Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm

Có câu “chọn mặt gửi vàng”, điều đó khá đúng trong nhân tướng học. Bởi khi xem tướng mặt thấy có những nét tướng cách tốt, chứng tỏ vận mệnh người ấy cũng tươi sáng, đáng để kết thân lâu dài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những tướng mặt phụ nữ được đàn ông săn đón, nhất là những anh chàng vừa đẹp trai vừa đẹp cả nết.   1. Mặt quý cô nhỏ nhắn, thanh tú   Chẳng ai có thể phủ nhận được rằng, cô nàng sở hữu gương mặt nhỏ, thanh tú vô cùng xinh xắn, đáng yêu và có mê lực lôi cuốn mạnh mẽ, nhất là với cánh mày râu.   Nếu quan sát kỹ, bạn thấy những ngôi sao truyền hình cũng đều có khuôn mặt sở hữu các nét tương tự như thế. Họ là mỹ nhân tuyệt thế, là mẫu phụ nữ đáng để đàn ông theo đuổi, nhất là những soái ca, để có thể “đôi lứa xứng đôi”, nắm tay đi trọn quãng đời còn lại.   Ngay lần đầu gặp gỡ cô gái có nét tướng cách này, cánh mày râu cứ gọi là “đổ như ngả rạ”, khó mà kiềm chế được cảm xúc.   

Khuon mat cua nhung quy co duoc soai ca tim kiem hinh anh
 
2. Các nàng có đôi mắt sáng, eo thon, dáng người mảnh khảnh   Xem tướng mặt phụ nữ, những đặc điểm này thường hội tụ ở người con gái có tâm hồn ngây thơ, lối sống tao nhã, dường như không vướng bụi trần, ai thấy cũng muốn che chở, bảo vệ.    Cô nàng này chẳng quan tâm tới việc ai đó nghĩ gì về mình, hay phải làm thế nào để vừa lòng người khác. Họ cứ sống thật với chính mình, vui tươi nhí nhảnh, không làm gì trái với lương tâm là được.    Chính những nét đáng yêu ấy đã trở thành điểm mạnh, điểm lôi cuốn của cô nàng này, khiến các đấng nam nhi chú ý hoài không thôi.   3. Phụ nữ có tướng mũi cao, cằm đầy đặn   Nữ giới có tướng mũi cao, chiếc cằm đầy đặn được coi là quý tướng, nhiều phúc khí, vận mệnh sung sướng, cao sang.    Cho dù cô nàng này không quá xuất sắc trong công việc, học hành, nhưng cách cư xử khéo léo, cộng thêm với tính nhẫn nại cao, họ vẫn đạt được thành công nhất định trong cuộc sống, được hàng tá anh chàng theo đuổi.    Trong đó có những soái ca, vừa đẹp trai lại tài giỏi mong muốn kết thân với cô nàng này để cả hai cùng nương tựa, đồng tâm hiệp lực để đi tới hết cuộc đời.  
Khuon mat cua nhung quy co duoc soai ca tim kiem hinh anh
 
4. Cô nàng miệng nhỏ xinh, môi hồng, nhiều vân đậm   Phụ nữ có miệng nhỏ xinh, môi hồng hào, nhiều vân đậm thường đi kèm khuôn mặt xinh xắn. Đây cũng được coi là có số phú quý, chủ nhân luôn biết cách hưởng thụ cuộc sống.    Hơn thế, cô nàng này không có quá nhiều tham vọng, chỉ thích sống an yên, bình ổn nên hứa hẹn sẽ là mẫu phụ nữ của gia đình, hết lòng hết dạ vì chồng vì con.    Đó là lý do giải thích tại sao, hàng loạt soái ca lại thích theo đuổi cô nàng có những đặc điểm tướng cách như thế. Bởi họ mong rằng, sau này sẽ có người vợ hiền mẹ đảm để chăm sóc, vun vén gia đình, để họ yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp.   Ngọc Diệp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm

Giải mã "lời nguyền chết chóc" trong hầm mộ các Pharaoh

Ai Cập cổ đại không chỉ để lại những tàn tích của một nền văn minh rực rỡ, có giá trị văn hóa to lớn mà còn tạo nên những câu chuyện, những lời nguyền đáng sợ
Giải mã "lời nguyền chết chóc" trong hầm mộ các Pharaoh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trong hầm mộ của các Pharaoh. 

Giai ma loi nguyen chet choc trong ham mo cac Pharaoh hinh anh
 
Những cái chết liên tiếp, kì bí của những nhà khảo cổ học, những người trộm mộ đã làm dấy lên nghi ngờ về “lời nguyền chết chóc” mà người xưa để lại. Theo chân các nhà khoa học để làm sáng tỏ điều này.   Theo Jennifer Wegner, một nhà Ai Cập học tại bảo tàng Đại học Pennsylvania ở Philadelphia nhận định, bên trong hầm mộ Pharaoh Ai Cập, ngoài những xác chết còn có cả thực phẩm gồm thịt, rau, và hoa quả được mai táng trong hành trình sang thế giới bên kia.   Những thứ này chắc chắn đã thu hút côn trùng, vi khuẩn, mốc và những thứ tương tự như vậy. Những vật liệu thô như thế này nằm im ở đó đã hàng nghìn năm và ảnh hưởng tới sức khỏe con người.   Các nghiên cứu gần đây trong phòng thí nghiệm đã tiết lộ rằng một vài xác ướp cổ đại quả thực bị mốc, trong đó chứa ít nhất hai loài nguy hiểm tiềm năng là Aspergillus niger và Aspergillus flavus. Những loại nấm mốc này có thể gây ra phản ứng dị ứng nhiều cấp độ, từ sung huyết đến chảy máu phổi. Chúng đặc biệt nguy hiểm đối với những người vốn có hệ miễn dịch kém.   Các nhà khoa học cũng tìm thấy khí ammoniac, formaldehyde và H2S bên trong những chiếc quách bịt kín. Ở nồng độ cao, những chất này có thể gây bỏng mắt và mũi, làm xuất hiện các triệu chứng giống như viêm phổi và trong những trường hợp bị nhiễm nặng có thể gây chết người.    Ngoài ra, hiện tượng dơi trú ngụ trong nhiều ngôi mộ đã bị khai quật và phân của chúng mang theo những loại nấm có thể gây bệnh về đường hô hấp giống như bệnh cúm. Trong những điều kiện phù hợp, các tác nhân này có thể đủ độc lực để giết người.   Lại có ý kiến lý giải, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã phát triển tới mức có thể lợi dụng những côn trùng và chất độc cực mạnh bố trí trong lăng mộ của Pharaoh, coi chúng như thứ vũ khí phòng vệ rất hiệu quả. Loại vũ khí này có nhiệm vụ đối phó với những kẻ phá hoại hầm mộ, đánh thức giấc ngủ ngàn thu của người xưa.   Một số nhà khoa học khác thì nhận định, lời nguyền của Pharaoh xuất phát từ chính kết cấu của lăng mộ. Thiết kế lối dẫn xuống hầm mộ và mộ huyệt có thể sản sinh và tập trung những từ trường hoặc sóng năng lượng đặc thù gây chết người.   Và một điều đáng lưu ý là Howard Carter, người đầu tiên khám phá ra lăng mộ của vị vua trẻ nhất Ai Cập - Tutankhamun, lại không chịu chung số phận như những người khác. Sau khi hoàn thành công việc khai quật lăng mộ vua Tut, ông vẫn sống bình an và mất vì bệnh ung thư ở tuổi 65.   Ngay bản thân ông cũng không tin vào lời nguyền của Pharaoh. Ông nhấn mạnh, cơ bản, truyền thống tôn giáo của người Ai Cập không cho phép sự tồn tại của lời nguyền như vậy, trái lại, họ hy vọng chúng ta sẽ dành cho người đã khuất những lời cầu chúc tốt đẹp.      


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã "lời nguyền chết chóc" trong hầm mộ các Pharaoh

Tài lộc của người tuổi Tuất theo từng tháng (P2)

Tháng 7 (âm lịch), do có sao lành chiếu mệnh nên vận thế của người tuổi Tuất trong tháng Thân tương đối tốt. Công việc tiến triển thuận lợi, tài lộc có nhiều
Tài lộc của người tuổi Tuất theo từng tháng (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7

Tháng 7 (âm lịch), do có sao lành chiếu mệnh nên vận thế của người tuổi Tuất trong tháng Thân tương đối tốt. Công việc tiến triển thuận lợi, tài lộc có nhiều khởi sắc. Đây là khoảng thời gian người tuổi Tuất có nhiều cơ hội để phát triển sự nghiệp. Người này nên đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau để thu lại nhiều lợi nhuận hơn trong kinh doanh.

Tháng 8

Tháng Dậu, tài lộc của người tuổi Tuất không được ổn định lắm. Họ gặp phải một số trở ngại nhỏ trong công việc. Tháng này, người tuổi Tuất nên cẩn trọng trong các hợp đồng kinh doanh, suy tính kỹ càng trước khi thực hiện bất cứ kế hoạch gì. Nếu thực hiện được, người này vẫn có thể đạt được thành công trong sự nghiệp.

Tháng 9

Tháng 9 (tháng Tuất), người tuổi Tuất có sao dữ chiếu mệnh nên gặp phải một số sóng gió trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Kinh tế khó khăn, thu nhập hạn hẹp. Người này nên bình tĩnh xử lý mọi việc, tránh để tình cảm xen lẫn công việc kẻo chịu nhiều thiệt hại. Hơn nữa, họ nên xem xét lại các mối quan hệ hợp tác từ trước để cải thiện lại tình hình kinh doanh lúc này.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Tháng 10

Vận thế trong tháng Hợi của người tuổi Tuất chuyển biến theo chiều hướng tốt lên. Tuy nhiên, sóng gió và khó khăn trong công việc vẫn chưa hoàn toàn hết. Một số áp lực công việc vẫn tồn tại trong họ. Vào tháng này, người tuổi Tuất nỗ lực cố gắng sẽ thu lại được nhiều thành công hơn.

Tháng 11

Tài lộc trong tháng 11 (tháng Tý) của người tuổi Tuất tương đối ổn định. Không những mọi khó khăn, trở ngại được giải quyết mà mọi tranh chấp về nhân sự đã dần lắng xuống. Trong tháng này, người tuổi Tuất nên chuyên tâm vào công việc, cố gắng phát huy hết khả năng tiềm ẩn của mình, điều này khiến bản thân họ vững vàng tiến bước, nổi trội hơn người khác.

Tháng 12

Tháng Sửu, người tuổi Tuất lại có sao dữ chiếu mệnh nên vận thế và tài lộc có chiều hướng đi xuống. Công việc hợp tác không thuận lợi, sức khỏe có phần giảm sút. Thời gian này, họ nên chú ý chăm sóc bản thân, không để mình rơi vào trạng thái quá căng thẳng kẻo bệnh tật kéo đến. Người này cũng nên cân đối lại tài chính trong gia đình, chi tiêu hợp lý hơn trong giai đoạn khó khăn. Cuối tháng 12, tài lộc của người tuổi Tuất có phần tươi sáng hơn.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Tuất theo từng tháng (P2)

Sao Văn Xương và Văn Khúc

Một bài viết sưu tầm về hai sao Văn Xương và Văn Khúc. Mời các bạn cùng đọc và tham khảo.
Sao Văn Xương và Văn Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn xương và Văn khúc - Toàn thư

Văn Xương

Thuộc tính ngũ hành của Văn Xương là dương kim, là trợ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là Văn Khôi chủ về khoa giáp. Sao Văn xương cùng với Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt được gọi chung là 6 cát tinh. Sở dĩ chúng trở thành cát tinh, vì chúng đều có khả năng trợ giúp phò tá, nếu gặp được cách tốt hoặc chủ tinh miếu vượng, chẳng khác gì hổ thêm cánh, sẽ được tăng cường thêm khí thế và thêm phát triển. Nếu gặp phải các sao lạc hãm, 6 cát tinh này sẽ đem lại tác dụng trợ giúp đắc lực. Sáu Cát tinh có khả năng chống trọi với sáu Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, có thể dung hòa được hung tính của sát tinh, thậm chí có thể dẫn dắt chúng được phát triển theo chiều hướng tốt.

Sao Văn xương chủ về khoa giáp, sẽ có thành tựu lớn về nghiệp văn, nhưng phải có công mài sắt mới có ngày nên kim, cần phải cần cù khổ luyện mới có được thành tựu. Sao Văn xương hợp nhất với sao Hóa Khoa (năm Bính Văn xương hóa Khoa), nếu gặp Hóa Khoa miếu vượng thì tài năng trong lĩnh vực văn nghệ và học thuật càng được bộc lộ rõ nét. Sao Văn xương nếu gặp gỡ các sao Thái dương, Thiên lương, Lộc tồn tại các cung vị tam phương tứ chính, sẽ tạo thành cách Dương Lương Xương Lộc chủ về tiền tài danh vọng song toàn, tham gia các kỳ thi quan trọng của nhà nước chắc chắn sẽ thi đỗ.

Sao Văn xương nhập cung miếu vượng sẽ có tài hoa trong lĩnh vực văn nghệ. Nếu văn xương lạc hãm thì tài hoa khó được bộc lộ. Nếu Văn xương lạc hãm lại gặp Hóa Kị (năm Tân văn xương hóa Kị) chủ về thành tích học tập không tốt, có chí cũng khó thành tựu, thường xuyên thi trượt, thậm chí còn thất học, khiến cho nảy sinh tâm lý bi quan và chán nản. Tiểu hạn, lưu niên nếu gặp phải sao Hóa Kị Văn xương lạc hãm, cần phải chú ý những sơ xuất về văn thư đơn từ, nếu không dễ vướng mắc vào kiện tụng. Học sinh cần chú ý đến thành tích học tập.

Sao Văn xương lạc hãm lại gặp 4 sát tinh Kình Đà Hỏa Linh, chủ về khôn vặt, thích tranh luận với người khác để khoe tài ăn nói, có thể kiếm sống bằng tài nghệ đặc thù này. Sao Văn xương là sao Văn, sao Vũ khúc là sao Võ, Văn xương gặp Vũ khúc là người văn võ song toàn.

Văn Xương chủ khoa giáp Văn xương chủ khoa giáp

Thìn Tị thị vượng địa Thìn Tị là vượng cung

Lợi Ngọ hiềm Mão Dậu Ưa Ngọ ghét Mão Dậu

Hỏa sinh nhân bất lợi Sinh năm Hỏa là hung

Mi mục định phân minh Mặt mũi chừng sáng sủa

Tướng mạo cực tuần lệ Dung mạo đẹp vô cùng

Hỷ vu kim thủy nhân Người kim thủy ưa gặp

Quan quý song toàn mỹ Giầu sang được trọn lành

Tiên nan nhi hậu dị Trước khổ sau thành tựu

Trung vãn hữu thanh danh Trung niên có công danh

Thái dương ấm phúc tập Thái dương nhiều phúc ấm

Truyền lô đệ nhất danh Đề danh tại bảng vàng.

Văn Khúc

Thuộc tính ngũ hành của Văn khúc là âm thủy, là trợ tinh của chòm Bắc đẩu, hóa khí là ăn nói hùng biện (thiệt biện), chủ về khoa giáp, thiên về các lĩnh vực tài ăn nói, triết học, tướng mệnh, ca hát văn nghệ, là một trong sáu Cát tinh. Sao Văn khúc nếu đóng ở cung Thân cung Mệnh chủ về đào hoa, trên thân người thường có dấu vết lạ, tính cách thông minh lanh lợi, có tài ăn nói hung biện, cá tính có phần cô độc, nhưng lại rất có tài nghệ trong lĩnh vực biểu diễn.

Sao Văn khúc tốt nhất nên đống ở những cung vị miếu vượng và nằm cùng với sao Lộc tồn. Nếu tại cung vị tam phương tứ chính có sao Văn xương hội và chiếu, sẽ hình thành cách Lộc Văn củng mệnh chủ về phú quý, được tài nhờ văn chương, có biểu hiện xuất sắc về mặt tài nghệ. Nếu không gặp sát tinh, sẽ trở thành người giầu có nổi tiếng.

Sao Văn khúc cũng hợp với Hóa Khoa, vì có thể tăng cường tài hùng biện và tài năng trong các lĩnh vực nghệ thuật như âm nhạc. Nhưng nếu Văn khúc lạc hãm, thì tài năng nghệ thuật sẽ rất khó được phát huy. Văn khúc thuộc âm thủy nên có mang tính đào hoa, lại là sao giờ (được xác định theo giờ sinh), nên mang đậm tính cách phong lưu đa tình, hay thay đổi không chung thủy. Nếu Văn khúc lạc hãm lại gặp Hóa Kị sẽ chủ về tài năng nghệ thuật khó phát huy, dễ gặp rắc rối trắc trở trên các phương diện tình cảm, tiền tài, ăn nói. Nếu lại gặp Liêm trinh, Hỏa tinh, Linh tinh dễ vì tiền của làm lỡ thời cơ. Nếu gặp các sao đào hoa như Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu thì đường tình duyên càng thêm bất lợi, thường gặp chuyện đau buồn bất hạnh.

Sao Văn khúc cũng ưa thích nằm đồng cung với Vũ khúc, nếu nằm đồng cung tại Hợi địa chủ về học vấn uyên bác. Nếu Văn khúc Vũ khúc đồng độ tại Tuất địa thì có thể giảm bớt tính cách cô độc và đào hoa của sao Văn khúc.

Sao Văn khúc là sao Văn chủ về tài hùng biện, bởi vậy không nên đồng cung với sao Cự môn vốn chủ về miệng lưỡi thị phi, nếu ở mệnh nữ lại càng bất lợi, chủ về trắc trở trong đường tình duyên. Nếu sao Văn khúc đứng một mình tại Tuất địa, tại tam phương hội với hai sao Thái dương và Cự môn, sẽ tạo thành cách Đào hoa cổn lãng (Hoa đào dào dạt), dù ở mệnh nam hay mệnh nữ đều chủ về đào hoa cực thịnh, như sóng biển hết cơn này đến cơn khác ập đến, nên đường tình duyên vô cùng trắc trở, phong ba dồn dập.

Văn xương Văn khúc hợp luận - Đại Toàn

文昌 - 文曲

文昌(即文桂)属金,南斗,司科甲,乃文魁之星。

Văn Xương (tức văn quế) thuộc Kim, Nam Đẩu, chủ khoa giáp, là sao đỗ đầu văn.

文曲(即文华)属水,北斗第四星,主科甲星。二星於巳酉丑入庙,寅午戌落陷。

Văn Khúc (tức văn hoa) thuộc Thủy, Bắc Đẩu, sao chủ khoa giáp. Hai sao này nhập miếu ở Tỵ Dậu Sửu, Dần Ngọ Tuất lạc hãm.

文昌或文曲入命宫之人,眉清目秀,幽閒儒雅,有名士风度,博闻广记,聪明好学,有研究精神,机变异常,口舌能辩,并容易一举成名,身荣贵显,一生福寿双全,纵四煞冲破,不为下贱。

Người có Văn Xương hay Văn Khúc nhập Mệnh cung, mày thanh mắt đẹp, nho nhã, có phong thái của danh sĩ, học rộng nhớ nhiều, thông minh ham học, có tinh thần nghiên cứu, cơ biến dị thường, có thể tranh biện, cũng dễ dàng thành công, thân vinh quý hiển, một đời phúc thọ song toàn, dù bị Tứ Sát xung phá, cũng không hạ tiện.

昌曲入命之人对文学艺术都有兴趣学好,具有诸如诗歌. 散文. 音乐. 绘画. 歌舞. 演艺. 学术. 技术等才华,表达能力强,而文曲星带有桃花气息,文昌星则无。

Xương Khúc nhập Mệnh là người có hứng thú ưa thích văn học nghệ thuật như thơ ca, tản văn, âm nhạc, hội họa, nhảy múa, diễn tấu, học thuật, kĩ nghệ... khả năng biểu đạt cao. Văn Khúc còn mang ý nghĩa đào hoa, Văn Xương thì không.

昌曲入命宫的女性,容貌美丽,身段不错,多才多艺,性生活需求多,纵然富贵,亦主心思复杂好幻想,与男性恐有感情纠葛。入庙平常,加吉曜富贵。陷地逢擎羊. 陀罗. 火星. 铃星. 巨门. 天机. 七杀. 破军. 贪狼. 化忌等星冲破,则下贱. 孤寒. 淫欲。

Nữ mệnh có Xương Khúc nhập Mệnh, dung mạo xinh đẹp, thân hình đẹp, đa tài đa nghệ, nhu cầu đời sống tình dục cao, tuy rằng phú quý nhưng cũng chủ tâm tư phức tạp hay tưởng tượng, có vướng mắc về tình cảm với nam giới. Nhập miếu bình thường, hội cát tinh phú quý. Hãm địa hội Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Cự Môn, Thiên Cơ, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Hóa Kỵ xung phá thì hạ tiện, nghèo, dâm dục.

文昌 - Văn Xương

1 . 文昌主人清秀端庄,见多识广,头脑反就敏捷,福寿并臻。入庙旺之宫,身有暗痣,大多为红痣,黑痣亦不忌,于午戌宫陷地,身有斑痕,体瘦。

Văn Xương chủ người đoan trang thanh tú, kiến thức rộng, đầu óc mẫn thiệp, phúc thọ đều có. Nhập cung miếu vượng thì trên người có nốt ruồi kín, đa phần là nốt ruồi son, nốt ruồi đen thì cũng không xấu, ở cung Ngọ Tuất hãm địa, thân thể có vết lốm đốm, người gầy.

2 . 文昌守命,庙旺见诸吉,文章盖世,功名显赫,尤喜与文曲同宫。

Văn Xương thủ Mệnh, nhập miếu hội nhiều cát tinh, công danh hiển hách, đặc biệt hỉ đồng cung với Văn Khúc

3 . 文昌喜金四局生人,富贵双全,先难后易,中晚年有声名。

Văn Xương hỉ người Kim tứ cục, phú quý song toàn, trước khó sau dễ, trung vãn niên có danh tiếng.

4 . 文昌守命,陷见诸凶,亦主舌辨,巧艺,本事高人。

Văn Xương thủ Mệnh, hãm địa hội nhiều hung tinh, cũng chủ mồm mép, cơ xảo, bản lĩnh hơn người.

5 . 文昌会太阳. 天梁. 天同. 禄存,可发挥文化. 学术. 艺术. 管理方面的才华,主富贵。

Văn Xương hội Thái Dương, Thiên Lương, Thiên Đồng, Lộc Tồn, có thể phát huy tài năng về phương diện văn hóa, học thuật, nghệ thuật, quản lý, chủ phú quý.

6 . 文昌武曲守身命宫,文武兼备,有卓越干,从事文化. 政治. 商业均能出人头地。

Văn Xương Vũ Khúc thủ Thân Mệnh cung, văn võ kiêm toàn, có tài cán nổi bật, nếu làm về văn hóa, chính trị, thương nghiệp có thể đứng đầu.

7 . 文昌与擎羊同守,又有廉贞. 七杀同守,主人诈偽。

Văn Xương đồng thủ với Kình Dương, lại có Liêm Trinh, Thất Sát đồng thủ thì chủ người gian trá giả dối.

8 . 文昌贪狼同宫,政事颠倒。

Văn Xương Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo, rối rắm.

9 . 文昌贪狼于巳亥宫守命,加煞化忌,主粉骨碎裂尸,夭亡。

Văn Xương Tham Lang thủ Mệnh ở cung Tỵ Hợi, hội sát tinh Hóa Kỵ, chủ xương cốt vỡ vụn, chết yểu.

10 . 文昌巨门同宫,丧志,遇挫折限颓废,或有时善於见风使舵。

Văn Xương Cự Môn đồng cung, mất ý chí, gặp hạn trắc trở thì chán chường hoặc có lúc gió chiều nào xoay theo chiều đó.

11 . 文昌破军同宫,主有水灾,如被淹死,或患泌尿. 生殖系统及肾臟方面的疾病。

Văn Xương Phá Quân đồng cung, chỉ tai nạn đường thủy, ví dụ như chết đuối, hoặc bị bệnh về đường tiết niệu, sinh sản hay gan thận.

12 . 文昌. 左辅会吉星,可做高官。

Văn Xương, Tả Phụ hội cát tinh, có thể làm quan to.

13 . 文昌化科在命,主人学习优秀,有才华及学识,考试能金榜题名。

Văn Xương Hóa Khoa ở Mệnh, chủ người học hành ưu tú, có tài hoa và kiến thức, thi cử có tên bảng vàng.

14 . 文昌可与化科拱照,利於考学,能金榜题名。或文昌在官禄宫化科亦是。

Văn Xương củng chiếu với Hóa Khoa, lợi cho việc thi cử, có tên bảng vàng. Hoặc Văn Xương ở cung quan lộc Hóa Khoa cũng vậy.

15 . 文昌陷於天伤,顏回夭折。(命有劫空羊陀,限至七杀,羊陀迭并方论)

Văn Xương hãm và Thiên Tướng, chết yểu. (Mệnh có Kiếp Không Dương Đà, hạn có Thất Sát Dương Đà thì luận như trên)

16 . 文昌化忌在命,亦主其人好学,但学业恐有阻,庙旺化忌灾小,陷在化忌灾重。

Văn Xương Hóa Kỵ ở Mệnh, cũng chủ người hiếu học, nhưng có trở ngại trong học tập, miếu vượng Hóa Kỵ tai nạn nhỏ, hãm địa gặp Hóa Kỵ thì tai nạn lớn.

文曲 - Văn Khúc

1 . 文曲守命,与文昌同宫,加吉星,为科第之客,入仕无疑。

Văn Khúc thủ Mệnh, đồng cung với Văn Xương, hội cát tinh, đỗ đầu khoa thí, chắc chắn làm quan.

2 . 文曲主人有舌辩之才,博学多能,陷地好卖弄才学,但华而不实。文曲单守命身宫,更逢凶曜,亦作无名舌辨之辈。

Văn Khúc chủ người có tài tranh biện, bác học đa năng, hãm địa thì thích khoe khoang tài học, hào nhoáng mà không thực. Văn Khúc đơn thủ Mệnh Thân cung, lại hội hung diệu, cũng là kẻ mồm mép vô danh.

3 . 文曲武曲入庙,主人有卓越才干,从事文化. 政治. 商业均能出人头地。逢左右,威名赫奕,为将相之材,必为部长级官员。

Văn Khúc Vũ Khúc nhập miếu, chủ người có tài cán nổi bật, theo văn hóa, chính trị, thương nghiệp có thể đứng đầu. Nếu hội Tả Hữu, uy danh hiển hách, là là bậc tướng quân, tất là quan chức cấp bộ trưởng.

4 . 文曲武贪於丑限,防溺水之忧。

Vũ Khúc Vũ Tham ở Sửu, đề phòng nơi sông nước dễ chìm, đắm.

5 . 文曲廉贞同宫,必作公吏。

Văn Khúc Liêm Trinh đồng cung, tất là quan lại (ghi chép)

6 . 文曲羊. 陀同宫,又有廉贞或七杀同守,主人诈偽。

Văn Khúc Dương, Đà đồng cung, lại có Liêm Trinh hay Thất Sát đồng thủ, chủ người gian trá giả dối.

7 . 文曲入命,对医卜星相. 宗教. 玄学. 心理学等具有天份,若与太阴. 贪狼. 天同同宫,则更为明显。故经云:"文曲太阴同宫,九流术士"

Văn Khúc nhập Mệnh, có duyên với y học chiêm tinh tướng học, tôn giáo, huyền học, tâm lý học, nếu có Thái âm, Tham Lang, Thiên Đồng đồng cung thì càng rõ ràng. Vì vậy sách có viết: “Văn Khúc Thái âm đồng cung, cửu lưu thuật sĩ”.

8 . 文曲贪狼同宫,政事颠倒。

Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo.

9 . 文曲巨门同宫,丧志。

Văn Khúc Cự Môn đồng cung, mất ý chí.

10 . 文曲破军同宫,水灾,恐被淹死,或患泌尿生殖系统及肾臟方面的疾病

Văn Khúc Phá Quân đồng cung, thủy tai, e bị chết đuối, hoặc bị bệnh về đường tiết niệu, sinh sản và gan thận...

11 . 文曲天梁同宫,位至台纲。(二星同在午安命上格,寅宫次之)

Văn Khúc Thiên Lương đồng cung, tầng lớp quan (hai sao này đồng cung an Mệnh ở Ngọ thì là thượng cách, thứ đến là cung Dần)

12 . 曲子. 梁午,拱冲者亦佳。

Khúc Tý, Lương Ngọ, củng xung chiếu cũng tốt.

13 . 文曲居午戌陷地,做事颠倒

Văn Khúc cư Ngọ Tuất hãm địa, làm việc rối rắm.

14 . 文曲化科在命,主人写作能力优秀,才识过人,并有文艺方面的才华。文曲化科居命身宫. 迁移宫. 官禄宫皆主能金榜题名,并有社会声誉。

Văn Khúc Hóa Khoa tại Mệnh, chủ người có năng lực viết lách ưu tú, kiến thức hơn người, cũng có tài hoa văn nghệ. Văn Khúc Hóa Khoa cư Mệnh Thân, Di, Quan Lộc cung đều chủ có tên bảng vàng, cũng có danh tiếng trong xã hội.

15 . 文曲化忌,亦主好学,但学业不顺,在外名声不佳,多遭人譭谤,文曲陷地化忌尤为不吉。

Văn Xương Hóa Kỵ, cũng chỉ hiếu học, nhưng học hành không thuận lợi, tiếng tăm bên ngoài không tốt, hay bị người khác vu cáo, phỉ báng, Văn Khúc hãm địa Hóa Kỵ cũng không tốt.

文昌文曲合论 - Văn xương Văn khúc hợp luận

1 . 文昌文曲,为人多学多能。若是二者之一于陷地单守身命,又逢羊陀火铃劫空等凶星同宫或冲破,则善於诡辩,常与人起口舌之争,有死不认错的习气,或自命清高,愤世嫉俗,多为怀才不遇的人物,华而不实,名利皆虚。故经云:"昌曲陷宫凶煞破,虚誉之隆"

Văn Khúc Văn Xương, là người đa học đa năng, nếu như một trong hai sao hãm địa đơn thủ Mệnh Thân, lại hội hung tinh Dương Đà Hỏa Linh Địa Kiếp đồng cung hay xung phá thì giỏi mồm mép ngụy biện, thường tranh cãi với người khác, có chết cũng không chịu thừa nhận lỗi sai của mình, hoặc tự cho mình thanh cao, câm hận thế tục, đa phần là những người có tài nhưng không gặp thơi, hào nhoáng mà không thực, danh lợi đều chỉ là hư ảo. Vì vậy sách có viết: “Xương Khúc hãm cung hung sát phá, hư dự chi long”.

2 . 昌曲夹命最为奇,必是贵格。假如命在丑宫,文昌在寅,文曲在子是来夹,不贵即富,亦要命宫叁方吉多方论。或命宫在未,昌曲在午申二宫来夹亦是。日月安命丑未,前后有昌曲或左右夹,男命贵而且显。

Xương Khúc giáp Mệnh là đặc sắc nhất, tất là quý cách. Nếu Mệnh của cung Sửu, Văn Xương ở Dần, Văn Khúc ở Tý giáp, không quý tất phú, cũng cần phải có tam phương Mệnh cung cát tinh nhiều thì mới luận như vậy. Hoặc Mệnh cung ở Mùi, Xương Khúc ở Ngọ Thân hai cung giáp cũng vậy. Nhật Nguyệt an Mệnh Sửu Mùi, trước sau có Xương Khúc hay Tả Hữu giáp, Nam mệnh quý hiển.

3 . 昌曲在巳亥守命,与庙旺之紫微七杀. 天府. 天同. 太阳. 太阴同,不贵即当大富,

Xương Khúc tại Tỵ Hợi thủ Mệnh, đồng cung với Tử Vi Thất Sát, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái âm miếu vượng, không quý tất đại phú.

4 . 昌曲在丑未宫坐命或,或同在迁移宫,必为卯时或酉时生人,叁合吉星,为贵命,常侍君王之侧。

Xương Khúc tại Sửu Mùi tọa Mệnh hoặc đồng cung tại cung Di tất là người sinh giờ Mão hoặc giờ Dậu, tam hợp có cát tinh, là số quý, thường phục vụ bên cạnh bậc quân vương.

5 . 昌曲在辰戌宫从命,己年生人文曲化忌,辛年生人文昌化忌,壬年生人见羊陀,再行辰戌限,有水灾或被淹死。故经云:"昌曲己辛壬生人,限逢辰戌虑投河"

Xương Khúc tại Thìn Tuất nhập Mệnh, người sinh năm Kỷ Văn Khúc Hóa Kỵ, người sinh năm Tân Văn Xương Hóa Kỵ, người sinh năm Nhâm hội Dương Đà, lại gặp hạn Thìn Tuất, có thủy tai hoặc bị chết đuối. Vì vậy sách có viết: “Xương Khúc Kỷ Tân Nhâm sinh nhân, hạn phùng Thìn Tuất lự đầu hà”.

6 . 安命寅申,本命之奴僕宫在丑未,文昌文曲同宫坐守,则命身必遇劫空冲照,再有羊陀,若行限至七杀或羊陀迭并,必死。故经云:"昌曲陷於天伤,顏回夭折"

An Mệnh Dần Thân, cung Nô Bộc tại Sửu Mùi, Văn Xương Văn Khúc đồng cung tọa thủ, Mệnh Thân tất có Không Kiếp xung chiếu, lại có Dương Đà, nếu hạn gặp Thất Sát hoặc Dương Đà tất chết. Vì vậy sách có viết: “Xương Khúc hãm vu thiên thương, nhan hồi yểu chiết”.

7 . 文昌文曲,女命不喜见之,虽聪明才华,机巧伶俐,但水性杨花,易招蜂引蝶,并多淫欲,故经云:"女人昌曲,聪明富贵只多淫". "杨妃好色,叁合文曲文昌;

Văn Xương Văn Khúc, nữ mệnh không hợp, tuy thông minh tài hoa, cơ xảo lanh lợi, nhưng thủy tính dương hoa, dễ thu hút đám ong bướm, cũng đa dâm dục, vì vậy sách có viết: “Nữ nhân Xương Khúc, thông minh phú quý chỉ đa dâm”, “Dương phi háo sắc, tam hợp Văn Xương Văn Khúc”.

8 . 女命命宫. 身宫. 福德. 夫妻宫见昌曲四煞兼化忌,若不为娼终夭折。

Nữ mệnh Mệnh cung, Thân cung, Phúc Đức cung, Phu Thê cung hội Xương Khúc Tứ Sát và Hóa Kỵ, nếu không là ca kỹ thì chết yểu.

9 . 昌曲同居于福德宫,为"玉袖添香",必当大权之职,以命宫庙旺会吉方论,且一生亦多艳福。

Xương Khúc đồng cư cung Phúc Đức, là cách “ngọc tụ thiêm hương”, tất nắm đại quyền, lấy Mệnh cung miếu vượng hội cát tinh thì luận vậy, cũng chủ một đời tươi đẹp, có diễm phúc.

10 . 文昌文曲会廉贞贪狼于巳亥宫坐命,为人心术不正,好虚夸,言语多虚少实,并为丧命夭折的格局,若命宫有化忌星,或会羊陀,决然寿夭。

Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh Tham Lang tại Tỵ Hợi tọa Mệnh, là người tâm thuật bất chính, thích khoe khoang, lời lẽ đa hư thiểu thực, là cách cục chết yểu, nếu Mệnh cung có Hóa Kỵ hoặc hội Dương Đà, quyết đoán rằng thọ yểu.

11 . 昌曲破军逢,刑克多劳碌,为贫士,须防水厄。昌曲与廉贞破军在卯同宫,或与破宫在寅宫坐命,谓之"眾水朝东",逢恶杀冲破,註定一世奔波,并常逢惊骇之事。

Xương Khúc Phá Quân phùng, hình khắc lắm lao lực, là bần sĩ, cần chú ý phòng thủy ách. Xương Khúc và Liêm Trinh Phá Quân tại Mão đồng cung, hoặc cùng Phá Quân ở Dần cung tọa Mệnh, là cách “chúng thủy triều đông”, phùng ác sát xung phá, quyết đoán một đời bôn ba, hay gặp sự việc kinh hãi.

12 . 昌曲左右会羊陀,当生异痣。

Xương Khúc Tả Hữu hội Dương Đà, có nốt ruồi lạ.

13 . 昌曲禄存,尤为奇特,为吉利命式,一生名利双收。

Xương Khúc Lộc Tồn, rất đặc biệt, là cách cát lợi, một đời thu được danh lợi.

14 . 禄存守命,叁合得昌曲拱照,无不富贵。

Lộc Tồn thủ Mệnh, tam hợp được Xương Khúc củng chiếu, phú quý.

15 . 天机太阴在寅申坐命,与昌曲同宫或加会,不论男女,皆有色情烦恼。

Thiên Cơ Thái âm ở Dần Thân tọa Mệnh, đồng cung hay hội chiếu với Xương Khúc, bất luận nam nữ, đều có phiền não về sắc tình.

16 . 昌曲化科,均主吉利,庙旺吉力倍增,陷弱次之。入官禄宫化科,能考上大学。

Xương Khúc Hóa Khoa, đều chủ thuận lợi, miếu vương thì độ tốt đẹp tăng lên, thứ đến là hãm địa. Nhập cung Quan Lộc Hóa Khoa, có thể đỗ đại học.

17 . 昌曲化忌,入命宫,或在迁移宫,其人在外必有恶名,声誉不佳。见火星. 铃星. 擎羊. 陀罗,其人必有牢狱之灾。二星入庙化忌,其凶较弱,仍主聪明。陷弱化忌甚凶,还有文书上的麻烦,多口舌是非,为人好说,劫輒损人,自私。

Xương Khúc Hóa Kỵ, nhập Mệnh cung, hoặc ở Di cung, là người ở ngoài tất có danh tiếng xấu. Hội Hỏa tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà la, là người có tai họa ngục tù. hai sao này nhập miếu Hóa Kỵ, thì độ hung khá yếu, vẫn chủ thông minh. Hãm địa Hóa Kỵ cực hung, có rắc rối về giấy tờ, lắm khẩu thiệt thị phi, là người hay nói, ức hiếp người khác, tự tư.

18 . 文昌或文曲入命宫,不论庙陷,均主人记忆力强,甚至过目不忘。

Văn Xương hoặc Văn Khúc nhập cung Mệnh, bất luận miếu hãm, đều chủ người có trí nhớ tốt, thậm chí chỉ nhìn qua cũng không quên.

19 . 文昌文曲在巳酉丑入庙,安命宫於此,主聪明富贵。

Văn Xương Văn Khúc tại Tỵ Dậu Sửu nhập miếu, an Mệnh cung tại đây thì chủ thông minh phú quý.

20 . 文昌或文曲与贪狼同守命宫,主人风流而且虚偽,为官者亦主政事颠倒

Văn Xương Văn Khúc và Tham Lang đồng thủ Mệnh, chủ người phong lưu mà giả dối, nếu là quan thì chủ chính sự điên đảo, rối rắm.

Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Văn Xương và Văn Khúc

Những Nguyên Nhân Của Phong Thủy Nhà Làm Cho Gia Chủ Phá Sản Hay Tai Họa

Tại sao có nhiều nhà khi xây dựng nhà xong rồi, rất khang trang, to đẹp, có người còn chi phí cho ngôi nhà của mình đến gần 10 tỷ đồng. Có nhà hợp hướng với mệnh chủ, có nhà không hợp hướng, có nhà hướng lại được chính kim. Nhưng rất nhiều nhà sau khi đến ở thì mọi thứ trở nên thảm hại: làm ăn thua lỗ, bệnh tật, ốm đau, thất thoát quá nhiều. Vậy nguyên nhân là ở đâu ?
Những Nguyên Nhân Của Phong Thủy Nhà Làm Cho Gia Chủ Phá Sản Hay Tai Họa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Nguyên nhân thì có rất nhiều, có nguyên nhân do phạm vào hình thế bên ngoài:
+ Nhà bị con đường đâm trực diện hay hơi lệch,
+ Nhà bị đối diện với trại giam, cơ quan công quyền, đối diện nghĩa trang, đền đình...
+ Nhà bị góc nhọn đâm đến,
+ Nhà bị ngay cạnh nhà vệ sinh công cộng,
+ Nhà bị cô âm, cô dương,
+ Nhà bị ao xung trước nhà, hay bạch hổ há miệng,
+ Và các xung sát khác...

===== Những nguyên nhân này thì các chuyên gia phong thủy có kinh nghiệm xử lý hóa giải sẽ biến hung thành cát một cách nhanh nhất, thậm chí có người chỉ cần hóa giải ngày hôm trước (các đồ vật được khai quang và đặt đúng ngày giờ tốt theo Quẻ dịch) thì ngày hôm sau đã buôn bán tốt, có nhiều khách hàng, sự nghiệp thăng tiến.

- Nguyên nhân do bố trí trong nhà:
+ Tâm nhà bị xuyên tâm hoặc động khí: tức cầu thang đặt tại tâm nhà, hoặc tại tâm nhà có nhiều cửa của các phòng thông thiên tại khu vực trung cung.
+ Chân cầu thang đè lên trên bể phốt,
+ Bếp đặt không đúng cung vị tốt,
+ Bàn thờ đặt không đúng cung,
+ Các cung vị không được kích hoạt hoặc bị kìm hãm,
==== Đây là nguyên nhân khiến rất nhiều trường hợp dù nhiều nhà hợp hướng nhưng vẫn bại sản, gặp nhiêu tai họa khi về nhà mới.

Những trường hợp này thì phải thiết kế. Dùng các phép cao cấp trong địa lý như An Thần Sát để phân cung và thay đổi vị trí các phòng ban để hấp thụ các khí tốt cho phòng thờ, bếp...Để làm được việc này đòi hỏi thầy phong thủy phải uyên thâm Phép An Thần Sát và có khả năng nhìn khí đất, sự di chuyển của khí đất thì mới hiệu nghiệm và biến hung thành cát.

- Nguyên nhân do ảnh hưởng của các sao. Đây là dựa theo sự di chuyển của cửu tinh trong huyền không phi tinh, tức sự di chuyển của chín ngôi sau (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử), những ngôi sao này phi tinh theo vận (20 năm), phi tinh theo năm, theo tháng, theo ngày, giờ. Vậy như thế nào là phạm vào thế hao tài, tổn hại nhân định:

+ Nếu theo vận mà tại cung tọa có song tinh đáo tọa thì nhà này khi dựng xong và đến ở sẽ dần dần không còn một đồng nào, từ giàu trở thành nghèo hèn, khốn khó. 
Ví dụ trong vận 8, hướng nhà tại sơn ất, tọa tân thì tại cung tọa có 2 sao số 8. vì sao hướng tinh 8 bị lạc vào sơn tọa nên nhà này không có tài lộc.

+ Nếu theo vận mà thế trận sao trong cửu tinh bàn lập sơn hướng phạm phải thướng sơn há thủy, tức là sao đương vận của sơn tinh lạc vào cung hướng, còn sao hướng tinh đương vượng lạc vào sơn tọa sẽ là cho gia chủ khi nhập trạch sẽ tổn về nhân đinh, bệnh tật, tài lộc cũng không có, nghèo hèn và chết chóc.

+ Nếu vận bàn mà lập sơn hướng cho ngôi nhà tại cung hướng có 2 sao đương vận của sơn tinh và hướng tinh cùng đóng tại một cung thì chủ về vượng tài lộc nhưng nhân đinh thì bị hao tổn, không có con trai.

+ Nhiều vận bàn khác với những thế trận sao, và kết hợp với hình thế loan đầu sẽ làm cho ngôi nhà bị những ảnh hưởng xấu về nhân đinh hay tài lộc, điều này phải khảo sát thực tế, tính toán cụ thể thì mới có cách hóa giải.

+ Sao lưu niên theo năm cũng vô cùng tác động đến ngôi nhà. do đó cũng cần hóa giải.

Ví dụ năm nay 2013 sao ngũ hoàng nhập trung cung, nhất là những ngôi nhà có cầu thang tại tâm nhà, những nơi kinh doanh mà tại khu vực tâm nhà có hệ thống đèn điện, loa đài, màu sắc là màu vàng, hay đỏ sẽ làm cho ngôi nhà kinh doanh bị mất khách, ốm đau (phù thuộc vào bát tự ngày tháng, giờ năm sinh của mọi người thì sẽ biết hung hại ra sao).

====  Để hóa giả và kích hoạt cho những ngôi nhà này thầy phong thủy cần phải căn cứ vào hình thế bên ngoài để tính toán và thu sơn xuất sát cho đúng thì hóa hung thành cát. đồng thời kích hoạt bằng các pháp khí phong thủy theo những phép riêng nhất định sẽ giúp gia chủ biến hung thành cát ngay lập tức.

- Nguyên nhân tại Cửa cổng, Cửa chính.

+ Cơ sở tính toán: 
Dùng phép An thần sát để an thần sát cho cửu cung khí trường (địa lý cấp cao)
Dùng phép Khai môn điểm thần sát để mở cổng, cửa chính (địa lý cấp cao)

+ Khi tính toán 2 phép trên mà thấy cửa chính của ngôi nhà bị phạm vào khí thiên hình, đại sát, độc hỏa, thì ngôi nhà đó sẽ gặp họa và thất bại trong kinh doanh khi  về ở nhà mới.

+ Khi cửa chính gặp được khí thiên lộc, âm quý nhân, dương quý nhân, thiên mã thì đến ở nhà đó sẽ có đại lộc, đại phúc, mọi điều tốt lành.

+ Khi tâm nhà gặp độc hỏa, đại sát, thiên hình, thì làm cho 8 cung khác bị ảnh hưởng xấu, cũng là tai họa.
=== Trường hợp mà dùng 2 phép an thần sát trên thấy khí xấu tại cửa thì cần phải điều chỉnh mở cửa chính tại nơi có khí thiên lộc, thiên mã, âm quý nhân, dương quý nhân là tốt nhất. còn có thể dùng các vật liệu, đồ pháp khí phong thủy để hóa giải và kích hoạt nhanh nhất.
Trong phong thủy coi trọng cửa chính, cửa cổng, vì họa phúc do cửa mà gây ra. Do đó nếu cửa chính, cửa cổng tốt thì nhà đắc lộc, còn không tốt thì nhà gặp họa liên miên.

+ Chọn ngày giờ, tháng, Năm động thổ cũng là nguyên nhân gây họa, nếu chọn phải ngày sát chủ hoặc các ngày xấu theo quẻ dịch thì xây xong hoặc đang xây dựng sẽ gặp họa. nếu chọn ngày giờ tốt theo quẻ dịch thì mọi việc hanh thông.

Chính vì vậy khi xây dựng nhà cửa khách hàng hay nhờ đến phong thủy thiết kế phong thủy cho ngôi nhà trước khi thiết kế xây dựng và xây cất để phân bổ các cung khí trường sao cho phù hợp với các phòng, vị trí bài trí nội thât trong nhà. có như vậy ngôi nhà của chúng ta mới là Một Trạch Cát.


Lưu ý: các đồ vật phong thủy phải được khai quang, đặt đúng ngày giờ và đúng cung vị thì mới có tác dụng, nếu sai cung vị, ngày giờ và không được khai quang thì sẽ không có tác dụng mà còn làm xấu hơn.

Nguồn Phong Thủy Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những Nguyên Nhân Của Phong Thủy Nhà Làm Cho Gia Chủ Phá Sản Hay Tai Họa

Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Hỏa

Người tuổi Thân mệnh Hỏa là người sinh năm Bính Thân 1956, 2016... có sự thông minh và nhanh nhạy.
Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


tuoi than menh hoa
 
Người tuổi Thân mệnh Hỏa là người sinh năm Bính Thân 1956, 2016...

Mang tính cách chung của người tuổi Thân, họ đều rất thông minh, nhanh nhạy. Họ có đầu óc mưu lược của người tuổi Tỵ song không quá đa nghi. Họ cũng là người linh hoạt, giỏi ứng biến.

Ngoài trí tưởng tượng phong phú và giàu sức sáng tạo, họ còn là người có ý chí phấn đấu và luôn muốn dựa vào khả năng của bản thân để giải quyết mọi khó khăn trong công việc cũng như cuộc sống. Tuy nhiên, 1 số người tuổi Thân mệnh Hỏa khá cảm tính trong cách xử lý công việc.

Họ luôn thích thể hiện sự vui vẻ và chính điều này khiến người xung quanh thường không đoán được họ đang suy nghĩ gì. Đây cũng là những người thích tranh biện để đi tới quan điểm rõ ràng. Tuy không có được ý chí kiên định như người tuổi Thân mệnh Mộc nhưng họ cũng không phải là người dễ đầu hàng trước thất bại mặc dù có thể họ sẽ cần đến 1 khoảng thời gian dài để lấy lại tinh thần.
 
Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ sẽ có 1 cuộc sống an bình. Nếu không được sao tốt tương trợ họ sẽ phải sống cảnh tha hương hoặc chịu sự sai bảo,chi phối của người khác.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi cho người tuổi Thân mệnh Hỏa

THIẾT KẾ PHÒNG KHÁCH HỢP PHONG THỦY

Thiết kế phòng khách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nền nhà vững trãi là yếu tố quan trọng nhất

Phòng khách là nơi mọi người trong gia đình quây quần, đoàn tụ, đây cũng là phòng có tỷ lệ vững chắc cao nhất so với các không gian khác. Chính vì vậy, yêu cầu đầu tiên đối với nền phòng khách là phải kiên cố vững chãi nhằm tối đa sự bất tiện cho các hoạt động của con người. Ngoài ra, sự vững chãi của nền nhà cũng có những căn cứ nhất định trong phong thủy học và kiến trúc

  • Phòng khách là phòng đa năng, nên nó được coi là bộ mặt, căn cơ gốc rễ của gia chủ. Nếu chất lượng nền nhà tại phòng khách không bảo đảm, sẽ khiến vận thế của gia chủ suy yếu.
  • Phong thủy học cho rằng, nhà mà làm ở những khu vực nền đất không vững chắc, dễ bị sụt lún thì đó là hung trạch, sức khỏe của mọi thành viên đều bị đe dọa
  • Đứng về góc độ kiến trúc, nên nhà không vững chắc, sụt lún, đứt gẫy địa hình sẽ khiến cho tuổi thọ công trình giảm xuống, và đe dọa nghiêm trọng tới sự bền vững của căn nhà

Diện tích căn phòng dùng để làm phòng khách

So với phòng ngủ, phòng đọc sách thì không cần quá rộng, tuy nhiên đối với phòng khách thì căn phòng để chọn lựa làm phòng khách phải là căn phòng rộng nhất.

  • Phòng khách là nơi thường xuyên được sử dụng và là nơi tập trung đông người, bao gồm nhiều thành viên và cả những người khác nữa. Bởi vậy cần rỗng rãi, mới có đủ không khí, đặc biệt nhiều người còn có thói quen như hút thuốc lá. Nếu phòng không đủ rộng, hạn chế về khí thở. Phòng khách rộng mới đủ không gian cho mọi hoạt động của nhiều người.
  • Phòng khách rộng rãi thể hiện sự khoáng đạt, hào phóng của chủ nhân ngôi nhà. Nhờ sự khoáng đạt, rộng lượng có sức bao dung lớn, nên quý nhân trợ giúp, bạn bè hợp tác, ủng hộ. Phòng khách thường gần cửa chính vào căn nhà, nên là nơi thu nạp khí từ môi trường bên ngoài rất mạnh mẽ, với diện tích rộng, có thể thu nạp nhiều cát khí, nên tiền tài theo đó mà tụ lại
  • Phòng khách nhỏ hẹp thường tạo nên cảm giác bức bối, tù túng về tâm lý, hạn chế về tầm nhìn, quan hệ vợ chồng không được hòa hợp, quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp cũng không tốt, bất lợi nhiều cho gia đạo và sự nghiệp

Chú ý đến hình dạng của phòng khách

Những hình lý tưởng để xây dựng những căn phòng từ xưa đến nay vẫn là hình vuông và hình chữ nhật. Bởi, hình vuông, hình chữ nhật thuộc đức Thổ, báo hiệu sự tín nghĩa, đoan chính, vận thế bình ổn, phong khí đường hoàng, vừa đắc trung, lại vừa đắc chính, không thiên lệch mất cân bằng bất cập hoặc thái quá.

Nhiều người thiết kế phòng khách theo các hình dạng đặc biệt vi nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu về kiến trúc, tuy đạt về mặt cách tân trong kiến trúc, phá vỡ nền tảng truyền thống, tuy nhiên những phòng khách có hình dạng đặc biệt này trường khí thường rất phức tạp, mạnh yếu khác nhau, biến động mạnh mẽ, như vậy sự nghiệp của chủ nhân ngôi nhà cũng có những biểu hiện lên xuống thất thường.

phòng khách có hình dạng đặc biệt

Phòng khách có hình dạng đặc biệt, vận thế gia đình không ổn định

Xử lý khắc phục tình trạng xà ngang áp đỉnh trên phòng khách

Trong bất cứ căn phòng nào cũng bất lợi khi có xà ngang, dầm nhà xuất hiện trong cấu trúc. Tuy nhiên, tác dụng của xà ngang, hay dầm nhà trong kiến trúc, xây dựng rất quan trọng, nó có chức năng gánh đỡ trần nhà, mái nhà, diện tích trần nhà, mái nhà càng lớn thì vai trò của nó càng trở nên quan trọng.

Đối với phong thủy, dầm nhà, xà ngang gây nên áp lực, sự ức chế đối với thần kinh và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe. Chúng ta có thể kê bàn ghế tránh vị trí dầm nhà, hoặc dùng trần giả che đi kết cấu bất lợi này

Hóa giải các góc nhọn trong phòng khách như thế nào

Đối với trường hợp phòng khách xuất hiện những góc nhọn thường gây bất lợi cho thị giác, lại ảnh hưởng đến sự lưu thông cát khí trong căn phòng. Chúng ta có thể hóa giải những bất lợi này bằng những biện pháp như sau:

Thiết kế những vật dụng làm cho những góc nhọn đó biến mất như đặt ở đó một chiếc tủ, đặt một chậu cây có tán lá rộng để che lấp góc nhọn, hoặc đặt một chiếc bình gốm lớn ở tại góc nhọn đó.

Phong thủy gọi cách đặt chậu cây trên góc nhọn là cách hóa gải sát khí theo phương pháp phủ xanh.

  

Hóa giải góc nhọn trong phòng khách bằng tủ sách

Ánh sáng và màu sắc trong phòng khách ra sao

  • Ánh sáng trong phòng khách: Khác với chức năng của các phòng khác. Như phòng ngủ, phòng đọc sách…Phòng khách là một nơi có nhiều hoạt động cho nên nó thuộc thể dương, thể động, vì vậy phòng khách cần nhiều ảnh sáng tự nhiên, ánh sáng càng mạnh, càng sắc nét càng tốt và kỵ nhất u ám. Theo nguyên tắc “minh đường, ám thất”, thì ngoài ánh sáng tự nhiên, còn cần trang bị nhiều thiết bị chiếu sáng mới phát triển công danh sự nghiệp của chủ nhà và các thành viên     

  

 Phòng khách đầy đủ ánh sáng

  • Màu sắc: Đối với màu sắc không nên trang trí không nên màu mè, cầu kỳ kiểu cách, lòe loẹt, sa hoa, lộng lẫy, nên chú trọng đơn giản, nhưng tạo nên thế tương sinh, tương hợp hữu tình đối với không gian tạo nên bối cảnh thiên địa hữu tình.

+ Phòng khách hướng Đông, Đông Nam nên chọn màu xanh lục

+ Phòng khách hướng Tây, Tây Bắc nên chọn màu trắng hoặc màu vàng kim

+ Phòng khách hướng Tây Nam, Đông Bắc nên sử dụng màu vàng

+ Hướng Nam nên sử dụng màu đỏ hoặc màu vàng cam.

Ngoài ra , còn có thể căn cứ vào tổ hợp tứ trụ của chủ nhà và hướng nhà để lựa chọn các màu hỉ, kỵ tạo nên thế tương trợ trong mệnh lý

Bố cục sơn thủy hữu tình và mối tương quan của tủ tường trong phòng khách

Sơn thủy hữu tình, nghĩa là núi sông hòa hợp với nhau. Đối với phong thủy cũng mang màu sắc quy luật, đạo lý vốn có của tự nhiên và xã hội, đối với tự nhiên là quy luật tự nhiên là sơn thủy hữu tình, đối với đạo lý xã hội đó chính là các mối quan hệ cường – nhược, chủ - khách, quân – thần, Phụ - tử. Ví dụ: Bàn ghế uống trà thì ghế thuộc sơn, bàn thuộc thủy. Trong mối quan hệ này thì phải tương xứng với nhau, không được để một thứ quá cao, còn một thứ quá thấp, hay một vật quá to, còn một vật lại quá nhỏ, nếu xảy ra tình trạng mất cân bằng đó mối quan hệ nhân luân, xã hội bị phá vỡ,khách – chủ không tương ứng…cũng là bất lợi tuy nhỏ nhưng rất đáng quan tâm.

Đối với tủ tường cũng nên chọn loại tủ có kích thước phù hợp cân xứng với căn phòng. Mối quan hệ giữa tủ tường và các đồ vật khác cũng được chú trọng rất kỵ bố cục, có thủy không có sơn hoặc có sơn không có thủy. Ví dụ: Một chiếc bàn uống nước thấp và một chiếc tủ tường thấp nữa sẽ tạo nên thế có thủy mà không có sơn.

Hải Triều


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: THIẾT KẾ PHÒNG KHÁCH HỢP PHONG THỦY

Mục sở thị khuôn mặt cô nàng sướng trăm bề

Đuôi mày hướng lên, mắt to, sống mũi thẳng và cằm tròn trịa là đặc điểm khuôn mặt của cô gái sướng trăm bề.
Mục sở thị khuôn mặt cô nàng sướng trăm bề

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đuôi lông mày hướng lên trên

Đa phần những cô nàng sở hữu tướng lông mày đẹp, có phần đuôi mày hơi hướng lên trên thường làm việc cẩn thận, có nguyên tắc nhất định. Hơn thế, vẻ ngoài của họ cũng sở hữu những nét “vạn người mê”, nên đi tới đâu cũng trở thành tâm điểm chú ý và được nhiều người giúp đỡ nhiệt tình.

Tuy trong cuộc sống sẽ có lúc trải qua nhiều trông gai nhưng cuối cùng cô nàng này vẫn đạt được mục đích. Vận thế của họ khá tốt, cuộc sống hiếm khi phải lo về vấn đề vật chất hay tình cảm.

muc-so-thi-khuon-mat-co-nang-suong-tram-be

2. Đôi mắt to và có thần khí

Chủ nhân của đôi mắt to, lòng trắng và lòng đen rõ ràng, ánh nhìn chứa nhiều thần khí thường có cuộc sống an nhàn, vô tư lự và dễ dàng đạt được mục tiêu phấn đấu trong cuộc đời.. 

Những cô nàng này tính cách kiên định, dù gặp phải khó khăn trở ngại nào cũng luôn lạc quan tin vào tương lai tươi sáng và dũng cảm tiến về phía trước. Điều đó lý giải tại sao, so với bạn bè cùng trang lứa họ lại hưởng cuộc sống sung sướng, an nhàn đến vậy.

3. Sống mũi thẳng và xương gò má bằng phẳng

Những nàng có sống mũi thẳng thì tính cách ôn hòa, ổn định, không dễ bị kích động. Hơn thế, họ lại có trái tim lương thiện, hành xử trượng nghĩa nên cuộc sống lúc nào cũng nở hoa tươi sáng. 

Cộng thêm đặc điểm xương gò má bằng phẳng, không bị nhô cao, chứng tỏ đây là người có nhân duyên tốt, dù đi tới đâu, gặp tình huống nguy cấp nhường nào cũng được mọi người giúp đỡ, tai qua nạn khỏi, gặp hung hóa cát.

muc-so-thi-khuon-mat-co-nang-suong-tram-be-1

4. Cằm tròn trịa, đầy đặn

Phần lớn những ai có tướng cằm tròn trịa, đầy đặn rất kiên trì trong cuộc sống. Chừng  nào chưa đạt được mục tiêu mong muốn, họ vẫn chưa thể dừng lại. Họ học hành hăng say, làm việc hết mình, bất kể thời gian, sức lực.

Bên cạnh đó, cô nàng này lại biết đối nhân xử thế khéo léo, hiếm khi làm phật lòng ai đó, nên cuộc sống khá bình yên, an nhàn.

Mr.Bull (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mục sở thị khuôn mặt cô nàng sướng trăm bề

Tướng người qua khuôn mặt –

Nguyên tắt coi tướng khuôn mặt trước tiên là phải quan sát một cách tổng quát để có ý niệm sơ khởi về sự cân xứng chung về hình thể rồi sau đó mới đi sau vào chi tiết của từng nét tướng khác nhỏ hơn. Thông thường, người ta thường gặp các danh xưng tổ
Tướng người qua khuôn mặt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người qua khuôn mặt –

Gia đình mạt vận vì những lỗi phong thủy đơn giản

Vận dụng phong thủy tốt sẽ tạo nguồn năng lượng dồi dào, mang lại hưng khí cho gia đình. Nhưng cũng chỉ cần phạm một vài lỗi phong thủy đơn giản, gia chủ cũng
Gia đình mạt vận vì những lỗi phong thủy đơn giản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận dụng phong thủy tốt sẽ tạo nguồn năng lượng dồi dào, mang lại hưng khí cho gia đình. Nhưng cũng chỉ cần phạm một vài lỗi phong thủy đơn giản, gia chủ cũng lĩnh đủ hậu quả.


1. Lối vào và hành lang tối tăm


Lối ra vào, cụ thể là cửa ra vào trong ngôi nhà đóng vai trò thu hút nguồn năng lượng tích cực vào nhà. Do đó, nó cần đảm bảo phải sáng, sinh động, thoáng đãng thì tài lộc gia chủ mới vượng.

Gia dinh mat van vi nhung loi phong thuy don gian hinh anh
Lối cửa ra vào và hàng lang tối tăm khó hút năng lượng tích cực vào nhà

Ngoài ra, nếu để hành lang tối, sâu hút thì lượng "âm khí" sẽ tụ nhiều, ảnh hưởng đến những ngôi nhà trong khu vực. Đồng thời là một trong những lỗi phong thủy đơn giản nhưng lại ảnh hưởng nhiều tới vận thế của gia chủ. Bạn nên thắp sáng khu vực này bằng đèn hoặc để cửa sổ vừa hút ánh sáng tự nhiên, thoáng mát. Thậm chí, trang trí bằng cây xanh cho không gian có màu sắc, khí lưu thông tốt.

2. Thiếu sự hài hòa giữa 5 yếu tố phong thủy


Không ít gia chủ vẫn hay nhầm lẫn khi kết hợp 5 yếu tố phong thủy chính: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong phong thủy. Nhiều người đọc được rằng khu vực hướng Nam của ngôi nhà bị chi phối bởi yếu tố lửa nên đã đặt nến đỏ tại góc này. Trên thực tế, việc bổ sung thêm lửa vào khu vực mang yếu tố Hỏa sẽ khiến Hỏa quá mạnh, các nguồn năng lượng xung quanh bị đốt rụi. Thậm chí, gia chủ còn dễ gặp phải các tai ương liên quan đến lửa.

 3. Để hoa héo úa trong nhà

Việc dùng hoa tươi hay cây xanh trang trí trong nhà là tốt, phát huy được hiệu quả phong thủy nếu như nó được chăm chút kĩ càng và luôn tươi đẹp.

Gia dinh mat van vi nhung loi phong thuy don gian hinh anh 2
Để hoa héo úa trong và ngoài ra đều gây bất lợi cho tài lộc của gia chủ

Ngược lại nếu để cây cảnh, chậu hoa, bình hoa đã héo úa và chết trong nhà hoặc ngoài sân sẽ mang lại cảm giác vận khí đang héo mòn dần. Phải luôn tạo cho ngôi nhà màu sắc tươi vui, như vậy mới có năng lượng tốt. Do vậy, hãy chú ý chăm sóc tốt các loại cây trồng, dù trong nhà hay ngoài trời.

4. Phòng ngủ có quá nhiều thiết bị điện


Theo phong thủy phòng ngủ, đây là nơi riêng tư, lãng mạn vì thế cần sự yên tĩnh, thông thoáng và không bị tác động bởi các đồ vật phát ra năng lượng. Để các thiết bị điện hay điện tử như tivi, máy vi tính, máy chơi game, điện thoại… trong phòng ngủ hầu như là sai lầm phổ biến nhất trong các gia đình. Đó chính là nguyên nhân gián tiếp làm rạn nứt mối quan hệ vợ chồng một cách thầm lặng.

5. Đặt sai vị trí phòng tắm

Vị trí đặt phòng tắm trong ngôi nhà cũng ảnh hưởng khá lớn tới toàn cấu trúc phong thủy cũng như vận mệnh của gia chủ. Các chuyên gia phong thủy đều khuyên rằng không nên để cửa phòng tắm hướng trực tiếp ra cửa trước, hơn nữa cũng cực kì cấm kị để phòng tắm trên đầu nhà bếp.

Những tà khí do ô uế trong phòng tắm sẽ ảnh hưởng đến nguồn năng lượng lửa thu hút tài lộc của nhà bếp, từ đó gây ra những bất lợi cả về tiền bạc và sức khỏe cho gia chủ cũng như những người sinh sống trong ngôi nhà.

6. Treo gương đối diện nhau

Gia dinh mat van vi nhung loi phong thuy don gian hinh anh 3
Treo gương đối diện nhau là đại kị trong phong thủy

Theo phong thủy nhà ở, một trong những điều tối kị chính là treo gương đối diện nhau, đặc biệt đó là những tấm gương khổ lớn. Bởi khi đó, vùng không gian ở giữa hai gương sẽ là những nguồn năng lượng phản xạ, đối lập nhau, khiến cho gia chủ và người thân gặp phải nguồn khí không có lợi.

Ngoài ra, để gương đối diện với cửa ra vào cũng là điều đại kị trong phong thủy nhà ở. Nếu trong trường hợp phải treo gương đối diện nhau, có thể đặt ở giữa những chậu cây cảnh để tạo vẻ mĩ quan, cũng như hóa giải phong thủy xấu cho ngôi nhà.

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gia đình mạt vận vì những lỗi phong thủy đơn giản

Trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy

Trong trang trí nhà theo phong thủy, người mệnh Thủy nên sử dụng các màu trắng, xanh lam, đen... Ngoài ra, họ cũng có thể bài trí bể cá, chậu cây thủy sinh để gặp thuận lợi trong sức khỏe và công việc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc có lợi nhất cho người mệnh Thủy là màu trắng, thuộc Kim. Kế đến là các màu bản mệnh như đen, xanh lam; các màu thuộc Mộc như xanh lá cây và màu gỗ. Nếu trang trí nhà theo phong thủy, tốt nhất người mệnh này nên chọn màu trắng làm màu chủ đạo.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 1 Màu sắc có lợi nhất của người mệnh Thủy là màu trắng.

Để hỗ trợ cho mệnh, người mệnh Thủy nên sử dụng các đồ dùng hay các vật trang trí có màu bản mệnh là đen hoặc xanh lam. Ngoài ra, do Thủy sinh Mộc, họ cũng có thể sử dụng gam màu xanh, nhưng không nên quá nhiều.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 2 Xanh lam cũng là gam màu hỗ trợ tốt cho người mệnh Thủy.

Do Thổ khắc Thủy, người mệnh Thủy không nên trang trí nhà bằng các gam màu nâu và vàng.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 3 Người mệnh Thủy nên tránh các màu nâu, vàng.

Những thứ đại diện cho Thủy là nhà tắm, điều hòa nhiệt độ, bể cá, tranh vẽ về nước. Người mệnh Thủy nên đặt bể cá trong nhà, trồng các loại cây thủy sinh và bố trí một bồn tắm lớn, bởi chúng có ý nghĩa như một cái hồ chứa nước.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 4 Cây thủy sinh tượng trưng cho hồ nước.

Các đồ vật thuộc Kim cũng có tác dụng hỗ trợ cho vận mệnh của người mệnh Thủy. Ngược lại, đồ vật có tính Thổ như gốm sứ, đá lại có ảnh hưởng xấu, nên tránh hoặc hạn chế sử dụng.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 5 Người mệnh Thủy nên hạn chế sử dụng các chất liệu đá, gốm...

Vì Thủy sinh Mộc, người mệnh này cũng có thể sử dụng đồ gỗ, nhưng chỉ nên ở mức vừa phải bởi Mộc quá nhiều sẽ khiến Thủy sẽ bị tổn hại. Ngoài ra, khi sử dụng đồ gỗ, vải vóc, đồ da nên kết hợp với màu trắng để hạn chế những ảnh hưởng bất lợi.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 6 Sử dụng gỗ với mức độ vừa phải.

Kính hay thủy tinh đều láng bóng như kim loại và nước, do đó chúng mang đặc tính của cả Kim và Thủy, là vật dụng và vật trang trí lý tưởng cho người cần bổ sung tính Thủy.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 7 Chất liệu kính hoặc thủy tinh giúp bổ sung tính Thủy.

Người mệnh Thủy nên sử dụng các loại trang sức làm từ pha lê tím - loại đá phong thủy đặc trưng cho hành Thủy để tăng cường thêm sức khỏe.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 8 Pha lê tím.

Để thêm may mắn và thuận lợi trong công việc, người mệnh Thủy nên trang trí nhà bằng những đồ vật có hình khỉ và lợn - hai loài vật đại diện cho Thủy.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 9 Khỉ và lợn là 2 con vật tượng trưng cho hành Thủy.

Các đồ vật, chất liệu thuộc Thủy không nhiều do vậy mệnh người này có thể sử dụng tranh vẽ hoặc vật trang trí có hình sóng nước để thay thế hoặc sử dụng màu sắc để bổ sung.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 10 Thêm tính Thủy bằng các vật trang trí có hình sóng nước.

Người mệnh Thủy nên trồng 1 hoặc 6 chậu cây sau: thủy quỳ, dương xỉ, xương rồng tròn, thường xuân, trúc phú quý, cây đại tướng quân và lục thảo trổ để thêm có lợi trong sự nghiệp và tư gia.

trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 11 Đại tướng quân. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 12 Dương xỉ. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 13 Lục thảo trổ. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 14 Cây thường xuân. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 15 Thủy quỳ. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 16 Trúc phú quý. trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy 17 Cây xương rồng.

1 và 6 là hai con số thuộc về phương Đông, đồng thời thuộc hành Thủy. Nếu ở chung cư, những người thuộc mệnh này nên chọn số tầng và số nhà có 1 và 6 ở đuôi. Các số thuộc Kim 4 và 9 cũng tốt cho người mệnh Thủy. Người mệnh này nên tránh các con số thuộc Thổ là 0, 5 và thuộc Hỏa là 2, 7.

Theo Tri thức trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí nhà theo phong thủy đối với người mệnh thủy

Gợi ý giúp cải thiện nhà lỗi phong thủy phần 2

Một ngôi nhà không thể không có khiếm khuyết, để cải thiện những ngôi nhà lỗi phong thủy, hãy cùng tham khảo những gợi ý sau đây nhé !
Gợi ý giúp cải thiện nhà lỗi phong thủy phần 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tìm đuợc một ngôi nhà tốt hoàn toàn theo phong thủy là điều không dễ dàng. Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn”, suy rộng ra một căn nhà có những khiếm khuyết là điều khó tránh. Dưới đây là một vài gợi ý để cải thiện ngôi nhà có thế lỗi phong thủy.

3. Nhà xấu do cấu trúc bên trong nhà


Cấu trúc bên trong ngôi nhà thường có hai dạng: những cấu trúc không nhìn thấy được (ngầm ở bên dưới) như bể nước ngầm hoặc bể phốt,…. và những cấu trúc có thể nhìn thấy được (ở bên trên) như cầu thang, phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, nhà vệ sinh,…

Về mặt cấu trúc bên trên, ví dụ phổ biến nhất là cầu thang đặt ở trung tâm nhà. Phong thủy quan niệm, khu vực trung tâm nhà (trung cung) đóng vai trò rất quan trọng, mang hành Thổ. Cầu thang, với tính chất vươn lên trên cao mang hành Mộc. Như vậy, nếu cầu thang đặt ở giữa nhà thì Mộc sẽ khắc Thổ (theo thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc), không tốt cho căn nhà. Đây cũng là một trong những lỗi phong thủy nhà ở.

 
Goi y cai thien the nha loi phong thuy (phan 2) hinh anh
 
Để hóa giải, có thể điều chỉnh tâm nhà sang một vị trí khác bằng thủ pháp cấu trúc lại diện tích sàn nhà, có thể nới rộng khu vực sân vườn để tạo thêm một phần diện tích ở làm cho tâm nhà đã chuyển ra một vị trí khác. 
 
Trong trường hợp bất khả kháng thì treo một chiếc đèn lồng đỏ phía trên cầu trang. Đèn lồng đỏ mang hành Hỏa sẽ giúp trung hòa những yếu tố xấu do hành Mộc khắc hành Thổ gây ra.
 
Vể mặt cấu trúc bên dưới, lỗi phạm về phong thủy hay gặp nhất là bể nước hoặc bể phốt đặt giữa tâm nhà. Bể phốt ở giữa trung cung nhà tạo ra khí xú uế, còn bể nuớc làm cho phần trung tâm khuyết hãm là một điểm xấu dưới góc nhìn Phong thủy.
 
Trường hợp này cơ cấu lại tổng thể nhà sao cho phần bể phốt không nằm trong khu trung tâm nhà là được. Có thể nới rộng diện tích để thay đổi tâm nhà, hoặc đưa ra các biện pháp kỹ thuật để di dời bể phốt. Đối với bể nước, chúng ta có thay thế bằng bình inox đặt ở trên các tầng trên
 
Một trường hợp xấu nữa cũng rất hay gặp là khu vực nấu nướng trong gian bếp ở bên dưới khu vực nhà vệ sinh. Đây là một điều hết sức tránh vì những khí uế tạp của nhà vệ sinh có thể ảnh hưởng không tốt đến gian bếp. 
 
Nếu không thể di dời khu vệ sinh hay gian bếp thì nhất thiết phải giữ cho nhà vệ sinh luôn sạch sẽ, thông thoáng. Cũng có thể bố trí những chậu cây xanh trong nhà vệ sinh để giảm bớt các tạp khí. Một giải pháp khác mà nhiều chuyên gia phong thủy khuyên gia chủ nên sử dụng là rải một lớp sỏi trắng trên sàn nhà vệ sinh.    (Còn tiếp)
Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 1) Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 3)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gợi ý giúp cải thiện nhà lỗi phong thủy phần 2

Tuổi Tuất thờ Phật nào tốt nhất

Tuổi Tuất thờ Phật nào là phù hợp nhất? Cùng theo dõi bài viết dưới đây để lựa chọn vật phẩm công hiệu nhất cho mình nhé.
Tuổi Tuất thờ Phật nào tốt nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm 2017 tuổi Tuất hại Thái Tuế, có Thái Tuế phủ đầu nên nhiều hung tai, nên thỉnh bản mệnh Phật về đeo để bảo hộ bình an, hóa sát, tăng cường may mắn và thịnh vượng. Tuổi Tuất thờ Phật nào là phù hợp nhất? Cùng theo dõi bài viết dưới đây để lựa chọn vật phẩm công hiệu nhất cho mình nhé.  

1. Bản mệnh Phật của người tuổi Tuất


ban menh phat tuoi tuat
 
Vị Phật nào độ mệnh cho người tuổi Tuất? Đó là Phật A Di Đà, là thủ hộ thần của người cầm tinh Tuất. Tuổi Tuất có đặc trưng là thông minh, trung thành, hiếu học, trách nhiệm nên được cấp trên coi trọng, người xung quanh mến yêu. Nhưng vì cá tính cố chấp, dễ nổi giận nên người khác khó lòng thân cận.   Tuổi Tuất thờ Phật nào tốt nhất? Hãy thỉnh Phật A Di Đà, Ngài sẽ điều hòa tính cách, mang tới sự hòa hợp cho bản mệnh. Bản mệnh Phật A Di Đà ngụ ý tiền đồ vô lượng, không chỉ tăng cường sức hấp dẫn mà còn rất có lợi cho sự nghiệp của người tuổi Tuất.   Những người sinh năm1946, 1958, 1970, 1982, 1994, 2006, 2018 đều cầm tinh Tuất. Mỗi năm sinh đều có khó khăn riêng, sinh năm 1946 lưu ý thân thể, phòng ngừa ốm vặt; sinh năm 1958 cần rèn luyện nhiều, tăng cường sức đề kháng, miễn dịch; sinh năm 1970 cần duy trì trạng thái tinh thần tốt, tỉnh táo, sáng suốt.   Sinh năm 1982 cần chú ý sự nghiệp và bồi dưỡng tình cảm gia đình; sinh năm 1994 cần vững vàng để trưởng thành, vượt qua sóng gió; sinh năm 2006 cần tự mình bồi dưỡng khả năng gánh vác, không thể mãi dựa dẫm vào gia đình.   Người tuổi Tuất nên đeo bản mệnh Phật A Di Đà để bảo hộ bình an, chống thương tổn và phù hộ độ trì may mắn, đỡ đần vận trình. 
 Xem thêm bài viết 7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an
 

2. Tác dụng của bản mệnh Phật năm 2017

 

Năm 2017 tuổi Tuất gặp nhiều áp lực trong công việc, tuy cố gắng làm việc, chăm chỉ cần mẫn nhưng hiệu quả lại không tốt. Áp lực càng lớn thì càng nên thả lỏng, công việc dù quan trọng nhưng không thể hoàn thành trong một sớm một chiều nên hãy bình tĩnh, có như vậy đầu óc mới thông thoáng, ý tưởng sẽ tràn về, khai thông bế tắc.    Năm nay cảm tình thông thuận, nữ mệnh tuổi Tuất có thể sẽ kết hôn. Người đã kết hôn lưu ý vợ chồng có chút tranh cãi nên không khí gia đình không thuận hòa lắm, cần phải trò chuyện để thấu hiểu và nhường nhịn nhau nhiều hơn nếu không tình huống sẽ càng ngày càng gay go.    Người này năm nay vận trình sức khỏe không mấy lạc quan do ảnh hưởng của Thái Tuế, cảnh giác các bệnh da liễu. Ngoài tập trung làm việc, phấn đấu vì sự nghiệp thì nên tăng cường rèn luyện thể lực, điều dưỡng thân thể.   Năm 2017 người tuổi Tuất do ảnh hưởng của hại Thái Tuế nên làm việc cực khổ mà không được hồi đáp, không thu về tài lộc đáng kể. Bạn không nên cùng hợp tác với người khác, sẽ chịu thua thiệt, muốn đầu tư thì càng phải thận trọng hơn nữa.   Khi đã biết người tuổi Tuất thờ Phật nào tốt rồi, hãy thỉnh bản mệnh Phật về mang bên người để được gia trì, độ mệnh, giúp đỡ vận trình thoải mái hơn, giảm bớt tác hại của hại Thái Tuế.
Xem thêm bài viết Thỉnh bản mệnh Phật, đeo phúc bên người

3. Những lưu ý khi đeo bản mệnh Phật


ban menh phat tuoi tuat 1
 
Khi đeo bản mệnh Phật của người tuổi Tuất Phật A Di Đà nên chú ý hai điểm chính như sau: thứ nhất cần khai quang điểm nhãn thì bản mệnh Phật mới phát huy tác dụng; thứ hai Phật A Di Đà công lực thâm hậu, pháp lực vô biên, đã thỉnh về thì không thể tùy tiện gỡ xuống, lại càng không tùy ý để cho người khác chạm đến, bằng không linh khí tiêu tán, vận may bị người khác lấy đi mất.   Mang bản mệnh Phật A Di Đà bên người có thể giảm bớt áp lực, tâm tính được Phật gia trì, dần trở nên hài hòa hơn.   Người tuổi Tuất có tinh thần trọng nghĩa, một khi quyết định làm chuyện gì, nhất định sẽ toàn lực ứng phó. Dựa vào sự hiếu học của bản thân đạt được thành tựu là điều chắc chắn. Nhưng ai cũng có lúc gặp khó khăn bất ngờ, mang thủ hộ thần bản mệnh Phật bên người có thể giúp tuổi Tuất bình ổn tâm tính, bình tĩnh suy nghĩa và có lựa chọn đúng đắn dành cho mình.    Nhất là trong năm 2017 hại Thái Tuế, tuổi Tuất càng nên mang bản mệnh Phật A Di Đà để hóa giải hung tai.
  
Tuổi Tuất hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân? Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 của người tuổi Tuất Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Tuất
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tuất thờ Phật nào tốt nhất

Năng lượng chết mang đến vận rủi trong phong thủy nhà ở

Trong khi mọi người cố gắng cải thiện bằng những vật cầu may trong phong thủy nhưng ở gốc rễ là phải hóa giải những vận rủi trong phong thủy nhà ở.
 Năng lượng chết mang đến vận rủi trong phong thủy nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong khi mọi người cố gắng cải thiện bằng những vật cầu may trong phong thủy nhưng ở gốc rễ là phải hóa giải những vận rủi trong phong thủy nhà ở do việc sắp xếp đồ đạc, bố trí ánh sáng không phù hợp.  

Vận rủi do khí vô hình mang đến

  Phong thủy hình thể thật ra chỉ mới đề cập đến một nửa những vấn đề trong phong thủy. Để đạt được hiệu quả thật sự, ngoài việc sửa chữa và hiệu chỉnh những đồ đạc trong nhà theo phong thủy, bạn còn tiến xa vào lĩnh vực thay đổi những năng lượng gây ra bởi những nguồn lực vô hình. Những nguồn lực này đã mang đến vận rủi trong phong thủy nhà ở của bạn.   Trong những năm gần đây, bí mật của những biểu đồ phong thủy đã làm kinh ngạc nhiều người qua tính hiệu quả của nó. Nhiều người có thể học và vận dụng các biểu đồ phong thủy để cải thiện vận mệnh và có một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
 
Nang luong chet mang den van rui trong phong thuy nha o
 

Chuyển động theo chu kỳ năng lượng
 

Các biểu đồ phong thủy biểu thị sự phân bổ năng lượng trong những khu vực khác nhau của ngôi nhà theo từng thời kỳ. Năng lượng này do dòng khí vô hình mang đến những vận rủi và vận may, liên tục biến đổi từ tốt thành xấu rồi trở lại tốt theo chu kỳ - chu kỳ thời gian được biểu thị theo tháng, năm và chu kỳ 20 năm.

Năng lượng liên tục vận động và luân chuyển theo chu kỳ. Vì vậy, ở bất kỳ thời điểm nào của chu kỳ ngày, tháng, năm, các dạng năng lượng hội tụ với nhau để tạo ra những cấu trúc năng lượng và tập trung vào vận may hay vận rủi. Vì vậy, bệnh tật, tai nạn, thất thoát tài chính, mất việc,… và tất cả những loại vận rủi khác biểu hiện trong không gian vật lý đều gây ra bởi sự trôi qua của thời gian.

Khi biết cách xác định những nguyên nhân gây ra theo chu kỳ và biết cách hóa giải những hậu quả tai hại của vận rủi trong phong thủy nhà ở, bạn sẽ đạt đến đỉnh cao trong việc vận dụng phong thủy.
 
Sự thay đổi theo chu kỳ cũng ảnh hưởng đến những người không có ý thức được sự vận động và thay đổi của thế giới. Vì vậy, nếu trước đây, việc tăng cường các hoạt động nhằm đem lại tài lộc được ưu tiên thì bây giờ, người ta lại quan tâm nhiều đến sức khỏe và các mối quan hệ. Vì thế, nếu các bạn lưu ý hơn trong việc sắp đặt nhà ở thì sức khỏe dồi dào nhờ phong thủy tốt.
 

Năng lượng yếu tạo “hội chứng âm”
 

Điều cốt lõi trong việc vận dụng các biểu đồ phong thủy là để học cách phân biệt các loại năng lượng có hại. Vì vậy, có một sự khác biệt giữa năng lượng yếu không có hại như sát khí, nhưng lại có khả năng gây ra bệnh tật và bất hòa giữa những người trong nhà. Công thức la bàn cung cấp các phương pháp xác định những góc nhà có năng lượng yếu qua một hệ thống mã số tượng trưng cho tình trạng năng lượng.

Các số từ 1 đến 9 đại diện cho các loại năng lượng khác nhau – năng lượng tốt cũng như năng lượng xấu. Thêm vào đó, sự kết hợp giữa các con số với nhau của ngôi nhà, cung cấp thêm thông tin về tình trạng năng lượng khí của từng khu vực.
 
Đọc các biểu đồ phong thủy và bản đồ vận may được suy ra từ các công thức khác nhau thì rất khó. Nếu thực hiện theo từng bước sau đây, bạn sẽ sớm xác định loại biểu đồ phong thủy và bản đồ vận may nào có thể áp dụng cho ngôi nhà của mình.

Xem thêm: Phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân, xua thị phi
 
Nang luong yeu tao hoi chung am
 
 

Sắc thái của năng lượng
 

Trước khi đi sâu vào tìm hiểu các biểu đồ, bạn cần phải hiểu sắc thái của năng lượng. Vì vậy, bạn nên nhớ rằng năng lượng yếu có thể gây ra bệnh tật, tai nạn nhỏ, và sức khỏe yếu. Đôi khi bạn sẽ cảm thầy lờ đờ, mệt mỏi liên tục, nhưng thật sự năng lượng yếu đó không phải do cấu trúc vật lý trong ngôi nhà, mà là do sự trôi qua của thời gian. 
 
Vì vậy, điều cần thiết là phải xác định những khu vực nào trong nhà có năng lượng yếu theo từng năm hoặc từng tháng. Một khi đã xác định được những góc có năng lượng yếu, bạn có thể dễ dàng tăng cường năng lượng cho nơi đó bằng các giải pháp Ngũ hành. 
 

Sát khí gây ra tai nạn và vận rủi
 

Sát khí rất nguy hiểm, nếu không để ý đến những khu vực bị ảnh hưởng bởi sát khí trong nhà, bạn sẽ không hiểu được nguyên nhân tại sao vận rủi lại xảy đến cho những người sống trong khu vực đó. Sát khí mang đến vận hạn rất xấu, thậm chí còn gây ra nguy hiểm đến tính mạng.
 
Nếu biết cách hóa giải sát khí, cuộc sống của bạn sẽ ít tai nạn và được an vui hơn. Vì vậy, bạn nên sử dụng bảng bên dưới, kiểm tra hướng đối diện của ngôi nhà mình rồi nhìn vào cột thứ ba, bạn sẽ biết mình cần phải làm gì để hóa giải sát khí trong khu vực bị ảnh hưởng.

 
DÒ TÌM KHU VỰC CÓ SÁT KHÍ TRONG NHÀ 

NHÀ ĐỐI DIỆN HƯỚNG  VỊ TRÍ CỦA SÁT KHÍ  CÁCH TỐT NHẤT ĐỂ CHUYỂN ĐỔI NĂNG LƯỢNG CỦA KHU VỰC
Đông - Nam Tây - Nam  Đặt một chậu nước tại khu vực bị ảnh hưởng
Nam Tây  Đặt một đèn sáng tại khu vực bị ảnh hưởng
Tây - Nam Đông - Nam  Đặt một đèn sáng tại khu vực bị ảnh hưởng
Đông Tây - Bắc  Đặt một đèn sáng tại khu vực bị ảnh hưởng
Tây Nam  Không cần điều chỉnh
Đông - Bắc Bắc  Không cần điều chỉnh
Bắc  Đông - Bắc  Đặt một chậu nước tại khu vự bị ảnh hưởng
Tây - Bắc Đông  Đặt một chậu nước tại khu vự bị ảnh hưởng
    Xem thêm: 5 lỗi phong thủy nhà ở khiến cuộc sống gia chủ khốn đốn 
 

Dò tìm khu vực có sát khí trong nhà
 

Năng lượng chết tạo ra hội chúng thất bại
 

Năng lượng chết mang đến những điều cực kỳ xui xẻo. Dựa vào công thức tính quái số, bạn có thể xác định được khu vực có năng lượng chết trong nhà do bị ảnh hưởng bởi năng lượng khí mang vận rủi. Theo trường phái phong thủy la bàn, có tám loại nhà được phân chia dựa trên hướng đối diện của căn nhà, từ đó người ta có thể vẽ được bản đồ vận may theo tám hướng.

Có tám loại bản đồ vận may và vị trí của khu vực có năng lượng chết được tóm tắt ở bảng bên dưới. Bạn có thể dựa vào bảng này để xác định khu vực có năng lượng chết trong nhà mình và vận dụng các phương pháp được đề nghị ở đây để chuyển đổi năng lượng khí của khu vực đó thành năng lượng sống động nhằm mang lại lợi ích cho những người sống trong nhà.
 

Cách tính quái số
 

Hướng tốt và xấu của mỗi người thường được xác định dựa trên giới tính và ngày tháng năm sinh thông qua công thức quái số. Có 9 Quái số, mỗi số trực thuộc nhóm hướng Đông, hoặc nhóm hướng Tây. Để tính Quái số, bạn thực hiện theo các bước sau:
 
Nếu ngày tháng năm sinh của bạn nằm trong khoảng ngày 01 tháng 01 và 20 tháng 02 thì bạn cần phải kiểm tra lại năm sinh theo âm lịch. Nếu bạn sinh trước ngày tết âm lịch, bạn phải lấy năm sinh dương lịch trừ 1 trước khi tính Quái số. Ví dụ nếu bạn sinh vào ngày 07 tháng 02 năm 1964 thì bạn phải tính năm sinh của mình là 1963, bởi vì năm 1964 theo âm lịch bắt đầu vào ngày 13 tháng 02.
 
Khi đã xác định chính xác năm sinh của mình, bạn có thể tính Quái số theo công thức đơn giản sau đây:
 
Cộng hai chữ số cuối cùng của năm sinh. Ví dụ, nếu bạn sinh năm 1968 thì cộng hai chữ số cuối: 6 +8 = 14, rồi lấy 1 + 4 = 5.
 
Nếu bạn là nam thì lấy 10 trừ đi số vừa cộng, do đó 10 – 5 = 5
 
Vậy Quái số của bạn nam sinh năm 1968 là 5.
 
Nếu bạn là nữ thì cộng thêm 5, do đó: 5 + 5 = 10, rồi lấy 1 + 0 = 1
 
Vậy Quái số của bạn nữ sinh năm 1968 là 1.  
Do tim khu vuc co sat khi trong nha
 
 

Biện pháp sử dụng ánh sáng
 

Do hình dạng của ngôi nhà bị thiếu một góc, thì khu vực có “năng lượng chết” sẽ ở bên ngoài ngôi nhà. Trong trường hợp này, bạn nên đặt một ngọn đèn chiếu sáng ở góc bị thiếu đó. Điều này không quan trọng bằng trường hợp khu vực bị ảnh hưởng xấu nằm bên trong ngôi nhà.
 

Chuyển đổi năng lượng chết
 

Nếu năng lượng chết không được chuyển đổi, những người sống trong khu vực bị ảnh hưởng của ngôi nhà sẽ chịu hội chứng thất bạn. Dù đã cố gắng nhưng họ vấn khó đạt được thành công. Năng lượng chết sẽ làm tiêu hao sức lực của họ, Vì vậy, bạn cần phải dựa vào bảng dưới đây để xác định khu vực có năng lượng chết.
 
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng nếu dựa vào những công thức phong thủy khác, nếu phát hiện thấy khu vực bị ảnh hưởng bởi năng lượng chết có sao Phi tinh tốt hiện hữu thì các sao Phi tinh này sẽ chuyển đổi một cách có hiệu quả từ năng lượng xấu thành năng lượng tốt. Nếu đó là những ngôi sao xấu, thì ảnh hưởng xấu sẽ gia tăng một cách đáng kể.

PHÁT HIỆN KHU VỰC CÓ "NĂNG LƯỢNG CHẾT"
 NHÀ ĐỐI DIỆN HƯỚNG  KHU VỰC CÓ "NĂNG LƯỢNG CHẾT"  CÁCH TỐT NHẤT ĐỂ CHUYỂN ĐỔI NĂNG LƯỢNG CỦA KHU VỰC
Đông - Nam   Tây  Không cần điều chỉnh
 Nam  Tây - Nam  Đặt một chậu cây lớn ở hướng Tây - Nam
Tây - Nam  Nam  Đặt một bình nước ở hướng Nam 
Đông  Đông - Bắc  Đặt một chậu cây lớn ở hướng Đông - Bắc
Tây   Đông - Nam  Không cần điều chỉnh
Đông - Bắc  Đông  Không cần điều chỉnh
Bắc  Tây - Bắc  Không cần điều chỉnh
Tây - Bắc  Bắc  Đặt một chậu cây lớn ở hướng Đông - Bắc

Kate Nguyễn

Sức khỏe dồi dào nhờ phong thủy tốt Sai lầm phong thủy nhà ở xua đuổi tài lộc 10 bảo vật cải thiện phong thủy ai không biết thì thiệt đủ đường

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năng lượng chết mang đến vận rủi trong phong thủy nhà ở

Nên chọn hoa gì đi tảo mộ trong tiết Thanh minh?

Có rất nhiều lựa chọn khác nhau khi bạn đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh nhưng miễn là đối với bạn loài hoa đó bày tỏ lòng thương nhớ đến người đã khuất
Nên chọn hoa gì đi tảo mộ trong tiết Thanh minh?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thì bạn đều có thể sử dụng.

 
 

Mỗi năm, người ta thường lấy ngày đầu tiên của tiết Thanh Minh là ngày Tết Thanh Minh. Tết Thanh Minh năm 2017 rơi vào 4 tháng 4 dương lịch, mọi người có thể tổ chức lễ tảo mộ du xuân, kết hợp giữa việc cúng lễ tỏ lòng hiếu kính và việc cả gia đình ra ngoại ô tận hưởng không khí trong lành.
 
Giữa tiết Thanh Minh trong lành, trời trong, tươi mới sắc xuân, mọi người có thói quen dâng hương dâng hoa như là một cách tưởng nhớ và bày tỏ lòng thành kính tới người đã khuất. Việc chọn hoa đã thành thói quen thường lệ của chúng ta nhưng ít ai biết rằng, trong ngày này chúng ta nên lựa chọn loại hoa nào mới tốt?   Một điều lưu ý là hoa được dâng lên mộ phần trong những ngày này thường bó thành từng bó với màu sắc đơn giản, mộc mạc, không có mùi hương nồng nặc. Ngoài ra cũng nên để ý tới những điều kiêng kỵ khi đi tảo mộ tiết Thanh Minh phạm phải dễ xui xẻo.  
 

1. Chọn hoa trong tiết Thanh Minh dựa vào màu sắc:

 

Trước đây, trong tiết Thanh Minh truyền thống, mọi người thường dùng cành liễu hoặc hoa đào để đi tảo mộ, tuy nhiên giờ đây chúng ta đã có nhiều sự lựa chọn hơn.
 
Loài họa màu trắng tượng trưng cho sự tiếc thương và nhung nhớ những người đã khuất như như bách hợp, hoa cúc trắng, cây mã đề hoa hồng trắng thường được chọn để dâng hoa khi đi tảo mộ. Màu trắng của những loài hoa này với ngụ ý thuần khiết, thanh cao và chúng đại diện cho sự tôn kính và hi vọng người đã khuất có được một cuộc sống thoát tục, an nhiên nơi thiên đường.   Thời gian qua đi, những phong tục cũ đã dần được thay đổi cho linh hoạt hơn nên việc chọn hoa đi tảo mộ bây giờ đã không còn phải cứng nhắc ở việc phải lựa chọn màu hoa trắng. Màu hoa nào thường nở trong tiết Thanh Minh mà có thể bày tỏ được tấm lòng của con cháu, của người ở lại để có thể sử dụng.
 
Hoa màu vàng cũng biểu tượng cho sự đau buồn và tưởng niệm, trong đó hoa cúc vàng được mọi người sử dụng nhiều nhất và không chỉ dùng cho dịp này. Ngoài ra, ngày nay các loại hoa như lay- ơn, cây hương thảo cũng thường xuyên được dùng để dâng hoa.   
 

2. Chọn hoa trong tiết Thanh Minh tùy vào từng đối tượng để dùng loại hoa khác nhau
 

Khi dâng hoa cho người lớn tuổi hơn chúng ta mà không biết sở thích của họ là gì, có thể dùng hoa cúc vàng hoặc trắng là đã đủ để bày tỏ tấm lòng của mình.

Dâng hoa cho bạn bè cùng trang lứa, không cần phải để ý quá tới hình thức, có thể chọn hoa khi còn sống họ yêu thích nhưng nếu không có thể chọn loại hoa nào khiến bạn gợi nhớ tới họ.

Với người cùng thế hệ, có thể dùng hoa cúc trắng và vàng, ngoài ra cũng có thể dùng các loại hoa màu trang nhã như hoa loa kèn, cẩm chướng…
 

3. Chọn hoa trong tiết Thanh minh dựa vào sở thích của người đã khuất

  Không chỉ dựa vào màu sắc hoa, giờ đây, khi đi tạo mộ, để bày tỏ lòng tiếc thương, nhiều người ưu tiên việc chọn hoa theo sở thích của người đã khuất để thể hiện sự quan tâm, tưởng nhớ tới họ. Điều đó được duy trì như một cách nối dài sự hiện diện của người thân trong gia đình.

Sắc màu hoa càng thắm càng bày tỏ lòng thành kính. Tuy nhiên, không nên vì vậy mà chọn những loài hoa sặc sỡ hoặc mang ý nghĩa của sự chúc tụng để tránh người khác hiểu lầm tâm ý của người dâng cúng.
 
Nếu như người mất lúc tuổi cao, có thể tăng thêm tỉ lệ hoa màu đỏ, hồng, màu sắc ấm áp này thể hiện tình cảm nhớ nhung triền miên của con cháu.   Trên thực tế, có thể sử dụng nhiều loài hoa khác nhau mà con người gán cho những tiếng nói, ý nghĩa riêng. Nhưng dâng hoa cho người đã khuất phải chắc chắn một điều, bất cứ một loài hoa nào dù cầu kỳ hay đơn giản, dù rực rỡ hay đơn sơ được dùng để di tạo mộ trong tiết Thanh Minh đều cùng chung mục đích là bày tỏ tấm lòng thành kính với người thân yêu của chúng ta.   HaTra

9 điều kiêng kỵ chớ làm trong tiết Thanh Minh Cúng Thanh Minh để bày tỏ lòng thành con cháu với tổ tiên Tết Thanh Minh năm 2017 là ngày nào?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên chọn hoa gì đi tảo mộ trong tiết Thanh minh?

phòng làm việc của Lãnh đạo hợp phong thủy

Theo phong thủy học, việc đặt phòng làm việc đúng phương vị tốt lành sẽ giúp các sếp thêm đảm lược, trí tuệ, ảnh hưởng đến sự hưng suy trong quản lý, thành
phòng làm việc của Lãnh đạo hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Theo phong thủy học, việc đặt phòng làm việc đúng phương vị tốt lành sẽ giúp các sếp thêm đảm lược, trí tuệ, ảnh hưởng đến sự hưng suy trong quản lý, thành bại trong sự nghiệp.

Vị trí phòng làm việc đặt ở trung tâm nhiệm sở là tốt nhất. Nếu là nơi kinh doanh, bàn làm việc của người chủ phải đặt ở tầng một hoặc tầng hầm. Ngoài ra, khi bố trí bàn làm việc như vậy, cần chú ý tới một số yếu tố sau:

Bàn làm việc không được kê đối thẳng với cửa ra vào để tránh không bị những tạp âm bên ngoài quấy nhiễu và người ngoài nhòm ngó. Làm như vậy để ngăn “sát khí” rất không lợi cho người ngồi điều hành.

Sau lưng người ngồi phải có “chỗ dựa” như bức tường. Khoảng cách giữa lưng người ngồi với tường không được quá lớn. Phong thuỷ học cho rằng, làm như vậy sẽ tăng thêm tính tự tin cho người ngồi làm việc, tránh không có cảm giác trống trải.

phong lam viec cua Lanh dao hop phong thuy hinh anh
Sau lưng có bức tường sẽ tăng thêm tự tin cho người làm việc


Cửa ra vào ở góc bên phải phía trước bàn sẽ không bị tạp âm quấy nhiễu và không bị người ngoài nhìn ngó bất thường. Cửa ra vào mở ở phía bên trái bàn làm việc có thể thay đổi vị trí một chút, hiệu quả vẫn tốt.Trong trường hợp gian phòng làm việc có cửa sổ, thì cửa sổ không được đối diện với những biểu tượng không lành theo quan điểm của phong thủy, như ống khói, cột điện… Tốt nhất là nhìn qua cửa sổ thấy khoảng rộng bao la, vườn cây xanh tốt, cảnh núi non xanh biếc… Bên ngoài cửa sổ không nên có đường đi qua.

Kỵ bày đặt bàn viết đối diện với cửa và khi ngồi làm việc quay lưng ra cửa. Phong thủy cho rằng, cửa là khí khẩu vừa nạp sinh khí mà đồng thời cũng nạp sát khí. Ngồi quay lưng ra cửa thì sau lưng không có “chỗ dựa”, thường xuyên thấy cột sống bị ớn lạnh vì sát khí.

Cả tạp âm từ ngoài truyền vào sẽ kích thích sống lưng làm cho đại não không yên. Người lãnh đạo ở vị trí này luôn ở trạng thái căng thẳng, tâm trí sẽ rối loạn, dễ mắc sai lầm khi ra quyết định.

Đặt bàn viết nên ở bên phải cửa ra vào, bàn làm việc với cửa ra vào hơi chếch với nhau và xa ra một khoảng cách. Nếu gần cửa ra vào quá, sẽ bị sát khí quấy nhiễu, sẽ giảm hiệu suất lãnh đạo, không những thế, phong thuỷ cho rằng sẽ gây bệnh.

Kỵ sau chỗ ngồi có cửa sổ. Nếu kê bàn làm việc theo lối này, người ngồi sẽ ngăn đường đi của gió và ánh sáng, theo cách nói của phong thuỷ là chặn lại sự lưu thông của khí, biến sinh khí thành sát khí, người ngồi làm việc ở tư thế này, trước sau cũng bị suy vi.

Kỵ gần cửa sổ có đường đi qua. Cửa sổ cũng là nơi nạp sinh khí và sát khí. Nếu gần đường qua lại, thường nạp vào phòng tiếng bước chân người đi, tiếng cười, tiếng nói, tiếng ta thán… chúng đều là sát khí theo cách nói của phong thủy, rất bất lợi cho việc điều hành và sự nghiệp của người làm việc tại đó.

Nếu vì một lý do nào đó phải kê bàn làm việc ở đây, phải có rèm che kín. Nhưng tốt nhất là dời phòng làm việc đi nơi khác.

Không kê bàn làm việc ở giữa phòng, vì sau lưng quá xa tường nhà, không có “chỗ dựa”, người lãnh đạo trước sau sẽ bị cô lập.

Và cuối cùng là áp dụng công thức “Nhất vị, nhị hướng”: Thứ nhất là Vị. Vị là vị trí ngồi làm việc, phải được một trong bốn phương vị tốt theo mệnh cung của người lãnh đạo (vị trí ngồi làm việc tốt được tính so với trung tâm phòng làm việc). Thứ nhì là hướng. Khi ngồi làm việc thì mặt của người lãnh đạo phải nhìn về một trong bốn hướng tốt theo mệnh cung của mình.

Phong thủy học cho rằng, người ngồi làm việc phải được tiếp nhận sinh khí tốt thì mới minh mẫn trong điều hành công việc. Để có điều đó, trên bàn làm việc nên đặt quả cầu phong thủy bằng thạch anh trên phương vị Đông-bắc, hoặc đặt trên phương vị Tây-nam (so với trung tâm bàn làm việc), sẽ tăng thêm lòng hăng say công việc và sự minh mẫn cho người lãnh đạo.

Nguồn: Phong Thủy tổng hợp

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: phòng làm việc của Lãnh đạo hợp phong thủy

Khắc phục những lỗi chết người trong phong thủy nhà chung cư

Nhà chung cư hiện nay khá phổ biến bởi giá cả hợp lý, thiết kế tiện lợi. Tuy nhiên, nếu không may sẽ mua phải căn hộ phong thủy nhà chung cư không đẹp
Khắc phục những lỗi chết người trong phong thủy nhà chung cư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà chung cư hiện nay khá phổ biến và được ưa chuộng bởi giá cả hợp lý, thiết kế tiện lợi. Tuy nhiên, điểm trừ của chung cư là “khuôn mẫu”, không may sẽ mua phải căn có phong thủy không đẹp, không hợp với gia chủ. Mách nhỏ bạn cách cải thiện phong thủy nhà chung cư.

Khac phuc nhung loi phong thuy chet nguoi cua nha chung cu hinh anh
Chọn những màu sơn sáng, hợp ngũ hành

Thay đổi màu sơn là cách dễ nhất để cải thiện phong thủy nhà chung cư. Khi nhận nhà, bạn có thể sơn các màu hợp với mệnh mình theo ngũ hành. Ví dụ như mạng Thủy có thể chọn các màu xanh, mạng Kim chọn màu vàng, mạng Hỏa chọn màu đỏ, cam, mạng Mộc chọn các màu tối như nâu, vàng đất, xanh lá đậm, mạng Thổ chọn các màu tương tự như Mộc nhưng đậm hơn. Các bạn có thể xem chi tiết các bài viết sau để lựa chọn màu sắc hợp với mệnh của mình nhé!

> Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Kim
> Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Mộc
> Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Thủy
> Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Hỏa
> Màu sắc phù hợp nhất với người mệnh Thổ
 
Đối với các căn hộ chung cư, về hướng nhà người mua thường không được chủ động. Thường thì các căn hộ chung cư hay quay về hướng Tây, nơi mà ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào nhà, do đó  khi chọn màu sơn, bạn nên chú ý chọn gam màu sáng ở phòng khách. Bạn cũng có thể đặt những hòn non bộ, cây cảnh nhỏ hay tạo một thác nước nhỏ để chống lại nắng nóng.
 
Do diện tích hạn chế, bao giờ cửa vào các căn hộ chung cư cũng ở cùng một hành lang. Các cửa căn hộ thường đối diện nhau, có cửa lại nằm ở góc cuối trong một hành lang hẹp. Theo phong thủy, căn hộ tốt cần “tàng phong, tụ khí” tức là khí vận chuyển cần được thông thoáng, tránh bị xung đối hoặc bị ngăn chặn. Cửa của các căn hộ đối diện nhà hoặc nằm ở cuối hành lang vi phạm vào nguyên tắc này. Người sống trong những căn hộ này dễ bị thị phi, bệnh tật. Bạn nên xem thêm bài viết: Những lưu ý phong thủy khi chọn nhà chung cư sẽ giúp bạn có thêm hiểu biết về lĩnh vực này, tránh rước họa vào thân. 
 
Để khắc phục điều này, bạn có thể sử dụng phong linh bằng đồng treo ở cửa ra vào căn hộ, giúp cho khí được vận chuyển tốt hơn. Những căn hộ ở cuối hành lang, nên chọn quả cầu thủy tinh treo ở cửa, tránh khí xung chiếu thẳng vào nhà.

Khac phuc nhung loi phong thuy chet nguoi cua nha chung cu hinh anh 2
Treo phong linh đồng trước cửa nhà để lưu chuyển khí
  Ngoài ra, các căn hộ chung cư thường thiết kế theo lối khi đứng ngoài cửa chính, có thể quan sát thẳng vào phòng khách và nhà bếp. Điều này cũng không tốt theo quy luật phong thủy nhà ở, dễ gây nên sự hao tán về tài lộc và bất an cho gia chủ.
 
Khả năng bạn di chuyển vị trí của nhà bếp là khó do có thể còn phụ thuộc vào hệ thống nước của cả chung cư. Để khắc phục điểm xấu phong thủy, có thể sử dụng bình phong chắn nơi cửa hay đặt các vách ngăn nhỏ tách riêng bếp và phòng khách, hoặc vách chắn ngang giữa cửa ra vào và nhà bếp để tránh bếp và cửa chính có thể nhìn thông nhau. Vách này còn có tác dụng trang trí và để vật dụng trong nhà.
 
Đối với gian bếp, có thể sử dụng các quầy bar che chắn. Trên tủ và quầy bar này, nên bày tượng Ngọc Kỳ Lân hoặc tượng Thái Sơn Trấn Trạch quay ngay ra cửa ra vào để hóa giải sát khí, giúp cho khí được tụ, đem lại bình an và may mắn.
 
Cũng do diện tích hạn chế, nhà chung cư có ít nhất hai phòng ngủ riêng biệt, cửa vào phòng thường được bố trí rất gần nhau hoặc đối diện nhau. Trong các phòng ngủ, nhà vệ sinh thường được thiết kế khép kín trong phòng, cửa nhà vệ sinh thường đối diện ngay với giường ngủ. Theo phong thủy, cửa nhà vệ sinh chiếu vào giường ngủ là không tốt cho sức khoẻ, nhất là những người có mệnh Hoả, vì Thuỷ khắc Hoả.
 
Để hoá giải điều này, bạn có thể treo 6 đồng tiền cổ trước cửa nhà tắm. Hoặc bạn có thể đặt một chậu cây nhỏ, một bình hoa tươi ở ngay sát cửa phòng ngủ. Nếu khoảng cách giữa các cửa phòng đủ lớn, thì nên đặt một cây xanh ở khoảng giữa hai cửa phòng. Đối với nhà vệ sinh trong phòng ngủ, bạn nên dùng quả cầu thủy tinh treo ngay nơi cửa ra vào.
 
Với các căn hộ bị khiếm khuyết như vát góc, các góc phòng bị thâm hụt, nên dùng đồ vật hoặc gương soi để bù lại, tạo khoảng trống ảo để có hiệu quả tốt hơn. Ngoài ra, có thể kết hợp dùng tủ kệ hay chậu cây giúp che chắn cũng như tạo cân bằng khí cho ngôi nhà.

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
Nguyên tắc phong thủy bất di bất dịch khi chọn nhà chung cư Kiến thức phong thuỷ quan trọng cho nhà chung cư Treo gương bát quái hóa giải nhà chung cư đối diện nhau là hạ sách Nhà chung cư chuẩn phong thủy: Theo hướng cửa chính hay ban công? Những tiêu chí quan trọng nhất khi chọn mua nhà chung cư Mẹo đặt bàn thờ cho nhà chung cư
  ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khắc phục những lỗi chết người trong phong thủy nhà chung cư

Xem giờ sinh tuổi Mùi: Sinh giờ nào được quý nhân giúp đỡ?

Xem giờ sinh tuổi Mùi:Người tuổi Mùi sinh giờ Ngọ thông minh giỏi giang, ý chí kiên cường, được quý nhân trợ giúp, không ngại khó ngại khổ để lập đại nghiệp
Xem giờ sinh tuổi Mùi: Sinh giờ nào được quý nhân giúp đỡ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem giờ sinh tuổi Mùi: Người tuổi Mùi sinh giờ Ngọ thông minh giỏi giang, ý chí kiên cường, được quý nhân trợ giúp, không ngại khó ngại khổ để lập nên đại nghiệp, vang danh bốn phương. 


Giờ Tý (23h – 1h)

  Theo luận đoán tử vi trọn đời, người tuổi Mùi sinh giờ Tý có Mùi Mộc khắc chế Tý Thủy nên cuộc đời nhiều thăng trầm, số bị hao tài tốn của. Tuy nhiên có sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên tai qua nạn khỏi. Ngoài ra, người này có nhân duyên tốt, vượng vận đào hoa.   

Giờ Sửu (1h – 3h)

  Vì Mộc Thổ và Sửu Thổ đồng hành nên người tuổi Mùi sinh giờ Sửu có nhiều tài năng, phẩm chất đạo đức và nhân duyên tốt đẹp. Người này có nếp sống chỉn chu, dù có phái tài nhưng nếu kiên trì nỗ lực sẽ đạt được thành công nhất định.

Xem gio sinh phu quy cua nguoi tuoi Mui hinh anh
Ảnh minh họa

Giờ Dần (3h – 5h)

  Người tuổi Mùi sinh giờ Dần có sao Tử vi chiếu mệnh nên cuộc đời tốt đẹp, tài vận tốt, công danh sự nghiệp song hành. Nhưng vì Dần Mộc khắc chế Mùi Thổ nên không được gia đình hậu thuẫn, tay trắng lập nghiệp lớn.   

Giờ Mão (5h – 7h)

  Thìn Thổ và Mùi Thổ song hành, lại có Phúc tinh chiếu mệnh nên sự nghiệp tất thành. Người này thông minh giỏi giang, ý chí kiên cường, được quý nhân trợ giúp, không ngại khó ngại khổ để lập nên đại nghiệp, vang danh bốn phương. Tuy nhiên, số người này phải đi xa để cầu tài và cũng có lúc phá tài, nên phải thận trọng. 

Giờ Thìn (7h – 9h)

  Theo tử vi, mệnh người tuổi Mùi sinh giờ Thìn có sao Dịch Mã chiếu rọi nên số phải phát triển sự nghiệp ở xa quê hương, nhưng được bạn bè giúp đỡ nên khá thuận lợi. Người này có số đào hoa, khó tránh khỏi tình trạng ngoại tình sau hôn nhân và dễ vướng họa khẩu thiệt thị phi.

 

Giờ Tỵ (9h – 11h)

  Tỵ Hỏa sinh Mùi Thổ, lại có sao Dịch Mã chiếu mệnh nên người này có số li hương, bôn ba khắp nơi để cầu danh lợi, có quý nhân giúp đỡ nhưng sự nghiệp ở mức trung bình. Nếu đi từ phía Nam sang phía Bắc thì mọi sự thuận lợi.  

Giờ Ngọ (11h – 13h)

  Do Ngọ Hỏa sinh Mùi Thổ nên người tuổi Mùi sinh giờ Ngọ có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc, được gia đình hậu thuẫn, quý nhân trợ giúp nên cũng lập thành đại nghiệp. Tuy có lúc mắc bệnh nhẹ nhưng đều qua khỏi và sống khá thọ.

Giờ Mùi (13h – 15h)

  Người tuổi Mùi sinh giờ bản mệnh có Mộc Thổ đồng hành và sao Hoa Cái chiếu mệnh nên thông minh tài năng, bản chất lương thiện, hay giúp đỡ mọi người. Tuy nhiên mệnh phạm Thái Tuế nên dễ mắc chứng đau đầu, sự nghiệp không được trợ giúp nên gian nan vất vả, đến trung và hậu vận thì vận thế mới chuyển biến tốt.  

Giờ Thân (15h – 17h)

  Vì Mộc Thổ sinh Thân Kim lại có sao Thái Dương chiếu mệnh nên hỉ sự liên tiếp, mưu sự đều thành, tài lộc dồi dào. Tuy nhiên người tuổi Mùi sinh giờ Thân có sao Quả túc chiếu nên có số đơn độc, dễ gặp trục trặc trong hôn nhân. 

Giờ Dậu (17h – 19h)

  Người tuổi Mùi sinh giờ Dậu đa tài, nhanh nhẹn hoạt bát nhưng lại thiếu may mắn, số mệnh lận đận, tiền vận khó tụ tài nhưng trung vận lại tốt đẹp, hậu vận hưởng an nhàn hạnh phúc và sống thọ. Ngoài ra, cần đề phòng họa khẩu thiệt thị phi, ảnh hưởng lớn đến công danh sự nghiệp.  

Giờ Tuất (19h – 21h) 

  Vận thế trong giai đoạn tiền vận của người tuổi Mùi sinh giờ Tuất không tốt, đến trung vận mới phát, hậu vận hưởng phúc lộc đầy nhà. Do vượng vận đào hoa lại có sao Cẩu giảo chiếu mệnh nên gặp trắc trở trong hôn nhân.   

Giờ Hợi (21h – 23h)

  Do Mùi Thủy khắc chế Hợi Hỏa nên có nhiều tiểu nhân quấy phá, cãi cọ liên miên cản trở sự nghiệp. Tuy nhiên mệnh người này có sao Quan phù chiếu rọi nên có quyền vị nhất định, mọi việc đều nằm trong tầm kiểm soát.

Kết luận: Giờ sinh phú quý của người tuổi Mùi là giờ Ngọ, Mão và Sửu.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Người tuổi Mùi hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?
 
Lý giải vì sao người tuổi Mùi thường gặp may mắn
Đắc Minh (Theo XZ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem giờ sinh tuổi Mùi: Sinh giờ nào được quý nhân giúp đỡ?

Kích thước cửa cổng

Nhiều người nghĩ cửa cổng không quan trọng trong nội thất ngôi nhà? Điều này là hoàn toàn sai lầm bởi cửa cổng không chỉ trang trí cho ngôi nhà mà còn đáp ứng sự an toàn cho công trình đó. Kích thước cửa cổng có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người nghĩ cửa cổng không quan trọng trong nội thất ngôi nhà? Điều này là hoàn toàn sai lầm bởi cửa cổng không chỉ trang trí cho ngôi nhà mà còn đáp ứng sự an toàn cho công trình đó.

Kích thước cửa cổng có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến thẩm mỹ cũng như phong thủy của ngôi nhà. Dân gian ngày xưa hay nói “Nhà cao cửa rộng”, nếu nhà cao thì cửa phải rộng mới phù hợp tương ứng. Tuy nhiên không phải cửa cổng rộng hay cao bao nhiêu cũng là tốt, mà nếu cao quá hay rộng quá thì lại không tốt mà ngược lại còn xấu.

Nội dung

  • 1 Kích thước cổng nhà
  • 2 Những điều cần lưu ý khi thiết kế cổng nhà
    • 2.1 Cổng cần cân đối với nhà chính
    • 2.2 Chọn vị trí đặt cổng tránh xung sát với ngoại hình
    • 2.3 Tránh kín cổng cao tường
    • 2.4 Tránh thiết kế lối đi quá hẹp
    • 2.5 Trường hợp nhà nằm trên triền dốc hoặc nền nhà cao hơn mặt sân
    • 2.6 Dẫn sinh khí từ vổng vào nhà theo đường vòng cung hay đường uốn lượn
    • 2.7 Phương hướng cho cổng nhà

Kích thước cổng nhà

Thiết kế cửa cổng đầu tiên cần lưu ý sinh khí trước tiên theo cổng luân chuyển qua sân, vào nhà qua cửa chính và các cửa phụ. Vì thế, có thể xem cổng là lối vào đầu tiên của khí, đồng thời là bộ mặt của ngôi nhà, và cũng là tấm bình phong phân chia không gian trong và ngoài. Những nguyên tắc phong thủy sau đây sẽ giúp bạn thiết kế cho ngôi nhà thân yêu của mình một cổng rào hài hòa về ngoại hình và hòa hợp với không gian xung quanh.

Để chọn kích thước cửa cổng phải căn cứ theo thước Lỗ Ban để chọn kích thước tốt. Tuy nhiên cần lưu ý thêm là nếu chọn theo Lỗ Ban đã được kích thước tốt thì 2 kích thước: chiều rộng, chiều cao phải là âm – dương (Dương là số lẻ, Âm là số chẵn) thì sự phối hợp mới cát tường, “phúc lộc vĩnh trinh”. Chỉ một kích thước dương hay một kích thước âm thôi thì rơi vào “Cô Âm Bất Sinh, Độc Dương Bất Trưởng”.

Nếu hướng trổ cửa cổng mà có sao xấu chiếu tới trong vận đó (1 vận kéo dài 20 năm) mà không thể thay đổi hướng thì tốt nhất cửa cổng nên có kích thước nhỏ. Ngược lại cửa có sao tốt chiếu tới thì nên để kích thước cao rộng. Để cho khí xấu vào ít, mà khí tốt thì vào nhiều. Muốn biết cửa nào có sao xấu, tốt chiếu là căn cứ vào trạch vận phi tinh bàn của căn nhà đó.

Vị trí cửa cổng hoàn toàn phụ thuộc vào Phi Tinh và đo đạc mạch đất: có những mạch đất tốt khi người ra vào đạp lên thì vui vẻ, sảng khoái; còn mạch đất xấu khi ra vào mà đạp lên thì tâm trạng nóng nảy, bực dọc, khó chịu, chứ không nhất thiết phải đặt vào chính giữa. Do đó việc xây dựng các công trình lớn đòi hỏi xem xét về Huyền Không và Địa Lý, để tìm người biết được những kiến thức này không hề dễ, mà các kiến trúc sư càng không nắm rõ vì trong trường kiến trúc chỉ dạy những điều căn bản của phong thủy; Muốn tìm hiểu mạch đất, tầng địa chất dĩ nhiên là không dễ, nên môn này rất kén người để truyền thụ.

Khi đã tính toán được vị trí đặt cửa cổng thì phải cố gắng đặt cửa trong 1 vị trí 1 sơn mà thôi. Không nên đặt cửa quá hẹp thì không thu nạp được khí tốt; còn nếu cửa cổng quá rộng thì khí vào nhà sẽ bị tạp loạn, lai nhiễm vừa xấu vừa tốt nên dẫn đến mặc dù đặt tại nơi tốt, đón khí tốt nhưng cửa, cổng cũng đồng thời đón cả khí xấu. Cách xác định là vẽ sơ đồ căn nhà theo đúng tỷ lệ mà áp lên la bàn để xem kích thước cửa có phù hợp hay nằm trong 1 sơn không. Tâm điểm la bàn chính là trung cung nhà.

Nếu kích thước hay vị trí đặt cửa cổng không đúng có thể bạn sẽ không cảm thấy tài lộc hay sức khỏe bị ảnh hưởng nhưng dứt khoát con người sống trong nhà đó sẽ sinh ra bần tiện, hung ác, nhỏ mọn, hay ghen ghét, đố kỵ, tham lam, … Đây cũng là yếu quyết trong nghề khi xem xét nhà có nhân đinh xấu.

Những điều cần lưu ý khi thiết kế cổng nhà

Cổng cần cân đối với nhà chính

Thiết kế cổng luôn phải phù hợp với kích thước của nhà chính. Sự cân đối, hài hòa giữa các yếu tố luôn là nguyên tắc bất di bất dịch của phong thủy. Nếu cổng quá lớn, quá rộng sẽ khiến khí bị phân tán. Ngược lại cổng quá nhỏ sẽ không tiếp đủ khí cho ngôi nhà.

Chọn vị trí đặt cổng tránh xung sát với ngoại hình

Ngoài kích thước, cần quan tâm nhiều đến vị trí đặt cổng, kiểu dáng cũng như đường dẫn từ cổng vào nhà. Cổng tốt phải đặt ở vị trí sinh vượng, “khí trường” được dẫn dắt để vào một không gian nào là do sự dịch chuyển của các luồng giao thông do con người tạo nên. Vì vậy, bạn phải lưu ý hướng di chuyển từ đường vào cổng nhà sao cho việc đi đứng thuận lợi nhất, tránh được những xung sát từ bên ngoài như góc nhọn của nhà đối diện, đối diện cột điện, cây cổ thụ, các hướng giao thông giao cắt bất lợi khi bạn ra vào nhà.

Tránh kín cổng cao tường

Cũng không nên thiết kế cửa cổng quá “kín cổng cao tường”, nên chừa những khoảng hở giúp không khí lưu thông tốt, tránh tù hãm. Không nên trồng nhiều loại cây um tùm che kín cổng và nên lưu ý chặt tỉa bớt cây cối xung quanh để cổng luôn rộng rãi, sáng sủa.

Cần dẹp bỏ những thứ gây cản trở lối ra vào như cây cối, cột, vách tường… Những thứ này có thể cản trở vận khí, tài lộc và sức khỏe của người sống trong nhà. Tuy nhiên, cây cối ở khoảng cách an toàn với ngõ lại thuận tiện cho việc bảo vệ cửa nhà. Tạo minh đường sáng sủa là nguyên tắc vàng giúp khí lưu thông vào nhà được tốt hơn.

Tránh thiết kế lối đi quá hẹp

Đường từ cổng vào nhà phải cân đối với cổng. Nếu lối đi chật hẹp hoặc bị cây cối rậm rạp che khuất tầm nhìn thì vận khí vào nhà ít hoặc bị mất cân bằng. Trong trường hợp này, có thể khắc phục bằng cách mở rộng lối đi hoặc không trồng những cây to, rậm rạp gần ngõ.

Trường hợp nhà nằm trên triền dốc hoặc nền nhà cao hơn mặt sân

Nếu nhà nằm trên triền dốc hoặc nền nhà chính cao hơn mặt sân thì ngõ vào phải có bậc tam cấp và không được thiết kế quá dốc, bởi bậc tam cấp hẹp và dốc thì gia chủ khó giữ được tiền bạc. Chiều cao của một bậc tam cấp cao nhất chỉ khoảng 17cm.

Dẫn sinh khí từ vổng vào nhà theo đường vòng cung hay đường uốn lượn

“Trực lai trực khứ tổn nhân đinh”, đây là nguyên tắc vàng cho việc chọn nhà, xây nhà cũng như thiết kế các phân luồng giao thông cho nhà ở. Đến thẳng, đi thẳng gây hại người hại của là do các luồng trực xung quá mạnh, không phù hợp với nhịp sinh học của con người.
Việc thiết kế đường dẫn từ cổng rào vào nhà cũng phải đảm bảo nguyên tắc này, đường đi vòng cung hay uốn lượn nhẹ nhàng từ cổng vào đến cửa nhà sẽ tránh tạo ra xung sát.

Phương hướng cho cổng nhà

Nếu bạn chọn phong thủy Bát Trạch, hướng thuận theo cung mệnh của chủ nhà, gia chủ sẽ thuộc Tây Tứ Mệnh, nên mở cổng tương ứng bốn hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam và Đông Bắc. Gia chủ Đông Tứ Mệnh thì mở cổng thuộc các hướng Bắc, Đông, Đông Nam và Nam. Vị trí cổng mở xét từ bên trong khu đất nhìn ra nên tránh bố trí thẳng với ngã ba, tránh dẫn lối “trực xung” với cửa cái của nhà.

Nếu bạn chọn hướng mở cổng theo Dương Trạch tam yếu thì hướng cổng cùng nhóm Đông Tứ Mệnh hay cùng Tây Tứ Mệnh với cửa, phòng chủ nhà và hướng bếp, còn bạn chọn hướng cổng theo trường phái Huyền Không phi tinh thì chọn hướng có sao sinh vượng trên tinh bàn. Dù bạn chọn mở hướng cổng theo trường phái phong thủy nào thì cũng nên chọn chính phương, chính hướng để tránh tạp khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kích thước cửa cổng

Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P3)

33 hóa thân của Bồ Tát trong tháng Phật đản, mỗi vị mang một phong cách, sắc thái riêng nhưng tất cả đều mang một ý niệm chung là
Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P3)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 33 hóa thân của Bồ Tát, mỗi vị mang một phong cách, sắc thái riêng nhưng tất cả đều mang một ý niệm chung là "Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn".


Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh
Lưu Ly Quan Âm hoặc Hương Vương Quan Âm, Cao Vương Quan Âm: Trên tay cầm một chiếc bình ngọc lưu ly, Người đứng trên cánh sen.

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 2
Đa-la-tôn Quan Âm : « Đa-la » nghĩa là « Mắt », « Đồng Tử », trên tay cầm Thanh liên hoa.

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 3
Cáp Lị Quan Âm: Người tọa trong một chiếc vỏ sò hoặc ngự trên một con sò lớn để băng qua biển.

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 4
Lục Thì Quan Âm: Người mặc trang phục giống như một cư sĩ 

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 5
Phổ Bi Quan Âm: Vẻ mặt Người tự do tự tại

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 6
Mã Lang Phu Quan Âm: Mang hình tượng của một người con gái 

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 7
Hợp Chưởng Quan Âm: Người thuộc phái Bà-la-môn

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 8
Nhất Như Quan Âm: Người cưỡi Thừa Vân vi hành trên không trung

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 9
Bất Nhị Quan Âm: Hai tay Người chắp vào nhau, thân mặc thiên y, đứng trên lá sen, nhẹ nhàng di chuyển trên mặt nước

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 10
Trì Liên Quan Âm: Ngự trên Liên diệp, đa số mang dung mạo của một cô gái trẻ

Thang Phat dan niem 33 hoa than Bo Tat cau phuc chung sinh P3 hinh anh 11
Lịch Thủy Quan Âm: Một tay cầm ngọc bình, một tay cầm ấn pháp hoặc cành dương

► Mời các bạn tra cứu Lịch 2016 theo Lịch vạn sự chuẩn xác

(hết)

Phương Thùy
Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P1) Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P2) Ngắm 7 bức ảnh thể hiện sức lan tỏa của Phật giáo Ngắm 10 bức tranh Phật công phu theo phong cách Ấn Độ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P3)

Nếu gặp đàn ông có tướng mặt này, phải mau lấy làm chồng

Nếu trong cuộc sống, bạn đang sở hữu một anh bạn trai, hoặc có một ai đó đang theo đuổi bạn có 1 trong tướng 10 mặt này, thì đừng chần chờ gì nữa, hãy mau mau lấy anh ấy làm chồng ngay nhé.
Nếu gặp đàn ông có tướng mặt này, phải mau lấy làm chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đàn ông có Thiên đình đầy đặn

Trong sách nhân tướng học, thiên đình chỉ vầng tráng, tức vầng trán đầy đặn và rộng là tướng phú quý. Kiểu đàn ông này không chỉ bản thân sẽ có vận mệnh tốt, mà còn mang đến may mắn cho người mình yêu.

2. Đàn ông với đôi mắt có thần

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Một người có tâm trạng ra sao thì sẽ có ánh mắt như thế, vậy nên thông qua đôi mắt, chúng ta có thể thấu hiểu được tâm tư của một người là như thế nào. Tuy nhiên, mắt to hay nhỏ không quan trọng, quan trọng là đôi mắt đó phải có thần (hồn). Đàn ông mắt có thần về phương diện cuộc sống từ đầu đến cuối đều sẽ mang cho bạn sự nồng nhiệt và hăng hái. Còn sống cùng với người đàn ông có đôi mắt vô thần, cuộc sống thường lờ mờ, nhạt nhẽo vô vị giống như ánh mắt của anh ta.

3. Đàn ông mũi dày

Đàn ông có mũi cao thẳng và đầy đặn thông thường sự nghiệp tương đối phát đạt, tài vận rất tốt, duyên phận với người khác giới của kiểu đàn ông này cũng rất hưng thịnh, về phương diện hôn nhân và tình cảm, cũng rất có trách nhiệm.

4. Đàn ông có tướng mặt vuông tròn

Tướng mặt vuông tròn là chỉ xương gò má không lồi ra, mặt chữ điền, mặt tròn là chính. Đàn ông tướng này rất có khí chất, có thể thành công chuyện lớn, tính cách vững chắc, về phương diện tình yêu hôn nhân thì yên ấm và hài hòa. Ngoài ra họ cũng là người rất thấu hiểu đạo lý cuộc sống, năng lực quản lý tiền bạc cũng rất tốt.

5. Đàn ông tai to và dày

Người mà có dái tai to chắc chắn là mẫu người “tốt số không sợ vận xấu hành hạ”. Người có dái tai to dày, vận số tiền bạc, vận số đào hoa đều rất tốt. Đàn ông có dái tai to vô cùng hào phóng, đặc biệt là đối với vợ con của mình, luôn có sự ấm áp, tâm ý thông cảm, có phúc khí, được mọi người yêu mến. Nếu người đàn ông của bạn là người có tướng mạo này, sẽ mang đến phúc khí cho cả gia đình.

6. Đàn ông lông mày dày và rậm

Từ lông mày có thể nhìn ra được tính cách, tình cảm, phẩm đức của một người đàn ông. Đàn ông có lông mày dày và rậm đối với chuyện tình cảm rất nồng nàn. Trong tình yêu thường cuồng nhiệt như lửa, say mê đắm đuối, hy sinh tất cả vì tình yêu.

7. Đàn ông có môi dày, miệng rộng vừa phải

Từ hình dạng môi có thể nhìn ra được tấm lòng và sự độ lượng v..v.. của người đàn ông. Người có miệng quá rộng trong công việc rất hào phóng, nhưng nhiều khi trong chuyện tình cảm cũng rất tùy tiện, người có miệng quá nhỏ trong công việc thường rất bảo thủ, trong vấn đề tình cảm cũng tương đối truyền thống. Người có miệng rộng vừa phải và môi đầy đặn, đối với người khác giới mà nói, rất có sức mê hoặc, nhìn thấy là muốn hôn. Mẫu đàn ông này cũng rất có diễm phúc, nảy sinh tình cảm với mẫu đàn ông này chắc chắn cảm thấy hạnh phúc.

8. Đàn ông có địa cát vuông tròn

Trong nhân tướng học thì địa cát chính là cằm. “Địa cát vuông tròn” chính là cằm đầy đặn. Người đàn ông có tướng mạo này, phú quý bẩm sinh, trọng tình trọng nghĩa, tính cách cởi mở, dễ gần gũi mọi người, trong phương diện tình yêu cũng rất trí tuệ, biết chăm lo gia đình và rất ân cần với đối phương.

9. Đàn ông có hai gò má đầy đặn

Đây là người đàn ông sống có trách nhiệm. Sau khi kết hôn sẽ vì gia đình mà cố gắng làm mọi việc, là một người đáng để giao phó cuộc đời.

10. Đàn ông có lông mày xệ xuống

Loại đàn ông này không có tính khí gì cả, phần lớn đều là người chồng rất tốt, cho dù là bạn đúng hay anh ấy đúng, anh ấy luôn là người đầu tiên nói xin lỗi, đồng thời anh ấy cũng không có khái niệm con số, số tiền kiếm được đều giao hết cho bạn quản lý, quyền nắm giữ tài chính mãi mãi là bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nếu gặp đàn ông có tướng mặt này, phải mau lấy làm chồng

Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Chẳng cần phải mở lời, chỉ cần nhìn ánh mắt nhau thôi thì Trường Giang Nhã Phương cũng đã có thể hiểu cả thế giới của đối phương rồi.
Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chẳng cần phải mở lời, chỉ cần nhìn ánh mắt nhau thôi thì các cặp đôi Kim Ngưu Trường Giang Nhã Phương cũng đã có thể hiểu cả thế giới của đối phương rồi.


Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Câu chuyện tình yêu của cặp đôi Trường Giang Nhã Phương cùng cung, đặc biệt là cung Đất như Kim Ngưu, thường sẽ diễn ra vô cùng lặng lẽ, nhẹ nhàng và ngấm dần vào nhau từ lúc nào không hay. Mọi thứ chỉ bắt đầu từ cái nắm tay vô tình đỡ Nhã Phương cho khỏi ngã, rồi vô tình giữ thật chặt người đẹp trong tay suốt buổi ra mắt. Tình yêu cũng từ đó mà dần phát triển. Một khi hai miếng đất được nặn nhuyễn lại cùng nhau, việc tách họ ra khỏi thế giới tình yêu của hai người, có lẽ là điều bất khả.
 
Điều này cũng lý giải vì sao, dù Trường Giang, với sao Kim ở cung Song Tử, luôn tỏ ra đào hoa, hay tán tỉnh và buông lời ngọt ngào với các cô gái đẹp trên sóng truyền hình, nhưng Nhã Phương chưa từng lên tiếng ghen tuông hay tỏ ra nghi ngờ tình cảm của anh.

Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Về phía Nhã Phương, sự tái hợp với "người tình" Kang Tea Oh dù rất ngọt ngào, tràn đầy xúc cảm của Mặt Trăng Song Ngư, nhưng Trường Giang vẫn tin tưởng cô ở mọi mặt, và rất thông cảm cho người thương của mình.   Với Mặt Trời và sao Thủy trùng nhau cùng ở cung Kim Ngưu, Trường Giang và Nhã Phương vốn rất hợp nhau về tính cách, suy nghĩ và có thể chia sẻ được nhiều điều với nhau trong cuộc sống. Mặt Trăng của hai người tạo góc hòa hợp với nhau, càng khiến cặp đôi dễ thấu hiểu và đồng cảm về mặt cảm xúc trong tình yêu cũng như trong các lĩnh vực khác.
 
Sự hòa hợp đến khó tin này của cặp đôi Kim Ngưu là lí do vì sao tình cảm của hai người xuất hiện rất tự nhiên và nhanh chóng gắn bó, tạo cảm giác bền vững trong mắt công chúng cũng như giới truyền thông. Điều này cũng là minh chứng cho tình cảm thật lòng chứ không đơn giản là tạo "scandal" để PR phim như lời đồn.
Truong Giang Nha Phuong Kim Nguu dung do Kim Nguu hinh anh 2
 
Chuyện nhắc đến việc kết hôn sau một khoảng thời gian chưa dài yêu nhau với cặp đôi này cũng là điều dễ hiểu. Cả nét Kim Ngưu, Cự Giải, cũng như Song Ngư trong Trường Giang Nhã Phương đều thuộc những cung hoàng đạo luôn ưu tiên gia đình, sự ổn định và lâu dài trong chuyện tình cảm, cuộc sống. Chắc hẳn, chuyện cặp đôi này đến với nhau sẽ là sự kết hợp hoàn hảo trong "showbiz" nơi vốn nổi tiếng với nhiều chuyện tình cảm không bền vững.
 
Cặp đôi Trường Giang Nhã Phương ngọt ngào này có thể sẽ không mang lại nhiều tin tức nóng bỏng cho giới truyền thông cũng như các fan hâm mộ, nhưng chắc chắn sẽ mang đến cho các fan những hình ảnh giản dị, nhẹ nhàng của hạnh phúc bình dị, đáng trân quý.

ST.

Những chòm sao được quý nhân phù trợ trong 2 tháng cuối năm Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt Hoài Lâm - Chàng trai Cự Giải đa tài lại may mắn trong tình yêu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trường Giang Nhã Phương: Kim Ngưu đụng độ Kim Ngưu?

SAO MỘ TRONG TỬ VI

mộ (Thổ) *** 1. Ý nghĩa của mộ: - đần độn, chậm, tối, u mê - dâm dục - ch...
SAO MỘ TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mộ (Thổ)



***

1. Ý nghĩa của mộ:             - đần độn, chậm, tối, u mê             - dâm dục             - chủ sự bại hoại, tiêu tán, khô cạn, ngăn trở công việc             - chủ sự nghiệp quả             - chiết giảm phúc thọ

2. Ý nghĩa của mộ và một số sao khác:
Mộ, Thai, Tọa: văn võ kiêm toàn, nhất là ở Tứ Mộ
Mộ, Tuyệt: khôn ngoan, đa mưu, túc trí
Mộ, Hao: Hao làm mất tính chất u tối của Mộ
Mộ, Cái (hay Riêu, hay Mộc): dâm dục, thủ dâm

3. Ý nghĩa của mộ  ở các cung:
a. ở Phúc: Rất đẹp nếu gặp Mộ Thai Tọa ở Tứ Mộ, chủ sự tốt đẹp về mồ mả, đắc lợi cho con cháu về sau.
b. ở Tài: Mộ, Long, Phượng: có di sản tổ phụ Mộ, Hóa Lộc: có của đến tận tay
c. ở Tật: Mộ Cái (Riêu hay Mộc): bị bệnh về sinh dục
d. ở Tử: Không lợi ích cho sự sinh nở: sinh khó, trắc trở

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO MỘ TRONG TỬ VI

Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ phản ứng với ánh sáng, tạo nên những vệt sáng lấp lánh, tạo hiệu ứng mắt cọp, cho nên có tên gọi là đá mắt hổ (cọp). Từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ, phù hợp với nam giới.

Đá mắt hổ (cọp) có vẻ đẹp thu hút nhờ ánh vàng óng ánh, vân sáng rực rỡ khi đặt chúng ngoài ánh sáng mặt trời hoặc dưới ánh đèn huỳnh quang (nhờ các chất gây hiệu ứng ánh sáng).

Đá mắt hổ là một trong những loại thạch anh có cấu trúc độc đáo trong thiên nhiên, cấu trúc dạng sợi khiến đá có các ánh phản quang đẹp lung linh như mắt của loài mèo. Với những công dụng đặc biệt của nó trong đó có trừ tà, chữa bệnh… khiến cho loại đá này rất được ưa chuộng. Tuy nhiên rất nhiều người không biết loại đá mắt hổ nào kỵ tà nhất? loại đá nó có công hiệu nhất. Hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn về loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu để chúng ta có một sự lựa chọn hợp lý.

Nội dung

  • 1 Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu
    • 1.1 Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ
      • 1.1.1 Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên
      • 1.1.2 Mắt hổ tự nhiên có 3 màu
    • 1.2 Tác dụng khác của đá Mắt Hổ
      • 1.2.1 Về phong thủy
      • 1.2.2 Về mặt sinh lý
  • 2 Chú ý khi sử dụng

Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu

Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ

Đá mắt hổ được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới với cùng một mục đích đó là trục trừ ma quỷ, không phải ngẫu nhiên khi loại đá này được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới với 1 mục đích chính như vậy.

Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên

Những nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên: Nam Phi, Trung Quốc, Brasil, Nam Mỹ đều sử dụng trong trang sức hoặc treo những mặt đá trong nhà ( có hoặc không điêu khắc) với mục đích xua đuổi tà ma và đem may mắn đến.

Đá mắt hổ là một loại thánh thạch ( đá thần) của người Ấn Độ, họ quan niệm đá mắt hổ đem lại sự tự kiểm soát, ý chí vượt qua mọi khó khăn đạt đến thành công, những ánh sáng lấp lánh của đá thần mang lại sinh lực thần thánh cho họ.

 

Ngoài ra thạch anh mắt hổ còn có tác dụng nâng cao khí chất và sự tự tin ở người sử dụng, do có ánh Kim (Kim sinh Thủy) nên có tác dụng khai mở trí tuệ và năng lực tự thân.

Mắt hổ tự nhiên có 3 màu

Mắt Hổ tự nhiên các bạn chú ý là chỉ có 3 màu chính: Vàng/ Xanh Đỏ( ít thấy hơn) mắt hổ nhiều màu như màu hồng, xanh lá mạ, tím vv tuyệt đại đa số là do sử dụng các công nghệ xử lý để đạt được hiệu quả màu sắc.

Tác dụng khác của đá Mắt Hổ

Về phong thủy

Về mặt Phong Thủy tác dụng đặc biệt của đá Mắt Hổ là khiến mọi việc diễn ra với tốc độ nhanh hơn, giúp chúng ta đạt được kết quả sớm hơn. Sử dụng đá mắt hổ hình tròn đeo bên mình để nhập Thiền có thể thực hiện điều này.

Về mặt sinh lý

Tác dụng sinh lý: màu xanh lam tác động đến Luân Xa cổ họng, Đỏ tác dụng đến luân xa vùng ngực, đen tác dụng luân xa tầng đáy biển ( bàng quang), vàng tác động đến luân xa vùng bụng.

Chú ý khi sử dụng

Khi đeo đá mắt hổ không sử dụng các hình tượng đeo trên người sau:
Không đeo Phật
Không đeo gương Bát Quái
Long Quy
Thần Tài
Ưng
Bắp Cải tài lộc
Tháp Văn Xương
Bồn tụ tài
Đá Thái Sơn

Do ngũ hành nên khi đeo đá mắt hổ tác dụng của các vật trang sức ở trên sẽ bị giảm đi đáng kể

Ngoài ra trong nhà không nên có Ngà Voi, răng hổ, da cá sấu, xương hổ, báo, sói, khỉ vv vì Thú Tính trong các vật trên một khi cảm nhiễm vào đá sẽ có tác dụng giảm đi.

Chúc các bạn sử dụng đá mắt hổ hiệu quả đem lại bình an và may mắn cho gia đình và bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Phong Thủy Cho Sinh Nở

Việc sinh nở từ xưa đến nay , từ tây sang đông đều rất được coi trọng . Trong nền Văn Minh cổ Hy Lạp , Nữ Thần Hê – Ra vợ của Thần Chúa Tể Zớt ( Tức là ngôi thứ hai ) được coi là vị Thần bảo hộ cho các bà mẹ khi mang thai và sinh nở.
Phong Thủy Cho Sinh Nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Phật Giáo , Vị Đại Bồ Tát Quán Âm ( Có lúc mang hình tướng nữ ) được coi là vị Bồ Tát bảo hộ , nâng đỡ cho các bà mẹ trong việc sinh nở . Trong Phật Giáo có một câu Thần Chú của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm khuyên các bà mẹ trì đọc hàng ngày để bảo vệ cho mẹ cùng con an toàn khỏe mạnh : “ UM CA SÁ CA SÁ , VI CA SÁ , MA HA CA SÁ XOÁ HA” .


Trong Đạo giáo Trung Hoa người ta cũng tìm thấy vô số các Linh Phù ( Bùa) từ cổ xưa hỗ trợ cho việc sinh nở , nuôi trẻ .
Trong Dân Gian người ta thường nói “Mẹ Tròn Con Vuông” để chỉ việc sinh nở an toàn , nhanh chóng . Hình tròn ở đây tượng trưng cho khái niệm Thiên ( Trời ) , hình vuông tượng trưng cho Địa ( Đất ) là hai khái niệm hoàn hảo trong triết học cổ Đông Phương . Cũng trong kho tàng Dân Tục Học ( Các tục lệ dân gian ) người ta thấy có vô số các mẹo ( Thủ thuật mang nặng cảm tính hình tượng ) rất thú vị . Như khi thấy vợ khó đẻ thì người chồng chạy xuống bếp lấy một chiếc nồi đất để giữa sân rồi đập vỡ - ý mong cho vợ nhanh chóng sinh con .


Trong nền nếp Nho Gia thì có một khái niệm rất hay là “Thai Giáo” , giáo dục con từ khi trong bụng mẹ . Theo đó người mẹ trong lúc mang thai con phải dè chừng , để ý từng cử chỉ , lời ăn tiếng nói để cho đứa con trong bụng mẹ có được những phong thái cử chỉ tốt sau này . Thật ra truyền thống này bắt nguồn từ tích Mạnh Mẫu ( Mẹ của Đức Mạnh Tử - Một trong hai vị Thánh của Nho Giáo ) . Truyện kể rằng khi bà mang thai ngài Mạnh Tử , chiếu trải không ngay ngắn bà không ngồi , miếng thịt cắt không vuông vắn bà không ăn …v…v… Vì thế sau này bà sinh ra Đức Mạnh Tử nổi tiếng chính trực , lễ nghĩa .
Thuật Phong Thủy cũng có rất nhiều tiêu chuẩn để trợ giúp cho việc mang thai và sinh con . Các thủ thuật “Áp Tuyệt Thôi Đinh – Trừ Bỏ Không Con Thúc Đẩy Sinh Sản ” trong Phong Thủy Lý Khí thực chất là tìm ra môi trường có trường khí tốt nhất để cải thiện sức khỏe của cả hai vợ chồng , từ đó làm cho việc mang thai có tỷ lệ cao hơn . Phong Thủy cũng khuyên người ta nên tránh một số điều như sau :

1. Phía Bắc của nhà kỵ để gập nước , vì phía Bắc vốn là hành thủy , trường khí ở đây là ứng hợp với Thận Khí của con người , nếu đề quá nhiều nước sẽ dễ dẫn đến các bệnh về Thận , ảnh hưởng trực tiếp đến mang thai và sinh nở .


2. Vị Trí giường ngủ ngoài việc kê đúng nơi có trường khí hợp với thể chất hai vợ chồng , thì cũng nên tránh đối diện với bếp , nhà vệ sinh , cửa ra vào , các vật nhọn. Đặc biệt nên tránh nhìn trực tiếp vào ban thờ , gây tâm lý sợ sệt hoang mang cũng khó đậu thai .


3. Trong khi mang thai rất kỵ xây hoặc sửa nhà. Thứ nhất xây sửa nhà là công việc nặng nhọc, ô nhiễm dễ dần đến ảnh hưởng xấu cho bà mẹ vốn đã rất yếu trong lúc mang thai. Thứ hai quá trình xây sửa nhà dẫn đến thay đổi phương vị, tính chất của trường khí xung quanh. Điều này có thể người thường khó nhận biết nhưng thai nhi lại chịu ảnh hưởng. Phạm vào điều này Khoa Phong Thủy cho rằng dễ dần đến dị tật, hoặc biến chứng của thai nhi .


4. Tương tự như việc xây sửa nhà , trong quá trình mang thai người ta cũng khuyên không nên đào giếng, ngoài việc biến đổi trường khí của nhà ở, giếng nước còn được dùng trực tiếp cho ăn uống, nếu phạm vào một trong các Sát ( Điều xấu ) trong Phong Thủy thì hậu quả thật khôn lường . Tuy nhiên do ngày nay dùng nước máy nhiều nên vấn đề này cũng đã được giải tỏa bớt .


5. Nhà gần bệnh viện, nghĩa địa, hồ nước ở phương vị xấu ( Phong Thủy gọi là Huyết Bồn Chiếu Kính – Gương Soi Chậu Máu ) cũng dễ là biến chứng, hư thai. Có rất nhiều trường hợp bị xảy thai, hư thai do nhà ở tại hướng Lưu Niên Phi Tinh (Trường khí vận động theo từng năm) mang sát khí mà phương vị đó lại có bề bơi , ao , hồ ….v…v…Gặp trường hợp này tốt nhất nên tránh đi nơi khác trong lúc mang thai.


6. Việc đặt bếp lúc bình thường đã rất quan trọng ( Nhân Gian Ngũ Tự Táo Vi Tiên – Nhân Gian Năm Chữ Bếp Đứng Đầu ). Đặc biệt trong lúc mang thai, sinh nở càng nên thận trọng . Bởi việc ăn uống lúc đó trở nên rất quan trọng. Có nhiều trường hợp chỉ nhờ tác động của việc xoay hướng bếp mà loại bỏ được tình trạng vô sinh đã lâu năm.


7. Việc đặt chỗ em bé nằm cũng rất quan trọng vì ngoài việc có sức đề kháng yếu, nhưng trẻ lại đặc nhạy cảm với các điều kiện xung quanh . Vì thế nên chú ý tới độ sáng, tốc độ lưu thông khí , độ ẩm , nhiệt độ . Tất cả các điều kiện này Phong Thủy quy về hai khái niệm Âm ( Xấu ) , Dương ( Tốt ) . Điều hòa cân bằng tức là Dương ; mất cân đối , quá ít hoặc quá nhiều một trong các yếu tố trên đều là Âm .


8. Khi thấy trẻ có các biểu hiện bất thường , như khóc liên tục không dừng , ngủ ly bì không dậy , hay giật mình . Mà không có biểu hiện của bệnh lý . Lúc đó cần xem xét lại môi trường , khí trường xung quanh chỗ trẻ lằm . Thậm chí một số mẹo thuật trong dân gian cũng có thể đem lại hiệu quả tốt bất ngờ .


9. Trong Phong Thủy nói chung và Huyền Không Phi Tinh nói riêng có hai khái niệm rất quan trọng là Sơn ( Núi ) , Thủy ( Nước ) . Yếu tố Sơn chính là yếu tố hỗ trợ cho việc sinh đẻ , nuôi dạy con người . Thế nên có câu : “Sơn Quản Nhân Đinh , Thủy Quản Tài – Núi Quản Con Người , Nước Quản Tiền Bạc” . Trong Phong Thủy Huyền Không các Phi Tinh Sơn đạt tiêu chuẩn sinh vượng kết hợp với thực địa cũng tốt thì tất nhiên đó là môi trường tốt cho con người sinh sống . Tuy nhiên yếu tố Thủy cũng cần tốt đề hỗ trợ tốt cho yếu tố Sơn. Bởi bạn cứ tưởng tượng xem nếu chỉ có yếu tố Sơn tốt mà Thủy không tốt thì sao. Khi khí trường mất cân bằng cũng này sinh khó khăn.


10. Muốn đạt được tối đa việc tạo môi trường hỗ trợ thịnh phát về con người . Phong Thủy Học khuyên con người ta cần kết hợp tốt các yếu tố . Từ hình thế bố cục trong , ngoài nhà ; Sự lưu chuyển , sắp xếp của khí trường ( Bát Trạch , Huyền Không ) ; Thể chất của từng người , cũng sự kết hợp của họ với nhau . Càng có nhiều yếu tố hợp , sinh , vượng là tốt . Nếu chỉ là khiếm khuyết thì dùng các biện pháp bổ cứu (Theo thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái). Còn nếu quá xấu (Tử Địa) thì đành bỏ .

Sinh và Tử vốn là hai việc tối quan trọng của đời người . Nó như một dấu mốc của một dòng chảy trong quãng thời gian nhất định . Chính vì thế mà từ khi có nhân loài cho mãi về sau này nó vẫn là vấn đề con người coi trọng nhất . Phong Thủy với tư cách là một bộ môn học thuật nhằm chọn lựa cho con người một không gian , thời gian tồn tại tốt nhất cũng đã không đứng ngoài cuộc đề hỗ trợ con người trong vấn đề sinh sản , duy trì giống nòi . Hiểu thêm một chút về quan niệm của Phong Thủy thì cũng rất bổ ích .

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong Thủy Cho Sinh Nở

Hóa giải vận xui –

Nếu bạn đang gặp nhiều xui xẻo trong cuộc sống, hãy thực hiện theo vài cách đơn giản dưới đây để thu hút vận may. Dưới đây là một số cách cho bạn tham khảo để cải thiện vận số may mắn của chính mình. 1. Đặt một bể cá nhỏ ở phía Bắc căn nhà Không nhấ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn đang gặp nhiều xui xẻo trong cuộc sống, hãy thực hiện theo vài cách đơn giản dưới đây để thu hút vận may. Dưới đây là một số cách cho bạn tham khảo để cải thiện vận số may mắn của chính mình.

1. Đặt một bể cá nhỏ ở phía Bắc căn nhà

be-ca

Không nhất thiết phải đặt bể cá lớn, bạn chỉ cần có một bể thủy tinh nhỏ và thả vào những chú cá bé xíu như cá bảy màu và neon. Điều quan trọng là bạn nhớ chăm sóc mỗi ngày để bầy cá luôn khỏe mạnh.

Những con cá nhỏ bơi lội tung tăng giúp đẩy mạnh dương khí trong căn nhà, đem đến nhiều may mắn cho công việc của bạn.

2. Treo bức tranh có hình chim chóc ở cửa trước Chim chóc tượng trưng cho các cơ hội nhằm cải thiện cuộc sống theo hướng tốt hơn. Các con chim còn đem đến nhiều tin tốt lành cho những người sinh sống ở đây. Bức tranh càng có nhiều chim càng tốt, loại nào cũng được miễn là lông của chúng có nhiều màu sắc. 3. Tổ chức tiệc tùng tiec-tung Vào một ngày đặc biệt nào đó, bạn hãy mời những người bạn thân thiết đến nhà và tổ chức những bữa tiệc vui vẻ. Không khí vui tươi của buổi tiệc sẽ làm tăng dương khí, giúp giải phóng các năng lượng xấu bị tù đọng lâu ngày rồi chuyển hóa chúng thành năng lượng tốt. Do đó, cuộc sống của bạn sẽ luôn tràn ngập niềm vui. 4. Đặt một gói muối biển trong ví Ngoài tính năng làm sạch đồ vật, muối biển còn có khả năng thu hút tiền tài. Bạn cho một ít muối vào túi ni-lông nhỏ rồi nhét vào góc ví và luôn đem theo bên mình tiền tài sẽ nhanh chóng đến với bạn 5. Trồng cây ở phía Đông Nam Trồng cây ở hướng này, bạn sẽ kích hoạt sinh khí cho ngôi nhà. Nhờ vậy, bạn sẽ có thêm nguồn thu nhập mới. Nếu để ngôi nhà thiếu sinh khí ở hướng này, năng lượng về của cải ngày càng yếu dần. Nó sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của bạn. 6. Trang trí nhà bằng biểu tượng mặt trăng và mặt trời mat-trang-mat-troi Khi hai biểu tượng này kết hợp với nhau, chúng tạo nên sức mạnh không ngờ. Kết hợp này còn thể hiện sự cân bằng âm dương, giúp cuộc sống trong ngôi nhà trở nên hài hòa. 7. Đeo mặt dây chuyền hình quạt Cánh quạt là biểu tượng sức mạnh có tác dụng chuyển hóa hạn xui thành vận may. Nó giúp bạn xua đi những điều tiêu cực, lời gièm pha và ý đồ xấu của người khác nhằm vào bạn. 8. Chôn nữ trang màu đỏ để cầu tài Dùng một miếng vải đỏ hoặc vàng gói món nữ trang có mặt đá màu đỏ rùi chôn hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của khu vườn (Có thể làm hai gói để chôn ở hai nơi). Cách này giúp bạn vượt qua sự thiếu thốn về tiền bạc và đặc biệt hiệu quả trong giai đoạn bạn khó khăn nhất. 9. Đào ao nhỏ ở hướng Tây Nam Nếu nhà bạn có vườn hãy đào một ao nhỏ ở hướng này rồi thả rong vào nuôi cá. Việc này giúp kích hoạt các yếu tố tích cực, đem đến nhiều may mắn trong cuộc sống và tài chính cho bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải vận xui –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd