau ngày hoà bình lập lại ông công tác ở Ban tu thư Bộ giáo dục, tham gia sưu tầm biên soạn các công trình về văn học cổ điển, cận đại dân gian Việt Nam.

Lịch sử văn học Việt Nam đã chọn Hoàng Ngọc Phách làm người thể hiện những bước chuyển về chất ấy - người mở cánh cửa đầu tiên cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Với tác phẩm “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách đã tạo nên một cuộc cách tân lớn trong nghệ thuật.

Hoàng Ngọc Phách không chỉ là một nhà văn có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học và sự trưởng thành của khoa học xã hội mà ông còn là một nhà giáo thế hệ của những người khai sinh ra nền giáo dục của chế độ mới.

4./Hồ Tùng Mậu (1896-1951): Chiến sĩ yêu nước hoạt động cách mạng nhiệt thành.

Hồ Tùng Mậu tên khai sinh là Hồ Bá Cự, khi xuất dương sang Thái Lan hoạt động mới mang tên Hồ Tùng Mậu và trở thành tên gọi chính thức đến khi qua đời.

Ông  người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa cử, truyền thống yêu nước.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Hoàn cảnh gia đình, quê hương, xã hội đã sớm hun đúc tinh thần yêu nước cách mạng, căm thù đế quốc. Cuối tháng 4/1920, Hồ Bá Cự từ giã vợ, con nhỏ sang Thái Lan, rồi 3 tháng sau được sang Trung Quốc tìm gặp các nhà cách mạng tìm gặp các nhà cách mạng Xứ Nghệ đang hoạt động ở đây là Phan Bội Châu, Hồ Ngọc Lãm v.v... Tại đây, Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Sơn lập ra Tâm Tâm xã, tập hợp số thanh niên hăng hái kiên quyết cùng chí hướng, hy sinh quyền lợi cá nhân, cùng nhau mưu đồ giải phóng dân tộc.

Sau khởi nghĩa ông được giao nhiều nhiệm vụ: Phụ trách trường quân chính Nhượng Bạn, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Liên khu IV, Uỷ viên thường vụ Liên khu uỷ, Tổng thanh tra Ban thanh tra Chính phủ, Hội trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị. Ở bất kỳ địa vị công tác nào, ông đều hăng hái, nhiệt tình và phát động được cán bộ, nhân dân tham gia. Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc tháng 2/1951, Hồ Tùng Mậu được bầu làm uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương và vẫn giữ các công tác cũ.

Ngày 23/7/1951 trên đường công tác , ông hy sinh do bị máy bay Pháp ném bom.

5./Phạm Hồng Thái (1896-1924): Tham gia hoạt động phong trào Đông Du và là người đặt bom ám sát toàn quyền Đông Dương.

Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, quê Nghệ An, là con quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Là một người yêu nước, sớm tham gia các phong trào dân chủ, năm 1918 ông cùng với một nhóm thanh niên có tâm huyết theo Vương Thúc Oánh (thành viên Việt Nam Quang phục Hội) vượt biên qua Xiêm (Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 4 năm 1924, ông gia nhập Tâm Tâm Xã do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập.

Chiều tối ngày 19 tháng 6 năm 1924, Phạm Hồng Thái đặt bom ám sát toàn quyền Đông Dương Meclanh. Vụ đặt bom thành công, bom nổ nhưng Mec-lanh thoát chết, chỉ bị thương. Bị cảnh sát phát hiện và truy đuổi ráo riết, Phạm Hồng Thái nhanh chóng thoát ra ngoài, nhảy xuống sông Châu Giang định bơi sang bên kia bờ. Nhưng dòng nước xoáy làm Phạm Hồng Thái không đến được điểm hẹn, ông đã anh dũng hy sinh. Sự kiện này đã được báo chí Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới đưa tin nhiều ngày liền với tên gọi “Tiếng bom Sa Điện”.

Nhân dân Quảng Châu cho đó là hành vi nghĩa liệt, đưa thi thể Phạm Hồng Thái mai táng ở chân đồi Bạch Vân. Sau này mộ Liệt sỹ Phạm Hồng Thái được chuyển về xây tại Nghĩa trang Trung ương Hoàng Hoa Cương, bên cạnh các Liệt sĩ Trung Quốc, mộ chí ghi “Việt Nam Phạm Hồng Thái Liệt sĩ chi mộ”

6./Khải Hưng (1896-1947): nhân vật trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn với nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc.

Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, bút hiệu khác Nhị Linh, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Thuở nhỏ học chữ nho, rồi theo Tây học (lycée Albert Sarraut, có nơi ghi Paul Bert). Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh và thành lập nhóm Tự Lực Văn Đoàn với nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc mở ra cả một phong trào sau này.

7./Vũ Đình Long (1896-1960):

Ông Vũ Đình Long là người làng Mục Xá, xã Cao Dương,huyện Thanh Oai, Hà Nội. Ông là người khai sinh ra nền kịch nói Việt Nam bằng vở kịch Chén thuốc độc (1921).

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Ông là một người suốt đời phấn đấu cho một nền đạo đức trong sáng, giữ vững thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ông là người có công lớn trong việc chấn hưng và phát triển nền văn học nước nhà. Ông mở Nhà xuất bản Tân Dân để tạo điều kiện cho các nhà văn phát triển tài năng. Dưới con mắt tinh đời của ông, nhiều nhà văn đã được khích lệ và trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Nhà xuất bản Tân Dân là một nhà xuất bản lớn vào loại nhất của Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8.1945.

Ông là người sống trong sạch, không vụ tiền tài, tiền công diễn các vở kịch của ông thời ấy, ông không nhận mà là để góp phần công đức nuôi dưỡng các trẻ em mồ côi.

>> Xem bói 12 CUNG HOÀNG ĐẠO 2016 mới nhất!

>> Xem bói 12 CON GIÁP 2016 mới nhất!

Tuổi Mậu Thân

1./ Nguyễn Ưng Lịch (1872-1943): Tức vua Hàm Nghi.

Hàm Nghi là vị vua thứ tám triều Nguyễn, con của Kiến thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, em ruột vua Kiến Phúc.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 1883 và 1884, triều đình Huế kí các Hiệp ước Hacmăng (Harmand) và Patơnôt (Patenôtre) đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt.

Ngày 5.7.1885, Tôn Thất Thuyết thuộc phái chủ chiến bất ngờ tiến công quân Pháp ở Huế nhưng thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi rút lên miền núi các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, ra chiếu Cần vương kêu gọi nhân dân ra sức giúp vua, cứu nước, được nhân dân cả nước tích cực hưởng ứng.

Ngày 1.1.1888, Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc phản bội, bắt và giao cho Pháp. Hàm Nghi bị đưa đi an trí ở Angiêri. Hàm Nghi vẫn giữ lối sống truyền thống của đất nước và dân tộc Việt Nam.

2./Thiếu Sơn (1908-1978):

Thiếu Sơn tên thật là Lê Sĩ Quý. Ông là nhà văn, nhà báo, nhà phê bình văn học Việt Nam. Ông sinh tại Hải Dương trong một gia đình có truyền thống Nho học.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Cả cuộc đời ông tham gia nghệ thuật, bắt đầu viết cho Nam Phong tạp chí và sau này còn viết cho nhiều báo khác nữa, như: Tiểu thuyết thứ Bảy, Đại Việt tạp chí, Nam Kỳ tuần báo... Với ngòi bút của mình ông đấu tranh không mệt mỏi chống Pháp, chống Mỹ đến nỗi hai lần bị bắt giam và đày ra nhà tù Côn Đảo (1972)

Năm 1973, ông được tự do và trở ra Bắc rồi sang Pháp để vận động Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cuối năm 1975, ông trở về nước, đoàn tụ với gia đình.

Tuy đau yếu luôn, nhưng ông vẫn viết bài cho báo Đại đoàn kết và Sài Gòn giải phóng, cho đến khi ông bị tai biến mạch máu não rồi qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 70 tuổi.

3./ Ngô Gia Tự (1908-1935): Nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông sinh ra ở làng Tam Sơn, phủ Từ Sơn (nay là xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Ngô Gia Tự là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Ngay từ trẻ ông đã tham gia hoạt động cách mạng và là một trong những người đặt nền móng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản. Sau Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngô Gia Tự làm bí thư Chấp uỷ Lâm thời Nam Kỳ.

Tháng 6.1930, ông bị bắt tại Sài Gòn, bị toà đại hình ở Sài Gòn kết án khổ sai chung thân (5.1933) và đày ra Côn Đảo (giữa 1933).

Đầu 1935, ông vượt ngục Côn Đảo để về đất liền nhưng thuyền bị đắm trên biển. Ngô Gia Tự cùng với tất cả các đồng chí vượt biển đã hi sinh.

4./ Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932): Một chiến sĩ, một nhà hoạt động cách mạng kiên trung của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Đức Cảnh sinh ngày 2/2/1908 tại thôn Diêm Điền, xã Thái Hà, huyện Thuỵ Anh, tỉnh Thái Bình.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Cùng với Ngô Gia Tự, ông là một trong bảy người tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở nước ta. Ông là người trực tiếp tổ chức, thành lập và chỉ đạo các hoạt động của Đảng ở Hải Phòng trong những năm đầu tiên.

Cuối năm 1930 phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ Tĩnh phát triển rầm rộ rộng khắp, nhằm tăng cường đội ngũ lãnh đạo cho phong trào miền Trung, Nguyễn Đức Cảnh được điều vào Trung kỳ chỉ đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Tháng 4/1931 trên đường đi công tác trở về cơ sở Nguyễn Đức Cảnh giặc bắt, tại làng Yên Dũng Hạ, cách thành Vinh chừng vài cây số.

Ngày 17/11/1931 Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân bị đưa xuống Hải Phòng thi hành án tử hình.

5./Đoàn Trần Nghiệp (1908-1930):  bí danh Ký Con, là nhà cách mạng Việt Nam, đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng.

Đoàn Trần Nghiệp sinh năm 1908 tại phố Hàng Sơn, Hà Nội. Ông quê ở làng Khúc Thủy, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).

Đoàn Trần Nghiệp gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng từ rất sớm và hoạt đông rất năng nổ. Ông từng tham gia ám sát chuyên trừng trị các tên thực dân, kẻ phản bội. Sau khi cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân đảng không thành, ông và các đồng chí của mình bị thực dân Pháp truy nã ráo riết.

Tháng 6 năm 1930, ông bị mật thám bắt ở Nam Định và bị đưa về giam ở Hỏa Lò, Hà Nội. Khi được ký giả người Pháp Louis Roubaud phỏng vấn ông nói mục đích của ông là “ đánh đuổi người Pháp ra khỏi xứ An Nam”. Sau đó, Đoàn Trần Nghiệp bị kết án tử hình.

Cuối tháng 12 năm 1930, Đoàn Trần Nghiệp, tức Ký Con bình thản cùng 6 đồng chí bước lên máy chém tại cổng trước nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.

6./Hải Triều (1908-1954): nhà văn có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn chương Việt Nam.

Hải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh ở làng An Cựu ở ngoại thành Huế, quê ở xã Lê Lợi, huyện An Dương, Hải Phòng. Lớn lên, ông học ở trường Quốc Học Huế, sau đó bị đuổi khỏi trường do tham gia các phong trào thanh niên yêu nước.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 1927, ông tham gia đảng Tân Việt sau đó vào hoạt động ở Sài Gòn. Ông bắt đầu tham gia viết báo với bút danh Nam Xích Tử. Ông hoạt động cách mạng rất hang hái và bị Pháp bắt năm 1930.

Đến năm 1932 ra tù, Nguyễn Khoa Văn mở hiệu sách báo Hương Giang ở Huế và đồng thời bắt đầu viết cho báo Đông Phương dưới bút danh mới - Hải Triều. Ông bắt đầu gây tiếng vang qua những cuộc tranh luận của Phan Khôi trên các báo Đông Phương, Phụ nữ tân tiến...: "Duy vật hay duy tâm", "Nước ta có chế độ phong kiến hay không". Ông hoạt động sôi nổi trong thời kì Mặt Trận Dân Chủ (1936-1939), viết bài cho các báo Nhành lúa, Dân, Đời mới, Kiến văn, Tiếng vang, Hồn trẻ, Tin tức, Tin mới... đặc biệt qua cuộc bút chiến về "Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh" (kéo dài từ 1935 - 1939) với Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư...

7./ Nguyễn Văn Huyên (1908-1975): một Giáo sư, tiến sỹ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam trong suốt 28 năm.

Ông sinh ngày 16 tháng 11 năm 1905 tại Hà Nội, nguyên quán tại xã Kim Chung, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội).

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 18 tuổi, ông và người em trai là Nguyễn Văn Hưởng được gia đình cho đi Pháp du học. Năm 1934 ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne, Paris. Năm 1935 ông trở về nước, khước từ làm quan, dạy học tại Trường Bưởi (trường Bảo hộ).

Sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, ông được cử giữ chức Giám đốc Đại học vụ, Bộ Quốc gia giáo dục kiêm Giám đốc Viện Bác cổ.

Tháng 11 năm 1946, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục) của Chính phủ liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ chức vụ này trong 29 năm cho đến khi mất vào tháng 10 năm 1975 dù không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khoá 2 đến khoá 7, ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ông qua đời ngày 19 tháng 10 năm 1975 tại Hà Nội.

Tuổi Nhâm Thân

1./Đàm Văn Lễ (1452-1505): Tiến sĩ làm quan triều Lê Thánh Tông.

Đàm Văn Lễ tự là Hoằng Kính, người xã Lam Sơn, huyện Quế Dương, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, thi Hương đỗ giải nguyên.

Năm 1469, mới 18 tuổi, ông đi thi lần đầu đã đỗ Đồng tiến sĩ. Sau đó ông ra làm quan cho triều Lê và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình.

Ông nổi tiếng là đại thần cương trực, trung trinh. Năm 1504, Lê Hiến Tông bệnh nặng. Nguyễn Kính phi là mẹ hoàng tử Lê Tuấn muốn con mình thay thái tử Thuần, nên mang vàng hối hộ ông. Đàm Văn Lễ không nhận rồi cùng Ngự sử Nguyễn Công Bật tuân theo di chiếu lập thái tử Thuần làm vua, tức là vua Lê Túc Tông sau này.

Ông mất năm 1502, thọ 53 tuổi.

2./Đào Duy Từ (1572-1639):  nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, người thầy, bậc khai quốc công thần số một của chín đời chúa Nguyễn và 13 đời vua nhà Nguyễn.

Đào Duy Từ làm quan với chúa Nguyễn Phúc Nguyên từ năm 1627 đến năm 1634, trong vòng tám năm (từ năm ông 54 tuổi đến năm 62 tuổi) ông đã kịp làm được năm việc lớn: (1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chặn được quân Trịnh ở Đàng Ngoài;

(2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra

(3) Xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn lưu truyền chín chúa mười ba đời vua

(4) Tác phẩm "Hổ trướng khu cơ"; nhã nhạc cung đình Huế, vũ khúc tuồng Sơn Hậu là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc

(5) Đào Duy Từ là người thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Năm 1932, vua Bảo Đại sắc phong Đào Duy Từ làm Thần Hoàng làng Lạc Giao, đất "Hoàng triều cương thổ" ở Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk. Ông mất năm 1639 thọ 67 tuổi.

3./Nguyễn Tông Khuê (1692-1766): Tiến sĩ thời Lê, nổi tiếng là một trong Trường An tứ hổ.

Ông còn được gọi là Nguyễn Tông Quai, hiệu Thư Hiên, quê ở Phúc Khê, huyện Ngự Thiên, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Năm Tân sửu 1721 ông đỗ tiến sĩ lúc 29 tuổi. Thầy học là cụ Thám hoa Vũ Thạch vẫn thường khen ngợi tài ông. Quả nhiên về sau ông nổi tiếng văn chương, vượt xa đồng bạn, làm quan đến Thị lang bộ Hộ, tước Ngọ Đình Hầu. Ông hai lần đi sứ nhà Thanh. Lần đầu làm Phó sứ (1742), lần sau làm Chánh sứ (1748).

Tính ông khảng khái, cương trực, nên về sau bị Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc bức hại, giáng xuống chức Thị giảng rồi truất về làng.

Ông cùng với Đoàn Trác Luân, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân là bốn danh sĩ được đương thời xưng tặng là "Trường An tứ hổ" (Bốn con cọp ở kinh đô).

Năm Bính tuất 1766 ông mất, thọ 74 tuổi.

4./Phan Chu Trinh (1872-1926): Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam và là người chủ trì vận động Duy Tân dân chủ.

Phan Châu Trinh còn được gọi Phan Chu Trinh, hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam.

Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Ông nổi tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.

Năm sau 1901, triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời gian này ông ở nhà dạy học đến năm 1903 thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.

Là một người yêu nước nồng nàn, nhìn đất nước lầm than, ông bôn ba khắp đất nước tổ chức các buổi diễn thuyết dân chủ và là người chủ trì vận động phong trào Duy Tân với mong muốn thay đổi suy nghĩ, thay đổi tình trạng đất nước.

Tiếc thay đại cuộc chưa thành, bệnh tình của Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm trầm trọng. Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) nhà cách mạng ái quốc Phan Chu Trinh đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi.

Ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Chu Trinh rất trọng thể để chứng tọ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các vĩ nhân tuổi thân trong lịch sử Việt Nam

Bật cười với câu nói cửa miệng của 12 chòm sao

Tính cách có ảnh hưởng lớn tới những lời phát ngôn. Lời nói của Kim Ngưu thì đậm tính vật chất, Thiên Bình thì lại nhấn mạnh sự công bằng.
Bật cười với câu nói cửa miệng của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Tính cách có ảnh hưởng lớn tới những lời phát ngôn. Kim Ngưu thì coi trọng vật chất, Thiên Bình thì đề cao sự công bằng. Cùng xem phát ngôn của 12 chòm sao khác nhau như thế nào nhé!

Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 2
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 3
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 4
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 5
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 6
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 7
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 8
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 9
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 10
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 11
 
Bat cuoi voi cau noi cua mieng cua 12 chom sao hinh anh goc 12
 

=> Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất

Phương Thùy
Liệt kê tất tần tật tính xấu của 12 sao nữ khiến sao nam “chạy mất dép”
Chẳng có ai là hoàn hảo, ai cũng có tính xấu nào đó, nhưng nếu có quá nhiều tính xấu thì cẩn thận các chàng chạy hết đó các sao nữ à.
Tật xấu khó bỏ của 12 chòm sao
12 chòm sao FA mong ước rằng trong năm nay mình sẽ có gấu, thế nhưng cũng luôn thắc mắc vì sao chả có gấu nào nhận lời mình??? Hãy từ bỏ ngay
Thái độ của phụ huynh 12 chòm sao khi phát hiện ra con mình đồng tính
Vấn đề tình yêu đồng tính không còn quá xa lạ với giới trẻ, nhưng với các bậc phụ huynh thì đó là một điều khó có thể chấp nhận. Khi phát

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật cười với câu nói cửa miệng của 12 chòm sao

Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Nếu Thìn và Dậu sống chung trong một nhà, ngôi nhà của họ sẽ rất gọn gàng và có nhiều điều thú vị. Thìn và Dậu dường như đối lập nhau về bản chất. Trong khi Thìn mạnh mẽ và sôi động, có lúc bốc đồng thì Dậu rất thực tế và thậm chí bảo thủ; trong khi
Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tứ Hóa Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ

Định nghĩa chữ HÓA Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ HÓA ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động, chuyển hóa. Cho nên Tứ hóa không thể xem là một tinh diệu và tứ hóa chỉ là hiện tượng biến hóa. Tỉ dụ, Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, làm Hóa Lộc có thể làm biến hóa khí chất của Liêm Trinh.
Tứ Hóa Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa lấy thứ tự xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc – Quyền – Khoa – Kỵ, không thể đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc.

Luận về Hóa Lộc

Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa xuân hướng ra bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tương trưng mùa xuân cũng sinh sôi nảy nở.

Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn.

Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc ko nhất định là thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất định là người tài hoa.

Luận về Hóa Quyền

Hóa quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như mùa hè, như lửa bốc, tính chất mãnh liệt. Mùa hè ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến hè thì xanh tốt vinh vượng.

Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa quyền chủ về tự tín và làm việc đắc lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa quyền cũng tượng trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi khi Hóa quyền trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.

Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm, khuôn phép tuy nhiên cũng lại dễ xung động.

Luận về Hóa khoa

Hóa khoa thuộc Kim, mùa thu là mùa của thâu liễm với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà ko lộ, bởi vậy nên tâm cơ không gian trá.

Hóa khoa tượng thu Kim trong ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy, người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phá, nhưng được kính nể.

Luận về sao Hóa kị

Hóa Kị trong ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa kị ví như mùa đông, bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa xuân tới bung ra. Hóa kị là lúc phải chịu sự thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh linh xảo.

Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa kị thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.

Tác động của Tứ Hóa

Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định.

Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.

Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít.

Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc.

Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.

Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.

Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.

Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét.

Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.

Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.

Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc.

Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp, Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.

Nguồn Tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ Hóa Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ

Những tướng cách phụ nữ

( Hy Trương ) Theo quan niệm “ Nam ngoại nữ nội” dưới nhãn quang tướng học Á đông, những tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn : -Đàn ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất.
Những tướng cách phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


-Đàn ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.
-Đàn ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng ngân lâu như tiếng chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.
Trong phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành nhưng ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phải chú trọng là Mắt, Mũi, Môi và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái.
Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.
Miệng không lớn, không nhỏ, hay môi dày mỏng tương xứng, lưỡng quyền bằng phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận không có nốt ruồi. Tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.
Lục phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với phụ nữ đó*. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó, chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài.
*Nói như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉ hàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc.
Dưới nhãn quan tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả tam vượng là người vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ.
Ngược lại, Mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có câu : “Mũi đàn bà là phu tinh”. Miệng quá lớn và mỏng, môi sáng hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn : vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con.
Đàn bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu và lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày dựng đứng, thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài. Pháp lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v… người có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn con, về già cô đơn khốn khổ.
Về phong thái có loại phụ nữ vừa thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại dâm tướng, vì mọi cử động hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thoáng thấy sinh dạ nể vì do ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý; lại có tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng; còn loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc.
Một số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng của đời sống nội tâm phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ thành 3 loại điển hình chính yếu sau đây :
Loại hướng nội :Loại có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn, miệng rộng, môi dày. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ lạc quan, dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn, không thích thủ đoạn.Trong đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chính thường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thuỷ với chồng. 
Loại hướng ngoại:Phần lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao, môi mỏng cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dà, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui, dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán.Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống gia đình, họ không ưa nấu nướng, kém tháo vát, dễ cáu kỉnh. 
Loại trung tính: Loại này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khá mập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá đầy, không quá mỏng. Các bộ phận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu của hai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tuỳ theo sự tốt xấu của từng bộ vị. Quan sát loại tướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quang bén nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác.
Tuy nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lược. Việc xem tướng trong thực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phải đào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lãnh vực bao gồm nhiều trọng đề dưới đây :

a ) Lãnh vực cá tính 
1 - Tướng người ham mê nhục dục 
Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt :-Đàn bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc, hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm -Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng -Phía dưới mắt (Lệ đường) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt (Ngư vĩ), là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm -Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo-Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc : tiện dâm -Miệng lớn và khóe đi xuống lưng ong -Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng đàn bà trong đó ít ra cũng vài ba bận thông dâm -Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục -Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm -Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật -Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy -Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng -Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm 
Những nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên bình diện sinh lý hay đạo lý, không có chung cùng một giá trị : có những nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp. Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tuỳ trường hợp. Đặc điểm này cần phải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tuỳ theo sở nguyện của mình. 
Ngoài ra, người phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện được cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau :
a ) Nhân trung có tía đỏ : Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giớ . Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đó hoặc hồng ( tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít ), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi . 
b ) Mắt tam bạch : Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói. 
c ) Khu vực Lê đường : Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen. 
d ) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ : Đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.
Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra.

2 - Tướng người trinh thục : 
Trong nền luân lý á đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt, vì mắt là cửa sổ tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua sơn căn, mục quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một bảo đảm đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau : 
-Trán tròn nhưng không cao, không lồi -Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể -Môi hồng, răng đều và trắng -Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao -Đi đứng, ngồi chững chạc, đoan trang -Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nói, ít cười 

3 - Tướng người hung tợn Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo, thường phạm vào nhất vài ba dấu hiệu sau đây :
-Miệng thô, môi lộ xỉ -Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít -Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể -Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang -Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cợm -Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông -Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và quá ngắn -Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lỗ liều 
4 - Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á đông là những kẻ có nét tướng sau :-Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, da mỏng -Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người xu phụng, đi lanh lẹ và cao -Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp 
5 - Tướng người cần kiệm 
Tóc den mướt, lông mày hình dạng vừa phải, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân minh và mục quang mạnh mẽ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi từ tốn, không mấy khi than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc ….là những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang tháo vát. 
6 - Tướng người biếng nhác 
Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động ( đặc biệt là trong việc tề gia ) đều thuộc các tướng cách sau :-Tóc nhiều, thô lộ mày thô và giao nhau -Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít -Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu -Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ -Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi
b ) Lãnh vực vận mạng 
1 - Tướng người cao quý Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả. Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây :-Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể.-Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trái trắng hơn da mặt.-Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với lưỡng quyền tạo thành một khối cơ thể vững vàng, mang tai xuôi thẳng.-Lông mày thanh nhã có thần khí.-Trán tròn, không thấp không cao, tóc đen mịn thanh nhã, cổ dài.-Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng răng trắng và đều.-Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang -Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
2 - Tướng người phú túcĐàn bà có số no đủ thường có : khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách hiền hoà, tai dày và cứng, mũi thẳng và dài (án đài, đình uý rõ và cân xứng đầy đặn ) nhân trung dài, địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dày và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dày, bụng tròn, lưng nở, tướng đi rậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.
3 - Tướng người khốn khổTướng đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây :
-Trán hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con-Bụng quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời không có lộc-Mũi nhỏ hẹp lệch ngắn, chuẩn đầu không thịt-Môi quá dày, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn và thô-Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm-Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông-Sơn căn thấp, gãy lệ đường khô hãn tròng mắt vàng lạt có gân máu
4 - Tướng người có nhiều conNhững bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lê đường (còn gọi là Ngoa tàm), nhân trung, vú, mông, kế đó là hai mắt và hai tai.Thông thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt đào hoa không kể còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu, Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi, vú lớn và núm vú sạm, không được quá nhỏ và lệch lạc : miệng đều đặn, môi có nhiều vằn, mông tương xứng với thân người.Riêng về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng : tai giúp ta biết được đứa con dầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo lý thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà đầy hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt đầy hơn thì con đầu lòng là con gái. 
5- Tướng người hiếm con hoặc không con Ngược lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể.Tại diện mạo ta thấy có : tóc thô và vàng; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng hầu như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao : mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp: có quyền mà không có mang tai thích nghi : mũi hoặc quá gãy, thấp hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên : môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới : nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc : mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.
Tai thân hình : vú gẫy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt : da mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ.Nếu chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan đến mắt, môi, tai v.v… thì đó là tướng hiếm hoi nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu mặt lẫn thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như lệ đường,vú, Nhân trung, trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái. 
6 - Tướng đàn bà khắc chồng :Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớnvà có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnhvực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.
Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng :- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám - Mắt lớn lồi ( nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn ). Lông mày thưa vàng và ngắn- Mày thô, mắt có sát khí- Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi - Phần sống mũi ( Niên thượng, thọ thượng ) nổi gân máu - Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên - Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe - Trán vuông, mày lớn cao và đậm - Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ- Tán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm - Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu - Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết - Mặt chè bè về chiều ngang (phần Trung đình) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống .- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau - Trán có tật bẩm sinh (vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu) .- Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng - Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn ( đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại ) - Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi - Tác có phù quang (trơ trẽn không có sinh khí), da trắng và khô mốc - Mặt dài quá, cộng với miệng lớn ( thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu) - A án đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn .- Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại ( nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn ) - Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre- Xương che lỗ tai (mạng môn cốt) nổi cao.
Đi xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ngư cho rằng có một số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục hay hung dữ thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm hãm hại chồng. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám ( tục gọi là mặt gà mái). Lệ đường ảm đạm, sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết ) ở mang tai đối với chồng dễ nổi hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề. Kết duyên với họ không có hạnh phúc thật sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt. Sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn ấn đường thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng khi bị cơn gian làm mất lý trí.
7 -Tướng đàn bà vương phụ ích tử Đặc điểm của tướng bà vương phụ về mặt mạng vận là khi lập gia đình dú chỉ về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây :
- Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà : khuôn mặt cân phận về cả tam đình, Ngũ nhạc và tứ đậu. Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy :- Aán đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.- Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.- Lòng bàn chân hoặc trong thân thể ( rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng ) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.- Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phụ : màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp.
Thường thường tướng đàn bà vượng phụ đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé ). Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau :Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.- Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu.- Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai.
Người đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậy ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).

1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát  Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng  người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của  Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán

(Trích Lược Tử Vi : Tuổi Mùi,  năm nay số mệnh ra sao? 12 Con Giáp và những đặc tính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tướng cách phụ nữ

Tuổi Bính Dần 1986 hợp làm ăn với tuổi nào?

Người sinh năm 1986 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn đang băn khoăn không biết tuổi Bính Dần hợp làm ăn với tuổi nào? Dưới đây Phong thủy số sẽ giải đáp cho bạn về những tuổi hợp làm ăn với Bính Dần.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người sinh năm 1986 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn đang băn khoăn không biết tuổi Bính Dần hợp làm ăn với tuổi nào? Dưới đây Phong thủy số sẽ giải đáp cho bạn về những tuổi hợp làm ăn với Bính Dần.

Tuổi Bính Dần 1986 hợp làm ăn với tuổi nào?

Vài nét về tuổi Bính Dần:

Tuổi Bính Dần: Cung mệnh Khảm, mạng cốt tinh Hỏa, sinh năm 1986 năm con hổ.

Tính cách tuổi Bính Dần: Là người thông minh, có tài, khéo tay, có khiếu văn chương. Tính tình cương trực, ít chịu luồn cúi, vì thế có lúc cũng không thuận trong quan hệ. Nhiều lúc nóng nảy, hay tranh luận, cần giữ cho mình có phong độ, thì sẽ được nhiều người quý mến.

Xem thêm: Tuổi Ất Sửu hợp làm ăn với tuổi nào?

Tuổi Bính Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Ngành nghề thích hợp với tuổi Bính Dần: Nên lựa chọn những nghề trong lĩnh vực điện tử, kỹ thuật, luật pháp, quân sự thì sẽ phát huy tốt hơn các nghề khác.

Tuổi hợp làm ăn với Bính Dần gồm Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu (thuộc mệnh Mộc) thì sẽ rất thuận lợi trong phối hợp làm ăn.

Sinh năm 1986 hợp làm ăn với các tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi ( thuộc hành Thổ) thì tuy người tuổi Bính Dần có thể làm bạn bè, cho nên Bính Dần thường phải làm cấp dưới hoặc làm trợ lí cho những người mệnh Thổ thì công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió.

Tuổi Bính Dần hợp làm ăn với các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi ( thuộc hành Thổ) thì sẽ giúp nhau làm ăn hưng vượng.

Tuổi Bính Dần kết hợp làm ăn với các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ( thuộc hành Kim) tuy khắc chế, nhưng nếu người tuổi Bính Dần là cấp trên thì vẫn phát tài, phát lộc.

Tuổi Bính Dần không nên kết hợp làm ăn với những người tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu ( thuộc hành Thủy) thì công việc bị nhiều thua thiệt nên tìm cách tránh thì tốt hơn.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Bính Dần:

Màu hợp với tuổi Bính Dần: Màu đỏ kết hợp với màu hồng hoặc tím, có cả màu xanh lục pha trộn sẽ mang lại thịnh vượng. Tránh dùng màu đen, xanh nước biển thẫm.

Hướng đặt bàn làm việc với tuổi Bính Dần: Hay còn gọi là phương vị tài thần, đối với nam giới đặt bàn làm việc nhìn hướng chính Đông, đối với nữ giới nhìn hướng chính Tây.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Phong thủy số


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Bính Dần 1986 hợp làm ăn với tuổi nào?

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Đàn ông chiều vợ có đặc điểm gì trên khuôn mặt?

Những anh chàng môi mỏng, nhân trung sâu và dài thường hết lòng vì vợ con.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài các yếu tố như môi trường sống, trình độ giáo dục... thì theo nhân tướng học, nếu người đàn ông của bạn có các đặc điểm sau đây trên khuôn mặt, vợ họ sẽ rất được cưng chiều, theo Sina.

1. Đàn ông môi mỏng thường biết vào bếp

Ảnh minh: Soompi. Ảnh minh: Soompi.

Sẵn sàng vào bếp và biết nấu ăn là điều kiện tiên quyết của người đàn ông hiện đại. Người có đôi môi mỏng đều ở cả trên và dưới thường thuộc trường phái "đầu bếp giỏi". Tuy nhiên, nếu môi quá mỏng thì chàng lại có tính tình khá lạnh nhạt.

2. Đàn ông có chân mày hình "bát tự" hoặc chân mày rũ xuống

Kiểu nam giới này được chia làm 2 loại: Kiểu nam giới này được chia làm 2 loại:

- Đầu lông mày bình thường, cuối lông mày chia thành hai nhánh. Một nhánh hếch lên và sợi lông mày cũng có chiều hơi hướng lên; nhánh thứ hai rẽ xuống, chiều lông mày cũng hơi hướng xuống.

- Đầu lông mày cao, thân lông mày thấp dần, đuôi lông mày gần ngang với đuôi mắt. Cả hai lông mày phải và trái hợp với nhau thành hai nhánh trông như hai nhánh chữ bát (八).

Đây là kiểu người khá ôn hòa, ít khi tức giận, bất luận trong vấn đề nào đó bạn đúng hay sai thì người đầu tiên nói lời xin lỗi thường là chàng. Đồng thời, chàng cũng không có quan niệm về con số cho nên tiền kiếm được đều giao cho vợ quản lý, thậm chí để bạn nắm quyền kinh tế trong gia đình.

3. Đàn ông có mắt phải to hơn mắt trái

Đây là người đàn ông "sợ vợ" cho nên thường nhún nhường nửa kia. Tuy tính tình có hơi ủy mị và yếu đuối nhưng chàng thật sự yêu thương vợ bằng cả tấm lòng, lúc nào cũng muốn vợ vui và giữ hòa khí gia đình nên thường sẵn sàng chịu thiệt.

4. Đàn ông có nhân trung sâu và dài, cằm đầy đặn

Các kiểu nhân trung. Các kiểu nhân trung.

Nhân khí của chàng rất tốt, là người rộng lượng và yên ổn, vận thế con cái cũng được hưởng phúc đức. Chàng thường có một trái tim cởi mở, sức khỏe tốt, khả năng chăn gối cũng luôn khiến "nửa kia" hài lòng.

5. Đàn ông có luân quách không lồi

Luân quách (là vành trong và ngoài của tai) không quá lồi lõm, xương xẩu cho thấy đây là người đàn ông dễ chịu, không thích so đo. Chàng thích ở nhà và xem trọng cuộc sống gia đình.

6. Đàn ông mũi nhỏ như củ tỏi

Mũi hình củ tỏi. Mũi hình củ tỏi.

Đặc điểm này cho thấy chàng rất nỗ lực làm việc, biết kiếm tiền nhưng sẵn sàng tiêu tiền vì vợ. Bản thân chàng tiết kiệm nhưng lại rất hào phóng với những người thân trong gia đình.

7. Đàn ông mí mắt nhiều tầng hoặc có nốt ruồi ở bọng mắt

Đây là người đàn ông đặc biệt rất yêu vợ thương con. Vì những thành viên trong gia đình, chàng sẵn sàng hy sinh và phấn đấu hết mình để đem lại cuộc sống tốt nhất.

8. Đàn ông có hai gò má đầy đặn, xương cân đối

Chàng rất có trách nhiệm và biết gánh vác gia đình, luôn là người cho đi nhiều hơn và cũng rất biết hâm nóng tình cảm vợ chồng.

Theo VnExpress


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông chiều vợ có đặc điểm gì trên khuôn mặt?

10 dấu hiệu chứng tỏ bạn hạnh phúc

10 dấu hiệu chứng tỏ bạn hạnh phúc. Bạn có nghĩ là mình đang có một cuộc sống hạnh phúc? Hãy tham khảo bài viết sau để kiểm chứng nhé

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Vận động mỗi ngày

Theo nghiên cứu gần đây tại trường Đại học Bắc Texas( Mỹ), những người hạnh phúc thường tham gia vào các hoạt động lành
mạnh. Ngoài ra, Hiệp hội tâm lý học Mỹ cũng phát hiện ra rằng tập thể dục làm giảm đáng kể bệnh trầm cảm ở tất cả các nhóm tuổi và giới tính.

2. Có những người bạn vui vẻ

Có thêm một người bạn vui vẻ sẽ giúp bạn tăng thêm 9% khả năng được hạnh phúc.

3. Không có nhưng ý tưởng điên rồ

Những người hạnh phúc không cần phải lặn sâu 9m trong một khe núi hay sử dụng cocaine để tạo nên sức bật hay sự đột phá. Họ bằng lòng với thực tại, và hiểu rằng sự liều lĩnh chỉ làm mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn mà thôi.

4. Ngủ đủ giấc

Chế ngự cảm xúc không vui và giảm căng thẳng khi ngủ sẽ giúp bạn có một giấc ngủ sâu và ngon hơn. Vì vậy, nếu bạn cảm thấy thực sự được nghỉ ngơi trong lúc ngủ thì bạn đang là người hạnh phúc.

5. Tin tưởng vào bản thân

Những người thường xuyên tự ti và nghi ngờ ý kiến riêng của mình rất dễ gặp vấn đề về tâm lý như thay đổi tâm trạng, lòng tự trọng thấp, lo lắng và trầm cảm.

6. Sống cho hiện tại

Nếu đầu óc cứ mãi trôi dạt nghỉ về việc gì đó, bạn sẽ ít hạnh phúc hơn so với những người tập trung hoàn toàn vào công việc hiện tại.

7. Thể hiện lòng biết ơn

Hãy trân trọng những gì mình đang có, chúng đề là những món quà giá trị mà cuộc sống mang lại cho bạn. Thay vì tập trung vào những thữ bạn không có, hãy nhận ra và làm cho những món quà ấy trở nên giá trị nhất có thể.

Lòng biết ơn sẽ giúp bạn có thêm nhiều niềm vui đơn giản trong cuộc sống, và những người hạnh phúc biết ơn cuộc sống của họ nhiều hơn.

8. Phục hồi sau tổn thương

Mãn nguyện ở một mức độ nào đó chính là bến đổ của cảm xúc. Người hạnh phúc đôi khi có thể thoát khỏi những cung bậc tình cảm như hạnh phúc hay thất vọng một cách nhẹ nhàng. Và họ cũng có thể quay trở lại nó một cách dễ dàng và tự nhiên thay vì không ngừng bị chao đảo bởi sự tuyệt vọng và hay hưng phấn.

9. Hạn chế xem ti vi

Bạn muốn hạnh phúc hơn? Hãy tắt tivi. Nghiên cứu cho thấy những người dành phần lớn thời gian để xem tivi là những người không được hạnh phúc lâu dài.

10. Luôn luôn mỉm cười

Người hạnh phúc mỉm cười từ bên trong tâm hồn của họ, chứ không chỉ là nụ cười được biểu hiện trên khóe môi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 dấu hiệu chứng tỏ bạn hạnh phúc

Cơ sở dự báo đời người theo tứ trụ

Để dự báo tứ trụ của một người chúng ta cần dựa vào những thông tin nào!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


I. Bốn thời sinh qua lịch can chi


Mỗi người đều có một lần sinh duy nhất trong Trời Đất này. Nói theo người Tiền sử là trong Thiên và Địa, nói theo cách của thời hiện đại là trong Vũ trụ và trên Trái đất. Người Tiền sử đã đo được vị trí sinh trong Vũ trụ (Thiên) là thời sinh Thiên Can, thời sinh Can có thể gọi là tọa độ Không gian; còn thời sinh Trái đất (Địa) là thời sinh Địa Chi, thời sinh Chi có thể gọi là tọa độ Thời gian.

Có tất cả 10 vị trí sinh Thiên Can là : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và 12 vị trí sinh Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Vì thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới Âm Dương, nên Không - Thời gian cũng mang tính Âm và tính Dương. Vị trí Thiên Can Dương thì đi với Địa Chi Dương, vị trí Thiên Can Âm thì đi với Địa Chi Âm. Như nói năm Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn..., năm Ất Sửu, Ất Mão, Ất Tỵ.... Nghĩ là cứ vị trí sinh Can Dương thì đi với vị trí sinh Chi Dương, vị trí sinh Can Âm đi với vị trí sinh Can Âm.

Vì Không gian và Thời gian bao giờ cũng đi song hành đồng thời, do vậy khi mô tả thời sinh một người bao giờ cũng nơi đầy đủ cả Can và Chi, như sinh năm Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ....

II. Tứ trụ thời sinh của một người

Tứ trụ thời sinh của một người là: Năm, Tháng, Ngày, giờ sinh. Ví dụ sinh ngày: 7 tháng 5 năm 2012, lúc 9 giờ 20 sáng theo lịch Dương, nhưng khi dự đoán thi phải quy đổi ra lịch âm là: ngày 17, tháng 5, giờ Tỵ, năm Nhâm Thìn.

Theo lịch âm cũng như vậy, nhưng mỗi một thời sinh lại khác ở chỗ có 2 yếu tố: yếu tố thời sinh trên Trái đất, điều mà người xưa gọi là Địa Chi và yếu tố thời sinh Vũ trụ, điều mà người xưa gọi là Thiên Can. Như sinh năm Nhâm Thìn, Tháng Quý Mão (tháng 2), ngày Đinh Mùi, giờ Bính Thìn.

Ta xếp thời sinh của người này thành 4 cột thời gian hay Tứ trụ như sau:



Thời sinh theo lịch Can Chi của một người được thể hiện qua vị trí sinh trên Trái đất (gọi là Địa Chi) và cùng lúc với vị trí sinh trong Vũ trụ (trên Trời) gọi là Thiên Can có tính chất khác nhau, đó là tính Âm Dương và tính Ngũ hành. Tại sao vậy? Vì thế giới mà chúng ta sinh ra và tồn tại là thế giới Ngũ hành Âm Dương. Mỗi chúng ta từ lúc sinh ra đến lúc về già, luôn luôn bị chi phối bởi tính Ngũ hành và Âm dương của thế giới này. Nếu nắm được tính Ngũ hành và tính Âm Dương của Bát Tự thời sinh, thì biết trước phần nào cuộc đời của người đó trong hiện tại cũng như trong tương lai. Xuất phát từ nguyên lý của Trời Đất (Thiên Địa àThiên Can Địa Chi) đó, mà người Tiền sử đã lập ra cách dự báo số phận một người gọi là Tứ Trụ Bát Tự. Cũng có thể gọi vắn tắt là dự báo theo Tứ Trụ hay theo Bát Tự.

III. Tính chất thời gian can chi

Theo học thuyết Âm Dương, nhân loại trên Trái đất sống trong thế giới Ngũ hành (thế giới có 5 loại chất) và luôn bị Ngũ hành chi phối mọi hoạt động sống của mình. Do vậy, thời gian trên Trái đất cũng là thòi gian theo Ngũ hành. Để phân biệt được tính Ngũ hành của thời gian Trái đất, ta phải xem xét qua thời gian Can Chi.

Việc xem xét tính chất thời gian Can Chi nhằm mục đích phân tích thực trạng của đối tượng dự báo theo Tứ trụ, đặc biệt là tính Ngũ hành của thời gian Can Chi được xem xét nhiều nhất. Sau đây là những tính chất đó.

1. Tính Âm Dương của thời gian Can Chi

Thời gian vận động trên trái đất này theo nhịp âm dương. Cứ một ngày (hay tháng, năm giờ) khởi đầu là dương thì thời gian tiếp theo là âm. Cứ khởi đầu là một toạ độ không gian (thập can) dương thì toạ độ không gian tiếp theo là âm, rồi lại dương. Quy luật vận động của toạ độ thời gian (địa chi) cũng như vậy. Một quy luật khác của thời gian là: Toạ độ không gian Dương kết hợp với toạ độ thời gian Dương, toạ độ không gian âm kết hợp với toạ độ thời gian âm. Để có cách nhìn toàn cục quy luật này, ta có thể tìm nhanh thời gian can chi qua bảng sau:



Nhìn vào bảng trên, các can dương phối với Can Dương, Âm phối với Âm. Ví như chỉ có những năm (tháng ngày hay giờ) là Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân, Giáp Tuất.., Ất Sửu, Ất Mão, Ất Tỵ, Ất Mùi, Ất Dậu, Ất Hợi... Các trường hợp khác tính thời gian can chi tương tự như cách trên.

Cũng từ bảng trên, các Can: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là dương, còn Ất, Đinh, Mậu, Tân, Quý là âm. Vậy năm nào có Can Dương là năm Dương, năm Can Âm là năm Âm, như năm Bính Tuất (2006) là năm Dương vì Bính Dương... Người sinh năm Dương thì nữ là Dương nữ, nam là Dương nam; sinh năm Âm nữ là Âm nữ, nam là Âm nam. Đối với thời gian tháng, ngày, giờ cũng tính tương tự.

2. Tính Ngũ hành của thời gian Can Chi

Đây là diễn giải: thời gian Can và Chi hay Can Chi thuộc loại chất nào, chúng quan hệ với nhau ra sao trong thế giới Ngũ hành này.

a. Thuộc tính Ngũ hành của Thập Can và Địa Chi

Theo dịch lý, trong không gian 4 chiều nơi loài người đang tồn tại, vạn vật, con người, thời gian... có 5 thuộc tính khác nhau là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Các thuộc tính này khi kết hợp với nhau có thể tạo ra sự phát triển, điều mà dịch học gọi là tương sinh; cũng có thể kìm hãm nhau trong phát triển hoặc tiêu diệt nhau, điều mà dịch lý gọi là tương khắc hay không làm gì cho nhau gọi là tỵ hoà. Sư tương sinh và tương khắc như sau:



Ví dụ:Tý khắc Tỵ nhưng Tý sinh Mão và sinh Dần... Dậu và Kim sinh Tý và sinh Hợi...

Đối với 12 địa Chi hay 12 Tọa độ thời gian (TĐTG), thuộc tính ngũ hành như sau:



Đối với 10 thiên Can hay 10 Tọa độ không gian (TĐKG), thuộc tính ngũ hành như sau:



b. Xác định Can cho tháng Giêng để tìm Can các tháng khác

Trên thực tế nhiều khi chỉ biết Chi của tháng, không biết Can tháng đó là gì, người ta đưa ra luật Ngũ Dần để tính Can cho tháng Giêng (bao giờ cũng là tháng Dần), qua đó để biết can của tháng cần tìm. Luật Ngũ Dần như sau:



Ví dụ như tháng Tám năm Bính Tuất (2006) là Can gì? Tra bảng trên, tháng Giêng năm Bính Tuất là Canh Dần, tháng Tám là tháng Dậu, từ Canh, Tân, Nhâm... tính đi đến thứ tám là Đinh. Vậy tháng 8 âm năm Bính Tuất là Đinh Dậu.

c. Xác định Can giờ khi biết Can ngày

Trên thực tế, có trường hợp cần biết Can giờ sinh, người xưa đưa ra luật Ngũ Tý, nghĩa là qua Can của ngày để xác định Can của giờ Tý hôm đó, qua đây để tìm các can giờ tiếp theo cần tìm. Luật Ngũ Tý được mô tả qua bảng sau:



Ví dụ:ngày 1/9 âm năm Bính Tuất (2006) giờ Thìn Can gì? Nhìn lịch 2006 - Bính Tuất tháng 9 âm ngày 1 là ngày Mậu Dần. Vậy giờ Tý hôm đó là giờ Nhâm Tý, đếm đi tiếp là Sửu, Dần... đến giờ Thìn là Bính Thìn. Các trường hợp khác tính tương tự.

IV. Tháng xem tứ trụ là tháng tiết khí

Khi dự báo theo Tứ trụ Bát tự, điều cần biết là tháng sinh của một người thuộc tháng nào của tháng Tiết khí.

Tháng của lịch Âm Dương hay lịch Can Chi được dựng theo tiết khí, nghĩa là ngày bắt đầu của tháng căn cứ vào ngày chuyển tiết sang tháng đó. Như tháng Giêng bắt đầu từ ngày Lập xuân, nghĩa là ngày 1 tháng Giêng (tết Nguyên đán) chưa hẳn đã là ngày của tháng Giêng. Ngày của tháng Giêng bắt đầu từ ngày Lập xuân. Lập xuân có thể đến sớm trong tháng Chạp, ví dụ Lập xuân rơi vào ngày 26 tháng Chạp, thì từ ngày này trở đi như ngày 27, 28, 29... tháng Chạp đã là ngày của tháng Giêng. Khi dự báo, nếu người sinh vào ngày 28 tháng Chạp, coi như là đã sinh vào tháng Giêng của năm sau, mặc dù chưa đến tết nguyên đán. Để xác định vị trí tháng và ngày của từng tháng trong năm, người xưa đã đưa ra cách xác định như sau:



Ví dụ:xem người sinh ngày 25 (Nhâm Dần), tháng Chạp (Qúy Sửu) năm Nhâm Thìn (2012); theo lịch Âm, năm Qúy Tỵ 2013, lập Xuân vào ngày 24 tháng Chạp năm Nhâm Thìn, nghĩa là ngày 24 tháng Chạp năm Nhâm Thìn đã là ngày đầu tiên của năm Qúy Tỵ. Vậy tháng xem Tứ trụ phải là tháng Giêng Giáp Dần năm Qúy Tỵ (chứ không phải là tháng Chạp năm Nhâm Thìn). Sơ đồ Tứ trụ thời sinh người này phải như sau:



V. Ngũ hành thời gian can chi

Thời gian không đứng biệt lập với không gian, mỗi một vị trí không gian đều có một vị trí thời gian tương ứng đi kèm. Mọi vật chuyển động trong không gian theo 60 vị trí lặp đi lặp lại như một vòng tròn không mối nối từ Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần... rồi lại quay về Giáp Tý... Mỗi một vị trí thời gian như vậy có một tính ngũ hành riêng, điều mà Dịch lý gọi là nạp Giáp. Để tiện tra nhanh tính ngũ hành trong từng vị trí thời gian của một chu kỳ thời gian (năm, tháng, ngày , giờ) có thể đối chiếu qua bảng sau:



Qua bảng trên, ta có thể xác định tính Ngũ hành một cách nhanh chóng bất kỳ một đối tượng nào qua thòi gian sinh. Ví dụ sinh năm Bính Tuất (2006) là Thổ, Giáp Thân là Thủy, Nhâm Thìn là Thuỷ...

VI. Tính chất của thiên can

Toạ độ không gian mà các nhà mệnh lý gọi là Thiên Can hay Thiên nguyên. Thiên nguyên hay thập Can có thể là Can năm, Can ngày, Can giờ. Mỗi một vị trí thời gian sinh của một người nào đó có 4 TĐKG là Can năm, Can tháng, Can ngày, Can giờ. Những Can này phối hợp với nhau có thể tạo ra một vị trí thuận lợi hay bất lợi cho cuộc sống một người nếu sinh vào thời điểm đó. Trong dự báo theo Tứ trụ, người ta lấy Can ngày sinh (gọi là Nhật chủ) để đối chiếu với các Can khác trong tứ trụ để tìm các Thần (10 Thần), tìm sự hợp sự hoá mà dự báo sơ bộ.

1. Quy luật hợp hoá và Ngũ hợp của Thiên Can

Các Can từng cặp liên kết với nhau có hợp, có tất cả 5 cặp Can hợp nhau rồi hóa thành là:



Trong dự báo qua Tứ trụ hay 4 cột thời gian, lấy Can Ngày làm chủ để so với Can Tháng hoặc Can Giờ kế hai bên có hợp hay không. Còn Chi tháng nếu thấy Ngũ hành giống sự hóa thì mới gọi là hợp hoá.

Ví dụ:Can ngày là Giáp, Can tháng hay Can giờ là Kỷ là có hợp hoá, vì Giáp hợp Kỷ hoá Thổ. Nếu Can ngày là Kỷ, Can tháng hoặc Can giờ là Giáp, mà Chi tháng hay Chi giờ là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (đều tính Thổ) có ngũ hành giông nhau đều Thổ nên sự hợp này có hoá.

Sơ đồ Tứ trụ có hợp hóa:



2. Mức độ sinh khắc của Thiên Can

Thứ hai: Can ngày hợp với Can tháng hoặc Can ngày hợp với Can giờ, Chi tháng không hoá, nhưng Ngũ hành mà nó hoá ở trong ba Chi còn lại hợp thành cục thì đây cũng coi là sự hợp có hoá. Ví dụ: Can ngày là Canh, Can tháng là Ất hợp hoá Kim, Chi tháng không phải là Thân hay Dậu (Kim), nhưng 3 Chi của năm, ngày , giờ tam hợp là: Thân Tý Thìn thì sự hợp có hoá.

Trong các cột thời gian, sự sinh khắc của 2 can đứng cạnh nhau mới đáng xét và mối mạnh. Như ngày sinh là Bính Hoả khắc Can năm Canh Kim, nhưng Can tháng đứng giữa hai Can này là Kỷ thổ, mà Thổ sinh Kim, nên lúc này Bính lại “sinh” Canh (Kim) chứ không khắc.

Trong khắc có hợp, sự hợp mất sự khắc thì không còn là khắc nữa. Ví dụ Bính Hoả khắc Canh (Kim), nhưng trong 4 cột thời gian có Tân Kim, mà Tân hợp Bính hoá Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, nên Bính Hoả độc lập không khắc nổi Canh Kim nên sự khắc không còn.

Can ngày sinh bị Can khác khắc, Can khắc đó lại bị Can khác khắc, do đó Can ngày không còn bị khắc nữa. Ví dụ Can ngày là Canh Kim bị Can tháng Bính Hoả khắc, Bính hoả lại bị Can giờ (hay năm) Nhâm Thuỷ khắc, lúc này Can Canh không còn bị khắc.

3. Sự hợp hóa của Can ngày cho biết điều gì?


Trong dự báo theo Tứ trụ Bát tự, lấy Can ngày sinh làm chủ, so với Can tháng và Can giờ sinh kế bên Can ngày để tìm sự hoá hợp. Qua sự hợp hóa này, sơ bộ cho ta số phận khái quát một người. Sau đây là quan điểm của các nhà mệnh lý xưa đưa ra để tham khảo.

Can ngày Giáp hợp Kỷ hoá Thổ: người xưa cho rằng đây là mệnh trung chính, chủ về yên phận thủ thường, trọng tín nghĩa. Nếu trong mệnh cục (cách xác định mệnh cục xin xem phần dưới đây) không có Thổ mà có Thất sát thì đó là người thiếu tình nghĩa, người giảo hoạt, tính thô thiển (chú ý: Kỷ ở đây có thể là Can tháng hoặc Can giờ, các trường hợp dưới đây xét tương tự). Trường hợp này như sơ đồ Tứ trụ có hợp hóa nêu trên đây.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Giáp gặp Kỷ:

Can ngày Giáp hợp Kỷ: nếu gặp Ất mộc thì thể tài có hao tổn, nếu gặp Đinh hoả thì được lộc cũng như không, nếu gặp Tân Kim thì cao sang, nhà cao cửa rộng, nếu gặp Mậu Thổ thì giàu sang, nhà cao lộng lẫy, nếu gặp Quý Thuỷ thì cuộc đời sẽ hạnh phúc, nếu gặp Canh Kim thì gia thế hưng thịnh, nếu gặp Bính Hoả thì hưởng lộc nhiều.

Sơ đồ Tứ trụ Giáp hợp Kỷ gặp Tân Mão:

Can ngày Kỷ hợp Giáp: nếu gặp Đinh hoả thì bị người khác chèn ép, nêu gặp Ất Mộc thì tự mình gây hoạ, nếu gặp Tân thì giàu sang phú quý, nếu gặp Canh thì cô đơn nghèo khó, nếu gặp Qúy Thuỷ thì chức cao trọng vọng.

Sơ đồ Tứ trụ Kỷ hợp Giáp gặp Đinh:



Can ngày Ất hợp Canh hoá Kim: cho biết là người trọng nhân nghĩa, ứng xử cương nhu đúng mức. Nếu trong 4 cột thời gian có Thiên quan hoặc vận kém rơi vào Tử, Tuyệt thì là người cố chấp, thiếu nhân nghĩa.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Ẩt hợp Canh:



Can ngày Ất hợp Canh: nếu gặp Bính Hoả thì khó khăn trong cuộc sống, nếu gặp Nhâm Thuỷ thì vinh hoa phú quý, gặp Đinh Hoả thì vui vẻ trong cuộc sống, nếu gặp Kỷ Thổ thì nhà nhiều của, nếu gặp Tân Kim thì gió sương, nếu gặp Giáp Mộc thì lúa gạo đầy nhà.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Ất hợp Canh gặp Bính:



Can ngày Canh hợp Ất: nếu gặp Tân Kim thì có hao mòn, nếu gặp Bính Hoả thì trì trệ, nếu gặp Đinh Hoả như rồng gặp nước, nếu gặp Quý Thuỷ thì tài sản trôi nổi và người sẽ sống lâu, nếu gặp Nhâm Thuỷ thì tài lộc ngày cành phát triển, nêu gặp Mậu Thổ thì không giàu sang cũng nổi tiếng.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Canh hợp Ất gặp Tân:



Can ngày Bính hợp Tân: nếu gặp Mậu thổ thì công thành danh toại, nếu gặp Ất mộc thì quyền cao chức trọng, nếu gặp Quý thuỷ hay Kỷ Thổ thì cửa nhà danh giá, nếu gặp Nhâm Thuỷ thì dễ gặp tai hoạ.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Bính hợp Tân gặp Mậu:

Can ngày Tân hợp Bính: nếu gặp Mậu Thổ và Canh Kim thì công thành danh toại.

Sơ đồ Can ngày Tân hợp Bính gặp Mậu:
Can ngày Đinh hợp Nhâm hoá Mộc: sự hợp này chủ về nhân nghĩa và sống lâu, người tính nhân từ, tuổi thọ cao. Nữ giới nếu trong mệnh Thuỷ cực vượng quá làm Mộc suy thì sự hợp không hay. Nếu đóng ở Tử, Tuyệt thì phá tán tài sản vì tửu sắc.



Can ngày Đinh hợp với Nhâm: nếu gặp Bính Hoả thì số nhàn, gặp Tân thì cuộc đời hay gặp may và phú quý, nếu gặp Mậu Thổ thì cuộc sống an nhàn, nếu gặp Quý Thuỷ thì cô đơn nơi tha hương, nếu gặp Ất Mộc thì không giàu, nếu còn có Canh Kim nhiều trong các cột thời gian thì cuộc đời không danh vọng, nếu gặp Giáp hoặc Thìn thì chức vị và lộc dồi dào, vẹn toàn.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Đinh hợp Nhâm gặp Tân:



Can ngày Nhâm hợp với Đinh: nếu gặp Giáp Mộc thường hay thất bại, nếu gặp Tân Kim thì ruộng vườn bát ngát, nếu gặp Bính Hoả thì thành anh hùng hào kiệt, nếu gặp Quý Thuỷ thì kinh doanh vất vả, nếu gặp Kỷ Thổ thì có chức quyền, nếu gặp Mậu Thổ thì bồng bềnh trôi dạt, nếu gặp Canh Kim thì mọi việc khó thành, nếu gặp Ất Mộc thì không thọ.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Nhâm hợp Đinh gặp Bính:


Can ngày Mậu hợp Quý hoá Hoả: thể hiện sự vô tình vô nghĩa, có dáng vẻ bề ngoài thanh cao nhưng nội tâm mờ ám. Nếu là nam giới là người nay đây mai đó, ham chơi hơn làm, nếu là nữ giới thì lấy chồng đẹp.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Mậu hợp Quý:
Can ngày Mậu hợp với Quý: nếu gặp Ất Mộc thì cuối đời thành đạt, nếu gặp Nhâm Thuỷ thì tự thân làm giàu, nếu gặp Bính Hoả thì khó có phúc lộc, nếu gặp Canh Kim thì thường gặp điều hanh thông, nếu gặp Kỷ Thổ thì không hay cho vợ con, nếu gặp Tân Kim là người mưu mẹo.

Sơ đồ Tứ trụ ngày Mậu hợp Qúy gặp Nhâm:
Can ngày Quý hợp với Mậu: nếu gặp Bính, Tân thì cuộc đời có nhiều thành đạt và cũng có nhiều thất bại. Nếu gặp Giáp, Kỷ thì suốt đời vất vả, nếu gặp Đinh Hoả thì của nhiều, nếu gặp Canh Kim thì đất đai của cải nhiều, nếu gặp Ất Mộc thì chức cao quyền quý, nếu gặp Nhâm Thuỷ thì tài lộc song toàn, nếu gặp Tân Kim thì tài lộc lúc được lúc mất, nếu gặp Kỷ Thổ thì tiền đồ học hành phát triển:

Sơ đồ Tứ trụ ngày Qúy hợp Mậu gặp Bính:



Lưu ý:trên đây là dự báo Tứ trụ theo sự hợp hóa của Can ngày sinh, trên thực tế không phải ai cũng rơi vào cách hợp hóa nói trên.

VII. Tính chất của địa chi

Địa Chi còn gọi là Địa nguyên, có thể nói đó là Toạ độ thời gian trên Trái đất. Trong dự báo qua 4 cột thời gian, sự hình xung, hại hợp của địa chi ảnh hưởng rất lớn đối với nhật chủ. Sự ảnh hưởng này có vị trí đặc biệt trong dự báo về số phận một người. Khi có sự liên kết của địa Chi trong 4 cột thời gian, sẽ xảy ra những mức độ quan hệ như sau:

1. Sự hợp của Địa Chi

Có 6 khả năng hợp của các địa Chi, như:

* Tý hợp với Sửu thành Thổ. * Ngọ hợp với Mùi thành Thổ.

* Dần hợp với Hợi thành Mộc * Mão hợp với Tuất thành Hoả.

* Thìn hợp với Dậu thành Kim. * Tỵ hợp với Thân thành Thuỷ.

2. Tam hợp của Địa Chi

Trong thế giới Âm Dương trên trái đất, ba yếu tố kết hợp với nhau tạo ra cái mới. Nói cách khác, số 3 là số sinh, sinh ra một cái mới từ 3 cái ban đầu. Tính chất này thể hiện rõ qua địa Chi, như:

Thân + Tý + Thìn (hợp) thành Thuỷ cục. Hợi + Mão + Mùi (hợp) thành Mộc cục.

Dần + Ngọ + Tuất (hợp) thành Hoả cục. Tỵ + Dậu + Sửu (hợp) thành Kim cục.

Trong 4 cột thời gian, nếu có lục hợp hoặc tam hợp cục là cho biết người đó có dung nhan đẹp, thanh lịch, thần thái ổn định, thẳng thắn, thông minh linh lợi. Hợp cục thành cát thần là tốt, hung thần là xấu, hợp thành tương sinh thì tốt, tương khắc thì không hay, hợp thành Tử, Tuyệt thì cuộc đời bất đắc chí. Trong tam hợp hoá cục hoá cát là tốt, hoá hung là xấu.

3. Lục xung của Địa Chi

Xung có nghĩa là bất hoà. Sự tương xung của 12 địa Chi như sau:

Trong các cặp tương xung này, duy nhất có Thìn Tuất Sửu Mùi có tương xung nhưng không tương khắc vì chúng đều là Thổ. Còn lại vừa tương xung vừa tương khắc.

Kỵ thần bị tương xung là tốt, Hỷ thần bị xung là xấu. Trong dự báo theo Tứ trụ, qua sự tương xung của địa Chi phần nào cũng cho những thông tin nào đó, như:

* Tý, Ngọ tương xung thì người thường không yên ổn.

* Mão, Dậu tương xung chỉ tính người thất tín, bội ước, hay lo buồn, tình cảm dễ bị chia rẽ.

* Dần, Thân tương xung là người đa tình, hay can thiệp vào những chuyện không đâu.



* Sửu, Mùi tương xung, thường hay gặp trắc trở trong công việc.

* Chi cột năm xung Chi cột tháng: người sống xa quê hương.


* Chi cột năm xung Chi tháng, Chi ngày, Chi giờ: người tàn nhẫn hoặc hay ốm đau.

* Chi cột ngày xung Chi tháng: hay xúc phạm cha mẹ anh em.



* Nếu trong tứ trụ có gặp xung, thường không được hưởng nhà của cha mẹ.

* Nếu trong tứ trụ có Tý Ngọ Mão Dậu tương xung là người hay đổi chỗ ở.

* Nếu có Dần Thân Tỵ Hợi tương xung là không hợp nghề, hay đổi nghề và chỗ ở.

* Nếu có Thìn Tuất Sửu Mùi tương xung trong tứ trụ thì cũng không hợp nghề và hay đổi nghề.

4. Tương hại của 12 Địa Chi

* Nếu trong Tứ trụ có Tý Mùi tương hại thì da thịt không mượt mà. Còn Sửu Ngọ, Mão Thìn tương hại thì tính người hay giận dữ, sự kiên nhẫn kém.

* Dần Tỵ tương hại: nếu trong 4 cột thời gian (Tứ trụ) nhiều hành Kim thì người hay mắc bệnh.



* Chi ngày Chi giờ tương hại: về già đề phòng bị tật. (xem đồ hình Dần Tỵ tương hại

trên)

5. Tương hình của Địa Chi

a. Dần hình Tỵ, Tỵ hình Thân, Thân hình Dần:gọi là trì thế hình. Những người trong 4 cột thời gian có tương hình của cát địa Chi loại này, hoặc trong tuế vận (năm) có tương hình thì tính tình lãnh đạm, tình cảm lạnh lẽo, khô khan, thiếu nghĩa hiệp, hoặc hay bị người hại hoặc gặp điều xấu.

Nếu các địa Chi xung đó lại ở vị trí Tử, Tuyệt thì càng không hay, nữ giới không nên gặp trường hợp này, nếu gặp tụng kinh niệm Phật thì mọi việc sẽ qua.

b. Mùi hình Sửu, Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi gọi là vô ân chi hình. Người trong tứ trục có loại hình này báo có sự tranh giành quyền lợi, là người cậy quyền làm quá đi nên dễ thất bại. Nhưng nếu rơi vào các vị trí Trường sinh, Mộc dục, Quan đối, Lâm quan, Đế vượng thì tinh thần cương nghị. Nếu trong 4 cột thời gian có Tử, Tuyệt tương ứng vị trí thì đó là người thấp kém, tính tình giảo quyệt, dễ gặp điều không hay, nữ giới dễ bị cô đơn.

c. Mão hình Tý, Tý hình Mão gọi là vô lễ chi hình. Người trong tứ trụ có loại hình này cho biết là người thiếu tự tin và không có khả năng làm việc độc lập, nhưng lại hay cố chấp, làm việc không đến nơi đến chôn, có tính thành kiến, nội tâm bất thiện, dung mạo không đẹp. Nếu các Chi này ở vị trí Tử, Tuyệt thì nông cạn trong suy nghĩ. Nếu ngày sinh gặp tương hình thì vợ hay chồng không khoẻ, nếu giờ sinh tương hình thì đề phòng con cái có bệnh. Trong 4 cột thời gian có hai loại tương hình thì điềm xấu có thể thêm xấu, nếu mệnh trong Tứ trụ tốt thì càng tốt lên.

d. Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi tự hình lẫn nhau, nhưng kiêng nhất là Thìn gặp Thìn, Ngọ gặp Ngọ, Dậu gặp Dậu, Hợi gặp Hợi. Các nhà mệnh lý xưa có câu: “Tự hình có thêm sát” là không hay. Họ cho rằng nếu Chi năm sinh và Chi tháng sinh tự hình thì trong cuộc đời dễ bị tổn thương. Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi tự hình thì đến tuổi trung niên mọi việc diễn ra không rõ ràng, khó đoán định.

Bảng Hợp, Xung, Hình, Hại của Chi:

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở dự báo đời người theo tứ trụ

10 bí ẩn khoa học chưa thể chạm tới (phần 2)

Sự phát triển và những thành tựu của khoa học hiện đại, nhân loại đã ngày càng tiến tới tin rằng khoa học có khả năng đưa ra giải thích cho mọi thứ tồn tại
10 bí ẩn khoa học chưa thể chạm tới (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trên hành tinh và trong vũ trụ của chúng ta, nhưng thật sự còn nhiều điều bí ẩn khoa học chưa thể chạm tới. Chúng ta hãy thử xem xét một số hiện tượng không thể giải thích này và tự nhắc nhở mình rằng bản thân tự nhiên là một kỳ quan và rằng nhiều thứ vẫn còn là những điều bí ẩn.

10 bi an khoa hoc chua the cham toi (phan 2) hinh anh
Tam giác quỷ Becmuda là hiện tượng bí ẩn nhất hiện nay trên hành tinh chúng ta

5. Ký ức ảo giác (Déjà Vu)
Mọi người có thể có cảm giác thân quen rất kỳ lạ về một hình ảnh ở trước mặt cứ như là nó đã từng xảy ra trước kia rồi, nhưng họ vẫn biết rằng đó là lần đầu tiên họ gặp những sự việc đó.    Nghiên cứu sinh lý học thần kinh đã cố gắng giải thích những trải nghiệm đó là sự dị thường của trí nhớ hay một căn bệnh về não, hay là do các hiệu ứng phụ của thuốc.   Bất kể là giải thích như thế nào thì ký ức ảo giác chắc chắn cũng là một hiện tượng phổ biến đối với con người, và nguyên nhân căn bản của nó vẫn là một điều bí ẩn.

6. Ma quỷ Việc nhắc đến ma quỷ trong các tác phẩm văn học kinh điển của các tác giả như Homer và Dante gợi ý rằng sự trải nghiệm của con người với những hiện tượng dị thường là chuyện thường thấy và đã xảy ra từ lâu đến bây giờ. Những câu chuyện nhìn thấy ma quỷ xuất hiện khắp nới trên thế giới và được truyền tai nhau nhanh chóng.   Sự tồn tại của ma quỷ có sự liên hệ mật thiết với các không gian ở phía bên kia thế giới vật chất của chúng ta và sự tiếp tục của phần hồn con người sau khi chết. Các nhà điều tra nghiên cứu về chủ đề này hy vọng rằng một ngày nào đó điều bí ẩn này sẽ được giải quyết.   7. Những vụ mất tích không giải thích được Có rất nhiều trường hợp kỳ lạ trong đó có những người đã mất tích không còn một dấu vết nào. Đặc biệt là các vụ đắm tàu hay tai nạn máy bay, mà gần đây như MH 370.    Trong những trường hợp này, bất chấp nhiều nỗ lực của các cơ quan điều tra khác nhau, sử dụng các kỹ thuật khoa học hiện đại nhất vẫn không thể tìm ra c câu trả lời cụ thể cho việc điều gì đã xảy ra với những người đã biến mất một cách bí ẩn như vậy.   8. Tam giác quỷ Bermuda Tam giác quỷ Bermuda – một khu vực trên Đại Tây Dương giữa Bermuda, Miami, và San Juan, Puerto Rico, nơi các tàu thuyền và máy bay vẫn tiếp tục biến mất – là một trong những điều bí ẩn nhất hiện nay trên hành tinh của chúng ta.   Những người sống sót đã kể lại các câu chuyện về sự thay đổi thời gian, các thiết bị định hướng không hoạt động, các quả cầu ánh sáng đến từ trên trời, sự thay đổi lớn và đột ngột về thời tiết, và những bức tường sương mù không thể lý giải được.   Sau nhiều năm, các nhà khoa học đã cố gắng lật tẩy điều bí ẩn của tam giác quỷ Bermuda bằng cách nói rằng không có điều bí ẩn nào cả. Nhưng những người đã trực tiếp trải qua những hiện tượng kỳ lạ đó và vẫn còn sống đã nhấn mạnh rằng có những điều xảy ra trên biển trời tam giác quỷ Bermuda vượt quá khả năng hiểu được theo lô-gíc thông thường.   9. Bàn chân khổng lồ (Bigfoot) Bàn chân khổng lồ (Bigfoot) là một trong những sinh vật huyền thoại nhất trong nghiên cứu các động vật bí ẩn. Bigfoot, hay Sasquatch như được gọi ở miền Tây Bắc Thái Bình Dương thuộc khu vực Bắc Mỹ, cũng được biết đến với cái tên Yeti hay Người tuyết ở khu vực dãy núi Himalaya của Nepal và Tây Tạng, và với cái tên Yowie ở Australia.   Vào năm 1951, người leo núi có tên là Eric Shipton đã chụp được ảnh của một dấu chân khổng lồ trên dãy núi Himalaya. Vào năm 1967, Roger Patterson và Robert Gimlin đã quay được một đoạn phim về cái mà họ nói là Bigfoot.    Nhà nhân chủng học Grover Krantz đã xem xét kỹ đoạn phim của Patterson và Gimlin và kết luận rằng đó là một đoạn phim chân chính về một sinh vật hai chân rất to lớn chưa được biết đến. Tuy nhiên, do thiếu các bằng chứng vật lý đủ mạnh về Bigfoot, khoa học truyền thống vẫn không chấp nhận sự tồn tại của nó. Nhưng hiện tượng chưa thể giải thích này vẫn tiếp tục tồn tại vì vẫn có những báo cáo về việc nhìn thấy chúng ở trên toàn thế giới.   10. Tiếng kêu rền (The Hum) Hiện tượng tiếng ồn kêu rền liên tục có tần số thấp đã được báo cáo ở nhiều nơi trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, Anh, và Bắc Âu. Âm thanh này không phải tất cả mọi người đều có thể nghe thấy.   Đối với những người có thể nhận thức được nó, âm thanh này thường được mô tả như tiếng kêu ầm ầm của một động cơ diesel ở xa. Nó đã làm cho một số người cực kỳ khó chịu, với những hiệu ứng phụ có hại cho thân thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ.   Các cơ quan chính phủ trên toàn thế giới đã điều tra về nguồn gốc của những tiếng kêu rền này. Tuy nhiên, các kết quả cuối cùng chỉ ra nguồn gốc của những tiếng ồn đó đều mang tính lảng tránh, và hiện tượng chưa thể giải thích này vẫn còn là một điều bí ẩn.        
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 bí ẩn khoa học chưa thể chạm tới (phần 2)

Xem tuổi mua xe –

Đứng trên quan niệm về Phong Thủy, khi chọn màu cho xe theo phong thủy chúng ta phải chắc chắn rằng màu này không xung khắc với màu Ngũ hành tương ứng với tuổi của mình. Ví dụ, một thanh niên tuổi Ngọ mạng Hỏa, không nên chọn xe màu đỏ vì màu này làm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tăng thêm tính Hỏa của người ấy.

Một chiếc xe màu xanh đậm hoặc đen sẽ làm dịu bớt Hỏa, và Kim – màu trắng hay xám – thì thích hợp hơn, và an toàn hơn, vì làm Hỏa suy yếu đi. Mặt khác nếu người lái xe nào dễ bị mất tập trung và là người tuổi Hợi mạng Thủy thì nên chọn màu xe thuộc hành Mộc (màu xanh lá). Màu thuộc hành Kim (trắng hoặc bạc) cũng có tác dụng hỗ trợ những người này. Tuy vậy, việc chọn màu sắc hợp phong thủy cho xe cũng tùy thuộc vào sở thích của chủ xe.

Nếu chọn được màu xe hợp mạng, tuổi, nhưng chủ xe lại không thích màu đó, thì điều đó cũng không tạo nên luồng khí giao hòa tốt đẹp giữa chủ xe và chiếc xe. Nên cân nhắc kĩ về vấn đề này.

phong-thuy

Nhiều người cho rằng, việc chọn màu xe phù hợp với tuổi sẽ khiến chiếc xe gặp ít trục trặc hơn và người sở hữu sẽ cảm thấy may mắn, an toàn hơn khi tham gia giao thông.

Đã từ lâu việc cưới hỏi, xây nhà, sơn nhà hay mua sắm đồ đạc dựa vào ngũ hành trở thành một việc quen thuộc. Về mặt tâm linh, những màu sắc hợp với mệnh của chủ nhân sẽ khiến bạn cảm thấy may mắn hơn, tự tin hơn và có tâm lý thoải mái hơn.

Dưới đây là những kiến thức cơ bản về ngũ hành và màu sắc, xem tuổi mua xe cũng những kinh nghiệm chọn màu xe hợp với mệnh của bạn.

Nội dung

  • 1 Ngũ hành
  • 2 Ngũ hành và màu sắc
  • 3 Chọn màu xe theo ngũ hành
  • 4 Kinh nghiệm chọn màu xe
    • 4.1 Mệnh Hỏa gồm có các tuổi
    • 4.2 Mệnh Thổ gồm có các tuổi
    • 4.3 Mệnh Kim gồm có các tuổi
    • 4.4 Mệnh Thủy gồm có các tuổi
    • 4.5 Mạng Mộc gồm có các tuổi

Ngũ hành

Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tồn tại theo quy luật tương sinh và tương khắc. Quy luật của Ngũ hành hoàn toàn phù hợp với quy luật của tự nhiên, vì vậy từ khi được biết đến, Ngũ hành luôn thể hiện một sự chính xác cho những người tin vào. Mỗi người sinh ra đều có mệnh của mình theo quy luật xoay vòng của Ngũ hành 2 năm 1 lần, qua đó ứng với quy luật tương sinh tương khắc với mệnh khác.

Trong ngũ hành, tương sinh là vòng tròn phía ngoài, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và Thủy sinh Mộc. Ứng với tự nhiên là cây khô dễ cháy sinh lửa – lửa đốt mọi vật ra tro, thành đất – đất tạo nên quặng trở thành kim loại – kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng như nước – nước nuôi cây lớn. Vòng tròn tương sinh cũng ứng với sự hỗ trợ, làm tốt lên, tạo sự may mắn, yên ổn.

Tương khắc là những đường bên trong vòng tròn tương sinh, tạo thành hình ngôi sao 5 cánh. Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ và Thổ khắc Thủy. Ứng với tự nhiên là nước dập tắt lửa, lửa làm chảy kim loại, kim loại cắt được cây, cây hút chất màu của đất, đất ngăn nước chảy. Tương khắc ngược lại với tương sinh, tức là có thể sẽ gây là những điều không tốt, đối lập.

Ngũ hành và màu sắc

Bảng màu cũng có sự chuyển động tương ứng như ngũ hành, và bảng màu cũng rất phù hợp với quy luật của tự nhiên.

Theo đó, Mộc ứng với màu xanh lá cây; Hỏa ứng với màu đỏ, hồng, da cam; Thổ ứng với màu nâu, vàng đậm; Kim ứng với màu vàng sáng, bạc, trắng; Thủy ứng với màu xanh nước biển, đen, tím.

Chọn màu xe theo ngũ hành

Theo ngũ hành tương sinh tương khắc, có nghĩa là việc chọn màu cũng nên chọn theo quy luật tương sinh tương khắc với chủ nhân.

Chọn màu tương sinh với mệnh sẽ khiến bạn cảm thấy tự tin, may mắn, thoải mái thanh thản. Bản thân màu tương sinh cũng khiến bạn cảm thấy rất phù hợp.

Chọn màu mà mệnh của bạn tương sinh cũng hợp lý, khiến chiếc xe bền hơn và hợp với chủ nhân.

Bạn có thể chọn màu cùng mệnh, nhưng đừng quá lạm dụng. Màu cũng mệnh sẽ khiến bạn yên ổn và an toàn nhưng nếu nhiều màu cùng mệnh quá sẽ sinh ra dư thừa, phản tác dụng.

Cần tránh những màu tương khắc với mệnh của bạn. Những màu tương khắc sẽ khiến sức khỏe của bạn bị ảnh hưởng, tâm trí bất định, mất tập trung, hay bực bội nóng giận, dễ gặp tai nạn hơn nếu lái xe, có thể bị thương tật.

Bạn cũng không nên lạm dụng những màu mà mệnh của bạn khắc, hay còn gọi là khắc xuất. Những màu ấy tuy không ảnh hưởng đến bạn nhưng sẽ khiến chiếc xe của bạn không ổn định, hay hỏng hóc khó sửa chữa và khó giữ chiếc xe lâu dài.

chon-mau-xe-theo-phong-thuy

Kinh nghiệm chọn màu xe

Người mệnh Hỏa nên chọn xe màu xanh lá cây. Có thể chọn xe màu da cam, đỏ, hồng cùng mệnh. Nếu bạn cảm thấy một chiếc xe màu xanh lá cây đôi khi quá nổi bật và không phù hợp, hãy chọn các màu như nâu, vàng đậm, trắng, bạc, vàng sáng. Cần tránh xe màu xanh nước biển, đen.

Mệnh Hỏa gồm có các tuổi

Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935
Mậu Tý 1948 & Kỷ Sửu 1949
Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957
Giáp Thìn  1964 & Ất Tỵ 1965
Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979
Bính Dần  1986 & Đinh Mão 1987.

Xanh lá cây rất hợp với người mệnh Hỏa.

Người mệnh Thổ nên chọn xe màu đỏ, da cam, hồng. Có thể chọn màu nâu, vàng đậm, vàng nhạt, bạc, trắng. Nên tránh màu xanh lá cây và nhớ đừng lạm dụng màu xanh da trời, đen.

Mệnh Thổ gồm có các tuổi

Mậu Dần 1938 & Kỷ Mão 1939
Bính Tuất 1946 & Đinh Hợi 1947
Canh Tý 1960 & Tân Sửu 1961
Mậu Thân 1968 & Kỷ Dậu 1969
Bính Thìn 1976 & Đinh Tỵ 1977
Canh Ngọ 1990 & Tân Mùi 1991

Màu đỏ hợp với người mệnh Thổ

Người mệnh Kim nên chọn xe màu nâu, vàng đậm. Bạn cũng có thể mua xe màu trắng, vàng nhạt, xanh nước biển. Cần cân nhắc khi mua xe màu xanh lá cây và thận trọng với màu đỏ, da cam, hồng.

Mệnh Kim gồm có các tuổi

Nhâm Thân 1932 & Quý Dậu 1933
Canh Thìn 1940 & Tân Tỵ 1941
Giáp Ngọ 1954 & Ất Mùi 1955
Nhâm Dần 1962 & Quý Mão 1963
Canh Tuất 1970 & Tân Hợi 1971
Giáp Tý 1984 & Ất Sửu 1985

Màu nâu lại phù hợp với người mệnh Kim

Người mệnh Thủy nên chọn xe màu trắng, vàng nhạt. Có thể sử dụng màu cùng mệnh như xanh nước biển, đen hay màu xanh lá cây. Bạn cần tránh những màu như nâu, vàng sẫm. Màu đỏ, da cam là màu khắc xuất cũng nên thận trọng khi lựa chọn.

Mệnh Thủy gồm có các tuổi

Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937;
Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945;
Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953;
Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967;
Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975;
Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983.

Người mệnh Thủy nên chọn xe màu trắng.

Người mệnh Mộc nên sử dụng xe có màu xanh nước biển, đen, tím. Có thể sử dụng màu xanh lá cây, nâu, đỏ, hồng, da cam và cần tránh các màu kim như bạc, trắng, vàng ánh kim.

Mạng Mộc gồm có các tuổi

Nhâm Ngọ 1942 & Quý Mùi 1943;
Canh Dần 1950 & Tân Mão 1951;
Mậu Tuất 1958 & Kỷ Hợi 1959;
Nhâm Tý 1972 & Quý Sửu 1973;
Canh Thân 1980 & Tân Dậu 1981;
Mậu Thìn 1988 & Kỷ Tỵ 1989.

Và người mệnh Mộc hợp với xe màu xanh nước biển, đen.

Nhìn chung, nên rất trận trọng khi sử dụng các màu tương khắc với mệnh của bạn để có thể an tâm khi sử dụng xe. Dù sao, quan trọng hơn vẫn là việc tập trung khi lái xe, không sử dụng rượu bia và lái xe đúng luật, còn nếu không thì dù có sử dụng xe có màu phù hợp đến mấy bạn cũng phải nhận những hậu quả đáng tiếc.

Bạn có thể xem ngày tốt mua xe sau khi đã chọn được xe ưng ý hoặc xem biển số xe hợp tuổi bạn không tại Xem Tướng Chấm Net.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi mua xe –

Đặc điểm của Đầu quyết định tướng mệnh

Đầu là bộ vị quan trọng nhất, là chủ tể của toàn bộ thân thể. Xương đầu quan trọng phải đầy đặn, nổi cao lộ rõ. Xem đầu có thể biết nhiều hơn...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu là bộ vị quan trọng nhất, là chủ tể của toàn bộ thân thể. Xương đầu quan trọng phải đầy đặn, nổi cao lộ rõ. Người có trán ngắn thì da nên dày dặn, nếu trán dài hình trán nên vuông. Nếu người có đỉnh trán lộ rõ là mệnh cao quý. Nếu trán thấp lõm là mệnh đoản thọ.

dau-tuong-phu-quy

Đầu nên đầy đặn cao rộng, nổi cao lộ rõ

Nếu da trán mỏng chủ là người bần tiện. Nếu đỉnh đầu lệch bên phải, người đó sẽ khắc hại mẹ mà đỉnh đầu lệch bên trái sẽ khắc hại cha. Nếu trước sau tai có lộ xương, xương đó gọi là thọ cốt, nếu thọ cốt nổi cao người đó sẽ trường thọ, nếu thọ cốt thấp lõm người đó chủ yểu vong.

Nếu trên huyệt thái dương có xương gọi là xương phù tang, trên tai có xương gọi là xương ngọc lâu, người như thế chủ phú quý. Người có mép tóc thấp, người đó trời sinh ra vốn ngu đần, lại đoản mệnh.

Nếu mép tóc rất cao, người như thế tài giỏi, lại được trường thọ. Nếu tóc ở sau gáy cao, người đó có tính tình quái dị. Người có đầu nhỏ, tóc lại rất dài thường sẽ phải tha hương kiếm sống. Nếu tóc vàng mà khô, người đó không bần tiện thì vận mệnh cũng chẳng thể dài lâu. Người tóc có sắc đỏ hoặc trắng, chủ bần cùng, cô quả.

Xương đỉnh đầu và xương mũi nối liền nhau, con cháu nhiều phúc

Người có đỉnh đầu vuông tròn, trán bằng đầy thường được phú quý. Nếu đỉnh đầu có xương lộ ra nối với xương mũi, người có hình tướng như thế là mệnh quý hiển, được bái tướng mà con cháu sau này cũng không chịu cảnh nghèo hèn.

Nếu có xương ngọc chẩm, đó chẳng thể nào là người hạ tiện. Nếu đầu tựa đầu thỏ, tính cách người đó ngông cuồng, khinh bạc. Nếu từ khi còn nhỏ đã có lông trắng, chủ người này gặp nhiều tai họa. Nếu hai bên tóc mai mỏng thưa, tính cách người này đa phần không tốt. Nếu từ giữa giữa đỉnh đầu hướng xuống thấp, đó là tướng hiền nhân. Nếu nữ có đầu dài, tóc lộ sắc xanh, người đó có thể được gả vào nhà quý nhân.

Tóc đen mà nhỏ, vinh hoa phú quý

Nếu tóc người xanh đen nhỏ dài, đó là hình tướng vinh hoa cao quý. Nữ có tướng này chủ có thể trở thành phi tử. Người con trai có tướng này có thể làm đại quan trong triều đình.

Nếu tóc mai hai bên thưa mỏng chủ thích hại người khác. Nếu khi còn nhỏ đã có tóc trắng, người đó sẽ khắc hại đến cha mẹ. Nếu trán rủ xuống hình tròn, trên mặt lại có điểm rủ thấp xuống cổ, người như thế tính cách phong lưu đa tình, thậm chí dẫn đến hại vợ.

Tướng xương có thể quyết định chức quan.

Ba xương đều có hình tròn thì gọi là Tam tài chẩm, chủ về được phong làm quan Sử.

Ba góc đều có xương nhô lên mà ở giữa cũng nhô lên thì gọi là Ngũ nhạc chẩm, chủ về được phong hầu.

Có 2 xương nhọn nhô lên gọi là Song long cốt chẩm, chủ về được phong làm tiết khu tướng quân.

Bốn bên cao, ở giữa thấp gọi là Xa trục chẩm, chủ về được phong làm công hầu.

Có 3 xương, có một xương dựng thẳng gọi là Liên quang chẩm, người có tướng xương này thì tốì thiểu cũng làm quan nhị thiên thạch, nhiều thì sẽ thành tướng quân đảm nhận trọng trách trong triều đình.

Có 1 xương cong vòng lên trên là Yên nguyệt chẩm, chủ về đường quan lộ hanh thông.

Có 1 xương cong vòng xuống dưói được gọi là Tương bội chẩm, chủ về làm chức quan nhỏ.

Có 1 xương ở trên, 2 xương xếp ở dưới gọi là Tam tinh chẩm, chủ về đảm nhiệm chức quan lưỡng phó chế.

Xương ở bốn xung quanh đều nhô lên và có một góc xương gọi là Sùng phương chẩm, chủ về làm chức nhị thiên thạch, lớn hơn thì là tuần đài.

Có một xương nhô lên mà tròn gọi là Viên nguyệt chẩm, chủ về có thể làm chức vị thanh nhàn ở điện quán.

Nếu là bên trên hình vuông, dưới hình tròn thì gọi là Thùy lộ chẩm, chủ về được phong là viên ngoại lang.

Trên và dưới đều tròn và có góc cạnh giống như chiếc đĩa thì là Ngọc tôn chẩm, chủ về làm khanh tướng, ít nhất cũng làm thích sứ. Xương chẩm giống 2 hình mặt trăng cong quay lưng vào nhau thì là Bội nguyệt chẩm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm của Đầu quyết định tướng mệnh

Chàng trai tuổi nào sẽ khiến bạn hạnh phúc? –

Các cô gái đang thắc mắc trong 12 con giáp anh chàng tuổi nào khiến bạn hạnh phúc? Trước tiên phải kể đến người tuổi Tý, tiếp đó là tuổi Mùi, Sửu, Hợi và... Củ thể ra sao chúng ta cùng đọc bài viết sau. Những con giáp sẽ khiến bạn hạnh phúc Thứ 1: Tu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các cô gái đang thắc mắc trong 12 con giáp anh chàng tuổi nào khiến bạn hạnh phúc? Trước tiên phải kể đến người tuổi Tý, tiếp đó là tuổi Mùi, Sửu, Hợi và… Củ thể ra sao chúng ta cùng đọc bài viết sau.

Nội dung

  • 1 Những con giáp sẽ khiến bạn hạnh phúc
    • 1.1 Thứ 1: Tuổi Tý
    • 1.2 Thứ 2: Tuổi Mùi
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Sửu
    • 1.4 Thứ 4: Tuổi Hợi
    • 1.5 Thứ 5: Tuổi Dần

Những con giáp sẽ khiến bạn hạnh phúc

Thứ 1: Tuổi Tý

Những chàng trai tuổi Tý có tính cách hòa đồng, điềm đạm và dễ chia sẻ. Ngoài ra, họ còn có tấm lòng bao dung, rộng lượng với mọi người xung quanh, đặc biệt là người mình yêu quý. Do vậy, họ để lại ấn tượng vô cùng tốt đẹp trong lòng mọi người.

ty-7256-1402357273

Hơn thế, người tuổi Tý có kỹ năng sống khéo léo và ý thức tiết kiệm cao độ nên thường trong trạng thái chủ động về chuyện tiền bạc, hiếm khi rơi vào tình trạng “tiền khô cháy túi”.

Về phương diện tình cảm, các chàng trai tuổi này yêu một cách chân thành, đắm say và trân trọng từng khoảnh khắc của tình yêu. Bởi vậy, con giáp này xứng đáng là đối tượng để phái đẹp chọn làm người yêu nhất.

Thứ 2: Tuổi Mùi

Anh chàng tuổi Mùi trọng lễ nghi, có lòng hiếu thảo tuyệt vời, đồng thời tính tình ôn hòa, dễ mến. Trong mắt mọi người, chàng trai tuổi này như một cậu bé hồn nhiên, giản đơn và có lòng thương người vô bờ bến.

mui-1696-1402357273

Nhưng khi tiếp cận sâu hơn về thế giới nội tâm của họ, mọi người lại thấy đây là một con giáp vô cùng bản lĩnh nhưng thích sự lãng mạn nhẹ nhàng. Họ sẽ trở thành một người chồng, người cha tốt trong tương lai. Cô gái nào có được anh chàng tuổi Mùi làm người yêu, hẳn sẽ rất hạnh phúc và hài lòng.

Thứ 3: Tuổi Sửu

Nói tới người tuổi Sửu, ấn tượng đầu tiên mà mọi người thường nhắc tới là sự chất phác, thật thà, tinh thần trách nhiệm cao. Trong công việc, họ luôn cần mẫn và nỗ lực không ngừng, nên dành được nhiều tình cảm ưu ái của đồng nghiệp và cấp trên.

suu-6472-1402357273

Trong tình yêu, dù không chủ động nhưng những chàng trai tuổi Sửu lại âm thầm quan sát, chăm sóc và bảo vệ người mình yêu thương. Họ sẽ là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người yêu hoặc vợ tương lai.

Thứ 4: Tuổi Hợi

Tính tình ngay thẳng, cương trực và điềm tĩnh trong mọi tình huống giúp người tuổi Hợi đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. Đối diện với khó khăn, thách thức, họ không chút than vãn, kể khổ mà điềm đạm xử lý mọi chuyện một cách êm thấm và chu toàn.

hoi-3374-1402357273

Trong cuộc sống, chàng trai tuổi Hợi có rất nhiều bạn tốt, những người bạn này sẵn sàng đưa tay giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Có được điều đó cũng là do sự hài hòa và tốt bụng trong bản chất con người họ.

Đối với người mình yêu, các anh chàng tuổi Hợi luôn biết cách trân trọng, tạo sự lãng mạn bất ngờ và dành tình yêu trọn vẹn. Ở bên cạnh họ, bạn sẽ có cảm giác an toàn và tin cậy. Họ xứng đáng làm người yêu trọn đời của bạn đó nha.

Thứ 5: Tuổi Dần

Bản tính dũng cảm, thẳng thắn, tự tin và ngoan cường đối đầu với thách thức dường như đã ăn sâu vào con người tuổi Dần. Trong cuộc sống hay phương diện tình cảm, họ luôn nhất quán, nói được là làm được, không mấy khi thay đổi quan điểm hay lời hứa của mình. Một khi đã hứa, họ sẽ thực hiện cho bằng được mới chịu dừng lại.

dan-6210-1402357273

Một cô gái nhu mì, hiền thục và chân thành sẽ là sự kết hợp ăn ý với chàng trai tuổi Dần. Họ sẽ là cặp đôi hoàn hảo xây dựng hạnh phúc gia đình lâu bền, đúng như câu nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chàng trai tuổi nào sẽ khiến bạn hạnh phúc? –

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông. Nàng thu dịu dàng vội vã qua đi nhường chỗ cho mùa đông bâng khuâng. Hãy tham khảo những bài viết sau nhé!
Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông. Nàng thu dịu dàng vội vã qua đi nhường chỗ cho mùa đông bâng khuâng – xao xuyến với bao kỷ niệm, chờ đợi, lạnh lẽo, yêu thương. Mùa đông chính là khơi nguồn cảm xúc cho các tác giả tên tuổi sáng tác những bài thơ, bài ca, những câu nói hay và ý nghĩa nhất về mùa đông.

Mùa đông lạnh giá mang đến cho con người những dòng cảm xúc khác nhau, hòa quyện đan xen vào nhau như những cảm giác khác lạ từ thiên nhiêu, đất trời.

Nhưng trong mùa đông đấy, những câu nói hay về mùa đông ấy, lại có những dòng cảm xúc ấm áp, chan chứa yêu thương, nhưng cũng có thể đó lại là lạnh lẽo cô đơn của một trái tim đơn độc, cần được sưởi ấm.

Hãy cùng xemboituong.com và các tác giả cùng đọc và khám phá những câu nói, vần thơ hay nhất về mùa đông thân thương cách bạn nhé !!!

Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Người ta vẫn thường nói rằng, mùa xuân là mùa của sự bắt đầu, mùa của cây cối đâm trồi nảy lộc. Nhưng với tác giả “Nguyễn Cúc” mùa nào cũng là mà của sự bắt đầu những mầm sống mới, mùa của yêu thương. Những ý thơ đặc sắc mà ý nghĩa, những câu nói hay nhất về mùa đông với ý niệm mùa của sự bắt đầu được tác giả khắc họa chân thực và sống động qua bài thơ “Sinh nhật mùa đông”

SINH NHẬT MÙA ĐÔNG

Tác giả: Nguyễn Cúc

Mùa đông băng giá ấy
Một cô bé ra đời
Cất tiếng khóc không vơi
Khi trời đêm gần sáng

Mùa đông năm nay lạnh
Cô bé lớn bổng rồi
Sinh nhật tới buồn vui
Cô cũng không biết nữa

Ngày ngày cô đi lựa
Những bông Cúc , Hồng tươi
Khoe sắc dưới nắng trời
Cắm vô bình , nghĩ ngợi !

Cô nhớ vài năm trước
Hân hoan sinh nhật hồng
Có bạn bè vui chúc
Ấm nồng giá lạnh đông

Năm nay chắc mình cô
Trong căn phòng lạnh giá
Ngắm hoa vàng đất lạ
Ôn kỷ niệm thiếu thời

Có lẽ để đông trôi
Cho thời gian đi mãi
Để sinh nhật này tới
Cô đón… một mình thôi

12 tháng chạp đầy những nhớ nhung và lưu luyến, cùng bao nỗi niềm chưa thể bày tỏ hết của chàng trai khi tiễn đưa cô gái ra về. Tình yêu có thể làm xóa nhòa đi tất cả, làm cho trái tim bao lâu nay lạnh lẽo cô đơn, bỗng chốt trở nên ấm áp, say đắm lạ thường. Và những câu thơ, những câu nói hay về mùa đông trong bài thơ “Đưa em về trong đêm mùa đông” chính là một minh chứng cho mối tình của 2 người.

ĐƯA EM VỀ TRONG ĐÊM MÙA ĐÔNG

Tác giả: Khiếu Long

Đưa em về trong đêm mùa đông
Trái tim tôi như có như không
Đêm cuối cùng khung trời băng giá

Cơn gió nào buồn đến mênh mông

Đưa em về mai mình cách xa
Nụ cười em còn đó hôm qua
Tay trong tay hồn tôi lạnh giá
Tình còn không hay chỉ xót xa

Đưa em về thời gian qua mau
Từng vết thương dày xéo niềm đau
Dù con tim nhiều lần ứa máu
Xin một lần được gọi tên nhau

Đưa em về tháng chạp sầu vương
Con đường dài đọan nhớ đoạn thương
Lời kinh đêm trong đêm mừng chúa
Mắt dâng sầu đẫm ướt mù sương

MÙA ĐÔNG Ở TRONG LÒNG

Tác giả: Độc Cô Cầu Tình

Tôi giữ mùa đông ở trong lòng
Để Tình tôi lạnh với mùa đông
Để Hồn tôi chết cùng năm tháng
Và để Tim tôi buốt máu hồng.

Tôi giữ mùa đông mãi muôn đời
Để Tình tôi chết với chơi vơi,
Để Hồn tôi hóa, thành băng đá
Đá Lạnh cô đơn mã trên đời.

HUYỀN THOẠI MÙA ĐÔNG

Tác giả: Trịnh Bửu Hoài

Em giấu mùa đông trong áo lụa
Nhặt chiếc lá vàng sang tặng tôi
Hình như trời chớm qua kỳ rét
Chiếc lá hồn nhiên ấm một người.

Tôi giấu mùa đông trong nỗi nhớ
Bài thơ tháng chạp tặng riêng em
Thì ra trời vẫn còn hương bấc
Thơ tôi hóa lá rụng bên thềm.

Tôi về gom gió mùa đông lại
Gởi em màu nắng nhạt bên sông
Lẽ đâu trời vẫn chưa thay áo
Vườn em sương trắng xuống mênh mông.

Em gom hết lá nơi thềm cũ
Nhặt cả vần thơ ai đánh rơi
Ngọn lửa nhà em sao ấm quá
Cho tôi hóa đá ở bên trời…

Cứ mỗi đông về, tôi lại chợt nhớ người xưa, những giọt nước như muốn đóng thành những giọt băng tuyết cô đơn, chôn chặt mối tình dang dở. Người đến rồi lại ra đi bỏ lại hàng thông giày lặng im buồn sướt mướt. Bài thơ “Mùa đông nhớ người” là những dòng cảm xúc của tác giả khi nhớ về người xưa, những câu nói hay về mùa đông

MÙA ĐÔNG NHỚ NGƯỜI

Từ chia ly, bỏ quên lời hẹn ước
Mùa thu sầu nên cũng vội ra đi
Và mùa đông hình như thêm rét mướt
Đời chợt buồn, rơi rớt giọt sầu bi

Dưới nắng đông tuyết rơi, tan thành nước
Thấm thịt da, lạnh, ướt của mùa đông
Cơn gió luồng ngang, nghe lòng ươn ướt
Lạnh từ ngoài thêm giá buốt bên trong

Hàng thông già lặng im buồn sướt mướt
Nhìn giọt băng trĩu nặng lá thông gầy
Mùa đông đơn côi, mùa đông đếm bước
Chầm chậm ngang đời, buồn rớt đầy tay

Mỗi đông về, chuyện xưa như giọt nước
Đọng thành băng bám chặt trái tim côi
Từng ngày buồn, đông qua theo đông trước
Bỏ lại rong rêu, vết tích của đời .

MÙA ĐÔNG ĐANG ĐẾN

Tác giả: Nguyên Hữu

Thấy không em?
Mùa đông đang đến
Mây lặng lẽ
Rũ mình
Chắc ngủ
Nằm im
Trên trời xám âm u…
Vi vu triền đê
Heo may tìm về
Nô lá cỏ
Tắm giọt nắng phơi
Dòng sông ơi
Hiền từ trôi chảy mãi
Đám bèo đời
Buông lời cãi lộn
Thu hay đông?
Lạnh sống dậy rồi
Co ro nhỉ?
Trúc, tre trơ đốt
Chở che ai người…
Em…
Anh choàng tấm chăn vui
Sống đôi
Đông ơi
Ở ngoài đó ngậm ngùi…

Cuộc sống nhộn nhịp tươi vui của con người trong bối cảnh mùa đông bao trùm qua những câu nói hay nhất về mùa đông của tác giả Đỗ Ngọc:

BUỔI CHỢ MÙA ĐÔNG

Tác giả: Đỗ Ngọc

Em trở về sau buổi chợ mùa đông
Những dự định bán mua tan biến
Bỗng thấy mình nhỏ bé hệt con sâu cái kiến
Đời thì vô cùng cái gọi lớn lao

Buổi chợ mùa đông từng cơn gió xác xao
Đánh thức giấc ngủ vùi ba trăm sáu nhăm ngày biếng nhác
Trở mình là đã bao điều đổi khác
Cái lạnh mười hai thoáng bối rối gọi mùa

Bánh xe thời gian lăn qua dấu yêu xưa
Đôi trai gái thầm trao nhau lời nhớ
Đêm khúc khích đánh rơi trên phố
Khẽ tiếng cười nửa lạ – nửa quen !

Phiên chợ mùa đông em đã dự bao phen
Lần một lần hai có thể trăm lần nữa
Đôi ba cuộc tình loé lên rồi tắt lửa
Gieo vào đông chớm lạnh nhói lòng

Em trở về sau buổi chợ mùa đông
Chật chội tâm tư giờ đã là khoảng trống

Có ai còn nhớ, ngày Noel năm ấy, tiến chuông reo vang, lời thánh ca vang vẳng đâu đây và cả góc phố xưa buồn. Những kỷ niêm đó chợt ùa về, cảnh đó nhưng người xưa đâu? Chẳng còn kẻ đón người đưa, chẳng còn bàn tay ấy, mái tóc mềm, chiếc áo thân thương, … Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những dòng thương nhớ, kỷ niệm, những câu nói hay về mùa đông qua bài thơ “Mùa đông kỷ niệm”

MÙA ĐÔNG KỶ NIỆM

Tác giả: Lưu Vĩnh Hạ

Chừng như lạnh giá hồn tôi
Tiếng chuông còn đó trong lời thánh ca
Đêm huyền thoại của ngày xa
Nghe thời gian có nhớ qua cõi lòng

Gió khuya lạnh của mùa đông
Đêm No-el nhớ con đường ngày xưa
Sài-Gòn chợt nắng chợt mưa
Mái nhà gió bạt phên thưa phố buồn

Xoay trong ký ức mùa đông
Nhạt màu áo tím môi hồng người xưa
Bây giờ ai kẻ đón đưa
Tiếng chuông xa đổ lạnh chưa hỡi lòng

Hoa sầu đông rụng mùa đông
Đẫm sương cái bóng về không cuối ngày
Se lòng lạnh cả bàn tay
Nghe thương nhớ quá bờ vai tóc mềm

Kéo cao cổ áo mà thèm
Ngày xưa quán vắng về đêm vỉa hè
Bàn tay ai vuốt tóc thề
Bài ca thánh đó chợt nghe thoáng buồn

Gió se mấy ngọn sầu đông
Chúa trên thánh giá xót thương kiếp người
Tiếng chuông máng cỏ nhẹ rơi
Bài thánh ca đó rót lời nhân gian

Nhớ anh, nhớ mùa đông ấy, nhớ vòng tay, nhớ nụ hôn, nhớ bao kỷ niêm, nhớ cả bầu trời mùa đông tràn ngập yêu thương. Tác giá Miên Thụy đã mang đến cho chúng ta những câu thơ hay nhất về mùa đông, diễn tả tâm trạng nhớ nhung của mình khi mùa đông về.

MÙA ĐÔNG NỖI NHỚ

Tác giả: Miên Thụy

Mùa đông hiu hắt nhớ người
Bài ca ngày đó xa xôi
Em hát lời như tuyết đổ
Mùa đông ngày ấy anh ơi

Mùa đông làm em nhớ quá
Thèm vòng tay nụ hôn đầy
Nhớ nhau chiều đông tàn tạ
Lời nào cuối nẻo chân mây

Tuyết rơi! rơi ngập hồn em
Làm sao anh ơi nhớ quên
Mùa đông ru tình xanh biếc
Mùa đông mùa đông gọi tên

Ngủ vùi bên tình mùa đông
Như xưa ân ái mặn nồng
Yêu anh yêu anh mùa đông
Tình anh, tình anh mênh mông

Mùa đông còn đó nỗi buồn
Tuyết rơi trắng cả mười phương
Anh có còn bên em nữa ? !
Để em môi mắt dỗi hờn ….

Em ghét mùa đông, chẳng còn người xưa, chẳng còn hơi ấm, một mùa đông trở nên hoang lạnh, cô đơn hơn bao giờ hết. Trái tim em giờ thêm băng giá rồi chợt mong nhớ bao kỷ niệm chốn xưa. Em ghét mùa đông! Hãy cùng chia sẻ nỗi tâm tư của tác giả Trương Phương Linh qua bài thơ “Tự khúc mùa đông” qua những câu thơ, nhưng câu nói hay nhất về mùa đông các bạn nhé !!!

TỰ KHÚC MÙA ĐÔNG

Tác giả: Trương Phương Linh

Em ghét mùa đông…
Để tình mình băng giá
Cho nhớ nhung lạnh lắm những đoạ đày
Mộng hao gầy chiều tím nhuộm chân mây
Mà tim mãi vấn vương mùa trăng cũ

Em ghét mùa đông
Khi thu còn chưa đủ…
Thơm ngọt bờ môi…quên vội hẹn thề
Người phương nào nồng ấm giấc phu thê
Đêm trở gió, xót xa từng kỷ niệm…?

Em ghét mùa đông…
Giấc mơ nào… Người đành lòng tẩm liệm
Để thời gian mờ xoá tiếng yêu đầu
Vết tình sầu còn đọng lại niềm đau
Cho ngày tháng đời buồn như lá cỏ

Em ghét mùa đông…
Dẫu SaiGon, vẫn hai mùa…thế đó!
Nắng nồng say, mưa…ẩm ướt những con đường
Có chiếc lá nào…va vướng sợi thương
Vừa rơi xuống…hồn lạc loài tiếc nuối!

Niệm khúc riêng…dành cho lần yêu cuối
Tình xa rồi…hoang lạnh một mùa đông.

MÙA ĐÔNG VÀ EM

Tác giả: Kelangdu

Gió ùa về một mùa đông ngập phố
Chút mùa thu xếp lại nơi cúc vàng
Kí ức ấy lăn vào miền xa vắng
Đợi mấy mùa sao bỗng thấy… mênh mang

Anh thương lắm mỗi lúc đông sang
Gửi nỗi nhớ bay về miền giá lạnh
Đông góp gió để hồn thêm hiu quạnh
Cho mắt buồn ngơ ngác trước mùa đông

Chợt hỏi lòng ta có nhớ người không?
Để trước chiều lạc rơi nỗi nhớ
Cơn gió xô ngang giữ trong nhau hơi thở
Cho riêng anh một nỗi đợi chờ

Thành phố trở mình khoác áo mùa đông
Thoáng rùng mình… Em bây giờ có rét
Căn phòng ấm…giữa mùa đông chết
Đợi em về… đan nắng cho nhau


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay nhất về mùa đông

Chùa Túy Vân - Huế

Chùa Túy Vân lọt thỏm giữa núi và sóng nước, khung cảnh như càng u tịch. Vào chùa vào những ngày oi nồng mà vẫn có cảm giác mát lạnh
Chùa Túy Vân - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Túy Vân hay còn gọi là chùa Thánh Duyên. Chùa nằm cách thành phố Huế chừng 40km về phía Đông, dừng chân ở đoạn cuối xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc bạn sẽ thấy một ngọn núi nhỏ đứng sừng sững giữa bốn bề sóng nước của phá Tam Giang và biển Đông. Đó chính là núi Túy Vân, trên đỉnh núi là ngôi chùa Tháp có lịch sử hàng trăm năm tuổi.

Tuý Vân là một ngọn núi nhỏ gần cửa Tư Hiền, nổi lên giữa một hòn đảo xanh, hùng vĩ, ngày xưa có tên gọi là Mỹ Am Sơn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) trong một lần đi qua đây, thấy phong cảnh thơ mộng, hữu tình, bèn lập một ngôi chùa nhỏ làm nơi cầu phúc cho dân địa phương. Đến đời vua Minh Mạng, chùa được xây dựng lại và đổi tên là chùa Tuý Ba. Năm vua Minh Mạng thứ 17 (1837), chùa được trùng tu và xây dựng thêm lầu.

Đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), chùa được tiếp tục trùng tu và đổi tên là chùa Tuý Vân. Vua Thiệu Trị liệt Tuý Vân vào thắng cảnh của đất thần trong bài thơ “Vân Sơn thắng tích” và cho khắc bia đá dựng bên chùa đặt tên “Linh Thái, Tuý Vân hệ nhị quốc gia chi thắng cảnh” (Linh Thái, Tuý Vân đều là thắng cảnh của quốc gia).

Trải qua thời gian, chùa Túy Vân đã xuống cấp, điêu tàn đổ nát nhưng vẫn giữ được nét cổ kính của một ngôi chùa có lịch sử hàng trăm năm. Đây là ngôi chùa có phong cảnh độc nhất vô nhị trong các chùa tại Huế với hàng trăm gốc cây cổ thụ, bao quanh chùa là hệ thống rừng nguyên sinh với những gốc cây có đường kính hai ba người ôm không xuể, dây leo chằng chịt.

, giữa hoa và tiếng chim muông như đang lạc vào khu rừng nguyên sinh.

Con đường nhỏ hàng trăm bậc thang dẫn bước lạc giữa hàng cây cổ thụ, lá rừng trút giữa lối đi khiến người viếng chùa có cảm giác khác hẳn với những ngôi chùa khác.

Thú vị nhất là được leo lên đỉnh ngọn tháp ba tầng gọi là Điếu Tháp Ngư, từ đây đưa tầm mắt hướng ra xa có thể quan sát hết toàn cảnh của huyện Phú Lộc, nhìn sự hùng vĩ mênh mông của phá Tam Giang, cảnh cá Tư Hiền và biển Đông. Chiều về, tàu thuyền từ ngoài phá lùa ghé mũi vào nhau tạo nên một bức tranh như sắp đặt tuyệt đẹp.

Giữa lưng chừng núi là chùa chính, dưới chân núi còn có ngôi Chùa Lớn làm chỗ ở cho chư tăng, trước và sau chùa có nhiều cây lá sum suê.

Từ núi Tuý Vân nhìn phía đông khoảng 700m có núi Linh Thái, còn gọi là Quy Sơn hay Núi Rùa. Một lần, chúa Nguyễn Phúc Tần đến đây, thấy ở đỉnh núi có ngôi tháp Chàm được người dân địa phương cho biết rất linh, bèn cho dời ngôi tháp đi nơi khác rồi lập chùa thờ Phật với tên gọi Vĩnh Hoà.

bia đá trong chùa
Một tấm bia đá trong chùa

Túy Vân Sơn đã được xếp vào thắng cảnh quốc gia. Từ chân núi Tuý Vân sang bãi biển đá dưới chân Núi Rùa chỉ mất chừng 10 phút. Ở đây, các quần thể đá to nhỏ chồng xếp lên nhau tạo ra những hốc động thật kỳ thú. Từng mảng sóng bạc đầu dội vào hốc đá vút lên cao mù mịt liên hồi. Tiếng sóng, gió biển hoà với tiếng reo của lá cây tạo nên một sự cộng hưởng của âm thanh hoang dã. Trên một dải cát hẹp của bờ biển, các quần thể đá hình như những con rùa là nơi tập trung nhiều loại vỏ hải sản tấp vào bờ, tạo dáng như một hòn non bộ rất bắt mắt. Du khách đến đây sẽ thích thú khi đi dạo quanh núi rừng và theo con đường ven biển rợp bóng dương, đọc sách, bơi, ăn đồ biển và ngủ trên cát. Những người thích mạo hiểm hơn thì băng qua những tảng đá và chiêm ngưỡng từng đợt sóng để đứng trên tảng đá cao ngất ngưởng giữa không gian bao la.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Túy Vân - Huế

Ba con giáp khiến bạn mất niềm tin với lời ngon lẽ ngọt

Trong chuyện tình cảm, ai cũng yêu thích những lời đường mật, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đúng. Sau đây là ba con giáp khiến bạn phải mất niềm tin với
Ba con giáp khiến bạn mất niềm tin với lời ngon lẽ ngọt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chuyện tình cảm, ai cũng yêu thích những lời đường mật, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đúng. Sau đây là ba con giáp khiến bạn phải mất niềm tin với những "lời ngon lẽ ngọt".


Ba con giap khien ban mat niem tin voi loi ngon le ngot hinh anh
 
Tuổi Tý

Ba con giap khien ban mat niem tin voi loi ngon le ngot hinh anh 2
 
Người tuổi Tý rất coi trọng sự hưởng thụ về vật chất và mỹ thực, là người không thành thực trong chuyện tình cảm, không ngừng hy vọng tìm được người hoàn mỹ. Sau khi dùng những "lời ngon lẽ ngọt" để dành tình cảm của đối phương, sẽ quên luôn những lời "thề non hẹn biển", dứt khoát vứt bỏ đối phương.
Cải thiện vận thế khi sử dụng nội y đúng cách
Đồ nội y là vật liền thân và quan trọng đối với mọi người. Từ góc nhìn phong thủy, đồ nội y có vai trò rất quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến vận thế của gia

Tuổi Mão


Ba con giap khien ban mat niem tin voi loi ngon le ngot hinh anh 3
 
Con giáp trụ năm Mão là người thuộc trường phái lãng mạn, khi yêu luôn cố gắng tạo sự bất ngờ trong tình yêu, lời lẽ ngọt ngào, tuy nhiên họ lại là người khắt khe đối với những khuyết điểm của người khác, cho dù đối phương là người hoàn hảo họ cũng sẽ cố "bới lông tìm vết" để có thể mượn cớ ruồng bỏ đối phương.   Tuổi Thìn

Ba con giap khien ban mat niem tin voi loi ngon le ngot hinh anh 4
 
Mệnh chủ năm Thìn có nhiều tài năng đặc biệt, cả đời thuận về đào hoa vận, không thiếu người cố gắng tìm hiểu họ, những lời "thề non hẹn biển" của họ là chuyện thường tình, việc thiếu hay rời bỏ một hai người cũng không hiếm lạ.
=> Xem thêm: Quiz vui để biết những điều thú vị về bạn

Chi Nguyễn  

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba con giáp khiến bạn mất niềm tin với lời ngon lẽ ngọt

Cách chọn chăn ga gối đệm hợp phong thủy –

Chăn ga gối của trẻ được chọn lựa hợp phong thủy sẽ giúp trẻ ngon giấc và tác động tích cực đến quá trình phát triển cũng như sức khỏe nói chung. Cha mẹ nào cũng thương con, luôn quan tâm đến từng giấc ngủ của con, để mong cho trẻ luôn có được sức k

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chăn ga gối của trẻ được chọn lựa hợp phong thủy sẽ giúp trẻ ngon giấc và tác động tích cực đến quá trình phát triển cũng như sức khỏe nói chung.

Cha mẹ nào cũng thương con, luôn quan tâm đến từng giấc ngủ của con, để mong cho trẻ luôn có được sức khỏe tốt. Vì vậy việc quan tâm đến phòng ngủ cũng như chăn ga gối đệm cho trẻ là điều rất cần thiết, không thể bỏ qua.

Chăn ga gối của trẻ nếu được chọn lựa hợp lý theo thuyết phong thủy không những giúp trẻ ngon giấc mà còn tác động tích cực đến quá trình phát triển cũng như sức khỏe của trẻ nói chung.

chan-ga-goi-phong-thuy

Gam màu lựa chọn cho phòng cũng như bộ chăn ga gối của bé nên là gam màu sáng, gam màu nóng ấm… thể hiện sự vui nhộn, hiếu động. Điều này sẽ tác động tích cực đến sức khỏe, sự phát triển của trẻ cũng như tạo cảm giác thích thú cho bé khi được là “chủ nhân” của căn phòng.

Theo thuyết phong thủy, gam màu trắng rất hợp với trẻ con nói chung, nhưng không nên phối hợp trắng đen trong phòng ngủ trẻ vì sẽ tạo sự tương phản trong phong thủy.

Khi muốn kết hợp màu sắc, bạn nên chọn những gam màu tương đồng với nhau như xanh lá cây và xanh da trời, hồng và vàng hoặc trắng và màu be…

Một lưu ý khác cũng không kém phần quan trọng là chất liệu. Vì làn da của trẻ mềm và mẫn cảm hơn làn da người lớn nên bạn hãy chọn các bộ chăn ga gối nệm với thành phần 100% cotton. Chất liệu này thoáng mát, mềm và hút ẩm, thích hợp với mọi lứa tuổi của bé.

Cũng có thể thay cotton bằng lụa tơ tằm hay tơ tằm nhân tạo vì loại này cho cảm giác mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông.

Ga giường dành cho trẻ nhỏ nên tránh chất liệu flannel vì có thể khiến trẻ bị cảm lạnh vào mùa mưa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn chăn ga gối đệm hợp phong thủy –

Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng

Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Chùa Có vị trị thuận lợi là nằm trong khu Ngũ Hành Sơn
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn là 1 trong 3 chùa có cùng tên Linh Ứng tại Đà Nẵng: Chùa Linh Ứng Bãi Bụt và Chùa Linh Ứng Bà Nà. Ngũ Hành Sơn là một thắng cảnh bậc nhất ở miền Trung xưa nay. Vua Minh Mạng đặt tên các núi này là Ngũ Hành Sơn: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn.

Chùa cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về phía Đông Nam. Chùa còn được gọi là chùa Ngoài (chùa Trong là Chùa Tam Thai). Tọa lạc trên một khu đất rộng, bằng phẳng phía đông hòn Thủy Sơn thuộc quần thể khu di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn, bên phải là Vọng Hải Đài, bên trái là hang Ngũ Cốc. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn là một ngôi chùa cổ, có giá trị lịch sử cao. Vào đời Gia Long, chùa được xây và đặt tên Ứng Chân. Vào đời Vua Lê Hiển Tông, ncó Hòa thượng Quang Chánh (hiệu Bảo Đài) đến tu tại động Tàng Chân. Ngài dựng am Dưỡng Chân, sau sửa chữa lại gọi là Dưỡng Chân đường. Đến đời Gia Long, Dưỡng Chân đường được đổi thành chùa Ứng Chân. Sau khi Vua Minh Mạng đến vãng cảnh chùa đầu tiên vào năm 1825 thì các ngôi chùa tranh tre ở đây mới được thay bằng gạch ngói. Vua đã ban cho chùa tấm biển có ghi Ngự chế Ứng Chân Tự, Minh Mạng lục niên. Đến đời Thành Thái, do kỵ húy tên một vị vua nhà Nguyễn nên chùa được đổi tên là Linh Ứng. Chùa còn tấm biển ghi Cải tứ Linh Ứng Tự, Thành Thái tam niên.

Chùa cũng đã qua trùng tu nhiều lần nhưng ngôi chùa vẫn giữ được những nét cổ kính và hài hòa với quan cảnh thiên nhiên. Đường lên sân chính thẳng hướng gian Tam Bảo chùa Linh Ứng, là tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni bằng đá trắng nguyên khối.

Ngài an tọa kiết già, hướng nhìn thẳng đường lên từ những bậc thang đá, phía trước là một hồ nước nhân tạo nhỏ xinh, xung quanh xanh mướt cỏ cây, sắc núi… Tới khoảng sân trước gian Chính điện chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn, phía bên trái là Vườn tháp nhuốm đậm màu thời gian, rêu phong bám đầy. Lối đi bên hông phải gian Chính điện, chếch bên trái Vườn tháp dẫn đến Động Tàng Chơn. Chánh điện chùa được xây kiểu chữ “Nhất”, bên phải là nhà tổ, giảng đường, nhà khách, nhà thiền và nhà trù. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm.

Từ nơi tôn tượng Đức Phật Bổn Sư, theo phía tay phải, đi chừng vài chục mét dẫn tới một hang nhỏ, nơi có tôn tượng Đức Phật A Di Đà đứng trên đài sen, tay trái Ngài bắt kiết ấn hướng lên trời, cánh tay phải buông nhẹ với bàn tay để mở hướng xuống đất.

Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Có vị trị địa lý thuận lợi là nằm trong khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, chùa Linh Ứng và Tam Thai đã đón tiếp đông đảo du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng ngày.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng

Giun đũa với cảnh tượng trong mơ –

Y học phương Đông cho rằng, các loại giun cũng là một nguyên nhân tạo ra những giấc mơ. Trong Sách vấn - tác phẩm Trung Hoa cổ đại có chép: "Đoản trùng nhiều sẽ nằm mơ nhiều, trường trùng nhiều thường nằm mơ thấy đánh nhau bị thương". Có thể giải thí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Y học phương Đông cho rằng, các loại giun cũng là một nguyên nhân tạo ra những giấc mơ.

Trong Sách vấn – tác phẩm Trung Hoa cổ đại có chép: “Đoản trùng nhiều sẽ nằm mơ nhiều, trường trùng nhiều thường nằm mơ thấy đánh nhau bị thương”.

1346893312171_image023

Có thể giải thích: Nếu cơ thể có nhiều ký sinh trùng loại dài thì sẽ nằm mơ thấy đánh nhau bị thương; nếu trong cơ thể có nhiều ký sinh trùng loại ngắn thì sẽ mơ thấy tụ tập nhiều người.

Danh y Cao Sĩ Tông đời Thanh cho rằng: “Đoản trùng nhiều sẽ tụ tập thành bầy, cho nên nằm mơ thấy nhiều người tụ tập. Trường trùng nhiều chầu miệng vào nhau nên thấy đánh nhau bị thương”.

Ngày nay người ta xác định “đoản trùng” là sán.

Trong Thuyết văn giải tự có viết:

“Sán là loại trùng ngắn, sống trong bụng”.

Danh y Đào Nguyên Phương đời Tùy trong sách Thư bệnh nguyên hầu luận có viết:

“Sán là một trong chín loại ký sinh trùng sống trong ruột, hình nhỏ, như sán kim”.

Còn “trường trùng” chính là giun đũa.

Ngoài trường trùng và đoản trùng, các loại ký sinh trùng khác cũng có thể gây nên những giấc mơ.

Sách Thái Bình quảng ký có chép: “Đêm Tấn Dương ra lệnh cho Lưu Văn Tỉnh thủ mưu để lật Lý Thế Dân, Thế Dân nằm mơ thấy mình ngã vật ra giường, có nhiều con sâu đến đục khoét rất đau đớn”.

Lúc đó, thiền sư Tri Mãn ở chùa An Lạc, người Tây Hà, đã trai giới thanh tịnh nói: “Có thể mừng được”, người nằm trên giường sẽ làm hoàng đế. Ăn uống tập thể đó là biểu hiện tiệc ăn mừng, nhân dân ngưỡng mộ hoàng đế”.

Các số liên quan đến giấc mơ:

Giun: 11 – 94


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giun đũa với cảnh tượng trong mơ –

Tục thách cưới hay dở ra sao ?

Đã "Thách" là dở hoặc dở nhiều mà hay ít. Thời nay tôn trọng tự do luyến ái hôn nhân, luật hôn nhân trong chế độ mới đã giải phóng cho nam nữ thanh niên, nhưng luật tục còn gò bó, trói buộc. thách cưới cũng là một lệ tục lạc hậu rơi rớt lại, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên phận hẩm duyên hiu.
Tục thách cưới hay dở ra sao ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngay thời trước cũng đã có câu: "Giá thú bất luận tài". Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình, nhưng gặp phải một vài bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính, thách cưới nào quần áo, nón dép, nào rượu bánh cau trầu, che thuốc, nào nếp tẻ, lợn gà, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, lại còn tính đủ cỗ dâu cỗ cưới bao nhiêu mâm, nên nhà trai phải bỏ cuộc. Cũng có đám nhà trai phải chạy ngược chay xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ; song, ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.

Cũng có trường hợp, nhà gái túng thiếu không đủ tự lực cung cấp cho đủ cái lệ làng "Trả nợ miệng", đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp, bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần và sau khi thành thân còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu, cho rằng con mình dở duyên rồi, nên phải cho không.

"Hay ít" là để dành cho những gia đình có học thức, không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương với ý đồ chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con mình còn được "Lọng anh đi trước võng nàng theo sau", chứ không đến nỗi phải rơi vào những anh chàng "Vai u thịt bắp" nơi "Nước mặn đồng chua".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục thách cưới hay dở ra sao ?

Luận giải cát hung qua sắc khí trên mặt tương ứng 4 mùa

Quan sát sắc khí trên mặt mỗi người tương ứng với 4 mùa trong năm sẽ phần nào luận giải được vận hung cát của mỗi đời người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong sách Hựu Tập Giải có viết: Xem sắc khí bốn mùa của con người chủ yếu xem 5 màu xanh da trời, vàng, đỏ, trắng và đen. Đây cũng chính là khí của bốn mùa. Khi chúng hiển thị trên da gọi là màu da, ẩn ở trong da là khí. Quan sát sắc khí trên mặt con người tương ứng với 4 mùa trong năm sẽ phần nào luận giải được vận hung cát của mỗi người. 

 

Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 

Mùa Xuân – Xem hai gò má

  Trong thời gian 3 tháng của mùa Xuân, sao Mộc ở phía Đông, thuộc Giáp Ất, tương ứng với nó là vị trí xương gò má trên khuôn mặt.  
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Theo quan điểm nhân tướng, vị trí này có sắc xanh da trời được coi là vượng tướng, quý tướng. Nếu là sắc đỏ, báo hiệu buồn trước vui sau. Nếu là màu trắng, dễ gặp họa liên quan đến tù tội. Màu vàng nâu khó tránh hung họa.    Ngoài ra, còn quan điểm cho rằng, hai gò má tương ứng với Chu Tước và Huyền Vũ, nếu có màu đen sẽ bị phá tài, có sắc đỏ gặp họa kiện tụng.   

Mùa Hè – Xem sắc khí trán

  Ở ba tháng mùa Hè, sao Hỏa nằm ở phía Nam, thuộc Bính Đinh. Thời gian này xem trán có màu đỏ được coi là vượng tướng, mang tới điều cát lành. Tuy là quý tướng, nhưng trước đó bản mệnh cũng trải qua thị phi, kiện tụng rồi mới yên ổn.   
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Nếu sắc khí trán có màu trắng thì gặp cát lợi trước, hung họa sau. Nếu xuất hiện màu vàng thì hung họa trước, cát lành sau. Nếu là sắc khí màu xanh, vận mệnh gặp hung họa, chủ động đề phòng.   Theo một lý giải khác, mùa Hè có Hỏa là chính sắc, nếu xuất hiện màu đỏ sẽ không có phương hại, nhưng kỵ nhất màu đen quá nặng, bởi vì nó thuộc Nhâm Quý Thủy ở phía Bắc, sẽ tương khắc.

Nếu hiển lộ màu tía sẽ gặp tai họa không thể lường trước trong kiện tụng và gây phá tài. Nếu phần giữa 2 mắt, lông mày và giữa Pháp lệnh có sắc khí tối, bảm mệnh dễ gây ra chuyện thị phi hoặc người nhà sẽ có bệnh. Ngoài ra, nếu hai bên cánh mũi có màu đen tía, báo hiệu bệnh về máu.

Mùa Thu – Xem màu sắc ở gò má trái
  Khoảng thời gian 3 tháng mùa Thu, sao Kim ở phía Tây, thuộc Canh Tân, tương ứng với gò má trái. Nếu vị trí này có màu trắng, được coi là cát lành, chủ nhân khổ trước sướng sau, trước gặp chuyện buồn sau đón chuyện hỷ.   
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Nếu xuất hiện màu xanh thì bản mệnh sẽ gặp họa ngục tù, thị phi, nhiều tai họa bất ngờ. Nếu có màu đỏ sẫm chủ đoản mệnh, sức khỏe giảm sút, dễ mắc trọng bệnh.   Theo lý giải khác, mùa Thu lấy trắng làm màu chủ đạo, vì thế kỵ nhất là quá đỏ, bởi vì đỏ là Hỏa, như vậy Hỏa khắc Kim, không thuận.  

Mùa Đông – Xem sắc khí cằm

 
Luan giai cat hung qua sac khi tren mat tuong ung 4 mua hinh anh
 
Giai đoạn 3 tháng mùa Đông có sao Thủy ở phía Bắc, thuộc Nhâm Quý, tương ứng với vị trí của cằm trên khuôn mặt. Nếu vị trí này có màu đen thì được coi là tướng. Tuy vậy, chủ nhân cũng lao đao một phen, trước vất vả, sau mới sướng. Tại đây, nếu có màu vàng đỏ sẽ có phát sinh hung họa. Nếu có sắc khí màu trắng báo hiệu đoản mệnh.   Mùa Đông lấy đen làm màu sắc chủ đạo, kỵ nhất là màu vàng của Thổ, vì Thổ khắc Thủy. Nếu cằm có màu đen vàng thì không chỉ chủ nhân tướng mạo này mà cả người trong nhà sẽ khốn đốn, trắc trở, có thể sẽ mắc trọng bệnh.   Nam Anh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải cát hung qua sắc khí trên mặt tương ứng 4 mùa

Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn, tu vi Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn

Bạn sinh tháng mấy? Mỗi tháng sinh sẽ hé lộ nhiều điều ẩn chứa bên trong con người bạn cả về tính cách lẫn thái độ sống…

Sinh tháng 1: Công việc tích cực, yêu thương gia đình

Trong công việc, bạn có tinh thần cầu tiến và chăm chỉ. Làm việc khôn khéo, có năng lực, suy nghĩ chu đáo, bạn thường được cấp trên khen ngợi. Bên cạnh đó, bạn cũng thích phê bình người khác, mối quan hệ với đồng nghiệp không suôn sẻ cho lắm. Bạn yêu gia đình, quý trẻ con, đối với tình yêu rất chân thành nhưng lại không biết cách bày tỏ.

Sinh tháng 2: Có lý tưởng, giỏi bày tỏ nội tâm

Bạn có tư chất thông minh,  xem boi ngay sinh khả năng thích ứng nhanh, làm việc có mục tiêu, có ước mơ nhưng tự tin không đủ, dễ gây trở ngại cho sự phát triển của bạn. Đối với gia đình, bạn trung thực và đáng tin cậy. Trong tình yêu, bạn nhạy cảm và dễ bị tổn thương, may mắn là bạn biết cách bày tỏ nội tâm của mình nên đối phương cũng phần nào hiểu rõ về bạn.

Sinh tháng 3: Cảm xúc tình cảm mãnh liệt

Trong công việc, bạn là một nhân viên chăm chỉ và đáng tin cậy. Đối với bạn bè, bạn thích giúp đỡ họ, vì thế trong lớp ai cũng yêu mến bạn. Trong gia đình, bạn giỏi quan sát và đáp ứng nhu cầu của mọi người và thường trao sự hỗ trợ đúng lúc.

Tình cảm rất mãnh liệt nhưng bạn thường che đậy để đối phương tự suy đoán, nên cảm xúc dễ thay đổi.

Sinh tháng 4: Quyết đoán mạnh mẽ, có chủ kiến

Có chủ kiến, khả năng quyết đoán mạnh mẽ chính là ưu điểm nổi trội của bạn trong công việc. Bạn dễ kích động, nhưng có thể vì mọi người mà giải quyết nhiều rắc rối. Bạn chăm sóc người thân và người yêu rất chu đáo. Trong tình yêu, bạn dễ ghen tỵ và có tâm lý báo thù lớn, điều này khiến bạn cảm thấy khổ sở và người yêu cảm thấy bối rối.

Sinh tháng 5: Tính cách cố chấp, thích phân tích

Niềm tin và động lực của bạn rất mạnh mẽ, bạn giỏi phân tích nên đạt nhiều thành công hơn là thất bại. Nhưng bạn cố chấp, không chịu nghe lời người khác nói. Bạn thấu hiểu lòng người, đối với người thân và người yêu thường bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc, mang lại cho họ sự ủng hộ lớn nhất.

Sinh tháng 6: Che đậy bản thân, khó yêu

 Bạn có tầm nhìn xa trông rộng và nhiều ý tưởng, nhưng trong thời gian ngắn, bạn khó hoàn thành công việc, điều này khiến cấp trên thường đau đầu vì bạn. Bạn ít khi bày tỏ cảm xúc trước mặt người thân, đối với tình yêu, bạn thường “kén cá chọn canh”, không dễ yêu. Vẻ ngoài của bạn tuy bình tĩnh nhưng nội tâm lại dễ tổn thương, một khi thất bại, bạn cần thời gian dài để hồi phục.

Sinh tháng 7: Say mê công việc, có lòng khoan dung

Bạn có óc quan sát, đối với công việc rất chăm chỉ, có kỹ năng làm việc và ứng xử trong các mối quan hệ. Nhưng bạn không dễ được người khác thấu hiểu vì dễ căng thẳng. Trong tình yêu, bạn rất độ lượng, có lòng bao dung với người yêu. Bạn khát vọng được yêu thương nên không ít lần khiến người yêu cảm thấy áp lực.

Sinh tháng 8: Tự tin, hành động theo cảm tính

Bạn tự tin và có năng lực lãnh đạo.Trong gia đình, bạn rất tự lập, không cần người thân chăm sóc. Trong tình yêu, bạn muốn cả hai có không gian riêng tư, không thích suốt ngày bị quấn lấy nhau.

Điểm yếu của bạn là làm việc không cẩn thận, thiếu sự kiên nhẫn, thường hành động theo cảm tính khiến tình hình thêm phức tạp.

Sinh tháng 9: Bình tĩnh, đầu óc tỉnh táo

Sở trường của bạn là làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, đầu óc tỉnh táo, tư duy thông suốt, nhưng lại thích trách móc sai lầm của người khác. Bạn thường lý trí giải quyết khó khăn cho gia đình nhưng lại ít khi bày tỏ cảm nhận của bản thân.

Đối với tình yêu, bạn hay bắt bẻ, vì mong muốn chọn một người tốt nhất để chăm sóc cho mình.

Sinh tháng 10: Yêu gia đình, có tinh thần trách nhiệm

Bạn làm việc rất quyết đoán, có chủ kiến nhưng lại cố chấp, không chịu tiếp thu ý kiến của người khác. Nói cách khác, bạn thường nghĩ cách bày tỏ quan điểm của mình nên tạo cho người đối diện cảm giác bạn bướng bỉnh. Đối với người thân, bạn có lòng yêu thương và nhẫn nại; đối với người yêu, bạn rất coi trọng, dễ cảm động và dễ hài lòng, bản tính chiếm hữu không cao.

Sinh tháng 11: Nguyện trả giá vì tình yêu

Bạn thông minh, có cách nhìn mới lạ, làm việc cẩn thận và tỉ mỉ, tốc độ tiến về phía trước thường nhanh hơn so với người khác. Tuy bạn rất tự lập, nhưng đối với việc trong gia đình thì không hề thoái thác trách nhiệm. Đối với tình yêu, bạn thiếu sự tin tưởng nhưng rất nhanh chìm đắm và nguyện trả giá vì tình yêu. Bạn không dễ kiểm soát tình cảm của chính mình.

Sinh tháng 12: Dẻo miệng, giỏi giao tiếp

Bạn có kỹ năng nói chuyện và ứng xử trong các mối quan hệ, sách lược của bạn thường có khuynh hướng ảnh hưởng đến cả một tập thể. Đối với người thân và người yêu, bạn có sự tận tâm hết mình khiến họ hoàn toàn tin cậy và bạn cũng mong muốn nhận được sự quan tâm tương tự từ họ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn - Xem bói - Xem Tử Vi

Màu xanh lá cây trong phong thủy có ý nghĩa gì? –

Theo phong thủy, màu xanh biểu trưng cho năng lượng Mộc và sự thịnh vượng. Màu xanh lá cây giúp kiềm chế sự căng thẳng thần kinh và cân bằng cho cơ thể. Xanh lá thích hợp để sơn các căn phòng đáp ứng việc nghỉ ngơi, thư giãn chứ không phải là phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, màu xanh biểu trưng cho năng lượng Mộc và sự thịnh vượng. Màu xanh lá cây giúp kiềm chế sự căng thẳng thần kinh và cân bằng cho cơ thể.

Xanh lá thích hợp để sơn các căn phòng đáp ứng việc nghỉ ngơi, thư giãn chứ không phải là phòng làm việc, phòng đọc… Màu xanh lá nhẹ rất tốt cho phòng em bé bởi nó giúp tạo ra bầu không khí thoải mái và thú vị.

Xét về mặt ngũ hành, để phát huy năng lượng tăng trưởng và hàn gắn, màu xanh lá cây nên được sử dụng ở phía Đông, Đông Nam (thuộc hành Mộc) của ngôi nhà. Bởi, đây là khu vực thuộc hành Mộc. Phía Nam (thuộc hành Hỏa) cũng thích hợp để sử dụng mày này vì theo quy luật tương sinh của ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa.

Cần lưu ý, tránh sự hiện diện của màu xanh lá cây ở khu vực phía Bắc của ngôi nhà vì đây là nơi hành Kim chủ quản (Kim khắc Mộc), rất bất lợi cho gia chủ.

Khi được sử dụng đúng hướng, năng lượng Mộc sẽ phát huy hiệu quả về sự thịnh vượng và tăng trưởng. Khi kết hợp màu vàng và màu xanh lá cây, sự lạc quan và yên tâm sẽ luôn hiện hữu trong tâm trí bạn cũng như bao bọc không gian sống và làm việc của bạn. Xanh lá cây kết hợp màu trắng sẽ tạo nên không gian yên bình và tươi mới.

Đặc biệt, cũng như màu xanh nói chung, xanh lá cây giúp tăng cường tính độc lập, sự quyết đoán – là màu rất cần cho người lãnh đạo.

mau-xanh-phong-thuy

Căn phòng mang tính nghệ thuật màu xanh lá.

Xanh lá cây còn là màu của nghệ thuật. Trong thiết kế trang trí nội thất hiện đại, việc sử dụng màu này giúp phát huy tối đa khả năng sáng tạo. Chính vì vậy, không gian sống của những ngôi nhà, biệt thự hiện nay thường có sự xuất hiện của gam mày này. Đó có thể là sơn tường nhà, đồ nội thất hay các vật dụng trang trí nghệ thuật tinh tế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu xanh lá cây trong phong thủy có ý nghĩa gì? –

Những địa điểm "có duyên" với cái chết trên thế giới

Có những nơi dường như rất “có duyên” với việc rời bỏ cuộc sống trần gian, người ta gọi đó là những địa điểm chết.
Những địa điểm "có duyên" với cái chết trên thế giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Nhung dia diem co duyen voi cai chet tren the gioi hinh anh
 

Rừng tự sát Aokigahara
Aokigahara là khu rừng nằm ở chân núi Phú Sĩ, Nhật Bản, được biết đến là nơi rất nhiều kẻ xấu số đã lựa chọn để kết liễu cuộc đời mình. Xu hướng này được cho là bắt đầu từ khi nhà văn Seicho Matsumoto cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Kuroi Kaiju, trong đó mô tả hai nhân vật chính đã tự tử tại chính khu rừng này. Đến nay, nơi đây đã trở thành địa điểm chết của Nhật Bản.

Cầu tự tử Overtoun Nằm gần ngồi làng xinh đẹp Milton, vùng Dumbarton, Scotland, Overton là cây cầu hết sức bình thường, nhưng lại trở thành địa điểm chết không rõ nguyên nhân.

Từ những năm 1960 gần như mỗi tháng có một con chó chết vì lao xuống sông. Đến nay, tổng cộng đã có hơn 600 con chó xấu số. Nhiều nhân chứng cho biết, họ thấy những con chó trèo qua hàng rào bảo vệ và nhảy xuống dòng sông phía dưới. Điều khiến cho câu chuyện thêm kì quái đó là việc một số con chó, sau khi rơi xuống và sống sót, đã trèo lên cây cầu và lao mình xuống dưới một lần nữa cho tới chết.
 
Thành phố ma San Zhi Một khu nhà mang dáng vẻ tương lai nhưng bỏ hoang, đổ nát, và đi kèm với đó là vô số cái chết bí ẩn được chính phủ che giấu. Đó chính là mô tả về thành phố ma San Zhi, hay còn được biết đến với vai trò là khu nghỉ dưỡng San Zhi, nằm ở ngoại ô thành phố Đài Bắc. Hàng loạt những tai nạn bất thường khiến công trình bị đình công vô thời hạn. Và nó trở thành địa điểm chết khi những cái xác treo cổ liên tiếp được tìm thấy. Người ta tin rằng, những người treo cổ đó bị hồn ma chết oan ở đây dẫn dụ và giết chết chứ không phải tự tử.
ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những địa điểm "có duyên" với cái chết trên thế giới

Cửa hàng lưng dựa cây lớn được hưởng bóng mát –

Các cửa hàng phía trước mở rộng nhiều ngành nghề như lông cừu, kinh doanh nhà đất... tốc độ làm mới sản phẩm trong cửa hàng khiến cho các nhà đầu tư cũng phải hoa mắt chóng mặt, rốt cuộc thì những cửa hàng mở rộng nào đáng để tin cậy, đáng để đầu tư,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các cửa hàng phía trước mở rộng nhiều ngành nghề như lông cừu, kinh doanh nhà đất… tốc độ làm mới sản phẩm trong cửa hàng khiến cho các nhà đầu tư cũng phải hoa mắt chóng mặt, rốt cuộc thì những cửa hàng mở rộng nào đáng để tin cậy, đáng để đầu tư, điều này luôn khiến cho dân đầu tư cảm thấy hoang mang. Có một số nhà đầu tư đã áp dụng những biện pháp đơn giản, duy trì cách nghĩ “dựa vào cây to mà hưởng bóng mát”, “để người ta mang đồ đến”, cho rằng chỉ cần có thực lực, uy tin tốt bảo đảm cửa hàng sẽ có thắng lợi, đáng để đầu tư. Biện pháp này suy luận theo logic thì không sai, trong trường hợp bình thường cũng có thể làm được, nhưng không phải trường hợp nào cũng đúng.

168_3_1

Đầu tiên, những khu vực mở rộng thương mại trong nước hiện nay đang tồn tại những khoảng cách rất rõ ràng, rất nhiều cửa hàng được khai thác mở rộng từ những khu nhà được “chuyển nghiệp” mà thành. Họ là do bị sức cuốn của lợi nhuận cao của việc mở rộng thị trường thương mại để bước vào giai đoạn thị trường này, gọi là “trụ nhi ưu tắc thương” (ở chán rồi cũng làm thành cửa hàng), thực ra những người này rất thiếu những kinh nghiệm mở rộng thương mại và kinh nghiệm quản lý kinh doanh. Rất nhiều cửa hàng có cái tên thu hút khách hàng thực chất chỉ là những khu nhà thay đổi diện mạo thành mà thôi, thiếu đi khả năng kinh doanh phát triển dài lâu này.

Tiếp theo là những cửa hàng bán lẻ, tự doanh, phát triển đăng ký kinh doanh hoạt động như công ty. Khi đăng ký kinh doanh, hạng mục kinh doanh hoàn toàn ngẫu hứng, hoặc sao chép từ những bộ hồ sơ thành lập công ty khác trước đó do các văn phòng luật sư cung cấp. Nhưng với bản chất là kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu tính chuyên nghiệp, nên sau khi hoạt động kinh doanh mới phát hiện ra bản thân còn thiếu nhiều kinh nghiệm ở tầm hoạt động mới. Những mơ ước nông dân trở thành doanh nghiệp đã nhanh tróng tiêu tan. Nguyên nhân cơ bản của sự thất bại này là hình thức hoạt động kinh doanh như kiểu bình mới rượu cũ. Tuy tư cách pháp nhân là một doanh nghiệp nhưng bản chất hoạt động kinh doanh và điều hành quản lý vẫn là kiểu kinh doanh nhỏ lẻ, tự phát. Như vậy, chúng ta có thể thấy, việc thay đổi hình thức không phải vấn đề quan trọng quyết định sự phát triển. Việc kinh doanh phải phù hợp với loại hình kinh doanh, phù hụp với năng lực quản lý, không nên vì cái lợi nhỏ mà khiến cho vốn liếng tiêu tan.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa hàng lưng dựa cây lớn được hưởng bóng mát –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd